Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
31. Phẩm thứ ba mươi mốt: Chúc
Lụy
Chúc Lụy Phẩm Đệ Tam Thập Nhất
囑累品第三十一
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo nhất thiết chúng hội ngôn: - Nhữ kim ưng
đương trụ bất phóng dật. Ư thử pháp môn, nhược bất tri căn tánh, bất ưng thọ dữ
tha nhân, trừ ngã đệ tử cụ tiêu tướng giả. Ngã kim diễn thuyết, nhữ đẳng đương
nhất tâm thính. Nhược ư cát tường chấp túc thời sanh, chí cầu thắng sự, hữu vi
tế huệ, thường niệm ân đức, sanh khát ngưỡng tâm, văn pháp hoan hỷ nhi trụ, kỳ
tướng thanh bạch, hoặc bạch sắc, quảng thủ, trường cảnh, ngạch quảng, bình
chánh. Kỳ tỵ tu trực, diện phủ viên mãn, đoan nghiêm tương xứng. Như thị Phật tử,
ưng đương ân cần nhi giáo thọ chi.
(經)爾時,世尊告一切眾會言:汝今應當住不放逸。於此法門,若不知根性,不應授與他人,除我弟子具標相者。我今演說,汝等當一心聽。若於吉祥執宿時生、志求勝事、有微細慧、常念恩德、生渴仰心、聞法歡喜而住,其相青白或白色、廣首長頸、額廣平正、其鼻脩直面䩉圓滿、端嚴相稱,如是佛子應當殷勤而教授之。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo hết thảy
chúng hội rằng: - Các ông nay hãy nên trụ trong chẳng buông lung. Đối với pháp
môn này, nếu chẳng biết căn tánh, chớ nên trao cho người khác, trừ các đệ tử trọn
đủ tướng tiêu biểu của ta. Ta nay diễn nói [các tướng ấy], các ông hãy nên nhất
tâm lắng nghe. Nếu người ấy sanh nhằm lúc có tinh tú tốt lành, chí cầu sự thù
thắng, có huệ vi tế, thường nghĩ ân đức, sanh lòng khát ngưỡng, nghe pháp hoan
hỷ mà trụ. Có tướng xanh trắng hay màu trắng, đầu rộng, cổ cao, trán rộng, ngay
ngắn. Mũi cao thẳng, khuôn mặt đầy đặn, đoan nghiêm tương xứng. Hãy nên ân cần
dạy bảo Phật tử như thế).
Kế đó, đức Phật bảo đại hội, tức là
các vị Kim Cang Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười thế giới được nói ở đầu
chánh kinh. Nay sắp nói kinh xong, vì thế, thêm phần dặn dò. “Nhữ đẳng ưng trụ bất phóng dật” (Các
ông hãy nên trụ trong chẳng buông lung), tức là câu nối tiếp phần kinh văn trước
đó. Đại Thừa Mật giáo hãy nên truyền thừa pháp như thế. Nếu dạy bảo chẳng thỏa
đáng, đó chính là bộp chộp, luông tuồng, trái vượt pháp tắc; vì thế nói là “trụ bất phóng dật”. Lại nữa, ba cú
nghĩa như trên chính là hạnh tự lợi, lợi tha, các ông hãy nên trụ trong bí mật
giáo thuộc nghĩa chữ A để làm Phật sự. Nếu chẳng tùy thuận theo đó, tức là trụ
trong phóng dật. Truyền trao sai căn cơ, sẽ có thể tổn hại thiện căn của người
đó (người được truyền pháp). Vì thế kinh nói: “Hữu trí nhược văn tức năng tín giải, vô trí nghi hối tức vi vĩnh thất”
(Kẻ có trí nếu nghe sẽ có thể tin hiểu. Kẻ vô trí [nếu nghe pháp ấy] sẽ ngờ vực,
hối hận, tức là bị mất mát vĩnh viễn). Nếu Bồ Tát chẳng quán sâu xa nhân duyên
từ đầu đến cuối, chủng tướng, và thể tánh của chúng sanh, cứ bộp chộp truyền
pháp, sẽ chính là kẻ oán của trời, người, hành đại phóng dật! Vì thế, kế đó
nói: “Nhược bất tri bỉ căn, bất đắc thọ
dữ” (Nếu chẳng biết căn
cơ của kẻ đó, chẳng được trao truyền). “Căn”
tức là tướng ngũ căn lợi độn, tức Tín v.v…
“Trừ
ngã đệ tử” (Trừ đệ tử của ta) tức
là người đã nương theo giáo pháp của ta mà trụ, tâm tin hiểu thì mới có thể
kham tiếp nhận. Nếu là các loại ngoại đạo thế gian khác, chưa nhập chánh pháp,
tín tâm chưa vững, hãy nên chỉ dạy, khiến cho họ đạt được thiện lợi trong các
pháp sâu khác, chớ nên bộp chộp nói [pháp này]. Nếu Bồ Tát soi tỏ căn cơ, cố
nhiên tự do trí lực của chính mình [mà lựa chọn đệ tử truyền pháp]. Nay vì người
truyền pháp trong đời Mạt, [đức Phật] lại nói rõ tướng trạng thuộc dấu vết bên
ngoài [của hàng đệ tử] có thể truyền pháp. Trước đó, phần đầu kinh đã nói rõ tướng
chọn lựa đệ tử. Nay lại nói, nhưng đều là nêu đại lược các điều chánh yếu,
trong Đại Bổn đã nói cặn kẽ. “Lương thần
sanh” (Sanh vào ngày giờ tốt
đẹp): Trong Đại Bổn đã nói cặn kẽ các tinh tòa như thế, chấp diệu, thời tiết
như thế mà sanh, có căn tánh như thế, tướng mạo như thế, hãy nên trao truyền
pháp giáo như thế, nói rất sâu. Lại nữa, mỗi điều đều có hai thuyết nông cạn sơ
sài và bí mật, sâu xa. Nay ở đây, [chánh kinh] chỉ nêu ra cương mục. “Cầu thắng thượng sự” (Cầu chuyện thắng
thượng) tức là phát Bồ Đề tâm, chỉ cầu hạnh cụ túc đạo của Như Lai. Phàm mọi
chuyện tạo tác, chẳng cầu chuyện khác, sở hành rộng rãi, mầu nhiệm trọn khắp. “Vi tế” tức là nghe một chữ, một câu,
liền có thể dùng trí lực của chính mình để rộng hiểu vô lượng nghĩa thú, rộng
diễn không sai lạc. “Tư niệm ân đức”
(Nghĩ nhớ ân đức): Cho đến nghe ý nghĩa của
một câu từ thầy, thậm chí tới khi thành Phật, vẫn chẳng quên báo đáp, thường biết
ân, báo ân. “Khát ngưỡng” là
tâm ân cần mong cầu, mong cầu pháp thù thắng, giống như ngài Tát Đà Ba Luân[1] chẳng hạn, thì mới
có thể nói. “Hoan hỷ trụ” là
nghe diệu pháp, tâm vui mừng, hớn hở trọn khắp thân tâm. “Bất cầu bỉ pháp” (Chẳng cầu pháp khác): Thậm chí chẳng tiếp
nhận một chữ của kinh khác.
Kế đó, lại biện định tướng bên ngoài.
Lược nói sắc tướng ấy, nghĩa là [chánh kinh nói] “thanh bạch” (xanh, trắng), tức là chẳng trắng, lại chẳng quá
đen, là sắc cát tường. Đại Bổn nói cặn kẽ, nay ở đây chỉ nêu một phần mà thôi!
Đầu rộng là như ngài La Vân (La Hầu La), đỉnh đầu như tàn lọng; nhưng không quá
rộng, lại chẳng nên nhỏ, phải thẳng thớm, đầy đặn, thon thả vừa phải. “Cao cảnh” tức là cổ chẳng quá dài, lại
chẳng quá ngắn. Nói tóm lại, vừa vặn, thẳng vừa phải, chớ nên quá mức. Trán rộng
mà trang nghiêm, cũng là đừng rộng quá mức. Lại cần phải trọn đủ tướng đoan
nghiêm. “Tỵ tu” tức mũi chẳng
quá cao, chẳng quá tẹt. Hãy nên như đĩnh vàng. Nói đại lược là thân tâm kham
làm tướng đạo khí. Người như thế mới kham truyền dạy tu tập. Người trọn đủ tướng
tức là Phật tử, người như thế mới nên trao truyền, ân cần nhiếp thọ, dạy bảo,
[những điều này] được nói trong phần Thập Địa của luận Du Già. Lại khuyên dặn ắt
là đối với kẻ kham kế tục, truyền thừa [pháp này], hãy nên khuyên dạy, truyền
trao, đừng để lỡ thời.
(Kinh) Nhĩ thời,
nhất thiết cụ oai đức giả hàm hoài khánh duyệt, văn dĩ đảnh thọ, nhất tâm phụng
trì. Thị chư chúng hội, dĩ chủng chủng trang nghiêm quảng đại cúng dường dĩ, khể
thủ Phật túc, cung kính hiệp chưởng, nhi thuyết thị ngôn: - Duy nguyện ư thử
pháp giáo, diễn thuyết cứu thế gia trì cú, linh pháp nhãn đạo biến nhất thiết xứ,
cửu trụ thế gian.
(經)爾時,一切具威德者咸懷慶悅,聞已頂受,一心奉持。是諸眾會,以種種莊嚴廣大供養已,稽首佛足,恭敬合掌而說是言:唯願於此法教演說救世加持句,令法眼道遍一切處久住世間。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, hết thảy các vị trọn đủ oai đức đều ôm lòng vui mừng, nghe xong,
cung kính tiếp nhận, nhất tâm vâng giữ. Các đại chúng trong hội ấy dùng các thứ
trang nghiêm rộng lớn cúng dường xong, đảnh lễ dưới chân Phật, mà nói lời này:
- Kính mong hãy trong pháp giáo này, diễn nói câu gia trì cứu đời, khiến cho đạo
pháp nhãn trọn khắp hết thảy mọi nơi, trụ lâu trong thế gian).
Khi đó, các bậc trọn đức như ngài Kim
Cang Thủ (tức là các đại chúng trong hội trên đây), các thính chúng ấy lúc đó
nghe nói như vậy, đối với các giáo pháp do các vị Bổn Tôn đã nói, “con đã kính
vâng thọ trì”, nghĩa là giống như tiếp nhận lệnh vua, phụng hành, lưu truyền,
hãy nên cúng dường. Khi đó, đại chúng lại đứng lên lễ Phật, vì pháp trụ lâu
dài, thỉnh Phật gia trì. Nghe đức Phật dạy, họ bèn cung kính tiếp nhận, vâng giữ,
đảnh lễ đấng Nhất Thiết Trí, thỉnh Như Lai gia hộ. Vì lẽ nào vậy? Đức Phật đã
phó chúc bí tạng như thế, do gánh vác tránh nhiệm nặng nề, hành Như Lai sự, chức
trách ấy chẳng nhẹ. Nhưng diệu pháp này, lúc đức Như Lai còn tại thế đã có lắm
kẻ oán ghét, huống hồ trong ác thế đời Mạt! Nhưng chúng con đã phát nguyện chân
thành, muốn khiến cho bộ kinh như thế này được lưu truyền rộng rãi. Vì thế, thỉnh
đức Phật dùng thần lực tự tại gia hộ chúng con, khiến cho sở nguyện được thành
tựu. Pháp nhãn đạo trụ lâu nơi đời, trọn khắp hết thảy, tức là nguyện hoằng
kinh. Do Phật gia trì, nguyện khiến cho pháp nhãn lưu hành dài lâu trong đời. Đấy
là đại huệ đạo “khai Phật tri kiến”,
là con đường do hết thảy chư Phật đều đi. Vì thế nói là “pháp nhãn đạo”. Hãy nên khiến cho đạo này trụ lâu trong cõi đời
tột cùng chúng sanh tế, lại theo chiều ngang trọn khắp thế giới, không đâu chẳng
lưu thông. Đấy chính là như [trong kinh Pháp Hoa], các vị Thượng Hạnh Bồ Tát
v.v… đã nói: “Tùy Phật hữu tích chi xứ,
ngã giai thệ truyền thử pháp” (Hễ chỗ nào có dấu tích của Phật, con đều thề truyền pháp
này). Đó là chính ý nghĩa của việc thưa hỏi chuyện hoằng kinh vậy.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn ư thử pháp môn, thuyết gia trì cú chân ngôn viết:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà tha thắng thắng, đát lăng đát lăng, ngung
ngung, đạt lân đạt lân, sa tha bả dã sa tha bả dã. Bột đà tát để dã phạ, đạt ma
tát để dã phạ, tăng già tát để dã phạ, hồng hồng, phệ na vĩ phệ, sa ha”. Thời
Phật thuyết thử kinh dĩ, nhất thiết Kim Cang giả, cập Phổ Hiền đẳng thượng thủ
chư Bồ Tát, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
(經)爾時,世尊於此法門說加持句真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆他勝勝。怛稜怛稜。顒顒。達隣達隣。娑他跛也娑他跛也。勃馱薩底也嚩。達摩薩底也嚩。僧伽薩底也嚩。吽吽。吠娜尾吠。莎訶。時佛說此經已,一切持金剛者及普賢等上首諸菩薩,聞佛所說,皆大歡喜,信受奉行。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đối với pháp môn này, nói câu gia trì chân ngôn rằng:
“Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvathā śiṃ śiṃ, triṃ triṃ, guṃ guṃ, dhariṃ dhariṃ,
sthāpaya sthāpaya, buddhasatya vā, dharmasatya vā, saṅghasatya vā, hūṃ hūṃ,
vedavide, svāhā”. Khi ấy, đức Phật nói kinh này xong, hết thảy các vị
Kim Cang, và các vị thượng thủ Bồ Tát như Phổ Hiền v.v… nghe lời Phật dạy, đều
hết sức hoan hỷ, tin nhận, phụng hành).
Khi đó, do đức Phật chấp thuận lời thỉnh
ấy, liền dùng chân ngôn gia trì pháp này như kinh đã nói (chưa nói ý nghĩa của
từng câu, cần phải hỏi thêm). Khi đó, các vị thượng thủ nghe đức Phật nói rồi,
cung kính tiếp nhận, thọ trì. Đã rộng nói kinh Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thành Bồ Đề
Gia Trì Thần Biến xong.
Hỏi ba câu trước: “Một, Bồ Đề tâm là chủng tử. Hai, đại bi là
căn. Ba, phương tiện là cuối cùng”. Nay nói theo Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la, lấy trung đài làm Bồ Đề
tâm. Kế đó, tám cánh là Đại Bi. Ba viện ở phía ngoài là phương tiện.
Đáp rằng: Ở đây có hai loại. Tức là đối
với người tu hành mà nói theo cái nhân, hai là dựa theo quả địa Như Lai để nói.
Như các vị trời trong thế gian thuộc bát bộ ở viện ngoài cùng, chính là trước
kia đã từ trong tám tâm, thoạt đầu hiểu biết, giữ trai giới trở đi cho đến khi
hưởng thọ dụng quả. Nhưng có thiện căn khai phát tương ứng với chánh đạo, tức
là cái nhân nơi hoa đài trong Đại Bi Thai Tạng. Như Lai dùng sức phương tiện để
hướng dẫn, cho đến khiến cho [hành nhân] thành tựu tám tâm thế gian trở đi,
chính là các vị trí thuộc ngoại viện. Kế đó, dần dần hướng vào trong, và Nhị Thừa
cũng thuộc trong ấy. Lại như biết có pháp thù thắng vô thượng tâm, dẫn nhập đôi
chút vào [tầng viện] thứ hai và thứ ba [của Mạn-đồ-la], đều là câu “đại bi”. Kế đó, thành Phật quả, nhập
Trung Thai, tức là câu “phương tiện”.
Nhưng năm vị Phật, bốn vị Bồ Tát thuộc tám cánh [hoa sen] ở Trung Thai, há có
phải là thân khác ư? Chính là một vị Tỳ Lô Giá Na vậy! Vì muốn phân biệt đức nội
chứng của Như Lai mà biểu thị ra ngoài, cho nên trong một pháp giới mà phân biệt
nói thành tám cánh.
Như bốn vị Bồ Tát, ngài Phổ Hiền ở
Đông Nam là như thế nào? Phổ Hiền là Bồ Đề tâm. Nếu chẳng có cái nhân mầu nhiệm
ấy, trọn chẳng thể đạt tới vô thượng đại quả; vì thế, Ngài được nêu tên đầu
tiên. Kế đó, Văn Thù Sư Lợi là đại trí huệ. Trước là phát Bồ Đề tâm thanh tịnh,
như thứ tự [đã nói trong] Phổ Hiền Quán Kinh, cho đến Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết
thảy mọi nơi, thường lạc ngã tịnh, Ba La Mật thâu nhiếp, thành tựu, đều là tâm
Bồ Đề thanh tịnh. Kế đó, liền nói Đệ Nhất Nghĩa Không: “Tâm ta tự không, thiện ác vô chủ”. Quán tâm vô tâm, pháp chẳng
trụ pháp v.v… tức là diệu huệ. Dùng diệu huệ trong Đệ Nhất Nghĩa Không để tịnh
hóa Bồ Đề tâm trọn khắp hết thảy mọi nơi, lưỡi đao bén bình đẳng huệ cắt đứt cội
rễ vô minh vô thỉ, liền nhập chánh vị của Bồ Tát. Vì thế, dẫu có Bồ Đề tâm mà
chẳng có huệ hạnh, sẽ chẳng thể thành tựu cái quả. Vì thế, kế đó nói đến ngài
Văn Thù. Tiếp đó, ở phương Tây Bắc là ngài Di Lặc, tức là đại từ đại bi, đều là
ý nghĩa trong câu thứ hai (tức câu thứ hai trong ba câu “Bồ Đề tâm làm chủng tử, đại bi làm căn, phương tiện làm rốt ráo”).
Dùng đại bi tạng ấy để tăng trưởng, thành tựu cành, nhánh, hoa, lá của cây Bồ Đề
mầu nhiệm. Vì thế, kế đó nói tới ngài Di Lặc. Nếu huệ mà chẳng có bi, phương tiện
sẽ chẳng trọn đủ, sẽ chẳng thể thành Bồ Đề, chẳng thể trọn đủ Lục Độ hòng nhiếp
thụ chúng sanh. Kế đó, Quán Âm ở Đông Bắc, tức là chứng. “Chứng” tức là nguyện hạnh thành tựu
viên mãn, được nhập Hoa Đài tam-muội. Nếu quán theo lúc chưa thành quả thì có
thứ tự cạn sâu sai khác. Nay dùng bình đẳng huệ của Như Lai để quán, từ nhân tới
quả chỉ là một thân, một trí hạnh của Như Lai đó thôi! Vì thế, tám cánh đều là
một thể của Đại Nhật Như Lai.
Nếu Như Lai chỉ trụ trong pháp tự chứng,
sẽ chẳng thể độ người. Vì lẽ nào vậy? Chỗ ấy vi diệu, tịch tuyệt, vượt ngoài
tâm lượng, còn nói tới chỉ bày hoặc nhập chi nữa? Vì thế, lần lượt lưu xuất, lần
lượt nhập viện thứ nhất, kế đó tới viện thứ hai, rồi đến viện thứ ba. Tuy thực
hiện lưu xuất như thế, vẫn chẳng lìa thân phổ môn. Đại chúng trong tám bộ ấy đều
là cảnh giới phổ hiện sắc thân. Nếu nói theo tình kiến, căn cơ, thì ba tầng đàn
từ sâu tới cạn, cho đến chân ngôn của các vị trời trong thế gian có ý nghĩa cạn,
chỉ là Ứng Thân Đạo, phương tiện chưa rốt ráo. Nếu khai Thật Tánh, sẽ chính là
chân ngôn của các vị trời trong thế gian có khác gì Đại Nhật Như Lai? Từ phía
Như Lai, sẽ là từ sâu tới cạn, từ trong hướng dần ra ngoài mà thành ba tầng
đàn. Từ phía chúng sanh, sẽ từ cạn đến sâu, từ ngoài dần dần vào trong mà thành
ba tầng đàn.
Lại như ý nghĩa của chữ, tức là thứ tự
ấy. Thoạt đầu là chữ A (अ) ở phương Đông,
như chữ A trong tiếng Phạn có ý nghĩa “khởi
đầu”. Do thuận theo pháp thế gian, coi phương Đông đứng đầu trong các
phương, ví như Bồ Đề tâm là khởi đầu trước hết của vạn hạnh, được gọi là Bảo
Tràng Phật (Ratnaketu Buddha). Kế đến chữ A (आ, Ā) là hạnh. Nếu
chỉ có Bồ Đề tâm, mà chẳng tu trọn đủ vạn hạnh, sẽ trọn chẳng thể đắc quả, chẳng
khác với ý nghĩa của bốn vị Bồ Tát trên đây. Vị Phật ấy chính là Hoa Khai Phu
(Khai Phu Hoa Vương Như Lai - Saṃkusumitarāja). Kế đó là chữ Ám (अं, Aṃ), tức Tam Bồ Đề (Chánh Giác). Do vạn hạnh nên thành Chánh Giác, vị Phật
này tên là A Di Đà, tức phương Tây. Tiếp đó, Cổ Âm (Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai - Divyadundubhimeghanirghoṣa)
tức là Đại Niết Bàn. Chữ Á (अः, aḥ) chính cái quả
Chánh Đẳng Giác; do là quả nên nói kế tiếp. Kế đó là nhập chữ Á (आः, āḥ), tức là phương tiện. Đấy chính là bổn địa thân hoa đài thể của Tỳ Lô
Giá Na Phật, vượt ngoài tám cánh, dứt bặt nơi chốn, chẳng phải là cảnh giới hữu
tâm, chỉ Phật và Phật mới có thể biết! Vì nghĩ tới bổn thệ mà khai thị Đại Bi Tạng,
dẫn dắt trọn khắp chúng sanh nhập Phật huệ. Lại dùng thần lực gia trì, hiện trọn
khắp thân, miệng, ý trong đường sanh tử, hãy nên biết đấy chính là phương tiện.
Nếu lìa phương tiện, Như Lai bổn địa còn chẳng thể nói, huống hồ chỉ bày cho
người khác ư? Chẳng thể nói cho các vị thượng thủ Bồ Tát, huống hồ [chỉ dạy] kẻ
đang lưu nhập sanh tử ư? Do phương tiện này giống như Đại Không hiển hiện các
hình tượng, hãy nên biết hết thảy các đại hội Mạn-đồ-la đều là một thân, chẳng
có thân nào khác, tức là phổ môn thân, tức là pháp giới thân, tức là kim cang
giới thân.
Lại nữa, Bồ Đề hoàng sắc là kim cang
tánh. Kế đó, hạnh là màu đỏ, nghĩa là lửa, tức là cùng ý nghĩa với ngài Văn
Thù. Vạn hạnh dùng diệu huệ để hướng dẫn, chẳng thể lìa huệ mà có tạo tác. Kế
đó là thành Bồ Đề màu trắng, tức là ý nghĩa “viên minh tột bậc”, lại có nghĩa là “nước”. Như nguyện xưa kia của ta, nay đã thỏa mãn, hóa độ hết
thảy chúng sanh, khiến cho họ đều nhập Phật đạo. Do vì chuyện ấy, vì khởi đại
bi vậy. Kế đó là Đại Niết Bàn, Tích đã cùng cực, bèn trở về Bổn. Củi chúng sanh
hữu duyên đã tận, lửa phương tiện của Như Lai bèn tắt. Do vậy, nhập Niết Bàn. Vầng
Phật nhật đã ẩn nơi núi Niết Bàn, cho nên sắc đen. Trung là tâm không, trọn đủ
hết thảy các sắc, tức là gia trì hội Thế Giới Mạn-đồ-la Phổ Môn rốt ráo thanh tịnh,
không gì chẳng có! Bách tự luân ấy sở dĩ từ ngoài hướng vào trong cũng do nghĩa
này.
Như trung đài, hết thảy Bổn Tôn cũng
nói như thế. Như chữ chủng tử của ngài Kim Cang Thủ là Phạ (व, Va), Phạ liền thành năm sự. Phạ là Bồ Đề tâm, वा (vā) là hạnh, वं (vaṃ) là Tam Bồ Đề, वः (vaḥ) là Niết Bàn,
वाः (vāḥ) là phương tiện. Do vậy nói “phương
tiện là sau cùng”, chính vì nghĩa này. Như Liên Hoa Tôn cũng có năm sự, स (sa) là Bồ Đề tâm, सा (sā) là hành, सं (saṃ) là thành Bồ Đề, सः (saḥ) là Niết Bàn,
साः (sāḥ) là phương tiện. Như ngài Văn Thù lấy chữ Ma (म) làm chủng tử,
cũng có năm nghĩa: Ma là Bồ Đề tâm, मा (mā) là hạnh, मं (maṃ) là thành Bồ Đề, मः (maḥ) Niết Bàn, माः (māḥ) là phương tiện. Các chữ chủng tử của hết thảy các vị tôn thánh khác
cũng đều nói rộng như thế. Do bởi nghĩa này, Kim Cang Thủ chính là Đại Nhật Như
Lai, Quán Thế Âm cũng là Đại Nhật Như Lai. Văn Thù Sư Lợi cũng là Đại Nhật Như
Lai. Cho tới quỷ thần tám bộ mỗi vị cũng đều có ý nghĩa này, cũng tức là thành
Đại Nhật Như Lai. Thể tuy là một, mà mỗi nghĩa mỗi khác.
Do vậy, trong Du Già có nói “Tỳ Lô Giá Na ngôn: - Ngã tức thị Văn Thù,
Quán Âm đẳng. Ngã tức thị thiên, tức thị nhân, tức thị quỷ thần, tức thị long
điểu. Như thị đẳng, vô bất tức thị” (Đức Tỳ Lô Giá Na nói: - Ta chính là
Văn Thù, Quán Âm v.v… Ta chính là trời, chính là người, chính là quỷ thần,
chính là rồng, chim. Các loài như thế, không gì chẳng phải) là do bởi nghĩa
này. Lại nói: “Thử Đại Bi Tạng Bổn Tôn
vị thứ đẳng, cập hình sắc các thù, vị vị thâm nhập Du Già giả sơ học chi thời,
bất chánh quán Bổn Tôn, cố Phật dĩ phương tiện thị thử, linh tâm hữu sở duyên
nhĩ. Cập quán thành thời, dĩ pháp lực sở gia trì cố, tự nhiên hằng dữ Phật hội
tương ứng. Thiết bất tác niệm, do tự minh liễu, huống gia quán da? Như thị thời,
tự nhiên chân kiến Mạn-đồ-la dã. Thử địa giả, tức thị tịnh Bồ Đề tâm thị. Dĩ
thượng sở biểu, giai thị Đại Nhật Như Lai Pháp Thân diệu trang nghiêm chi tướng
dã. Hựu Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc dĩ tại bát diệp trung, tức Đại Nhật
Như Lai đại Pháp Thân dã. Vị độ nhân cố, tiệm xuất vu ngoại, cố thứ đồ trung phục
hữu Văn Thù, Quán Âm đẳng, dĩ loại khả giải dã” (Ngôi vị của các vị Bổn
Tôn trong Đại Bi Tạng này, và hình sắc mỗi vị mỗi khác, là vì kẻ chưa thâm nhập
Du Già lúc mới học, chẳng chánh quán Bổn Tôn, cho nên đức Phật dùng phương tiện
chỉ bày các điều ấy, khiến cho tâm họ có cái để duyên theo. Tới khi quán đã
thành, do được pháp lực gia trì, tự nhiên luôn tương ứng với Phật hội. Nếu chẳng
khởi niệm, vẫn tự có thể hiểu rõ, huống hồ còn thêm quán tưởng ư? Vào lúc như
thế, tự nhiên thật sự thấy Mạn-đồ-la. Địa vị ấy chính là tâm Bồ Đề thanh tịnh.
Những điều được biểu thị trên đây đều là tướng trang nghiêm mầu nhiệm nơi Pháp
Thân của Đại Nhật Như Lai. Lại nữa, Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc đã ở
trong tám cánh, tức là đại Pháp Thân của Đại Nhật Như Lai. Vì độ người khác mà
dần dần biểu lộ ra ngoài. Vì thế, trong đồ hình lại có các vị như Văn Thù, Quán
Âm v.v… Những vị giống như vậy cũng có thể từ đó suy ra mà biết).
Lại nói: “Như bát diệp trung, Phổ Hiền thị Bồ Đề tâm, Văn Thù thị huệ, Di Lặc thị
bi. Thử Bồ Đề tâm tức thị Đại Nhật Như Lai, nhi hữu Bồ Đề tâm dã. Đại huệ tức
thị Đại Nhật Như Lai, bất ly thử Đại Nhật Như Lai, biệt hữu bi dã” (Như
trong tám cánh, Phổ Hiền là Bồ Đề tâm. Văn Thù là huệ. Di Lặc là bi. Tâm Bồ Đề ấy
chính là Đại Nhật Như Lai. Chẳng lìa vị Đại Nhật Như Lai này mà có riêng lòng
bi được!) Hãy nên biết: Chuẩn theo điều ấy để nói, muôn đức đều là như thế. Giống
như ý nghĩa Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát trong tông Thiên Thai, chỉ do Pháp
Thân làm chủ mà đạt được các danh xưng như thế, ứng hợp với điều này.
Hỏi: Bách tự luân nội ngoại, mỗi mỗi
làm đúng thứ tự như thế, tức là dẫn nhập Mạn-đồ-la, dần dần thâu nhiếp vào
nghĩa Trung ư?
Đáp: Đấy là nói theo nhân quả. Nếu tu
hành, thoạt đầu là phát Bồ Đề tâm. Kế đó tiến hành (tu tập), kế đó là thành
Chánh Giác, kế đó là trụ Niết Bàn. Kế đó, khởi phương tiện, tức là làm theo thứ
tự như thế. Nếu nói từ quả địa, tức là dùng chữ Ka (क) ở trong cùng nhất,
kế đó Kā (का) là hành. Kế đó, Kaṃ (कं) là Bồ Đề, kế đó
Kaḥ (कः) là phương tiện ở ngoài cùng nhất. Chữ Ka này có cùng Thể với chữ A, tức
là cái quả của pháp thể, chẳng nói theo nhân địa của Bồ Đề tâm. Từ Pháp Thân mà
khởi Ứng. Kế đó, hướng ra ngoài để độ chúng sanh, giống như Mạn-đồ-la từ Trung
Đài mà ra cho đến các tọa vị của các vị trời thế gian thuộc tám bộ. Lại từ
ngoài dẫn vào Phật quả, giống như Mạn-đồ-la khởi đầu từ tám tâm cho đến thành tựu
các phương tiện Bồ Đề v.v… nói các chữ Ngưỡng, Nhưỡng, Noa, Na, Ma (ṅa, ña, ṇa, na, ma, ङ, ञ, ण, न, म) v.v... cũng thuận theo nghĩa xuất nhập, hoặc thuộc trong
trăm chữ, hoặc ở ngoài trăm chữ.
Lại hỏi: Xét theo quán hạnh trong tâm
của hành giả, ý nghĩa làm Mạn-đồ-la Đại Bi Tạng chính là dùng Trung Đài làm Bồ
Đề tâm, lần lượt hướng ra ngoài, cho đến các tọa vị của các vị trời trong thế
gian làm phương tiện ư?
Đáp: Phàm tiến hành có thứ tự. Trước
là y theo pháp để trì tụng, quán chân ngôn và thủ ấn nơi vầng tròn sáng [nơi
tâm của Bổn Tôn], hoặc chỉ quán chữ, hoặc chỉ quán ấn. Hễ khi làm một sự đã
thành thì ba sự đều thành. Thoạt đầu quán vầng tròn sáng cũng chẳng thể thấy.
Do thủ ấn, chân ngôn, và niệm Bổn Tôn, ba nghiệp dần dần tịnh. Do chướng ngại
nơi tâm đã tịnh, dần dần thấy vầng tròn sáng. Nếu lúc thấy vầng tròn sáng ấy,
hoặc [là thấy] trong ấy có bổn chủng tử (chủng tử từ chân ngôn của vị tôn thánh
ấy) rõ rệt rành rành, đúng như hình sắc. Nếu lúc thấy như thế, loạn tưởng nơi tự
tâm tự trừ, tâm trạm tịch thường nhất, chẳng bị ngoại duyên lay động. Đã thấy
như thế, vẫn là ngoại duyên!
Kế đó, hãy nên dẫn dắt từ ngoài hướng
vào trong, quán sát như thế này: Vầng tròn sáng ấy chính từ tâm ta mà ra. Hãy
nên biết nội tâm cũng là như thế. Phàm vầng tròn sáng thanh tịnh, tức là thể
tánh của tâm, chẳng có pháp nào khác. Do phương tiện siêng năng quán sát nội
tâm, liền thấy chữ viên minh ấy chỉ là tự tâm, chẳng còn là ngoại duyên. Cho đến
từ ngoài vầng tròn ấy, thấy rõ Bổn Tôn v.v… Phương tiện giống như trên. Nay khi
nội quán, tức là tự thân làm các vị Bổn Tôn như Tỳ Lô Giá Na v.v… Do đã tương ứng
với lý Du Già như thế, điều được quán liền tùy ý thành tựu, tức là quán tám
cánh trong cái tâm ấy, phương tiện giống như trên, tức hoa đài nơi cái tâm này
là Trung Thai của Mạn-đồ-la. Tám cánh bên ngoài cũng thuận theo Phật vị mà sắp
xếp theo thứ tự. (Lại nói: Tám cánh ấy chính là tầng thứ nhất của Đại Bi Tạng).
Lúc bấy giờ, hành giả quán tám cánh nơi tâm là Trung Thai, quán thân này chính
là Mạn-đồ-la:
- Từ tim trở lên là viện thứ nhất.
- Từ tim xuống đến rốn là viện thứ
hai.
- Từ rốn trở xuống là viện thứ ba.
Nơi viện của thế gian thiên, hình sắc
và tướng hảo của chư tôn mỗi mỗi đều sai khác rành rành. Trong tự thân mà hiện
đối diện [các vị tôn thánh ấy], giống như đích thân nhập Phật hội. Nhưng người
chưa kiến Đế, do chẳng thể như Tỳ Lô Giá Na hiện các loại thần biến, chỉ là
quán tâm thành tựu đó thôi! Nhưng có một chuyện chân thật chẳng dối, tức là “ta chính là”. “Ta chính là” nghĩa là quyết định tin chắc “ta chính là pháp giới, ta chính là Tỳ Lô
Giá Na, chính là các thân Phổ Môn”, chuyện này chẳng sai! Như trong ý
nghĩa chân ngôn gia trì trên đây, ta chính là pháp giới.
Lại nói: Pháp Thân có thần biến gia
trì tự tại, chuyện ấy chẳng đáng nghi. Như trong Du Già Kim Cang Đảnh đã dẫn
vài trăm thí dụ. Đại Bổn đã rộng nói ý ấy, nói: Như Đế Thích ở trong cung trời,
đất nơi ấy hết thảy đều là báu lưu ly, trong ngoài thanh tịnh. Mỗi thiên chúng
tự ở trong cung thất của chính mình, mà thường thấy Đế Thích ở trong cung ấy,
rành rành đối diện. Vì sao? Do các thứ như đất ấy, hết thảy đều do diệu bảo hợp
thành, lần lượt chiếu rọi, dẫn phát lẫn nhau. Cái kia chẳng đến đây, cái này chẳng
qua đó, cũng chẳng hòa hợp, nhưng do duyên đầy đủ nên như thế, thật sự là vô
sanh, vô sở hữu, chớ nên chẳng tin!
Lại như chư thiên tại vườn Hoan Hỷ
buông lung quá đáng. Lúc bấy giờ, do sức túc nghiệp của họ, từ trong lá cây có
âm thanh pháp giáo quở trách, khiến cho họ trụ trong chánh hạnh. Khi đó, chư
thiên liền tạm ngưng buông lung, tâm niệm thiện hạnh. Nhưng thật ra, trong mỗi
lá cây, đều chẳng thể cầu được [âm thanh ấy], [âm thanh ấy] cũng chẳng sanh từ
thân chư thiên! Chẳng tự, chẳng tha, mà thành tựu việc này! Lại như lúc [chư thiên
cõi trời Đao Lợi] cùng Tu La giao chiến, trống trời phát ra âm thanh an ủi
thiên chúng, khiến họ nẩy sanh ý niệm mạnh mẽ, khiến cho Tu La sợ hãi, lui tan.
Nhưng thật ra, cái trống ấy vô hình, chẳng có trụ xứ, chỉ do các duyên công đức
của chư thiên tạo thành, đều chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ Pháp Thân ư? Lại như
Đại Phạm Vương ở trong cung của mình, hết thảy thiên chúng nghĩ muốn được thấy,
không đâu chẳng đều hiện ra trước! Do chư thiên đều biết Đại Phạm Vương hạnh
thanh tịnh, tướng hảo lại đoan nghiêm bậc nhất, tâm phiền não tham dục dứt bặt,
sanh ra vô lượng thiện nguyện, tùy phần tấn tu tịnh hạnh. Nhưng Phạm Vương ở
trong cung của chính mình chẳng lay động, cũng chẳng suy nghĩ “ta hãy nên ứng
hiện trọn khắp trước họ”, mà ai nấy đều thấy vị ấy hiện ra trước, đều nghĩ thế
này: “Ngài riêng vì ta hiện, vì ta thuyết pháp”. Thế gian như thế đó, do chút
ít phước nguyện mà còn có tác dụng chẳng thể nghĩ bàn như thế, huống hồ Pháp
Thân của Như Lai mà chẳng thể thành tựu thần lực tự tại gia trì thần biến như thế
ư? Nhưng nói theo lối thông thường, hoặc nói là “pháp tánh”, hoặc nói là Pháp Thân, tịch tĩnh như hư không, chẳng
động tác, đều chẳng nói trọn đủ lực dụng như thế đó. Bởi lẽ, hễ khởi thần biến,
đều là sức tam-muội nơi tâm hữu vi, chẳng nói đến pháp thể. Như vậy thì chưa rốt
ráo vậy!
Hỏi: Viện thứ nhất ở phương Đông của Mạn-đồ-la
(tức Chánh Biến Tri Viện) chỉ có ấn tam giác, Hư Không Nhãn và Như Ý Bảo là ba
sự, các tòa khác để trống là như thế nào?
Đáp: Như trong chân ngôn và thủ ấn,
như Như Lai Hào Tướng (tướng bạch hào của Như Lai), Như Lai Thiệt (lưỡi của Như
Lai), Như Lai Nha (răng nanh của Như Lai), Như Lai Xỉ (răng hàm của Như Lai),
Như Lai Tề (rốn của Như Lai), Như Lai Giáp (gò má của Như Lai) v.v… đều thuộc
vào tầng ấy, hãy nên theo thứ tự sắp đặt. Phật Đảnh thuộc viện thứ ba, không ở
nơi đây.
Hỏi: Bảo Tràng Phật ý nghĩa là như thế
nào?
Đáp: Đấy là Bồ Đề tâm. Như trong quân
đội thế gian có tràng, tức là cờ hiệu của người cầm đầu binh lính, mọi người đều
ngóng nhìn theo, điều khiển tiến lùi, không ai chẳng thuận theo. Giống như hết
thảy vạn hạnh đều nương theo Bồ Đề tâm này, lấy đó làm chuẩn mực, làm chủ chốt.
Vì thế, gọi tên Ngài như thế. Kế đó, Bảo Tràng chính là Hoa Khai Phu Phật, vì
sao? Từ đấy là nghĩa “hành”. Thập
Độ, vạn hạnh giúp đỡ Bồ Đề tâm, theo thứ tự bồi bổ mầm, thân, hoa lá sum suê
đáng yêu; do vậy, gọi tên như thế. Kế đó, Hoa Khai Phu được gọi là A Di Đà, vì
sao? Đấy là Thọ Dụng Phật, tức là thành tựu đại quả, thọ dụng cái quả ấy, vô lượng
hiện pháp lạc chẳng thể nghĩ bàn, đều gọi là như thế. Kế đó, Cổ Âm Phật là
phương tiện. Đã đạt được đại quả thì là Tự Thọ Dụng mà thôi, liền vì trọn khắp
hết thảy chúng sanh mà diễn nói, Thành Sở Tác Trí đủ loại phương tiện, giống
như tiếng trống trời chẳng suy nghĩ mà thành tựu sự nghiệp, cho nên gọi tên như
thế. Lại nữa, trong phần trước nói Phật A Súc ở phương Bắc là kinh chép lầm vậy.
Đấy là ý nghĩa Du Già, chẳng tương ứng với [các điều được nói] ở đây, do Cổ Âm
Phật là Định.
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ hết
Ngày Hai Mươi tháng Hai năm Gia Bảo[2]
thứ hai (1096), tại Đông Am Thất thuộc Áo viện của chùa Kim Cang Phong[3],
Quán Âm Viện đại tăng đô[4]
cung kính tiếp nhận.
Quán Âm Viện đại tăng đô Khoan Ý, Đại
Ngự Thất Tánh Tín ngự phó pháp. Thức Bộ Khanh Đôn Trinh Thân Vương Ngự Tức Đông
Tự, đệ nhị trưởng giả Tồn Nhật Từ Thoái Cao Dã Sơn Ngự Lung Cư v.v… Từ năm Gia
Bảo thứ hai đến năm Khoan Vĩnh[5] thứ sáu
(1630) là năm trăm ba mươi lăm năm. Quảng Trạch Thọ Pháp Mạt Tư Hiển Chứng ghi
chép.
[1] Tát Bà
Ba Luân Bồ Tát (Sadāprarudita, Sadāpralāpa), tức Thường Đề Bồ Tát. Sở dĩ có tên
gọi như vậy là do vị này thấy chúng sanh chìm đắm trong sanh tử, nên thường
khóc. Trong kinh Đại Bát Nhã có nói đến công hạnh cầu Bát Nhã của vị Bồ Tát
này. Do được nghe Bát Nhã, cảm kích ân Phật, nhưng không có gì để cúng dường,
nghe nói có vị trưởng giả cần tủy người để làm thuốc. Ngài liền đập vỡ xương
mình, chắt lấy tủy đem bán cho ông trưởng giả ấy để mua hương hoa cúng dường Phật
[2] Gia Bảo
(Kahō) là niên hiệu được sử dụng từ năm 1095 đến năm 1097 của Quật Hà Thiên
Hoàng (Horikawa).
[3] Kim Cang
Phong Tự (Kongobu-ji) là tổng bổn sơn (tổ đình) của Chân Ngôn Tông Cao Dã Sơn
(Kōya-san Shingon). Chùa này được tạo lập vào năm 1593 bởi lãnh chúa Totoyomi
Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) để tưởng niệm mẹ mình. Chùa do tổ Không Hải
(Kukai, Hoằng Pháp đại sư) làm tổ khai sơn.
[4] Đại Tăng
Đô là chức vụ quản trị Tăng chúng thuộc hệ thống tăng quan. Tại Nhật Bản, phỏng
theo quy chế quản lý tăng sĩ của Trung Hoa, đặt ra chức Tăng Cương (quản lý
toàn bộ tăng sĩ cả nước, không chỉ là quản trị một ngôi quốc tự như tại Việt
Nam). Sau đó, đến năm 819, lại mở rộng chức vị Tăng Cương thành các chức vị:
Tăng Chánh (một người), Đại Tăng Đô (một người), Thiếu Tăng Đô (một người), và
Luật Sư (bốn người). Từ năm 864 trở đi, định ra chức vị thống lãnh Tăng gồm ba
tầng là Pháp Ấn Đại Hòa Thượng, Pháp Nhãn Hòa Thượng, và Pháp Kiều Thượng Nhân.
Pháp Ấn gồm ba chức vị là Đại Tăng Chánh, Tăng Chánh, và Quyền Tăng Chánh. Pháp
Nhãn gồm Đại Tăng Đô, Quyền Đại Tăng Đô, Thiếu Tăng Đô, Quyền Thiếu Tăng Đô.
Pháp Kiều gồm các chức Đại Luật Sư, Luật Sư, và Quyền Luật Sư.
[5] Khoan
Vĩnh (Kanei) là niên hiệu được sử dụng từ năm 1624 đến năm 1645 dưới các đời
thiên hoàng Hậu Thủy Vĩ (Go-mizunō), Minh Chánh (Meishō) và Hậu Quang Minh
(Go-Kōmyō).
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
Đại Đường Thiên Trúc Tam Tạng Thiện Vô Úy,
sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh
大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯經
Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê ký
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
1.- Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm
2.- Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn
3.- Dứt Trừ Chướng
8.- Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh
9.- Mật Ấn
10.- Tự luân
11.- Bí Mật Mạn-đồ-la
13.- Nhập địa vị trong Bí Mật Mạn-đồ-la
14.- Tám ấn bí mật
15.- Giới cấm của bậc trì minh
16.- Trí chân thật của A-xà-lê
17.- Xếp đặt chữ
18.- Bồ Tát Giới Phẩm Thọ Phương Tiện Học Xứ
19.- Sanh ra trăm chữ
20.- Cái quả tương ứng của trăm chữ
21.- Thành tựu địa vị trăm chữ
22.- Bách tự thành tựu trì tụng
24.- Nói về tánh Bồ Đề
25.- Hạnh thuộc ba môn tam-muội-da
26.- Thuyết Như Lai
27.- Hộ-ma thế gian và xuất thế gian
30.- Trì tụng thế gian và xuất thế gian
31.- Chúc Lụy
Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ hết
Comments
Post a Comment