Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
13.
Phẩm thứ mười ba: Nhập địa vị trong Bí Mật Mạn-đồ-la
Nhập
Bí Mật Mạn-đồ-la Vị Phẩm Đệ Thập Tam
入祕密漫荼羅位品第十三
(Kinh) Nhĩ thời, Đại Nhật Thế Tôn nhập ư Đẳng
Chí tam-muội, quán vị lai thế chư chúng sanh cố, trụ ư Định trung, tức thời chư
Phật quốc độ, địa bình như chưởng, ngũ bảo gián thác, huyền đại bảo cái, trang
nghiêm môn tiêu, chúng sắc lưu tô, kỳ tướng trường quảng. Bảo linh, bạch phất,
danh y, phan bội, ỷ huyền, thùy bố nhi hiệu sức chi. Ư bát phương ngung, kiến
ma-ni tràng. Bát công đức thủy phân phức doanh mãn. Vô lượng chúng điểu: Uyên
ương, nga, hộc, xuất hòa nhã âm. Chủng chủng dục trì, thời hoa, tạp thụ phu
vinh gián liệt, phương mậu, nghiêm hảo. Bát phương hợp hệ ngũ bảo anh thằng. Kỳ
địa nhu nhuyễn do như miên khoáng, xúc tiễn chi giả, giai thọ khoái lạc. Vô lượng
nhạc khí tự nhiên hài vận. Kỳ thanh vi diệu, nhân sở nhạo văn. Vô lượng Bồ Tát
tùy phước sở cảm, cung thất, điện đường, ý sanh chi tòa, Như Lai tín giải nguyện
lực sở sanh. Pháp giới tiêu xí đại liên hoa vương xuất hiện, Như Lai pháp giới tánh thân an trụ kỳ trung, tùy chư chúng sanh chủng chủng tánh dục, linh đắc hoan
hỷ.
(經)爾時,大日世尊入於等至三昧,觀未來世諸眾生故,住於定中。即時諸佛國土地平如掌,五寶間錯,懸大寶蓋,莊嚴門標,眾色流蘇其相長廣,寶鈴、白拂、名衣、幡珮綺絢垂布而校飾之,於八方隅建摩尼幢。八功德水芬馥盈滿,無量眾鳥鴛鴦鵝鵠出和雅音。種種浴池時華雜樹敷榮間列芳茂嚴好。八方合繫五寶瓔繩。其地柔軟猶如綿纊,觸踐之者皆受快樂。無量樂器自然諧韻,其聲微妙人所樂聞。無量菩薩隨福所感宮室殿堂意生之座,如來信解願力所生。法界幖幟大蓮華王出現,如來法界性身安住其中,隨諸眾生種種性欲令得歡喜。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Đại Nhật
Thế Tôn nhập Đẳng Chí tam-muội, do quán các chúng sanh trong đời vị lai mà trụ
trong Định. Ngay lập tức, trong các quốc độ của chư Phật, đất bằng phẳng như
lòng bàn tay, năm chất báu xen kẽ, treo lọng báu lớn, các cửa được trang nghiêm
bằng cờ xí đủ màu, có hình dạng dài rộng. Linh báu, phất trần trắng, áo quý đẹp,
phan, chuỗi ngọc đẹp đẽ, rực rỡ treo rủ trọn khắp để tô điểm. Nơi tám góc, dựng
tràng Ma-ni. Đủ loại ao tắm: Nước tám công đức thơm tho ngập tràn, vô lượng các
loài chim [ở trong ấy] như uyên ương, ngỗng, chim hộc, hót tiếng hòa nhã. Hoa
đúng thời, các loại cây khác nhau sum suê, xen kẽ thành hàng, thơm sực nức,
tươi tốt, trang nghiêm đẹp đẽ. Tám phương thắt dây kết bằng năm thứ báu. Mặt đất
mềm mại như bông, người đụng chạm và giẫm trên đó đều hưởng vui sướng. Vô lượng
nhạc khí tự nhiên hòa điệu du dương. Tiếng nhạc vi diệu khiến cho mọi người
thích nghe. Vô lượng Bồ Tát tùy theo phước mà cảm vời cung thất, đền đài, và
tòa ngồi thuận theo ý tưởng mà sanh. Xuất hiện đại liên hoa vương sanh bởi sức
nguyện lực tín giải của Như Lai để làm biểu trưng cho pháp giới. Pháp giới tánh
thân của Như Lai an trụ trong ấy, thuận theo đủ loại tánh ưa thích của chúng
sanh, khiến cho họ đều hoan hỷ).
Ý nghĩa của
[danh hiệu] Tỳ Lô Giá Na đã được giải thích trong phần trước, nay giải thích
thêm. Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) là Nhật (mặt trời). Như mặt trời trong thế gian
có thể trừ hết thảy tối tăm, sanh trưởng hết thảy vạn vật, thành tựu sự nghiệp
của hết thảy chúng sanh. Nay Pháp Thân Như Lai cũng lại giống như vậy; vì thế,
dùng [mặt trời] làm thí dụ. Nhưng mặt trời trong thế gian có nơi chốn, phần hạn,
hễ chiếu bên ngoài sẽ chẳng thể chiếu bên trong, chiếu sáng ở một bên này sẽ chẳng
thể chiếu bên kia, chỉ có thể soi sáng ban ngày, chứ ánh sáng chẳng soi thấu
ban đêm. Nay vầng mặt trời Như Lai chẳng phải vậy, chiếu trọn khắp trong,
ngoài, chẳng có nơi chốn, phần hạn, phân biệt ngày đêm, viên minh thường trụ. Hết
thảy chúng sanh nếu được gặp lúc vầng mặt trời [Như Lai] này xuất hiện, sẽ có
thể sanh trưởng hết thảy thiện căn của Như Lai, hành Như Lai sự. Mặt trời thế
gian chẳng thể sánh ví, chỉ [có thể tạm sánh ví] chút phần. Do vậy, thêm vào
danh xưng [Tỳ Lô Giá Na] chữ Ma Ha.
Sở dĩ đức Phật
nhập tam-muội này là do đức Phật trụ trong pháp tịch diệt vô tướng rốt ráo, do
đại bi nên trụ trong tam-muội, khiến cho hết thảy đại hội và vô lượng đại chúng
được thấy pháp vi diệu trong đại hội trang nghiêm của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la
này, tức là từ trong vô tướng mà hiện hữu tướng. Tuy là hữu tướng, nhưng sanh từ
nhân duyên, tức là ý nghĩa “bất sanh”,
giống như pháp tánh thanh tịnh. Nhưng khiến cho chúng sanh ai nấy tùy theo bổn
duyên mà thấy đủ loại sắc, nghe đủ loại tiếng, đạt được đủ loại pháp. Ai nấy
tùy theo tâm khí [của chính mình] mà tu hành đúng như pháp, có nhân duyên to lớn
như thế đó. Lại vì thỏa mãn các pháp do ngài Kim Cang Thủ đã hỏi, khiến cho Bồ
Tát thấu hiểu rõ chẳng còn thừa sót, [đức Phật] bèn nhập tam-muội.
Đẳng Chí (Samāpatti, tam-ma-bát-để) là tên của tam-muội. Trong phần trên nói “nhĩ thời” (lúc bấy giờ), nay lại nói
“bỉ thời, Như Lai nhập ư tam-muội”
(khi đó, Như Lai nhập tam-muội), là vì nhân duyên trước đó mà lại có chuyện
này. Do vậy, phân biệt mà nói là “bỉ
thời”. Đẳng Chí: Do quá khứ hết thảy chư Như Lai đều nương theo đạo này
mà đạt thành Chánh Giác. Như hết thảy các đức Như Lai trong quá khứ, hiện tại
và vị lai cũng lại giống như thế, đều do nương vào đạo này và phương tiện này
mà thành Chánh Giác. Do vậy, nói là Đẳng Chí. Như tam thế chư Phật đạt thành
Chánh Giác, ta cũng giống như thế. Như ta nay nương vào đạo này mà tới đạo
tràng, hết thảy chư Phật cũng giống như thế. Phật, Phật đều bình đẳng, từ đầu đến
cuối đều rốt ráo bình đẳng. Vì thế nói là Đẳng Chí.
Lại còn như
trong phần trước đã chỉ bày tướng trạng, phương vị của Đại Mạn-đồ-la, đúng như
tam-muội do đức Phật đã nhập mà thị hiện. Nếu A-xà-lê trụ trong Định để độ đệ tử,
cũng nên xếp đặt hình tướng các phương vị giống hệt chẳng khác như thế đó. Mỗi
mỗi đều là hành pháp phổ môn của các vị tôn thánh thiện tri thức để nhập pháp
giới. Nếu quán như thế để gia trì đệ tử, cũng khiến cho [đệ tử] được thấy đại hội
như thế, khiến cho điều được quán trong tâm và chuyện được xếp đặt bên ngoài,
trong ngoài đều bình đẳng chẳng sai biệt. Vì thế gọi là Đẳng Chí tam-muội. Đức
Phật do nhập tam-muội này, khiến cho các vị đại Bồ Tát như Kim Cang Thủ v.v… đều
được thỏa mãn các nghi vấn. Trong tam-muội, đức Phật hiện ra các sự, tức là chỉ
bày phương vị, pháp dụng; do vậy, nhập tam-muội này. Khi đức Phật ấy nhập
tam-muội, các Phật sự cũng đều giống như thế. “Đẳng” là giống hệt như nhau, giống như lòng bàn tay phẳng phiu.
Nói “địa bình” (đất bằng phẳng)
là nói theo tam-muội, tức là thấy cõi thanh tịnh trang nghiêm, mặt đất phẳng
phiu, ngay ngắn, chẳng có ngói, đá, các núi non, và cát, sỏi v.v… Nhưng đấy
chính là ý nghĩa “Bồ Đề tâm thanh tịnh”.
Do tín lực mà bình tâm địa. Trừ khử tất cả những chỗ A Lại Da, bao gồm các loại
cát, sỏi, gốc cây chết khô v.v… Chỉ còn để lại cõi đất Bồ Đề tâm thể tánh rốt
ráo bình đẳng, thanh tịnh. Nếu có thể bình tịnh nơi đó, sẽ có thể thành tựu Phật
hội trang nghiêm trong Đại Bi Thai Tạng.
“Ngũ bảo gián thác” (Năm chất báu xen kẽ) tức là năm thứ báu như vàng, bạc v.v… Chất
báu năm sắc xen kẽ nơi đất ấy. “Ngũ
hành” là năm thứ báu [có màu] trắng, vàng… tức là năm màu. “Đỏ, xanh,
đen” theo thứ tự. Màu trắng xen kẽ là Giới. Vàng là Tín, đỏ là Tinh Tấn, xanh
là Định, đen là Huệ. Trong phần trước đã giải thích [khi vẽ Mạn-đồ-la, thứ tự
màu sắc sử dụng] đầu tiên là trắng, kế đó là đỏ, rồi đến vàng. Nay [ở đây] dùng
cách giải thích này (tức là trắng, vàng, đỏ, xanh, đen) làm chuẩn, chẳng dùng
cách giải thích trước đó. Từ đây trở đi, mỗi thứ trang nghiêm đều được giải
thích theo nghĩa lý. Điều chưa được giải thích ở đây, trong các chỗ khác [sẽ được
giải thích], mỗi mỗi đều đối ứng với pháp môn này. Nhưng nơi ấy không chỉ có
năm thứ báu xen kẽ nơi đất để trang nghiêm cửa nẻo mà thôi, lại còn có “môn tiêu” (門標, những thứ cờ
xí, biểu tượng để trang nghiêm nơi cửa), tức là “môn tiêu” của Đại Bi Thai Tạng, khiến cho [hành nhân] biết tướng
phương vị của cửa để vào. Nói “tiêu”
(標, nêu bày) tức là [được xếp đặt] giống như trong đồ
hình trong phần trên. Nhưng [trong các thứ môn tiêu ấy], có thứ được vẽ, và có
thứ được lập. Thứ được vẽ thì vẽ vời đúng như đồ hình, những tiêu xí được lập
thì cũng nương theo tướng trạng ấy để làm. Nơi cửa có trụ, trên trụ có thanh gỗ
đặt ngang để chỉ rõ nơi đó là cửa. Cửa ở bốn phương tức là Tứ Niệm Trụ, còn Tiêu là Tứ Phạm Trụ. Niết Dữu Ha (Nirgam)
là cửa, Đổ La cũng là cờ, tức là cái để nêu bày (cờ xí, vật biểu trưng).
“Tạp sắc” (Nhiều màu khác nhau): Không chỉ là màu của năm phương, mà còn
có đủ loại màu sắc khác nhau. Các lá phan đủ loại màu sắc ấy rộng, dài, đặt ở
phía trên cửa. Lọng báu lớn cùng che phủ bên trên, giống như đàn pháp. Nhưng lọng
ấy có kích thước che trọn khắp các cõi Phật, cho nên nói là “đại”. Trên các thứ trưng bày ấy, lại
treo phất trần trắng và linh báu để trang nghiêm. Trước đó là phan nhiều màu,
nơi phan có các thứ như linh báu và phất trần để treo xen kẽ với phan báu. Lại
có đủ loại dây buộc bằng lụa màu đẹp đẽ để buộc hờ. Các thứ áo đẹp đẽ đủ màu
treo rủ trọn khắp. Tôi cho rằng theo như kinh văn thì có ý nghĩa “mặc áo nhiều màu”. Từ pháp vô tướng
bậc nhất mà sanh ra tướng Đại Bi Tạng Sanh như thế, hiện trọn khắp sắc thân, đủ
loại phương tiện để nói vô lượng pháp. Đó là ý nghĩa “nhiều màu”. Từ phan nhiều màu trở đi, đều là các thứ trang hoàng nơi cửa. “Kiến” (建) có
nghĩa là đặt phan để trang hoàng.
Nơi tám góc, lập
tràng Ma-ni lớn, tức là tràng làm bằng Ma-ni. “Tràng” [được nói ở đây] chính là tại bốn phương và bốn góc, mỗi
nơi đều lập tràng bằng Ma-ni diệu bảo như ý. Ngoài ra, lại còn có ao tắm thanh
tịnh, đẹp đẽ, chứa nước tám công đức, lặng trong, thanh tịnh. Trong ao, lại còn
có vô lượng các loài chim sống trong nước nô đùa tự tại, phát ra đủ loại âm
thanh vi diệu đẹp lòng hết thảy. Lại sanh đủ loại “thời hoa”, “thời”
tức là hoa trong sáu thời đều hiện ra đúng lúc. Không chỉ là hoa quý, lại còn
có đủ loại cây báu la liệt, phân bố khắp tám “phương phần”, “phần”
tức là “phương” vậy. Dây kết bằng năm thứ báu buộc quanh. Đấy chính là phía
trên tám trụ báu, dây báu buộc quanh giáp vòng. Chữ Anh [trong “ngũ bảo anh lạc”] được nói ở đây
chính là âm tiếng Phạn, có hình dạng khác với “anh lạc”[1]
được nói trong phần trước, tức là [những chất báu ấy] được làm thành hình bán
nguyệt ngửa lên, [kết thành chuỗi] treo rủ xuống. Các thứ dây báu như thế treo
giáp vòng, nối tiếp nhau.
Mặt đất thì mịn
trơn như áo bằng sợi bông, chạm vào vui sướng tột bậc, như phương Tây có áo thuần
bằng chất bông. Địa luân (mặt đất) giống như thế đó, cực trơn mịn, đặt chân xuống
bèn lún, giở chân lên, nó trở lại như cũ, bằng phẳng như cũ. Cực mịn, sanh cảm
giác dễ chịu nhất. Lại có vô lượng nhạc khí đầy ắp hư không. Chúng ở trong hư
không, chẳng tấu mà tự phát ra tiếng. Tiếng ấy sâu mầu, khiến cho người ta
thích nghe, hoan hỷ, vui sướng. Nơi cuộc đất được xếp đặt trang nghiêm ấy, lại
sanh ra vô lượng các thứ thuận theo phước đức của Bồ Tát, cảm vời các tòa ngồi
và cung điện xuất sanh theo ý muốn. [Các thứ ấy] đều sanh từ sự tín giải của
Như Lai. Tòa ấy la liệt, cũng làm thành ba tầng, xếp đặt theo thứ tự như trong
Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la [đã nói] trong phần trước. Nhưng tùy thuộc công đức
tịnh diệu của mỗi vị Bồ Tát mà sanh ra các vật thỏa thích ngũ trần, đủ thứ sai
biệt. Nói tóm lại, nhiều như số lượng vi trần trong mười thế giới, mỗi thứ bất
đồng được xếp bày nơi phương vị. Các thứ ấy đều ở trong vòng [dây báu căng
trên] tám trụ tràng báu, và sanh từ sức tín giải của Như Lai. Do sức bổn nguyện
của Như Lai mà thị hiện trọn khắp trong Đẳng Chí tam-muội.
“Pháp giới tiêu”: “Tiêu” (標, các vật nêu bày) sanh từ pháp giới, tức là “pháp giới đàn tiêu xí” (vật biểu
trưng cho đàn tràng pháp giới). Trong “tiêu”
có ý nghĩa “tánh”. Từ ngữ trong
tiếng Phạn bao hàm nghĩa ấy, “tiêu”
chính là tánh. Thể tánh của pháp giới vốn sẵn thường tịnh, vô tướng bậc nhất, lại
còn dùng pháp giới để trang nghiêm. Trong ấy có đại liên hoa vương, hoa ấy giống
như pháp giới, tự tánh thanh tịnh trọn khắp hết thảy mọi nơi. Hãy nên biết Như
Lai ngự ở trong ấy. Hoa đã có lượng đồng pháp giới. Hãy nên biết thân Phật cũng
lại như thế. Ở đây chính là hoa tám cánh ở Trung Đài. Sanh ra hoa sen to, Như
Lai trụ trong pháp giới bậc nhất ấy, tùy ý hiểu lòng vui thích của chúng sanh. “Bậc nhất” ở đây chính là đệ nhất
pháp giới thân, thuận theo tín giải của các chúng sanh, khiến cho họ vui sướng.
Ý tột bậc vi tế, tánh khó thấy nhất. Do vậy là “cực vi tế”. “Đệ nhất”
ở đây nên hiểu ý nghĩa là nói về tánh. “Tùy
ý”: Nguyện lực của Phật vốn nhằm độ hết thảy chúng sanh, phổ môn thị hiện,
mỗi mỗi thuận theo thân mà họ thích thấy, ứng theo căn cơ của họ mà tạo lợi ích
khiến cho họ hoan hỷ.
(Kinh) Thời, bỉ Như Lai nhất thiết chi phần vô chướng ngại lực, tùng thập
trí lực, tín giải sở sanh, vô lượng hình sắc trang nghiêm chi tướng, vô số bách
thiên câu-chi na-do-tha kiếp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ, chư độ công đức sở tư trưởng thân, tức thời xuất hiện. Bỉ xuất hiện
dĩ, ư chư thế giới đại chúng hội trung, phát đại âm thanh, nhi thuyết kệ ngôn:
“Chư Phật thậm kỳ đặc, Quyền Trí bất tư nghị, vô A Lại Da huệ, hàm tàng thuyết
chư pháp. Nhược giải vô sở đắc, chư pháp chi pháp tướng, bỉ vô đắc nhi đắc, đắc
chư Phật Đạo Sư”. Thuyết như thị âm thanh dĩ, hoàn nhập Như Lai bất tư nghị
Pháp Thân.
(經)時,彼如來一切支分無障礙力,從十智力信解所生,無量形色莊嚴之相,無數百千俱胝那由他劫布施、持戒、忍辱、精進、禪定、智慧諸度功德所資長身即時出現。彼出現已,於諸世界大眾會中發大音聲而說偈言:諸佛甚奇特,權智不思議,無阿賴耶慧,含藏說諸法。若解無所得,諸法之法相,彼無得而得,得諸佛導師。說如是音聲已,還入如來不思議法身。
(Kinh: Khi đó, do sức vô chướng ngại
nơi hết thảy các chi phần của đức Như Lai, sanh từ mười trí lực và tín giải, tướng
vô lượng hình sắc trang nghiêm, các thân được vun bồi, trưởng dưỡng bởi các
công đức do đã hành các Độ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí huệ trong vô số trăm ngàn câu-chi na-do-tha kiếp ngay lập tức xuất hiện.
Các thân ấy đã xuất hiện, liền ở trong đại chúng hội nơi các thế giới, phát ra
âm thanh to lớn mà nói kệ rằng: “Chư Phật rất kỳ đặc, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn.
Không A Lại Da huệ, chứa đựng nói các pháp. Nếu hiểu vô sở đắc, pháp tướng của
các pháp, tuy vô đắc mà đắc, đắc chư Phật Đạo Sư”. Nói âm thanh như thế xong, lại
vào trong Pháp Thân chẳng nghĩ bàn của Như Lai).
Sức vô ngại
nơi các chi phần của Như Lai do từ thập lực tín giải, sanh ra vô lượng thân
hình sắc trang nghiêm. Chi phần của Như Lai có sức vô ngại, sức vô hoại. Bởi lẽ,
sức của hết thảy thiên tiên trong thế gian, và Nhị Thừa, Thanh Văn, Bồ Tát v.v…
còn có chướng ngại. Do có chướng ngại, người có sức thù thắng hơn sẽ có thể phá
hoại [sức ấy]. Nay Phật lực vô ngại, chẳng thể phá hoại, do giống như kim cang;
vì thế nói là “vô ngại lực”. Sức
vô ngại ấy sanh từ đâu? Hãy nên biết nó sanh từ mười loại trí lực của Như Lai.
Từ các chi phần thượng, trung, hạ nơi thân Phật mà chia thành ba phần, lưu xuất
đủ loại hình tướng, cho tới mỗi lỗ chân lông thảy đều sanh ra các chủng loại,
ngần ấy hình sắc, mỗi mỗi khác biệt, hoặc vuông, hoặc tròn, tam giác, bán nguyệt,
hoặc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tịch tâm, hoan hỷ, phẫn nộ v.v… các thứ hình
tướng, số tới vô lượng. Tức là các vị Bổn Tôn sẽ đều ngồi nơi tòa sanh khởi bởi
sự cảm vời nơi ý. Nay thập lực lại từ đâu mà sanh? Chính là do Như Lai trong vô
lượng A-tăng-kỳ kiếp đã tu hành Lục Độ, Thập Độ, cho tới trăm ngàn vạn ức chẳng
thể nói các Độ và vạn hạnh, tức là do được công đức của các hạnh ấy vun bồi. Do
được công đức vun bồi mà thân xuất hiện, từ Pháp Thân mà hiện ra. Thân ấy đã xuất
hiện, ở trong các đại hội nơi các thế giới, “các” là nói tới mười phương. Nhưng chẳng phải chỉ hiện hình mà
thôi, lại còn phát ra đủ loại diệu âm, diễn nói, tuyên bày pháp thường tịch bí
mật và hạnh chân ngôn chẳng nghĩ bàn, khiến cho trọn khắp hết thảy [các loài
chúng sanh] đều được nghe, biết. Các vị Bồ Tát được sanh ra ấy, mỗi vị đều nói
đủ loại “âm thanh biểu” (các loại
biểu thị bằng âm thanh) nói như thế tức là nói kệ. Dùng diệu kệ để tán thán Phật,
giống như lời tán thán của [chư Bồ Tát từ] phương dưới vọt lên [trong hội Pháp
Hoa].
Đại Nhật Như
Lai trụ trong tam-muội. Đấy chính là các tướng trạng thị hiện từ trong thân phần
của đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ngự trên hoa đài do tam-muội hiện ra. Từ trong đóa
hoa sen sanh bởi pháp giới ấy, khi đức Phật lưu xuất đủ loại hình tướng, lại từ
thân Phật phát ra đủ loại âm thanh để diễn nói diệu pháp. Kinh nói “âm thanh” tức là [nói đến] ngữ biểu
(sự biểu thị bằng ngôn ngữ). Âm thanh ấy diễn xướng kệ, đại lược có hai bài kệ.
Bài kệ thứ nhất nói: “Kỳ tai nhất thiết
Phật, phương tiện bất tư nghị, ư vô tạng tánh trung, dĩ huệ linh vi tạng” (Lạ
thay! Hết thảy các vị Phật dùng phương tiện chẳng nghĩ bàn, từ trong vô tạng
tánh mà dùng huệ để làm tạng). Bài kệ này có ý nghĩa tán thán Phật. Do thấy các
chuyện thị hiện chẳng thể nghĩ bàn trên đây, bèn tán thán công đức của Phật hết
sức đặc biệt, lạ lùng. Tán thán đức Tỳ Lô Giá Na chính là tán thán hết thảy các
đức Như Lai. Do vậy nói là “hết thảy
chư Phật”. Vì thế, hãy nên biết tướng kỳ đặc do Như Lai đã hiện chính là
nghiệp chẳng thể nghĩ bàn sanh từ đại huệ và phương tiện của Như Lai. Nghiệp chẳng
nghĩ bàn là như thế nào? Tức là trụ trong vô tạng tánh mà có thể làm thành hữu
tạng. “Tạng” trong tiếng Phạn
là A Lại Da (Alaya), phương này dịch là Tạng. Hoặc nói đến ý nghĩa “cung, thất, nhà cửa” như nhà cửa
trong thế gian, hết thảy chúng sanh đều tùy theo sức mình mà an trụ trong đó.
Đã có “sào huyệt” như thế, tức
là có thiện ác bao bọc, chẳng thể tự thoát ra. Như Lai đã lìa “sào huyệt” A Lại Da như thế, nên nói
là “vô tạng tánh” (tức câu “vô A Lại Da huệ” trong chánh kinh).
Phật tuy chẳng có hết thảy các tạng, nhưng do huệ phương tiện mà có tạng sanh,
tức là từ trong pháp vô tướng mà thị hiện đủ loại tướng, từ trong pháp chẳng có
vọng tưởng mà thốt ra đủ loại âm thanh nói năng, tức là dùng tạng ấy khiến cho
hết thảy đều đạt tới vô tạng.
Bài kệ kế tiếp
nói: “Nhược giải vô sở đắc, chư pháp
chi pháp tướng, bỉ vô đắc nhi đắc, đắc chư Phật Đạo Sư” (Nếu hiểu biết
vô sở đắc, các pháp tướng của các pháp, sẽ là vô đắc mà đắc, chính là chư Phật
đạo sư). Ý nói: Pháp tánh vô đắc, chẳng thể biết. Nếu cho rằng “vô đắc chính là nghĩa Không, nếu đạt được
điều ấy thì chính là Phật”, thì đó chính là “hữu vọng, hữu tạng”, chẳng phải là trí huệ vô sư của Như Lai! Nếu
“có thể biết” thì đó chính là
hành xứ của cái tâm, chẳng phải là nghĩa thù thắng rốt ráo! Sở dĩ tán thán Phật
chẳng nghĩ bàn chính là đối với pháp vô đắc, bất khả đắc, mà có thể đắc. Tức là
cảnh giới trên đây tuy vô tướng mà có tướng, khiến cho hết thảy chúng sanh do
vô sở đắc mà đắc. Ai đắc pháp ấy? Chính là chư Phật đạo sư vậy!
Lại nữa, bài kệ
trước nói “lạ thay” thì “lạ thay” trong tiếng Phạn
chính là khởi đầu bèn có âm A[2].
Bài kệ ấy đã biểu thị pháp, còn bài kệ này (tức bài kệ thứ hai) [nói về] ý
nghĩa “vốn bất sanh” mà có thể
sanh ra hết thảy các pháp, tức là Như Lai đích thân chỉ bày: Các thứ hình tướng
và âm thanh được thị hiện bởi thân Như Lai đều sanh từ chữ A. Khi đã xuất hiện
các thứ hình tướng, âm thanh xong, lại trở vào các chi phần nơi thân đức Phật,
lại trở vào trong Pháp Thân chẳng nghĩ bàn của Như Lai, mỗi mỗi đều theo đúng
chỗ đã xuất sanh mà trở vào. Do vậy, kinh nói “hựu phục nhập Như Lai bí Pháp Thân bất tư nghị” (lại vào trong
Pháp Thân bí mật chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai). “Bất tư nghị” trong tiếng Phạn là A Chân Để (Acintya), cũng có
âm A, ý nói “từ A mà ra, lại từ A mà
vào”. Hai phía trên dưới đều có hai chữ A, ngụ ý: Hết thảy các pháp xuất
nhập đều có cùng một Thể với pháp giới.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện nam tử! Đế thính nội tâm Mạn-đồ-la. Bí Mật Chủ! Bỉ
thân địa tức thị pháp giới tự tánh, chân ngôn, mật ấn gia trì nhi gia trì chi.
Dĩ bổn tánh thanh tịnh cố, Yết Ma kim cang sở hộ trì cố, tịnh trừ nhất thiết trần
cấu, ngã nhân, chúng sanh, thọ giả, ý sanh, nhu đồng, tạo lập giả đẳng chu ngột
quá hoạn.
(經)爾時,世尊復告執金剛祕密主言:善男子!諦聽內心漫荼羅。祕密主!彼身地即是法界自性,真言密印加持而加持之,以本性清淨故、羯磨金剛所護持故,淨除一切塵垢,我人、眾生、壽者、意生、儒童 、造立者等株杌
過患。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Thiện nam tử! Hãy lắng nghe Mạn-đồ-la trong nội
tâm. Bí Mật Chủ! Thân thể ấy chính là pháp giới tự tánh, dùng sự gia trì của
chân ngôn và mật ấn để gia trì, do bổn tánh thanh tịnh, do được Yết Ma kim cang
hộ trì, trừ sạch hết thảy các “gốc cây chết khô” lầm lỗi như trần cấu, ngã
nhân, chúng sanh, thọ giả, ý sanh, nhu đồng, kẻ tạo lập v.v… ).
[Chánh
kinh] nói “bỉ Phật cáo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ” (đức Phật ấy bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ) thì có ý nói đức
Phật ấy chính là đức Tỳ Lô Giá Na. Lại nên hỏi: “Đức Phật ấy do tam-muội hiện
ra, hay vốn là [chân thân của] đức Như Lai?” Phải nên là bản thân Như Lai! Từ
đây trở đi, đức Phật từ Đẳng Chí tam-muội khởi rồi dạy bảo ngài Kim Cang Thủ. Sở
dĩ đức Phật trụ trong tam-muội, hiện ra đủ loại tướng hy hữu như trên, tức là đất
bằng phẳng như lòng bàn tay, cho đến xếp đặt các vị tôn thánh, và phương vị của
hoa tám cánh v.v… là vì muốn dạy cảnh Du Già trong nội tâm cho các vị như Chấp
Kim Cang v.v… Dùng cảnh bên ngoài để liên tưởng nội tâm, hòng biểu thị ý nghĩa.
Vì thế, nay đức Phật từ Định khởi, lại nói pháp nhập bí mật tạng thuộc Mạn-đồ-la
trong nội tâm để chỉ dạy ngài Chấp Kim Cang. Thiện nam tử! Hãy lắng nghe Mạn-đồ-la
nơi tâm địa trong tâm. Thân địa của Bí Mật Chủ chính là tự tánh của pháp giới,
dùng chân ngôn và ấn để gia trì; bởi lẽ, bổn tánh thanh tịnh. Như trong phần
trên đã dùng đức Đại Nhật để gia trì. Kế đó, dùng Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa để
gia trì hòng làm sự nghiệp. Như trong Đại Bổn có hai mươi loại tướng khuyên bảo
hãy nghe pháp. Đức Phật vì ngài Chấp Kim Cang trừ hết thảy trần cấu, và do các
vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh chưa trọn đủ pháp yếu, sẽ chẳng thể nhanh chóng
thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nên nay lại nói cho trọn vẹn các ý nghĩa trước đó,
khiến cho pháp yếu được viên mãn. Nếu chẳng hiểu biết điều ấy, các pháp trước
đó sẽ đều chẳng trọn vẹn. Do nhân duyên này mà khuyên [thính chúng] hãy trì chắc
thật. Hai mươi nhân duyên như thế sẽ rộng nói. Những điều chỉ bày trước kia là
sức tam-muội; vì thế, chỉ bày ngoại cảnh. Nay dùng nội tâm để quán, do trong tự
tâm của hành giả trọn đủ biển cả Phật hội. Mười phương cùng thông với nhau
thành một cõi Phật, chỉ tự mình hiểu rõ, người khác chẳng thấy. Do vậy, gọi là
Bí Mật Mạn-đồ-la.
Ví như
làm Mạn-đồ-la ở bên ngoài, trước hết là trì địa (bình trị cõi đất), dẹp yên
nhân ngã, chúng sanh, thọ giả, trừ bỏ các thứ như cát, sỏi, gốc cây chết khô
v.v… Kế đó, san phẳng, sửa sang, sao cho [cuộc đất ấy] cứng chắc, phẳng phiu,
thì mới có thể kiến lập [đàn tràng] tại đó. Nay cũng giống như thế, muốn kiến lập
Đại Mạn-đồ-la ở trong tâm, cũng cần phải trước hết sửa sang cho đất bằng phẳng,
trừ bỏ các thứ lỗi họa như gốc cây chết khô v.v… . Ở đây nói “thân địa”, tức là hàm chứa đất, nước,
lửa, gió. Trị địa như thế nào? Trước hết, hãy nên kiến lập tòa Du Già. “Tòa Du Già” tức là dùng chữ trong
câu chân ngôn mà chính mình trì tụng để gia trì. Lấy chữ đầu tiên nhất của chân
ngôn được trì tụng ấy, coi đó là chân ngôn tâm. Hãy nên bỏ cái chấm trên chữ ấy,
chỉ lấy bản thể, tức là chữ A. Chữ A chính là đất kim cang. Sở dĩ như vậy là vì
ví như lúc đức Thích Ca mới thành Chánh Giác, nhập Kim Cang tam-muội mà thành
Chánh Giác, trừ đất kim cang ra, không gì có thể chịu đựng nổi [thân của bậc
Chánh Đẳng Giác]. Nay ở đây cũng giống như thế, vì muốn kiến lập hội Đại Mạn-đồ-la
của đức Tỳ Lô Giá Na trong nội tâm, nếu chẳng kiến lập tâm địa kim cang trước hết,
sẽ chẳng thể an lập! Chữ A là kim cang luân. Vì muốn ngự lên tòa kim cang; trước
hết, quán chữ A làm đầu, lại dùng kim cang để trì kim cang. Hãy nên quán chữ ấy
có hình vuông, nhưng hình thể của chữ ấy cũng là vuông. Quán chữ ấy vuông vắn,
có màu kim cang, đầy ắp nội thân của hành giả, giống như Địa Đại nơi thân,
không đâu chẳng trọn khắp!
Kế đó,
nhập thủy tam-muội, tức là quán chữ Phạ (व, Va) ở trong vầng tròn sáng. Sắc nó trắng ngần, cũng
trọn khắp nơi thân, mà hình thể của chữ này cũng là tròn. Trước đó đã quán chữ
A trọn khắp thân, nay lại quán [chữ Phạ] trọn khắp thân, ví như Thủy Đại phủ trọn
khắp thân mà chẳng trở ngại Địa Đại. Kế đó, quán chữ Ra (र) có hình tam giác, màu đỏ. Hãy
quán chữ này có hình tam giác. Chữ Ra cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi, giống như
Hỏa Đại trong thân. Kế đó, quán chữ Ha (ह) có hình như nửa vầng trăng nghiêng, sắc đen. Trong chữ
ấy, lại có màu đen sẫm, cũng trọn khắp trong thân như Phong Đại nơi thân. Địa,
Thủy, Hỏa, Phong là ngoại cảnh. Từ ngoài chiếu vào trong, tức là các chữ A, Phạ,
Ra, Ha để gia trì cái thân. Chữ A ấy chính là tánh pháp giới, do hết thảy các
pháp vốn bất sanh, tức là giống như pháp giới. Giống như chữ A, hãy nên biết
các thứ nước, lửa, gió khác cũng là tánh pháp giới thanh tịnh, từ nhân duyên khởi
mà biết vốn bất sanh. Dùng mỗi chữ chân ngôn gia trì ấy để gia trì, hãy nên biết
các chữ ấy bổn tánh thanh tịnh. “Duyên”
là do đấy mà được sanh.
“Nghiệp kim cang gia hộ hữu tình, lìa hết
các lỗi họa như gốc cây chết khô của trần, hữu tình thọ giả, sanh bởi Mãn Nô, Mạt
Na Tiên Sanh[3],
tác giả…”: Kim cang có hai loại:
- Một là trí
kim cang.
- Hai là nghiệp
kim cang. Loại này trong tiếng Phạn gọi là Yết Ma kim cang (Karmavajra), ý nói “tạo tác sự nghiệp”.
Do dùng kim
cang nghiệp để gia trì mà tịnh trừ đất ấy. “Lìa hết thảy các trần”:
“Trần” có nghĩa là “lỗi họa”.
Muốn bình trị đất ấy, trước hết, hãy nên loại bỏ cát, sỏi, gốc cây chết khô vv…
Đó chính là hết thảy các cấu kiến. Kế đó, nói đại lược tướng ấy, tức là các thứ
kiến như hữu tình, thọ giả v.v… và [kiến chấp] sanh bởi Mãn Nô (Mānava, Thắng Ngã), tức một loại kiến chấp của ngoại đạo.
Mãn Nô là Ngã, ý nói: Hết thảy đều nương vào Ngã mà sanh. “Mạt Na Tiên sanh” có nghĩa “hết thảy đều sanh từ đó” (tương ứng
với chữ Ý Sanh trong chánh kinh). Đấy cũng là một loại kiến chấp của ngoại đạo,
có tánh chất cấu chướng, bất bình. Cũng dùng kim cang tác nghiệp để trừ phá lỗi
bất bình đó, trừ khử gốc cây chết khô [trần cấu, chấp trước v.v…] thì mới tịnh
kết tâm địa này để kiến lập Bí Mật Đại Mạn-đồ-la được!
(Kinh) Phương đàn tứ môn, Tây hướng thông đạt,
châu toàn giới đạo. Nội hiện ý sanh bát diệp đại liên hoa vương, trừu hành phu
nhụy, thái huyền đoan diệu. Kỳ trung, Như Lai nhất thiết thế gian tối tôn đặc
thân, siêu việt thân ngữ ý địa chí ư tâm địa, đãi đắc thù thắng duyệt ý chi quả.
Ư bỉ Đông phương Bảo Tràng Như Lai, Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai, Bắc
phương Cổ Âm Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Đông Nam phương Phổ Hiền
Bồ Tát, Đông Bắc phương Quán Tự Tại Bồ Tát, Tây Nam phương Diệu Cát Tường Đồng
Tử, Tây Bắc phương Từ Thị Bồ Tát. Nhất thiết nhụy trung, Phật Bồ Tát Mẫu, Lục
Ba La Mật, tam-muội quyến thuộc, nhi tự trang nghiêm. Hạ liệt Trì Minh chư Phẫn
Nộ chúng. Trì Kim Cang Chủ Bồ Tát dĩ vi kỳ hành, xử vu vô tận đại hải. Nhất thiết
Địa Cư Thiên đẳng, kỳ số vô lượng, nhi hoàn nhiễu chi.
(經)方壇四門,西向通達,周旋界道。內現意生八葉大蓮華王,抽莖敷𧄜綵絢端妙。其中如來一切世間最尊特身,超越身語意地至於心地逮得殊勝悅意之果。於彼東方寶幢如來、南方開敷華王如來、北方鼓音如來、西方無量壽如來,東南方普賢菩薩、東北方觀自在菩薩、西南方妙吉祥童子。西北方慈氏菩薩。一切𧄜中,佛菩薩母六波羅蜜三昧眷屬而自莊嚴。下列持明諸忿怒眾、持金剛主菩薩以為其莖,處于無盡大海。一切地居天等,其數無量而環繞之。
(Kinh: Đàn hình vuông, mở bốn cửa. [Cửa
ở] phương Tây mở thông suốt. Các đường đi lại sát đường ranh đều trọn khắp.
Trong ấy, hiện ra đại liên hoa vương tám cánh sanh bởi ý, có cuống và tua nhụy
tỏa ra, nhiều màu rực rỡ, đoan nghiêm, đẹp đẽ. Trong ấy, thân tôn quý đặc biệt
nhất trong thế gian của Như Lai, siêu việt thân ngữ ý địa, cho tới tâm địa, đạt
được cái quả thù thắng đẹp ý. Ở phương Đông của đàn ấy là Bảo Tràng Như Lai,
phương Nam là Khai Phu Hoa Vương Như Lai, phương Bắc là Cổ Âm Như Lai, phương
Tây là Vô Lượng Thọ Như Lai, phương Đông Nam là Phổ Hiền Bồ Tát, phương Đông Bắc
là Quán Tự Tại Bồ Tát, phương Tây Nam là Diệu Cát Tường Đồng Tử, phương Tây Bắc
là Từ Thị Bồ Tát. Trong hết thảy các nhụy, là mẹ của Phật, Bồ Tát, Lục Ba La Mật,
và tam-muội quyến thuộc để tự trang nghiêm. Phía dưới, xếp bày các vị Trì Minh
Phẫn Nộ. Trì Kim Cang Chủ Bồ Tát làm cuống của đóa hoa ấy, ở trong biển cả vô tận.
Hết thảy các Địa Cư Thiên số đến vô lượng vây quanh).
[Đàn tràng có] bốn cạnh, bốn cửa. Cửa
hướng về phương Tây thường mở để làm cửa ra vào. Trọn khắp theo các cạnh, giống
như trong phần trước đã chỉ bày về ngoại tướng: Cờ xí, các dấu hiệu biểu trưng
được đặt trên các cửa, và tám cây cột báu lớn xếp quanh. Trên trụ, treo các thứ
trang nghiêm như chuỗi ngọc báu, phất trần trắng v.v… [Hãy quán tưởng] khiến
cho [đàn tràng trong] nội tâm Du Già cũng chẳng khác với các điều ấy. Nhưng mỗi
mỗi thứ đều là pháp môn trong nội tâm, hãy nên hỏi về danh nghĩa vậy. Trong ấy,
có đại liên hoa vương sanh bởi ý, tám cánh, có tua nhị, màu sắc vẽ vời đẹp đẽ
trọn khắp. Đức Như Lai ngự trong đó là đấng tôn quý trong hết thảy mọi người.
Ngữ và ý siêu việt, thân tâm địa ngự lên đó, trao truyền cái quả vui sướng thù
thắng tột bậc đạt được trong tâm địa. Tức là ở nơi cuộc đất bằng phẳng, trang
nghiêm to lớn trong nội tâm, có tòa đại liên hoa vương đặt trên đó. Hoa vương
to lớn hiển hiện như trong phần trên [đã nói], bản thể tịnh diệu, lượng đồng
pháp giới. Nay [đại liên hoa vương] được quán bởi nội tâm cũng giống như thế.
Do vậy, được gọi là “đại hoa vương”.
Hoa ấy có cọng, có nhụy, các màu sắc đẹp đẽ xen lẫn nhau, đều do nội tâm quán
thành. Như người thợ vẽ vận dụng, sắp xếp các màu để vẽ các hình sắc, tuy chúng
do duyên mà hòa hợp, chẳng có tự tánh, nhưng tướng mạo rành rành. Trên ấy, có đấng
tôn quý trong hết thảy mọi người, tức là Tỳ Lô Giá Na Phật. Đấy chính là Đại Tỳ
Lô Giá Na Phật trong tự tánh vô sư trí của hành giả, chẳng phải từ bên ngoài mà
tới. Thân, ngữ, ý của Ngài siêu việt. Thân, ngữ, ý tâm địa đạt tới tâm địa
thanh tịnh, đạt được cái quả thù thắng đẹp lòng, vượt ngoài tâm địa ô nhiễm, đạt
tới quả địa nơi
tịnh tâm.
“Thân tâm địa đăng thăng”: Như hết thảy
người đời chưa đạt được ba thứ thân, khẩu, ý bình đẳng; vì vậy, chẳng thể nhập
pháp môn tâm địa này. Các lỗi nơi ba nghiệp Như Lai đều lìa, đạt được tam bình
đẳng (thân, khẩu, ý bình đẳng), đạt tới địa vị của hết thảy chư Phật, tức là đạt
được tâm địa vui sướng của Tỳ Lô Giá Na Phật nơi Bồ Đề tâm thanh tịnh, tôn quý
nhất trong hết thảy. Lại nữa, hết thảy chúng sanh đều cùng có tánh này, Như Lai
bí tạng cũng trọn đủ chẳng thiếu, nhưng [do họ] chẳng thể tự tin, chẳng tự biết
rõ! Chỉ có Như Lai hiểu rõ, tự chứng, đều vì hết thảy mà giác ngộ trọn khắp,
khiến cho họ cũng đều cùng đạt được điều ấy [tức Như Lai bí tạng]. Do vậy, Ngài
được gọi là “nhất thiết chúng sanh
trung tôn” (đấng tôn quý trong hết thảy chúng sanh).
“Duyệt ý quả” (Cái quả đẹp lòng) tức
là cái quả tối hậu. Hãy nên biết: Đạt được tâm địa ấy, sẽ chính là Tỳ Lô Giá Na
Như Lai. “Thọ dữ” (Trao cho) tức là có người truyền trao. Lại do tự quán sát tu
hành mà đạt được cái quả ấy, dường như được người khác trao cho, nhưng thật ra
là tự ngộ, chẳng do người khác mà đạt được. Giống như trong phần trên, đức Tỳ
Lô Giá Na ngự trên hoa đài. Nơi tám cánh, theo thứ tự, ở phương Đông, quán Bảo
Tràng Phật (Ratnaketu), Ngài cũng có tên là Bảo Tinh Phật. Phương Nam là
Khai Phu Hoa Vương Phật (Saṃkusumita-rāja). Nhân Đà La
cũng có nghĩa là Vương. Nếu lập lại hai chữ Vương thì không tiện, nên giữ
nguyên âm tiếng Phạn. Phương Bắc là Cổ Âm Phật (Dundubhisvara). Trong phần trước là đặt Phật A Súc, nay sửa thành danh xưng
này. Phương Tây là A Di Đà Phật (Amitābha). Nơi các
cánh sen ở bốn góc, phương Đông Nam là Phổ Hiền (Samantabhadra), Đông Bắc là
Quán Tự Tại (Avalokiteśvara), Tây Bắc là Di Lặc (Maitreya), Tây Nam là Văn Thù (Mañjuśrī-kumārabhūta).
Trong các nhụy hoa, đặt Phật Mẫu, các Ba La Mật, tam-muội
v.v… Phật Mẫu tức là Hư Không Nhãn (Gagana-locanī) v.v… Phía dưới
cánh hoa, đặt các vị Trì Minh Phẫn Nộ v.v… đều ở dưới cánh hoa. Cọng hoa ấy do
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ cầm, coi đó là cọng hoa. Lại có vô biên đại hải chúng,
tức các vị kim cang. Cũng có đủ loại vật cúng như hoa, hương v.v… Nay chỉ nói đại
lược. Trong phần sau, sẽ có phương tiện xếp đặt. Phía dưới cọng hoa ấy, quán nước
trong biển cả. Phía ngoài bờ biển, do trở thành tam-muội-da, cần phải chuẩn bị
hoa v.v… vì muốn cho hết thảy đều vào đàn tràng, tâm nghĩ tới hoa mà cho họ tiến
nhập. Các vị Địa Cư Thiên đều y theo phương vị của họ để quán tưởng hòng xếp đặt.
(Kinh) Nhĩ thời, hành giả vị thành tam-muội-da
cố, ưng dĩ ý sanh hương, hoa, đăng minh, đồ hương, chủng chủng hào thiện, nhất
thiết giai dĩ hiến chi. Ưu-đà-na viết: - Chân ngôn giả thành đế, đồ họa Mạn-đồ-la,
tự thân vi đại ngã. Ra tự tịnh chư cấu, an trụ Du Già tòa. Tầm niệm chư Như Lai, đảnh thọ
chư đệ tử. A tự đại không điểm. Trí giả truyền diệu hoa, linh tán ư tự thân, vị thuyết
nội sở kiến. Hành nhân tông phụng xứ, thử tối thượng đàn cố, ưng dữ tam-muội-da.
(經)爾時,行者為成三昧耶故,應以意生香華燈明塗香種種餚膳,一切皆以獻之。優陀那曰:真言者誠諦,圖畫漫荼羅,自身為大我,囉字淨諸垢。安住瑜伽座,尋念諸如來,頂授諸弟子,阿字大空點,智者傳妙花,令散於自身,為說內所見,行人宗奉處,此最上壇故,應與三昧耶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, hành giả vì để
thành tựu tam-muội-da, hãy nên dùng hương, hoa, đèn sáng, hương bôi, các thứ thức
ăn ngon sanh bởi ý, hết thảy đều đem dâng hiến. Kệ Ưu-đà-na rằng: - Bậc chân
ngôn chân thành, vẽ vời Mạn-đồ-la, tự thân là Đại Ngã. Chữ Ra sạch các cấu, an
trụ tòa Du Già. Nghĩ nhớ các Như Lai, chữ A, chấm đại không, đặt đỉnh đầu đệ tử.
Bậc trí truyền hoa đẹp, bảo rải nơi thân mình, nói điều thấy trong thân. Chỗ
hành nhân tôn phụng, chính là đàn tối thượng, nên trao tam-muội-da).
Lại nữa, từ “[ý sanh hương] hoa” trở đi là lời kệ. “Ý sanh” tức là các thứ hương, hoa v.v… [để dâng cúng] đều sanh
từ tâm. “Họa chi ân cần” (Vẽ ân cần) tức là người trì tụng xếp đặt [các thứ ấy] trong
thân tâm giống như vẽ vời tỉ mỉ. Trên tâm Mạn-đồ-la ấy (Mạn-đồ-la được quán tưởng
trong tâm), có Phật ngự trong đó, nên nói là Đại Ngã. Đại Ngã chính là tên gọi
khác của Phật. “Tự tác” tức là
do nội quán tạo ra rành rẽ, phân minh. [Tức là] Bí Mật Mạn-đồ-la do thầy quán
thấy đệ tử thật đúng là pháp khí, tâm đệ tử] chân thành, nguyện cầu [được lãnh
nhận, tu học Mật pháp], nhưng sức chẳng đủ các duyên như trong phần trước để thực
hiện [đàn tràng Mạn-đồ-la] rộng rãi, thầy bèn làm pháp này để độ. Ngoài [trường
hợp này] ra, đều phải nên có đủ các duyên, chẳng được dùng theo kiểu này; nhưng
nếu đệ tử đã đắc Du Già, thầy muốn khiến cho trò nhập Phật hội bí mật, cũng làm
theo kiểu này.
“Chữ Ra tịnh trừ”: Trước đó, đã dùng
chữ A và chữ Ra để tịnh trừ, cũng giống như pháp trong phần trước để tịnh trừ
cho đệ tử. Tức là như trong phần trước, dùng phương tiện quán lửa nơi chữ Ra để
thiêu trừ nghiệp tích tụ chướng ngại pháp của người ấy, khiến cho đều hết sạch.
Lại dùng pháp thủy cam lộ tưới rảy, khiến cho từ tro tàn, sanh ra mầm đạo. Vì
thế, kế đó, thầy trao truyền cho trò chữ Ám (अं). Thầy hãy nên trụ trong tòa Du Già, quán chữ A có
thêm một chấm, đặt trên chỗ giáp mí xương chữ thập nơi đỉnh đầu của đệ tử. Hãy
nên biết: Trên chữ ấy có chấm, tức là pháp thủy cam lộ dùng để rưới đỉnh đầu
người ấy. “Tầm niệm Như Lai” (Liền nghĩ tới Như Lai), tức là do thầy sắp độ đệ tử nhập tạng
bí mật, liền nghĩ tới phương tiện do tam thế chư Phật đã hành, muốn khiến cho
[đệ tử] cùng chứng, cùng hộ trì. Thầy đã tự trụ trong tòa Du Già, dùng thân tâm
của chính mình để làm hải hội của Phật, chỉ riêng mình biết rõ, người khác chẳng
thấy. Kế đó, trao hoa cho đệ tử, dạy đệ tử gieo hoa trên người thầy để cúng dường
vị Phật trong nội tâm, quán bổn duyên, tùy theo bổn duyên của người ấy mà quán
pháp này. Nếu Bổn Tôn nhiếp thọ hoa, ở trong ấy (ở trong nội tâm của thầy), thầy
đều quán thấy chẳng sai, nhưng đệ tử chưa đắc Du Già, chỉ thấy hoa rơi trên
thân thầy. Chỗ hoa rơi xuống, đại lược tim là vị trí của hoa tám cánh, từ rốn đến
tim là kim cang đài, rốn là biển cả. Từ rốn tới chân là tôn vị của các vị Địa
Cư. Điều này có nghĩa là gì? Chính là từ biển đại bi của chư Phật sanh ra kim
cang trí. Từ kim cang trí, sanh ra hết thảy các Phật hội. Trong hết thảy các Mạn-đồ-la,
đấy là tối thượng, không chi sánh bằng!
Tự thấy xong,
thầy bèn hướng đến trò bảo ban, tức là nói chỗ thầy thấy hoa rơi trong tâm.
Kinh văn trong phần trước đã nói người trì tụng quán nội tâm trong nhục thân
chia thành tám phần, tạo thành tám cánh hoa nở xòe, và đặt chữ Ra nơi mắt v.v…
Nếu hành nhân chẳng tu thành tựu như thế, mà có thể thực hiện pháp bí mật này để
độ người, chẳng có lẽ ấy! Phải nên tự thành tựu trước đã, kham trụ trong địa vị
Du Già làm thầy, lại còn được A-xà-lê hứa khả thì mới có thể thực hiện pháp
này. Nay thực hiện pháp này tuy là phương tiện để độ người khác, nhưng nếu lúc
hành giả đối với pháp này mà tự trì tụng, quán chiếu, cũng hãy nên đúng như
pháp mà tu tập. Dùng pháp trong cách quán đảnh này để tự xối rưới, nhằm trừ hết
thảy các chướng, nhanh chóng nhập Phật hội. Phẩm trước có tên là Nhập Bí Mật,
phẩm này cũng nói là Nhập. Đấy là Nhập trong Chứng Nhập, giống như người đã vào
nhà, mỗi thứ [trong nhà] đều phân biệt, biết rõ cặn kẽ, ra vào tự tại, tất cả
các thứ trong nhà đều biết rành, khác hẳn kẻ mới vào cửa!
[1] Thông
thường, anh lạc là các thứ báu, thường là ngọc (có thể gồm nhiều hình dạng khác
nhau), được xâu lại thành chuỗi, kết thành chùm để treo rủ xuống nhằm trang
hoàng. Ý ngài Nhất Hạnh nói ở đây, “anh lạc” phải hiểu là các thứ báu có hình
bán nguyệt ngửa lên, được kết thành chuỗi, treo rủ xuống.
[2] Chữ “kỳ
lạ” trong tiếng Phạn là Aparichitah.
[3] Ở đây, lời sớ trích dẫn chánh kinh hơi khác với bản chánh kinh được tồn lưu hiện thời. Mãn Nô là Thắng Ngã tức là Ngã, nhưng trong chánh kinh, Mãn Nô được dịch thành Nhu Đồng (đứa trẻ) vì Mãn Nô (Mānava) bị chép lầm thành Mānavaka (Nhu Đồng) như trong phần trước, ngài Nhất Hạnh đã biện định. Cũng như chữ “tác giả” (kẻ tạo tác) trong chánh kinh được lời Sớ ghi là “tạo lập giả”.
Comments
Post a Comment