Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
3. Phẩm
thứ ba: Dứt Trừ Chướng
Tức Chướng
Phẩm Đệ Tam
息障品第三
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ hựu phục thỉnh vấn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn,
nhi thuyết kệ ngôn: - Vân hà đạo tràng thời, tịnh trừ chư chướng giả? Tu Chân
Ngôn hành nhân, vô năng vi não hại? Vân hà trì chân ngôn? Vân hà bỉ thành quả?
(經)爾時,金剛手又復請問毘盧遮那世尊,而說偈 言:云何道場時,淨除諸障者?修真言行人,無能為惱 害?云何持真言?云何彼成果?
(Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thưa
hỏi đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, mà nói kệ rằng: - Lúc đạo tràng thế nào, trừ sạch
các chướng ngại? Hành nhân tu Chân Ngôn, sẽ chẳng bị não hại? Trì chân ngôn thế
nào? Thành tựu quả ra sao?)
Lúc đó, ngài Kim Cang Thủ lại bạch hỏi đức Phật Tỳ Lô Giá Na: Khi vẽ Mạn-đồ-la,
[hãy nên] trừ dứt kẻ gây chướng nạn như thế nào để người trì tụng các chân ngôn
chẳng bị não hại? Thế nào là cái quả do trì tụng chân ngôn? Đó là do được Tỳ Lô
Giá Na Như Lai gia trì, ngài Kim Cang Thủ nương vào sức oai thần của Phật, nhằm
đoạn nghi cho đại chúng và chúng sanh trong đời vị lai mà nêu ra các câu hỏi ấy.
(Kinh) Như thị phát vấn dĩ, Đại Nhật Tôn thán ngôn: - Thiện tai Ma Ha
Tát, khoái thuyết như thị ngữ, tùy nhữ tâm sở vấn, kim đương tất khai thị. Chướng
giả tự tâm sanh, tùy thuận tích xan lận. Vị trừ bỉ nhân cố, niệm thử Bồ Đề tâm,
thiện trừ vọng phân biệt, tùng tâm tư sở sanh. Ức niệm Bồ Đề tâm, hành giả ly
chư quá, thường đương ý tư duy, Bất Động Ma Ha Tát, nhi kết bỉ mật ấn.
(經)如是發問已,大日尊歎言:善哉摩訶薩,快說如是語,隨汝心所問,今當悉開示。障者自心生,隨順昔慳悋,為除彼因故,念此菩提心。善除妄分別,從心思所生,憶念菩提心,行者離諸過。常當意思惟,不動摩訶薩,而結彼密印。
(Kinh: Thưa hỏi như thế rồi, đức Đại Nhật khen
rằng: - Lành thay Ma Ha Tát! Vui thích nói như vậy. Thuận theo tâm ông hỏi, nay
sẽ đều khai thị. Chướng sanh từ tự tâm, do xưa kia keo kiệt. Để trừ cái nhân ấy,
nghĩ tâm Bồ Đề này. Khéo trừ vọng phân biệt, sanh từ trong tâm tư. Nghĩ nhớ tâm
Bồ Đề, hành giả lìa các lỗi, thường dốc ý suy tưởng, Bất Động Ma Ha Tát, kết mật
ấn của Ngài).
Đại Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
nói: “Lành thay! Lành thay! Này Đại Chúng Sanh! Ông có thể thốt ra lời ấy nhằm
tạo lợi ích to tát cho các chúng sanh. Ta nay sẽ vì ông khai thị, hết thảy đều
thuận theo lời ông hỏi”. Đức Phật bảo: Chướng sanh từ tự tâm, thuận theo lòng
keo tiếc xưa kia. Để trừ cái nhân ấy, hãy nghĩ nhớ Bồ Đề tâm. Nếu trừ bỏ sự
phân biệt trong tâm tư, nghĩ nhớ Bồ Đề tâm, người trì tụng sẽ lìa các lỗi. Đức
Phật dạy hết thảy các pháp gây chướng tuy vô lượng, nhưng nói tóm lại, “chỉ từ tâm sanh!” Lại do hành giả
trong đời quá khứ đã tùy thuận pháp keo tham, đời này sẽ có nhiều chướng ngại.
Hãy nên biết: Đấy cũng là sanh từ nhân duyên nơi tâm. Hãy nên biết keo tham
v.v… chính là cái nhân của các chướng. Nếu trừ bỏ cái nhân đó, các chướng tự dứt.
Cái để đối trị ở đây chính là Bồ Đề tâm. Nếu nghĩ tới Bồ Đề tâm, sẽ có thể trừ
khử cái nhân của các chướng. Hết thảy các pháp gây chướng lại sanh từ phân biệt.
Sự phân biệt ấy do tâm tư hư vọng mà có; Tư chính là chướng, tức là phiền não,
tùy phiền não v.v… trong tâm. Chữ Có ở đây, nếu nói theo [ý nghĩa trong] tiếng
Phạn thì phải là Sanh. Có tâm tư, mà nếu có thể lìa các phân biệt, sẽ chính là
Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do hành giả ức niệm cái tâm [Bồ Đề thanh tịnh] ấy, sẽ có
thể lìa hết thảy lầm lỗi.
Ý thường tư duy Bất Động Đại
Hữu Tình (Bất Động Ma Ha Tát), sẽ có thể trừ hết thảy các thứ gây chướng. Người
ấy hãy nên kết mật ấn, tức là [ấn của] Bất Động Minh Vương đã nói trước đó. Đấy
là do Như Lai Pháp Thân vận dụng đại nguyện, trong vô tướng mà hiện tướng này,
thủ hộ hết thảy các hành giả Chân Ngôn. Nếu hành giả thường có thể ức niệm, sẽ
có thể lìa hết thảy các chướng. Nói Bất Động chính là cái tâm Bồ Đề chân tịnh.
Do biểu thị ý nghĩa này, bèn do sự mà đặt tên. Vị Minh Vương này nhắm một mắt
là có thâm ý: Do mắt Phật thấy rõ “chỉ
có một mà thôi, chẳng có hai, chẳng có ba”. Ấn ấy sẽ được nói trong phần
sau.
(Kinh) Bí Mật Chủ phục thính, hệ trừ tán loạn phong, A tự vi ngã thể,
tâm trì Ha tự môn. Kiện-đà dĩ đồ địa, nhi tác Đại Không điểm, y ư Phạ Dữu
phương, hạp dĩ Xả Ra Phạm, tư niệm ư bỉ khí, đại tâm Di Lô sơn, thời thời tại kỳ
thượng. A tự Đại Không điểm, tiên Phật sở tuyên thuyết, năng phược ư đại phong.
(經)祕密主復聽,繫除散亂風,阿字為我體,心持訶字門,健陀以塗地,而作大空點,依於嚩庾方,闔以捨囉梵,思念於彼器,大心彌盧山,時時在其上。阿字大空點,先佛所宣說,能縛於大風。
(Kinh: Bí Mật Chủ lại nghe, buộc trừ gió tán loạn,
chữ A là ngã thể. Tâm trì môn chữ Ha. Dùng hương để bôi đất, để vẽ chấm Đại
Không, ở nơi phương Phạ Dữu, đậy bằng Xả Ra Phạm[1].
Nghĩ nhớ món đồ ấy, núi đại tâm Tu Di, luôn luôn ở trên đó. Chữ A, chấm Đại Không,
cổ Phật đã tuyên nói, trói được trận gió lớn).
[Đức Phật nói]: “Bí Mật Chủ! Để
trị nạn gió, nên tụng chữ A”, cũng có nghĩa là: Lấy ngay chữ A làm thân,
dùng tự môn “vốn là Không” ấy để
làm cái thân của ta. Tâm vô ngã tụng niệm chữ Ha. Dùng hương bôi chấm xuống đất
bảy chấm. Trước hết, hãy nên tưởng trong trận gió ấy, có chữ Ha, sau khi thêm bảy
chấm, nó sẽ bị khống chế. Sau đó, ở nơi phương Phạ Dữu (Vāyu: Phương của
thần gió trong Mạn-đồ-la, tức là phương Tây Bắc), dùng cái chén bằng
gốm đè lên. Đại chúng nghĩ tưởng cái chén gốm ấy như núi Tu Di, luôn luôn tưởng
chữ A ở trên đó và điểm thêm chấm, trận gió ấy sẽ bị trói chặt. [Có nghĩa là]:
Theo lời dạy của chư Phật thuở trước, khi tạo lập đàn, nếu có gió lớn gây chướng
ngại, hãy ở nơi đất trống, thực hiện cách này thì gió sẽ dứt. Hãy nên tưởng chữ
A ấy trọn khắp trong thân phần. Chữ ấy có màu Kim Cang bất động, tức là màu
vàng ròng. Tưởng như thế xong, trong tâm tụng chữ Ha (ह) ở phương Phong (phương Tây Bắc),
dùng hương bôi vẽ trên đất bảy chấm tròn nhỏ. Mỗi chấm to bằng chừng một viên
bi. Vẽ như thế xong, dùng đồ gốm đậy lên. Tâm tưởng trên món đồ bằng gốm ấy có
chữ A, coi chữ A ấy như núi kim cang đè xuống. Các núi Tu Di trong tam thiên đại
thiên thế giới kết hợp thành một Thể, đè lên đó. Khi đó, lại luôn tưởng chữ ấy ở
trên món đồ đó. Chữ A ấy có nghĩa là “kim
cang bất động”. Thêm một chấm là trọn hết thảy các chỗ, khiến cho kim
cang bất động ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là có ý nghĩa “tăng rộng hơn”.
(Kinh) Đại Hữu Tình đế thính! Hành giả phòng sử vũ, tư duy Ra tự môn, đại
lực hỏa quang sắc, oai mãnh xí diễm man, phẫn nộ trì Át Già, tùy sở khởi phương
phần, trị địa hưng ấm vân, đoạn dĩ huệ đao ấn. Hôn tế tầm tiêu tán. Hành giả vô
úy tâm, hoặc tác Kỵ La Kiếm, dĩ thị kim cang quyết, nhất thiết đồng kim cang.
(經)大有情諦聽,行者防駛雨,思惟囉字門,大力火光色,威猛熾焰鬘,忿怒持遏伽,隨所起方分,治地興蔭雲,斷以慧刀印,昏蔽尋消散。行者無畏心,或作葪羅劍,以是金剛橛,一切同金剛。
(Kinh:
Đại Hữu Tình lắng nghe! Hành giả phòng mưa giông, tư duy môn chữ Ra, đại lực,
màu lửa sáng. Vòng lửa rực oai mãnh, phẫn nộ cầm Át-già (Khaḍga:
Kiếm hay đao bén). Theo phương hướng chướng khởi, trị
địa, nổi mây che, huệ đao ấn cắt đứt. Tối tăm tiêu tan ngay. Hành giả tâm vô
úy, hoặc làm Kỵ La Kiếm (Kīlakaṃ: cọc kim cang). Dùng cọc kim cang ấy, như hết
thảy Kim Cang).
Cách
để trị chướng ngại do nước gây ra [như sau]: Hãy nên suy tưởng chữ Ra (र) trọn khắp trong thân, có màu đỏ
của ngọn lửa cháy hừng hực, tức là vòng lửa cháy rực từ trong thân túa ra, bao
khắp quanh thân như tràng hoa, làm ra vẻ dữ dằn đáng sợ, sức lực to lớn, tay cầm
đại đao ấn. Hiện hình dáng giận dữ xong, vẽ hình mây xuống đất, hoặc vẽ hình rồng,
rắn. Dùng Đao Ấn để chém đứt hình ấy, mây liền tan diệt. Do mây là cái nhân để
các loại nước nương vào. Tùy theo phương hướng nơi chướng nạn dấy lên mà tác
pháp, như mưa từ phương Đông bèn tác pháp ở phương Đông.
Hoặc làm kim cang quyết (cọc
kim cang) để dứt mưa gió. Cọc ấy dùng gỗ Khư Đà La (Khadira)[2]
làm thành chày kim cang một nhánh. Dùng Kim Cang chân ngôn để gia trì. Tưởng
[chính mình] giống như hết thảy các vị Kim Cang [cầm chày ấy] để đánh. Cũng tùy
theo nơi chốn [khởi chướng để tác pháp]. Pháp này phải nên [quán tưởng tự thân]
giống hệt hết thảy các vị Kim Cang rồi mới thực hiện. Làm cái cọc ấy thành hình
chày kim cang một nhánh, tức là chày ba nhánh loại trừ hai nhánh phụ[3].
Chày nhỏ sẽ gọi là kim cang châm (vajrasuci).
(Kinh) Phục thứ, kim đương thuyết, tức nhất thiết chư chướng. Niệm chân
ngôn đại mãnh, Bất Động đại lực giả, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hành giả hoặc cư trung,
nhi quán bỉ hình tượng, đảnh đới tam-muội túc, bỉ chướng đương tịnh trừ, tức diệt
nhi bất sanh. Hoặc dĩ La Nhĩ Ca, vi diệu cộng hòa hợp. Hành giả tạo hình tượng,
nhi dĩ đồ kỳ thân. Bỉ chư chấp trước giả, do tư đối trị cố. Bỉ chư căn xí
nhiên. Vật sanh nghi hoặc tâm! Nãi chí Thích, Phạm tôn, bất thuận ngã giáo cố,
thượng đương vi sở phần, huống phục dư chúng sanh!
(經)復次,今當說,息一切諸障,念真言大猛,不動大力者,住本漫荼羅,行者或居中,而觀彼形像,頂戴三昧足,彼障當淨除,息滅而不生。或以羅邇迦,微妙共和合,行者造形像,而以塗其身,彼諸執著者,由斯對治故,彼諸根熾然,勿生疑惑心,乃至釋梵尊,不順我教故,尚當為所焚,況復餘眾生。
(Kinh: Lại nữa, nay sẽ nói, dứt hết thảy các
chướng. Niệm chân ngôn đại mãnh, đấng đại lực Bất Động, trụ bổn Mạn-đồ-la. Hoặc
hành giả trong đó, chiêm ngưỡng hình tượng Ngài, đầu đội chân tam-muội, chướng ấy
sẽ trừ sạch, dứt mất chẳng còn sanh. Hoặc dùng La Nhĩ Ca[4],
vi diệu cùng hòa hợp. Hành giả tạo hình tượng, rồi bôi lên thân tượng. Những kẻ
chấp trước kia, do bị đối trị vậy, các căn đều cháy bừng. Đừng sanh tâm nghi hoặc!
Thậm chí Thích, Phạm tôn, chẳng thuận giáo của ta, còn bị đốt cháy rụi, huống hồ
chúng sanh khác).
Để dứt hết thảy các chướng,
lại dạy niệm chân ngôn Đại Ác Bất Động Đại Lực, trụ trong Mạn-đồ-la của Ngài.
Người trì tụng tạo Mạn-đồ-la, trong ấy vẽ hình tượng [của Bất Động Minh Vương],
chân trái của Ngài đạp lên đỉnh đầu của người ấy (người gây chướng ngại). [Làm
như thế] sẽ dứt trừ chướng ngại, chẳng nghi hoặc. Lại nói phương tiện lạ, tức
là phương tiện để trừ hết thảy các chướng, chính là [pháp trừ chướng của] Bất Động
Minh Vương vừa nói trên đây. Mạn-đồ-la của Bất Động Minh Vương chính là Mạn-đồ-la
hình tam giác, màu đen. Người trì tụng tưởng bản thân thành hình tượng Bất Động
Minh Vương. Trong sự tác pháp này, lại có hai ý nghĩa:
- Một là tưởng ngài Bất Động
trong Mạn-đồ-la đạp lên đỉnh đầu kẻ đó (kẻ gây chướng).
- Hai là tưởng thân mình
chính là ngài Bất Động, tức là dùng chân ngôn và ấn của Ngài gia trì rồi đạp
lên [hình tượng của kẻ gây chướng]. Tức là trong hình tam giác, vẽ hình kẻ gây
chướng. Sau đấy mới vào đó, dùng chân trái đạp lên đỉnh đầu của kẻ đó. Dùng
hình tướng Đại Phẫn Nộ để gia trì, kẻ đó sẽ ngay lập tức lui tan. Nếu kẻ đó chống
trái, chẳng vâng lệnh rời đi, thậm chí ắt sẽ tự đoạn mạng căn. Khi đó, người
trì tụng nên sanh tâm Từ, niệm rằng: “Đừng đoạn mạng hắn!” Nhưng mật ý ở đây
là: Cái gọi là kẻ “gây chướng”
chính là các pháp keo tham v.v… nẩy sanh từ trong tâm, có thể gây nên hết thảy
chuyện chướng ngại cho hành nhân. Bất Động Minh Vương ở đây chính là trí Nhất
Thiết Trí đại Bồ Đề tâm. Hãy nên biết cái tâm này chính là đại lực oai mãnh, có
thể vĩnh viễn trừ diệt hết thảy các thứ lướt qua mắt, mũi v.v… khiến cho chúng
vĩnh viễn đoạn trừ. Đó chính là nghĩa Chết.
Như Du Già có nói: Khi đức
Phật mới thành Chánh Giác, nhóm họp to lớn hết thảy các đại chúng trong tam giới
thuộc vào hết thảy Mạn-đồ-la. Có Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Tự Tại
Thiên) là người đứng đầu tam thiên thế giới, trụ trong cõi tam
thiên. Do tâm ông ta kiêu mạn, nên chẳng chịu vâng theo mạng lệnh triệu tập,
nghĩ như thế này: “Ta là chúa tam giới, còn ai tôn quý hơn ta mà triệu vời ta?”
Lại nghĩ như thế này: “Người trì chú sợ hết thảy vật ô uế, nay ta hóa ra hết thảy
vật ô uế vây quanh bốn phía rồi trụ trong đó, chú thuật do kẻ đó thực hiện sẽ
có thể làm gì được?” Khi ấy, Bất Động Minh Vương vâng theo giáo mạng của đức Phật
triệu vời ông ta, thấy ông ta làm như thế, liền hóa ra Thọ Xúc Kim Cang (tức là
Bất Tịnh Kim Cang, Ucchusma, Uế Tích Kim Cang, Ô Sô Sa Ma Kim Cang), sai vị ấy
bắt lấy [Ma Hê Thủ La]. Lúc bấy giờ, Bất Tịnh Kim Cang trong khoảnh khắc đều nuốt
sạch tất cả các ô uế chẳng còn thừa sót, bắt lấy ông ta, đưa đến chỗ Phật. Ông
ta lại nói: “Các ngươi là loài Dạ Xoa, ta là chúa tể chư thiên, há có thể vâng
theo mạng lệnh của bọn ngươi ư?” Lập tức trốn về, bảy lượt như thế. Lúc bấy giờ,
Bất Động Minh Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao hữu tình này phạm pháp
tam-muội-da của tam thế chư Phật, hãy nên dùng chuyện gì để trị?” Đức Phật bảo:
“Lập tức đoạn trừ ông ta”. Khi đó, Bất Động Minh Vương liền nắm lấy Ma Hê Thủ
La, dùng chân trái đạp lên vầng bán nguyệt trên đỉnh đầu hắn, chân phải đạp
trên hình bán nguyệt trên đỉnh đầu vợ hắn. Lúc đó, Đại Tự Tại Thiên ngay lập tức
mạng chung. Lập tức trong khi đang chết ngất, ông ta chứng vô lượng pháp, được
thọ ký sẽ thành Phật trong thế giới Hôi Dục, hiệu là Nguyệt Thắng Như Lai.
Đấy đều là lời bí mật. “Ăn hết thảy các thứ ô uế” chính là
ăn nuốt các pháp cấu uế, cặn bẩn như ác nghiệp phiền não v.v… Nói “mạng chung” tức là hết thảy tâm pháp
(các tâm sở) vĩnh viễn đoạn trừ, nhập Vô Sanh pháp tánh. Vì thế, từ đó được hết
thảy chư Phật thọ ký, chẳng phải là bị giết chết. Lúc bấy giờ, các chư thiên thấy
chúa cõi trời trong tam thiên thế giới do chẳng thuận theo tam-muội-da mà tự bị
mạng chung, hết thảy kính sợ, tự bảo nhau rằng: “Chúa trời còn như thế, sao ta
chẳng đến [chỗ Phật]?” Liền cùng nhau đến chỗ đức Phật, đạt được pháp lợi trong
Đại Mạn-đồ-la. Khi ấy, Bất Động Minh Vương bạch cùng đức Phật rằng: “Đại Tự
Thiên này nên làm như thế nào?” Đức Phật bảo: “Ông hãy nên khiến cho hắn sống lại”.
Bất Động Minh Vương liền nói Pháp Giới Sanh chân ngôn. Lúc bấy giờ, Đại Tự Tại
liền tỉnh lại, sanh lòng đại hoan hỷ, bạch rằng: “Rất hy hữu! Thoạt đầu con bị
triệu tới, hỏi Phật: ‘Gã Dạ Xoa này thuộc loài nào?’ Con chẳng hiểu. Đức Phật bảo:
‘Là chúa của chư Phật’. Con nghĩ thế này: ‘Chư Phật tôn quý nhất trong hết thảy,
sao lại coi gã này là chúa vậy kìa?’ Đấy là con chẳng hiểu, nay mới biết. Do sức
của vị đại vương này, khiến cho con hiện tiền được thọ ký thành Phật. Hãy nên
biết Ngài thật sự là tôn quý trong chư Phật’. Vì lẽ nào vậy? Đại Tự Tại Thiên
là chúa tể của tam thiên thế giới, chính là tự tâm của chúng sanh, được gọi là “vô thỉ vô minh trụ địa”, được tự tại
trong các Hoặc. Chỉ trừ đại Bồ Đề tâm ra, không ai có thể khuất phục. “Đoạn mạng rồi” tức tác chứng trong tịch
nhiên giới. Nói “sanh” tức là
khởi huệ môn của Phật. Vì thế, hành giả Chân Ngôn phải nên tư duy mỗi lời mật
ngữ của chư Phật!
Lại có pháp là dùng hai thứ
hạt cải và các thứ độc dược trộn chung. Tạo hình tượng của kẻ gây chướng, dùng
[hạt cải và thuốc độc] bôi lên, khiến cho thân kẻ đó như bị lửa thiêu, mau
chóng bị thương. Vì thế nói là “mau bị”.
[Kinh nói] đại lược đến chỗ “Đại Phạm
v.v… gây chướng còn bị [chế phục], huống hồ những kẻ khác ư?” Pháp này lại
còn do trì tụng đã lâu mà được thành tựu, người hiểu pháp tắc rồi mới có thể thực
hiện. Nếu chỉ nghe pháp rồi lập tức mong đạt được tác dụng như thế, chẳng có lẽ
ấy! Đối với cọc bằng gỗ Khư Đà ở đây, nếu không có loại gỗ ấy, dùng gỗ khổ luyện[5],
cho đến dùng tân thiết[6]
cũng được. “Chân” [trong câu “chân trái đạp lên đỉnh đầu”] chính
là “trí túc” (chân trí huệ).
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Như ngã giải
Phật sở thuyết nghĩa, ngã diệc như thị tri chư thánh tôn trụ bổn Mạn-đồ-la vị,
linh hữu oai thần. Do bỉ như thị trụ cố, Như Lai giáo sắc vô năng ẩn tế. Hà dĩ
cố? Thế Tôn tức nhất thiết chư chân ngôn tam-muội-da, sở vị trụ ư tự chủng tánh
cố. Thị cố, Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, diệc đương trụ ư bổn vị,
tác chư sự nghiệp.
(經)爾時,金剛手白佛言:世尊!如我解佛所說義,我亦如是知諸聖尊住本漫荼羅位令有威神,由彼如是住故。如來教勅無能隱蔽。何以故?世尊即一切諸真言三昧耶,所謂住於自種性故。是故真言門修菩薩行諸菩薩,亦當住於本位作諸事業。
(Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: - Bạch Thế
Tôn! Như con hiểu nghĩa do đức Phật nói, con cũng biết như thế này: Các vị tôn
thánh trụ nơi tọa vị trong Mạn-đồ-la của họ, khiến cho có oai thần như thế. Do
họ trụ như thế, giáo sắc của Như Lai chẳng thể ẩn tàng. Vì cớ sao? Đức Thế Tôn
chính là hết thảy các chân ngôn tam-muội-da, tức là trụ trong chủng tánh của
chính mình. Vì thế, các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn cũng nên trụ
nơi bổn vị, thực hiện các sự nghiệp).
Ngài Kim Cang Thủ bạch cùng
đức Phật rằng: “Vị Đại Lực Bất Động
Minh Vương (tức là tôn chủ) này có thể làm chuyện oai mãnh như thế, có thể điều
phục, có thể truyền giáo lệnh bí mật của Như Lai, khiến cho [giáo lệnh ấy được]
thực hiện”. Nếu như Bổn Tôn là Phật Bộ, tức là [vị Bổn Tôn ấy sẽ] ngồi
trên kim luân. Nếu làm như thế, ắt sẽ có linh nghiệm. Sự “hiển hiện oai thần” ở đây chính là
nói về sự hiệu nghiệm. “Khiến cho làm”
tức là nói “nếu nay làm như thế, ắt sẽ có công hiệu”. Ở trong các đường sanh tử,
[chân ngôn này] được nghe biết trọn khắp, không ai dám ẩn giấu chân ngôn này.
Vì thế, Trì Kim Cang là bậc đại lực oai mãnh, chẳng dám ẩn giấu, tức là do vị
tôn thánh này có linh nghiệm, thực hiện các thiện sự đều thành tựu, các kẻ gây
chướng sẽ chẳng dám ẩn giấu giáo sắc của Như Lai. “Chuyện đáng nên làm” thì cũng chính là tam-muội-da của mười
phương ba đời chư Phật. Hết thảy các Chấp Kim Cang chúng con cũng phải nên thực
hiện chuyện đáng nên làm, thuận theo tam-muội này, chẳng dám bỏ lỡ. Vì lẽ nào vậy?
Đấy chính là tánh của các Kim
Cang; vì thế, phải thường trụ trong pháp ấy.
Mỗi tánh trong tứ tánh (bốn
chủng tánh trong xã hội Cổ Ấn Độ) đều có gia pháp; nếu đánh mất gia pháp, sẽ chẳng
thể gọi là “kính thuận lời dạy của cha ông”, người đời sẽ gọi kẻ đó là “đứa con
xấu ác”. Nay đấng đại hùng mãnh, điều phục kẻ khó điều phục, tuyên bố giáo pháp
khó tin; đấy chính là gia pháp của chủng tánh Kim Cang chúng con. Đó chính là
gia pháp thuộc chủng tánh Như Lai. [Nhắc tới] các vị Bồ Tát trong Chân Ngôn
môn, các vị Bồ Tát tu hành ấy trụ trong bổn vị để làm hết thảy các sự; đó chính
là ý nghĩa ngài Kim Cang Thủ dùng bản thân để khuyên lơn, khích lệ các hành
nhân: Đối với chuyện mà chúng tôi đáng nên làm, nếu quý vị là người tu hành trì
chân ngôn, thì cũng nên trụ trong ấy; đó chính là gia pháp của Như Lai. Đáng
nên dùng vô lượng môn để hàng phục các chướng, khiến cho [những kẻ gây chướng
ngại] chẳng dám ẩn giấu pháp của Như Lai. Các hành nhân ấy cũng nên phỏng theo
chư tôn, nếu muốn làm pháp hàng phục, cần phải tưởng tự thân là ngài Bất Động,
trụ trong hỏa luân v.v… Đức Phật nói: “Như
thị Bí Mật Chủ! Như thị như thuyết” (Đúng như thế, Bí Mật Chủ! Đúng như
lời ông đã nói) chính là lời ấn khả: “Quả đúng như những điều ông đã nói!”
(Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược thuyết chư sắc, bỉ chư thánh tôn Mạn-đồ-la vị,
chư tôn hình tướng, đương tri diệc nhĩ, thị tắc tiên Phật sở thuyết.
(經)祕密主!若說諸色彼諸聖尊漫荼羅位、諸尊形相,當知亦爾,是則先佛所說。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu nói về các màu [nơi thân
tướng của chư vị tôn thánh, tùy theo từng màu mà mỗi vị sẽ ngồi trên các luân
khác nhau], đối với vị trí của các vị tôn thánh trong Mạn-đồ-la, và hình tướng
của chư tôn, cũng nên biết [họ sẽ ngồi trên luân hay đàn khác nhau] như thế. Đó
là lời dạy của cổ Phật).
Mỗi vị Bổn Tôn đều có hình
sắc riêng, trong phần sau sẽ nói. Như trong phần trên đã nói, [mỗi vị tôn
thánh] đều tùy theo vị trí của chính mình [trong Thai Tạng Mạn-đồ-la] mà thực
hiện sự nghiệp, nay lại nói đến màu sắc. Tức là đối với tất cả các vị tôn thánh
trong hội, nếu thấy có màu vàng, [vị ấy] sẽ đáng nên ngồi trên kim luân, màu trắng
thì ngồi trên thủy luân, màu đỏ như lửa thì ngồi trên hắc phong luân. Kế đó, từng
chữ Phạm âm (chủng tử tự của từng vị tôn thánh) có màu sắc khác biệt; đó là “hình tướng” [được nói trong chánh
kinh]. Như thấy [một vị tôn thánh có] dáng vẻ tịch nhiên, cần phải [vẽ vị tôn
thánh ấy] ngồi trên đàn tròn v.v… Tùy theo từng loại mà nói như thế. Hãy nên mỗi
mỗi vâng theo lời dạy mà vẽ. Đó là lời dạy của cổ Phật, đạo u huyền tương đồng,
chẳng riêng do ta (Thích Ca Mâu Ni Phật) cố ý nói. [Đức Phật khẳng định như thế]
vì muốn cho chúng sanh dấy lên lòng tin quyết định.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Ư vị lai thế, liệt huệ, vô tín
chúng sanh, văn như thị thuyết, bất năng tín thọ, dĩ vô huệ cố, nhi tăng nghi
hoặc, bỉ duy như văn kiên trụ, nhi bất tu hành, tự tổn, tổn tha, tác như thị
ngôn: “Bỉ chư ngoại đạo hữu như thị pháp, phi Phật sở thuyết”. Bỉ vô trí nhân đương
tác như thị tín giải.
(經)祕密主!於未來世劣慧無信眾生,聞如是說,不能信受,以無慧故而增疑惑。彼唯如聞堅住而不修行,自損損他作如是言:彼諸外道有如是法,非佛所說。彼無智人當作如是信解。
(Kinh: Này Bí Mật Chủ! Trong đời vị lai, chúng
sanh huệ kém, chẳng tin. Do không có trí huệ, tăng thêm nghi hoặc. Bọn họ chỉ
bám chắc vào các điều đã được nghe, chẳng tu hành, tự tổn, tổn hại người khác,
nói như thế này: “Lũ ngoại đạo đó có pháp như thế, chẳng phải là do đức Phật
nói”. Kẻ vô trí ấy sẽ tin hiểu như thế).
Kẻ không có trí huệ, tăng thêm
nghi hoặc, do các chúng sanh ấy căn độn, ít trí, lòng tin chẳng đủ, cho nên
nghe chuyện rất sâu này, sẽ chẳng thể hiểu rõ, càng tăng thêm lưới nghi. Đấy
chính là nguyên do gây chướng. Vẽ [các hình tượng Bổn Tôn và chủng tử của] chân
ngôn, trì tụng v.v… mỗi mỗi đều có thâm ý, đều là chuyện chẳng thể nghĩ bàn của
Như Lai. Như người có được món thuốc như thế, liền có thể bay lên không trung,
hoặc vào trong lửa v.v… Điều ấy chỉ do các duyên hòa hợp, cho nên chắc chắn chẳng
hư dối, chẳng phải hư huyễn, chẳng phải là điều để mọi người suy lường mà hòng
nêu ra nguyên do được! Vẽ các màu sắc như thế ấy, nếu vâng theo pháp chẳng
nghi, sẽ có thể thâm nhập cảnh pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Điều này chỉ có
người tin mới được vào, nếu muốn dùng tâm số (các tâm sở, các vọng niệm phân biệt)
để suy đoán, dò lường, sao có thể biết nguyên do để rồi chẳng nghi ư? Như người
đời do sức thuốc mà bay lên không trung, chuyện ấy các vị còn chưa thể hiểu trọn
vẹn được! Thế mà do cái tâm ngu độn, khinh miệt, hủy báng [pháp thâm mật này],
bảo chẳng phải là pháp chân không vô tướng của Như Lai, chỉ tự tổn hại: “Chỉ chấp chặt vào những gì đã nghe biết, chẳng
tu, kẻ đó tự tổn hại, tổn hại người khác, [cho là] nói như thế thì chính là
pháp của ngoại đạo v.v… Pháp như thế chẳng phải do đức Phật nói”. Người ấy
tuy nghe pháp này, chẳng thể có tín tâm quyết định, tu hành đúng như pháp để cầu
sự hiệu nghiệm trong hiện tại. Do chẳng thể, bèn sanh lòng báng bổ rằng: “Sao lại do pháp chấp tướng như thế mà có thể
thành Bồ Đề được ư? Đấy ắt là do bọn ngoại đạo nói, chẳng phải là Phật pháp”.
Như người có được cam lộ cõi trời, chỉ cần quyết tâm sanh lòng tin mà uống vào,
sẽ tự thấy hiệu nghiệm trong hiện thời. Miệng chẳng uống vào mà cầu bay lên
không trung giữa ban ngày, do chẳng được thành tiên, bèn báng bổ thuốc ấy. Hãy
nên biết kẻ đó chẳng phải là người có trí. Do vậy, kẻ vô trí tin hiểu [sai lầm]
như thế đó.
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, chư pháp đắc tự tại, như
kỳ sở thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Thị chư tiên Phật thuyết, lợi ích cầu
pháp giả. Bỉ ngu phu bất tri, chư Phật chi pháp tướng. Ngã thuyết nhất thiết
pháp, sở hữu tướng giai Không, thường đương trụ Chân Ngôn, thiện quyết định tác
nghiệp.
(經)爾時,世尊而說偈言:一切智世尊,諸法得自在,如其所通達,方便度眾生。是諸先佛說,利益求法者,彼愚夫不知,諸佛之法相。我說一切法,所有相皆空,常當住真言,善決定作業。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Nhất Thiết Trí Thế Tôn, tự tại trong
các pháp, như Ngài đã thông đạt, phương tiện độ chúng sanh. Đấy do cổ Phật nói,
lợi ích người cầu pháp. Kẻ ngu phu chẳng biết, pháp tướng của chư Phật. Ta nói
hết thảy pháp, tất cả tướng đều Không. Thường nên trụ Chân Ngôn, khéo quyết định
tác nghiệp).
Phật là bậc Nhất Thiết Trí,
trong hết thảy các pháp đã được tự tại, lợi lạc chúng sanh. Chữ “dĩ” (đã) ở đây cũng có thể hiểu là “thông đạt”; đó là ý nghĩa chánh yếu,
tức là ý nghĩa “trọn đủ phương tiện,
không gì chẳng hiểu”. Do trước câu này, [chánh kinh] đã nói “nhất thiết”, [phải nên áp dụng ý
nghĩa ấy vào đây], do tiếng Phạn có cách nói chiếu ứng ấy. Trong phần kinh văn
trước đó đã nói đến chư Phật, nay từ câu này trở đi mới nói “tiên Phật tác như thị thuyết” (cổ Phật
đã nói như thế). Hết thảy các điều được nói giữa đôi đằng đều nhằm nói về chuyện
lợi ích người cầu pháp. Do kẻ ngu phu chẳng biết “chư pháp tướng Không”, đó là nói về tướng của hết thảy các
pháp. “Thường đương trụ Chân Ngôn, thiện
quyết định tác nghiệp” (Thường nên trụ Chân Ngôn, khéo tạo
tác các sự nghiệp, tức tu hành Mật pháp): Ý nói Như Lai trọn đủ Nhất Thiết Trí,
được tự tại trong các pháp. Do chúng sanh trí huệ kém cỏi, Phật chưa thể kham
nói ngay về lực dụng chẳng thể nghĩ bàn nơi tự thể của Như Lai, bèn chỉ bày các
phương tiện như vẽ vời, màu sắc v.v… khiến cho chúng sanh làm theo, sẽ có thể
thỏa mãn sở cầu, đạt được lợi ích. Vì lẽ nào vậy? Do các chúng sanh chẳng hiểu
tướng Không của các pháp. Do vậy, trong vô tướng, [đức Phật] bèn nói phương tiện
hữu tướng. Nếu ai thấu hiểu thâm ý của Phật, sẽ trụ trong hạnh “chân thường trụ”, các việc đã làm đều
nhập Lý Thể giống như tâm trí Nhất Thiết Trí. Người chẳng có mối lo ngờ như thế,
hết thảy các chướng pháp sẽ chẳng thể thừa dịp [gây rối] được!
[1] Xả Ra Phạm
(Śarāvaṃ): Chén hay đồ đựng bằng đất nung.
[2] Theo từ
điển Phật Quang Sơn, chữ này còn được phiên âm là Khư Đà Ra, Khư Đạt La, Kiếp
Đà La, Kiếp Địa La, Kiếp Đạt La, Kha Địa La, Kiếp Địa Lạc Ca, Khư Đề La Ca, Kha
Lê La, Khả Lê La v.v… Nhưng vẫn không giảng rõ là loại gỗ gì, chỉ nói loại gỗ
này thường dùng để làm cọc kim cang trong đàn hộ-ma.
[3] Thông
thường chày kim cang sẽ có hai đầu. Phần giữa là một khối tròn, có hình hoa sen
ở hai đầu. Hai đầu là hai trục nhọn. Bao quanh trục chính là bốn nhánh phụ có
hình bán nguyệt hội tụ vào trục chính (đây là chày kim cang năm nhánh) hoặc chỉ
có hai nhánh bán nguyệt châu đầu vào trục chính (chày kim cang ba nhánh). Khi
không có nhánh phụ nào chỉ có trục chính ở hai đầu thì gọi là chày kim cang một
nhánh (loại chày này còn gọi là Kim Cang Châm).
[4] La Nhĩ
Ca (Rājīkā) là hạt cải trắng.
[5] Khổ Luyện
là một loại cây có tên tiếng Anh là China Berry, Persian Lilac, hay Bead Tree,
ta thường gọi là xoan, sầu đông, sầu đâu, thầu đâu v.v… (tuy xoan nhà và sầu
đâu là hai loài cây khác nhau). Tên khoa học là Melia Azedarach Linn. Đây là một
loại cây có thân gỗ, có thể cao tới 15m. Vỏ cây có màu nâu xám, lá có hình trái
xoan, chót lá nhọn. Hoa sáu cánh thon dài, tím nhạt pha sắc trắng rất đẹp, mọc
thành chùm. Đây là một loại cây có chất độc.
[6] Tân Thiết
(賓鐵) là loại thép tinh luyện hết sức cứng rắn,
là sản phẩm từ Ba Tư, Kế Tân, Ấn Độ v.v… được đưa vào Trung Hoa dưới thời Nam Bắc
Triều.
Comments
Post a Comment