Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
7. Phẩm
thứ bảy: Thành Tựu Tất Địa
Thành Tựu
Tất Địa Phẩm Đệ Thất
成就悉地品第七
(Kinh) Thời, Cát Tường Kim Cang, kỳ đặc khai phu nhãn, thủ chuyển
Kim Cang ấn, lưu tán như hỏa quang. Kỳ minh phổ biến chiếu, nhất thiết chư Phật
sát, vi diệu âm xưng thán: - Pháp tự tại Mâu Ni, thuyết chư chân ngôn hạnh. Bỉ
hạnh bất khả đắc, chân ngôn tùng hà lai? Sở khứ chí hà sở? Chư Phật thuyết như
thị, cánh vô quá thượng cú, nhất thiết pháp quy thú, như chúng lưu phó hải.
(經)時,吉祥金剛,奇特開敷眼,手轉金剛印,流散如火光,其明普遍照,一切諸佛剎,微妙音稱歎:法自在牟尼,說諸真言行。彼行不可得,真言從何來?所去至何所?諸佛說如是,更無過上句,一切法歸趣,如眾流赴 海。
(Kinh: Khi ấy, Cát Tường Kim Cang, mở mắt kỳ đặc,
tay chuyển ấn Kim Cang, túa ra như ánh lửa, ánh sáng chiếu trọn khắp hết thảy
các cõi Phật, dùng âm thanh vi diệu để ca ngợi: - Pháp tự tại Mâu Ni, nói các hạnh
chân ngôn. Hạnh ấy chẳng thể được! Chân ngôn từ đâu tới? Sẽ đi về chỗ nào? Chư
Phật nói như thế, câu không chi hơn được. Hết thảy pháp quy vào, như các dòng
vào biển).
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang
mở bừng mắt cát tường hiếm có, kim cang ví như bí mật huệ của Như Lai. Kim cang
là thứ chẳng có gì có thể phá hoại được, nhưng nó có thể phá hoại muôn vật. Trí
huệ này cũng như thế, chẳng bị hết thảy phá hoại, nhưng nó có thể phá tan tất cả
những gì khó thể phá hoại, tức là nói tới căn bản của Tam Độc vậy. Lại nữa, thân
của vị Bồ Tát này chính là cái Thể kim cang, mà mười phương hết thảy chư Phật cùng
đem kim cang trí ấn của Như Lai trao vào tay vị Bồ Tát này. Do vậy, Ngài có tên
là Trì Kim Cang. Cát Tường là [từ ngữ dùng để] tán thán công đức của Kim Cang
Thủ Bồ Tát. Các thiện công đức trọn đủ, chẳng khuyết, chính là ý nghĩa “cát tường”. Khi đó, Bồ Tát nghe pháp
rất sâu hy hữu, lạ lùng, đặc biệt của chư Phật như đã nói trên, phát tâm hy hữu,
mắt Ngài mở bừng, phát tâm hy hữu, nhất tâm quán Phật chẳng tạm xả, bèn phát khởi
Tứ Hoằng.
Lại nữa, như hoa sen trong
thế gian dần dần tăng trưởng; nếu chẳng được quang minh của mặt trời, mặt trăng
và thời tiết v.v… [giúp đỡ], sẽ chẳng thể tươi tốt. Bồ Tát cũng thế, tuy có tạng
công đức Thật Tướng của Như Lai nơi Bồ Đề tâm bí mật, nhưng nếu chẳng được mặt
trời đại huệ bình đẳng chói chang của chư Phật [chiếu soi], sẽ chẳng thể mở
toang. Nay vị Bồ Tát này do khéo đạt được tri kiến chân thật nơi đài Diệu Pháp
Liên Hoa, lại thưa hỏi đức Phật, muốn hoằng dương, truyền rộng pháp tâm địa này
để độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ cũng đều được mở mang như thế. Lại còn
như trong phần trên đã nói, tức là kim cang tánh của Như Lai nơi môn chữ A,
nhưng công đức tạng trọn đủ chẳng khuyết, là môn diệu lý thường trụ. “Chuyển chày kim cang” (tức là như
chánh kinh nói “thủ chuyển kim cang ấn”,
“kim cang ấn” chính là chày kim
cang) có ý chỉ vi tế, tức là “muốn
chuyển vô ngại mật huệ ấy vào trong tâm của hết thảy chúng sanh”. Vì lẽ
nào vậy? Tự chứng pháp tịch diệt như thế, vi diệu thanh tịnh, chẳng còn chi hơn
được, nhưng chúng sanh chẳng tự hay biết. Do nhân duyên ấy, tuy ở trong tạng
báu bí mật của vô lượng chư Phật, mà [oan uổng] hứng chịu vô lượng hoảng sợ, khổ
não. Do bởi chuyện này, [ngài Kim Cang Thủ] sanh tâm đại bi, muốn chuyển trí ấy,
khiến cho hết thảy [chúng sanh chưa giác ngộ] đều được mở bừng tâm mục.
“Hỏa quang vi phát” (Ánh lửa vi tế phát ra): Lửa là sánh
ví Bát Nhã Ba La Mật, bốn phía chẳng thể chạm, do chẳng thể chấp trước! Lại còn
là thể tánh vô cấu, có thể đốt hết thảy cấu nhơ phiền não hư vọng như lửa đốt
lúc kiếp mạt, chẳng còn sót thừa gì! “Biến
chiếu Phật sát” (Chiếu trọn khắp các cõi Phật): Dùng huệ quang ấy để chiếu khắp hết thảy những
ai hữu duyên đáng độ trong vô lượng pháp giới, không đâu chẳng hiện khắp trước
mặt kẻ đó, dùng thân mà kẻ đó thích thấy để xứng cơ thuyết pháp, khiến cho kẻ
đó đều được nhập môn chữ A như thế. Nói “các
cõi Phật”, tức chẳng còn bỏ sót thế giới nào (Tôi cho rằng “thế giới” chính là cõi tịnh tâm, là
quốc độ kim cang thường hằng, chẳng bị hủy hoại).
“Phát mỹ diệu âm tán pháp tự tại Mâu Ni” (Phát ra âm thanh đẹp đẽ để ca ngợi đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp) tức
là phát ra âm thanh vi diệu để thưa hỏi Như Lai. “Chư pháp tự tại” (Tự tại trong các pháp) là như bậc
trưởng giả trong thế gian trọn đủ của cải, chẳng bị thiếu hụt gì, có thể thuận
theo lòng muốn mà đều được thực hiện thành tựu. Như Lai cũng giống như thế, là
vua của các pháp, hết thảy các pháp tài không gì chẳng trọn đủ, cho nên có thể
thực hiện đại sự chẳng thể nghĩ bàn, hết thảy đều thực hiện. Mâu Ni có nghĩa là
“vắng lặng”. Cõi thường tịch
tĩnh lặng vi diệu, sâu thẳm vời vợi, chẳng thể diễn tả được. Pháp giới tĩnh lặng,
pháp đại diệt độ như thế, chỉ có mình đức Phật rốt ráo thanh tịnh; vì thế gọi
Ngài là Mâu Ni.
Nói theo các hạnh Chân
Ngôn, hạnh ấy chẳng thể được, tức là hạnh Chân Ngôn ba nghiệp bình đẳng, ví như
do hạnh ấy của Như Lai mà được thành tựu đại quả báo vô thượng. Đức Phật đã vì
chúng ta nói các hạnh nguyện ấy. Ý của lời hỏi là: Đức Phật nói chân ngôn và hạnh
ấy có thể hoàn thành hết thảy các sự công đức rộng lớn rất sâu của Như Lai. Nói
tóm lại, vô lượng vô biên các pháp chưa từng có đều được thành tựu. Nhưng hết
thảy các pháp, không gì chẳng nhập vào môn chữ A. Nếu nhập vào chữ A, tức “tâm vốn sẵn là không” vì các pháp vốn
bất sanh. Nếu các pháp vốn bất sanh, tức là chân ngôn còn chẳng thể được, huống
hồ là các hạnh phát khởi từ đó ư? Đấy chính là vô sanh, vô khởi, chẳng có pháp
nào để có thể đạt được, mà trọn đủ hết thảy công đức. Đó chính là cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn của Phật, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, Phật Phật tự chứng.
Nếu ai nghe, chứng thấy, sẽ có thể dùng vô lượng phương tiện để chỉ dạy, giác
ngộ chúng sanh. Nếu tâm chẳng tự chứng, sẽ chẳng có cách nào trù tính, suy lường
chuyện như thế để nói cho người khác được, sao có thể tu hành chuyện bất sanh bất
diệt chẳng nghĩ bàn như thế được ư?
Lại nữa, chuyện này từ đâu
mà đến? Sẽ đi về đâu? [Tức là] có ý hỏi: Chỗ phát khởi và tiến nhập của hạnh vô
sanh là như thế nào? Vì sao vậy? Nếu là pháp sanh diệt, sẽ có thể nói đến tướng
thành tựu và phá hoại. Nay pháp tắc này chẳng có các tướng như thế, cớ sao được
thành tựu? Nghĩa này cũng rất sâu. Bản thể tịch tịnh của chân ngôn được phát khởi,
vận dụng như thế nào, nguyện Phật tuyên nói cho con. “Hết thảy vì con mà nói” có nghĩa là xin [đức Phật] hãy vì tất cả
chúng con mà diễn nói, tức là nói pháp hy hữu vô thượng này. Pháp tánh rất sâu
như thế, ví như biển cả, là chỗ muôn dòng nước đổ vào. Vạn pháp quy hướng, thuận
nhập Đại Bát Niết Bàn. Đấy chính là ý nghĩa của “phát hành”. Như biển cả trong thế gian, [các dòng chảy có] đủ
loại sắc vị, hễ vào trong biển cả, sẽ đều có cùng một sắc, một vị, chẳng có sai
biệt, chẳng thể biến đổi. Biển cả Như Lai cũng giống như thế, hết thảy vạn
pháp, vạn hạnh vào trong ấy, đều cùng là một vị giải thoát chẳng thể nghĩ bàn,
chẳng phân biệt (nói như thế xong)!
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: -
Ma Ha Tát ý xứ, thuyết danh Mạn-đồ-la. Chư chân ngôn tâm vị, liễu tri đắc thành
quả. Chư hữu sở phân biệt, tất giai tùng ý sanh, phân biện bạch, hoàng, xích.
Thị đẳng tùng tâm khởi, quyết định tâm hoan hỷ, thuyết danh nội tâm xứ. Chân
ngôn trụ tư vị, năng thọ quảng đại quả.
(經)如是說已,世尊告執金剛祕密主言:摩訶薩意處,說名漫荼羅,諸真言心位,了知得成果。諸有所分別,悉皆從意生,分辯白黃赤,是等從心起。決定心歡喜,說名內心處,真言住斯位,能授廣大果。
(Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
rằng: - Ma Ha Tát ý xứ, gọi là Mạn-đồ-la. Tâm vị các chân ngôn, biết rõ, quả sẽ
thành. Hễ có các phân biệt, thảy đều từ ý sanh, biện định trắng, vàng, đỏ.
Chúng đều từ tâm khởi, tâm quyết định hoan hỷ,
gọi là nội tâm xứ. Chân ngôn trụ vị ấy, trao truyền quả
rộng lớn).
Kế đó, đức Như Lai đáp rằng:
“Ma Ha Tát ý xứ, gọi là Mạn-đồ-la”.
Tâm xứ (心處) còn có thể gọi là “tâm vị” (心位), tức là nói
tới chỗ tự tâm của chúng sanh, chính là Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la
của hết thảy chư Phật. Vì lẽ nào vậy? Hết thảy chúng sanh chính là hoa đài tạng,
nhưng do bốn loại phiền não mà thường tự sanh, tự bị chúng nó che lấp, chẳng thể
hiểu rõ để tự nhận biết. Nếu có thể tự biết tâm xứ, biết cái tâm này tự tánh
thường tịnh. Chỗ thanh tịnh vô cấu như thế chính là địa vị Thật Tướng đại viên
mãn của chư Phật. Do vậy, lời giải đáp của đức Phật có ý nói: “Nếu muốn biết hạnh và quả Chân Ngôn, hãy
nên cầu nơi tâm xứ”. “Đều nói
như thế” tức là mười phương ba đời chư Phật cũng đều nói như thế, một đạo
chẳng khác, chẳng phải riêng mình ta nói như vậy! Nói “đối với các tâm xứ của chân ngôn, người nhận biết sẽ lãnh thọ cái quả”
thì “quả” là cái quả Vô
Thượng Bồ Đề của chư Phật, “thọ”
(nhận lãnh) tức là “chứng đắc”.
Ý Phật nói: “Nếu có thể nhập môn chữ A
này, sẽ có thể biết tâm xứ”. Nếu biết “xứ” ấy, tức là đạt được cái quả Chân Ngôn. Ý Phật lại nói: Các
pháp trọn do tâm mà có. Như người mắt thấy sắc, khi mắt [vừa mới] tiếp xúc sắc,
chẳng thể biết rõ [sắc đó là] xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Kế đó, nhãn thức liền
sanh khởi, chẳng phán định, suy tưởng đây là xanh hay vàng ư? Kế đó, ý thức bèn
phân biệt, phân tích, bảo đây là các thứ tướng xanh, vàng, đỏ, trắng. Hãy nên
biết chỉ do tâm phân biệt mà có. Kế đó, tâm quyết định hoan hỷ là nội tâm xứ
(cái tâm này tiếng Phạn là Chỉ Đa (Citta), tức là Lự Tri Tâm. Lại còn gọi là
Hãn Lật Thái (Hridaya), tức là Xứ Trung Tâm). Như Nhị Thừa nhập đạo, cũng trước
hết cũng cần phải đạt được cái tâm quyết định. Cái tâm quyết định ấy chính là
tam-muội. Do đạt được tâm quyết định, có lòng vui sướng, tức là sự vui sướng do
nội tâm tự chứng hiện pháp. Do có Định, liền sanh tri kiến chân thật; nhưng ba
thừa, mỗi thừa đều có Định, tuy sâu hay cạn khác nhau.
Nay ở đây, [chánh kinh] có
ý nói: Nếu có thể chứng cái tâm trong tâm xứ ấy (tức Hãn Lật Thái) chính là đại
quyết định tâm của Như Lai (tức tam-muội); do có môn Định ấy, được nhập môn chữ
A. Do nhập môn chữ A, liền có thể biết rõ hạnh và quả Chân Ngôn. Nếu biết rõ hạnh
và quả ấy, chính là được truyền trao vô thượng đại quả. Ý của đức Phật là: Do
tâm trụ trong Định, đạt được cái Thấy như thật Nhất Thừa rốt ráo, liền có thể tự
biết chuyện ấy. Nếu không, dẫu nghe mà vô ích. Vì vậy, tiếp đó, nói thẳng vào
sơ môn để tu tập Định. Như trước đó, ngài Chấp Kim Cang đã hỏi: “Cái tâm Chân Ngôn này từ đâu mà đến, sẽ đi
về đâu? Thế nào là đắc quả?” Nay đức Phật trả lời: - Chân ngôn phát ra từ
tự tâm, cho đến muốn biết hạnh và quả báo Chân Ngôn, cũng đều từ tâm mà hiện.
Vượt ra ngoài cái tâm, sẽ chẳng có pháp nào khác. Vì lẽ nào vậy? Mạn-đồ-la này
được gọi là “tịnh”, do tự tâm của hết thảy chúng sanh vốn sẵn thanh tịnh, chỉ
vì bị vô minh che lấp, nên chẳng thể biết rõ. Nếu tịnh cái tâm này, nó sẽ chính
là chỗ của Mạn-đồ-la, chẳng từ nơi nào khác mà đến. Hạnh và quả báo cũng đều giống
như thế. Do hết thảy vạn pháp, cho đến hình sắc, hiển sắc v.v… vạn loại sai biệt,
không gì chẳng từ tâm phân biệt mà có.
(Kinh) Niệm bỉ liên hoa xứ, bát diệp tu nhụy phu, hoa đài A tự môn, diễm
man giai diệu hảo, quang huy phổ châu biến, chiếu minh chúng sanh cố, như hợp hội
thiên điện, trì Phật xảo sắc hình, thâm cư viên kính trung, ứng hiện chư phương
sở, do như tịnh thủy nguyệt, phổ hiện chúng sanh tiền, tri tâm tánh như thị, đắc
trụ Chân Ngôn hạnh. Chân Ngôn giả đương kiến, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn. Nhược
kiến thành Tất Địa, đệ nhất thường hằng Thể.
(經)念彼蓮華處,八葉鬚蘂敷,華臺阿字門,焰鬘皆妙好,光暉普周遍,照明眾生故,如合會千電,持佛巧色形,深居圓鏡中,應現諸方所,猶如淨水月,普現眾生前,知心性如是,得住真言行。真言者當見,正覺兩足尊,若見成悉地,第一常恒體。
(Kinh:
Nghĩ nơi hoa sen đó, tám cánh, tua nhụy xòe, đài hoa: Môn chữ A, vòng lửa bao đẹp
đẽ, tỏa rạng chiếu trọn khắp, để soi sáng chúng sanh, như tụ ngàn tia chớp, trì
Phật hình sắc đẹp, ngự sâu trong gương tròn. Ứng hiện các nơi chốn, như trăng
in nước sạch, hiện trước khắp chúng sanh, biết tâm tánh như thế, được trụ hạnh
Chân Ngôn. Bậc Chân Ngôn sẽ thấy, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn. Nếu thấy, thành Tất
Địa, Thể bậc nhất thường hằng).
Nay môn chữ A này cũng chẳng từ bên ngoài mà đến, chỉ từ tâm sanh, chẳng đến
từ chỗ nào khác. Vì lẽ nào vậy? Do có phương tiện để tu Định, cái tâm này sẽ dần
dần tịnh. Do tâm tịnh, chữ A hiện trong ấy. Chữ A ấy chính là tâm của hết thảy
chư Phật. Từ tâm luân thanh tịnh, có thể hiện ra chữ A. Do nhập môn chữ A, liền
hiện thành tướng đại quả báo. Vì thế biết cái quả này cũng do tâm mà đạt được;
thật ra, không ai có thể truyền trao được; do tự giác ngộ cái tâm ấy mà đạt được.
Hãy nên dẫn ý nghĩa của giới “chẳng trộm
cắp” trong kinh Ương Quật [để chứng minh]. Nhưng nguồn tâm ấy vi diệu, tịch
tuyệt, vô danh, vô tướng, chẳng thể thị hiện, dùng phương tiện nào để có thể
trông thấy vậy? Nay chư Phật vì giáo hóa hàng Bồ Tát hành Chân Ngôn hạnh, trực
tiếp từ cái tâm “tâm xứ phàm phu”
mà tạo phương tiện, cũng chẳng tạo các hạnh đối trị nào khác. Tâm xứ ấy ở sâu
thẳm nhất trong tâm xứ phàm phu, tức là Hãn Lật Đà tâm. Người học Quán cũng ở
nơi ấy, tưởng hình hoa sen. Vì cớ sao vậy? Cái tâm ấy của hết thảy chúng sanh
chính là cái nhân của Liên Hoa tam-muội, nhưng chưa thể xòe nở, do bị các phiền
não vấn vít. Do vậy, chẳng thể tự liễu đạt tướng như thật của cái tâm. Vì thế,
trước hết hãy nên quán hoa sen tám cánh nơi tâm xứ ấy, quán sao cho hoa sen nở
xòe, các nhị trọn đủ. Ở trên cái đài ấy, suy tưởng chữ A ở trong đó. Từ chữ ấy,
tỏa ra vô lượng quang. Quang minh ấy tản ra bốn phía, hợp lại thành tràng, giống
như tràng hoa. Sở dĩ nói là “tràng”
tức là liên kết nhiều hoa, xuyên xỏ liên tục chẳng gián đoạn. Từ nhiều mà hợp
thành một, nên gọi là “tràng”.
Quang minh ở đây cũng giống như thế, hợp vô lượng quang thành một tràng ánh
sáng. Vì sao cần phải quán tám cánh sen, không nhiều hơn, chẳng ít hơn? Ở đây,
có hai nghĩa:
- Một là tâm xứ của hết thảy phàm phu
tuy chẳng thể tự liễu đạt, nhưng tự nhiên trên đó có tám cánh, như hình hoa sen
khép lại. Nay chỉ quán chiếu cái tâm ấy, khiến cho nó nở xòe, tức là tam-muội
quán càng thêm thuận tiện.
- [Hai là] xét theo lý, quán đóa hoa
tám cánh ấy liền được tương ứng với lý. Tám cánh ấy chính là bốn phương và bốn
góc, bốn phương chính là Tứ Trí của Như Lai. Đầu tiên là môn chữ A, chính là Bồ
Đề tâm. Chữ Ám (Aṃ) kế đó chính là thành vô thượng Bồ Đề. Chữ A âm dài (Ā) kế
đó chính là hành Bồ Đề hạnh. Chữ Á (Aḥ) kế đó chính là Đại Niết Bàn. Các cánh
sen ở bốn góc chính là Tứ Nhiếp Pháp. Trước là từ môn chữ A mà phát Bồ Đề tâm
(tức là chỗ đến của chân ngôn), kế đó biết cái quả của nó (tức là ý hỏi về thứ
tự), kế đó là do vậy mà xét ý nghĩa của bốn chữ A (tức A, Aṃ, Ā, Aḥ). Do muốn
thành đại quả báo, nên tu hạnh Như Lai. Do tu hành, được chứng đắc đại Niết
Bàn. Do chứng đại Niết Bàn, có thể thấy tâm tánh, biết cái Thể của tâm pháp giới
vốn sẵn là tướng thường tịch diệt. Do vậy, cuối cùng là môn chữ Á.
Sở dĩ nói “nhụy trọn đủ” thì cũng có ý nghĩa, tức là nếu khi cái tâm “liên hoa tam-muội” xòe nở, vô lượng
pháp môn không gì chẳng trọn đủ, như là Lục Độ, mười tám Không, ba mươi bảy phẩm,
Thiền Định, giải thoát, một trăm lẻ tám môn tam-muội, năm trăm môn đà-la-ni. Vô
lượng vô biên như thế, không gì chẳng trọn đủ! Hãy nên biết hết thảy các pháp
môn đều từ tâm mà có. “Niệm bỉ liên
hoa xứ” (Nghĩ tới liên hoa xứ đó) tức là quán chữ A trên đài hoa sen ấy, cho nên nói
là “ngồi trên”. “Châu biến phổ chiếu chúng sanh loại”
(Chiếu sáng giáp vòng, trọn khắp các loài chúng sanh): Khi quán, nếu tràng
ánh sáng này hiện tiền, tức là từ cái tâm này sanh ra ánh sáng tịch chiếu, chiếu
trọn khắp hết thảy các loài chúng sanh. Hết thảy chúng sanh cũng có tánh như thế,
nhưng do bị vô minh phủ lấp, chẳng biết tánh của tự tâm. Vì vậy, chẳng đạt được
tác dụng tự tại như thế. Nếu khi tự hiểu rõ nguồn tâm, cũng có thể hiện trọn khắp
sắc thân như thế để giáo hóa mười phương, giống như Phật chẳng khác. Nói “chúng sanh” tức là do vô minh, bọn họ
nương theo nghiệp mà sanh, liền thọ báo trong tứ sanh (noãn, thai, thấp, hóa).
Do nương theo nghiệp mà sanh, nên gọi là “chúng
sanh”. Nay muốn dạy “chúng
sanh” ấy, khiến cho họ đều biết Thật Tướng nơi nguồn tâm, nở xòe đài hoa
ấy, khiến cho họ đạt được tri kiến của Phật. “Tri kiến” nói thông tục sẽ là “tâm khai ý giải”. Ý nghĩa này hữu lý; do tâm khai, liền nhập
môn chữ A.
Nói “ngồi trên” lại cũng chứa đựng nhiều ý nghĩa, hoặc là nói tới “hoa tòa”, hoặc nói “khi chính mình ngồi”, hoặc là thành
tựu đại Mạn-đồ-la, tức là ở trong Mạn-đồ-la, người thực hiện quán hạnh ấy, nhập
vào môn chữ A, liền có thể trông thấy quang minh hiện trọn khắp sắc thân để làm
đủ loại Phật sự. Nhưng khi hành giả mới học Quán, tâm chưa thuần thục, chưa được
hiện tiền, hãy nên trước hết vẽ hoa sen đẹp đẽ sao cho tột bậc vi diệu như
trong phần trước đã nói. Lại đặt chữ A để thường hiện tiền quán. Hãy nên vẽ chữ
ấy trong vòng tròn sáng. Vòng tròn sáng ấy giống như cái gương sáng sạch; trong
đó, chữ A ở trong viên quang cực sâu. Quán nơi đó chắc thật lâu ngày, liền có
thể thấy hiện tiền phân minh. Đã thấy ở bên ngoài rồi, hãy xoay lại quán vầng
tròn sáng nơi tâm của chính mình để quán chữ A. Giống như chữ A, hãy nên biết
các chữ như Ma v.v… cũng có thể hiểu giống như thế. Khi hành giả nội quán (quán
các chữ chủng tử trong vầng tròn sáng nơi tâm mình) trọn đủ thuần thục, đã thấy
chữ A, quang minh từ trong tâm tỏa ra bốn phía, chiếu trọn khắp hết thảy các
cõi Phật trong mười phương. Quang minh ấy từ đầu tỏa xuống chân, lại còn nhiễu
vòng quanh thân hành giả, chẳng thể dùng thí dụ để diễn tả được!
Hỏi: Quán hoa sen, chẳng quán các hoa
khác ư?
[Đáp]: Điều này cũng có ý nghĩa riêng.
Như trong thế gian, hoa sen mọc từ bùn lầy, tuy sanh từ chỗ xấu ác, nhưng thể
tánh của hoa sen thanh tịnh, diệu sắc khôn sánh, chẳng bị các cấu nhuốm bẩn.
Phàm phu cũng lại giống như thế, tuy đủ loại lầm lỗi Tam Độc bất tịnh vô lượng
vô biên, nhưng quả hạt rất sâu của liên hoa tam-muội đều sanh từ đó, tức là
quang minh bình đẳng đại huệ của Như Lai.
“Thiên
điện tập hội” (Ngàn tia chớp nhóm họp): Như ánh sáng của một tia chớp trong thế gian còn
chẳng thể quán kỹ, do nó chói sáng lóa mắt người, huống hồ vô lượng ánh chớp tu
tập. Đây là giải thích ý nghĩa tràng ánh sáng tỏa ra bốn phía, oai mãnh rực rỡ.
Nhưng khi ánh sáng từ tâm tỏa ra chiếu trọn khắp thì có thể thấu tới trọn khắp
hết thảy các thế giới, đều hiện ra trước mặt hết thảy chúng sanh đáng được độ,
dùng thân mà họ ưa thích thấy, tương xứng căn cơ mà diễn nói diệu pháp, khiến
cho họ đắc độ, đều chân thật chẳng dối. Như cái gương sáng trong thế gian hiện
đủ loại hình tướng, nhưng có thứ chẳng chiếu, chẳng thể hiện trọn khắp. Gương tịnh
tâm chẳng phải vậy! Nó hiển hiện trọn vẹn pháp giới vô ngại trong mười phương;
nhưng mượn đó (mượn cái gương trong thế gian) để sánh ví [tịnh tâm], chứ thật
ra, chẳng thể sánh ví được! Khi hành giả thấy chữ A viên minh, có thể làm Phật
sự trọn khắp mười phương, nhưng vẫn vắng lặng, chẳng có động tác, giống như vầng
trăng trong nước, thuận theo đồ chứa bất đồng mà có thể cùng lúc nhanh chóng hiện
ra.
Nhưng dùng trí huệ để quán, nếu tánh
nước chẳng trong, trăng cũng chẳng hiện. Nước tuy lắng trong, nhưng không có
trăng, thì [bóng trăng] cũng chẳng thể hiện. Chẳng có đến đi mà hiện tiền rành
rẽ, chỉ là duyên hợp bèn có đó thôi! Lại nữa, như lúc trăng mọc ra, tuy có thể
thành tựu muôn vật trong tứ thiên hạ, khiến cho chúng đều được lợi ích, nhưng
[mặt trăng] cũng chẳng nghĩ như thế này: “Ta có thể chiếu trọn khắp vạn vật,
khiến cho chúng sanh trưởng”. Hành giả quán tự tâm cũng lại giống như thế, giống
như vầng trăng trong nước, hiện các hình tượng. Từ phẩm này trở về trước là nói
về cái quả của chân ngôn; từ phẩm này trở đi, lần lượt nói về phương tiện tu
hành, nhập chứng, bắt đầu từ chỗ này. Trong đây, lại có các oai nghi ngồi, đứng
dậy, khá nhiều pháp bí mật, sẽ lần lượt nêu riêng trong các phần sau. Do kinh
này là bí mật của bậc thánh, cho nên chẳng nói rõ theo thứ tự. Như quán hoa sen
tám cánh và chữ A trong phần trên, trước hết là để trừ sạch tự tâm, khiến cho
đài hoa được hiện. Nay muốn khiến cho hoa đài tăng trưởng tươi tốt thành đại quả
báo, lại nói phương tiện quán môn chữ Án (Oṃ). Nhập môn chữ A trong phần trước,
tuy nói là “biết rõ tâm tánh”,
nhưng vẫn chưa đạt đến rốt ráo hiện tiền. Vì thế, lại nhập môn chữ Án. Đấy là
tam-muội dùng để thành tựu tâm Bồ Đề vậy. Như hoa sen trong cõi đời nương vào
nước mà tăng trưởng. Nếu không có nước, chẳng lâu sau, hoa sẽ tàn khô. Bồ Đề
tâm của hành giả cũng lại giống như thế. Nếu chẳng có nước tam-muội tưới rót
cái tâm ấy, cũng chẳng thể tươi tốt, nở bùng được!
Hãy nên quán chữ Án này ở trên xương đỉnh
đầu, nơi bốn mí xương chung quanh giáp lại, khiến cho chữ ấy đứng thẳng chánh
diện ngay trên đỉnh đầu. Trong phần sau, cũng có pháp quán bí mật, nhưng pháp ấy
lại khác biệt. Điểm để quán chữ là đầu của hành giả, các chỗ khác là nơi bốn
chi của thân phần. (Hỏi: “Nước từ chữ A chảy xuống có tuôn rót vào các chữ khác
hay không?”) Do hành giả chưa biết tự tâm, bèn dùng phương tiện khiến cho biết:
Trước hết là quán hoa sen. Lại dùng nước Định để gột sạch cái tâm, khiến cho
khi chữ A này sáng sạch, thấy thấu triệt, các cấu nơi sáu căn thảy đều thanh tịnh.
Do sáu căn thuần tịnh, vô cấu, tâm tánh sẽ vô cấu giống như ánh sáng của thủy
tinh hay vầng trăng thanh tịnh. Hãy nên biết đấy được gọi là Kiến. Kiến tức là “thành tựu”, thành tựu chính là Thể đồng
pháp giới. Hãy nên biết: Pháp giới ấy vốn sẵn vắng lặng, hết thảy chúng sanh
nương nhờ thế giới duy trì. Ví như hữu tình nương vào thế giới, cho đến địa
luân nương theo thủy luân, thủy luân nương vào phong luân, phong luân nương vào
không luân. Không luân là chỗ y chỉ của hết thảy, nhưng nó chẳng nương vào đâu.
Pháp giới cũng thế, do chúng sanh có
vô minh cấu, nên chẳng thể tự hiểu rõ. Nay do sáu căn thanh tịnh nên liền thấy
rõ. Khi chưa thấy, bèn có phương tiện, [phương tiện ấy] cũng [sẽ được nói]
trong một phẩm riêng, lại chẳng phải là trực tiếp quán hai chữ ấy. Khi hành giả
tự quán, sẽ khiến cho các chữ trọn khắp trong các chi phần. “Minh” là khi tác pháp, chuyện gì
cũng đều rõ rệt, tức là thành bậc Trì Minh. Do có thể trực tiếp dùng các tự môn
ấy, bèn thành Trì Minh Tiên.
Hơn nữa, đối với pháp giới ấy mà nói
là “thấy”, chẳng phải là có cái
để trông thấy. Do vô cấu nên có thể thấy, “thấy” chính là cái Thể của pháp giới. Như do gương thanh tịnh,
nên muôn hình tượng tự hiện, nhưng nó chẳng khởi lên phân biệt như thế này: “Ta
có thể thấy các thứ đó, các thứ đó là cái bị thấy”. Cũng không phân biệt tướng
đến, đi; chỉ do duyên hòa hợp mà thấy. Hết thảy chúng sanh cũng đều cùng có cái
Thể pháp giới này. Nếu khi thấy như thế, tức là thấy tướng Tất Địa, có thể hiện
trọn khắp sắc thân, phơi bày vô tận trang nghiêm tạng. Hành giả do tâm tịnh,
không chỉ là trọn đủ niềm vui mầu nhiệm cõi trời, mà còn đạt được niềm vui Đại
Niết Bàn vi diệu, mà cũng thấy Như Lai cú. “Cú” là chỗ ngồi của chư Phật (tức là trụ xứ của Phật). Khi thấy
như trên, vẫn chưa thể gọi là “thành tựu
cái thấy rốt ráo” được!
(Kinh) Tùng thử thứ tư duy, chuyển thử Ra tự môn, Ra tự Đại Không điểm,
trí chi ư nhãn vị, kiến nhất thiết Không cú, đắc thành bất tử cú. Nhược dục quảng
đại trí, hoặc khởi ngũ thần thông, trường thọ đồng tử thân, thành tựu Trì Minh
đẳng. Chân Ngôn giả vị đắc, do bất tùy thuận chi. Chân Ngôn phát khởi trí, thị
tối thắng thật tri, nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu thế chi khố tạng. Do thị chư
Chánh Giác, Bồ Tát cứu thế giả, cập chư Thanh Văn đẳng, du bộ tha phương sở, nhất
thiết Phật sát trung, giai tác như thị thuyết. Cố đắc Vô Thượng Trí, Phật vô
quá thượng trí.
(經)從此次思惟,轉此囉字門,囉字大空點,置之於眼位,見一切空句,得成不死句。若欲廣大智,或起五神通,長壽童子身,成就持明等,真言者未得,由不隨順之。真言發起智,是最勝實知,一切佛菩薩,救世之庫藏。由是諸正覺,菩薩救世者,及諸聲聞等,遊步他方所,一切佛剎中,皆作如是說,故得無上智,佛無過上智。
(Kinh: Kế, tư duy từ đó. Chuyển môn chữ Ra này, chữ Ra
chấm Đại Không, đặt ở ngay nơi mắt. Thấy câu “hết thảy Không”, được thành câu bất
tử. Nếu muốn trí rộng lớn, hoặc khởi năm thần thông, thân đồng tử trường thọ,
thành tựu Trì Minh thảy. Bậc Chân Ngôn chưa đắc, do vì chẳng tùy thuận. Chân
ngôn phát khởi trí, là thật tri tối thắng. Hết thảy Phật, Bồ Tát, là kho tàng cứu
thế. Do vậy, các Chánh Giác, Bồ Tát bậc cứu đời, và các vị Thanh Văn, dạo chơi
khắp chốn khác. Trong hết thảy cõi Phật, thảy đều nói như thế. Nên đắc Vô Thượng
Trí, Phật trí không chi hơn).
Cũng có phương tiện, tức là
quán môn chữ Ra. Hành giả đặt hai chữ này trên hai mắt, quang minh như ánh đèn
sáng bừng, tỏa rạng. Khi hành giả tĩnh tọa, sẽ hơi cúi đầu, dùng quang minh vô
cấu ấy quán chiếu cái tâm bên trong. Do chữ Ra này, có thể thấy tâm tánh. Cúi đầu
chớ nên quá thấp, chớ nên [giữ cho cổ] quá thẳng. Ở đây, có hai nghĩa:
- Một là điều hòa cái thân
để chẳng sanh bệnh khổ. Vì ngồi quá
cong, hay quá thẳng tức là Tứ Đại chẳng điều hòa.
- Hai là vì tịnh nhãn căn,
mau chóng thấu đạt nguồn tâm.
Môn chữ Ra này chính là đèn
sáng tịnh hóa tri kiến. Do trí này giống như quán Thật Tướng của đài sen nơi
tâm, cho nên mau được thành tựu. Lại nữa, khi ngồi, lưỡi cũng chớ nên chạm vòm
họng, hay hạ quá thấp trong miệng, nên giữ vừa phải. Mắt thanh tịnh như thế
quán nơi tự tâm, cũng chẳng có các tướng năng và sở, chỉ vì nhân duyên đầy đủ
nên được thấy như thế. Trên đây là đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ về tướng đến,
đi.
Hạnh ấy từ tâm mà sanh, tâm
là chiếu sáng, có thể thấy đạo của Như Lai. Hạnh tức là đạo. “Đạo” tức là hạnh và quả báo. Chẳng
riêng gì ta nói như vậy, mà tam thế Như Lai cũng chẳng nói khác! Trên đây là
nói về phương tiện của Chân Ngôn, cho đến tâm xứ này vô cấu thanh tịnh giống
như tấm gương tròn thường hiện tiền. Hãy nên biết đấy chính là cái tâm chân thật
do cổ Phật cùng tuyên nói. Tâm tánh như thế thường hằng an trụ, chẳng thay đổi,
chẳng thể phá hoại, tức là Đại Bát Niết Bàn của chư Phật. Do vậy, gọi là “chân thật”. Do dùng các tự môn như
Ra v.v… để thanh tịnh cái tâm này, sanh ra quang minh trí huệ chân thật, liền
thấy đạo do cổ Phật đã hành. Đó gọi là chân ngôn thuộc bí mật tạng vậy.
Khi hành giả thấy đạo chân
ngôn này, thức cũng phát quang. “Thức”
là nói đến sáu thức. Như trong Tiểu Thừa nói “tâm, ý, thức” chỉ là danh tự sai biệt. Đại Thừa bèn có biệt tướng,
tức là Lục Thức Thân (thân do sáu thức giả huyễn kết hợp) chỉ là ba duyên hòa hợp,
chẳng thể quyết định biết rõ các pháp. Cái có thể phân biệt chính là tâm. Do
tâm tịnh, sáu thức cũng đều là quang minh tỏa rạng. Giống như thể tánh của đại
bảo châu thường tịnh, chẳng bị trần cấu nhuốm bẩn. Nếu có người mài bóng, dần dần
trừ khử thô cấu, cho đến [khi bảo châu] chuyển thành sáng suốt, nó sẽ có thể vô
ngại tuôn xối các thứ báu, hình sắc và quang minh khôn sánh. Sáu thức của chúng
sanh cũng thế, do nguồn tâm thanh tịnh, sáu thức cũng đều thuần tịnh. Đó gọi là
“lục tự tại vương tánh thanh tịnh”.
Hành giả trì chân ngôn khi thấy tâm tánh như thế, tức là thấy đấng Lưỡng Túc
Tôn Chánh Giác, vĩnh viễn lìa khỏi tà kiến điên đảo, nên gọi là Chánh. Dùng
chánh tri kiến ấy để hiện giác các pháp. Đấng Nhân Thiên Nhị Túc Trung Tôn được
gọi là Lưỡng Túc Tôn. Vì sao vậy? Nếu lìa tâm tánh này mà có thể trông thấy Như
Lai tại mọi nơi, chẳng có lẽ ấy! Khi hành giả thấy vị Phật ở trong tâm ấy, liền
gọi là “thành tựu Tất Địa bậc nhất”,
gọi là “đắc đệ nhất thường thân”.
Tất Địa có rất nhiều loại, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc vô lượng sai
biệt. Nay sự thành tựu này chính là thành tựu xuất thế gian bậc nhất, được gọi
là “thành tựu thường thân bậc nhất”.
“Thường thân” ấy chính là thân
kim cang bất hoại của chư Phật. Khi thấy cái tâm này, chính là thấy Như Lai cú,
biết hết thảy các pháp đều như mười thí dụ, bất sanh, bất diệt, tánh thường bất
sanh. Đạt được trí chân thật này, sẽ thấy Thật Tướng.
Tuy nói như thế, nhưng do
hành giả vẫn chưa thể hiểu rõ rốt ráo, chưa thấy được tâm tánh, lại có phương
tiện để hiểu rõ, tức là chuyển chữ Ra thành chữ Lãm (Raṃ). Trước hết, trong vầng
trăng quán chữ A để quán cái tâm; nay lại chuyển chữ Ra ấy thành chữ Lãm. Vẫn
giống như trước, hơi cúi đầu sao cho không quá thấp, không quá thẳng, lưỡi cũng
cao thấp vừa đúng mực, để quán chữ A trong tâm. Chữ Ra ấy có nghĩa là “tướng”, trên đó có một cái chấm, tức
là Đại Không tam-muội, được gọi là “pháp
vô tướng bậc nhất”, chư tướng vốn không! Do hết thảy các tướng đều là
pháp chẳng kiên cố. Do bản thể của cái tướng ấy chẳng sanh, nên giống như Đại
Không, tức là pháp Thật Tướng kiên cố. Tư duy câu “hết thảy không” như thế tương ứng với lý, chính là câu “bất tử”. Câu “bất tử”
chính là thân thường trụ của chư Phật. Do phương tiện chữ Lãm lìa hết thảy các
tướng chính là thường thân, thường thân chính là câu “hết thảy các pháp là Không, bất tử”. Nếu muốn đạt được trí rộng lớn, thành tựu ngũ thông, trì minh,
Tất Địa Minh v.v… hoặc trường thọ đồng tử, mà chưa thể trì tụng cho đến chẳng
tùy thuận, [sẽ chẳng có cách nào đạt được]!
“Quảng đại trí thân” (Trí thân rộng lớn) chính là Như Lai
thân, tức là công đức của hết thảy tam thừa, thậm chí các chuyện như ngũ thần
thông, trường thọ v.v… Hễ lìa môn chữ Lãm vô tướng, sẽ chẳng có nghĩa “đắc”. Vì lẽ nào vậy? Nếu người có
tâm chấp tướng, sẽ nẩy sanh triền cái, thuận theo nghiệp mà chuyển, chẳng được
tự tại, cho đến Tất Địa thế gian còn chẳng thể đạt được, huống hồ các thứ như
Ngũ Thông v.v… ư? Những thứ như Ngũ Thông v.v… còn chẳng có lẽ nào đạt được, huống
hồ bình đẳng trí thân của Như Lai ư? Do vậy, đức Phật nói hết thảy công đức lợi
ích thế gian của ba thừa đều được hoàn thành bởi pháp vô tướng. Như thần thông
có nhiều loại, nếu hành giả dùng cái tâm ly tướng, chẳng chấp trước, sẽ thậm
chí có thể đạt được Ngũ Thông của Nhị Thừa. Nếu tu càng sâu hơn, thậm chí có thể
đắc Ngũ Thông của Bồ Tát. Năm món thần thông ấy chính là tác dụng tự tại của
hàng Bồ Tát nhập địa (đã chứng từ Sơ Địa trở lên), so với thần thông của Nhị Thừa,
như đem ánh nắng mặt trời so với ánh lửa đom đóm!
“Trì minh giả” tức là người trì tụng đạt được cái quả Tất Địa diệu
thành tựu, liền có thể dạo khắp hết thảy các cõi Phật, cúng dường chư Phật,
thành tựu chúng sanh. Nếu chẳng quán pháp môn “lìa hết thảy các tướng, vốn sẵn không tịch” này, vị tiên ấy
cũng chẳng thể đạt được. Đây chính là nhập vào địa vị Bồ Tát. “Trường thọ” tức là tự tại nơi tuổi
thọ, thường trụ thế gian để lợi ích chúng sanh, thân cận chư Phật. “Đồng tử” nghĩa là thọ vô lượng năm,
thường như trai trẻ mười sáu tuổi, dung mạo tươi tắn, đẹp đẽ, cũng là Trì Minh
Tiên. Kinh có ý nói: Nếu chẳng tùy thuận pháp môn “lìa hết thảy các tướng” như thế, còn chẳng thể thành vị tiên
này, huống hồ đạt được nghiệp chẳng nghĩ bàn nơi Pháp Thân rốt ráo ư? Chân ngôn
trí phát khởi chân thật trí, là của cải tột bậc của hết thảy chư Phật. Do nhập
vào môn chữ Lãm, lìa hết thảy các tướng, liền thấy Như Lai, tức là trí chân thật
đại huệ bình đẳng. Trong hết thảy các pháp, trí chân ngôn như thế là tối thượng
nhất, hết thảy chư Phật đều dùng trí ấy làm tài sản. “Tài sản” hàm nghĩa “thọ
dụng”. Của cải trí huệ quý báu như thế số đến vô lượng, tự tại thọ dụng,
hoàn thành các Phật sự, thí trọn khắp chúng sanh, tức là ý nghĩa “đại trưởng giả” trong kinh Pháp Hoa.
“Bồ Tát cứu thế giả” (Bồ Tát là bậc cứu đời) cho tới Nhị Thừa dạo
khắp cõi nước, trụ trong các cõi Phật, hễ tuyên nói, thị hiện, cũng đều do pháp
môn này. Cho đến do hạnh này mà được thành vô thượng đạo. Vì thế kinh nói: “Ly nhất thiết tướng, tắc danh chư Phật”
(Lìa hết thảy các tướng thì được gọi là Phật). Phẩm Tất Địa Thành Tựu đã
xong (Tất Địa là diệu quả của chân ngôn. Do cái quả ấy mà tu nhân hạnh. Vì thế,
thành tựu ở trong ấy chính là thành tựu các nghiệp đã tạo tác). Trên đây, ngài
Kim Cang Thủ hỏi đức Phật về tướng đến đi, và hạnh, quả của chân ngôn, đức Phật
đã giải đáp xong.
Comments
Post a Comment