Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
12.
Phẩm thứ mười hai: Nhập Bí Mật Mạn-đồ-la
Nhập
Bí Mật Mạn-đồ-la Phẩm Đệ Thập Nhị
入祕密漫荼羅品第十二
Phẩm Nhập Bí Mật
Mạn-đồ-la nói về tạng bí mật thuộc thân, miệng, ý của Như Lai, chỉ có ngài Chấp
Kim Cang [thông đạt] bí mật ấy. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại nói cách nhập đàn
pháp bí mật, do ngài Bí Mật Chủ có thể biết, đức Phật lại bảo ban; nhưng vị Chấp
Kim Cang này chính là hóa thân của đức Tỳ Lô Giá Na. Do muốn nêu tỏ pháp thâm mật
này, thế nhưng pháp này chẳng ai có thể nêu câu hỏi, chỉ có Phật và Phật hỏi
nhau mới có thể biết mà thôi, [do vậy, đức Phật mới tự gọi ngài Chấp Kim Cang để
tuyên nói]! Như trong phần sau phẩm Phân Biệt Tích của kinh Kim Cang Đảnh, đức
Phật đã nhập Tam-ma-địa rồi từ trong thân Phật, xuất hiện hình tượng của chữ
[chân ngôn], hình dạng của ấn và thân Bổn Tôn, mỗi thứ đều từ mỗi phương mà xuất
hiện, thực hiện Phật sự. Đó gọi là “đại
nhân duyên khai Phật tri kiến”. Làm như thế xong, [các thứ như vậy] lại
nhập vào thân của Như Lai. Lúc bấy giờ, trong hư không vang ra tiếng hỏi pháp,
hỏi đức Phật về một trăm lẻ tám danh hiệu của đức Phật: “Thế nào gọi là Phật? Thế nào là Chánh Biến Tri” v.v… Cho đến hỏi
về mười sáu vị đại Bồ Tát và chân ngôn, ấn v.v… của các Ngài, như trong kinh ấy
đã rộng nói. Lúc bấy giờ, đức Phật liền tự khen ngợi rằng: “Thiện tai! Thiện tai! Năng vấn tư sự”
(Lành thay! Lành thay! Có thể hỏi chuyện ấy) cho tới thuận theo lời hỏi mà đáp.
Lúc đó, đại
chúng đạt được điều chưa từng có, nghĩ như thế này: “Kim tùng Phật
thân, nhi vấn ư Phật, do như huyễn sự, vô tác, vô sanh giả, nhi thành Phật sự”
(Nay [các tướng thần biến] từ Phật thân [xuất hiện xong], bèn tự
hỏi đức Phật, giống như huyễn sự, vô tác, vô sanh mà thành Phật sự). Nay ở đây,
ngài Chấp Kim Cang cũng giống như thế, sanh từ kim cang huệ ấn của Như Lai, lại
trì kim cang huệ ấn của Như Lai, nên có thể thưa hỏi, đức Phật giải đáp. Do sợ
kẻ khác chẳng tin; nếu [đức Phật] tự hỏi, tự nói, [họ sẽ cho rằng pháp ấy]
không đáng tôn trọng. Vì thế, dùng thân Phật[1]
để hỏi thân Phật. Lại nữa, sở dĩ được gọi là Chấp Kim Cang là do có thể trì
thân mật, khẩu mật và tâm mật của Như Lai. Bởi thế nói là “trì kim cang trí ấn”.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn hựu phục tuyên thuyết
nhập Bí Mật Mạn-đồ-la pháp ưu-đà-na viết: - Chân ngôn biến học giả, thông đạt
bí mật đàn, như pháp vi đệ tử, thiêu tận nhất thiết tội. Thọ mạng tất phần diệt,
linh bỉ bất phục sanh, đồng ư hôi tẫn dĩ, bỉ thọ mạng hoàn phục, vị dĩ tự thiêu
tự, nhân tự nhi cánh sanh, nhất thiết thọ cập sanh, thanh tịnh biến vô cấu.
(經)爾時,世尊又復宣說入祕密漫荼羅法優陀那曰:真言遍學者,通達祕密壇,如法為弟子,燒盡一切罪。壽命悉焚滅,令彼不復生,同於灰燼已,彼壽命還復。謂以字燒字,因字而更生,一切壽及生,清淨遍無垢。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại
tuyên nói kệ ưu-đà-na về pháp nhập Bí Mật Mạn-đồ-la rằng: - Người học khắp chân
ngôn, thông đạt đàn bí mật, đúng pháp vì đệ tử, thiêu sạch hết thảy tội. Thọ mạng
đều cháy sạch, khiến chẳng còn sanh lại, như đã cháy thành tro, thọ mạng sẽ trở
lại. Tức dùng chữ thiêu chữ, do chữ được sanh lại. Hết thảy thọ và sanh, thanh
tịnh, trọn vô cấu).
Trong phần trước,
[đức Phật] đã nói với ngài Kim Cang Thủ về Bí Mật Mạn-đồ-la, nhưng chưa nói
cách nhập bí mật. Vì thế, kế đó, Ngài bèn tuyên nói. Người trì tụng học trọn khắp
Bí Mật Mạn-đồ-la, người hành Chân Ngôn phải nên học trọn khắp (có nghĩa là “cần
phải hiểu hết thảy mọi chỗ”). Đàn bí mật của cổ nhân được bậc trí thông đạt. Do
chẳng ngờ vực, vướng mắc, nên gọi là “người
trí”. Người trí thiêu sạch hết thảy các tội. Pháp của đệ tử là như thế
đó. “Người trì tụng” tức là người
thành tựu, chính là A-xà-lê. [Người hành hạnh Chân Ngôn] đáng nên học trọn khắp,
nhưng chỉ có Phật và Phật mới có thể biết trọn hết, học trọn vẹn hết thảy các
pháp. Có thể trọn đức ấy thì mới có thể làm thầy. Nay trong đời Mạt, khó có người
như thế, sao có vị thầy truyền pháp cho được? Tuy A-xà-lê chưa được như Phật,
nhưng hãy nên biết rõ trọn khắp tông chỉ của kinh này. Đối với thứ tự pháp dụng,
mỗi mỗi đều hiểu rõ, và tùy thuận tất cả các pháp trong kinh này, những điều trọng
yếu thuộc về Mạn-đồ-la đều phải nên khéo biết. Phải nên tu hạnh Du Già, hiểu rõ
các loại căn tánh lợi, độn của chúng sanh, và hữu giá, vô giá[2],
cùng với các thứ như chân ngôn, thân ấn của Bổn Tôn thì mới có thể truyền pháp,
vì đệ tử thực hiện pháp nhập Bí Mật Mạn-đồ-la. Vì lẽ nào vậy? Nay pháp yếu rất
sâu, khó hiểu, được chư Phật cùng nhau thủ hộ, chẳng tuyên truyền bừa bãi, điều
trọng yếu thầm được suy nghĩ đã lâu, chẳng vội vàng tuyên nói!
Nếu làm thầy của
người khác trong đời Mạt, mà chẳng thể biết rõ ma sự và thứ tự trong phương tiện
nhập đạo, cứ hư vọng dạy bảo người khác, chắc chắn sẽ dạy sai căn cơ, khiến cho
người khác lầm lạc. Vì thế, cần phải học trọn khắp! Nói “người trí” chính là nói về người học trọn khắp ấy. Do có thể biết
các thứ nên trao truyền hay không, nên nhập hay không như thế, nên gọi là “trí”. Nếu không, do thiếu phương tiện,
chỉ nói suông, chẳng thể khiến cho người khác kiến lập thiện căn vô thượng,
nhanh chóng nhập hết thảy các địa vị của Như Lai, lại còn chuốc lấy chướng ngại
nơi pháp cực lớn, tự tổn, tổn hại người khác, sao gọi là “người trí” cho được?
“Thiêu đệ tử tội” (Đốt cháy tội của đệ tử): Do người ấy (đệ tử) từ vô thỉ đến nay
có vô lượng vô biên tội chướng. “Như
pháp vi đệ tử” (Đúng như pháp mà vì đệ tử) tức
là [A-xà-lê] đúng như pháp mà nhập đàn, tác pháp. Chướng sâu dày nếu chẳng trừ
khử, thân khí sẽ chẳng thanh tịnh vì còn có chướng, [đệ tử như vậy] chẳng thích
hợp để nói đạo trọn đủ của hết thảy Như Lai. Giống như hàng Thanh Văn có mười
ba nạn[3],
chẳng thích hợp để truyền giới. “Thọ mạng
tất phần diệt, linh bỉ bất phục sanh” (Thọ mạng đều đốt sạch, khiến nó
chẳng sanh lại): “Thiêu trừ hôi tẫn”
(Đốt bỏ khiến cho nó cháy sạch thành tro), há có phải là dùng lửa
thế gian để đốt thân người ấy, khiến cho mạng căn chẳng còn tiếp tục thì là “hôi tẫn” ư? Nay tự có phương tiện mầu
nhiệm là lửa đại huệ để đốt cái thân nghiệp phiền não của người ấy, khiến cho
nó chẳng còn sanh lại (chánh kinh gọi “thân
nghiệp phiền não” là “thọ mạng”). Hết thảy chúng sanh đều
do nghiệp phiền não chất chứa liên tục, khiến cho họ sanh trưởng luân hồi chẳng
dứt. Vì thế, gọi [nghiệp phiền não] là Thọ. Nay liền đốt bỏ [“thọ mạng” ấy], khiến cho nó hết sạch,
chẳng còn sót. Nghiệp phiền não là củi, trí phương tiện là lửa, do nhân duyên ấy
mà [thiêu đốt] chẳng còn sót. Củi ấy đã hết, cái có thể đối trị (trí phương tiện)
cũng bỏ đi. Nói “thiêu” có
nghĩa là “chữ” (dùng chữ chân
ngôn để làm lửa phương tiện trí huệ hòng thiêu nghiệp phiền não). Hãy nên lấy
chữ A làm thân của đệ tử, khiến cho chữ A trọn khắp thân người ấy. Kế đó, dùng
chữ lửa trí huệ ấy để nung đốt quặng vàng ròng trong tánh Bồ Đề của người ấy,
khiến cho hết sạch cấu uế. Do vậy, dùng chữ Ra làm lửa để nung đốt chữ A. Đã đốt
xong, há có như Nhị Thừa đoạn diệt, cháy tan thành tro bụi, chẳng còn sanh nữa
ư? Chẳng phải là như thế! Củi “các cấu
uế” đã hết, vẫn có điều kỳ diệu sanh khởi; đó chính là “Bồ Đề thanh tịnh” chân thật sanh ra.
Sự “sanh” ấy chính là tánh
thanh tịnh, là chủng tử của Như Lai.
Thầy dùng
phương tiện nào để đốt cháy sạch rồi lại đốt giống như tro ấy, khiến cho nó lại
sanh? “Dùng chữ để thiêu chữ”,
tức là tưởng chữ A như cái đàn vuông, đệ tử ở trong ấy, dùng chữ Ra để thiêu.
Do thiêu, nên có cùng một Thể. Thân giống như chữ A (अ), còn chữ Ra (र) để tự thiêu
trừ hết thảy các tội phiền não, cho tới thân cũng trừ, Thể giống như kim luân,
nẩy mầm kỳ diệu, tức là sanh ra môn chữ Phạ (व, Va). Hãy nên quán vầng tròn
sáng nơi tâm, ở trong vòng tròn ấy, đặt chữ Phạ. Từ chữ Phạ ấy, sanh ra thủy
luân, giống như sữa trắng tưới rót. Dùng phương tiện này để làm sống lại chủng
tử của Phật trong Bồ Đề tâm thanh tịnh, sanh ra cái thân thanh tịnh ấy, trong
ngoài vô cấu như vàng được tinh luyện trăm lần, càng thêm sáng bóng, dùng để chế
tạo thành vật dụng tùy ý. Hãy nên biết: Khi lửa dấy động, liền cùng với gió khởi.
Phong luân tức là ý nghĩa của chữ Ha (ह) và Khư (ख, Kha). Trên chữ Kha, lại thêm cái chấm, cái chấm ấy
chính là Đại Không thuộc môn chữ Khiếm (खं, Khaṁ). Pháp thủy vi diệu từ hư không rót xuống để thanh tịnh vật
dụng là cái tâm. Hãy nên biết: Đấy chính là ý nghĩa của năm chữ Địa, Thủy, Hỏa,
Phong, Không. Đó đều là ý nghĩa bí mật của Như Lai. Không chỉ đọc theo văn tự
mà thôi, hãy nên khéo suy nghĩ. Hành giả đã đạt được cái thân vô cấu thanh tịnh
trọn khắp như thế, thọ mạng sống lại, thảy đều vô cấu, do ý mà sanh.
(Kinh) Dĩ thập nhị chi cú, nhi tác ư bỉ khí,
như thị tam-muội-da, nhất thiết chư Như Lai, Bồ Tát cứu thế giả, cập Phật,
Thanh Văn chúng, nãi chí chư thế gian, bình đẳng bất vi nghịch, giải thử bình đẳng
thệ, Bí Mật Mạn-đồ-la, nhập nhất thiết pháp giáo, chư đàn đắc tự tại. Ngã thân
đẳng đồng bỉ, Chân Ngôn giả diệc nhiên, dĩ bất tương dị cố, thuyết danh tam-muội-da.
(經)以十二支句,而作於彼器,如是三昧耶,一切諸如來,菩薩救世者,及佛聲聞眾,乃至諸世間,平等不違逆。解此平等誓,祕密漫荼羅,入一切法教,諸壇得自在。我身等同彼,真言者亦然,以不相異故,說名三昧耶。
(Kinh: Dùng câu mười hai chi, để làm
khí cụ ấy. Tam-muội-da như thế, hết thảy các Như Lai, Bồ Tát đấng cứu thế, và
Phật, các Thanh Văn, cho tới các thế gian, bình đẳng chẳng trái nghịch. Hiểu
bình đẳng thệ này, Bí Mật Mạn-đồ-la, vào hết thảy pháp giáo, các đàn được tự tại.
Thân ta giống như thế, bậc Chân Ngôn cũng vậy, do chẳng hề khác nhau, nói là
tam-muội-da).
Lại vì muốn
kiên cố Ý Sanh Thân như thế, lại có phương tiện, ví như xếp đặt mười hai chữ lại
có được mười hai duyên, tức là “câu mười
hai chi” vậy. Đấy chính là Chân Ngôn Vương mười hai chữ đã nói trong phần
trước. Hãy nên dùng các chữ ấy để xếp trọn khắp thân. Thoạt đầu có bốn chữ xếp ở
phần trên, tức là từ đỉnh đầu tới trán: Một chữ là chữ hư không ở trên đỉnh đầu,
hai chữ ở tai, một chữ ở trán. Kế đó, đúng như bổn tánh phối ứng mà sanh, từ mắt
mà xếp đặt. Có bốn chữ thuộc phần giữa, tức là hai chữ trên vai và [một chữ] ở
tim, [và một chữ] ở họng. Kế đó, có bốn chữ thuộc phần dưới, tức là một chữ ở rốn,
một chữ ở eo, một chữ ở trên đùi, một chữ ở dưới bàn chân. Nhưng một chân thì
hai chữ đều có (tức chữ ở trên đùi và chữ ở bàn chân), nay chỉ đặt chữ dưới
lòng một bàn chân, tức là kiêm cả hai chân. Hãy nên biết mười hai chỗ ấy thống
nhiếp mỗi một thân phần khác, như chữ nơi hai tai liền thống nhiếp hai mắt v.v…
Các chữ vừa nói trên đây đều lấy từ Chân Ngôn Vương trong phần trước, từ chữ đầu
tiên theo thứ tự mà xếp đặt. Để làm điều này, có ba loại phương tiện:
- Một là thầy
tự xếp đặt.
- Hai là dùng
làm Mạn-đồ-la.
- Ba là gia
trì nơi thân đệ tử. Đấy chính là Du Già bí mật gia trì.
Làm như thế
xong, [đệ tử] liền có thể trở thành pháp khí. Vì thế nói là “tác bỉ khí” (làm kẻ đó trở thành
pháp khí). Làm như thế xong, tức
là thành tựu tam-muội-da. Nói “tam-muội-da”
có nghĩa là Đẳng, tức là “ta bằng với
Phật, Phật bằng ta, chẳng hai, chẳng chia ngăn, rốt ráo đều bình đẳng”.
A-xà-lê bằng với Phật, tức là Phật bằng với đệ tử. Người đệ tử ấy không chỉ bằng
mười phương ba đời hết thảy Như Lai, mà còn bằng với hết thảy Thanh Văn, Duyên
Giác, cũng bằng với hết thảy các vị thiên tiên trong thế gian. Nếu bằng với hết
thảy như thế, chính là thân Tỳ Lô Giá Na. Vì thế nói “chư thế gian đẳng đồng đẳng, đồng thuận” (các thế gian đều cùng
bình đẳng, đồng thuận), cũng là như kinh Pháp Hoa nói “đều cùng chẳng trái nghịch Thật Tướng của chúng sanh”. Hãy nên
hiểu như thế, sẽ là ý nghĩa “bằng, giống
như chư Phật, chẳng trái nghịch”, tương xứng với tam-muội-da Bí Mật Mạn-đồ-la
này, vào trong các Mạn-đồ-la tự tại thuộc hết thảy các pháp giáo, bằng với ta
như thế đó. Nếu tương xứng với tam-muội-da Bí Mật Mạn-đồ-la này, vào trong các
pháp giáo, sẽ được tự tại trong các đàn (tuy chẳng nhập, vẫn được tự tại nhiếp
thủ) giống như ta vậy Người trì tụng (tức là ta và vị hành giả ấy chẳng khác, hợp
thành một. Đó gọi là tam-muội-da) cũng giống như thế. Người trì tụng chẳng
khác, tam-muội-da gọi là “người nói”.
“Giải” có nghĩa là thấu hiểu,
hoặc hiểu biết. Nếu hiểu phương tiện nhập Bí Mật Mạn-đồ-la này, tức là nhập trọn
khắp hết thảy các Mạn-đồ-la. Do người đệ tử ấy cùng nhập trọn khắp hết thảy các
Mạn-đồ-la, tức là nghiệp tự tại, tu hành hết thảy các pháp môn chẳng bị chướng
nạn. Đức Phật dùng các pháp rốt ráo bình đẳng để giải thích danh xưng “tam-muội-da”, nên nói “tam-muội-da gọi là Nói”. Như kinh
thoạt đầu có các pháp như “nhập Đại Bi
Thai Tạng Mạn-đồ-la” v.v…, dùng pháp này để làm pháp vận dụng trọng yếu,
nhưng chẳng nói trong các phần trước, tới đây mới nói. Nếu chẳng hiểu pháp này,
Mạn-đồ-la đã được thực hiện trước đó trọn chẳng thể thành tựu! Pháp xếp ra trước
và sau, chẳng tương ứng theo ngay nhau, há có phải là Phật keo tiếc pháp ư? Chỉ
vì muốn khiến cho người nhập chánh pháp cần phải nương theo thầy mà học, giống
như trong kinh Thanh Văn, đức Phật đã quở trách kẻ tặc trụ[4].
Ngài nói: “Đã có đầy đủ hòa thượng
A-xà-lê, hãy đúng như pháp mà thọ giới, quyết chí tu hành phạm hạnh, sao lại
như kẻ trộm lén lút trụ [trong Tăng đoàn]?”
Nay trong đời Mạt, kẻ học pháp cũng thế! Chẳng thân cận thiện
tri thức để thưa hỏi, vâng lãnh pháp yếu, mà tự vâng theo cái tâm [suy lường hư
vọng] của chính mình, mong thành tựu nghiệp tự tại của Như Lai, đúng là vừa giở
xem kinh văn liền muốn thực hiện ngay, mong đạt được thành tựu, chẳng hề có lẽ ấy!
Không chỉ tự tổn hại, lại còn do mong cầu danh lợi, bèn hư vọng làm thầy kẻ
khác! Chính mình đã trái pháp mà còn muốn kiến lập thiện căn vô thượng cho kẻ
khác, há có lẽ ấy hay chăng? Do vậy, chẳng có hiệu nghiệm, lại còn chuốc lấy
nghiệp báng pháp và duyên phá pháp, tạo thành nghiệp vô gián! Có thể nào do
nghiệp nhân vô gián mà diệu quả tự lợi và lợi tha đều được thành tựu hay chăng?
Vì thế, người hành pháp này mong cầu, thân cận minh sư, nhất nhất thưa hỏi,
hòng hiểu rõ ý chỉ vi diệu, trước là thành lập [thiện căn cho] chính mình, sau
là kham có thể kiến lập thiện căn vô thượng cho người khác. Ví như năm pháp
thành tựu trong pháp Thanh Văn, tự thành ngũ phần Pháp Thân, và cũng có thể
thành tựu ngũ phần Pháp Thân cho người khác, được lìa y chỉ, được dự vào địa vị
thầy. Lúc đó, mới có thể truyền pháp làm lợi người khác. Nếu chẳng phải vậy,
hãy thận trọng, đừng vung vẩy khí cụ sắc bén bừa bãi, khiến cho tay mình bị tổn
hại. Vì thế, kinh dạy: “Sai cơ thuyết
pháp, vi nhân sư oan” (Thuyết pháp
không đúng căn cơ, sẽ khiến cho người khác bị oan uổng). Nay chẳng khéo học trọn
khắp tạng Trì Minh Du Già, mà muốn tùy theo bổn duyên của người khác để truyền
pháp cho họ thì cũng giống như vậy đó! Nhập Mạn-đồ-la có tam-muội-da kệ, có khoảng
mười bốn hay mười lăm bài kệ, tức là [kệ tụng để] truyền cho đệ tử thọ Cụ Giới
của hàng Bồ Tát, và nhữmg lời răn dạy trọng yếu, nhưng [các bài kệ tụng ấy]
chưa được truyền tới cõi này!
Tiếp theo đây
là phẩm Trụ Bí Mật Mạn-đồ-la. Phẩm trước nói về phương tiện nhập Bí Mật Mạn-đồ-la,
tức là ba loại gia trì, nghĩa là dùng chân ngôn để gia trì thân thầy, và đàn
tràng để nhập, cũng như gia trì khiến cho đệ tử trụ kiên cố. Sau đấy, [đệ tử]
được an trụ trong bí mật tạng. Vì thế, tiếp theo đây, sẽ nói phẩm trụ và chứng!
[1] Do ngài
Chấp Kim Cang lưu xuất từ Phật, nên thân ngài Chấp Kim Cang cũng là thân Phật.
[2] Tức những
điều không nên làm, những điều có thể làm trong khi hành pháp.
[3] Khi thọ
giới Cụ Túc, vị thầy Giáo Thọ sẽ gạn hỏi nhằm chắc chắn giới tử có đủ tư cách để
thọ giới. Tiêu chuẩn để loại trừ người không đủ tư cách thọ giới gồm mười ba điều
nạn và mười điều giá (ngăn trở), gọi chung là Giá Nạn. “Mười điều giá” là tên gọi
của người thọ giới (tức người thọ giới phải có tên gọi đầy đủ, biết rõ gốc
tích, quê quán, là tên gọi thật sự, không phải là bí danh, hay tên tự đặt),
danh xưng của hòa thượng thế độ, đã đủ hai mươi tuổi hay chưa, y bát có đầy đủ
hay không, cha mẹ có cho phép xuất gia hay không, có thiếu nợ hay không, có phải
là nô tỳ hay không, có phải là người đang làm quan hay không, có phải là trượng
phu (người thân căn hoàn bị, không phải là lưỡng tính, hay thiếu nam căn v.v…),
có mắc mười thứ bệnh hay không? Nếu người thọ giới không trả lời được mười câu
hỏi ấy, hay phạm vào một trong các điều ấy, sẽ bị loại
“Mười ba nạn”
như sau:
1) Biên tội
nạn: Trước kia đã thọ giới Cụ Túc, sau đó, do phạm bốn giới trọng phải xả giới,
sau đó lại đến cầu thọ giới.
2) Phạm tỳ-kheo-ni:
Tức là khi còn làm cư sĩ tại gia đã xâm phạm tỳ-kheo-ni tịnh giới.
3) Tặc tâm
nhập đạo: Vì lợi dưỡng nuôi thân, hoặc vì trộm pháp mà xuất gia.
4) Phá nội
ngoại đạo: Vốn là ngoại đạo, vào trong Phật pháp, thọ giới xong lại khôi phục
thành ngoại đạo, lại xả ngoại đạo nhập nội đạo.
5) Hoàng
môn: Tức năm loại người chẳng phải là đàn ông thật sự.
6) Giết cha.
7) Giết mẹ.
8) Giết A La
Hán.
9) Phá tăng,
phá pháp luân thân.
10) Làm thân
Phật chảy máu.
11) Là phi
nhân, tức là tám bộ quỷ thần biến hiện thành hình người.
12) Súc sanh
nạn: Tức là súc sanh biến thành hình người.
13) Nhị hình
nạn, tức người có đủ cả nam căn và nữ căn.
[4] Tặc trụ
(Steya-sajvāsika), có ý nghĩa là kẻ mang tâm trộm cướp mà trụ trong Tăng đoàn.
Từ ngữ này hàm ý quở trách kẻ vì mưu cầu lợi dưỡng, ăn bám, hoặc mưu toan trộm
cắp các giáo nghĩa trong Phật pháp để xây dựng dị thuyết cho mình mà xuất gia.
Đôi khi từ ngữ này còn chỉ kẻ chưa đủ tuổi quy định là hai mươi tuổi đã khai
man để thọ giới Cụ Túc.
Comments
Post a Comment