Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

16. Phẩm thứ mười sáu: Trí chân thật của A-xà-lê

A-xà-lê Chân Thật TPhẩm ĐThập Lục

阿闍梨真實智品第十六

 

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Trì Kim Cang Giả thứ phục thỉnh vấn Đại Nhật Thế Tôn chư Mạn-đồ-la chân ngôn chi tâm, nhi thuyết kệ ngôn: - Vân hà vi nhất thiết, chân ngôn thật ngữ tâm? Vân hà nhi giải liễu, thuyết danh A-xà-lê?  

          ()爾時持金剛者次復請問大日世尊諸漫荼羅真言之心,而說偈言:云何為一切,真言實語心?云何而解了,說名阿闍梨

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Trì Kim Cang kế đó lại thưa hỏi Đại Nhật Thế Tôn về chân ngôn tâm của các Mạn-đồ-la, mà nói kệ rằng: - Thế nào là hết thảy, chân ngôn thật ngữ tâm? Làm thế nào thông hiểu, gọi là A-xà-lê?)

 

          Trong phần trên đã nói rộng về tướng đệ tử của A-xà-lê và các phương tiện tạo Mạn-đồ-la để độ đệ tử v.v... Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang tiếp đó lại thưa hỏi Đại Nhật Thế Tôn về chân ngôn tâm của các mạn-đồ-la. Do tướng chân thật của A-xà-lê vẫn chưa được rộng nói, nay ngài Kim Cang Thủ vì trọn vẹn nghĩa vị ấy, tiếp đó, lại thưa hỏi: “Thế nào là tâm của hết thảy các chân ngôn? Do trì pháp nào, hành phương tiện nào mà được gọi là A-xà-lê? Lại do tụng trì các tâm chân ngôn nào mà được gọi là A-xà-lê?”

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Đại Tỳ Lô Giá Na ủy dụ Kim Cang Thủ: “Thiện tai, Ma Ha Tát!” Linh bỉ tâm hoan hỷ, phục cáo như thị ngôn: - Giải bí trung tối bí, chân ngôn trí đại tâm, kim vị nhữ tuyên thuyết, nhất tâm ưng đế thính.

          ()爾時薄伽梵,大毘盧遮那,慰喻金剛手,善哉摩訶薩,令彼心歡喜。復告如是言:解祕中最祕,真言智大心,今為汝宣說,一心應諦聽。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm Đại Tỳ Lô Giá Na an ủi, khuyên nhủ ngài Kim Cang Thủ: “Lành thay, Ma Ha Tát”. Để khiến cho tâm Bồ Tát hoan hỷ, lại bảo như thế này: - Hiểu điều bí mật nhất, chân ngôn trí đại tâm, nay vì ông tuyên nói, hãy nhất tâm lắng nghe).

 

          Kế đó, do ngài Kim Cang Thủ có thể kiến lập thiện căn cho hết thảy chúng sanh, do viên mãn Chân Ngôn hạnh mà quán điều này rồi thốt lời thưa hỏi, vui đẹp Phật tâm, nên đức Phật tán thán. [Ngài Kim Cang Thủ] biết tâm đại chúng muốn nghe pháp mà thưa hỏi; do đó, đức Phật khiến cho họ hoan hỷ [mà giải đáp]. Vĩ Phù (Vibhu, विभु)[1] là danh xưng khác của đức Phật, cũng có nghĩa là Pháp Vương, do âm thanh thuận tiện, nên dùng danh xưng này để nói.

          Lại nữa, trong [từ ngữ] Chân Ngôn Tâm ở đây, chữ Tâm trong tiếng Phạn là Hãn Lật Đà (Hdaya), tức là cái tâm chân thật. Từ trước đến đây, đều dùng kệ để vấn đáp, nay cũng dùng kệ [để giải đáp]. Kế đó, giải đáp “bí mật trung tối” (điều bí mật nhất trong các bí mật). “Chân ngôn trí” là trí vô thượng, không chi hơn trong các trí. Nay ta sắp nói pháp này, ông hãy nên nhất tâm lắng nghe. Kế đó nói: “Lành thay! Lành thay! Phật tử đại hữu tình” tức là đức Phật tán thán Kim Cang Thủ vì muốn cho đại chúng sanh tâm hoan hỷ; tức là thuận theo lời hỏi mà đáp. Tướng bí yếu là tướng bí mật nhất.

 

          (Kinh) Sở vị A tự giả, nhất thiết chân ngôn tâm, tùng thử biến lưu xuất, vô lượng chư chân ngôn. Nhất thiết hý luận tức, năng sanh xảo trí huệ. Bí Mật Chủ hà đẳng, nhất thiết chân ngữ tâm? Phật Lưỡng Túc Tôn thuyết, A tự danh chủng tử, cố nhất thiết như thị. An trụ chư chi phần, như tương ứng bố dĩ, y pháp giai biến thọ. Do bỉ bổn sơ tự, biến tại tăng gia tự, chúng tự dĩ thành âm. Chi thể do thị sanh, cố thử biến nhất thiết, thân sanh chủng chủng đức.

          ()所謂阿字者,一切真言心,從此遍流出,無量諸真言,一切戲論息,能生巧智慧。祕密主何等,一切真語心?佛兩足尊說,阿字名種子,故一切如是,安住諸支分,如相應布已,依法皆遍授。由彼本初字,遍在增加字,眾字以成音,支體由是生,故此遍一切,身生種種德。

          (Kinh: Đó là nói chữ A, tâm hết thảy chân ngôn. Từ đấy lưu xuất trọn, vô lượng các chân ngôn. Dứt hết thảy hý luận, hay sanh trí huệ khéo. Bí Mật Chủ! Những gì, tâm hết thảy chân ngôn? Phật Lưỡng Túc Tôn nói: Chữ A là chủng tử, nên hết thảy như thế. An trụ các chi phần, tương ứng xếp đặt xong, y pháp đều trao khắp. Do chữ bổn sơ ấy, trọn khắp chữ tăng thêm. Các chữ do thành âm, chi thể do đấy sanh. Vì thế, trọn hết thảy, thân sanh đủ loại đức).

         

          Trí được sanh từ tâm chân ngôn lớn nhất. Cái được gọi là “tâm của hết thảy” chính là chữ A, do hết thảy các ngôn âm đều lấy chữ này làm đầu. Nếu không có âm A này, sẽ lìa khỏi hết thảy các từ ngữ, chẳng thể nói được! Hãy nên biết: Chỉ cần mở miệng phát ra tiếng, tức là âm thanh của chữ A này. Trong kinh văn thuộc phần trước, tuy nói các âm Nga, Nhã, Noa, Na, Ma (,,,,, ga, ja, ḍa, da, ba, đều là âm thượng thanh) đều lìa âm A, nhưng A có trong và ngoài. Nếu âm ở ngoài tuy chẳng có, vẫn chẳng lìa âm A bên trong được. Âm bên trong chính là âm A trong họng. Hãy nên biết chữ A này chính là ý nghĩa “hết thảy các pháp vốn bất sanh”. Nếu có thể chiếu liễu bản thể “bất sanh, lìa nhân quả” như thế, liền đạt được thường trụ bất sanh. Cái tâm chân ngôn này chính là vô lượng nghĩa xứ, sanh ra trọn khắp hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Lìa hết thảy hý luận, vĩnh viễn dứt bặt các hý luận, sanh ra trí xảo diệu. Trí ấy chính là trí Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na. Từ trí ấy, có vô lượng phương tiện huệ sanh khởi, do lìa phân biệt, hý luận, nên trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Trí xảo diệu” chính là tên gọi khác của trí Nhất Thiết Trí. “Này Bí Mật Chủ! Vì sao chữ A là tâm của hết thảy các chân ngôn?” Đối với tâm của hết thảy các chân ngôn, đức Phật tự gạn hỏi rồi tự đáp. Chữ A này giống như chủng tử. Như trong thế gian, đức Phật Lưỡng Túc Tôn nói chữ A là “chủng tử”. Chủng tử có thể sanh ra nhiều quả, mỗi chủng tử lại sanh ra [cái quả] số nhiều trăm ngàn vạn, cho đến lần lượt là vô lượng chẳng thể nói được! Thấy hạt liền biết quả. Cái nhân đã là như thế, hãy nên biết cái quả ắt cũng là như thế! Nay chữ A này cũng như thế, từ căn bản “vô sư tự nhiên trí” (trí tự nhiên, chẳng cần thầy chỉ dạy), hết thảy các trí nghiệp từ đó mà sanh.

 

          (Kinh) Kim thuyết sở phân bố, Phật tử nhất tâm thính, dĩ tâm nhi tác tâm, dư dĩ bố chi phần, nhất thiết như thị tác, tức đồng ư ngã thể.

          ()說所分布,佛子一心聽。以心而作心,餘以布支分,一切如是作,即同於我體。

          (Kinh: Nay nói cách phân bố, Phật tử nhất tâm nghe! Dùng tâm để làm tâm, chữ khác thì xếp đặt, nơi các chi phần khác. Hết thảy làm như thế, liền giống bản thể ta).

 

          “Xếp đặt nơi các chi phần”: “Chi phần” chính là tự tâm. Do cái tâm ấy thâu nhiếp hết thảy các thân phần. Lìa tâm sẽ chẳng có thân, lìa thân sẽ chẳng có tâm, cũng giống như chữ A. Vì thế, kinh văn nói hỗ tương. Nếu xếp đặt [các chữ chủng tử] như thế, sẽ giống như chư Phật, tức là từ chữ mà có quả, quả chính là Phật, có thể Chánh Biến Tri, nên gọi là Chánh Giác. Do biết lý tánh của chữ ấy, được gọi là Như Lai. Lý tánh của chữ ấy chính là ý nghĩa “tâm vốn bất sanh”. Do vậy, hết thảy là như thế, tức là đều giống như chữ A, đều là các chân ngôn. Và “an trụ chi phần” chính là tuy thêm các chữ, vẫn có chữ A ở trong ấy. Lại nữa, trụ trong khắp các chi phần, chữ A là tâm, như người có tâm có thể trọn khắp các chi phần. Cái tâm ấy cũng đều lãnh nhận khổ hay vui. Chữ A cũng trọn khắp hết thảy các chi phần; nhưng đấy chính là ý nghĩa “tâm này vốn bất sanh”, [như] Phật Lưỡng Túc Tôn đã nói. Do vậy, [các chữ của chân ngôn] an trụ trong hết thảy các chi phần, xếp đặt nơi các chi phần. Tương ứng theo đúng pháp mà trao truyền trọn khắp hết thảy.

          Kế đó, khuyên hành giả hãy nên xếp đặt [các chữ chân ngôn] nơi các chi phần, tức là xếp đặt nơi tâm. Từ ngữ A Già La trong tiếng Phạn, chữ A trọn khắp hết thảy các chữ. Nếu chẳng có chữ A, sẽ chẳng có chữ nào được thành. Phải có chữ A, nếu chữ không có đầu[2], sẽ chẳng thành chữ! A chính là “đầu” vậy. “Biến” () là trọn khắp hết thảy. Hết thảy đều có Sự, có Lý, tức ngôn thuyết lý chứng, lý chân ngôn đều trọn khắp. Vì thế, nhắc lại “hết thảy”. Chữ A ấy giống như chi phần và nội tâm nơi thân người. Chữ A ấy trọn khắp hết thảy. Nếu xếp đặt hết thảy các chữ, mà chẳng có thân tâm, tức là chi phần chẳng trọn đủ. Chi phần nơi thân này theo đúng pháp như lý, được xếp đặt hết thảy mọi chỗ. “Biến” () là xếp đặt trọn khắp. Tuy chẳng thể xếp đặt trọn khắp hết thảy các chữ [trong văn tự chữ Phạn], dùng chữ A này làm khởi đầu, sẽ chính là xếp đặt trọn khắp hết thảy các chữ. Nhưng chữ A ấy có thể nói hết thảy các ngôn ngữ thế gian, lại do ngôn ngữ ấy mà hiểu hết thảy lý xuất thế. Vì lẽ nào vậy? Do chữ A này sanh ra hết thảy các ngôn ngữ trong thế gian, nhưng các ngôn ngữ ấy chẳng lìa chữ A. Do chẳng lìa chữ A, liền biết là chẳng lìa pháp thể bất sanh. Vì thế, do môn chữ A bèn có hết thảy các pháp thế gian. Do hết thảy các pháp trong thế gian mà được ngộ môn chữ A. Lại do cái tâm này trọn khắp hết thảy các thân phần, cho nên hễ xếp đặt ở chi phần nào nơi thân, cũng chính là y theo pháp, đúng như lý mà xếp đặt nơi các chi phần. Do vậy, trọn khắp hết thảy các chữ, mà cũng trọn khắp hết thảy trong và ngoài thân. Vì thế, nay tương ứng trọn khắp với lý, chính là ý nghĩa “hòa hợp”. Do chữ A ấy trọn khắp hết thảy các chữ, tức là hòa hợp, tức là chữ Rị Bỉ thêm vào chữ A.

          Nhưng đối với các chữ như Ca (, ka) v.v… nếu miệng chẳng có âm A, sẽ chẳng thành chữ. Hãy nên biết các chữ ấy (các chữ cái trong văn tự Tất Đàm) vốn là không, do nói theo đức (tác dụng, nội dung được diễn đạt bởi chữ ấy) mà gọi là Chữ; do chữ A mà có. Như người không có đầu, hết thảy các chi phần đều chết. Các chữ như Ca v.v… cũng giống như thế: Nếu chẳng dùng chữ A làm đầu, sẽ chẳng thành, mà cũng chẳng gọi là Chữ. Vì thế, lấy chữ A làm “mạng”. Các âm tam-muội như Rị, Tỷ, Đắc, Y, Y v.v… cũng do Định mà phát khởi. Giả sử chữ Ca không có âm A, chỉ ở trong họng phát ra âm Kích ngắn (tức âm K), chữ Ca sẽ chẳng thành. Nếu thêm chữ A, sẽ thành Ca. Hãy nên biết chữ A vốn bất sanh, Ca là vô tác, ý nghĩa chính là “do tương ứng hòa hợp mà thành”. Những chữ khác cứ phỏng theo lệ này mà suy ra. Do vậy, kinh văn có thể trọn khắp các thân, có thể sanh ra đủ loại. “Đủ loại” là Tỳ Thấp Phược (Viśva), tức là Xảo, [hàm nghĩa] “có thể sanh ra đủ loại pháp chẳng thể nghĩ bàn, có thể trọn khắp hết thảy các thân phần”.

          Đối với Chữ, tiếng Phạn có hai âm: Một là A Sát Ra (Akara), tức là chữ căn bản. Hai là Lị Tỷ Bệ (Lipi), tức là chữ tăng thêm. “Căn bản” tức là các chữ gốc, như hai âm đầu tiên của chữ A (tức a và ā chính là căn bản. Kế đó từ Y, Y (I, ī) cho đến Ô, Áo (o, au) gồm mười hai chữ đều là chữ do sanh khởi mà tăng thêm, đều thuộc về âm giống cái, còn chữ căn bản thuộc về âm giống đực. Âm giống đực (grammatical masculine gender) có nghĩa là trí huệ, âm giống cái (grammatical feminine gender) có nghĩa là Định. Chữ căn bản trọn khắp hết thảy mọi nơi; kế đó, các chữ tăng thêm cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Căn bản” và “tăng thêm” chẳng khác nhau, [các chữ tăng thêm] đều là từ bản thể của chữ căn bản, thêm chấm hay vạch mà thành chữ tăng thêm, cho nên chúng chẳng một, chẳng khác. Giống như nước được chứa trong đồ đựng, do đồ đựng giữ nước, nước chẳng lìa đồ đựng. Ở đây cũng giống như thế, [chữ căn bản và chữ tăng thêm] nương tựa, duy trì lẫn nhau, có thể trọn khắp trong và ngoài.

          “Tương ứng” trong tiếng Phạn là Du Kỳ (Yogi), tức là nghĩa của chữ A. “Tương ứng” chính là ý nghĩa của Du Kỳ. Không chỉ riêng chữ A trọn khắp hết thảy mọi nơi, từ chữ Ca (, Ka), chữ Khư (, Kha) v.v… cho đến chữ Sa (), Ha () cũng là trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì sao vậy? Các chữ ấy đều là âm căn bản. Các âm căn bản ấy giống như chữ A. Các chữ như Ca v.v… mỗi mỗi đều có chữ được sanh khởi tăng thêm. Như trong chữ Ca (​), liền có các âm Kế (कि, ki), Kê (की, kī), Củ (कु, ku), Câu (कू, kū), Kê (के, ke), Cái (कै, kai), đều là âm thuộc giống cái, chỉ là bản thể của chữ Ca được thêm nét vạch, sẽ trở thành chữ tăng thêm. Thể là Huệ, chữ tăng thêm là Định. Định và Huệ nương tựa, duy trì lẫn nhau, hợp thành một Thể chẳng mất. Chỉ Quán song hành cũng là trọn hết thảy các địa vị. Tăng thêm trọn khắp căn bản, căn bản trọn khắp tăng thêm. Vun bồi trọn khắp chủng tử, chủng tử cũng trọn khắp  sự  vun

bồi.

          Lại nữa, các chữ như A v.v… từ chữ mà có âm thanh. Như từ một chữ A, phàm trong hết thảy các âm thanh nói năng đều có thanh A, chẳng lìa được chữ ấy. Do chữ biểu thị mà có âm thanh sanh ra. Do có âm thanh, nên sanh nơi chi phần, có thể biểu thị hết thảy các pháp xuất thế gian. Nếu chỉ có chữ, sẽ chẳng thể diễn tả, biểu đạt lý; phải do âm thanh và ngôn ngữ thì mới có cái để biểu thị, như đỏ, xanh, vàng, trắng, Đông, Tây, Nam, Bắc, lớn, nhỏ, vuông, tròn, cao, thấp, tôn, ty v.v… Hết thảy các sự loại mới có thể lãnh nhận, hiểu rõ. Từ A sanh ra hết thảy các âm thanh ngôn ngữ, hãy nên biết các âm thanh ấy biểu thị đủ loại sai biệt. Đã từ ý nghĩa “vốn bất sanh” mà sanh, khi thấy sự sanh ấy được biểu thị, liền hiểu “vốn bất sanh”. Do vậy, khi thấy âm thanh phát ra, lý tánh liền hiển lộ, “vốn bất sanh” và hết thảy các pháp sanh từ duyên sẽ lần lượt sanh ra nhau, biểu thị thấu hiểu lẫn nhau. Nhưng chữ A ấy không chỉ trọn khắp các thân phần, mà cũng trọn khắp hết thảy các thứ chẳng phải là thân. Vì thế, từ tâm chú chữ A này sanh ra đủ loại công đức. Nay muốn nói pháp môn “xếp đặt chữ” này, vì muốn khiến cho hết thảy hành giả từ ngay nơi tự thân mà sanh trọn hết thảy các loại công đức của Như Lai. Giống như hạt giống đã gieo xuống, vô lượng quả hạt lần lượt sanh ra. Do đó, lại khuyên hành nhân hãy nên nghe rõ, lãnh nhận chắc thật!

          Kinh nói “Phật tử đế thính” (Phật tử hãy lắng nghe), tức là Phật tử hãy nên nghe kỹ ta nay nói kinh văn về cách xếp đặt “tự tâm” (字心). “Xếp đặt” là nói đến các “tự” (, chữ). “Tâm” là nội tâm. Từ ngữ Tô La Đa (Surata) trong tiếng Phạn có nghĩa là “mặc”. Mặc lấy pháp vi diệu, nên gọi là Tô La Đa. Đó là ý nghĩa “cộng trụ an lạc”, tức là “cùng trụ trong diệu lý, tiếp nhận hiện pháp lạc”. Lại nữa, vui thích giữ lấy sự nghiệp mầu nhiệm, nên gọi là Tô La Đa. Lại còn có nghĩa là “bỏ tà, hướng theo chánh”, nên gọi là Tô La Đa. Lại còn có nghĩa là “mong tìm cầu trọn khắp” nên gọi là Tô La Đa.

 

          (Kinh) An trụ Du Già tòa, tầm niệm chư Như Lai. Nhược ư thử giáo pháp, giải tư quảng đại trí, Chánh Giác đại công đức, thuyết vi A-xà-lê, thị tức vi Như Lai, diệc tức danh vi Phật. Bồ Tát cập Phạm Thiên, Tỳ Nữu, Ma Hê La, Nhật, Nguyệt Thiên, Thủy Thiên, Đế Thích thế gian chủ, Hắc Dạ, Diễm Ma đẳng, địa thần dữ Diệu Âm. Phạm Chí cập Thường Dục, diệc danh phạm hạnh giả, lậu tận tỳ-kheo chúng, Cát Tường Trì Bí Mật, Nhất Thiết Trí, Kiến giả, Pháp Tự Tại, Tài Phú. Nhược trụ Bồ Đề tâm, cập dữ thanh trí tánh, bất trước nhất thiết pháp, thuyết danh Biến Nhất Thiết. Tức thị chân ngữ giả, trì cát tường chân ngôn, chân thật ngữ chi vương, trì Chấp Kim Cang ấn.

          ()安住瑜伽座,尋念諸如來,若於此教法,解斯廣大智,正覺大功德,為阿闍梨,是即為如來,亦即名為佛。菩薩及梵天,毘紐摩醯羅,日月天水天,帝釋世間主,黑夜焰摩等,地神與妙音,梵志及常浴,亦名梵行者,漏盡比丘眾,吉祥持祕密,一切智見者,法自在財富。若住菩提心,及與聲智性,不著一切法,說名遍一切。即是真語者,持吉祥真言,真實語之王,持執金剛印。

          (Kinh: An trụ tòa Du Già, nghĩ nhớ các Như Lai. Nếu với giáo pháp này, hiểu trí rộng lớn ấy, Chánh Giác công đức lớn, nói là A-xà-lê. Đó tức là Như Lai, cũng sẽ gọi là Phật. Bồ Tát và Phạm Thiên, Tỳ Nữu, Ma Hê La, Nhật, Nguyệt Thiên, Thủy Thiên, Đế Thích chủ thế gian, Hắc Dạ, Diễm Ma thảy, địa thần và Diệu Âm. Phạm Chí và Thường Dục, cũng gọi bậc phạm hạnh. Các tỳ-kheo lậu tận, Cát Tường Trì Bí Mật. Trời Nhất Thiết Trí Kiến. Tài Phú, Pháp Tự Tại. Nếu trụ Bồ Đề tâm, cùng với tánh thanh trí, chẳng chấp hết thảy pháp, gọi là Biến Nhất Thiết. Tức là bậc chân ngữ, trì cát tường chân ngôn, là vua chân thật ngữ, trì ấn Chấp Kim Cang).

 

          Kế đó, trong lời đáp của đức Phật, tâm tâm xếp đặt [các chữ chân ngôn] nơi các chi phần khác. Hết thảy đều làm như thế. Đức Phật tự trụ trong tòa Du Già, dùng tâm đặt nơi tâm, những thứ khác thì xếp đặt nơi các chi phần khác. Làm hết thảy như thế, tức là sẽ giống như thân của chính ta. “Tác” có nghĩa là “đặt” (tưởng chữ chân ngôn tại tâm và chi phần), tức là “làm như thế”. Do đặt tại tâm, nên nói là “tâm tâm”. Thông thường nói “tâm tâm”, tức là nói tới Ý và Mạt Na. Nay ở đây, [“tâm tâm”] có ý nghĩa khác, tức là dùng chữ A để đặt nơi tâm của hành giả. A là tâm của hết thảy các pháp, do đặt [chữ A] tại tâm; nên gọi là “tâm tâm”. Do chữ ấy là tối sơ, nên đặt nơi tâm trước hết. Tâm là chủ của hết thảy các chi phần. Chữ A cũng thế, đứng đầu hết thảy các chân ngôn. Đã xếp đặt xong chữ ấy (chữ A), bèn xếp đặt các chữ khác nơi hết thảy các chi phần như trong phẩm sau sẽ nói. Nhưng cách xếp đặt chữ A này đã được nói trong phần kinh văn trước đó. Trước hết, quán tưởng: Xếp đặt chữ A này trên [đóa hoa sen] tám cánh nở xòe trong tâm. Chữ A này bèn liền có tác dụng chiếu sáng viên minh. Hòa hợp cái tâm nhiễm dục của hành giả với tâm chân thật huệ, sẽ liền giống như chân thật, có cùng một vị. Quán như thế tức là Như Lai; cho nên nói “nhược như thị tác giả, tức thị ngã” (nếu làm như thế thì chính là ta). “Ta” tức là đức Phật tự nói về mình.

          Lại nữa, Đại Ngã chính là Như Lai; vì thế nói là “tức thị ngã”. “Tức thị ngã” (Tức là ta) chính là A-xà-lê. Không chỉ do Du Già mà được là A-xà-lê, cũng do dùng pháp ấy mà thành tựu đệ tử [nên gọi là A-xà-lê]. “Trụ nơi tòa Du Già” tức là [ngồi nơi tòa] bốn cạnh vuông vắn, nghĩa là ngồi nơi tòa Đại Nhân Đà La, tức tòa kim cang luân. Trụ trên chữ A, lấy đó làm tòa, tương ứng với chân lý, tòa ấy được gọi là tòa Du Già. Người ngồi trên tòa kim cang Du Già ấy chính là Như Lai. “Tầm niệm Như Lai” (Liền nghĩ nhớ Như Lai) tức là quán chư Phật. Vì thế, gọi điều này là “trí rộng lớn”, hễ gọi liền biết ngay. Nếu có thể nương theo giáo mà biết, bậc đại đức chánh giác nói người như vậy là A-xà-lê. Người xứng với điều ấy tức là Như Lai. Như Lai chính là người ấy, nghĩa là danh hiệu như thế cũng là chính là thân ấy. Nếu trọn đủ pháp ấy, tức là thành tựu tâm trí huệ rộng lớn. Do có thể thành tựu trí rộng lớn, được gọi là A-xà-lê. Nếu là A-xà-lê, hãy nên biết [người ấy] chính là Phật, tức là “địa”, nghĩa là có thể trì hết thảy tất cả các loại thóc giống thuộc về báo thọ (quả báo sẽ nhận lãnh) trong thế gian. Ta cũng có thể trì quả báo của hết thảy chúng sanh, nhưng vô phân biệt.

          Diệu Âm (Sarasvatī, Đại Biện Tài Thiên) là tên một vị trời. Kinh Kim Quang Minh gọi [vị trời này là] Đại Biện thiên nữ. Đại Biện là nói đến cái lưỡi. Ta phát ra âm thanh thù thắng hơn âm thanh của trăm ngàn vị Phạm Thiên; do vậy, có tên gọi đó. “Phạm” là Niết Bàn. Đại Phạm trong các phần trước là “giải thoát”. Đại Phạm ở đây chính là bậc Phạm Chí, hàm ý “chưa chứng”. “Phạm hạnh” là nói tới người tu phạm hạnh. Hãy nên biết [khi nói “phạm hạnh giả” (bậc hành phạm hạnh)] thì chính là bậc Bồ Tát. Hãy nên biết [khi nói “phạm hạnh giả” (người hành phạm hạnh) cũng] chính là Phạm Thiên, hãy nên biết [nói như vậy] thì cũng chính Tỳ Nữu Thiên. [Tỳ Nữu] là tên riêng của Tự Tại Thiên, nói chánh xác phải là Tỳ Sắt Nữu (Viṣṇu). Hãy nên biết [người hành phạm hạnh cũng] chính là Nhật Thiên (Āditya). Hãy nên biết [người hành phạm hạnh cũng] chính là Phong Thiên (Vāyu), Nguyệt Thiên (Candra). “Phạm” là [nói gộp chung] Đế Thích và Đại Phạm. Hãy nên biết [người hành phạm hạnh cũng] chính là Hắc Dạ Thiên (Kālarātri), hoặc là Diễm La (Yamarājah, Diễm Ma La Vương, tức Diêm Vương). Trọn đủ Đại Niết Bàn thì gọi là Phạm. Vĩ (tức chữ Vi trong Viṣṇu) là Không, Sắt Nữu (Ṣṇu) là Định. Định là Tứ Thần Túc[3] của Phật. Tự Tại tức là “được tự tại nơi pháp”, như sáu nghĩa của chữ Bạc Già [trong danh xưng Bạc Già Phạm - Bhagavān]. Có thể trừ hết thảy các u ám thì gọi là Đại Bi Nhật (mặt trời đại bi).

          Lại nữa, Phạ Rô Noa (Varuṇa) là Thủy Long (chánh kinh gọi vị này là Thủy Thiên) do [vị này] chủ trì nước, tức là “trọn đủ nước đại bi có thể rưới khắp hết thảy”. Như mặt trăng trưởng dưỡng hết thảy các vật trong thế gian, Phật cũng có thể trưởng dưỡng Bồ Đề tâm của hết thảy chúng sanh. Đế Thích do bố thí một trăm lần mà được thành tựu, tức là một trăm lần mở bốn cửa thành để bố thí rộng rãi. [Trong danh xưng Đế Thích (Śakra, Thích Ca Lạc)], Thích là “một trăm”, Ca Lạc là “dũng mãnh bố thí”. Phật trọn đủ vô lượng trăm lần bố thí, nên cũng gọi là Đế Thích. Vị chủ tạo lập thế giới, tức ngũ đại thiên, ngoại đạo trong thế gian gọi họ là “tạo lập thế giới chủ” (Prajāpati, vị chúa tể sáng tạo thế giới). Cũng là Tỳ Thủ Yết Ma (Viśvakarman), Ngã cũng sanh hết thảy tâm, tâm chủ, cho nên có tên gọi như thế. Ca La thời[4], ba thời chính là ngã, tức là Diễm Ma đem tất cả đi, tức là đưa đến thiện, hoặc đưa đến ác. Đưa tới chỗ sát hại thì gọi là Diễm Ma La; nhưng ta đưa tới chỗ lành để sát hại phiền não. [Trong danh xưng Diễm Ma (Yāma)], “Dã” (yāna) là cỗ xe tam thừa, “Ma” tức là Ngã. Tức là khi Ngã được thành lập, vượt khỏi ba thời, đều là Ngã, thảy đều là tâm, đối ứng với ngoại đạo khi đó.

          “Dục” (: tắm gội) [trong Thường Dục (Āśrava)] là nói đến tên của một vị trời, tức thân khẩu ý thanh tịnh là sự tắm gội bậc nhất. “Thuyết” là nói ngoại đạo, tên của kẻ đó chính là Ngã. [Người hành phạm hạnh] chính là tỳ-kheo, tức là bậc lậu tận, [mà cũng] tức là bậc Cát Tường, cũng chính là Công Đức Thiên (Śrī Devi, Lakṣmī). Ngã cũng trọn đủ hết thảy các pháp, tức “trì bí mật” là Tam Mật. Nhất Thiết Trí thì ngoại đạo cũng có danh xưng ấy, Ngã tức là “như thật”. Do tự chứng, chẳng phải là chỉ có cái danh suông. Nhất Thiết Kiến (Sarvajñānadarśana) cũng là tên một vị trời. Nhất Thiết Pháp Tự Tại (Sarvadharmeśvara): Thế gian cũng truyền tụng có vị trời này. Ngã chính là như thật. Tài Phú (Vasudhāra) cũng là tên một vị trời, tức là “tự tại”, hễ cần cho liền cho. Phật chính là như thế đó. Nếu trụ trong Bồ Đề tâm và dùng “thanh trí tánh” (trí tánh của âm thanh), chẳng chấp trước hết thảy các pháp, thì gọi là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp hết thảy mọi nơi). Đó chính là tên gọi khác của Nhất Thiết Chủng Trí, tức là “trọn đủ hết thảy các trí”.

          Nói “Bồ Đề tâm chính là Định”, [hàm nghĩa] từ chữ mà có âm thanh phát ra; do trí chia ra, nên [“chữ” trong chân ngôn] tức là trí, [mà cũng] tức là người trì tụng. Do chân ngôn sanh từ Ngã, Ngã chính là người trì tụng. Cũng là người trì chân ngôn do sanh từ Ngã, nên chính là Ngã trì [chân ngôn]. Do các chữ trong chân ngôn sanh từ Ngã, Ngã chính là người trì [chân ngôn]. “Cụ đại cát tường” (Trọn đủ sự tốt lành to lớn) cũng là chân ngôn vương, tức là Ngã, tức là Chấp Kim Cang, tức là trì mật huệ ấy.

          Kế đó, tất cả tự luân nếu [được đặt] ở các chi phần, [chữ ứng với] vị trí nơi tâm (tức chữ A) thì đặt nơi tâm, [các chữ khác] thuận theo sự thuận tiện mà xếp đặt. [Chữ của chân ngôn] trụ nơi vị trí nào, vị trí ấy chính là đối tượng được trụ [bởi chân ngôn ấy]. [Vị tôn thánh tương ứng vị trí ấy] tức là Địa Thiên, hoặc tức là Diệu Âm Thiên, hoặc tức là Thường Dục, và bậc Thường Phạm Hạnh, mà cũng chính là Bổn Tôn của Thường Dục ngoại đạo. Bát La nghĩa là “giải thoát”, tức Phạm Thiên. [Người hành phạm hạnh] cũng chính là tỳ-kheo, tức là “bậc lậu tận”, hoặc tức là Diệu Cát Tường, hoặc tức là người trì bí mật, hoặc tức là bậc Nhất Thiết Trí. Nhất Thiết Kiến chính là vị vua tự tại trong hết thảy các pháp, tức là người trụ trong Bồ Đề tâm, tức là trí tánh, tức là người chẳng chấp trước trong hết thảy các pháp, tức là hết thảy đều nói trọn khắp, tức là trì cát tường, tức là chân ngôn vương, tức là Trì Kim Cang. Nói tóm lại, chính là hết thảy các thứ được xếp đặt trong Đại Mạn-đồ-la và một trăm lẻ tám danh hiệu của Như Lai[5] v.v… không gì chẳng phải là [người hành phạm hạnh]. Vì sao vậy? Do pháp thể của chữ A này thường trọn khắp hết thảy mọi nơi. Nếu có thể tương ứng như thế, chính là giống như đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì thế, trong kinh, đức Phật nói như thế. Từ trên đến đây, nói về cái tâm đã xong.

 

          (Kinh) Sở hữu chư tự luân, nhược tại ư chi phần, đương tri trụ my gian, Hồng tự kim cang cú. Sa tự tại thần hạ, thị vị liên hoa cú. Ngã tức đồng tâm vị, nhất thiết xứ tự tại, phổ biến ư chủng chủng, hữu tình cập phi tình. A tự đệ nhất mạng. Phạ tự danh vi Thủy. Ra tự danh vi Hỏa. Hồng tự danh Phẫn Nộ. Khư tự đồng hư không. Sở vị cực không điểm, tri thử tối chân thật, thuyết danh A-xà-lê. Cố ưng cụ phương tiện, liễu tri Phật sở thuyết, thường tác tinh cần tu, đương đắc bất tử cú.

          ()所有諸字輪,若在於支分,當知住眉間,吽字金剛句,娑字在脣下,是謂蓮華句。我即同心位,一切處自在,普遍於種種,有情及非情。阿字第一命,嚩字名為水,囉字名為火,吽字名忿怒,佉字同虛空,所謂極空點,知此最真實,說名阿闍梨。故應具方便,了知佛所,常作精勤修,當得不死句。

          (Kinh: Tất cả các tự luân, nếu ở nơi chi phần, nên biết trụ giữa mày. Chữ Hồng: Câu kim cang. Chữ Sa ở dưới môi, đó là câu Liên Hoa. Ngã cùng chỗ với tim, tự tại hết thảy chỗ, trọn khắp nơi các thứ, hữu tình và phi tình. Chữ A: Mạng bậc nhất. Chữ Phạ gọi là nước. Chữ Ra gọi là lửa. Chữ Hồng là Phẫn Nộ. Chữ Khư như hư không. Nó có chấm Cực Không. Bậc biết chân thật nhất, gọi là A-xà-lê. Hãy nên đủ phương tiện, biết rõ lời Phật dạy. Thường siêng ròng tu tập, sẽ đắc câu bất tử).

 

          Kế đó, xếp đặt [chữ chân ngôn căn bản] nơi thân phần. Tức là ở giữa hai mày, nên đặt chữ Hồng (हूं, Hūṃ), đấy chỗ nắm giữ của hết thảy các vị kim cang. Kế đó, ở phía trên tim bốn tấc, quán tưởng đặt chữ Sa (​), tức là chỗ trụ của hết thảy [chư tôn thuộc] Liên Hoa Thủ bộ. Tâm ta trụ trong hết thảy tự tại trọn khắp, ta đều trọn khắp các loại hữu tình và phi hữu tình. Chữ A chính là đệ nhất mạng, tức là dùng chữ A làm tâm, cho nên trọn khắp tự tại trong hết thảy mà được thành tựu. Ý nói: Chữ A ấy chẳng khác ta, ta chẳng khác chữ A, đều trọn khắp trong hết thảy các pháp hữu tình và phi hữu tình. Các pháp ấy lấy chữ A làm mạng bậc nhất. Giống như người có hơi thở ra vào, lấy đó làm mạng. Hễ [hơi thở] dứt bặt, mạng liền chẳng tiếp tục [tồn tại được nữa]. Chữ A này cũng giống như thế, hết thảy các pháp hữu tình lấy chữ này làm mạng.

          Kế đó, chữ Phạ (, Va) được gọi là Thủy (nghĩa là tưởng chữ Phạ giống như nước). Kế đó, tưởng chữ Ra (​) giống như lửa. Tiếp đó, tưởng chữ Hồng (हूं, hūṃ) chính là hết thảy các vị Phẫn Nộ Trì Minh. Lại tưởng chữ Khư (, kha) giống như hư không (phải nên có chữ Ha (), tức là gió, nay [kinh văn] chẳng nói, phải nên tra cứu). Sở dĩ quán như vậy, muốn xếp đặt hết thảy các chữ nơi thân phần này, tức là pháp trong pháp giới của hết thảy Như Lai, vạn đức đều trọn đủ. Giống như khi ngồi đạo tràng, chẳng phải tòa kim cang, sẽ chẳng thể chịu đựng được [thân thể của bậc sắp thành Chánh Giác]! Nay cũng giống như thế, muốn trọn đủ công đức của hết thảy các đức Như Lai; trước hết, cần phải dùng bốn luân đất, nước, lửa, gió và hư không; sau đấy, tác pháp đầy đủ. Do có thể chân thật bậc nhất như thế, nếu người thấu hiểu thì được gọi là A-xà-lê. Danh tự trong đàn tuy khác nhau, nhưng đều là công đức của chư Phật, vì độ người khác nên nói ra. Do đó, chư Phật nói hết thảy những điều cần phải biết, người thường siêng năng tu [những điều ấy], sẽ có thể đạt được câu bất tử. Do A-xà-lê dùng chữ A để gia trì thân, cho nên [chữ A ấy] chính là chư thiên v.v… trong hết thảy đại hội của Mạn-đồ-la. Liễu đạt ý nghĩa này, sẽ chính là bậc A-xà-lê chân thật. Kế đó, khuyên [hành nhân] thường nên tu hành như thế, sẽ đạt được câu bất tử. Đó là ý nghĩa “thường trụ”, “thường trụ” chính là Phật.



[1] Vibhu bao hàm các ý nghĩa “cường đại, kiệt xuất, chí cao vô thượng, đầy năng lực, kiên định, tự chế, vĩnh hằng, không đâu chẳng tồn tại, phổ biến trong vạn hữu”.

 

[2] Do trong tiếng Phạn, các nguyên âm đều có chứa thành tố cơ bản là chữ A, nên chữ A được coi là đầu của các chữ. Hơn nữa, bất cứ phụ âm nào gọi tên đều kèm theo âm A (chẳng hạn Ka, Ga, Gha v.v… tương ứng với các phụ âm K, G, Gh v.v... Do vậy, chữ A được coi là “đầu” của các chữ.

 

[3] Tứ Thần Túc (Catvāra-ṛddhipāda) tức là Tứ Như Ý Túc, bao gồm Dục Như Ý Túc, Cần Thần Túc (Tinh Tấn Như Ý Túc), Tâm Thần Túc (Nhất Tâm Như Ý Túc), và Quán Thần Túc (Quán Như Ý Túc).

 

[4] Ca La Thời (Kāla) tức là thời phần thông thường, tức thời gian phân chia theo quan niệm thế gian. Gọi là Ca La Thời để phân biệt với Tam Muội Da Thời (sanh diệt theo từng sát-na, còn gọi là Giả Thời, hàm ý thời gian chỉ là khái niệm do vọng tưởng so đo kiến lập, chẳng phải là thật pháp).

 

[5] Một trăm lẻ tám danh hiệu của Như Lai xuất phát từ bài Phật Nhất Bách Bát Danh Tán (Buddha Ashtottara Shatanmavali). Bài tán này đã được ngài Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng Triêu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô Tự Khanh Truyền Giáo đại sư Pháp Hộ dịch sang tiếng Hán dưới đời Tống, nhưng không ghi rõ ai là tác giả của bài tán này. Bài tán này nêu ra các danh hiệu Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu, Chánh Đẳng Giác, Nhất Thiết Trí, Đại Thích Tử, Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vô Úy, Đại Kim Tiên, Công Đức Hải, Như Lai, Ứng Cúng, Ly Nhất Thiết Cấu Nhiễm, Vô Thượng Pháp Đăng, Vô Úy Tịnh Phạn Vương Tử, Cam Giá Vương Chủng, Cù Đàm, Nhật Tộc, Cát Tường Đại Mâu Ni, Thập Lực Hàng Ma Quân v.v…

 

Comments

Popular posts from this blog