Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
2. Phẩm thứ hai: Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn
Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn Phẩm Đệ Nhị
入漫荼羅具緣真言品第二
Phẩm thứ hai là Nhập Mạn-đồ-la
Cụ Duyên Chân Ngôn. Phẩm trước dựa theo các thứ tâm tướng để biện định hết thảy
trí tâm đã xong, nhưng dùng phương tiện nào để có thể đạt tới diệu quả ấy? Do vậy,
phẩm kế tiếp bèn nói về các chi phần để trọn đủ các duyên hòng hành pháp tiến
nhập Mạn-đồ-la, và các chân ngôn cần thiết [để tác pháp. Những điều ấy] đều được
nói cặn kẽ trong phẩm này. Ví như đã biết sữa và lạc có tánh của đề-hồ, liền dạy
chuẩn bị đầy đủ các vật dụng và phương tiện để khuấy đảo, vì từ duyên mà khởi.
Hãy nên biết chẳng khác mười câu duyên sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Thanh
Văn, coi Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng) là tạng bí mật, phải chọn lựa đối tượng và
tuyển chọn đại chúng rồi mới truyền trao. Nếu [là kẻ] chưa phát tâm thọ trì luật
nghi, chẳng hợp lắng nghe, tu tập. Ma Ha Diễn cũng coi Trì Minh (hành trì Chân
Ngôn) là tạng bí mật, người chưa vào Mạn-đồ-la chẳng thích hợp đọc tụng, thọ
trì, ngược lại còn giống như kẻ trộm nghe bố-tát[1]
chuốc lấy tội nặng. Vì lẽ nào vậy? Như người đời từ ái nuôi nấng con thơ, tuy
lòng chẳng keo tiếc gì, nhưng chẳng ban cho chúng nó [hai thanh gươm báu] Can
Tương và Mạc Da, do chúng nó chẳng biết phương tiện vung, múa, ắt sẽ tổn thương
thân thể. Nay pháp môn này cũng giống như thế, do chỉ thú “tức tâm thành Phật” khó biết, sợ
chúng sanh trong đời vị lai sẽ khinh mạn pháp, chẳng thể tìm hỏi thiện tri thức,
chưa được Tam Mật gia trì, mà tự khởi tâm suy đoán, chấp vào văn tự, tự tiện tu
học, đổ công dốc sức đã lâu mà chẳng thể thành tựu, liền ngược ngạo báng bổ
kinh này chẳng phải do đức Phật nói.
Hơn nữa, kinh văn trong
kinh này có hai cách giải thích “sơ sài, nông cạn” và “sâu xa, bí mật”, mà
trong cách giải thích “sâu xa, bí mật” lại có sâu và cạn. Kẻ tự tiện giở xem chơi, do chẳng hiểu danh hiệu bí mật, quở là nhân duyên
sự tướng, sanh tâm khinh mạn, coi thường, tự nói: “Ta hành chân đạo, cần gì dùng tới chuyện thuộc chú thuật!” Do
nhân duyên như thế, cảm lấy nghiệp quỹ pháp (ngăn trở chẳng cho pháp lưu truyền),
trong vô lượng kiếp đọa vào đường ác. Vì thế, đối với người tu học Chân Ngôn,
trước hết, phải dạy họ nhập Mạn-đồ-la. Danh nghĩa Mạn-đồ-la sẽ được giải thích
trong phần sau.
(Kinh) Nhĩ thời,
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn! Thuyết thử chư Phật
tự chứng Tam Bồ Đề bất tư nghị pháp giới siêu việt tâm địa, dĩ chủng chủng
phương tiện đạo, vị chúng sanh loại như bổn tánh tín giải, nhi diễn thuyết
pháp. Duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân Ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng sanh đại
Mạn-đồ-la vương, vị mãn túc bỉ chư vị lai thế vô lượng chúng sanh, vị cứu hộ an
lạc cố.
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:希有世尊!說此諸佛自證三菩提不思議法界超越心地,以種種方便道,為眾生類如本性信解而演說法。惟願世尊次說修真言行大悲胎藏生大漫荼羅王,為滿足彼諸未來世無量眾生、為救護安樂故。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu, nói
tâm địa siêu việt pháp giới chẳng thể nghĩ bàn do chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề
này, dùng các thứ đạo phương tiện, vì các loài chúng sanh, đúng như sự tín giải
trong bổn tánh của họ mà diễn nói pháp. Kính mong đức Thế Tôn kế đó hãy nói
cách tu Chân Ngôn hành Đại Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, nhằm thỏa ý,
vì cứu giúp, an vui vô lượng chúng sanh trong đời vị lai).
Đây chính là ngài Kim Cang Thủ
do nương vào thần lực của đức Phật mà lãnh ngộ phần kinh văn trên đây. Trước hết,
Ngài tán thán đức Thế Tôn hết sức kỳ đặc, vì đức Phật trọn đủ đại phương tiện,
nên mới có thể nói Tam Bồ Đề do chư Phật tự chứng, tức là: Tự tâm tự giác pháp
giới chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài hết thảy các tâm địa, đích xác là chẳng
nương tựa vào đâu. Như người đời giở chân, cất bước, đều nương vào đất; Bồ Tát
cũng như thế, nương vào tâm mà thực hiện. Vì thế, gọi tâm ấy là “địa”. Do tâm hễ còn có chỗ để nương
vào, sẽ chưa thể gọi là Chánh Biến Tri. Như Lai đã vượt ngoài sự hý luận vi tế ấy,
các sự tiến nhập (tu chứng) đều ngưng dứt, cho nên gọi là “siêu việt tâm địa”. Tuy chẳng thể diễn
tả sự tịch diệt rốt ráo bằng ngôn từ, nhưng có thể dùng đủ loại phương tiện đạo,
vì các loài chúng sanh, đúng như sự tín giải trong bổn tánh của họ để diễn nói
pháp, tức là lãnh ngộ, thấu hiểu dấu tích của sự trang nghiêm vô tận nơi cái
tâm Nhất Thiết Trí. Pháp giới chẳng nghĩ bàn được sánh ví như đài hoa sen; các
thứ phương tiện đạo được ví như cánh sen. Kinh văn nói về sự lãnh ngộ, thấu hiểu
ấy tuy giản lược, nhưng đã nêu bày ý chỉ mầu nhiệm “tông thông” không gì chẳng trọn vẹn!
Kế đó là thỉnh Phật, “duy
nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la
Vương” (kính mong đức Thế Tôn kế đó hãy nói hạnh Chân Ngôn của Đại Bi
Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương). Nay xét theo thai tạng (bào thai) để làm thí dụ.
Hành giả vừa mới phát tâm Nhất Thiết Trí, giống như do nhân duyên cha mẹ hòa hợp,
chủng tử của thức nương gá vào thai. Lúc bấy giờ, sẽ dần dần tăng trưởng, được
gió hạnh nghiệp khéo hun đúc. Cho đến khi mới sanh ra, các căn, trăm thể thảy đều
trọn đủ, bắt đầu sanh trưởng trong dòng họ của cha mẹ. Ví như [hành giả] nương
vào Chân Ngôn môn, học đại bi vạn hạnh, tịnh tâm hiển hiện. Lại nữa, đứa trẻ ấy
dần dần trọn đủ nhân và pháp, học tập các tài khéo. Đã thông đạt tài khéo rồi,
sẽ thực hiện các sự nghiệp. Như trong tịnh tâm, phát khởi phương tiện tu tập, đối
trị trong địa vị của chính mình, tùy duyên lợi vật (lợi ích các loài chúng
sanh), tế độ chúng sanh. Vì thế gọi là “Đại
Bi Thai Tạng sanh”. Lại nữa, thoạt đầu nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh môn, thấy
pháp, hiểu đạo, giống như chủng tử của thức [tiến nhập] Ca La La[2].
Trước khi [hành nhân] đạt tới Thất Địa, được đại bi vạn hạnh bao bọc, nuôi dưỡng,
giống như ở trong thai tạng. Từ địa vị Vô Công Dụng Hạnh trở đi, dần dần học
theo phương tiện của Như Lai, như trẻ nít đã sanh ra, học tập các tài khéo. Khi
đã đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí của Như Lai, giống như tài khéo đã thành tựu,
bèn theo đuổi việc cai trị. Vì thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng sanh”.
Lại còn là một loại bí mật Mạn-đồ-la, nay dùng hoa sen để
sánh ví ý nghĩa Mạn-đồ-la ấy. Như hạt sen còn ở trong vỏ cứng, tánh của cành,
nhánh, hoa, lá đã rành rành trọn đủ, giống như cái tâm chủng tử của thế gian. Từ
đấy, dần dần tăng trưởng, cho đến khi mới trổ thành búp sen, thì gương sen và hạt
sen được ẩn giấu trong cánh sen, như cái tâm xuất thế gian vẫn còn ở trong Uẩn.
Lại do được cánh sen bao bọc, chẳng bị các duyên “gió, lạnh” tổn thương, tua,
nhụy màu sắc thanh tịnh ngày đêm được vun bồi. Ví như Đại Bi Thai Tạng đã thành
tựu, [hoa sen] được chiếu rạng, nở xòe dưới ánh mặt trời, giống như phương tiện
đã trọn đủ.
Nay trong ý nghĩa của Diệu Pháp Liên Hoa Mạn-đồ-la ở đây,
cái tâm thường hằng nơi bổn địa của đức Tỳ Lô Giá Na được cụ thể hóa thành đài
sen, bốn vị Phật (Vô Lượng Thọ, Bảo Tràng, Khai Phu Hoa Vương, và Thiên Cổ Lôi
Âm), bốn vị Bồ Tát (Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Di Lặc) là đề hồ quả đức, như
các hạt sen đã đều kết thành. Các kim cang huệ sai biệt trí ấn nhiều như số vi
trần trong mười thế giới giống như tua, nhụy. Các Đại Bi vạn hạnh Ba La Mật môn
nhiều như số vi trần trong mười thế giới ví như hoa tạng. Vô lượng Ứng Thân
trong tam thừa lục đạo giống như rễ, thân, cành, lá, xen lẫn tỏa rạng. Do các đức
như thế vây quanh trọn khắp, nên gọi là Mạn-đồ-la. Nhưng do được Như Lai gia
trì, từ đức tự chứng nơi Bồ Đề của Phật, hiện ra thân thai tạng nơi tám cánh
sen (Trung Đài Bát Diệp). Từ Kim Cang mật ấn, hiện ra tầng nội quyến thuộc thứ
nhất như Kim Cang Thủ v.v… Từ đại bi vạn hạnh, hiện
ra tầng đại quyến thuộc thứ hai gồm các vị Ma Ha Tát Đỏa. Từ phương tiện phổ
môn, hiện ra tầng thứ ba gồm các thân theo từng loại mà hết thảy chúng sanh
thích thấy. Nếu dùng cách quán đảnh của Luân Vương để so sánh thì tầng thứ ba
giống như người đứng đầu trong vạn quốc, tầng thứ hai như trăm quan thuộc triều
đình, tầng thứ nhất như người phù tá thuộc tông thất, trung đài như vị vua
khoanh tay. Vì thế, Thường Trí trong hoa đài là đại Mạn-đồ-la vương.
Nếu từ Bổn mà hiện Tích,
thì từ mỗi môn của Trung Đài, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ nhất. Từ
mỗi môn thuộc tầng thứ nhất, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ hai. Từ mỗi
môn thuộc tầng thứ hai, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ ba. Nếu do tu
hành cái nhân mà đạt tới quả, thì sự thành tựu được dẫn nhiếp thuộc tầng thứ ba
có thể thông tới tầng thứ hai, sự thành tựu được dẫn nhiếp nơi tầng thứ hai có
thể thông tới tầng thứ nhất, sự thành tựu được dẫn nhiếp ở tầng thứ nhất có thể
thấy trong Thai Tạng. Do vậy bèn nói, tuy sự tín giải nơi bổn tánh của các loài
chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng nghĩa lợi[3]
được thực hiện bởi pháp môn Mạn-đồ-la này vẫn bao gồm trọn hết, không gì thừa
sót. Do vậy nói: “Vị mãn túc bỉ chư vị
lai thế vô lượng chúng sanh, vị cứu hộ an lạc cố” (Vì thỏa mãn vô lượng
chúng sanh trong đời vị lai, vì cứu giúp an vui).
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô
Giá Na ư đại chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: “Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh, mãn túc Nhất
Thiết Trí trí pháp môn”. Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn tích thệ nguyện
thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết Như
Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa.
Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất hiện Như Lai chi thân, vị bỉ tùng sơ
phát tâm, nãi chí Thập Địa chư chúng sanh cố, biến chí thập phương, hoàn lai Phật
thân bổn vị, bổn vị trung trụ, nhi phục hoàn nhập.
(經)爾時,薄伽梵毘盧遮那於大眾會中遍觀察已,告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!今說修行漫荼羅行滿足一切智智法門。爾時毘盧遮那世尊本昔誓願成就無盡法界度脫無餘眾生界故,一切如來同共集會,漸次證入大悲藏發生三摩地,世尊一切支分皆悉出現如來之身,為彼從初發心乃至十地諸眾生故,遍至十方還來佛身本位,本位中住而復還入。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng hội, quán sát trọn khắp
xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lắng nghe! Kim Cang Thủ! Nay ta nói
pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí”. Lúc bấy giờ, do
thệ nguyện vốn có xưa kia của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn là “thành tựu vô tận pháp giới,
độ thoát chúng sanh giới chẳng sót”, hết thảy Như Lai đều cùng nhóm họp, lần lượt
chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa. Nơi hết thảy chi phần của đức Thế
Tôn, thảy đều xuất hiện thân Như Lai, vì các chúng sanh từ sơ phát tâm cho đến
Thập Địa mà đến trọn khắp mười phương, trở lại bổn vị nơi thân Phật, trụ trong
bổn vị rồi lại nhập trở vào).
Kinh dạy: “Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại
chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế
thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh, mãn túc Nhất Thiết Trí
trí pháp môn” (Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng
hội, quán sát trọn khắp xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Kim Cang Thủ!
Hãy lắng nghe! Nay ta sẽ nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh, trọn vẹn trí Nhất
Thiết Trí”): “Đại hội” ở đây
chính là chúng sanh đáng nên độ, được nhiếp thọ bởi Pháp Giới Mạn-đồ-la. Nay đức
Phật muốn nói hạnh thâm mật, nhằm khiến cho đạo cơ chẳng sai lạc, bèn dùng huệ
nhãn quán sát. Tức là [chúng sanh] do được huệ nhãn ấy gia trì, mầm thiện từ đời
trước không gì chẳng được khai phát. Giống như ruộng tốt đã được rải hạt giống
tốt, kham được mưa đúng thời tưới tắm. “Tu
hành” ở đây, tiếng Phạn là Na Da (Naya), có nghĩa là Thừa hoặc Đạo. Ý
nói từ một niệm thiện căn cho đến khi thành Phật, trong khoảng giữa ấy, pháp được
vận dụng và đạo được hành trong mỗi địa vị, đều được gọi chung là Na Da. Các vị
thiện tri thức trong Mạn-đồ-la như người tạo cỗ xe, đắp đường, và hướng dẫn,
chúng sanh ngồi xe ấy để đi, gọi là “tu
Mạn-đồ-la hạnh”. Hạnh này trong tiếng Phạn là Chiết-lợi-da.
Lại như kinh văn trong phần
sau có nói: “Tiên vị đệ tử trạch trị
bình địa” (Trước hết, vì đệ tử chọn lựa, sửa sang cuộc đất bằng phẳng),
nếu luận theo sự tướng bên ngoài thì như cách giải thích thông thường. Nếu vì
phàm phu điên đảo chấp ngã, chọn lấy một niệm chủng tử tâm, giữ gìn trai giới,
sửa trị, khiến cho [tâm người ấy] bình thản, chánh đáng, thì cũng gọi là “trị địa” (sửa sang cuộc đất). Cho đến
vì Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát chọn lựa trừ khử trần cấu cực vi tế nơi cha mẹ vô
minh trong tâm, cũng gọi là “trị địa”.
Do vậy bèn nói: Ý nghĩa “trị địa”
được nói trong mỗi câu kinh văn thuộc phần sau đều có mấy tầng. Giống như mười
câu duyên sanh, đều lần lượt chuyển thành sâu hơn, chẳng thể cùng tận! Ngài Chấp
Kim Cang khuyến thỉnh như thế, đức Phật lại dùng cái ấn ấy để ấn chứng, sau đó
rộng nói, cho nên bảo là “mãn túc Nhất
Thiết Trí trí pháp môn” (pháp môn trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí). Nếu địa
này chẳng mãn, sẽ chẳng thể cứu giúp, an vui trọn khắp hết thảy chúng sanh được!
Kinh dạy: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn tích thệ
nguyện thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết
Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa”
(Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn do thệ nguyện vốn sẵn có từ xưa kia là
“thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng sanh giới chẳng sót”, hết thảy các
Như Lai đều cùng nhóm họp, lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa):
Do Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đã lập thệ nguyện như thế này: “Ta sẽ thành tựu hết thảy các Phật pháp giới,
thảy đều độ thoát chúng sanh giới chẳng thừa sót”. Nay sở nguyện đã mãn, nhưng chúng
sanh đáng độ chẳng tận. Do chúng sanh vô tận, tức là pháp giới cũng vô tận. Giới
có ba loại, tức là pháp giới, tâm giới, và chúng sanh giới. Lìa pháp giới, chẳng
có chúng sanh giới nào khác; chúng sanh giới chính là pháp giới. Lìa tâm giới,
chẳng có pháp giới nào khác; pháp giới chính là tâm giới. Hãy nên biết ba loại ấy
chẳng hai, chẳng khác. Vì muốn diễn giải ý nghĩa của pháp giới, kế đó nói tới “vô dư chúng sanh giới”. Do chúng
sanh giới chưa được giải thoát hết thảy, tức là pháp giới chưa được thành tựu
trọn khắp, nên Như Lai siêng tu sự nghiệp, chẳng hề ngưng nghỉ. Tức là do nhân
duyên bổn nguyện này, hết thảy Như Lai cùng nhau tụ tập. Như trong tăng chúng
có đại sự nhân duyên như kết giới, thuyết giới v.v… Tăng chúng liền nhóm lại
cùng nhau ấn chứng, tiến hành. Do có cùng một giới, cùng một cách nhìn, chẳng
nên có chúng khác. Nay sắp nói pháp môn “trọn
vẹn trí Nhất Thiết Trí”, cũng là đại sự nhân duyên của chư Phật, do [chư
Phật] có cùng một bổn thệ, cùng một pháp giới, nên thảy đều nhóm họp, cùng dùng
thần lực gia trì.
“Tiệm thứ chứng nhập” (Lần lượt chứng nhập): Như lúc vô úy sơ khởi,
dùng âm thanh và chữ [trong chân ngôn] để quán tu Mạn-đồ-la hạnh. Loại vô úy thứ
hai thì tu Mạn-đồ-la hạnh trong hữu tướng quán. Loại vô úy thứ ba thì tu Mạn-đồ-la
hạnh, trong tâm chỉ có Uẩn, không có ngã. Loại vô úy thứ tư thì tu Mạn-đồ-la hạnh
trong tâm pháp duyên. Loại vô úy thứ năm, tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm vô duyên.
Loại vô úy thứ sáu, tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm bình đẳng. Từ Ly Cấu Địa trở
đi, đều tu Mạn-đồ-la hạnh trong quán tâm thuộc mỗi địa vị của chính mình. Đại
lược phân chia theo hạnh vị, bèn có mười sáu tầng sâu cạn khác nhau. Trong mỗi
hạnh vị ấy, đều có Bồ Đề chủng tử tâm, có nhân duyên tăng trưởng Đại Bi Thai Tạng,
có cái quả thọ dụng của huệ phương tiện nghiệp như trong phần trước đã nói: “Từ mỗi môn đều lưu xuất các loại môn”. Trong đó, từ nhân hướng tới quả,
phương tiện Tam Mật lần lượt khác nhau, dung hội tột bậc tới biển cả tâm vương
thì mới là “có cùng một vị, chẳng
khác”. Nay mười phương chư Phật vốn khi hành Bồ Tát đạo, mỗi vị đều
nương theo một pháp môn để đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí. Do sắp nói nhân duyên
phát khởi các hạnh Phổ Môn, [chư Phật] bèn cùng nhập Đại Bi Thai Tạng tam-muội
này, từ đạo do chính mình vốn đã tu hành, lần lượt chứng nhập, mỗi mỗi quán
sát. Như khi Bồ Tát tu Thiền, trong Cửu Thứ Đệ Định, xuất nhập nghịch thuận, vượt
ngoài định hay tán, phấn tấn du hý, không gì chẳng tự tại. Các vị Như Lai ấy lần
lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa cũng giống như thế: Hoặc quán
vô tận pháp giới, lấy hết thảy các tâm làm một tâm, dùng hết thảy các môn làm một
môn. Hoặc quán chúng sanh giới chẳng thừa sót, dùng một tâm làm hết thảy các
tâm, lấy một môn làm hết thảy các môn. Nếu vận dụng mười sáu tầng huyền nghĩa ấy,
sẽ là ngang dọc đều nhiếp trọn mười hai bộ loại kinh, tức là lần lượt xoay chuyển
vô tận vậy!
Kinh dạy: “Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất
hiện Như Lai chi thân” (Trong hết thảy các chi phần của đức Thế Tôn, thảy
đều xuất hiện thân Như Lai). Trong phần trước, khi hiện trang nghiêm tạng, mỗi
thân Phổ Môn đều trọn khắp mười phương, tùy duyên ứng hợp căn cơ của chúng
sanh. Nay do muốn nói địa vị viên mãn trong Mạn-đồ-la, lại dựa theo thượng,
trung, hạ thể của thân Phật để phân chia theo bộ loại:
1) Từ rốn trở xuống, thị hiện
sanh thân của Phật Thích Ca, thị hiện giống như pháp của loài người, các thứ
hình sắc, oai nghi của Nhị Thừa và sáu đường, tiếng nói, đàn, tòa mỗi mỗi khác
biệt, và các quyến thuộc lần lượt khác nhau, khắp trong tám phương, đúng theo
thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
2) Từ rốn trở lên tới họng,
xuất hiện vô lượng các Bồ Tát Thập Trụ, mỗi vị đều duy trì thân Tam Mật, cùng
vô lượng quyến thuộc, khắp trong tám phương đều theo thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la
mà trụ. Nhưng trong ấy có hai tầng:
a. Từ tim trở xuống là các
đại quyến thuộc trì đại bi vạn hạnh số nhiều như vi trần trong mười cõi Phật.
b. Từ tim trở lên là các nội
quyến thuộc trì kim cang mật huệ số nhiều như vi trần trong mười cõi Phật, được
gọi chung là “đại tâm chúng”.
3) Từ họng đến đỉnh đầu, xuất
hiện thân Phật thuộc quả đức Tứ Trí tam-muội.
Tức là tám thân ấy, ở trong
hết thảy các thế giới, đồ chúng, cõi nước, danh hiệu, thân nghiệp, các chuyện
thọ dụng, thảy đều bất đồng, cũng ở trong tám phương theo thứ tự của bổn vị
trong Mạn-đồ-la mà trụ.
Kinh dạy: “Vị bỉ tùng sơ phát tâm nãi chí Thập Địa chư
Bồ Tát” (Vì các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa), tức là khi mới
phát Bồ Đề tâm thanh tịnh, thấy Mạn-đồ-la này đã trọn khắp pháp giới. Thăng lên
Đệ Nhị Trụ, lại càng sâu rộng hơn, lại càng mở rộng, sáng suốt hơn, cho đến Đệ
Thập Nhất Địa, cái thấy mới viên mãn cùng cực. Xếp đặt phận vị như thế xong, đều
tới khắp mười phương, ở trong pháp giới môn của chính mình mà thực hiện sự nghiệp
Chân Ngôn, thị hiện tấn tu theo thứ tự, làm vị dạy bảo chủ yếu cho đại chúng.
Tướng ấy hiện tiền rành mạch, vô ngại. Kinh văn được nói trong phần sau chỉ nhằm
nêu bày cái tâm này, gán cho nó một danh tự để lưu thông đó thôi! Lại còn tùy
loại mà hiện thân trọn khắp. [Kinh văn] lại còn nói “tất hiện Như Lai thân” (đều hiện thân Như Lai), nhằm nêu rõ Bổn
và Tích đều chẳng thể nghĩ bàn, gia trì bất nhị, há có muốn khiến cho độc nhất
một pháp giới dấy lên các thứ hình tượng ư? Khi hành giả đã hiểu như thế, sẽ thấy
Tỳ Lô Giá Na và quỷ, súc sanh tôn quý như nhau. Cái tâm bình đẳng, chẳng có tướng
“hơn, kém”, liền từ một môn mà nhập, đều thấy tâm vương. Vì thế, [chư Phật] thực
hiện Phật sự xong, kinh nói: “Biến chí
thập phương, hoàn lai nhập Phật thân bổn vị, bổn vị trung trụ nhi phục hoàn nhập”
(Tới trọn khắp mười phương, trở lại nhập vào bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn
vị rồi lại nhập vào), ý nói hết thảy các phương tiện rốt ráo đồng quy.
(Kinh) Thời, Bạc Già Phạm phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế
thính, Kim Cang Thủ! Mạn-đồ-la vị sơ a-xà-lê ưng phát Bồ Đề tâm, diệu huệ từ
bi, kiêm tổng chúng nghệ, thiện xảo tu hành Bát Nhã Ba La Mật, thông đạt tam thừa,
thiện giải chân ngôn thật nghĩa, tri chúng sanh tâm, tín chư Phật, Bồ Tát, đắc
truyền giáo quán đảnh đẳng, diệu giải mạn-đồ-la họa, kỳ tánh điều nhu, ly ư ngã
chấp. Ư Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định, cứu tập Du Già, trụ dũng kiện Bồ
Đề tâm. Bí Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật, Bồ Tát chi sở xưng
thán.
(經)時,薄伽梵復告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!漫荼羅位初阿闍梨應發菩提心,妙慧慈悲兼綜眾藝,善巧修行般若波羅蜜,通達三乘,善解真言實義,知眾生心,信諸佛菩薩,得傳教灌頂等妙解漫茶羅畫,其性調柔離於我執,於真言行善得決定,究習瑜伽,住勇健菩提心。祕密主,如是法則阿闍梨,諸佛菩薩之所稱讚。
(Kinh: Khi đó, Bạc Già Phạm
lại bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, Kim Cang Thủ! Điều trước hết
trong Mạn-đồ-la là vị A-xà-lê hãy nên phát Bồ Đề tâm, diệu huệ, từ bi, kiêm
thông thạo mọi nghề, khéo léo tu hành Bát Nhã Ba La Mật, thông đạt tam thừa,
khéo hiểu ý nghĩa chân thật của chân ngôn, biết tâm chúng sanh, tin tưởng chư
Phật, Bồ Tát, đã được truyền giáo pháp, quán đảnh v.v… thông hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la,
bẩm tánh thuần hòa, mềm mỏng, lìa khỏi Ngã Chấp, khéo đạt được quyết định nơi hạnh
Chân Ngôn, nghiên cứu, tu tập Du Già, trụ trong Bồ Đề tâm mạnh mẽ. Bí Mật Chủ!
Vị A-xà-lê đúng pháp tắc như thế được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi).
Từ đây trở đi cho đến lúc
phần dạy răn quán đảnh đã xong, Kim Cang Thủ hỏi [đức Thế Tôn, hành nhân] sẽ đạt
được mấy loại khối phước, bèn bạch Phật rằng: “Tùng kim dĩ hậu, ngã đương cúng dường thị thiện nam tử, thiện nữ nhân.
Hà dĩ cố? Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến Phật Thế Tôn cố” (Từ
nay trở đi, con sẽ cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì sao vậy? Do
[thấy] thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, giống như thấy Phật Thế Tôn). Phần này
nói tới nhiều chi phần[4]
để nhập Mạn-đồ-la. Lại từ phần Đại Lực Minh Phi cho tới cuối phẩm thứ hai,
sẽ nói về các chân ngôn cần thiết để tác pháp trong đàn tràng. Đối với các chi
phần [để nhập mạn-đồ-la], trước hết là chi phần (tiểu đoạn) nói về [phẩm đức của]
A-xà-lê. Vì lẽ nào vậy? Đức Phật nói “kinh
này phải được thọ trì từ thầy, chớ nên tự tiện tu hành”. Nếu chẳng có
minh sư, sẽ chẳng thể nhờ vào đâu để được truyền thọ! Nhưng do hiểu hai loại
nghĩa mà được gọi là A-xà-lê; tức là chia thành “nông cạn, sơ sài” và “cao sâu”
[để luận định]. Nếu thấy người học chưa có cơ duyên tin hiểu sâu xa, bèn thuận
theo đường lối thông thường, dựa theo kinh văn để giải thích. Nếu [người đến học]
đã thành tựu trí huệ, lợi căn, ắt nên diễn nói thông suốt chỗ sâu xa, bí mật để
dạy bảo. Nay tôi dùng hai cách phân định ấy để giải thích ý nghĩa A-xà-lê.
Nếu đối với các loại chi phần
của Mạn-đồ-la này, cho đến hết thảy chân ngôn, thủ ấn, quán hạnh và Tất Địa của
hết thảy chư tôn (các vị Phật, Bồ Tát, thánh chúng trong Mạn-đồ-la) thảy đều
thông đạt, sẽ có thể truyền giáo, quán đảnh, bèn gọi là A-xà-lê (Ācārya). Nếu vượt khỏi tám tâm trái nghịch hay tùy thuận, chứng tịch nhiên giới,
thì gọi là A-xà-lê. Nếu tâm vương của chính mình tự tại, hiểu rõ “tự tâm vốn bất sanh” thì gọi là
A-xà-lê. Nếu sanh khởi cực vô tự tánh tâm, được nhập các hải hội Mạn-đồ-la như
trên, thì gọi là A-xà-lê. Từ đây trở đi, lại có mười tầng hạnh sâu, cho đến là
bậc thượng thủ cao tột nhất trong những người thấu hiểu Tam Mật, như ngài Kim
Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), thì gọi là A-xà-lê. Lại nữa, đức Tỳ Lô Giá Na được
gọi là A-xà-lê. Vì thế, khi thực hiện sự nghiệp đầu tiên của bậc A-xà-lê, cần
phải quán chiếu thân mình giống hệt Kim Cang Tát Đỏa và Tỳ Lô Giá Na, dùng thân
ngữ mật ấn để gia trì, bèn gọi là “thiện
trụ sư vị” (khéo trụ trong địa vị làm thầy). Nếu không, chẳng có gì có
thể thành được! Đối với các hạnh sâu khác, [độc giả] có thể tự lãnh hội. Kế đó,
[chánh kinh] nói về các đức của bậc A-xà-lê.
Kinh dạy: “Ưng phát Bồ Đề tâm” (Hãy nên phát Bồ
Đề tâm), tức là sanh thệ nguyện quyết định, một mực dốc chí mong cầu trí Nhất
Thiết Trí, ắt sẽ phổ độ pháp giới chúng sanh. Tâm ấy giống như tràng, cờ, dẫn dắt
các hạnh. Ví như chủng tử là căn bản của muôn đức. Nếu chẳng phát cái tâm ấy,
cũng như [thần thức] chưa gá vào Ca La La, Đại Bi Thai Tạng dưỡng dục bằng cách
nào? Tự mình chẳng thể kiến lập thiện căn, còn toan làm thầy của người khác ư?
Hãy nên ước theo từng địa vị để giải thích sâu xa, bí mật, cho đến Tỳ Lô Giá Na
thì mới gọi là “vô tận pháp giới rốt
ráo phát tâm” vậy.
Kinh nói: “Diệu huệ từ bi”, Bát Nhã có hai loại,
tức Bát Nhã do hòa hợp với Lục Ba La Mật và Thật Tướng Bát Nhã. Ở đây có ý nói
đến câu thứ nhất (tức “Bát Nhã do hòa
hợp với Lục Ba La Mật”). Trí huệ ấy giống như xảo phong (gió nghiệp thức),
có thể đúc nặn cái tâm của Ca La La, khiến cho trăm thể [của phôi thai] được
thành tựu. Hành giả do có trí huệ, sẽ có thể khéo biết “thông, tắc”, phán đoán
đúng sai, ứng xử phù hợp quy củ trong hết thảy các sự nghiệp thuộc Mạn-đồ-la,
tâm chẳng ngờ vực, vướng mắc, bèn kham làm bậc A-xà-lê. Nói tóm lại, nếu trí
nghiệp viên mãn giống như Tỳ Lô Giá Na thì gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”. “Từ
bi” tức là tâm thương xót, thấu xương lọt tủy, các hành vi đều nhằm kiến
lập chúng sanh, ắt đều khiến cho họ thành tựu niềm vui sướng vô tận trong pháp
giới, độ thoát nỗi khổ của chúng sanh giới chẳng sót. Nếu chẳng có cái tâm ấy,
sẽ như thai tạng chẳng thể kết thành, sao có thể dưỡng dục cho được? Cho đến Tỳ
Lô Giá Na Phật do bổn nguyện, trụ trong thế giới gia trì, hiện trọn khắp Bi
Sanh Mạn-đồ-la, thì gọi là “thâm bí
A-xà-lê”.
“Kiêm tổng chúng nghệ” (Gồm thâu các tài nghệ) tức là khéo thông
thạo các thứ tài nghệ trong thế gian, như thanh luận (Thanh Minh), nhân luận
(Nhân Minh Học), mười tám minh xứ[5],
sáu mươi bốn kỹ năng, toán số, phương dược (thuốc men, y thuật), xem tướng, các
nghề khéo. Vì đối với những điều cần thiết trong Mạn-đồ-la, đều chẳng cần phải
nhờ cậy ai khác; do vậy, có bản lãnh thực hiện, chẳng phạm lỗi thiếu khuyết.
Sau đấy, kham làm bậc A-xà-lê. Lại nữa, trong khi hành pháp như thế, trọn chẳng
mâu thuẫn với Thật Tướng, gọi là “diệu
thiện chúng nghệ”. Lại nữa, trong hết thảy các tổng trì, tam-muội môn, đạo
phẩm, các độ, tứ biện tài, tứ nhiếp, lực, vô úy v.v… đều đạt được thiện xảo, ắt
có thể tùy ý tạo tác bí mật Mạn-đồ-la, bèn gọi là “diệu thiện chúng nghệ”.
“Thiện xảo tu hành Bát Nhã Ba La Mật” (Khéo léo tu hành Bát Nhã
Ba La Mật) tức là tu sâu xa, quán sát mười câu duyên sanh, thấy Trung Đạo rất
sâu, chiếu bất khả đắc Không. Chuyện ấy như trong kinh Ma Ha Bát Nhã đã nói chi
tiết. Nếu hành giả đối với văn tự và quán tâm, khéo thông đạt, lìa khỏi kiến chấp,
bèn đáng làm bậc thế gian A-xà-lê cho người khác. Lại nữa, trí huệ trong
[A-tăng-kỳ] kiếp đầu tiên cùng hành giống như Nhị Thừa, chẳng phải là Bát Nhã
sâu xa. Trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai thì do cùng nghe với hàng Nhị Thừa,
cũng chẳng phải là Bát Nhã rất sâu. Trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba, tâm giống
như hư không, trí huệ vô biên, hết thảy Nhị Thừa đều chẳng thể nghĩ bàn, bèn gọi
là Bát Nhã rất sâu, kham làm bậc A-xà-lê bí mật hạnh. Trong bí mật, lại lần lượt
chuyển thành sâu dần, cho đến đức Phật vì hàng Thập Địa nói Bát Nhã, tức chẳng
phải là cảnh giới của Cửu Địa, chỉ có Đại Tỳ Lô Giá Na được gọi là “cứu cánh A-xà-lê”.
“Thông đạt tam thừa” tức là khéo thông đạt văn nghĩa của tam tạng
giáo pháp trong Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có thể cật vấn, có thể đáp, kham hun
đúc, thành tựu Tam Học, dẹp trừ ác tà (ác kiến, tà kiến) cho đệ tử, bèn có thể
làm A-xà-lê. Nếu chẳng phải vậy, sẽ có thể bị khuất phục bởi các luận nghị sư
khác, tức là chẳng có sức truyền pháp, sẽ sanh khởi cái tâm bất tín cho người
khác. Lại nữa, tông chỉ trong kinh này theo chiều ngang thống nhiếp hết thảy
các giáo pháp của Phật, như nói “duy Uẩn
vô ngã, tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn”, tức là thống nhiếp Tiểu Thừa
Tam Tạng trong các bộ. Như nói “quán Uẩn
A Lại Da, thấu hiểu tự tâm vốn bất sanh”, tức là thống nhiếp ý nghĩa “tám thức, ba vô tánh” trong các
kinh. Như nói mười câu duyên sanh thuộc cực vô tự tánh tâm, tức là các thứ cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc Hoa Nghiêm và Bát Nhã đều được gộp trong đó. Như
nói “biết tự tâm đúng như thật thì gọi
là Nhất Thiết Chủng Trí” tức là Như Lai bí tạng Nhất Thừa thuộc Phật
tánh đều được gộp trong đó. Đối với các thứ thánh ngôn, không gì chẳng thống
nhiếp các điều tinh yếu. Nếu có thể trì tâm ấn ấy, rộng khai hết thảy các pháp
môn, thì gọi là “thông đạt tam thừa”.
Lại nữa, Chân Ngôn môn nương vào ấn Tam Mật mà đạt tới địa vị tam bình đẳng[6] của Phật
thì gọi là “thông đạt tam thừa”.
Tầng lớp cạn sâu như trong phần trước đã nói.
“Thiện giải chân ngôn thật nghĩa” (Khéo hiểu nghĩa chân thật của
chân ngôn), như trong Chân Ngôn môn có các thứ chân ngôn, các thứ thân ấn (ấn
khế được biểu hiện nơi thân hành giả), các thứ Bổn Tôn, cho đến các vật đầy đủ
duyên, mỗi mỗi chi phần, âm, chữ, hình sắc, các tướng khác biệt, biết pháp như
thế sẽ dùng để “tịch tai” (寂災, chấm dứt
tai ương), pháp như thế dùng để tăng ích, pháp như thế dùng để hàng phục, như
Trì Minh Tạng Tô Tất Địa v.v… đã rộng nói phân biệt. Đấy là thông đạt thật
nghĩa của Chân Ngôn. Vì lẽ nào vậy? Mỗi chân ngôn đều là lời mầu nhiệm cùng tột
của Như Lai. Như trong chân ngôn có chữ Chất-đa (Citta), dịch ở mức độ nông cạn
thì chỉ là “tâm”. Nếu giải
thích theo lối sâu xa, bí mật, Chất (質) chính là chữ Giá (遮) kèm theo âm thanh tam-muội[7].
“Giá” có nghĩa là “không biến đổi”. “Không biến đổi” chính là Phật tánh,
Phật tánh cũng gọi là Bát Nhã Ba La Mật, còn gọi là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội.
Vì thế, Định Huệ trọn đủ. Chữ Đa có nghĩa “hết thảy các pháp như như, giải thoát, chẳng thể được”. Nếu nói
cái tâm như thế, bèn gọi là “diệu cực
chi ngữ” (lời tuyệt diệu).
Lại nữa, như thân ấn, tay
trái nghĩa là tam-muội, tay phải là nghĩa Bát Nhã, mười ngón tay nghĩa là mười
Ba La Mật trọn đủ, cũng nhằm sánh ví ý nghĩa ngũ luân của Nhất Thiết Trí. Như
trong hình tượng Bổn Tôn, nữ là Thiền Định, nam là trí huệ, màu vàng là thân
kim cang, trắng là đại bi, đỏ là đại huệ, xanh là đại không, đen là đại lực,
cho đến trong hết thảy các duyên, đều có ý nghĩa Đệ Nhất Thật Tế, há có nên dựa
theo văn tự để hiểu hay chăng? Nếu thông đạt thật nghĩa như thế, đáng nên làm
A-xà-lê, dựa theo Thập Địa để nói về hạnh sâu vậy!
“Tri chúng sanh tâm” (Biết tâm chúng sanh), do A-xà-lê khéo biết
tác dụng của ba bộ thượng, trung, hạ, các thứ tánh loại sai biệt, và trụ trong
Du Già, dùng phương tiện gia trì, có thể biết rõ tâm hạnh của chúng sanh. Như
có người đến cầu pháp, thầy phải nên bảo người ấy: “Ngươi hãy ở yên đó, ta sẽ
tư duy”, thầy liền cầm danh tự của người ấy, vào trong tĩnh thất (căn phòng
thanh vắng, yên tĩnh), đúng như pháp trì tụng, quán nhân duyên của người ấy. Do
được Bổn Tôn gia trì, sẽ thấy tướng mạo. Nếu là ngoại đạo muốn đến trộm pháp,
hoặc tìm tòi cơ hội [để phá hoại, gây trở ngại] mà giả vờ thân cận; lúc bấy giờ,
Bổn Tôn hoặc hiện hình tướng ngoại đạo v.v… [A-xà-lê] quán kỹ hình tướng ấy, sẽ
tự nhiên biết được, hãy nên phương tiện từ chối, khuyên nhủ rằng: “Thiện nam tử! Phàm là người cầu pháp, trước
hết hãy nên trừ dứt hết thảy các tâm ác kiến, xảo ngụy. Lại nữa, chư Bồ Tát vì
độ chúng sanh, có thể thực hiện đủ mọi khổ hạnh khó hành. Ông nay có thể làm
các sự khó thực hiện ấy hay chăng?” Lại còn tùy theo cái duyên của chính
mình mà tạo lợi ích. Nếu trong cảnh giới, thấy Bổn Tôn ở trong Mạn-đồ-la, dẫn đệ
tử, trao quán đảnh, hoặc giao phó, các thứ tướng lành như thế, thì phải nên nhiếp
thọ [đệ tử ấy]. Lại nữa, nếu Bổn Tôn bỏ hình sắc vốn có mà hiện màu đỏ [thì người
cầu học] là kẻ tánh nhiều sân khuể, màu đen là si nhiều, màu vàng là tham nhiều,
màu trắng là thiện nhiều, xanh nhạt thì phần nhiều là vô ký. Và trong Mạn-đồ-la,
[sau khi rải hoa cúng dường lên Mạn-đồ-la], quán sát hoa rơi vào chỗ nào, từ
các tướng vi tế thượng, trung, hạ, cũng có thể biết tâm cơ người ấy là pháp khí
hay chẳng phải pháp khí. Nhưng chớ nên chấp trước tướng như thế, cũng dùng mười
câu duyên sanh để quán sát. Hiểu rõ mỗi chuyện như thế, sẽ kham trụ trong địa vị
làm thầy.
Lại nữa, giải thích theo kiểu
sâu xa, bí mật, “biết tâm chúng sanh”
chính là như thật biết tự tâm. Do có thể biết tự tâm, sẽ có thể biết rõ tâm của
người khác. Như trong nhà sẵn có kho báu, sẽ khéo xem xét các vật báu khác, cho
đến các căn tánh ưa thích, nhân duyên từ đầu đến cuối, tâm sở, động tác, hý luận,
không gì chẳng thông đạt rành rẽ. Đó gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
Đối với “tín chư Phật, Bồ Tát”, [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Hết thảy các thiện pháp
lấy tín làm đầu, nên [tín] được nói trước hết”. Nay thuận theo cách nói
thông dụng trong tiếng Phạn, [điều này] lại thông với các địa vị sau, chỉ là
không nói trong các phần sau đó thôi! Tức là trong tông này, khi mới nhập pháp
môn, ý rất nông cạn, khó biết. Vả nữa, Thật Tướng của tam thừa không gì chẳng
lìa văn tự, nhưng đối với chân ngôn, cần phải là miệng tụng Phạn văn, tâm cũng
quán tưởng, hoặc duỗi gập các chi tiết nơi thân phần[8]
giống như đùa bỡn, hoặc tu tam-muội, bèn quán các hình tượng nữ nhân hoặc phẫn
nộ v.v… Hoặc dùng nước rưới lên đỉnh đầu, hoặc tạo tác hỏa đàn. Nếu toan dùng
tâm thức để suy đoán, so đo, sẽ lại chẳng thể thấy dấu tích gia trì. Chẳng phải
là kẻ tự trọn đủ lòng tin sâu xa, há có thể chẳng ngờ vực ư?
Lại nữa, vị hành giả ấy đối
với các duyên sự tướng đó, đều dùng lòng tin sâu chắc để hành. Nếu đã siêng khổ
nhiều mà chưa đạt được lợi ích trong hiện tại, lúc đó, bèn tự tư duy: “Do ta công hạnh chưa đến mức, hoặc do Hoặc
chướng cấu nhiễm bởi Tam Độc nặng nề. Như giặt áo, dùi lửa, chỉ đừng bỏ phế giữa
chừng, tự sẽ thuần tịnh tận mắt thấy quang minh vậy”. Lại nên tư duy các
thí dụ về huyễn, như do dược vật hòa hợp mà được bay lên không, sống lâu, dẫu kẻ
lợi căn trí huệ cũng chẳng suy nghĩ mà biết được. Chỉ cốt sao khéo hiểu thuật ấy,
không ai chẳng thành tựu! Do thâm tâm tịnh tín lìa nghi hoặc, dần dần đạt được
pháp nghiệm hiện tiền! Lại do pháp nghiệm hiện tiền, tín giải chuyển cao hơn
thành chẳng thể ngăn trở, phá hoại. Nếu chẳng phải vậy, sẽ giống như kẻ chẳng
có tay, dẫu đến được kho báu mà trọn chẳng đạt được gì, huống hồ dự vào địa vị
A-xà-lê ư? Lại nữa, trong một niệm tâm của chúng sanh, có thân thọ lượng dài
lâu của Như Lai, tịch quang hải hội, cho đến các vị Bất Thoái Bồ Tát cũng chẳng
thể biết. Hãy nên biết pháp này càng khó tin gấp bội. Vì thế, trong hội Pháp
Hoa, bậc Bổ Xứ cầu thỉnh ba lượt, Như Lai răn dè bốn lượt rồi mới diễn nói. Nay
kinh này có phương tiện để tu nhập, thậm chí có thể thành tựu trong một đời. Nếu
có thể tiếp nhận chắc thật, chẳng nghi ngờ, đạt đến Tín địa, hoặc đạt tới tín
giải, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Đắc truyền giáo quán đảnh, thiện giải Mạn-đồ-la họa” (Được truyền
giáo quán đảnh, khéo hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la): Quán đảnh có hai loại, tức là từ
trong pháp đệ tử, đã được quán đảnh rồi, bèn tấn tu theo thứ tự, cho đến khi
thành tựu các đức của bậc A-xà-lê. Lúc bấy giờ, A-xà-lê hoan hỷ, bèn vì học trò
tạo Mạn-đồ-la, truyền giáo, quán đảnh, đúng như pháp khuyên nhủ: “Phật tử! Con ở trong tạng bí mật, đã tùy
thuận tu học, hiểu trọn đủ rồi, kham có thể dạy bảo người khác. Nay con đã được
lợi lành, thậm chí các vị hiền thánh cũng đều khen ngợi. Nay đã quán đảnh xong,
con hãy nên dùng cái tâm chân tịnh để truyền trì, hoằng dương, khiến cho tạng
bí mật của Như Lai rất lâu chẳng diệt!” Thuận theo lẽ đáng nên mà an ủi,
khuyên dụ đủ mọi lẽ như thế, sẽ đáng nên làm bậc Mạn-đồ-la A-xà-lê cho người
khác.
Lại nữa, trong Du Già, hành
giả thành tựu các đức của A-xà-lê, lúc bấy giờ, bậc thâm hạnh A-xà-lê vì người
đó tạo Tâm Mạn-đồ-la. Khi đó, đệ tử thấy biết rành rẽ, được đức Đại Tỳ Lô Giá
Na dùng nước đại bi để thực hiện tâm quán đảnh. Chuyện ấy sẽ được nói trong phần
sau. Cho đến khi Ba La Mật được viên mãn trong mỗi địa, mười phương chư Phật hiện
tiền quán đảnh, trao cho chức vị Phật, đều gọi là “được truyền giáo quán đảnh”. Đã được truyền giáo quán đảnh, chớ
nên làm kẻ cuối cùng đoạn dứt dòng giống [nhà Phật], mà phải nên nối tiếp sự
nghiệp của tiên sư, độ các đệ tử. Đây chính là phương tiện tối sơ, tức là cần
phải hiểu hình tượng Mạn-đồ-la. Do đó, kế tiếp bèn nói [“thiện giải Mạn-đồ-la họa”]. Tức là đối
với mỗi phương vị, mỗi tướng mạo trong ấy, sắp xếp điều hòa các màu, tô vẽ
trang nghiêm, đều phải nên tự thấu hiểu rành rẽ, đừng nhìn vào phương tiện
khác, [người như thế] bèn kham làm A-xà-lê. Lại nữa, có thể từ trong tâm Bồ Đề
thanh tịnh, dùng huệ phương tiện để vẽ vời đại Mạn-đồ-la vương trang nghiêm vô
tận, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Kỳ tánh điều nhu, ly ư ngã chấp” (Bẩm tánh điều phục, mềm mỏng,
lìa Ngã Chấp): Đối với Ngã Chấp ở đây, trong bản tiếng Phạn ghi là chữ “quán đảnh”, A-xà-lê (ngài Thiện Vô
Úy) truyền dạy rằng: “Chữ này có ý
nghĩa không tương ứng, phải nên nói là ly ngã chấp”. Tánh người ấy điều
nhu, tức là an trụ trong oai nghi truyền giáo, trụ nhẫn nhục địa, nhu hòa, khéo
tùy thuận, chẳng bộp chộp, lỗ mãng. Tuy chủng tộc, hình sắc, đa văn, trí huệ,
không gì chẳng lỗi lạc hơn người, nhưng cũng chẳng sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn,
có thể rủ lòng từ giúp đỡ, khuyên dụ kẻ mới học, thậm đối với các chủng tánh
hèn kém, nhỏ nhoi, cũng chẳng có ý tưởng coi họ là kém cỏi, hay mang lòng ghen
ghét, chỉ một dạ dùng pháp để tự điều phục mình, nương theo pháp mà trụ. Điều
nhu như thế tức là lìa Ngã Chấp. Đó là cách giải thích theo lối chuyển tướng.
Lại nữa, “điều nhu” tức là “bách luyện thuần lạp” (trăm lần tinh
luyện, sáp sẽ tinh thuần). Do điều nhu, thuận theo sự khéo léo mà không gì chẳng
thực hiện. Nay hành giả tịnh trị cái tâm ấy, do hết thảy chất quặng thô thiển
đã hết, tùy theo sự khéo léo nơi “tay” trí huệ mà không gì chẳng thực hiện được.
Do vậy, có thể trụ trong địa vị nhẫn nhục, tùy duyên thích ứng chúng sanh. Lại
nữa, nhập đạo trong pháp môn của chư Phật, Bồ Tát, giống như thượng tộc. Nhập đạo
trong pháp môn của chư thiên, rồng, quỷ, giống như hạ tộc. Tức là dùng thân này
để làm “tôn đặc tướng hải” (biển
tướng tôn quý, đặc biệt) của Đại Nhật Như Lai, giống như sắc tướng, hình mạo bậc
nhất, so với kẻ chẳng thể thực hiện, giống như chiếc áo dơ bẩn rách nát vậy.
Luôn nhất tâm nghe chư Phật thuyết pháp, phân biệt chẳng sai, thì gọi là “đa văn”. So với kẻ lục căn ám tắc
thì gọi là “thiểu văn”. Vô lượng
trí huệ tự nhiên nở bùng, gọi là “trí
huệ”. Vô minh Tam Độc là ngu si. Do các pháp như thế rốt ráo bình đẳng,
chớ nên có tâm cao thấp, nên gọi là “điều
nhu”. Chỉ có mình đức Phật đáng gọi là “bậc hết thảy điều nhu, khéo trụ trong pháp A-xà-lê” vậy.
“Ư Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định” (Khéo đạt được quyết định
nơi hạnh Chân Ngôn): Điều phục, tạo lập các thứ phương tiện trong Mạn-đồ-la,
tâm đạt được quyết định, lìa các lưới nghi; đó gọi là “hộ thân như thế, kết giới như thế, nghênh thỉnh như thế, tịnh hóa các
vật cúng để dâng hiến như thế”. Dùng chân ngôn và thủ ấn như thế để gia
trì, cho tới lúc trì tụng, tấn tu, và thành tựu Tất Địa, cũng có vô lượng pháp
theo thứ tự. Những điều như thế được nói cặn kẽ trong kinh văn thuộc phần sau
và phần nói về thứ tự cúng dường, chẳng thể nhắc lại nhiều lượt. Như khi tác
pháp, và các chọn lựa khác, nếu gặp chuyện mâu thuẫn, trở ngại, sẽ lại chần chừ
quan sát, hoặc lục lọi kinh sách để kiểm nghiệm, thì chẳng gọi là “bậc A-xà-lê khéo thực hiện”.
Lại nữa, A-xà-lê do đạt được
quyết định nơi Du Già, làm bất cứ điều gì cũng đều tương ứng với tam-muội. Như
khi dâng hoa, liền tương ứng với hoa tam-muội, Bổn Tôn hiện tiền rành rẽ trong ấy.
Nếu lúc cúng hương, đèn, hương bôi, nước Át-già[9]
v.v… cũng sẽ tương ứng với hương tam-muội cho đến hương thủy tam-muội. Mỗi vị Bổn
Tôn cũng tùy theo từng sự mà hiện tiền. Trong mỗi một duyên như thế, đều là nhập
pháp giới môn, đều thấy thiện tri thức, lần lượt vận dụng tương ứng với lý, chẳng
còn đụng chuyện sẽ phải lần lữa rồi mới tác quán. Hãy nên biết người ấy kham
làm bậc bí mật A-xà-lê.
“Cứu tập Du Già” (Nghiên cứu, tu tập Du Già) là khéo tu pháp
tương ứng, tức là đối với sự thành tựu thượng, trung, hạ trong ba bộ Chân Ngôn
(Phật Bộ, Liên Hoa, Kim Cang Bộ), đều nhất nhất thông đạt, đều tương ứng với
chánh lý, gọi là “khéo tu Du Già”.
Lại còn trong pháp Tức Tai, liền có thể dùng phương tiện ấy để tăng ích và hàng
phục. Hoặc trong pháp Tăng Ích, có thể dùng phương tiện ấy để hàng phục, tức
tai. Trong pháp Hàng Phục, liền có thể dùng phương tiện ấy để tức tai, tăng
ích. Thuận theo pháp tương ứng, đều có thể khéo phân biệt, thì gọi là “khéo tu Du Già”. Lại còn trong Mạn-đồ-la,
đối với các thứ Bổn Tôn tam-muội, hình sắc, chữ [chân ngôn], ấn, tánh loại, oai
nghi, và khi cúng dường thành tựu, vận tâm quán sát phương tiện, đều đã tu tập
tương ứng, cũng khéo hiểu biết chướng ngại và tướng Tất Địa trong ấy, bèn có thể
truyền pháp. Lại nữa, trong tam-muội phát sanh từ Đại Bi Thai Tạng, có đủ loại
pháp giới môn, đủ loại thiện tri thức như Thiện Tài đồng tử theo thứ tự tìm cầu.
Hoặc trong pháp môn như thế này, đã khéo tu hành, nhưng đối với các môn khác,
chưa thể thông hiểu, tu tập. Nếu khi nhập thế giới Phổ Môn, sẽ có thể trong một
niệm mà tương ứng trọn đủ, gọi là “thâm
hạnh A-xà-lê”.
“Trụ dũng kiện Bồ Đề tâm” (Trụ trong tâm Bồ Đề mạnh mẽ): “Dũng kiện” nghĩa là hùng hậu, mạnh mẽ,
chẳng khiếp nhược. Sở dĩ cần tu cái tâm này là vì hành giả Chân Ngôn từ lúc
chưa thấy Chân Đế tới nay, sẽ có các cảnh thuận nghịch, hoặc hiện các thứ hình
sắc đáng sợ, hoặc phát ra âm thanh lạ, cho tới chấn động đại địa, hoặc có Tỳ Na
Dã Ca[10]
đại lực hiện hình gây chướng nạn. Lúc bấy giờ, [hành giả] an tâm bất động, chẳng
hề thoái khuất, nương theo pháp giáo mà tịnh trừ. Do hành giả thấy Bồ Đề tâm
thanh tịnh có đại nghĩa lợi, tự nhiên xuất sanh nhập tử, chẳng hề có ý tưởng sợ
hãi, các ma sự đó chẳng thể gây chướng ngại được! Lại nữa, khi chưa thấy Bồ Đề
tâm, trong Du Già, sẽ có đủ loại tướng hiện, tức là đất, nước, lửa, gió, hư
không, các màu xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… các thứ tướng mạo khác lạ. Lúc bấy giờ,
do tâm chẳng hiểu rõ, cho nên chẳng thể biện định chân thật, cũng chớ nên sanh
ý tưởng thoái chuyển, chỉ nên nghĩ như thế này: “Chuyện này chẳng phải là không có nhân duyên. Nếu khi ta kiến Đế, hiểu
rõ Bồ Đề tâm vô ngại, sẽ tự hiểu vậy”. Lại nên dùng mười câu duyên sanh
để quán, tâm chẳng lấy, bỏ, chỉ nên dũng mãnh tấn tu, hành Bồ Tát đạo. Đã chứng
Bồ Đề tâm, liền biết trong quá khứ vào lúc nào đó đã có tướng như thế, lại
trong một lúc nào đó, cũng có sự tướng như thế, đều là vì nhân duyên như thế,
không gì chẳng soi xét điềm tiên khởi, biết rõ khởi đầu và kết thúc của nó. Lại
nữa, khi hành giả chiếu kiến tâm, hiểu rõ đạo, liền đạt được sức kiên cố trong
vô tận đại nguyện, cho đến như kim xí điểu vương Tỳ Lô Giá Na cúi nhìn biển cả
pháp giới như nhìn vào gương sáng, vẫy cánh Chỉ Quán, bắt lấy rồng “trời, người”.
Đó chính là Bồ Đề tâm dũng kiện vậy.
“Bí Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật Bồ Tát chi sở xưng
thán” (Bí Mật Chủ! A-xà-lê [trọn đủ] pháp tắc như thế, được chư Phật, Bồ
Tát khen ngợi): Do các đức đều đầy đủ, [vị A-xà-lê ấy] liền có thể lưu thông Mật
giáo, chẳng đoạn Phật chủng; đó gọi là “Phật
chi chân tử” (đứa con chân thật của Phật), sanh từ hạnh Chân Ngôn, thường
được các vị thánh khen ngợi. Nếu đệ tử tu Du Già hạnh, sẽ có thể thấy trời rồng
tám bộ cung kính cúng dường vị thượng nhân ấy, hoặc thấy mười phương chư Phật
ca ngợi danh hiệu, khuyến phát đại chúng, như Thích Ca Mâu Ni Phật nói nhân
duyên cầu pháp của Tát Đà Ba Luân[11]
Bồ Tát.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến chúng sanh kham vi
pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi
tha, nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự vãng khuyến phát, như
thị cáo ngôn.
(經)復次,祕密主!彼阿闍梨,若見眾生堪為法器,遠離諸垢、有大信解、勤勇深信、常念利他,若弟子具如是相貌者,阿闍梨應自往勸發,如是告言:
(Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê đó nếu thấy chúng sanh
kham làm pháp khí, xa lìa các cấu, có tín giải to lớn, tín tâm siêng năng, dũng
mãnh, thường nghĩ lợi ích người khác, nếu đệ tử trọn đủ tướng mạo như thế,
A-xà-lê hãy nên tự đến khuyên lơn người ấy phát khởi, bảo như thế này).
Kinh dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến
chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm
tín, thường niệm lợi tha” (Lại này, Bí Mật Chủ! Nếu vị A-xà-lê ấy thấy
chúng sanh kham làm pháp khí, xa lìa các cấu, có tín giải to lớn, siêng năng,
dũng mãnh, tin sâu, thường nghĩ lợi ích người khác), tức là nói về nghi thức nhiếp
thọ đệ tử trong chi phần nói về A-xà-lê. Chúng sanh ở đây có hai loại: Hoặc là
đã phát Bồ Đề tâm, tới chỗ thiện tri thức cầu thỉnh hành pháp Chân Ngôn; hoặc
chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng thầy tự soi xét, biết người ấy có thể làm pháp khí,
có thể trì pháp ấy. Hoặc là trong Du Già, thầy thấy căn duyên của người ấy, hoặc
được chư Phật, Bồ Tát chúc lụy “hãy vì người ấy quán đảnh, dạy bảo”. Hoặc đích
thân thấy các vị thánh vì người ấy thực hiện pháp quán đảnh rồi mới phó chúc
[A-xà-lê] dạy bảo người ấy. Có các tướng như thế thì mới có thể truyền pháp.
Như thức ăn dở tệ trong làng nghèo chẳng thể đựng trong đồ chứa bằng chất báu,
diệu dược của Luân Vương không thể khiến cho kẻ bạc phước tự tiện dùng được, vì
chẳng thể tiêu, hoặc có thể bị đoản mạng. Cần phải là hộp và nắp tương xứng thì
mới trao và nhận đều được đúng lẽ!
Lại như áo hèn tệ, hờm đóng
dày cộp, chẳng thể nhuộm màu ngay được. Trước hết, hãy nên dạy giặt sạch, sau
đó sẽ có thể đổ công tô, nhuộm. Chúng sanh cũng thế, nếu trước đó đã nhuốm bẩn
bởi cấu ô tập khí, sẽ chẳng nhuốm màu pháp giới được. Vì thế, cần phải xa lìa
các cấu. Do vậy, người có đại tín giải, tín giải ở đây trong tiếng Phạn là A Tỳ
Mục Để (Abhimukti), tức là thấy rõ lý ấy, tâm chẳng ngờ lo. Như đào giếng dần dần thấy bùn,
tuy chưa thấy nước, ắt biết đã gần [tới mạch nước]. Vì thế nói là “tín giải”.
Tiếp đó nói là “thâm tín”, tín ấy trong tiếng Phạn
là Xả La Đà (Śraddhā), tức là lòng tin dựa theo sự, dựa theo người. Như nghe bậc
trưởng giả nói như vậy, có thể là biểu lộ vượt ngoài lẽ thường tình, nhưng do vị
ấy chưa từng lừa dối, liền nhận lãnh sâu xa, hành theo, thì cũng gọi là Tín, có
cùng một nghĩa với “tín chư Phật, Bồ
Tát” trong phần trên. Trong tiếng Phạn [để biểu lộ hai loại lòng tin
khác nhau ấy], vốn có hai danh xưng, nhưng tiếng Hán thì không có gì khác biệt.
Vì thế, cùng nói là Tín mà thôi! Nếu có người nghe nói pháp giới chẳng thể nghĩ
bàn như thế, do đã gieo cội lành từ xưa, do tinh thần sáng suốt, bén nhạy, liền
có thể tiếp nhận lời nói của người ấy, biết trong tâm chúng sanh quyết có lý ấy;
đó gọi là “tín giải”. Lại do đời
trước đã từng thân cận thiện tri thức, có duyên sâu đậm với Tam Bảo, tuy chẳng
thể so lường, suy tính, nhưng liền có thể tin tưởng sâu xa, nên nói là “thâm tín”.
“Cần
dũng” là tên gọi khác của Tinh Tấn. Thích Luận nói: “Thí như đào giếng, do thấy đất bùn ướt,
càng thêm tinh tấn, ắt mong được nước. Lại như dùi lửa, đã thấy khói, càng thêm
gắng sức, ắt được lửa”. Vì thế, sau tín giải, bèn nói tới cần dũng. Vì lẽ
nào vậy? Nay trí huệ tự nhiên này phải do Du Già, mà Du Già ắt cần tới sức đại
tinh tấn. Vì thế, Thích Luận nói: “Trí
huệ Thiền Định chẳng thể dùng phước để nguyện cầu, cũng chẳng do thô quán mà có
thể đạt được. Cần phải thân tâm siêng ròng, gấp rút, chẳng lười nhác, thì mới
có thể hoàn thành. Như đức Phật đã nói: ‘Giả sử máu, thịt, mỡ, tủy đều cạn sạch,
chỉ còn da, xương, gân, chẳng xả tinh tấn. Như thế cho tới khi đắc định huệ, đạt
được hai chuyện ấy thì mọi việc đều hoàn thành”. Vì thế, cần phải là người
có tánh tinh tấn thì mới có thể truyền thọ. Lại nữa, tinh tấn là căn bản của hết
thảy các thiện pháp, có thể dấy động phước đức từ đời trước, như mưa tưới nhuần
hạt giống, khiến cho nó ắt sanh trưởng. Nếu chẳng có cái tâm siêng năng, dũng
mãnh, dẫu có nghiệp đã gieo từ đời trước, sẽ chẳng có cách nào phát khởi, thậm
chí lợi lạc trong đời này còn chẳng thể đạt được, huống hồ đạo Bồ Đề ư? Do vậy,
do nhân duyên phát khởi hạnh, bèn đạt được thâm tín. Do thâm tâm, liền có thể dốc
chí cầu pháp thù thắng, gánh vác chúng sanh, cần phải dùng Đại Bi Thai Tạng để
nuôi nấng, khiến cho được tăng trưởng. Vì thế, nói người có tánh thường nghĩ
lợi ích người khác thì mới có thể truyền thụ.
Lại nữa, A-xà-lê trong Du
Già, thấy, nghe chư Phật, Bồ Tát khen ngợi người trọn đủ đức như thế, hoặc thấy
[người ấy] đối trước các vị thánh, chí thành siêng năng khẩn cầu, mong mỏi đạo
yếu, trải qua nhiều thời gian mà trọn chẳng lười nhác, thoái chuyển, thực hành
chuyện lợi tha, cứu độ, nhiếp thọ chúng sanh. Bổn Tôn xót thương bảo [A-xà-lê]
hãy truyền dạy. Các trường hợp như thế, có thể suy ra mà biết. Hơn nữa, bậc
thâm hạnh A-xà-lê do sáu căn thanh tịnh, sẽ thấy nhân duyên chướng đạo và thành
đạo từ vô lượng kiếp đến nay của đệ tử chẳng sai lầm, lại cũng đều biết chỗ căn
duyên nhiếp thọ của phổ môn Mạn-đồ-la, bèn gọi là “thiện quán đệ tử” (khéo quán đệ tử).
Kinh dạy: “Nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo giả,
A-xà-lê ưng tự vãng khuyến phát, như thị cáo ngôn” (Nếu đệ tử trọn đủ tướng
mạo như thế, A-xà-lê nên tự đến khuyến phát, bảo như thế này), có hai nghĩa:
- Một, do trừ tâm nghi của
đệ tử, chỉ sợ do vô trí mà [đệ tử] ngờ vực, hối hận, khiến cho [cơ duyên tu đạo]
vĩnh viễn bị mất mát, cho nên chẳng truyền trao bừa bãi cho người khác. Ắt phải
là người đáng được truyền, thầy sẽ tự cầu mà truyền trao, chẳng đợi người ấy đến
thỉnh.
- Hai, vì trừ cái tâm keo
tiếc của A-xà-lê, thậm chí ở nơi lửa bùng cháy không gián đoạn, nếu có thể lưu
thông [Mật pháp] thì thầy cũng sẽ tới đó, huống hồ đối với người có duyên tốt
lành đến cầu mà chẳng ban cho ư?
(Kinh) Phật tử! Thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngã kim chánh
khai diễn, vị bỉ Đại Thừa khí, quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện
tại chư Thế Tôn, trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải chân ngôn
diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế vô tỷ,
năng tồi bỉ đại lực, cực phẫn nộ ma quân, Thích Sư Tử cứu thế. Thị cố, nhữ Phật
tử, ưng dĩ như thị huệ, phương tiện tác thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhã. Hành
giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo.
(經)佛子!此大乘,真言行道法,我今正開演,為彼大乘器。過去等正覺,及與未來世,現在諸世尊,住饒益眾生。如是諸賢者,解真言妙法,勤勇獲種智,坐無相菩提。真言勢無比,能摧彼大力,極忿怒魔軍,釋師子救世。是故,汝佛子,應以如是慧,方便作成就 ,當獲薩婆若。
行者悲念心,發起令增廣,彼堅住受教。
(Kinh: Phật tử! Đại Thừa
này, hành đạo pháp Chân Ngôn, ta nay chánh khai diễn, vì căn khí Đại Thừa. Quá
khứ Đẳng Chánh Giác, cùng với đời vị lai, hiện tại các Thế Tôn, vì lợi ích
chúng sanh. Các hiền giả như thế, hiểu diệu pháp Chân Ngôn, siêng gắng đắc Chủng
Trí, ngự vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế khôn sánh, có thể dẹp ma quân, đại lực, cực phẫn nộ.
Thích Sư Tử cứu đời. Vì thế, Phật tử ơi, nên dùng huệ như thế, phương tiện tạo
thành tựu, sẽ đắc Tát Bà Nhã. Hành giả tâm bi niệm, phát khởi khiến tăng rộng,
kiên trì trụ thọ giáo).
Kế đó, có năm bài kệ nói về
phương tiện khuyến phát. Bài kệ thứ nhất nói: “Phật tử, thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngã kim chánh khai diễn,
vị bỉ Đại Thừa khí” (Này Phật tử! Pháp hành đạo Chân Ngôn này, ta nay sẽ
khai diễn, vì người có căn khí Đại Thừa ấy), ý nói: Phật tử các vị hãy nên biết,
pháp tắc và nghi quỹ hành đạo của Đại Thừa Chân Ngôn này, do các vị là người có
thể kham tin nhận, ta nay sẽ chánh thức nói ra.
Bài kệ kế tiếp: “Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế,
hiện tại chư Thế Tôn, trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải Chân
Ngôn diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề” (Đấng Đẳng
Chánh Giác trong quá khứ, cùng với các đức Thế Tôn trong đời vị lai và hiện tại,
luôn tạo lợi ích cho chúng sanh. Các vị hiền giả ấy hiểu diệu pháp Chân Ngôn,
do tinh tấn mà đạt được Nhất Thiết Chủng Trí, ngự trong vô tướng Bồ Đề), tức là
mở ra hết thảy các môn phương tiện của mười phương ba đời chư Phật, chỉ dùng một
đạo để thành Phật, trọn chẳng có đạo nào khác, do Phật Phật đạo đồng. Nay lại dẫn
chư Phật để chứng minh, chuyện này như trong kinh Pháp Hoa đã nói cặn kẽ. Lại
nói “trụ nhiêu ích”, tức là nhiều
cách tạo lợi ích, an lạc cho chúng sanh. Đó chính là trụ xứ của Như Lai. “Chư hiền giả” tức là các Như Lai. Do
hạnh nguyện Phổ Hiền thảy đều viên mãn cùng cực, nên dùng từ ngữ này để xưng tụng.
Đều là do đã hiểu diệu pháp Chân Ngôn này, đạt được sự siêng năng, dũng mãnh to
lớn, thành tựu Nhất Thiết Trí. Do kệ tụng nói giản lược, nên nói là Chủng Trí.
Ngồi trong các pháp tịch diệt, tức là Bồ Đề, chẳng phải là đã thành, nay thành,
hay sẽ thành, không có cách nào để quán, chẳng do điều gì khác mà đạt được, há
có tướng gì ư? Bồ Đề ấy chẳng thể nói để chỉ bày cho người khác được! Vì thế,
bài kệ kế tiếp sẽ dùng hình tích bên ngoài để nói rõ.
Kệ rằng: “Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ đại lực, cực
phẫn nộ ma quân, Thích Sư Tử cứu thế” (Thế lực của Chân Ngôn không sánh
bằng, có thể dẹp tan ma quân đại lực, tột bậc phẫn nộ. Thích Sư Tử là đấng cứu
đời), ý nói: Tuy [Chân Ngôn] không có tướng nhất định, nhưng có trọn đủ hết thảy
oai lực, có thể hàng phục các ma, chế ngự các ngoại đạo, mở cửa cam lộ, chuyển
đại pháp luân. Hết thảy trời, người thấy dấu tích như thế, bèn gọi Ngài là “Thích Ca Sư Tử cứu thế gian giả” (đấng
sư tử Thích Ca cứu thế gian), như thấy khói liền biết lửa, cho nên sẽ tin nhận.
Bài kệ kế đó nói: “Thị cố, nhữ Phật tử, ưng dĩ như thị huệ,
phương tiện tác thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhã” (Vì thế, Phật tử các
ngươi, hãy nên dùng huệ như thế để làm phương tiện tạo thành tựu, sẽ đạt được
Tát Bà Nhã), tức là khuyến phát (khuyên lơn, phát khởi) hành nhân, khiến cho họ
cầu cái quả ấy. Nay các vị may mắn đều có tâm, sao chẳng chứng vậy? Chỉ nên
dùng diệu huệ này để thành tựu, chẳng lâu sau, sẽ tự thành Nhất Thiết Trí.
Trong phần trước, ngài Kim Cang Thủ đã hỏi thẳng đức Tỳ Lô Giá Na: “Vân hà đắc Nhất Thiết Trí trí?” (Làm
thế nào để đạt được trí Nhất Thiết Trí). Đức Phật cũng trả lời thẳng thừng: “Như thật tri tự tâm, thị danh Nhất Thiết
Trí trí” (Đúng như thật mà biết tự tâm thì gọi là trí Nhất Thiết Trí). Ý
nghĩa dạy bảo ở đây cũng giống như thế, nhưng nêu thẳng thừng vô tướng Bồ Đề để
khuyên bảo tu chứng, trọn chẳng có hạnh vị sai biệt để phạm sai lầm trong ấy được!
Tuy phẩm trước đã nói cặn kẽ các tướng, lập các thứ danh tự trang nghiêm, tới
phần luận định về tâm xứ thì ý nghĩa cũng đều như thế.
(Kinh)
Đương vị trạch bình địa, sơn lâm đa hoa quả, duyệt ý chư thanh tuyền. Chư Phật
sở xưng thán, ưng tác viên đàn sự. Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang
nghiêm. Bỉ ưng tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác, Duyên đạo sư, thánh
giả, Thanh Văn chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường sở xưng dự. Cập dư chư
phương sở: Tăng phường, A Luyện Nhã, hoa phòng, cao lâu các, thắng diệu chư trì
uyển, chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu, không thất,
tiên nhân đắc đạo xứ. Như thượng chi sở thuyết, hoặc sở ý nhạo xứ, lợi ích đệ tử
cố, đương họa Mạn-đồ-la.
(經)當為擇平地。山林多華果,悅意諸清泉,諸佛所稱歎,應作圓壇事。或在河流處,鵞雁等莊嚴,彼應作慧解,悲生漫荼羅。正覺緣導師,聖者聲聞眾,曾遊此地分,佛常所稱譽;及餘諸方所,僧坊阿練若,華房高樓閣,勝妙諸池苑;制底火神祠,牛欄河潬中,諸天廟空室,仙人得道處。如上之所說,或所意樂處,利益弟子故,當畫漫荼羅。
(Kinh: Nên chọn chỗ đất bằng, núi rừng
nhiều hoa quả, các suối trong đẹp ý, được chư Phật khen ngợi, hãy làm viên đàn
sự. Hoặc tại chỗ sông chảy, nơi ngỗng, nhạn trang nghiêm, hãy nên sanh huệ giải,
Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác duyên đạo sư, thánh giả, các Thanh Văn, từng đến
cuộc đất ấy, được Phật thường khen ngợi. Và các nơi chốn khác, tăng phường, A
Luyện Nhã, phòng đẹp, lầu gác cao, các vườn ao đẹp đẽ, tháp Phật, miếu thần lửa,
chuồng bò, bến sông, miếu thờ trời, nhà trống, chỗ tiên nhân đắc đạo. Các chỗ
như nói trên, hoặc chỗ được ưa thích, do lợi ích đệ tử, nên vẽ Mạn-đồ-la).
Bài kệ kế đó là “Hành giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng
quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo, đương vị trạch bình địa” (Hành giả do tâm
bi niệm, hãy phát khởi khiến cho cái tâm ấy được tăng rộng thêm, do người ấy tiếp
nhận giáo pháp, trụ vững vàng trong ấy, [A-xà-lê] hãy nên vì người ấy chọn lựa
cuộc đất), ý nói A-xà-lê đã có được đệ tử, kế đó là chi phần nói về chọn lựa cuộc
đất [để làm đàn tràng]. Đối với chữ “hành
giả” ở đây, bản tiếng Phạn ghi là Chân Ngôn giả (người hành Chân Ngôn),
nhưng do mỗi câu kệ chẳng thể có sáu chữ, cho nên lược bớt, chỉ giữ lấy ý. Nếu
trong các phần sau có chỗ nào giống như thế, sẽ chẳng phiền rườm lời [nhắc lại]
nữa. Tức là người tu Chân Ngôn nhiều lượt dùng thiện pháp như thế để phát khởi
cái tâm, khiến cho ý thích của hành nhân dần dần tăng rộng thêm. Biết người ấy
tiếp nhận lời dạy vững vàng, chẳng còn dời đổi, thầy mới vì người ấy làm Mạn-đồ-la.
Hoặc từ trong Du Già, do đã thấy căn duyên của người ấy; sau đấy mới chọn cuộc đất.
Các kinh Kim Cang Đảnh Đại
Bổn và Tô Tất Địa đã nói cặn kẽ các tướng đất [thích hợp để làm đàn tràng],
nhưng ý nghĩa chánh yếu là: Nay thế giới này chẳng phẳng phiu, ngay ngắn như
các cõi thanh tịnh khác, chỉ tùy thuộc các chỗ thù thắng như sẽ nói trong phần
kinh văn tiếp theo mà chọn nơi ngay ngắn, đoan nghiêm, có thể tạo cái đàn tròn,
là chỗ có thể thực hiện (tác pháp) không bị trở ngại, liền sử dụng chỗ ấy. Lại
nữa, nay tạo các đàn tràng ở chỗ nào cũng đều được, như tâm địa bình chánh trọn
khắp hết thảy mọi nơi của đức Tỳ Lô Giá Na thì mới làm Đại Bi Mạn-đồ-la. Nhưng
đối với chỗ thù thắng như đã nói ở đây, hễ có chút phần ngay ngắn, có thể dọn dẹp
thanh tịnh, bèn ở nơi đó, mở ra vạn đức Mạn-đồ-la. Tầng lớp sâu cạn thì như
trong phần trước đã rộng nói.
Kệ nói: “Sơn lâm đa hoa quả, duyệt ý chư thanh tuyền,
chư Phật sở xưng thán, tác viên đàn sự nghiệp” (Chỗ núi rừng nhiều hoa
quả, chỗ có các con suối trong đẹp ý, được chư Phật khen ngợi thì nên thực hiện
sự nghiệp của cái đàn tròn): Trong các chỗ thù thắng, núi rừng là tốt nhất. Tuy
là chỗ u tịch đoan nghiêm, có nhiều ngọn núi cao, nhưng nếu không có hoa quả,
suối chảy, người ta sẽ chẳng ưa thích, tức là các duyên nhiều lẽ bị thiếu khuyết,
cũng chẳng kham làm [đàn tràng] tại đó. Vì thế, cần phải [là nơi chốn] có đủ loại
hoa thơm, quả ngọt, lại còn có suối, ao thanh tịnh, là chỗ đáng ưa thích, tức
là nơi được Phật khen ngợi, sẽ có thể thực hiện sự nghiệp Mạn-đồ-la. Hoặc hành
giả trong tam-muội, thấy chỗ thù thắng như thế, nếu nghe bậc tôn thánh khen ngợi
đáng nên thực hiện ở chỗ đó. Những điều sau đó cũng theo lệ đó.
Hơn nữa, núi trong tiếng Phạn
là Na Già (Naga), có nghĩa là “bất động”.
Tức là vị A-xà-lê trong Du Già, quán các hành nhân ấy trụ trong tứ tánh pháp (tự
tánh, tha tánh, cộng tánh, phi tha phi tự tánh), thực hiện thiện sự, tâm kiên cố
bất động, tức là kính trọng, phụng sự sư trưởng, hiếu dưỡng cha mẹ v.v…. Hễ có
tám tâm hoa quả nẩy mầm, có chỗ có thể sanh ra tịnh pháp, sẽ có thể kiến lập Mạn-đồ-la.
Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh an trụ trong đế lý kiên cố bất động. Gió lớn từ
tám phương chẳng thể lay động, hoa quả phương tiện đại bi đầy ắp khắp nơi, thường
lưu xuất tịnh pháp lợi lạc chúng sanh, được Phật khen ngợi nhất. Đó là chỗ tốt
đẹp để làm Mạn-đồ-la.
Bài kệ kế đó nói: “Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang
nghiêm, bỉ ưng tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la” (Hoặc tại chỗ sông chảy,
nhạn, ngỗng thảy trang nghiêm, hãy nên sanh huệ giải, tạo tác Bi Sanh Mạn-đồ-la):
Nếu chẳng kiếm được chỗ danh sơn, thì chỗ có suối nước là lựa chọn kế tiếp. Tức
là chỗ có các dòng chảy thường chẳng đoạn tuyệt, các loài chim có tiếng hót tốt
lành bay lượn, bơi lội, đoan nghiêm, thanh khiết, xa lìa phiền rộn, liền có thể
lập đàn. Chữ “nhạn” chẳng phải
là dịch sát nghĩa, bản tiếng Phạn nói là chim Sa La Sa (Sārasa), hình dạng giống uyên ương nhưng to hơn, tiếng hót hết sức thanh nhã. Do
phương này (Trung Hoa) không có loại chim ấy, nên chỉ nói theo kiểu hội ý mà
thôi. Tuy là Thế Đế Mạn-đồ-la, cũng cần phải là người trì chân ngôn có huệ giải
thì mới có thể kiến lập. Vì thế nói “ưng
dĩ huệ giải, tác Bi Sanh Mạn-đồ-la” (nên dùng huệ giải để làm Bi Sanh Mạn-đồ-la).
Hơn nữa, nước có ý nghĩa “chảy không ngừng”. Tâm chẳng đình trệ, thường có thể
tăng tấn thù thắng, sẽ được gọi là Nước. Sông phước chẳng đoạn, gọi là nước. Do
là người trước hết có thể an tâm nơi đế lý, tuy tự mình chẳng thể đạt được nhiều,
chỉ cần khiến cho từ cái vốn sẵn thanh tịnh (chân tâm), lưu xuất sự tiến nhập
chánh đáng là đã được rồi, liền có thể vận dụng vô ngại huệ để kiến lập Bi Sanh
Mạn-đồ-la. “Diệu âm chúng điểu trang
nghiêm” (Các loài chim có tiếng hót hay để trang nghiêm) tức là ý nghĩa
“có thể tuyên dương diệu pháp”, mà cũng là thường nghĩ lợi tha. Vì thế, chúng
sanh quy hướng đều được vui sướng, tán thán ân đức ấy có thanh danh to lớn.
Kệ nói “Chánh Giác duyên Ðạo sư, thánh giả Thanh
Văn chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường sở xưng dự” (Các đấng Chánh
Giác, Duyên Giác, các vị thánh giả Thanh Văn từng đi qua cuộc đất ấy thì đó là
nơi được Phật khen ngợi): Nếu là chỗ phước địa núi và suối, là nơi các vị thánh
đã từng đi qua, sẽ thuộc vào điều trên đây. Ở đây có ý nói: Tuy chẳng phải là
chỗ thù thắng như trong phần trên, nhưng là chỗ chư Phật, Duyên Giác, và hàng đệ
tử Thanh Văn v.v... đắc đạo Niết Bàn, hoặc trụ lâu tại đó, thì là chỗ [thích hợp]
kế tiếp [để làm đàn tràng]. Như ở phương Tây, tám tháp [kỷ niệm đức Phật] và chỗ
có di tích của thánh chúng rất nhiều, đều là chỗ chư thiên đại oai đức thường hộ
trì, chiêm lễ, giống như chỗ nào có kinh Bát Nhã thì lũ tiểu quỷ chẳng dám lưu
lại. Vì thế, pháp nghiệm dễ thành. Nơi được Phật khen ngợi như chỗ núi có tiên
nhân cư trụ, đức Thế Tôn đã nói ở trong ấy sẽ dễ đắc đạo.
Lại nữa, nếu là người đã
phát Bồ Đề tâm, thì chỗ chư Phật giáng sanh, cũng như nơi các Ngài đắc đạo,
chuyển pháp luân, bát Niết Bàn, cũng chính là chỗ các Ngài đã từng trụ lâu tại
đó, dùng bốn oai nghi để rộng lợi ích chúng sanh. Tuy chưa nghe bí tạng, chỉ đạt
được chỗ tam thừa cùng hành, cũng gọi là [nơi chốn] Cát Tường; tức là quán sát
tánh Không vô tướng, vô tác, chẳng có “ta, người, chúng sanh, thọ giả”. Đấy là
chỗ để Nhị Thừa thành đạo, nhập Niết Bàn, cũng là chỗ Bồ Tát vứt bỏ thân mạng để
học Ba La Mật như trong các loại kinh Bổn Sanh [đã nói], đều có thể tạo Mạn-đồ-la
trong ấy. Lại nữa, đối với nơi “tự nói
đã đắc Niết Bàn, sanh ý tưởng diệt độ”, tức là cuộc đất do Thanh Văn,
Bích Chi Phật đã từng đến. Nếu chẳng tìm được người một mực cầu Bồ Đề [ở nơi ấy],
hãy nên tự sửa sang cho ngay ngắn trong ấy để tạo, vẽ Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la.
Kệ nói: “Cập dư chư phương sở, tăng phường, A Luyện
Nhã” (Và các nơi chốn khác, tăng phường, A Luyện Nhã). Trừ nơi có thánh tích ra, chỉ tùy
theo quốc độ ở các phương có các bậc Phạm hạnh cư trụ [để chọn lựa nơi làm đàn
tràng]. “Tăng phường” trong tiếng
Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), dịch nghĩa là Trụ Xứ, tức là “chỗ
ở để tăng trưởng phước”. Hàng bạch y do tăng trưởng phước, đã vì các tỳ-kheo
tạo phòng ốc, khiến cho người trì giới, Thiền huệ có chỗ tránh né, chống đỡ
gió, lạnh, nắng, ướt, các thứ chuyện chẳng lợi ích, hòng an tâm hành đạo, khiến
cho đàn-việt thọ dụng phước do bố thí, ngày đêm thường lưu xuất, chẳng hề đoạn
tuyệt. Vì thế gọi là Trụ Xứ. A Luyện Nhã (Araṇya), dịch là Ý Lạc Xứ, tức là chỗ được hành giả không tịch yêu thích. Hoặc ở
riêng một mình, không có bầu bạn, hoặc hai ba người. Ở ngoài chùa, tạo các
phòng nhỏ số lượng hữu hạn, hoặc do thí chủ tạo, hoặc chỉ ở nơi đất trống dưới
bóng cây, đều là A Luyện Nhã vậy. Lại nữa, nếu lìa Bồ Đề tâm mà tu hết thảy các
thiện pháp, như là “quảng hành đàn
thí” (rộng hành bố thí), thọ vô lượng luật nghi, tu các thứ Thiền Định,
thọ trì mười hai phần giáo, tư duy nghĩa lý, từ bi, tinh tấn, hóa độ chúng
sanh, dùng các hạnh vô tưởng đạo, sẽ đều gọi là “vô thánh tích” (chẳng có thánh tích). Tăng phường cũng thế, là
nơi phàm thánh cùng ở, là chỗ sanh phước, cũng là [nơi chốn được lựa chọn] kế
tiếp [để làm mạn-đồ-la]. Trừ cộng Bát Nhã của Nhị Thừa, hết thảy các pháp môn
Thanh Văn, Duyên Giác khác do xa lìa đại bi, tự cầu lẽ xuất yếu, đều gọi là “vô thánh tích A Lan Nhã xứ”. Cũng có
thể ở trong ấy, chọn lựa, sửa sang chỗ đất bằng phẳng để vẽ Mạn-đồ-la.
Kệ nói “hoa phòng, cao lâu các, thắng diệu chư trì
uyển” (nơi phòng ốc đẹp đẽ, lầu gác cao, nơi ao vườn đẹp đẽ thù thắng):
Nếu không tìm được phước địa như trên, chớ nên đình chỉ, hãy nên chọn chỗ tốt đẹp
thanh vắng trong thế tục. Nếu là chỗ đoan nghiêm thanh tịnh, liền có thể tác
pháp. “Phòng” là do chúng sanh
từ thời cổ tới nay, do hổ thẹn, chẳng muốn phô bày chuyện riêng tư, mà cũng có
thể che chở thân thể, tự hộ, thủ hộ người khác. “Lâu các” là chỗ hiển lộ cao rạng phía trên nhà cửa có nhiều tầng
ở phương Tây. “Trì” là cái ao
thanh tịnh, đa phần là có các loại hoa mọc trong nước, người và phi nhân đều
yêu thích. “Uyển” là vườn rừng,
có nhiều loại cỏ mềm, cây cối thơm tho trổ sum suê, thanh vắng, u tĩnh, có thể
che chắn huyên náo. Những chỗ ấy đều là các chỗ [được chọn lựa] kế tiếp.
Lại nữa, nếu thấy hành nhân
tuy chưa nhập các phương tiện đạo khác, nhưng thể tánh trọn đủ hổ thẹn, thường
có thể tự thủ hộ, mà cũng có thể thủ hộ người khác, hoặc tâm hiểu rõ, dễ thông
hiểu, ít các chướng ngại, thậm chí hễ trót phạm tội, cũng có thể hướng về người
khác phát lộ, cầu cho chính mình thanh tịnh, chẳng hề giấu diếm, thì cũng có thể
truyền thọ. Lại nữa, Trì (ao) có nghĩa là “khát nước chẳng chán”, ý nói: Người ấy
tuy chưa đạt được pháp vị sâu xa, nhưng có thể trống lòng khát ngưỡng, nghe nhận
chẳng chán. “Viên” (vườn) là chỗ
nhiều người tới dạo chơi, ý nói: Người ấy bẩm tánh nhiều bi mẫn, thích làm chuyện
từ bi cứu giúp, được chúng sanh đều quy ngưỡng, nương nhờ người ấy che chở. Đấy
đều là chủng tánh Đại Thừa, cũng có thể huân tập vậy!
Kệ nói: “Chế-để, hỏa
thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu, không thất, tiên nhân đắc đạo
xứ” (Tháp miếu, đền thờ thần lửa, chuồng bò, bến sông, miếu chư thiên,
nhà trống, chỗ tiên nhân đắc đạo): Hoặc là tuy chẳng phải chỗ thánh tích và
tăng chúng cư trụ, nhưng tùy thuộc cuộc đất là chỗ có thể dựng tháp miếu, thì ở
chung quanh đó, có thể tạo tác Mạn-đồ-la. “Hỏa thần từ” là chỗ miếu thờ lửa của tịnh hạnh Phạm chí, rất
thanh khiết, cho nên có thể lập đàn. “Ngưu
lan” (Chuồng bò): Ở phương Tây, thôn làng chăn nuôi trâu bò ở cùng một
chỗ, cách thôn chừng mười dặm hoặc năm dặm. Do lâu ngày, phân bò và nước tiểu
bò tích tụ dày cộp trên mặt đất, nhưng theo thói quen của Phạm chí, cũng coi đó
là nơi thanh tịnh. Tuy nhiên, cần phải dời trâu bò đi. Nếu vẫn chăn nuôi trâu
bò tại đó, cũng chớ nên làm [Mạn-đồ-la] trong đó.
“Hà than” (bến
sông), dịch sát nghĩa thì phải là Toản Lưu Xứ (攢流處), tức chỗ có hai hay nhiều
dòng nước hợp lưu ở chỗ ấy. Bên rìa và chính giữa chỗ ấy, do đã nhiều lần bị nước
ngập gột sạch, không có các thứ uế ác. “Thiên
miếu” là căn nhà để cúng bái các vị trời được tôn thờ trong thế gian, cũng khá thanh nhàn. Nhưng nếu có các ngoại đạo tà kiến, chẳng tin [ở đó],
cũng chớ nên làm ở chỗ ấy. “Không thất”
(nhà trống) là nhà cửa do người đời tạo ra; về sau, họ bỏ đi. Do không có các
thứ xen tạp, nên cũng kham làm chỗ tác pháp. “Tiên nhân đắc đạo xứ” chính là chỗ cư trụ lâu ngày của người cầu
năm món thần thông trong thế gian được thành tựu. Nếu không có chỗ tốt đẹp nào
khác, cũng có thể tạo Mạn-đồ-la trong đó.
Lại nữa, chế-để có ý nghĩa
là “kiến lập cao vời thù thắng”,
ý nói: Người ấy thường có thể kiến lập bạch pháp, chí chẳng khuất phục, nhiễu
loạn. Tuy chưa tu thánh giáo trong hiện tại, hãy nên biết là [người ấy] đời trước
đã tu phước, trong tâm có thiện căn, cho nên gọi là “tháp”. Lại nữa, lửa có thể đốt sạch các thứ nhơ bẩn, ý nói: Người
ấy tuy thân, miệng, ý chưa thể xuất ly, đạt tới chỗ thanh tịnh, nhưng trong tâm
có huệ tánh, thích hành tịnh nghiệp, hễ có lỗi bèn có thể sửa, nên gọi là “hỏa từ” (đền thờ lửa). “Ngưu” có nghĩa là đi, “Lan” (欄, lan can, rào chắn) có nghĩa là
ngăn ngừa, ý nói: Người này bẩm tánh điều nhu, dễ thuần ngự. Lại còn có thể tự
chế ngự những ham thích nơi năm căn, chẳng đến nỗi phóng dật. Vì thế gọi là “ngưu lan”. “Toản lưu” tức là trong ba thừa, người ấy tâm do dự, chẳng biết
quyết định hướng theo đường nào. A-xà-lê cũng nên dùng pháp để khuyên dụ rằng: “Các phương tiện ấy đều do Phật dạy, chỉ tùy
thuộc pháp nào ngươi ưa thích nhất, hãy nên một mực học theo, sẽ cùng đạt đến
như nhau, chớ nên lo ngờ”. Nếu là lòng tin tà chánh xen tạp, hãy nên đoạn
diệt bến mê, chỉ cho nẻo chánh. Do có thể kiêm tín, tức là đời trước đã từng được
pháp thủy gột rửa cái tâm, nên cũng gọi là “hà than” (bến sông).
“Thiên từ” (Đền thờ trời) tức là chẳng cầu tam thừa, chí ưa nguyện
niềm vui trong cõi trời. Vì muốn truyền trao [Mật pháp] khiến cho kẻ ấy lìa ba
ác, sanh trong chánh kiến thiên, nên cần phải nhiếp thọ, thì gọi là “thiên từ”. “Không thất” (nhà trống) có nghĩa là người ấy tuy ở trong trần
tục, nhưng tánh chuộng hư tịch, chán ghét phiền hà, ồn náo trong cõi đời, tức
là tướng thiện căn sắp chín muồi. Như nữ nhân thai sắp thành tựu, dục ý sẽ nhẹ
bớt, cho nên có thể giáo hóa. Nếu chí cầu đạo Vô Sắc Thiên, cũng gọi là “không thất”. “Tiên nhân đắc đạo xứ” (Chỗ tiên nhân đắc đạo) có nghĩa là chỉ
phát tâm cầu đạo ngũ thông của trì minh tiên, hoặc nguyện trường thọ, thành tựu
các thứ Tất Địa thế gian. [A-xà-lê] cũng có thể tùy thuận tình kiến, căn cơ của
người ấy mà khuyên dụ, tiếp độ.
Lại còn có các kẻ dị học,
yêu thích sâu xa pháp thờ lửa của Vi Đà, nguyện sanh lên trời Phạm Thế, nghe
nói trong tạng bí mật của đức Phật cũng có chân ngôn hành pháp Hỏa Thiên, chỉ
thú rất sâu, liền từ môn ấy mà nhập chánh pháp. Lại có người thờ phụng các vị
trời trong thế gian như Tự Tại Thiên, Tỳ Nữu, Na La Diên, nhật nguyệt tôn v.v…,
nếu nghe trong tạng bí mật của đức Phật cũng có chân ngôn hành pháp của các vị
trời ấy, cho đến thân đại ngã Tỳ Lô Giá Na, liền tin nhận mà nhập chánh pháp.
Hoặc là kẻ có chí nguyện sanh làm chư thiên trong tam giới, nghe trong tạng bí
mật của đức Phật có chân ngôn và hành pháp thuộc chư thiên thừa, có thể khiến
cho trong vô lượng đời, sanh lên cõi trời ấy, chẳng còn thoái đọa, rốt cuộc thành
Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Vì vậy, thâm tâm nguyện ưa thích, được nhập chánh pháp. Hoặc
có người tôn sùng tu tập pháp của ngũ thông tiên trong thế gian, nghe trong tạng
bí mật của Phật có các thứ chân ngôn của các vị đại tiên như Ca Diếp, Cù Đàm
v.v… có thể đạt được các thứ thần thông chẳng thể nghĩ bàn, cho đến như Tỳ Lô
Giá Na trụ thọ dài lâu, kẻ ấy liền hăng hái dốc chí mong cầu được nhập chánh
pháp. Do có các thứ môn như thế, đức Phật nói tại các chỗ thờ thần lửa có thể tạo
Mạn-đồ-la.
Kệ nói: “Như thượng chi sở thuyết, hoặc sở ý nhạo xứ,
lợi ích đệ tử cố, đương họa Mạn-đồ-la” (Đối với các chỗ vừa nói trên
đây, hoặc chỗ ưa thích, do lợi ích đệ tử, hãy nên vẽ mạn-đồ-la): Thậm chí cầu
các cuộc đất thù thắng đều không thể được, chớ nên khiến cho Mật giáo chẳng được
truyền, chỉ cần là chỗ mà tâm A-xà-lê ưa thích, nghĩ là có lợi ích, bèn có thể
tạo Mạn-đồ-la. Nếu giải thích sâu hơn, chỉ quán kẻ đó có chút phần thiện căn,
mong nguyện chánh đáng, đều có thể chọn lựa tâm địa, sửa sang cho ngay ngắn, vì
người ấy tạo Đại Bi Mạn-đồ-la. Hơn nữa, hạng chúng sanh ấy cho đến kẻ ưa chuộng
phương thuật nhỏ nhoi của Giá Văn Đồ (Cāmuṇḍā)[12], Đồ Cát Nhĩ[13]
cũng được nhiếp thọ trong môn này, khi có thể thấy Bổn Tôn, sẽ tự nhiên được
thấy vô lượng thánh chúng.
Hỏi: Trong phần nói về chọn
lựa đệ tử trên đây, [đã nói] phải trọn đủ các đức, kham làm pháp khí thì mới dạy
bảo, mà nay trong phần chọn lựa cuộc đất, thậm chí kẻ có một mảy thiện, không
ai chẳng được truyền dạy là vì lẽ nào?
Đáp: Trong ấy, có hai loại
đệ tử. Nếu cầu đệ tử truyền pháp có thể nối tiếp ngôi vị A-xà-lê thì phải chọn
lựa, loại trừ kẻ không thích hợp, ngõ hầu đạo chẳng bị thực hành hư dối. Nếu là
đệ tử kết duyên thì dẫu là điều thiện “giơ
tay, cúi đầu”, không ai chẳng được nhiếp thọ. Lại nữa, bậc thâm hạnh
A-xà-lê do thấy rõ căn duyên, hoặc có người do đạo cơ trong quá khứ đã chín muồi,
kham làm pháp khí, nhưng trong đời hiện tại, chìm lỉm trong cặn bùn, chỉ sót lại
một mảy thiện căn. Vì thế, A-xà-lê liền chọn một chỗ đất bằng phẳng trong ấy, mở
ra bí tạng Mạn-đồ-la, cần gì phải đợi người an tâm nơi đế lý thì mới thực hiện
Phật sự ư? Vì thế, chẳng mâu thuẫn với điều đã nói trong phần trước.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ giản trạch địa, trừ khử lịch, thạch, toái ngõa,
phá khí, độc lâu, mao phát, khang tao, hôi thán, thích cốt, hủ mộc đẳng, cập
trùng nghĩ, khương lang, độc thích chi loại.
(經)祕密主!彼揀擇地,除去礫石碎瓦破器、髑髏毛髮、糠糟灰炭、刺骨朽木等,及蟲蟻蜣蜋毒螫之類。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Cuộc đất chọn được ấy, trừ bỏ
sỏi, đá, ngói vỡ, đồ hư bể, đầu lâu, trấu cám, tro than, xương gãy, cây mục
v.v… và trùng, kiến, bọ hung, các loài trùng có nọc độc).
Kế đó, nói về chi phần “tịnh trị
cõi đất”. Tức là trong cuộc đất đã chọn trên đây, chọn lựa chỗ đặt đàn tràng, đào sâu xuống chừng một khủy tay. Đối với đất
nơi ấy, mỗi mỗi đều chọn lọc kỹ càng, hễ có các vật không dùng đến và các loài
trùng, đều bỏ đi. Nếu [cuộc đất] có các thứ ấy, sẽ sanh ra các nạn, gây chướng
ngại cho pháp. Đá và cát, sỏi, nếu ít thì có thể chọn ra để bỏ đi. Nếu cát, đá
quá nhiều, tích tụ chỗ này, chỗ kia cũng có, chẳng thể loại ra để trừ sạch được,
hãy nên bỏ chỗ ấy, tìm chỗ khác. Nhưng đối với đá tảng bằng phẳng, có thánh
giáo bảo là có thể lập Mạn-đồ-la trên đó; nhưng nếu là đá xen tạp trong đất thì
nên loại bỏ đi.
Thói tục ở phương Tây (Ấn Độ),
phần nhiều ăn trong đồ đựng bằng sành, ăn xong liền vứt đi, cho là đã nhơ uế,
chẳng còn dùng nữa. Những thứ như thế và các thứ vật dụng bị hư hoại khác, cùng
với đầu lâu, xương vụn, các thứ móng, tóc, da, lông, các thứ cây cỏ tạp nhạp,
các thứ tro than, cành nhánh gai góc, gỗ mục. Nói tóm lại, các thứ vật chẳng
dùng được như thế, chẳng phải là thứ vốn nên có trong đất sạch, đều loại bỏ. Nếu
chúng quá nhiều, chẳng lọc ra được, cũng nên bỏ chỗ ấy để tìm chỗ khác. Từ ngữ
Cật Lật Mị (Kṛmi) trong tiếng Phạn chỉ chung các loại trùng kiến, đều là các loại
trùng rất nhỏ, đều nên loại bỏ đi. Bọ hung là trùng lớn, lại còn các loài giun
đất v.v… Cứ chuẩn theo đó mà biết ý nghĩa. “Độc trùng” tức là các loài rắn, bọ, rết, cuốn chiếu, đều nên
dùng phương tiện xua đuổi. Nếu quá nhiều chẳng thể trừ, tức là chỗ có thể gây
trở ngại, chướng nạn. Hãy nên bỏ nơi đó!
(Kinh) Ly như thị chư quá.
(經)離如是諸過。
(Kinh: Lìa các lỗi như thế).
Đây là nói
chung nhiều thứ. Người hiểu ý khi gặp chuyện sẽ tự suy xét. Hoặc là cuộc đất
nghiêng lệch, hoặc cao, thấp, chẳng bằng phẳng, hoặc sắc vị chẳng hợp thánh giáo. Đối với sắc, coi màu vàng hoặc trắng là thù thắng. Nếu đất thuần
màu đen, chớ nên chọn lấy. Nếm vị đất thấy ngọt hoặc nhạt thì tốt, nếu cay, đắng,
mặn, chát thì không nên dùng. Hoặc đào lên rồi lấp hố lại, mà đất chẳng thể lấp
đầy thì chẳng nên dùng. Nếu lấp xong mà đầy vun lên thì tốt. Lại ở trong một chỗ,
phía Nam là hạ địa, chỉ có thể dùng làm [chỗ để thực hiện pháp] A Tỳ Giá Lỗ Ca[14]
mà thôi!
Lại nữa, A-xà-lê đã biết
tâm địa của đệ tử kham có thể kiến lập Đại Bi Mạn-đồ-la trong ấy, liền trụ
trong Định sâu để quán sát, phân biệt kỹ càng, dùng trí huệ để chọn lựa, trừ khử
các cấu nhơ tạp uế chẳng thể kham thực hiện. Sau đấy mới đối trị, khiến cho vững
chắc để trang nghiêm. Nếu không, túc nghiệp hoặc tập khí thừa sót sẽ có thể
sanh ra chướng ngại. “Sỏi, đá”
ví như chẳng tin chánh pháp, chấp chặt những thứ chấp trước thuộc về ngã, các
kiến chấp như bài bác “chẳng có nhân quả” v.v… Do khó thể đẽo, khắc, dù vun tưới,
trọn chẳng thể sanh ra mạ lành; dẫu đổ công chăm chút, vẫn chẳng thể thành tựu
được gì! Chấp trước vi tế quá nhiều, sẽ chẳng thể tiếp nhận [pháp do thầy truyền
dạy]. Vì thế, ví như cát, sỏi.
“Ngói vụn, đồ vật hư vỡ” ví như tạo Ngũ Nghịch, phạm tứ trọng cấm[15],
báng bổ kinh Phương Đẳng v.v… Do tâm khí bại hoại, nên chẳng thể kham nổi; dẫu
có thêm pháp vị vào, vẫn chẳng thể gìn giữ được, uổng phí các điều thiện. Trước
hết, hãy nên dùng tay “huệ phương tiện”
để chọn lọc, loại bỏ các thứ chướng như thế. “Đầu lâu” ví như chướng ngại phá hoại Bồ Đề tâm. Xưa kia, từng
có người trọn đủ nhân và pháp, là thượng thủ bậc nhất trong các chi phần, nhưng
do mạng căn bị chấm dứt, bách thể (thân thể) hư hại, chẳng thể làm được gì. Do
tập khí xấu ác ấy, dẫu khiến cho người ấy lại phát Bồ Đề tâm, vẫn trở thành chướng,
tự vui thỏa [trong các dục hoặc tiểu quả] khiến cho đạo tâm lui sụt. Vì thế,
càng phải nên gột trừ sạch các tập khí thừa sót.
“Lông, tóc” ví như sáu mươi tâm [đã nói trong phẩm trước], kết hợp
với tám loại thiện tâm mà sanh, tới khi nhận biết, hãy nên cắt bỏ. Kể từ khi
chưa đạt được cái tâm xuất thế gian đến nay, chúng xen tạp, lăng xăng dấy lên,
khó thể thấy được đầu mối. Vì thế nói là “lông
tóc, trấu cám”. Như vô minh vọng tưởng là do chấp trước hý luận, chỉ đạt
được lớp vỏ trấu danh tướng, đánh mất gạo Thật Tướng. Vì thế, dùng trấu cám để
sánh ví. “Tro than” ví như dấy
khởi tâm Nhị Thừa, yêu chuộng tiểu pháp. Nếu thiện căn bị cái tâm ấy thiêu đốt,
sẽ quy vào “hôi đoạn”[16],
chẳng sanh ra cành, lá, hoa, quả đại bi. Vì thế, dùng [tro, than] để sánh ví. “Thích cốt” (Xương gãy vụn) là như từng
tạo các hạnh chẳng lợi ích chúng sanh, phạm đủ mọi luật nghi vụn vặt. Đấy là
túc đối tàn chướng (oan gia oán đối và chướng ngại còn sót lại từ đời trước)
trong quá khứ, nên gọi là “xương”.
“Gỗ mục” là nói đến loại người
chẳng mong muốn, biếng nhác v.v… chẳng kham được vun bồi, uốn nắn, đào luyện. Lại
nữa, trong tiếng Phạn, [từ ngữ này] còn có nghĩa là “gốc cây chết”, ý nói từ lâu xa tới nay, riêng quen với các phiền
não, dư nghiệt[17]
sâu chắc, khó thể nhổ trừ. Do các nghiệp quá khứ như thế chứa đựng trong tâm địa,
khi nhất tâm hành đạo, ma sự dễ dấy lên. Vì thế, cần phải loại bỏ trước! Nếu
quá nhiều, chẳng thể loại bỏ, hãy nên vứt bỏ căn cơ ấy, để tìm căn cơ khác.
“Các loài trùng kiến, bọ hung, trùng có nọc độc” ví như các thứ
phiền não hiện hành. Trùng, kiến ví như si, bọ hung ví như tham, độc trùng ví
như sân. Các loài ấy rất nhiều, ví như các thứ Tùy Phiền Não. Các thứ trùng nhỏ
bé ví như vô lượng ác giác kiến. Quán các loài ấy đều có Như Lai Tánh, càng phải
nên che chở, chớ nên dứt tuyệt mạng căn của chúng, chỉ nên phương tiện xua đuổi,
khiến cho chúng chẳng gây trở ngại cho việc tu đạo, chẳng làm nhơ bẩn Mạn-đồ-la
mà thôi! Nếu muốn cho đạo tràng cực thanh tịnh thì một trăm sáu mươi thứ cấu vi
tế thượng, trung, hạ [trong tâm] đều nên loại trừ, khiến cho chẳng còn sót. Cho
tới trong cuộc đất quán đảnh, phàm những gì chẳng phải là đất sạch, đều nên loại
bỏ, thì mới gọi là “rốt ráo thanh tịnh”
vậy!
(Kinh) Ngộ lương nhật thần, định nhật, thời phần, tú trực, chư chấp
giai tất tương ứng, ư thực tiền thời, trị cát tường tướng.
(經)遇良日晨、定日、時分、宿直、諸執皆悉相應,於食前時值吉祥相。
(Kinh: Gặp ngày giờ tốt, định nhật, thời phần,
ngày có sao tốt chiếu, các tinh tú trong cửu diệu tương ứng, trước lúc bữa
trưa, gặp được tướng tốt lành).
Do chuyện chọn
đất, bèn nói tới chi phần “chọn lựa thời
điểm”. Hễ thực hiện pháp sự, đều cần phải có thời và nghĩa khế hợp. Nay
sắp chọn lựa thời điểm và cuộc đất để tịnh trị, phải nên trong ngày tốt mà báo
tin, nhắc nhở địa thần. Các pháp sự khác cũng nên biết như thế.
“Lương nhật thần” tức là tác pháp nên dùng ngày thuộc bạch nguyệt[18],
tức mùng Một, mùng Ba, mùng Năm, mùng Bảy, Mười Ba đều là cát tường, kham làm Mạn-đồ-la.
Lại nữa, ngày mồng Tám, ngày Mười Bốn, và ngày Rằm trong một tháng là tối thắng.
Tới những ngày ấy, thường niệm tụng, cũng nên dụng công hơn.
“Định nhật”: Theo cách tính thông thường trong lịch pháp phương
Tây (Ấn Độ), tính toán trong một tháng thiếu, [thì ngày thông thường trong một
tháng đủ] sẽ ứng hợp với ngày nào [trong tháng thiếu ấy]. Nếu tháng thiếu thuộc
vào bạch nguyệt, ngày Mười Lăm tháng ấy sẽ thuộc vào hắc nguyệt, chẳng nên
dùng. Lại nữa, lịch pháp tính chung chu kỳ vận chuyển của mặt trời và mặt trăng
để tính toán ngày mồng Một mỗi tháng, đều là gồm một tháng thiếu, một tháng đủ.
Do mặt trời và mặt trăng cùng vận hành, lại có sớm hay trễ, hoặc có lúc trùng
nhau, có lúc chẳng trùng. Do vậy, ngày mồng Một sẽ được ấn định trước hay sau một
ngày, ngày Rằm sẽ thuộc ngày mười bốn hay ngày mười sáu [trong tháng đó]. Đại để,
ngày Rằm trong tháng nhằm lúc trăng tròn thì gọi là ngày Mười Lăm thuộc bạch
nguyệt, khi mặt trăng vừa đúng một nửa như lúc thượng huyền thì cũng gọi là
ngày mồng Tám. Chỉ dùng cách tính như vậy để suy ra “định nhật”.
“Thời phần”: Theo lịch pháp của phương Tây thì ngày và đêm mỗi
buổi đều có ba mươi thời, mỗi thời đều có tên gọi riêng, tức là ban ngày dựa
theo sự đo lường bóng nắng dài hay ngắn mà tính, nhằm lúc nào đó thực hiện thì
sẽ tốt lành, thực hiện vào lúc nào đó sẽ xấu, lúc nào thì trung bình, mỗi mỗi đều
có hình tượng, phân loại riêng.
Nói “tú trực” chính là nói đến hai mươi bảy tinh tú[19].
Châu thiên (quỹ đạo vận chuyển của mặt trời hoặc một hành tinh nào đó; ở đây là
quỹ đạo của mặt trời) được chia thành mười hai cung, giống như mười hai Thứ[20],
mỗi Thứ có chín Túc. Châu thiên gồm một trăm lẻ tám Túc[21],
mỗi Tú (mỗi tinh tú) đều có bốn Túc, tức là khoảng cách mặt trăng di chuyển
trong một ngày. Trải qua hai mươi bảy ngày, tức là mặt trăng xoay hết một châu
thiên. Dựa theo lịch để tính toán, mặt trăng thuộc vào phương vị của tinh tú
nào, tinh tú ấy được gọi là “trực nhật”
[của ngày hôm đó]. Tinh tú có thượng, trung, hạ, bẩm tánh có cương, nhu,
tĩnh, động khác nhau. Thực hiện pháp sự cũng nên thuận theo [để chọn lựa “trực nhật” thích hợp].
“Chư chấp”: Chấp có chín loại, tức bảy ngôi sao, gồm mặt trời, mặt
trăng, Hỏa, Thủy, Mộc, Kim, Thổ, cùng với La Hầu và Kế Đô, hợp thành Cửu Chấp.
La Hầu là giao hội thực thần[22].
Kế Đô dịch sát nghĩa là Cờ, sao Cờ chính là sao chổi. Ngoài hai Chấp ấy, bảy
ngôi sao kia theo thứ tự trực nhật[23],
tánh loại cũng có thiện và ác, như trong Phạm lịch (lịch pháp của Ấn Độ) đã
nói.
“Thực tiền thời” (Lúc trước bữa ăn): Ngày đêm mỗi đằng đều có ba
thời, trước bữa ăn có thể thực hiện pháp Tức Tai (dứt trừ tai nạn), buổi chiều
thì làm pháp Tăng Ích, ban đêm thì làm pháp sự Hàng Phục. Nhập Mạn-đồ-la quán đảnh
tương ứng với Tức Tai, nên nói là “thực
tiền”.
“Gặp cảnh giới tốt lành”, tôi cho rằng: Lúc tác pháp, hoặc trên
mặt đất, hoặc trong hư không có các thứ tướng lạ thuộc về sắc, thanh v.v… Trên
mặt đất, tức là hoặc thấy bé gái cầm nắm bình đựng năm vị của sữa (sữa, lạc,
sanh tô, thục tô, đề hồ), hoặc bình đựng nước thơm, hoặc cầm vật giống như
luân, ấn v.v… Hoặc là vật tôn quý trong cõi đời, và các thứ chứa đựng gạo tẻ trắng
v.v… tinh sạch, đầy ắp, hoặc mặc y phục đoan nghiêm, sạch sẽ, đẹp đẽ, hoặc nói
các thứ âm thanh tương ứng cát tường, thì đều là tướng thành tựu. Không trung
thì bỗng thấy mây lành thụy khí cuồn cuộn năm màu, hoặc có cầu vồng rực rỡ tươi
đẹp, rõ ràng bỗng hiện ra bất ngờ, hoặc có ánh lửa thoáng vụt qua như hình dạng
khi hộ-ma[24]
thành tựu. Hoặc bên cạnh mặt trời, thấy có năm sắc, hoặc hiện hình người như
đang đứng yên lặng, hoặc trong hư không có âm thanh hay đẹp, như là [tiếng hót
của] các loài như bạch hạc, chim công, uyên ương, hồng nhạn, trong trẻo, hòa
nhã, khiến cho mọi người thích nghe. Các tướng như thế cũng đều là tướng thành
tựu. Sở dĩ cần phải thuận theo Thế Đế, là vì Mạn-đồ-la có ý nghĩa thù thắng, vi
diệu, tịch diệt, người thuần tín, tâm trong trắng còn khó thể tin nhận, huống kẻ
ôm lòng ngờ lo ư? Do người được độ đã từng học tập các kinh sách cúng tế thuộc
Vi Đà (Vedas), các tài khéo, minh xứ (các sách vở thế gian), nếu họ thấy thời
phần tạo Mạn-đồ-la sai lầm, lo sợ sẽ dẫn đến điều chẳng tốt lành, liền sanh
nghi, trách móc rằng: “Ta nghe nói bậc trí huệ tổng trì không gì chẳng thông đạt,
nhưng nay xem ra, còn chẳng thể chọn được lúc có tinh tú tốt đẹp, huống hồ các
chuyện sâu xa khác ư?” Vì thế, kẻ đó do ngờ thầy, nghi pháp, đánh mất tín lực
kiên cố, đâm ra chuốc lấy trọng tội. Do vậy, cần phải thuận theo tình kiến và
căn cơ của họ.
Hơn nữa, Chấp Diệu như thế
chính là một loại thiện tri thức môn trong Mạn-đồ-la. Các vị Bổn Tôn ấy có thể
thuận theo sự nghiệp thế gian mà tạo phương tiện gia trì, do A-xà-lê khéo chọn
lúc cát tường, vốn sẵn liên quan tới pháp bổn thệ Chân Ngôn như thế, thực hiện
gia trì, sẽ được lìa các chướng. Lại nữa, các loại Thế Đế môn đều là tiêu xí[25]
của pháp giới. Nói “lương nhật thần”
(ngày giờ tốt lành) ngụ ý “thuộc lúc hội ngộ tốt lành của Bồ Đề tâm”. Khi bậc
thâm hạnh A-xà-lê trụ trong Du Già, quán sát thiện căn đã gieo từ thuở ban sơ của
người sắp được độ có lâu xa hay không? Nhân duyên thuộc về ai? Do chuyện nào mà
khởi đầu? Như lúc hành giả sơ phát tâm, hoặc do thấy đức Phật thuyết pháp, hoặc
trông thấy thần biến (thần thông biến hóa), hoặc thấy các thứ chuyện đáng buồn
khổ, hoặc ở nơi Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác mà phát khởi đạo tâm, hoặc dùng
hương, hoa v.v… để cúng dường các bậc phước điền như trên, tâm được hoan hỷ, liền
phát nguyện mong cầu Phật quả. Do nhân trước và duyên hiện thời của người ấy
cùng cảm phát, các thứ cơ duyên khế hợp mà giác ngộ bất đồng. Hoặc là trong lúc
như thế, Bồ Đề tâm có sức tịch tĩnh. Hoặc trong lúc như thế, có sức tăng tấn.
Hoặc trong lúc như thế, có sức oai mãnh, thuận theo các thứ phương tiện Tất Đàn
mà kiến lập, như vậy thì sẽ chẳng uổng công, chẳng sanh chướng ngại.
“Định nhật”: Mặt trời ví như thân Bổn Tôn. Mặt trăng ví như tu tập
Du Già hạnh. Do vầng trăng “Định tâm”
của hành giả có lúc sáng thêm, hoặc có lúc hơi mờ đi, hoặc vận hành quá nhanh,
hoặc vận hành rất chậm, hoặc vượt mức bình thường, hoặc chẳng đạt tới mức bình
thường, khiến cho lúc cơ duyên khế hợp mà giác ngộ cũng bị kéo dài hoặc rút ngắn.
Nếu chiếu theo lẽ thường, có thể là đến một duyên nào đó, một thời nào đó, đáng
nên kiến lập, nhưng có khi duyên và cảnh đổi dời, hoặc chưa đạt tới xứ và thời
[tương ứng] mà đã chín muồi, hoặc có lúc vượt ngoài thời và xứ ấy mới có chín
muồi. Lẽ biến thông như thế đều nên khéo biết, cho nên nói là “định nhật”.
“Thời phần”: Hành giả trong mỗi một địa đều tự có mười tâm. Mỗi
cái tâm ấy đều có nhân, căn, và quả, kết hợp thành ba mươi tâm. Đối với ba mươi
tâm ấy, trong một Mâu-hô-lật-đa (Muhūrta, khoảnh khắc), cũng nên biện định,
suy xét sâu xa cặn kẽ: Lúc nào có thể chiết phục phiền não? Lúc nào có thể tăng
ích công đức? Lúc nào nên thuận theo Trung Đạo để trụ trong tịch tâm? Đó gọi là
“hiểu tướng vi tế nơi mỗi thời”.
“Tú trực”: Nơi vầng trăng Du Già, hành nhân khi tiếp xúc với
duyên cảnh, trong hết thảy duyên cảnh, đều thấy tâm tánh, như các ngôi sao tuy
hình dạng lớn, nhỏ, chủng loại sai biệt, không gì chẳng tròn sáng vậy! Như khi
mặt trăng đi qua [phương vị] của hai mươi bảy tinh tú, do trải qua các tinh tú
tốt xấu khác nhau, khiến cho khí hậu và mỗi tháng trong thế gian cũng thuận
theo mà khác biệt. Như sao Cơ[26]
chuộng gió, mặt trăng đi vào địa phận của sao Cơ thì trời sẽ nổi gió. [Tương tự
như vậy], sao Tất chuộng mưa, mặt trăng đi vào [địa phận của sao Tất], ắt sẽ đổ
mưa. Bồ Đề hạnh cũng giống như thế, do gặp duyên, đối cảnh, thế lực khác nhau,
khiến cho việc thực hiện các phương tiện chiết phục, nhiếp thọ, và tịch hạnh (tức
tai) cũng thay đổi theo. Nếu A-xà-lê có thể suy xét sâu xa căn duyên, hiểu biết
chuyện ấy, thì gọi là “khéo quan sát
tú trực”.
“Cửu chấp” (Navagraha) tiếng Phạn là Ngật-lật-hà (Graha),
có nghĩa là “chấp trì”. A-xà-lê
hãy nên quán tay “tâm lực” của người ấy có thể làm chuyện gì, thì mật ấn được
truyền sẽ chẳng đến nỗi bị luống uổng. Như kim cang huệ ấn của chư Phật, chỉ có
bậc Bồ Tát kim cang tâm mới có thể cầm. Nếu truyền cho kẻ kém hơn, sẽ gọi là “chấp diệu chẳng tương ứng”. Trong Cửu
Chấp, mặt trời ví như Bồ Đề tâm vốn tịnh, tức là tự thể của đức Tỳ Lô Giá Na. Mặt
trăng ví như Bồ Đề hạnh. Ngày Mười Lăm trong bạch nguyệt tức là các hạnh đều
viên mãn, ví như thành tựu Bồ Đề. Ngày Mười Lăm của hắc nguyệt (tức ngày cuối
tháng âm lịch) là các hành đều tận, ví như nhập Niết Bàn. Trong khoảng giữa,
theo thời mà tăng hay giáng, ví như sức phương tiện. Hãy nên biết [các điều ấy]
đã thâu nhiếp Bách Tự Minh Môn. Thổ Tinh duy trì Trung Đài Tạng, Thủy Tinh duy
trì quyến thuộc Liên Hoa Bộ ở bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]. Kim Tinh duy
trì Kim Cang quyến thuộc ở bên trái. Mộc Tinh trì Như Lai quả đức thuộc phương
trên. Hỏa Tinh duy trì các đại lực minh[27]
ở phương dưới.
Lại nữa, năm Chấp như thế,
chính là trì ngũ sắc Tô-đa-la (Sutra)[28],
Thổ là Tín, Mộc là Tấn (tinh tấn), Kim là Niệm, Thủy là Định, Hỏa là Huệ. Hai
chấp kia thì La Hầu chủ trì ngăn che, Tuệ Tinh (Kế Đô) chủ trì điều bất tường,
cho nên [hai tinh chấp này] chẳng trực nhật. Sơ nhật phần như tịnh tâm hiển hiện,
trung nhật phần như phát khởi các hạnh, hậu nhật phần như vạn đức đã viên mãn,
công dụng lần lượt ngưng dứt. Sơ dạ phần như địa vị tự chứng, trụ trong Đại Niết
Bàn. Hậu dạ phần như nghĩ tới bổn thệ nguyện, dấy lên sức gia trì. Giáp vòng liền
trở lại từ đầu, tuần hoàn vô cùng. Thể của mặt trời là một, nhưng trong bốn bộ
châu thì thời phần mỗi châu mỗi khác. Nay dụng ý của Mạn-đồ-la này là muốn khai
phát vầng mặt trời Bồ Đề tâm, cho nên chọn lấy lúc trước bữa ăn (trước lúc
chính ngọ).
“Gặp cảnh giới tốt lành” tức là cảnh giới tâm vô tướng, trọn chẳng
phải là hữu vi hay vô vi. Dùng ngũ nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp
nhãn, Phật nhãn) của Phật để quán kỹ, vẫn chẳng thể thấy tướng mạo ấy, nhưng
cũng có tướng phát khởi của các loại thiện căn để có thể rõ biết. Nếu là bậc kiến
đế A-xà-lê, sẽ tự hiện tiền thông đạt. Nếu chưa kiến đế, [vị ấy] sẽ ở trong
tam-muội, xem xét cảnh giới này, hoặc là thấy khi người ấy (người sẽ được truyền
trao quán đảnh) tu hành Lục Độ, các thứ Lục Tế[29]
đều chẳng thể gây chướng nạn, hoặc được chúng sanh khen ngợi, cho đến thọ ký Bồ
Đề. Hoặc như trong phần trước [đã nói] các thứ ấn tướng trong tam-muội sẽ hiển
hiện rõ rệt, lạ lùng, đặc biệt, khác với lẽ thường! Dùng nhân quả để suy xét, sẽ
có thể hiểu ý, cho đến đối với các chỗ phổ môn thâu nhiếp cũng đều có thể biết.
(Kinh) Tiên
đương vị nhất thiết Như Lai tác lễ, dĩ như thị kệ cảnh phát địa thần: - Nhữ
thiên thân hộ giả, ư chư Phật đạo sư, tu hành thù thắng hạnh, tịnh địa Ba La Mật,
như phá ma quân chúng. Thích Sư Tử cứu thế, ngã diệc hàng phục ma, ngã họa Mạn-đồ-la.
(經)先當為一切如來作禮,以如是偈警發地神:汝天親護者,於諸佛導師,修行殊勝行,淨地波羅蜜。如破魔軍眾,釋師子救世,我亦降伏魔,我畫漫荼羅。
(Kinh:
Trước hết, hãy kính lễ hết thảy các đức Như Lai, dùng kệ như thế này để nhắc nhở
địa thần: - Ngài, vị trời hộ trì, nơi chư Phật đạo sư, tu hành hạnh thù thắng,
tịnh địa Ba La Mật, như phá lũ ma quân. Thích Sư Tử cứu thế, tôi cũng hàng phục
ma, tôi vẽ Mạn-đồ- la).
Vị A-xà-lê sẽ nhắc nhở địa thần. Trước đó, [A-xà-lê] vận
tâm tư duy thân trang nghiêm vô tận của đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp pháp giới,
mười phương ba đời hết thảy các Như Lai cũng giống như thế. Mỗi thân trang
nghiêm vô tận đều trọn khắp pháp giới. Các vị Bồ Tát từ địa vị Thập Trụ cho đến
Sơ Địa phần chứng thân trang nghiêm, vô lượng vô biên trọn khắp pháp giới, chẳng
có kẽ hở như dầu mè. Hãy nên quán thân này đối trước trọn khắp hết thảy các vị
thánh, dùng ba nghiệp thanh tịnh chí thành làm lễ. Do nhân duyên ấy, [A-xà-lê]
đạt được vô lượng phước, liền dùng tâm vô đảo (chẳng điên đảo) thí cho đệ tử ấy,
nguyện [đệ tử] chẳng có chướng nạn, mau thành Vô Thượng Bồ Đề.
Kế đó, hãy nên nói kệ để nhắc nhở địa thần. Như lúc Thích
Ca Mâu Ni Phật mới ngồi nơi đạo tràng, bảo ma vương rằng: “Ngươi do đời trước
đã từng thí vô tận một lần, nay được làm thân chúa trời tự tại, nhưng ta từ vô
lượng kiếp tới nay, tu đại thí như thế chẳng tính nổi, thậm chí thịt nơi thân
thể, và tay, chân cũng chẳng keo tiếc, ngươi sao có thể so sánh hơn kém cùng ta
được?” Ma nói: “Ta làm phước đã được ông chứng nhận, còn phước nghiệp của
ông, ai sẽ chứng minh? Nếu không có người chứng minh, tức là ông thua rồi!” Lúc
bấy giờ, Bồ Tát duỗi tay phải, chỉ xuống đất, nói lời chân thật rằng: “Ta vốn
hành Bồ Tát đạo nơi đất này, đủ mọi khổ hạnh khó hành, địa thần chứng biết!”
Hãy nên biết chỉ đất như thế chính là mật ấn nơi thân. Lúc bấy giờ, vô lượng địa
thần từ dưới đất vọt ra, hiện nửa người để chứng minh. Quân chúng của ma vương
do vậy lui tan. Nay A-xà-lê muốn cho đệ tử không lâu sau sẽ kế tục địa vị Như
Lai, cũng dùng ấn này để nhắc nhở địa thần. Khi đó, địa thần sanh lòng tán
thán, hoan hỷ to lớn, nghĩ như thế này: “Nay
Phật tử này có thể kiến lập đại sự nhân duyên, vì sẽ thủ hộ chúng ta, khiến cho
chẳng bị tổn não, cho nên răn nhắc. Ta phải nên dùng phương tiện thủ hộ, cũng
khiến cho vị này lìa khỏi các ma nghiệp”. Do sức của các duyên ấy, khiến cho cuộc đất này giống như kim
cang. Nói ra bài kệ A Lợi Sa[30],
có tên là Tự Nhiên Thành Tựu Chân Ngôn. Nếu lúc tác pháp, nãy nên tụng theo bản
tiếng Phạn. Nay tôi trích lục đầy đủ. [A-xà-lê] tụng [chân ngôn ấy] bảy lượt,
dùng năm ngón tay phải áp xuống đất.
“Đát-văn (nghĩa là “ngươi”), thê vi (thiên nữ), sa cật-tỷ
(thủ hộ), bổ đa tứ (đích thân).
Dịch thành: “Nhữ thiên thân hộ giả” (Ngài là vị
trời, hãy đích thân thủ hộ).
“Tát ma (Hết thảy), Bột-đà-nẵng
(Phật), đá dĩ nạn (độ đời, tức
là có ý nghĩa “đạo sư”).
Dịch thành: “Ư chư Phật đạo sư” (Nơi các đức Phật
là bậc thầy hướng dẫn).
Chiết-rị-da (hành), na
dã (tu hành), vĩ thế sái sổ
(thù thắng).
Dịch thành: “Tu hành thù thắng hạnh”.
“Bộ-mị (tịnh địa), Bá
La Mật Đa (đến bờ kia), tố giả
(đẳng).
Dịch thành: “Tịnh địa Ba La Mật”.
“Ma-la (thiên ma), tắc
niên (quân chúng), dã tha
(như), hào cật nạn (phá).
Dịch thành: “Như phá ma quân chúng”.
“Xá-cật-dã (Thích Ca), tăng
hệ na (sư tử), đá dĩ na
(cứu thế).
Dịch thành: “Thích Sư Tử cứu thế”.
“Đát-tha ngân (như ta), ma-la
(ma), nhã diên (hàng), cật lật đỏa (phục).
Dịch thành “ngã diệc hàng phục ma” (ta cũng hàng
phục ma).
“Mạn-đồ-lam lệ (Mạn-đồ-la), lý khư (vẽ), miệu ngân
(ta).
Dịch thành “ngã họa Mạn-đồ-la” (ta vẽ Mạn-đồ-la).
Bài kệ ngụ ý: Trước hết, bảo
địa thần rằng: - Thiên nữ, bà là người đích thân thủ hộ đại địa này, đã từng
cúng dường, thân cận hết thảy chư Phật đạo sư, tu hạnh thù thắng tịnh trị các
cuộc đất, viên mãn thanh tịnh các Độ (Ba La Mật), cùng các thứ công đức khác.
Như trong kinh Ma Ha Bát Nhã đã nói cặn kẽ theo từng pháp, ở đây [chỉ nói tóm gọn]
là “Đẳng”. Nay do lời kệ được dịch
thành mỗi câu năm chữ, không thể ghi trọn, nhưng trong Địa Ba La Mật cũng đã
bao hàm các đức ấy.
Kế đó, bài kệ trần thuật ý
nghĩa vì sao nhắc nhở, nói lời thành thật: Như xưa kia, lúc đức Thế Tôn tại Bồ
Đề Mạn-đồ-la hàng phục quân đội của thiên ma, bà đã hiện thân để chứng minh
trong đại hội ấy. Do vậy, đức Thế Tôn được gọi là Thích Ca Sư Tử, có thể đi một
mình chẳng sợ hãi, cứu giúp, che chở thế gian! Tôi nay cũng muốn theo gương đức
Phật, tiếp nối hành Như Lai sự. Do vậy, vẽ Mạn-đồ-la này. Tôi tuy chưa được hết
thảy đều giống như Như Lai, nhưng do được Tam Mật của đức Tỳ Lô Giá Na gia trì,
cũng có thể hiện làm thân Phật, nhóm họp đại hội trọn khắp hết thảy các Mạn-đồ-la.
Vì thế, nay bà cũng nên hiện thân chứng minh, khiến cho bọn ma quân chẳng thể
ngăn trở, phá hoại.
Lại nữa, địa thần là thiên
nữ, mà nữ có nghĩa là Tam-ma-địa (Samādhi, Chánh Định), tức là tam-muội do đức Đại Nhật Thế Tôn hộ trì tâm địa của hết
thảy chúng sanh. Đức Thế Tôn đúng như Thật Tướng, xưa kia lúc Ngài tại Bồ Đề Mạn-đồ-la
hàng phục vô minh trụ địa ma vương và trần sa đại chúng, dùng tay Bát Nhã Ba La
Mật, duỗi ngũ lực ấn xuống tâm địa của hết thảy chúng sanh; khi đó, bà dùng
tam-muội, hiện thân chứng minh. Do vậy, độ vô lượng chúng sanh, bốn loại ma
quân vì thế đều lui tan. Bởi đó, hiệu là Tịch Nghiệp Sư Tử, có thể dùng thần
thông tự tại để cứu thế gian. Tôi nay cũng muốn sửa dọn phẳng phiu tâm địa của
đệ tử, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la, bà cũng nên vì tôi chứng minh, khiến cho bốn lũ ma
quân hàng phục. Lại còn dùng Tự Môn để giải thích, bài A Lợi Sa này có vô lượng
nghĩa, nhưng điều được đề cao tột bậc chính là trong chữ Tha. Chữ Đát Đa
(Tatha) trong tiếng Phạn nghĩa là Như. Chữ Đa đọc âm dài, sẽ kèm theo âm A, do
hết thảy các pháp vốn bất sanh. Như trong Thật Tướng chẳng tăng, chẳng giảm, tức
là dùng nghĩa này để nhắc nhở hết thảy các địa thần.
(Kinh) Bỉ ưng trường quỵ, thư thủ án địa, tần tụng thử kệ, dĩ đồ hương,
hoa đẳng cúng dường. Cúng dường dĩ, chân ngôn giả phục ưng quy mạng nhất thiết
Như Lai, nhiên hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ chúng đức.
(經)彼應長跪,舒手按地,頻誦此偈,以塗香華等供養。供養已,真言者復應歸命一切如來,然後治地。如其次第,當具眾德。
(Kinh:
Người ấy nên quỳ thẳng, duỗi tay áp xuống đất, nhiều lượt tụng bài kệ ấy, dùng
hương bôi, hoa v.v… để cúng dường. Cúng dường xong, người tu chân ngôn lại nên
quy mạng hết thảy Như Lai, sau đấy mới tịnh hóa cõi đất. Theo đúng thứ tự đó, sẽ
trọn đủ các đức).
Khi
người ấy tụng kệ, hãy nên quỳ thẳng, hai gối đặt sát đất, dùng tay “trí huệ” (tay phải) duỗi năm ngón,
áp lòng bàn tay xuống đất rồi mới tụng bài kệ A Lợi Sa này. Cứ một lượt thì bảy
lần kết ấn, gia trì bảy lượt; đấy gọi là Chân Ngôn và ấn tương ứng. [Thiện Vô
Úy] A-xà-lê nói: “Khi muốn thực hiện
pháp này, trước hết dùng tam-muội-da pháp giới kim cang tự tánh để gia trì tự
thân, đều như trong pháp cúng dường đã nói. Dùng môn chữ Ra (र) để tự tịnh tâm địa và đất nơi đạo
tràng xong, trong Du Già[31]
bèn trước hết khởi phong luân có hình bán nguyệt, dùng chữ Ha (ह) để gia trì. Kế đó, khởi thủy
luân, dùng chữ Phược (Va,व) để gia trì. Kế đó, khởi kim cang
địa luân dùng chữ A (अ) để
gia trì. Một mặt duyên theo đế quán tương ứng để hiểu rõ, khéo điều phục cái tâm
và hơi thở, một hơi tụng môn chữ A liên tục chẳng gián đoạn. Tận lực tụng hết một
hơi xong, lại tụng tiếp, hoặc là một hơi hay ba hơi, cho đến khiến cho [trong
tâm] có cảm giác nhận biết. Dùng phương tiện duyên vào một nơi như thế, liền nhập
tam-muội, sẽ thấy đại hội trang nghiêm bí mật của Phật, Bồ Tát, hoặc tự thấy
các lầm lỗi trong ngoài cuộc đất”.
Kinh dạy: “Dĩ đồ hương, hoa đẳng cúng dường” (Dùng
hương bôi, hoa v.v… để cúng dường), không chỉ nhắc nhở mà thôi, lại còn dùng
các thứ hương, hoa, đèn sáng v.v… để cúng dường mười chư Phật và địa thần.
Nhưng ở đây, “địa” có ba loại,
tức là dùng môn chữ Ra để tịnh trừ tâm địa của chính mình, tâm địa của đệ tử,
và đất nơi đạo tràng, đều trì môn chữ A để khiến cho [các “địa” ấy đều] trở
thành kim cang.
Nếu xét theo ý nghĩa bí mật
để giải thích “cúng dường” thì
cũng giống như thế. Nếu A-xà-lê dùng các thứ công đức thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh
để hồi hướng trí ấn Nhất Thiết Trí, chính là cúng dường hết thảy chư Phật và
người trì địa trong pháp giới của chính mình. Dùng công đức ấy để hồi thí đệ tử,
giúp tạo thành nhân duyên thành Phật cho người ấy, tức là cúng dường hết thảy
chư Phật và người trì địa trong pháp giới thuộc cái tâm của đệ tử. Nếu dùng đó
để trang nghiêm đạo tràng kim cang này, tức là dùng pháp để cúng dường hết thảy
chư Phật trong mười phương thế giới. Cúng dường xong, lại nên quy mạng hết thảy
Như Lai. Phỏng theo đó, sẽ có thể hiểu [các điều khác].
Kinh dạy: “Nhiên hậu trị địa. Như kỳ thứ đệ, đương cụ
chúng đức” (Sau đấy tịnh hóa cõi đất. Theo đúng thứ tự ấy, sẽ trọn đủ
các đức), ý nói: Phàm muốn tạo Mạn-đồ-la, trước hết cần phải thực hiện pháp như
thế (cúng dường, nhắc nhở địa thần) rồi mới đào đất, chọn lọc loại bỏ [uế vật],
cũng bao gồm ba loại đất (tâm địa của chính mình, tâm địa của đệ tử, và đất nơi
đạo tràng). Do hai cách giải thích nông cạn và bí mật, cho đến thực hiện đầy đủ
các chi phần như trong kinh đã nói; vì thế nói là “cụ chư chúng đức” (trọn đủ các đức).
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu diện lễ Thế Tôn túc, nhi thuyết kệ ngôn:
- Phật pháp ly chư tướng, pháp trụ ư pháp vị, sở thuyết vô thí loại, vô tướng,
vô vi tác. Hà cố đại tinh tấn, nhi thuyết thử hữu tướng, cập dữ Chân Ngôn hạnh,
bất thuận pháp nhiên đạo?
(經)爾時,執金剛祕密主頭面禮世尊足,而說偈言:佛法離諸相,法住於法位,所說無譬類,無相無為作。何故大精進,而說此有相,及與真言行,不順法然道?
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đầu
mặt lễ dưới chân đức Thế Tôn mà nói kệ rằng: - Phật pháp lìa các tướng, pháp trụ
trong pháp vị, diễn nói chẳng sánh ví, vô tướng, chẳng tạo tác. Sao đấng Đại
Tinh Tấn, nói pháp hữu tướng này, cùng với hạnh Chân Ngôn, chẳng thuận đạo pháp
ấy?)
Khi đó, ngài Kim Cang Thủ
vì muốn nêu tỏ ý chỉ sâu kín, bí mật của Như Lai, hòng đoạn trừ tâm nghi hoặc
cho đệ tử trong vị lai, đầu mặt áp sát đất, lễ dưới chân đức Thế Tôn, bèn nói kệ
rằng: “Phật pháp ly chư tướng…. Bất
thuận pháp nhiên đạo” (Phật pháp lìa các tướng… Chẳng thuận theo đạo
pháp vốn sẵn như thế). Ý nói: Con đích thân nghe từ đức Phật, Thật Tướng của
các pháp xa lìa hết thảy các tướng, chỗ trụ của Phật pháp là trụ trong pháp vị.
Dẫu Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, [tánh của các pháp] thường tự tịch diệt
chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng thể do suy lường, phân biệt mà thấu hiểu được, cũng
chẳng do nhân lượng, thí dụ mà có thể biểu thị được! Như pháp tướng thường như
thế, chư Phật còn chẳng thể tạo tác, huống hồ tướng hữu vi mà có thể tụ tập, kết
thành ư? Cớ sao đấng Thiên Trung Thiên là bậc đại tinh tấn nay lại nói các sự
tướng hữu vi như chọn đất, tạo đàn tràng v.v… và thứ tự của hành pháp Chân
Ngôn, dạy người tu học chuẩn bị các thứ hương, hoa, vật cúng, miệng [tụng niệm]
thuận theo giác quán[32]
và ngôn thuyết, thân thì học oai nghi thủ ấn, tâm duyên theo màu sắc, hình mạo,
và phương vị của Bổn Tôn? Đã là hữu vi, hữu tướng, há có thể phù hợp đạo vô vi
vô tướng vốn sẵn như thế ư? Kính mong đức Thế Tôn khai phát chỉ thú sâu xa ấy,
trừ vọng chấp và tình kiến phỉ báng của thế gian.
(Kinh)
Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật cáo Chấp Kim Cang Thủ: - Thiện thính
pháp chi tướng, pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng. Nhược tịnh trừ
vọng tưởng, tâm tư chư khởi tác, ngã thành Tối Chánh Giác, cứu cánh như hư
không. Phàm ngu sở bất tri, tà vọng chấp cảnh giới, thời, phương, tướng mạo đẳng,
lạc dục vô minh phú. Độ thoát bỉ đẳng cố, tùy thuận phương tiện thuyết, nhi thật
vô thời phương, vô tác, vô tạo giả. Bỉ nhất thiết chư pháp, duy trụ ư Thật Tướng.
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời, liệt huệ chư chúng sanh, dĩ si ái tự
tế, duy y ư hữu trước, hằng nhạo chư đoạn thường, thời phương sở tạo nghiệp,
thiện, bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu quả, bất tri giải thử đạo. Vị độ
bỉ đẳng cố, tùy thuận thuyết thị pháp.
(經)爾時,薄伽梵毘盧遮那佛,告執金剛手:善聽法之相,法離於分別,及一切妄想。若淨除妄想,心思諸起作,我成最正覺,究竟如虛空。凡愚所不知,邪妄執境界,時方相貌等,樂欲無明覆;度脫彼等故,隨順方便說,而實無時方,無作無造者,彼一切諸法,唯住於實相。復次,祕密主!於當來世時,劣慧諸眾生,以癡愛自蔽,唯依於有著,恒樂諸斷常,時方所造業,善不善諸相,盲冥樂求果,不知解此道;為度彼等故,隨順說是法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na Phật bảo Chấp
Kim Cang Thủ: - Hãy khéo nghe pháp tướng. Pháp lìa các phân biệt, và hết thảy vọng
tưởng. Nếu trừ sạch vọng tưởng, các tâm tư động niệm, ta thành Tối Chánh Giác,
rốt ráo như hư không. Kẻ phàm ngu chẳng biết, tà vọng chấp cảnh giới, thời,
phương, tướng mạo thảy, lạc dục, vô minh che. Vì độ thoát bọn họ, tùy thuận
phương tiện nói. Thật chẳng có thời, phương, vô tác, không người tạo. Hết thảy các pháp
đó, chỉ trụ trong Thật Tướng. Lại này, Bí Mật Chủ! Ở trong đời tương lai, chúng
sanh trí huệ kém, do si ái tự lấp, chỉ nương vào chấp Có, thường ưa thích Đoạn,
Thường, thời, phương mà tạo nghiệp, các tướng thiện, bất thiện, mù tối, chuộng
cầu quả, chẳng biết hiểu đạo này. Vì độ thoát bọn họ, tùy thuận nói pháp này).
Từ “nhĩ thời, Bạc Già Phạm” (lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm) trở đi,
đức Thế Tôn dùng kệ đáp. Trước hết, Ngài nói: “Thiện thính pháp chi tướng” (Hãy khéo lắng nghe tướng của các
pháp). Do ý nghĩa “Thật Tướng của các
pháp” quá sâu, khó thấy, cho nên [đức Phật] răn hãy khéo nghe. Pháp thường
vô tánh, sanh từ các duyên, tức là tướng của tám tâm vượt ngoài các hý luận.
Ngươi lại muốn cầu pháp vô tướng vô vi từ chỗ nào? Vì thế, câu kế đó nói: “Pháp ly ư phân biệt, cập nhất thiết vọng tưởng”
(Pháp lìa khỏi phân biệt, và hết thảy vọng tưởng). Nếu biết rõ các pháp vốn là
vô tướng như thế, sẽ chiếu kiến Thật Tướng của cái tâm, từ bổn sơ tới nay, thường
tự chẳng sanh. Lúc bấy giờ, hết thảy thân, khẩu, ý nghiệp đều như hư không chẳng
thể cùng tận. Vì thế nói: “Ngã thành Tối
Chánh Giác, cứu cánh như hư không” (Ta thành Tối Chánh Giác, rốt ráo như
hư không). Nhưng hết thảy phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, do chẳng biết
như thật, cứ tà vạy, điên đảo, hư vọng chấp trước đủ loại cảnh giới, tức là “thời, phương, chư tướng mạo” (thời
gian, phương vị, các tướng mạo) v.v… “Lạc
dục vô minh phú” (Bị che lấp bởi lạc dục vô minh), thường bị nước ái tưới
tắm, bị vô minh che đậy. Nếu ta xả phương tiện, trực tiếp nói với chúng sanh
pháp tự chứng như thế, sao họ có thể ngộ giải để tiến nhập cho được? Vì thế, kế
đó, kệ nói về ý nghĩa lập giáo, bảo: Vì độ họ mà tùy thuận nói phương tiện. Ý
Phật là do pháp tướng quá sâu, chẳng thể tuyên nói trực tiếp, nên ta dùng sức
phương tiện, gởi gắm nơi các chi phần trọn đủ các duyên của Mạn-đồ-la, khiến
cho tâm kẻ sơ nghiệp có chỗ nương cậy, tu tập chẳng luống uổng. Tức là do vậy
mà được Phật gia trì, đồng thời quan sát mười câu duyên sanh, có thể chẳng động
Thật Tướng mà du hý thần thông, quán trọn khắp hết thảy các thiện tri thức,
trang nghiêm hết thảy các cõi Phật, chẳng muốn khiến cho các hành nhân vứt bỏ
các hạnh, trụ trong vô tướng, lại chẳng chấp trước các hạnh, trụ vào hữu tướng.
Vì thế nói “thời, phương, sở tác nghiệp”
(thời gian, phương vị, nghiệp đã tạo), “nhi
thật vô thời, phương, vô tác, vô tạo giả, bỉ nhất thiết chư pháp, duy trụ ư Thật
Tướng” (nhưng thật ra chẳng có thời gian, nơi chốn, vô tác, không có người
tạo ra. Hết thảy các pháp đó chỉ trụ trong Thật Tướng). Nếu hết thảy các pháp hữu
vi thảy đều trụ trong Thật Tướng, há có nên như kẻ si kia muốn trốn tránh hư
không, hoặc muốn tham đắm hư không ư?
Lại nữa, đối với chuyện
này, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại nói rộng về thí dụ ba cỗ xe trong kinh Pháp Hoa:
Như các con của ông trưởng tử thơ ấu, vô tri, tuy cha đã dùng đủ mọi lời lẽ tốt
lành để khuyên răn con thoát khỏi nạn lửa, trọn chẳng thể được. Khi đó, trưởng
giả quán thấy thâm tâm con chỉ lo chơi đùa, bèn dùng phương tiện mà bảo như thế
này: “Nay ở ngoài cửa, có ba loại xe quý báu. Các con nên ra lấy, sẽ tự vui
thú”. Khi đó, các con nghe nói tới vui chơi, ứng hợp ý nguyện của chúng, tâm
tình đều sốt sắng, tranh nhau thoát ra, cho tới khi đều cùng được cỗ xe báu
trang nghiêm bậc nhất, tức chẳng phải là điều tâm chúng nó trrước đó vốn muốn
mong cầu.
Pháp môn Mạn-đồ-la này cũng
giống như thế. Như Lai dùng nhân duyên sự tướng thế gian để sánh ví pháp giới
chẳng thể nghĩ bàn, hòng rủ lòng tiếp độ các căn cơ. Nếu có thể nắm vững, sẽ có
thể tin hiểu trọn khắp, dũng mãnh tấn tu, và do được Tam Mật gia bị, khi tự thấy
tâm, hiểu đạo, sẽ biết các thứ danh tướng, ngôn từ đều là mật hiệu của Như Lai,
và cũng chẳng phải là điều mong cầu thường tình. Như nói “ba tháng trì tụng” tức là ba lượt
chuyển phương tiện trong tánh thanh tịnh viên minh, há có nên hiểu là chỉ [trì
tụng trong] chín mươi ngày ư? Lại như Đông phương Bảo Tràng Phật, tức là ý
nghĩa “sơ phát tịnh Bồ Đề tâm”,
há chỉ nên hiểu là “bốn phương” ư? Cứ theo lệ ấy mà suy, đối với các pháp môn
khác, sẽ đều có thể hiểu ý. Vì thế nói “nhi
thật vô thời phương…. Duy trụ ư Thật Tướng” (nhưng thật sự chẳng có thời
gian và phương vị… Chỉ trụ trong Thật Tướng).
Lại nữa, đức Thế Tôn đại bi
vô hạn, thương xót chúng sanh trong đời vị lai do chướng nặng, căn độn, chẳng thể
nhanh chóng nhập pháp giới. Vì thế, trong tạng sâu thẳm, bí mật ấy, dùng tổng
trì xoay chuyển và phương tiện nông cạn, sơ lược, để tạo lập sự tư duy tu tập
nơi sự tướng, cũng nhằm thành tựu, khiến cho công tu tập Tất Địa thế gian chẳng
luống uổng, Tam Mật ngầm giúp để trọn thành Phật quả. Vì thế, kế đó, kệ nói: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Ư đương lai thế thời,
liệt huệ chư chúng sanh, dĩ si ái tự tế, duy y ư hữu tướng, hằng nhạo ư đoạn
thường, thời phương, sở tác nghiệp, thiện bất thiện chư tướng, manh minh nhạo cầu
quả, bất tri giải thử đạo. Vị độ bỉ đẳng cố, tùy thuận phương tiện thuyết”
(Lại này, Bí Mật Chủ! Ở trong đời tương lai, các chúng sanh huệ kém, do si ái tự
lấp, chỉ nương vào tướng Có, luôn ưa chuộng đoạn thường, thời, phương, nghiệp tạo
tác, các tướng thiện, bất thiện, mù quáng thích cầu quả, chẳng hiểu biết đạo
này. Vì độ thoát bọn họ, tùy thuận phương tiện nói). Vì thế, người truyền pháp
hãy nên khéo biết căn duyên, lại biết giới hạn của pháp môn, đúng theo bệnh mà
cho thuốc, chớ sai căn cơ. Nếu đối với kẻ chấp tướng mà lập tức nói nghĩa Không
rất sâu, ắt sẽ khiến cho họ sợ hãi, nghi hoặc, càng thêm chẳng tin. Nếu là bậc
lợi căn, trí sâu, mà vội vàng trao cho pháp môn nông cạn, sơ lược, ắt họ sẽ cho
là [cách tu tập hữu tướng] chẳng phù hợp chánh đạo vô vi, bèn sanh lòng khinh mạn.
Đã vô ích đối với kẻ đó, lại còn tự phạm tam-muội-da! Vì thế, trước hết nên trụ
trong Du Già để quán nhân duyên của người ấy từ đầu đến đuôi. Đã khéo biết rõ rồi,
hãy nên quán ý nghĩa “thực hiện Quyền
nhằm hiển lộ Thật” trong đoạn vấn đáp này, nhập vào trong hết thảy các
phương tiện môn để truyền dạy, sẽ có thể tạo nhiều lợi ích. Do vậy, chẳng nẩy
sanh chướng nạn!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị sở thuyết xứ sở trung, tùy tại nhất địa, trị
linh kiên cố, thủ vị chí địa cù-ma-di, cập cù-mô-đát-la, hòa hợp đồ chi. Thứ dĩ
hương thủy chân ngôn sái tịnh.
(經)祕密主!如是所說處所中,隨在一地治令堅固,取未至地瞿摩夷及瞿摸怛羅和合塗之。次以香水真言灑 淨。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Trong các chỗ như đã nói,
tùy chọn một cuộc đất, tịnh trị cho kiên cố, lấy cù-ma-di và cù-mô-đát-la chưa
rơi xuống đất, hòa hợp để bôi lên. Kế đó, dùng hương thủy chân ngôn để sái tịnh).
Theo đúng lời dạy, hễ tạo Mạn-đồ-la,
cần phải hoàn tất trong vòng bảy ngày. Trong ngày đầu tiên, A-xà-lê nên trụ
trong tự tánh của Đại Nhật Như Lai; sau đấy mới nhắc nhở địa thần, dùng phương
tiện để trang nghiêm thân thể, đều theo đúng các điều đã nói trong phần Thứ Tự
Cúng Dường. Đã nhắc nhở xong, liền dùng Bất Động Tôn chân ngôn (chân ngôn của Bất
Động Minh Vương) để gia hộ; sau đấy mới đào đất, đúng như pháp mà chọn lựa, sửa
sang [cuộc đất]. Người ấy nên trước hết đào ở trung tâm [cuộc đất ấy] sâu xuống
chừng một khủy tay, chọn lựa [loại bỏ vật tạp uế và trùng trong đất] xong, lấp
lại. Nếu hố lấp tràn đầy còn dư đất ra thì là cuộc đất bậc thượng, giống như cũ
là bậc trung, lấp chẳng đầy là cuộc đất bậc hạ. Theo thứ tự như thế, trừ khử
các khuyết điểm xong, dùng đất đào lên đó đã được tịnh trị cặn kẽ xong lấp lại,
dùng các chất dịch của bò để tưới ướt, đắp cho chắc chắn, bằng phẳng như lòng
bàn tay. Kế đó, dùng cù-ma-di (gomatī, gomaya) và cù-mô-đát-la (gomūtra) hòa hợp để tô trát. Nếu giải thích theo lối nông cạn, sơ lược thì đó là
dùng phân và nước tiểu bò, do thuận theo phong tục địa phương, coi các thứ đó
là thanh tịnh.
Giải thích theo lối bí mật,
Cù nghĩa là “hành”. Do nhập môn
chữ A, tức là “các pháp vô hành”.
Ma nghĩa là Ta, Di có nghĩa là Thừa. Vì sao các pháp vô hành? Do trong hết thảy
các pháp, chẳng thể đạt được ngã. Nếu chẳng có ngã, sẽ chẳng có pháp để nương
vào và người nương vào, bèn gọi là Đại Thừa. Cù-mô có nghĩa giống như cách giải
thích trên đây. Đát-la nghĩa là “như
như, lìa trần cấu”, tức là Thật Tướng của cái tâm. Nếu hành giả có thể tịnh
trị tâm địa như thế, sẽ có thể rốt ráo thanh tịnh, lìa các chướng ngại. Đối với
cuộc đất đã được chọn lọc, sửa sang phẳng phiu xong, biết phương vị và giới hạn,
liền đào ở trung tâm Mạn-đồ-la sâu chừng một khủy tay, dùng chân ngôn Thành Biện
Chư Sự để gia trì năm thứ báu[33],
ngũ cốc[34],
năm món thuốc[35],
xếp đặt tại đó, trừ khử các thứ cấu nhơ v.v… đều như trong Pháp Cúng Dường đã
nói.
Nếu giải thích sâu xa, bí mật,
thì tức là an lập báu ngũ trí trong Bồ Đề tâm, có thể dấy lên năm thứ mầm thiện,
diệt trừ năm thứ lỗi lầm. Vì thế nói “ngũ
cốc, ngũ dược”. Xếp đặt
như thế xong, lại còn tịnh trị, tô trát cho tột bậc bằng phẳng. Hãy nên lấy cái
bình sẽ dùng để quán đảnh, chứa nước sạch, đừng để đầy tràn, cắm các loại hoa
quả, trong đó đặt năm thứ báu, ngũ cốc, và năm loại thuốc, đặt ở chỗ chôn vật
báu. Từ ngày thứ ba kể từ sau khi đặt bình, hãy nên hằng ngày ba thời tụng Biện
Sự chân ngôn một trăm lẻ tám lượt để gia trì cái bình ấy; sau đấy mới làm các sự
nghiệp (tác pháp). Tới chiều ngày thứ tư, dùng Hương Thủy chân ngôn để gia trì
nước thơm, hoặc tụng một trăm lẻ tám lượt cho đến một ngàn lượt. Sau đấy mới
sái tịnh.
(Kinh) Tức thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bát
ra để tam mê, già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để vi thâu
đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt nễ, sa ha.
(經)即說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿鉢囉底三迷。伽伽那三迷。三麼多努揭帝。鉢囉吃㗚底微輸睇。達摩馱睹微戌達儞。莎訶。
(Kinh: Liền nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
a bát ra để tam mê, già già na tam mê, tam ma đa nỗ yết đế, bát ra cật lật để
vi thâu đệ, đạt ma đà đổ vi thú đạt nễ, sa ha).
Câu đầu tiên là quy mạng trọn
khắp chư Phật. Như tam thân của đức Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi, mười
phương ba đời hết thảy Như Lai cũng lại như thế. Nay đều dùng cái tâm trọn khắp
để quy mạng hết thảy; sau đấy mới nói chân ngôn này, muốn khiến cho các đức Thế
Tôn chẳng vượt bổn thệ, cùng nhau gia trì để chứng minh. Hết thảy các chân ngôn
trong phần sau đều theo lệ này, chẳng giải thích cặn kẽ nữa. Trong câu thứ hai,
dùng môn chữ A tối sơ làm cái Thể của chân ngôn, được gọi là “chủng tử tự” (chữ chủng tử), các tự
môn khác đều nhằm trang nghiêm chữ này, do tự môn này chính là cội gốc của Bồ Đề
tâm. Nay kiến tạo Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương: Trước hết, dùng nước thơm để
sái tịnh, đều vì tịnh trị tâm địa như thế, khiến cho nó lìa các cấu uế. Nếu luận
theo ngoại cảnh, thì cũng là kim cang tâm địa được trì. Vì thế, các chữ khác đều
trở thành tự môn này. Chữ A có nghĩa là
“hết thảy các pháp vốn bất sanh”. Kế đó nói chữ Ba La (được phiên âm
thành Bát La trong Chân Ngôn) thì Ba là Đệ Nhất Nghĩa Đế, La là trần. Do hết thảy
các chữ đều vào trong môn chữ A, tức là “trần
cấu vốn chẳng sanh”. Trần cấu vốn chẳng sanh tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, Đệ
Nhất Nghĩa Đế chính là nói tới Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy. Kế đó [chân ngôn] có
chữ Để, xét theo chánh thể thì là Đa tự môn, do kèm theo âm thanh tam-muội nên
chuyển thành chữ Để. “Để” có nghĩa
là tâm, cũng có nghĩa là Như Như. Như Như trong tự tâm là tướng như thật, tức
là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Bồ Đề tâm thanh tịnh trong hết thảy các pháp đều chẳng
đắm nhiễm, được gọi là Liên Hoa tam-muội. Người trụ trong tam-muội ấy, thậm chí
tướng Không của các pháp cũng chẳng thể được. Đó gọi là “Đại Không của chư Phật”.
Kế đó, nói đến Sa tự và Ma tự môn. Do Định và Huệ cân bằng, trọn đủ âm
thanh tam-muội, nên nói là Tam Mê. Ở đây, chỉ xét theo tự môn để giải thích.
Như trong các kinh luận Đại Thừa, xét theo Tứ Bất Sanh của Tứ Tất Đàn, dùng đủ
mọi nhân duyên, thí dụ để rộng diễn môn chữ A, bèn có vô lượng câu nghĩa. Lại
do trong hết thảy các ngôn ngữ đều kèm theo âm A, mỗi một tự môn đều có trọn đủ
hết thảy các tự môn. Nếu hiểu ý, sẽ tự tại xoay chuyển mà nói; những điều sau
đó, chẳng thể luận định đầy đủ được!
Lại nữa, trong chân ngôn có
tự nghĩa và cú nghĩa. Tự nghĩa thì như trong phần trên đã nói. Nếu là cú nghĩa
thì “a bát la để tam mê” có
nghĩa là “chẳng sánh bằng, chẳng thể so sánh được”, ý nói tâm địa Mạn-đồ-la
vương này sanh ra hết thảy các ngôn ngữ, thí dụ, cho đến chẳng có một pháp nào
có thể sánh bằng. Cho nên nói là “vô đẳng”.
Vì sao như thế? Do trọn đủ các nghĩa như đã nói trong tự môn trên đây.
Câu thứ ba có nghĩa là “như hư không”, ý nói tâm địa rốt ráo
thanh tịnh, chẳng phân biệt, chẳng có ngằn mé, bằng với hư không. Lại nữa, Già
tự môn có nghĩa là “hành”. Đó
là Đại Không, có ý nghĩa “tự tại nơi
pháp”. Do chữ Già nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp từ ban sơ cho tới
nay đều vô sở hành. Như Lai từ trong các pháp ấy mà đạt đến Thật Tế. Lại còn là
vô sở hành, do chẳng hành, nên trụ trong Đại Không, tự tại nơi pháp, tức là do
tâm địa của ta rốt ráo bằng với Đại Không. Hãy nên biết tâm địa của đệ tử và đất
nơi đạo tràng cũng lại giống như thế. Vì thế nói là “đẳng hư không” (bằng với hư không).
Câu thứ tư có nghĩa là “đẳng tùy” (bình đẳng thuận theo); do
đất Kim Cang bằng với hư không, tức là có thể bình đẳng trọn khắp hết thảy
chúng sanh giới, hiện trọn khắp hết thảy các thân theo từng loài, cho nên có thể
kham vẽ Mạn-đồ-la. Lại nữa, Sa nghĩa là Lậu, Ma nghĩa là Ta. Các chúng sanh giới
ấy vốn chẳng sanh nên thảy đều như như. Do vậy, pháp giới chúng sanh rốt ráo
bình đẳng. “Nỗ” là Đại Không
tam-muội. Như Lai trụ trong Đại Không tam-muội này, chẳng hành, chẳng đến, mà
cũng chẳng đến, đi, nhưng có thể đúng như tâm lượng để tùy duyên ứng hiện. Vì
thế nói là “đẳng tùy”.
Câu thứ năm nghĩa là “bản tánh thanh tịnh”, vẫn là cách diễn
giải Bồ Đề tâm thanh tịnh thuộc môn chữ A, và có nghĩa là “nước thơm”. Như Lai
dùng hương pháp giới Đẳng Chí[36]
hòa hợp với nước đại bi tam- muội, có thể rưới trọn khắp tâm địa của hết thảy
chúng sanh, trừ khử cấu uế. Vì sao như thế? Do bổn tánh thanh tịnh. Như tánh của
nước vốn tịnh, nên có thể trừ sạch các cấu uế. Nước thơm của Như Lai cũng thế,
có thể tịnh hóa cái tâm của hết thảy chúng sanh.
Kế đó, nói về ý nghĩa của
câu thứ sáu, tức là “tịnh trừ pháp giới”.
Giống như nước thơm rưới đất trừ ô uế. Như Lai cũng thế, dùng giới hương tánh tịnh
hòa hợp với bi thủy tánh tịnh, rưới trọn khắp tâm địa tánh tịnh của pháp giới
chúng sanh, khiến cho hết thảy hý luận đều trừ sạch. Cũng nên dùng các tự môn để
diễn rộng, do hết thảy các đức Như Lai đều cùng nói đại thệ như thế, gọi là
Chân Ngôn. Lại nữa, pháp giới chính là chúng sanh giới, chúng sanh giới chính
là tâm giới. Tâm giới chính là bản tánh thanh tịnh, bản tánh thanh tịnh tức là
tới trọn khắp hết thảy, bằng với hư không. “Bằng với hư không” tức là môn chữ A không gì sánh bằng. Như hư
không vô biên, hãy nên biết môn chữ A cũng là vô biên, vô nhiễm, chẳng biến đổi,
bất động. Hãy nên biết môn chữ A cũng là vô nhiễm, chẳng biến đổi, bất động.
Như hư không lìa hết thảy các tướng mà chứa đựng muôn hình tượng, lìa hết thảy
tạo tác, mà sự nghiệp thế gian bởi đó mà được thành tựu. Môn chữ A cũng lại giống
như thế, vô tướng, vô tác, mà trọn đủ vô tận trang nghiêm, thành tựu nghiệp phổ
môn chẳng thể nghĩ bàn. Như thế thì hãy nên dùng các loại môn tự tại để nói;
nhưng lại có vô lượng vô biên pháp chưa từng có, hư không chẳng thể sánh ví được!
Vì vậy, chân ngôn và chủng tử trong môn chữ A vượt ngoài các thí dụ tương cận.
Câu cuối cùng là Sa Ha, có
nghĩa là “cảnh tỉnh”. Do hết thảy
các đức Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đã cùng thấy nghĩa như thế, sẽ nhất định
sư tử hống, thốt ra lời thành thật: “Ta phải nên dùng môn chữ A này để tịnh hóa
trọn khắp vô tận chúng sanh giới. Nếu thệ nguyện này của ta chẳng dối, hễ có hết
thảy chúng sanh tụng lời thành thật của ta, chẳng khuyết thiếu phép tắc, ắt sẽ
đúng như sở nguyện mà đều được thỏa mãn trọn vẹn. Ta nay do tùy thuận tam-muội-da
giáo của Như Lai mà nói chân ngôn này, chỉ nguyện chẳng trái nghịch bổn thệ,
khiến cho đạo tràng của ta trang nghiêm, thanh tịnh trọn đủ”. Vì thế, nói là Sa
Ha. Chữ Sa Ha trong các chân ngôn thuộc phần sau có ý nghĩa tương đồng.
Phàm là khi [hiến cúng] nội
ngũ bảo, hãy nên như trước kính lễ mười phương chư Phật, mà thỉnh bạch rằng: “Ngày mai con sẽ tác pháp cầu thỉnh”.
Từ ngày thứ ba hôm ấy trở đi, sẽ lần lượt lượng định [kích thước] và phương vị
của Mạn-đồ-la lớn hay nhỏ, tức là to bốn khủy tay hay mười hai khủy tay. Cho đến
vị trí, nơi chốn của các vị thánh và chư thiên, đều dùng bạch đàn để đánh dấu
ghi nhớ. Nếu A-xà-lê chẳng thể nhớ trọn hết, thì hoặc là vẽ hình tượng hoặc viết
chữ để ghi nhớ, khiến cho mỗi mỗi phân minh. Dùng nước thơm sái tịnh xong, hãy
nên dùng bạch đàn để tô trát cái đàn tròn, to chừng bằng mười hai ngón tay.
Thoạt đầu, đặt vị trí của Đại
Nhật Thế Tôn ở Trung Đài Thai Tạng. Kế đó, ở phương Đông là chỗ của bậc Đại Cần
Dũng, đặt vị trí của hết thảy Như Lai. Phương Đông Nam là chỗ của Chân Đà Ma Ni
(Như Ý Bảo Châu), đặt tọa vị của hết thảy các Bồ Tát. Kế đến, phương Đông Bắc
là chỗ của Hư Không Nhãn, đặt tọa vị của Phật mẫu. Kế đó, bên phải của đức Đại
Nhật đặt tọa vị của ngài Liên Hoa Thủ. Kế đó, bên trái của đức Đại Nhật, đặt tọa
vị của ngài Kim Cang Thủ. Kế đó, ở góc Tây Nam, đặt tọa vị của thánh giả Bất Động,
góc Tây Bắc đặt tọa vị của ngài Hàng Tam Thế. Phía chánh Tây là chỗ để trổ cửa,
tức là nơi A-xà-lê trụ, là chỗ để tu cúng dường Du Già.
(Kinh) Hành giả thứ ư trung, định ý quán Đại Nhật, xử bạch liên hoa
tòa, phát kế dĩ vi quan, phóng chủng chủng sắc quang, thông thân tất châu biến.
Phục đương ư Chánh Thọ, thứ tưởng tứ phương Phật. Đông phương hiệu Bảo Tràng,
thân sắc như nhật huy. Nam phương Đại Cần Dũng, Biến Giác Hoa Khai Phu, kim sắc
phóng quang minh, tam-muội ly chư cấu. Bắc phương Bất Động Phật, ly não thanh
lương định. Tây phương Nhân Thắng giả, thị danh Vô Lượng Thọ. Trì tụng giả tư
duy, nhi trụ ư Phật thất, đương thọ trì thị địa, dĩ Bất Động đại danh, hoặc dụng
Hàng Tam Thế, nhất thiết lợi thành tựu. Bạch đàn dĩ đồ họa, viên diệu Mạn-đồ-la.
Sơ đệ nhất ngã thân, đệ nhị chư cứu thế, đệ tam đồng bỉ đẳng, Phật mẫu Hư Không
Nhãn, đệ tứ Liên Hoa Thủ, đệ ngũ Chấp Kim Cang, đệ lục Bất Động Tôn, tưởng niệm
trí kỳ hạ. Phụng đồ hương, hoa đẳng, tư niệm chư Như Lai, chí thành phát ân trọng,
diễn thuyết như thị kệ: “Chư Phật từ bi giả, tồn niệm ngã đẳng cố, minh nhật thọ
trì địa, tịnh Phật tử đương giáng”.
(經)行者次於中,定意觀大日,處白蓮華座,髮髻以為冠,放種種色光,通身悉周遍。復當於正受,次想四方佛,東方號寶幢,身色如日暉;南方大勤勇,遍覺華開敷,金色放光明,三昧離諸垢;北方不動佛,離惱清涼定;西方仁勝者,是名無量壽。持誦者思惟,而住於佛室,當受持是地,以不動大名,或用降三世,一切利成就。白檀以塗畫,圓妙漫荼羅,初第一我身,第二諸救世,第三同彼等,佛母虛空眼,第四蓮華手,第五執金剛,第六不動尊,想念置其下。奉塗香華等,思念諸如來,至誠發殷重,演說如是偈:諸佛慈悲者,存念我等故,明日受持地,并佛子當降。
(Kinh:
Kế, hành giả trong ấy, định ý quán Đại Nhật, ngự trên tòa sen trắng, búi tóc
dùng làm mão, phóng quang đủ màu sắc, trọn khắp toàn bộ thân. Lại nên trong
Chánh Thọ, kế tưởng bốn phương Phật. Phương Đông hiệu Bảo Tràng, thân sắc vầng
nhật rạng. Đại Cần Dũng phương Nam: Biến Giác Hoa Khai Phu, sắc vàng, phóng
quang minh, tam-muội lìa các cấu. Phương Bắc Bất Động Phật, lìa não, định trong
mát. Bậc Nhân Thắng phương Tây, tên là Vô Lượng Thọ. Người trì tụng tư duy, bèn
trụ trong Phật thất, nên thọ trì đất này, dùng Bất Động đại danh, hoặc dùng
Hàng Tam Thế, hết thảy lợi thành tựu. Dùng bạch đàn tô vẽ, Mạn-đồ-la viên diệu.
Thứ nhất là thân ta, thứ hai các cứu thế. Thứ ba giống như họ. Phật mẫu Hư
Không Nhãn. Thứ tư Liên Hoa Thủ. Thứ năm Chấp Kim Cang. Thứ sáu Bất Động Tôn,
tưởng niệm đặt phía dưới. Dâng hương bôi, hoa thảy, nghĩ nhớ các Như Lai. Chí
thành tâm trân trọng, diễn nói kệ thế này: “Chư Phật đấng từ bi, do nghĩ tưởng
chúng con, ngày mai thọ trì đất, mong Phật tử sẽ giáng”).
Kinh nói: “Sơ đệ nhất ngã thân” (Đầu tiên là
thân ta), tức là tọa vị của Tỳ Lô Giá Na, đem năm vị Phật cùng xếp vào một đàn
tràng. “Đệ nhị chư cứu thế” (Thứ
hai là các đấng cứu thế), tức là chư Phật, Bồ Tát, cũng chia thành hai tọa vị. “Đệ tam bỉ đồng đẳng” (Thứ ba là những
vị ngang bằng [với Phật, Bồ Tát]) tức là Phật mẫu[37].
Như Lai được gọi là Vô Đẳng, mà Bát Nhã Ba La Mật là Vô Đẳng Đẳng, nên nói là “bỉ đồng đẳng” (cùng ngang hàng với
các vị ấy, tức ngang hàng với các vị Phật, Bồ Tát). Thứ tư là Liên Hoa Thủ (Padmapāṇi)[38], thứ năm là Kim Cang Bộ Chủ, thứ sáu là Bất Động Tôn, như vậy thì Hàng
Tam Thế cũng có thể biết. Những vị này đều là Thành Biện Chư Sự Trì Minh. Hãy
nên biết: Nêu ra sáu vị ấy, sẽ thống nhiếp hết thảy các vị tôn thánh. Làm như
thế xong, hãy nên sắp đặt hương, hoa, vật cúng dường giống như nghi thức trong
phần nói về Thứ Tự Cúng Dường.
Sau đấy mới quán cung điện
bảo vương trên đài hoa sen báu. Trong đó, trải tòa, đặt trên tòa là một đài sen
trắng. Dùng môn chữ A chuyển thành thân Đại Nhật Như Lai, sắc vàng tía Diêm Phù
Đàn được giồi mài sáng bóng. Ngài có hình tượng như Bồ Tát, búi tóc trên đỉnh đầu
giống như cái mão. Toàn thân tỏa ra đủ loại ánh sáng nhiều màu, đắp y bằng lụa
trắng nhẹ. Đó là biểu trưng của Thủ Đà Hội Thiên[39]
thành Tối Chánh Giác. Chư thánh và thiên chúng trong cõi ấy, y phục nhẹ đẹp, thậm
chí chẳng có thù, lượng[40],
bản chất trang nghiêm, thanh tịnh, chẳng cần nhờ vào phục sức bên ngoài. Vì thế,
đức Thế Tôn rủ lòng hiện hình tượng giống như vậy.
Nếu giải thích theo cách bí
mật, sâu xa, tướng diệu nghiêm của Như Lai pháp vốn sẵn như thế, chẳng giảm, chẳng
do tạo tác tạo thành. Vì thế, chẳng dùng chất báu bên ngoài để trang sức. Thậm
chí các vị Thập Trụ Bồ Tát, do nương vào thần lực của Phật, được thấy thân gia
trì, đối với cái Thể thường tịch đều như nhìn qua một lớp the mỏng. Vì thế,
dùng đó để sánh ví. Vàng Diêm Phù cũng tự nhiên là bổn tánh thanh tịnh, màu lại
thẫm nhất, nêu tỏ kim cang trí thể của đức Phật sâu mầu nhất. Toàn thân Ngài tỏa
ra đủ loại quang minh, tức là ánh sáng phổ môn khai thị đại huệ. Kế đó, từ tám
cánh sen nơi bốn phương, quán tứ phương Phật. Phương Đông bèn quán Bảo Tràng
Như Lai (Ratnaketu) như mặt trời mới mọc, hiện sắc trắng xen đỏ. Bảo Tràng
nghĩa là “phát Bồ Đề tâm”. Thí
như tướng quân thống ngự đại chúng, phải vận dụng tràng cờ [để điều khiển] thì
các đội quân mới hoạt động thống nhất, có thể phá tan nước địch, lập đại công
danh. Như Lai vạn hạnh cũng lại như thế, dùng nguyện Nhất Thiết Trí làm tràng cờ,
dưới cội Bồ Đề hàng phục bốn loại ma quân. Do vậy lấy đó làm tên. Sắc như mặt
trời sớm mai, cũng có ý nghĩa tương ứng.
Phương Nam quán Sa La Thụ
Vương Hoa Khai Phu Phật (Sajkusumita-rāja), thân tướng kim sắc, phóng quang
minh trọn khắp, chính là tướng biểu thị trụ trong Ly Cấu tam-muội. Bắt đầu từ
chủng tử của Bồ Đề tâm, trưởng dưỡng đại bi vạn hạnh, nay thành giác ngộ trọn
khắp, vạn đức nở xòe. Do vậy, đặt tên như thế. Ly Cấu có nghĩa là Đại Không.
Khi chứng Đại Không, giống như vàng ròng luyện trăm lần, các cấu uế đều trừ sạch.
Thân tướng của Phật cũng thế. Đó là loại vàng thượng diệu trong thế gian, nếu đem
so với vàng Diêm Phù Đề thì màu sắc kém hơn, mà còn hơi ô trược, chẳng được tự
nhiên tươi tắn, sáng sạch như vàng Diêm Phù. Do vị Phật ở trên cánh sen từ nhân
duyên tâm lượng mà sanh, cho nên kém hơn.
Kế đó, tại phương Bắc quán
Bất Động Phật. Quán Ngài lìa nhiệt não, thanh lương trụ trong tướng tịch định.
Đấy là trí Niết Bàn của Như Lai; do vậy, có ý nghĩa Bất Động, chẳng phải là
danh xưng vốn có của Ngài. Danh hiệu vốn có của Ngài là Cổ Âm Như Lai (tức
Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai, Divyadundubhi-meghanirghoṣa), như trống cõi trời đều chẳng có
hình tướng, mà cũng chẳng có trụ xứ, nhưng có thể diễn nói pháp âm, cảnh tỉnh,
giác ngộ chúng sanh. Đại Bát Niết Bàn cũng lại giống như thế, chẳng như Nhị Thừa
vĩnh viễn tịch diệt, trọn chẳng có diệu dụng. Do vậy, dùng điều này để sánh ví.
Kế đó, tại phương Tây quán
Vô Lượng Thọ Phật (Amitāyus). Đấy là trí phương tiện của Như
Lai. Do chúng sanh giới vô tận, phương tiện đại bi của chư Phật cũng chẳng có
cùng tận. Do vậy, tên là Vô Lượng Thọ. Âm tiếng Phạn là Nhĩ Nhĩ, tức là “nhân giả” (bậc nhân từ). Lại do hàng phục tứ ma, nên gọi là
Thắng. Do vậy, kệ dịch trọn đủ ý nghĩa này, gọi Ngài là “Nhân Thắng Giả” (bậc nhân từ thù thắng). Cũng vẽ hai vị Phật này có màu vàng ròng, mắt nhắm hờ, nhìn xuống
dưới, ra vẻ nhập Tịch Diệt tam-muội. [Vẽ, tạc hình tượng] chư Phật đều theo lệ ấy.
Bốn góc hoa đài có bốn vị Bồ
Tát, như kinh văn trong phần sau sẽ nói. Đối với tọa vị của hết thảy Như Lai,
chỉ quán một vị Phật ở trong kim đàn, sẽ giống như thân của hết thảy các đức Phật.
Những vị khác đều dựa theo hình tượng, vị trí được nói trong kinh, đều nên chuyển
chữ thành thân (tức là quán tưởng chữ chủng tử của mỗi vị ấy đều biến thành
thân Phật hoặc Bồ Tát tương ứng), khiến cho mỗi mỗi đều rành rẽ. Phàm là cách
chuyển chữ trong Mạn-đồ-la, đối với mỗi vị tôn thánh, đều dùng chữ chủng tử của
chính vị ấy, hoặc dùng chữ thông dụng thống nhiếp các bộ khác, như các chữ A,
Sa, Phạ tương ứng với ba bộ. Nếu sợ bậc A-xà-lê hạnh cạn chẳng thể xoay chuyển
[để quán tưởng] nhanh chóng như thế, chỉ quán môn chữ A sanh ra vô lượng quang,
quang minh chiếu tới đâu liền hiện thân của vị tôn thánh đó. Còn như hành pháp
sự trong đêm, cũng đều phỏng theo lệ này.
Khi tu quán hạnh, trước
tiên dùng năm chữ để gia trì thân, như trong Cúng Dường Pháp đã nói: Quán tự
tâm thành hoa sen tám cánh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Ô Lật Đà tâm[41]
của phàm nhân có hình dạng giống như hoa sen còn búp chưa nở, có gân, mạch, ước
chừng chia thành tám phần, đàn ông thì hướng lên trên, đàn bà thì hướng xuống
dưới”. Trước tiên, quán đóa sen ấy nở xòe thành tòa sen trắng tám cánh.
Trên đài ấy, hãy nên quán chữ A có màu kim cang, trên đầu đặt Bách Quang Biến
Chiếu Vương (Tỳ Lô Giá Na Phật), dùng Vô Cấu Nhãn để quán. Dùng chữ ấy để tự
gia trì, liền thành thân đức Tỳ Lô Giá Na. Dùng phương tiện này để quán thân Tỳ
Lô Giá Na cùng với thân ta chẳng hai, chẳng khác. [Vị trí] ở giữa hai vị minh
vương [Bất Động và Hàng Tam Thế thuộc phía Tây của Mạn-đồ-la] thì gọi là “trụ trong Phật thất”. Tới khi vẽ
xong Mạn-đồ-la, A-xà-lê dời chỗ ngồi ra ngoài cửa đàn tràng, ở vị trí Phật thất
ấy, vẽ hình vị tôn thánh mình kính chuộng, hoặc đặt kinh Bát Nhã, chất đầy
vàng, chất báu để trang hoàng, cúng dường. Hoặc đặt xâu chuỗi mình thường cầm,
hoặc chày kim cang, hoặc kim cang đạc (chuông kim cang) v.v…
Lại nữa, khi sắp chọn cuộc
đất để tịnh trị, hãy nên tự quán Như Ý Bảo Châu trên hoa sen trong tâm, trong
ngoài trong suốt. Khi quán sát kỹ càng, tất cả các tướng thiện ác thảy đều hiện
trong ấy. A-xà-lê liền dùng huệ phương tiện để chọn lựa, tịnh trị, khiến cho
kiên cố, bằng phẳng. Quán tâm đệ tử cũng như thế, sẽ có thể lãnh hội chỉ thú
sâu xa trong ấy. Hành giả trụ nơi Phật thất, đúng như trên mà quán tôn thánh
xong, sẽ chuyển chữ A thành Phạ, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì tự thân, dâng
hương bôi, hoa v.v… đúng như pháp cúng dường, đều như sẽ nói rộng trong pháp thứ
tự thuộc phần sau. Sau đấy, dấy lòng đại bi, chí thành trân trọng, tụng A Lợi
Sa kệ thỉnh bạch như kinh văn dạy.
Nay giữ nguyên âm tiếng Phạn
như sau:
(Kinh) Tam mạn phạ ha lan (tồn niệm dã), đổ mê (ngã dã) tát ra bệ
(nhất thiết dã), nhĩ nẵng (nhân giả dã, tức chư Phật) ca lô noa đát mãng ca (bi
giả), bộ mê bát rị bệ
ra ha (thỉnh thọ trì địa), ca lê dã (tác dã), sa bổ đát lệ (tịnh Phật tử dã),
thấp vụ nễ na để duệ.
(經)三漫嚩訶囒(存念也)覩迷(我也)薩囉鞞(一切也)爾曩(仁者也,即諸佛)。迦盧拏怛莾迦(悲者)部迷鉢𭌆薜囉訶(請受持地)。迦𠼝也(作也)。娑補怛㘑(并佛子也)。濕務儞那𫪭曳。
(Kinh: Tam mạn phạ ha lan (nghĩ nhớ), đổ mê
(con) tát ra bệ (hết thảy), nhĩ nẵng (nhân giả, tức chư Phật), ca lô noa đát
mãng ca (từ bi), bộ mê bát rị bệ
ra ha (xin thọ trì đất), ca lê dã (thực hiện), sa bổ đát lệ (và Phật tử), thấp
vụ nễ na để duệ).
Ý của bài kệ là: Chư Phật
là các đấng bi mẫn, xin hãy nghĩ nhớ chúng con. Con nay thỉnh bạch, xin hãy thọ
trì pháp trị địa và các Phật tử. Ngày mai, [xin các Ngài] cùng giáng lâm để chứng
minh. Chữ “tồn niệm” trong tiếng
Phạn có nghĩa là “xin giáng hiện”. Tọa vị trong bạch đàn Mạn-đồ-la:
(4) Phật mẫu Hư Không Nhãn |
Đông(mộc) (2) Tọa vị của hết thảy chư Phật |
(3) Tọa vị của hết thảy Bồ Tát |
Bắc (thủy) (6) Liên Hoa Thủ |
(1) Tọa vị của ngũ Như Lai |
Nam (hỏa) (5) Kim Cang Thủ |
(8) Hàng Tam Thế Tôn |
Tây(kim) (9) Tọa vị của A-xà-lê |
(7) Thánh Bất Động Tôn |
Đến chiều ngày thứ năm, lại
nên theo thứ tự, trọn đủ các pháp tắc, khéo tự trang nghiêm thân, quán nhập vị
trí trong Mạn-đồ-la, phụng thỉnh, kết giới, hộ thân v.v… mỗi mỗi đều đầy đủ
xong, hãy nên tụng [chân ngôn của] Bất Động Minh Vương, hoặc [chân ngôn của]
tôn thánh Hàng Tam Thế, và mật ấn tương ứng, trọn một trăm lẻ tám biến gia trì
trong ấy. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Từ
ngày thứ ba trở đi, mỗi ngày vào lúc ba thời niệm tụng, đều tụng Bất Động chân
ngôn một trăm lẻ tám lần để gia trì cuộc đất. Không chỉ nơi đây, mà nên dùng
vào hết thảy các chốn. Lại từ ngày thứ nhất cho tới ngày thứ ba, nếu có chướng
nạn, hãy nên thu dọn, đình chỉ. Nếu đã vẽ xong các phương vị trong bạch đàn, mà
nếu có các thứ ma sự, hai đằng chẳng hòa hợp, phải nên siêng năng tăng thêm
phương tiện, ắt khiến cho được thành tựu. Những điều khác như đã nói trong kinh
Cù Hê[42]”.
Đêm thứ năm, tụng Bất Động chân ngôn xong; kế đó, hãy nên đối với thân Đại Nhật
Như Lai, liền tụng Trì Địa chân ngôn, và kết tam-muội-da ấn, nói chân ngôn ấy
như sau:
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, phục đương tụng thử chân ngôn viết: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ đế, a
giả lệ, vi ma lệ, sa ma ra nãi, bát ra cật lật để bát lý thâu đệ, sa ha.
(經)如是說已。復當誦此真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆怛他揭多。地瑟姹那地瑟祉帝。阿者麗。微麼麗。娑麼囉嬭。鉢囉吃㗚𫪭鉢履輸睇。莎訶。
(Kinh: Nói như thế xong, lại nên tụng chân ngôn này như sau: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà đát tha yết đa, địa sắt xá na, địa sắt chỉ
đế, a giả lệ, vi ma lệ, sa ma ra nãi, bát ra cật lật để bát lý thâu đệ, sa ha).
Câu đầu tiên là quy mạng hết
thảy chư Phật. Câu thứ hai và câu thứ ba có nghĩa là: Dùng sự gia trì của hết
thảy các Như Lai để gia trì. Ý nói: Như đạo tràng kim cang ấy cùng được duy trì
bởi thần lực của hết thảy các Như Lai, nay khiến cho cuộc đất này cũng giống như
thế. Hơn nữa, con đã bình trị tâm địa thanh tịnh của đệ tử xong. Đấy là chỗ để
tâm vương Như Lai vẽ Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la. Con nay nói lời thành thật, dùng thần
lực của hết thảy Như Lai để gia hộ, khiến cho được kiên cố, bất động. Câu thứ
tư nói “a giả lệ” (acale) có
nghĩa là bất động. Câu thứ năm là “vi
ma lệ” (vimale) có nghĩa là “vô cấu”. Ý nói: Do được thần lực của hết thảy
Như Lai gia trì, khiến cho [tâm địa ấy] đạt được an ổn, vững vàng, bất động.
Không chỉ bất động mà thôi, lại còn khiến cho lìa hết thảy cấu. Chính là lấy chữ
A đầu tiên trong câu thứ tư làm cái Thể của chân ngôn. Như Lai dùng pháp gì để
gia trì mà có thể khiến cho rốt ráo chẳng khuynh động? Chính là do dùng môn chữ
A này mà có lực dụng như thế. Câu thứ sáu có nghĩa là “nghĩ nhớ, gìn giữ”, giống như tỳ-kheo tác pháp Yết Ma[43],
khiến cho chúng tăng hòa hợp, cùng nhau thọ trì. Nay chân ngôn này cũng thế, dùng
chữ A để gia trì xong, do thỉnh hết thảy Như Lai nghĩ nhớ bổn thệ nên [các Ngài]
cùng thọ trì. Câu thứ bảy có nghĩa là “bản
tánh thanh tịnh”, đấy là diễn giải câu trước. Cớ sao chư Phật cùng tâm
niệm gia trì? Do bản tánh thanh tịnh. Nếu pháp nhập vào môn chữ A, tức là vốn sẵn
vô động, vô cấu. Mười phương ba đời chư Phật do bởi nghĩa ấy, đều có cùng một
giới, một kiến giải, cho nên cùng chung gia trì. Câu cuối cùng là Sa Ha, như
Tăng chúng đã yết-ma xong, bèn thêm câu “nhẫn
khả, ấn chứng thành tựu”. Nếu lời chân thành do con thốt ra nhất định chẳng
sai lầm, kính mong chư Phật do chẳng vượt tam-muội-da, sẽ khiến cho nó được thực
hiện viên mãn. Tất cả ý nghĩa của các chữ ở đây cũng nên rộng nói phân biệt.
Khi đó, A-xà-lê nên đi tới
phía ngoài phương vị của hết thảy các đức Như Lai ở phương Đông, vừa hướng về
phương Đông, vừa tụng trì chân ngôn hoặc ba lượt, hoặc bảy lượt, sẽ có thể tạo
nhiều lợi ích. Kế đó, đi về phương Nam rồi đi sang phương Tây. Kế đó, đi sang
phương Bắc, đều đi sau lưng của phương vị trong bạch đàn mà trì tụng. Xong hết
một vòng như thế; kế đó, đến chỗ của Hư Không Nhãn: Trước hết, hướng góc Đông Bắc
xoay lưng vào phương vị trong đàn (tức phương vị của Hư Không Nhãn Phật Mẫu) mà
tụng niệm. Kế đó, đi sang hướng Đông Nam, kế đó tới phương Tây Nam, sau đó đi
sang Tây Bắc. Giáp một vòng xong, hãy nên chí thành làm lễ, cúng dường các thứ,
trở về chỗ ngồi của A-xà-lê, ngồi hướng mặt về phương Đông, tụng chân ngôn mà
mình vốn được thọ trì, trụ trong Bổn Tôn tam-muội, đều đúng như thứ tự được nói
trong phần Cúng Dường. Lại theo thứ tự, trì chân ngôn của các vị tôn thánh
trong bạch đàn, và cũng kết ấn của các Ngài.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trước hết, trì chân ngôn của Bộ Chủ Đại Nhật
Phật một trăm lẻ tám lượt, còn tám vị khác [trong Trung Đài Bát Diệp], xem chân
ngôn của các vị ấy dài hay ngắn mà trì. Nếu lại có thể tụng thì kiêm trì [chân
ngôn] của bốn vị Bồ Tát thuộc viện thứ hai, các vị tôn thánh thượng thủ như Phật
Thích Ca trong viện thứ ba, cho đến tụng trọn hết [chân ngôn] của chư vị cũng
được”. Chỉ cần chất bùn tô trát nơi các phương vị trong bạch đàn đã khô,
rải nước thơm [để sái tịnh] xong thì liền có thể tác pháp, cũng chẳng cần nhất
định phải khởi sự trong ngày thứ tư. Kể từ khi sắp xếp xong, đều cần nương theo
đó để trì tụng. Đối với pháp sự ban đêm, cũng chuẩn theo lệ này mà biết.
(Kinh) Trì Chân Ngôn hành giả, thứ phát bi niệm tâm, y ư bỉ Tây phương,
hệ niệm dĩ an tẩm, tư duy Bồ Đề tâm, thanh tịnh trung vô ngã. Hoặc ư mộng trung
kiến, Bồ Tát đại danh xưng, chư Phật vô hữu lượng, hiện tác chúng sự nghiệp, hoặc
dĩ an úy tâm, khuyến chúc ư hành giả: “Nhữ niệm chúng sanh cố, tạo tác Mạn-đồ-la.
Thiện tai Ma Ha Tát! Sở họa thậm vi diệu”.
(經)持真言行者,次發悲念心,依於彼西方,繫念以安寢,思惟菩提心,清淨中無我。或於夢中見,菩薩大名稱,諸佛無有量,現作眾事業,或以安慰心,勸囑於行者:汝念眾生故,造作漫荼羅,善哉摩訶薩,所畫甚微妙。
(Kinh: Hành giả trì Chân Ngôn, bèn phát tâm bi
niệm, nương vào chỗ phương Tây, hệ niệm rồi ngủ yên, tư duy Bồ Đề tâm, trong
thanh tịnh vô ngã. Hoặc là trong mộng thấy, Bồ Tát thanh danh lớn, chư Phật nhiều
vô lượng, hiện làm các sự nghiệp, hoặc dùng tâm an ủi, khuyên, dặn dò hành giả:
“Ngươi nghĩ tới chúng sanh, tạo tác Mạn-đồ-la. Lành thay Ma Ha Tát! Vẽ đàn rất
vui diệu!”)
Trong đêm thọ trì đất,
A-xà-lê đúng như pháp trì tụng xong, cho tới dùng kim cang phúng vịnh để ca ngợi
trọn khắp chư Phật, Bồ Tát. Ngồi yên lặng mệt mỏi cùng cực, liền ở chỗ đã đặt
đàn tràng, đúng như pháp mà hộ thân, liền nằm ở phía Đông. Hãy nên sanh lòng đại
bi thương xót tột bậc đối với đệ tử được hóa độ. Nếu [vâng theo nghi quỹ] Cù Hê
Thả Đát Ra (Guhyatantra) thọ trì đất xong, lại có cách kết tô-đa-la (dây chỉ
ngũ sắc) để thọ trì đệ tử danh hiệu. Khi vị ấy ngủ nghỉ, hãy nên tư duy: “Hết thảy các pháp thuộc môn chữ Ma (म) trên đài hoa sen trong tâm, ta đều
chẳng thể đạt được, tức là Bồ Đề tâm chẳng chướng ngại, mà cũng là Như Ý Bảo
Châu”. Lại nói: “Châu Như
Ý ấy chỉ là môn chữ A đó thôi!” Vị A-xà-lê ấy sẽ ở trong mộng, hoặc là
thấy vô lượng chư Phật và Bồ Tát là các bậc có thanh danh to lớn, thị hiện tạo
tác các sự nghiệp, tức là thuận theo các loại chúng sanh đáng được hóa độ mà
dùng tam luân (thân, miệng, ý) để hướng dẫn, hoặc đích thân sắp đặt, kiến lập Đại
Bi Sanh Mạn-đồ-la, hoặc dùng âm thanh vi diệu để an ủi, khuyên nhủ, căn dặn rằng:
“Ngươi nay do nghĩ thương xót chúng
sanh, tạo tác Mạn-đồ-la này. Lành thay Ma Ha Tát Đỏa! [Mạn-đồ-la] do ngươi đã vẽ
hết sức vi diệu!” Các cảnh giới như thế, A-xà-lê hãy nên dùng huệ tâm để
khéo quyết trạch. Hãy nên biết chư thánh đã cùng gia trì cuộc đất ấy, có thể
tùy ý tác pháp. Nếu có chướng ngại, hãy nên thực hiện phương tiện hộ-ma tương ứng
để tịnh trừ. Hãy nên phát tâm Đại Cần Dũng mong cho việc làm được thành tựu.
Lại nữa, nếu A-xà-lê kiến đế,
thì nơi Như Ý Châu trong Liên Hoa tam-muội thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh, tự nhiên
thấy rõ nhân duyên có chướng hay không có chướng rành rành vô ngại. Vị Phật
trong tâm hiện tiền căn dặn, truyền trao, nhằm giải quyết nghi vấn [của
A-xà-lê]. Nếu như nhận biết ma sự, hãy nên dùng đại phương tiện đại trí huệ để
xoay chuyển, thực hiện pháp hộ-ma, nhằm khiến cho cái tâm hành trì chẳng lay động,
chẳng lui sụt, kham kiến lập pháp giới Mạn-đồ-la. Sau đó mới nghỉ ngơi.
Lại nữa, A-xà-lê kể từ lúc
nhắc nhở địa thần trở đi, chớ nên lìa bỏ cuộc đất đạo tràng như thế, luôn ở
trong ấy, gia trì, niệm tụng, quán sát cặn kẽ: Hễ chỗ nào chưa ngay ngắn, bằng
phẳng, liền lập tức sửa sang. Lại tư duy chi phần của các duyên, khiến cho đều
trọn đủ, chớ để lúc gặp chuyện bị khuyết thiếu, khiến cho nghi hoặc nẩy sanh. Tự
thọ trì đất xong, hãy nên ngay lập tức quy hoạch giới hạn, khu vực, ấn định chắc
chắn từng phương vị. Tới đêm quán đảnh, mới tạo hình tượng các tôn thánh. Nếu
không thể nhanh chóng hoàn thành, sau khi trì địa, sẽ lần lượt thực hiện thì
cũng không phạm lỗi gì!
(Kinh) Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ nhân. Nhược đệ tử tín tâm,
sanh chủng tánh thanh tịnh, cung kính ư Tam Bảo, thâm huệ dĩ nghiêm thân, kham
nhẫn vô giải quyện, Thi La tịnh vô khuyết, nhẫn nhục, bất xan lận, dũng kiện,
kiên hạnh nguyện, như thị ưng nhiếp thủ, dư tắc vô sở quán. Hoặc thập, hoặc
bát, thất, hoặc ngũ, nhị, nhất, tứ, đương tác ư quán đảnh, nhược phục số quá thử.
(經)復次於餘日,攝受應度人,若弟子信心,生種姓清淨,恭敬於三寶,深慧以嚴身,堪忍無懈倦,尸羅淨無缺,忍辱不慳悋,勇健堅行願,如是應攝取,餘則無所觀。或十或八七,或五二一四,當作於灌頂,若復數過此。
(Kinh:
Lại nữa, vào ngày khác, nhiếp thọ người đáng độ. Nếu đệ tử tín tâm, sanh chủng
tánh thanh tịnh, tâm cung kính Tam Bảo, huệ sâu trang nghiêm thân, kham nhẫn,
không lười mệt. Giới thanh tịnh chẳng khuyết, nhẫn nhục, chẳng keo kiệt, mạnh mẽ,
hạnh nguyện vững. Nên nhiếp người như thế, những điều khác chẳng màng. [Số người
được quán đảnh], hoặc mười, hoặc tám, bảy, hoặc năm, hai, một, bốn, nên thực hiện
quán đảnh, [nếu là kẻ kết duyên], lại vượt hơn số ấy).
Kinh dạy: “Phục thứ ư dư nhật, nhiếp thọ ưng độ
nhân” (lại trong ngày kế tiếp, bèn nhiếp thọ kẻ đáng được độ) nói về chi
phần “nhiếp thọ, kiến lập, hộ trì đệ tử”.
Thọ trì địa xong, kế đến nói trong ban đêm hãy nên thực hiện tác pháp cho đệ tử.
Vì thế nói là “dư nhật” (ngày
khác). Do đó, rộng biện định tướng
trạng của hàng đệ tử đáng độ.
Kệ nói “nhược đệ tử tín tâm” (nếu đệ tử có
tín tâm) là nói A-xà-lê quán căn tánh hiện tại, hoặc nhân duyên xa xôi của người
ấy, [thấy người ấy] trong các phương tiện thuộc ba thứ bí mật trong duyên khởi
chẳng thể nghĩ bàn, đều tin tưởng thẳng thừng, chẳng ngờ, chẳng hề sợ hãi, bèn
có thể nhiếp thọ. Những điều khác như đã nói trong phần luận về phẩm đức của
người thầy.
Kệ nói: “Sanh chủng tánh thanh tịnh” tức là
[người đệ tử ấy] sanh trong các dòng họ to lớn thuộc bốn chủng tánh như Bà La
Môn v.v… Nếu là Chiên Đà La v.v… thì người ấy do kế tục pháp tắc của gia đình,
đã quen làm chuyện chẳng thanh tịnh, tánh nhiều tệ ác. Nếu vì kẻ đó truyền pháp
quán đảnh hòng lưu thông đại pháp, sẽ khiến cho kẻ khác sanh lòng khinh mạn, hoặc
tạo thành nhân duyên chướng ngại pháp. Ngay như truyền Cụ Túc Giới cho tỳ-kheo,
cũng loại trừ kẻ hủy nhục tăng chúng, hoặc chủng tánh cực hèn tệ. Nếu chỉ là kết
duyên thọ pháp, sẽ chẳng cần phải bàn tới [những điều ấy]! Lại nữa, từ lâu xa tới
nay, người đã từng có nhân duyên phát Bồ Đề tâm thì tức là sanh trong chủng
tánh của Như Lai, chính là dòng tộc thù thắng nhất!
Kệ nói: “Cung kính ư Tam Bảo”, tức là đối với
Phật, Pháp, chúng Tăng khởi tâm thuần hậu, khiêm hạ, thường chuộng thân cận,
tôn trọng, cúng dường, tán thán. Hãy nên biết người ấy đã có nhân duyên hành đạo
từ thời trước, thậm chí như Thường Bất Khinh Bồ Tát. Đó gọi là “kính trọng sâu xa hết thảy chúng sanh”,
tin Phật, Pháp, Tăng Bảo. “Thâm huệ dĩ
nghiêm thân” (Dùng trí huệ sâu xa để trang nghiêm thân), Phật pháp như
hư không vô biên như thế, kẻ kém trí huệ sẽ chẳng thể kham nổi. Vì thế, người
có trí tánh sâu xa, bén nhạy, tự dùng đó để trang nghiêm, cho đến vì người khác
nói (thuyết pháp). “Kham nhẫn vô giải
quyện” (Kham nhẫn, chẳng lười nhác, mệt mỏi): Đấy nghĩa là người kham thực
hiện, chẳng có thoái khuất. Âm gốc trong tiếng Phạn khác với Nhẫn Nhục, tức là
nhân duyên cầu pháp tuy đủ mọi chuyện khó khăn, nhưng [người ấy] đều có thể làm
được. Giả sử một lượt chẳng thành, lại càng ra sức tu tập, như thề tát cạn biển
cả mới thôi. Nếu người có chí tánh như thế, sẽ có thể truyền pháp. “Thi La tịnh vô khuyết” (Giới hạnh
thanh tịnh, chẳng thiếu sót), tức là đối với luật nghi tại gia và xuất gia, cho
tới đối với thọ lãnh các giới cấm thuộc về bản tánh, hễ phụng trì bèn thâm tâm
gìn giữ, bảo vệ, chẳng hề hủy hoại, thiếu sót. Nếu là người có tánh như thế, dẫu
nhập tam-muội-da bình đẳng đại thệ, cũng sẽ kính thuận, chẳng trái nghịch, cho
nên có thể kham truyền pháp.
“Nhẫn nhục, bất xan lận” (Nhẫn nhục, chẳng keo kiệt): Ở đây,
chia thành hai câu. Nhẫn nhục tức là đối với tám loại gió lớn cảnh giới “trong,
ngoài, nghịch, thuận”, tâm đều an nhẫn, chẳng khuynh động, như trong Trí Độ Luận
đã nói rộng về Thi La Ba La Mật. Hãy nên biết người ấy ắt chẳng vi phạm trọng cấm
của trì minh (giới cấm trong pháp môn Chân Ngôn), làm chuyện bất lợi cho chúng
sanh, cho nên có thể kham truyền pháp. Chẳng keo kiệt, tức là đối với tất cả
tài và pháp, thường nghĩ bố thí cho người khác. Nếu có người đến cầu, đều không
keo tiếc, như Trí Độ Luận đã nói rộng trong phần Đàn Ba La Mật. Hãy nên biết
người ấy ắt chẳng phạm trọng cấm của trì minh, chẳng keo tiếc chánh pháp, nên
kham truyền thọ.
“Dũng kiện, kiên hạnh nguyện” (Mạnh mẽ, hạnh nguyện vững) cũng
chia thành hai câu. “Dũng kiện” tức
là [phẩm đức] “chủng tánh Bồ Đề tâm mạnh
mẽ” trong các phẩm đức của vị A-xà-lê. Trong khi hành đạo, tuy gặp đủ loại
hình sắc và âm thanh đáng sợ, tâm chẳng khiếp nhược, thậm chí xuất sanh nhập tử
chẳng có ý tưởng sợ hãi, thật sự tùy thuận sở hành của bậc đại nhân Bồ Đề Tát Đỏa.
Do vậy, đáng nên truyền thọ. “Kiên hạnh
nguyện” chính là nguyện tâm mong muốn. Âm tiếng Phạn và ý nghĩa cầu nguyện
không giống nhau. Như tự lập chí, khiến cho mỗi ngày ba thời niệm tụng, bèn [thực
hiện] trọn hết một kỳ hạn. Tuy gặp đủ mọi duyên khác, trọn chẳng gián đoạn hay
chấm dứt. Mọi chuyện đều có đầu, có đuôi như thế. Nếu lúc hành Bồ Tát đạo, cũng
chẳng khuyết bổn thệ. Vì thế, kham truyền pháp. Nhưng mười đức của đệ tử được
nói ở đây, nếu ai có trọn đủ thì hãy nên biết là người rất hiếm có! Nhưng nếu
có [đệ tử chẳng trọn đủ mười đức, nhưng có] ưu điểm là “có thể kham đào luyện”
thì hãy nên nhiếp thọ. Lại như khi Thanh Văn thọ Cụ Túc Giới, [vị thầy truyền
giới phải] quan sát đủ loại ngăn chướng [nơi người thọ giới], như quá nhỏ, quá
già, hình sắc, tướng mạo có tỳ vết, có các bệnh hoạn v.v… sợ hàng bạch y sẽ chê
gièm, quở trách, bèn loại trừ. Nay đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) này chẳng phải vậy,
chỉ cần đạo cơ có thể tế độ, dẫu có các khuyết điểm khác, đều chẳng liên quan!
[Đó chính là ý nghĩa của câu “dư tắc
vô sở quán” (những điều khác chẳng xét tới) trong lời kệ].
Kệ nói: “Hoặc thập, hoặc bát, thất, hoặc ngũ, nhị,
nhất, tứ” (Hoặc mười, hoặc tám, bảy. Hoặc năm, hai, một, bốn) chính là
con số hạn lượng của các [đệ tử] trong một kỳ đạo tràng để được bậc A-xà-lê
quán đảnh. Ở đây, dựa theo siêu số để nói, tức là từ một tới hai, từ hai vượt
lên bốn, từ bốn đến năm, từ năm tới bảy, từ bảy tới tám, từ tám cho đến mười
người. Vì thế, trong một Mạn-đồ-la, không được đồng thời quán đảnh cho ba người,
sáu người, chín người! Thế nhưng, đối với mật ý của Như Lai, A-xà-lê chẳng giải
thích nguyên do [vì sao không truyền cho ba, sáu, hoặc chín người]. Lại còn
tương đồng với kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni[44]
nói không được vượt quá mười người. Vượt quá con số ấy, sợ tâm lượng của
A-xà-lê chẳng thể bao quát nổi, hãy đợi duyên khác về sau, sẽ vì những người
còn lại mà tác pháp. Hơn nữa, từ mười người trở xuống ấy, chính là cùng lúc
phát tâm, ai nấy đều xả tất cả các thứ trong ngoài để cúng dường Tam Bảo, cùng
nhau hoàn thành Mạn-đồ-la. Vì thế, đồng thời tác pháp. Nếu có người gặp đạo
tràng, liền nói “pháp duyên khó gặp”,
xin cũng được tế độ, sẽ chẳng hợp lẽ nếu làm quán đảnh A-xà-lê cho người ấy. Nếu
lại vượt quá con số ấy, mà nếu [có người] chỉ cầu kết duyên với pháp của một vị
Bổn Tôn trong một môn, tiếp nhận chân ngôn, ấn khế, thì chẳng thuộc vào hạn định
ấy. A-xà-lê cũng nên phát khởi đại bi, hễ ai có thể khởi chút phần thiện tâm,
hãy đều vì người ấy phát sanh, tạo lập chủng tử Bồ Đề, cho nên nói “nhược phục quá ư thử” (lại có thể vượt
quá con số ấy).
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Đương vân hà danh thử Mạn-đồ-la? Mạn-đồ-la giả kỳ nghĩa vân hà?” Phật ngôn: -
Thử danh Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la, cực vô tỷ vị, vô quá thượng vị. Thị cố,
thuyết vi Mạn-đồ-la. Hựu Bí Mật Chủ! Ai mẫn vô biên chúng sanh giới cố, thị Đại
Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa. Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp tích
tập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia trì. Thị cố, cụ vô lượng đức,
đương như thị tri. Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng
Giác, diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư ký cập hữu dư ký chúng sanh giới cố,
Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, dĩ đại bi nguyện lực ư vô lượng chúng sanh giới
như kỳ bản tánh, nhi diễn thuyết pháp.
(經)爾時,金剛手祕密主復白佛言:世尊!當云何名此漫荼羅?漫荼羅者其義云何?佛言:此名發生諸佛漫荼羅,極無比味、無過上味。是故說為漫荼羅。又祕密主!哀愍無邊眾生界故,是大悲胎藏生漫荼羅廣義。祕密主!如來於無量劫積集阿耨多羅三藐三菩提之所加持,是故具無量德,當如是知。祕密主!非為一眾生故如來成正等覺,亦非二非多,為憐愍無餘記及有餘記諸眾生界故,如來成正等覺,以大悲願力於無量眾生界如其本性而演說法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ lại bạch với đức Phật
rằng: - Bạch Thế Tôn! Mạn-đồ-la này nên gọi tên là gì? Mạn-đồ-la có nghĩa là
như thế nào? Đức Phật nói: - Đây gọi là Phát Sanh Chư Phật Mạn-đồ-la. Do vị tột
bậc khôn sánh, do vị không chi hơn được. Vì thế nói là Mạn-đồ-la. Lại này, Bí Mật
Chủ! Do thương xót vô biên chúng sanh là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la.
Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp tích tập sự gia trì của Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Vì thế, trọn đủ vô lượng đức, hãy nên biết như thế. Bí Mật Chủ!
Chẳng phải vì một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng phải
hai, chẳng phải nhiều, vì thương xót vô dư ký và hữu dư ký chúng sanh giới mà
Như Lai thành Chánh Đẳng Giác, do nguyện lực đại bi trong vô lượng chúng sanh
giới, đúng như bản tánh mà diễn nói pháp).
Đây là do Như Lai hạn định
số người [được quán đảnh trong một
kỳ lập đàn tràng], vì biết những kẻ chưa ngộ sẽ đâm ra nẩy sanh nghi vấn.
Ngài Kim Cang Thủ vốn thỉnh đức Thế Tôn tuyên nói cảnh giới gia trì này, diễn
nói Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la Vương, tức là đại bi bình đẳng, chẳng có hạn
lượng. Nhưng nay đức Thế Tôn nói, dẫu là người có đức có thể truyền thọ, vẫn chẳng
vượt quá mười người, tợ hồ là nói thuận theo bất cứ minh chú nào, chẳng phải là
cụ thể [một minh chú nhất định nào]. Vì thế, Ngài hỏi Mạn-đồ-la này tên gọi là
gì. Hơn nữa, Mạn-đồ-la nghĩa là “luân
viên” (tròn trặn). Nay đã hạn cuộc danh số (số người được quán đảnh), tợ
hồ lý chưa viên mãn. Vì thế, lại hỏi Mạn-đồ-la ở đây có ý nghĩa gì. Do có hai
câu hỏi, trong lời đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp danh xưng; kế đó, giải
đáp ý nghĩa.
Trong phần giải đáp danh
xưng, lại còn nói rõ ý chỉ sẵn có rằng: Mạn-đồ-la có nghĩa là “phát sanh”, nên nay gọi là Phát Sanh
Chư Phật Mạn-đồ-la. Gieo chủng tử Bồ Đề tâm vào tâm địa Nhất Thiết Trí, tưới
nhuần bằng nước đại bi, chiếu bằng mặt trời đại huệ, cổ vũ bằng gió đại phương
tiện, chẳng ngại dùng hư không Đại Không, có thể khiến cho mầm pháp tánh chẳng
thể nghĩ bàn tăng trưởng theo thứ tự, cho đến thành cây chúa (thụ vương) của Phật,
đầy ắp pháp giới. Vì thế, gọi là Phát Sanh. Phàm mưa giông làm duyên thúc đẩy,
[các hạt giống] tùy theo tánh chất riêng mà nẩy mầm, chớ nên vì tánh chất tăng
trưởng của thảo mộc khác nhau mà khiến cho sự bố thí bình đẳng cũng trở thành
có hạn lượng!
Kế đó, trong phần giải đáp
ý nghĩa, âm tiếng Phạn là Mạn-đồ-la (Maṇḍala), có ý nghĩa “khuấy đảo khiến
cho sữa và lạc trở thành tô”. Mạn-đồ-la là chất tô cực tinh thuần đọng
trên mặt sữa, ví như sự tinh thuần ấy chẳng còn đổi khác, lại gọi là Kiên. Vị tịnh
diệu cùng hòa hợp, khiến cho các vật khác chẳng thể xen tạp, nên có ý nghĩa “tụ tập”. Vì thế, đức Phật nói: “Cực vô tỷ vị, vô quá thượng vị, thị cố thuyết
vi Mạn-đồ-la dã” (Vị khôn sánh tột cùng, vị không chi hơn được. Do vậy,
nói là Mạn-đồ-la). Dùng ba loại phương tiện bí mật để khuấy đảo sữa Phật tánh của
chúng sanh, cho đến lần lượt trải qua ngũ vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ),
thành diệu giác đề hồ. Hòa hợp thuần tịnh mầu nhiệm, chẳng còn gì có thể tăng
thêm nữa, hết thảy kim cang trí ấn cùng chung nhóm họp, trong vị cam lộ chân
thường bất biến, thật là bậc nhất. Đó là ý nghĩa của Mạn-đồ-la vậy. Từ “hựu Bí Mật Chủ” (lại này, Bí Mật Chủ)
trở đi, rộng diễn ý nghĩa của Mạn-đồ-la nhằm giải thích đoạn trừ các vấn nạn. Lại
chia thành ba phần:
- Một, nêu rõ pháp giới
viên đàn phổ môn vô hạn.
- Hai, nêu ra nguyên nhân
giới hạn số người [được quán đảnh trong một kỳ đàn tràng]: Loại trừ các chúng
sanh [không thích hợp].
- Ba, câu cuối nhằm khuyên
lơn, căn dặn A-xà-lê hãy dấy khởi bi nguyện bình đẳng.
Trong kinh văn thuộc phần
thứ nhất, “ai mẫn vô biên chúng sanh
giới, thị Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la quảng nghĩa” (thương xót vô
biên chúng sanh giới là nghĩa rộng của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la), tức là
nếu lúc hành nhân tự thấy Trung Đài Thai Tạng, liền biết hết thảy chúng sanh đều
có nhân duyên thành Phật. Vì thế, Đại Bi Mạn-đồ-la đã khởi lên ấy cũng trọn khắp
pháp giới. Vả nữa, bất cứ vị nào trong số các vị Chấp Kim Cang và Bồ Tát nhiều
như số vi trần trong mười thế giới, hễ dùng một môn nào để làm Mạn-đồ-la chủ,
các vị kia làm quyến thuộc, sẽ thành một loại Mạn-đồ-la. Xoay chuyển vô cùng
như thế, dẫu toán số, thí dụ đều chẳng thể [tính toán, diễn tả] được! Huống hồ
trong ấy đều dùng vô lượng môn trang nghiêm, các thứ phương tiện để dẫn khởi,
nhiếp thọ chúng sanh, há còn có thể kể xiết ư? Nếu hành giả trong pháp môn một
chữ ấy, thâu nhiếp rộng thành lược, triển khai lược thành rộng, sanh ra pháp
tài để thí trọn khắp hết thảy, thường chẳng đoạn hết, bèn gọi là “khéo hiểu ý nghĩa rộng của Mạn-đồ-la”.
Kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Như Lai ư vô lượng kiếp, tích tập
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chi sở gia trì. Thị cố, cụ vô lượng đức. Đương
như thị tri” (Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng kiếp, tích tập sự gia
trì của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, trọn đủ vô lượng đức, hãy nên
biết như thế): Đấy là giải thích nguyên do của nghĩa rộng. Như các vị thiện tri
thức trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, mỗi vị đều từ trong một môn
mà thông đạt pháp rộng sâu chẳng có ngằn mé, nhưng cũng chẳng biết lẫn nhau.
Xưa kia, khi Như Lai hành Bồ Tát đạo, phổ môn thân cận các vị thiện tri thức
nhiều như số vi trần trong các cõi Phật như thế, trong mỗi công đức tạng đó, đều
đạt được vị tột bậc không sánh bằng, không gì hơn được! Do đức nội chứng vô lượng
vô biên như thế, hiện làm quyến thuộc trong pháp môn được gia trì cũng lại vô lượng
vô biên. Hành giả Chân Ngôn môn hãy nên thông suốt tâm ấy, hiểu như thế đó.
Đã biết nội đức vô hạn; kế
đó, nói rõ số người được độ trong bổn địa Mạn-đồ-la cũng là vô hạn. Vì sao vậy?
Do ứng với đại bi nguyện. Do vậy, tiếp đó, kinh nói: “Bí Mật Chủ! Phi vị nhất chúng sanh cố, Như Lai thành Chánh Đẳng Giác,
diệc phi nhị, phi đa, vị lân mẫn vô dư ký cập hữu dư ký chư chúng sanh cố, Như
Lai thành Chánh Đẳng Giác. Dĩ đại
bi nguyện lực, ư vô lượng chúng sanh giới, như kỳ bổn tánh, nhi diễn thuyết
pháp” (Bí Mật Chủ! Chẳng phải vì một chúng sanh mà Như Lai thành Chánh Đẳng
Giác, cũng chẳng phải vì hai, chẳng phải vì nhiều, vì thương xót các chúng sanh
vô dư ký và hữu dư ký mà Như Lai thành Chánh Đẳng Giác. Do đại bi nguyện lực,
trong vô lượng chúng sanh giới, đúng như bổn tánh của họ mà diễn nói pháp). Ý
nghĩa phát Bồ Đề tâm ở đây như trong phẩm Nhập Pháp Giới [của kinh Hoa Nghiêm]
và phần luận định về Ma Ha Tát trong Trí Độ Luận đã rộng nói. “Vô dư ký” là như Phật hiện tiền thọ
ký: “Chúng sanh nào đó sẽ trong kiếp
nào đó thành Phật, hiệu là X… Như Lai, có quốc độ và quyến thuộc như thế đó”.
Do đã thọ ký rành rẽ, nên gọi là vô dư ký. Hữu dư ký là như bảo chúng sanh rằng:
“Nhữ ư vị lai mỗ Phật thời, đương tất
thị tội, mỗ giáp Như Lai vị nhữ thọ ký” (Ông trong đời vị lai, vào thời
đức Phật chi đó, sẽ hết sạch tội này, Như Lai chi đó sẽ thọ ký cho ông) v.v… Lại
nữa, như đức Thế Tôn nói: “Nhược ngã tại
thế, hoặc diệt độ hậu, chư hữu văn Pháp Hoa Kinh nhất cú, nhất kệ, ngã giai vị
thọ Vô Thượng Bồ Đề ký” (Nếu ta tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có
người nghe một câu, một kệ của kinh Pháp Hoa, ta đều thọ ký Vô Thượng Bồ Đề cho
người ấy). Đó là vô dư ký. Nếu nói “hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, sanh ra thiện căn liên tục chẳng đoạn, sẽ đạt
tới Vô Thượng Bồ Đề”. Đó gọi là hữu dư ký. Ta vốn vì chúng sanh như thế
đó mà thành Đẳng Chánh Giác, huống hồ nay sở nguyện đã mãn, mở ra vật báu nơi tự
tâm của chúng sanh, đúng như bản tánh của họ mà ban cho, há có hạn lượng gì ư?
Hơn nữa, do dựa theo dấu tích của hạnh nông cạn hoằng kinh trong đời ác mà nói “một kỳ pháp sự chỉ hạn ngạch mười người”
đó thôi! Từ đây trở đi là giải thích nguyên do vì sao hạn chế số người như thế.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Vô Đại Thừa túc tập, vị tằng tư duy Chân Ngôn thừa hạnh,
bỉ bất năng thiểu phần kiến văn, hoan hỷ tín thọ. Hựu Kim Cang Tát Đỏa! Nhược bỉ
hữu tình tích ư Đại Thừa Chân Ngôn Thừa đạo vô lượng môn tấn thú, dĩ tằng tu
hành, vị bỉ đẳng cố, hạn thử tạo lập danh số. Bỉ A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi
tâm, lập như thị thệ nguyện, vị độ vô dư chúng sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ
bỉ vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng tử nhân duyên.
(經)祕密主!無大乘宿習、未曾思惟真言乘行,彼不能少分見聞歡喜信受。又金剛薩埵!若彼有情昔於大乘真言乘道無量門進趣、已曾修行,為彼等故,限此造立名數。彼阿闍梨亦當以大悲心立如是誓願,為度無餘眾生界故,應當攝受彼無量眾生作菩提種子因緣。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Kẻ chẳng tu tập Đại Thừa từ
trước, chưa từng tư duy hạnh Chân Ngôn thừa, sẽ chẳng thể có chút phần thấy,
nghe, hoan hỷ tin nhận. Lại này Kim Cang Tát Đỏa! Nếu hữu tình ấy trước kia đã
từng tu hành đạo Đại Thừa Chân Ngôn Thừa, tiến nhập vô lượng môn, vì những người
như thế mà tạo lập chuyện hạn định danh số. Vị A-xà-lê đó cũng nên do tâm đại
bi mà lập thệ nguyện như thế, vì độ chúng sanh giới chẳng thừa sót, hãy nên nhiếp
thọ vô lượng chúng sanh để làm nhân duyên cho chủng tử Bồ Đề).
Đoạn này có ý nói: Nếu các
chúng sanh chưa từng gieo thiện căn đã lâu nơi quá khứ vô lượng chư Phật, chưa
từng tu tập bí mật thừa này, sẽ hời hợt nghe nói, chẳng thể tin nhận. Nếu chỉ
vì thiện tâm mà người truyền pháp nói [pháp Chân Ngôn] với kẻ căn cơ sai lệch,
sẽ có thể khiến cho kẻ đó tăng thêm lòng phỉ báng, đoạn mất căn lành. Vì thế,
kinh Pháp Hoa nói: “Vô trí nghi hối, tắc
vi vĩnh thất” (Kẻ không có trí, ngờ vực, hối hận, sẽ bị mất mát vĩnh viễn).
Các chúng sanh trong mười phương thế giới, ít có người cầu Thanh Văn, người cầu
Duyên Giác càng ít hơn, người cầu Đại Thừa rất hy hữu! Người cầu Đại Thừa còn dễ,
người tin pháp này là khó nhất. Vì thế, dùng Phổ Nhãn để xem, người kham tiếp
nhận pháp này giống như hạt bụi nơi núi Tu Di, hoặc giọt nước trong biển cả. Do
bảo vệ tâm ý của chúng sanh, đến đúng thời mới nói, lẽ nào chẳng đại lược chế định,
tạo lập danh số hay sao? Nói “vô lượng
môn tấn thú” tức là giải thích kèm thêm danh nghĩa của Mạn-đồ-la.
Mạn-đồ-la là “tụ tập”, [tức là] nay đem công đức
chân thật của Như Lai tụ tập ở một chỗ, cho đến gom tụ trọn vẹn trí ấn sai biệt
số lượng nhiều như vi trần trong mười thế giới để phù tá Đại Nhật tâm vương,
khiến cho hết thảy chúng sanh đều phổ môn tiến nhập. Do vậy nói là Mạn-đồ-la.
Nói “lược thử tạo lập danh số”
(đại lược tạo lập danh số ấy), như dùng chữ A để năm lượt chuyển, hòng thống nhiếp
vô biên nội đức của Như Lai, dùng trăm bài minh chú ứng với các tự luân để thâu
nhiếp pháp môn Phổ Nhãn của Như Lai. Đó gọi là “đại lược về danh xưng”. Dùng phương tiện nhiều như số vi trần
trong một cõi nước để mở đàn [hoa sen] tám cánh, do vô cực đại bi mà chế định hạn
lượng mười người. Đấy chính là nói đại lược về số. Nhưng người học thuận theo một
pháp minh đạo mà được ngộ nhập, tức là nhập trọn khắp hết thảy các môn Tổng
Trì. Như từ một môn thấy vua, tức là thấy nhập trọn khắp ngàn muôn môn hộ. Nếu
chẳng thể hành đúng như lời dạy, tuy dùng đủ loại văn từ rộng vì họ khai thị, vẫn
chẳng có ích gì! Do vậy, câu thứ ba nói rõ: [Tuy lập] danh số hạn lược, chẳng
trở ngại sự [truyền thọ] rộng rãi. Ở đây, kinh nói: “Bỉ A-xà-lê diệc đương dĩ đại bi tâm, lập như thị thệ nguyện, vị độ vô
dư chúng sanh giới cố, ưng đương nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, tác Bồ Đề chủng
tử nhân duyên” (Vị A-xà-lê ấy cũng nên do tâm đại bi mà lập thệ nguyện
như thế, vì độ chúng sanh giới chẳng sót, hãy nên nhiếp thọ vô lượng chúng sanh
để làm nhân duyên cho chủng tử Bồ Đề), tức là: Tạo lập Mạn-đồ-la này, chính là
hễ có kẻ nào thấy, nghe, hay, biết, thậm chí giơ tay, cúi đầu, một niệm tùy hỷ,
sẽ đều nhất định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, A-xà-lê tuy chẳng
thể truyền thụ đầy đủ chi phần quán đảnh cho kẻ căn cơ không thích hợp, nhưng đối
với cái duyên “buộc viên châu trong
chéo áo, cái trống bôi thuốc độc”, há nên bỏ qua ư? Vì thế, hãy nên vận
tâm đại bi khiến cho [pháp này] được lưu truyền rộng khắp. Lại nữa, như người
trong nhà có chất báu bí mật, sợ bị đạo tặc dòm ngó; bởi thế, giấu trong đám quần
áo cũ rách. Nay pháp môn Mạn-đồ-la này cũng lại như thế, do tạng bí mật chẳng
thể tuyên nói thẳng thừng; vì thế, xoay vần che phủ mật ý bằng phương tiện hữu
tướng. Nay nói “hạn định mười người”,
chính là Thế Đế Mạn-đồ-la vậy! Nhưng A-xà-lê sẽ tự sửa trị tâm địa, vẽ Đại Bi Mạn-đồ-la,
Phổ Nhãn độ người, tạo nhiều lợi ích tốt lành, chớ nên hiểu theo văn tự vậy!
(Kinh) Trì chân ngôn hành giả, như thị nhiếp thọ dĩ, mạng bỉ Tam Tự
Quy, linh thuyết hối tiên tội. Phụng đồ hương, hoa đẳng, cúng dường chư thánh
tôn. Ưng thọ bỉ tam thế, vô chướng ngại trí giới. Thứ đương thọ xỉ mộc, nhược
Ưu Đàm Bát La, hoặc A Thuyết Tha đẳng. Kết hộ nhi tác tịnh. Hương, hoa dĩ trang
nghiêm, đoan trực thuận bổn mạt. Đông diện hoặc Bắc diện, tước dĩ nhi trịch
chi. Đương tri bỉ chúng sanh, thành khí phi khí tướng. Tam kết Tu-đa-la, thứ hệ
Đẳng Trì tý. Như thị thọ đệ tử, viễn ly chư trần cấu, tăng phát tín tâm cố. Đương
tùy thuận thuyết pháp, úy dụ kiên kỳ ý.
(經)持真言行者,如是攝受已,命彼三自歸,令說悔先罪。奉塗香華等,供養諸聖尊,應授彼三世,無障礙智戒。次當授齒木,若優曇鉢羅,或阿說他等,結護而作淨。香華以莊嚴,端直順本末,東面或北面,嚼已而擲之,當知彼眾生,成器非器相。三結修多羅,次繫等持臂,如是受弟子,遠離諸塵垢。增發信心故,當隨順說法,慰喻堅其意。
(Kinh: Hành giả trì chân ngôn, nhiếp thọ như thế
xong, dạy cho Tam Tự Quy, bảo nói, hối tội trước. Dâng hương bôi, hoa thảy,
cúng dường các tôn thánh. Hãy nên thọ trí giới, ba đời chẳng chướng ngại. Kế đó
trao xỉ mộc[45],
hoặc Ưu Đàm Bát La, hoặc A Thuyết
Tha thảy. Kết hộ[46]
rồi tác tịnh. Hương, hoa để trang nghiêm, ngay thẳng thuận đầu đuôi[47].
Hướng về Đông hoặc Bắc, nhai rồi bèn ném ra. Nên biết chúng sanh ấy, thành tướng
khí, phi khí. Ba lượt dây niệt thắt, buộc vào tay Đẳng Trì. Truyền đệ tử như thế,
xa lìa các trần cấu. Do tăng trưởng tín tâm, nên tùy thuận thuyết pháp, an ủi,
nhủ vững ý).
Kệ nói “trì chân ngôn hành giả” (hành giả trì chân ngôn) tức là nói về “phương tiện hộ trì và kiến lập” trong
chi phần đệ tử. Tới đêm ngày thứ sáu, thầy và đệ tử đều tắm gội thanh tịnh, mặc
áo mới sạch, cầm các vật cúng, tới chỗ bạch đàn Mạn-đồ-la như đã tạo trong phần
trước. Hãy nên theo đúng pháp gia trì tự thân, đạo tràng, và các đệ tử. Phương
tiện thủ hộ đệ tử như kinh văn trong phần sau nói về lúc nhập quán đảnh. Khi
đó, A-xà-lê theo đúng thứ tự pháp tắc, tu cúng dường trọn đủ, quán chư tôn
thánh tại các phương vị trong bạch đàn và mật ấn tương ứng, trì chân ngôn của
các Ngài. Kinh Cù Hê nói: “Thủ án
Trung Đài Mạn-đồ-la, tụng chân ngôn nhất biến, như thị nhất tụng, nhất án, nãi
chí thất biến, dư vị diệc nhĩ dã” (Tay ấn xuống Trung Đài, tụng chân
ngôn một lần. Cứ một lần tụng, một lần ấn như thế cho tới đủ bảy lượt. Đối với
các phương vị khác cũng thế). Kế đó, nên vì các đệ tử tùy thuận thuyết pháp,
khơi mở, hướng dẫn tâm họ, dạy họ Tam Tự Quy, sám hối tội trước kia. Đã sám hối
xong, thân tâm thanh tịnh giống như minh châu, có thể thật sự kham phát tâm. Vì
thế, kế đó dạy đệ tử phát Bồ Đề tâm, đều như phần Pháp Cúng Dường đã nói.
Kế đó, nên trao cho họ hương bôi, hoa v.v… Truyền dạy đệ tử
hãy vận tâm cúng dường chư tôn thánh, sau đấy mới truyền trao Tam Thế Vô Chướng
Ngại Trí Giới. Thọ giới pháp Bồ Tát thì có hành nghi riêng. Sở dĩ Bồ Tát phát
tâm nhiếp thọ phương tiện học xứ, đều là để thành tựu trí huệ thanh tịnh của
Như Lai. Trong một niệm, liễu đạt các pháp trong ba đời chẳng vướng mắc. Có người
trụ trong giới ấy, cho đến khi thấy tâm, hiểu đạo, liền có oai thế chẳng nghĩ
bàn như vậy. Do giới ấy có thể đích thân phát sanh Phật huệ. Lại do so với luật
nghi có hạn lượng của Nhị Thừa, bèn gọi là Tam Thế Vô Chướng Ngại Trí.
Kế đó, trao cho [các đệ tử] nhánh cây để chà răng, bảo đệ tử
nhai cắn; nhân đó, quán tướng người ấy sẽ trở thành pháp khí hay không. Sở dĩ
làm pháp này, cũng là do thuận theo Tục Đế của phương ấy (Ấn Độ), do dùng
phương tiện bí mật để gia trì. Người dân Ấn Độ kể từ việc mời tăng chúng dùng
cơm cho đến người đời xem tướng, đều trước đó, trao xỉ mộc cho khách mời, dùng
các thứ hương, hoa trang hoàng rồi mới trao cho. Hãy nên biết đó là họ mời người
ấy ngày mai tới dùng cơm. Sở dĩ làm như thế là để biểu thị tâm yêu kính, sợ người
ấy trước đó đã có bệnh đàm nhiệt vì nhân duyên ăn uống khi xưa. Nếu tiếp nhận
thức ăn do tôi cúng dường, không chừng sẽ khiến cho bệnh cũ phát động, [cơ thể]
bất an. Vì thế, trước hết do thiện ý che chở mà nhắc nhở, khiến cho người ấy
trước hết thanh tịnh thân khí, hoặc uống Ha Lê Lặc v.v… để ngày hôm sau tùy ý
ăn uống, chẳng bị thương tổn, thân tâm an lạc. Nay A-xà-lê cũng thế, khi trao nhành dương cho đệ tử, liền nhờ vào phương
tiện này mà nói pháp sâu: “Ta vừa mới
trao cho ngươi Phật tánh đề hồ, có vị không chi hơn được, đã dạy ngươi phát Bồ
Đề tâm, tịnh trừ túc chướng nơi tam nghiệp, dùng răng điều phục ‘trí tam thế vô
ngại’ để cắn các phiền não. Muốn dùng sự bí mật gia trì này để gột trừ sạch tội
lỗi nơi thân tâm. Ngươi hãy nên tịnh trừ lỗi nơi miệng. Đi tới nơi đâu, cũng đừng
xằng bậy tuyên nói [pháp được dạy bảo trong đàn tràng này]. Ngày mai, ta sẽ tặng
cho ngươi cam lộ bất tử, khiến cho đều sung túc”.
Vị thầy ấy nên lấy nhánh
cây Ưu Đàm Bát La (Udumbara) hoặc gỗ A Thuyết Tha (Aśvattha)[48] ngay thẳng, đẹp đẽ, chẳng thô, chẳng nhỏ, cắt thành đoạn dài bằng mười
hai ngón tay. Phàm trong hết thảy cách đo lường, đều dùng lóng trên cùng của
ngón cái gập lại cho chạm vào bên cạnh [của đốt dưới ngón cái, gọi đó là “một
ngón tay”]. Đó là con số đúng. Hai loại gỗ ấy chính là loại cây Bồ Đề của quá
khứ chư Phật. Nếu không có, hãy nên tìm loại gỗ có nhựa, tức là gỗ dâu, v.v…
Đánh dấu phân biệt phần trên và phần dưới của gỗ, đều coi chỗ cành nhánh là
trên, chỗ cội gốc là dưới. Dùng nước thơm rửa sạch, lại dùng hương bôi để ướp.
Đối với đầu dưới của nhánh gỗ, dùng chỉ trắng buộc hoa để trang hoàng, cũng nên
làm dấu khiến cho dễ biết trên dưới. [A-xà-lê] hãy nên lấy tay đè lên, dùng
chân ngôn Bất Động để gia trì, hoặc niệm một trăm lần, hoặc một ngàn lần, khiến
cho trang nghiêm thật trọn vẹn. Đã thọ giới xong, thầy nên lấy một nhánh xỉ mộc
dâng hiến chư tôn, những nhánh còn lại chia ra cho đệ tử, bảo họ ra khỏi đàn
tràng, ở phương Đông hay phương Bắc phía ngoài đàn tràng, đúng pháp ngồi xổm mà
cắn [nhánh xỉ mộc ấy]. Cắn xong, hãy bảo họ hướng về phương vị mà họ đang đối
diện mà ném để kiểm nghiệm tướng ấy. Nếu chỗ bị cắn hướng ra ngoài thì người ấy
chẳng thành tựu Tất Địa. Nếu hướng về thân [người ném] thì Tất Địa thành tựu. Nếu
quăng ra xa mà rơi gần thân thì là tướng chẳng lâu sẽ thành tựu. Nếu phần đầu dựng
thẳng, hướng lên trên thì thành tựu càng nhanh chóng. Nếu phần đầu hướng xuống
dưới thì người ấy sẽ vào cung A Tu La, hoặc cung rồng. Nếu vướng trên không
trung thì người ấy trước đó đã thành tựu. Lại còn hướng về phương Bắc, hay
phương Đông thì là thượng thành tựu, phương Tây là trung thành tựu, phương Nam
là hạ thành tựu. Tuy là như thế, nếu người ấy hướng về phương Đông mà quăng,
nhưng chỗ cắn hướng về phương Đông, tức ngược chiều với thân, cũng chẳng được
thành tựu. Những trường hợp khác chuẩn theo đây mà suy ra. Những điều khác như
trong kinh Cù Hê đã nói.
Kế đó, hãy nên thực hiện
pháp kim cang tuyến. Phàm làm dây buộc, hãy nên chọn loại sợi tốt nhất, mịn, trọn
vẹn, dùng nước thơm gột rửa cho tột bậc thanh tịnh, sai bé gái khiết tịnh xe sợi
theo chiều phải. Dùng sợi năm màu để xe lại, dùng chân ngôn của năm vị Như Lai
để gia trì mỗi màu. Sau đó, dùng chân ngôn Thành Biện Chư Sự để gia trì chung.
Sợi chỉ dùng để [căng ra, xác định ranh giới, phương vị nhằm] tạo Mạn-đồ-la
cũng thế. Màu của năm đức Như Lai thì đối với Đại Nhật Phật sẽ gia trì màu trắng,
Bảo Tràng Phật gia trì màu đỏ, Hoa Khai Phu Phật gia trì màu vàng, Vô Lượng Thọ
Phật gia trì màu lục, Cổ Âm Phật thì gia trì màu đen. A-xà-lê trước hết cầm sợi
chỉ thắt ba gút, tạo thành kim cang kết, dùng để buộc lên cánh tay trái hòng hộ
trì tự thân. Kế đó, nhất nhất buộc lên tay các đệ tử, nhiếp thọ đệ tử như thế
thì nhập Mạn-đồ-la sẽ lìa các chướng nạn. Kim cang kết chớ nên nói nhiều lượt,
hãy nên đích thân nhận từ A-xà-lê.
Lại nữa, dây ngũ sắc chính
là ngũ trí của Như Lai, mà cũng là năm pháp Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Dùng năm
pháp ấy để quán nhiếp hết thảy các giáo môn; do vậy gọi là Tu-đa-la. Dịch theo
lối cổ là “Diên Kinh” (綖經)[49].
Nếu là bậc A-xà-lê kiến đế, có thể dùng ngũ trí của Như Lai để gia trì năm thứ
thiện căn trong Bồ Đề tâm của đệ tử, thâu nhiếp trọn khắp vạn hạnh, buộc chặt
nơi “cánh tay” Du Già, khiến cho [đệ tử] dẫu trải qua sanh tử mà vẫn thường chẳng
thất lạc, hư hoại [chủng tử thiện căn]. Nếu có thể nhiếp thủ đệ tử như thế, bèn
gọi là “thiện tác kim cang kết”.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Muốn trong
đêm ấy làm pháp này cho đệ tử, vật cúng dường nên giảm bằng một nửa đêm thứ bảy.
Lại nên quán tình kiến và căn cơ của người ấy (đệ tử sẽ được truyền pháp) mà
tán dương Mật giáo, [khiến cho người ấy] phát sanh các tâm ưa thích kiên cố,
cũng vì người ấy phân biệt mười loại phương tiện Học Xứ”. Hễ là người kết duyên, đều nên tham
dự nghe giảng môn Tam Thế Vô Ngại Trí Giới này.
(Kinh)
Cáo như thị kệ ngôn: - Nhữ hoạch vô đẳng lợi, vị đồng ư đại ngã. Nhất thiết chư
Như Lai, thử giáo Bồ Tát chúng, giai dĩ nhiếp thọ nhữ, thành biện ư đại sự. Nhữ
đẳng ư minh nhật, đương đắc Đại Thừa sanh”.
(經)告如是偈言:汝獲無等利,位同於大我,一切諸如來,此教菩薩眾。皆已攝受汝,成辦於大事,汝等於明日,當得大乘生。
(Kinh: Nói kệ như thế này: “Ngươi được lợi khôn
sánh, địa vị đồng đại ngã. Hết thảy các Như Lai, dạy Bồ Tát pháp này, đều đã
nhiếp thọ ngươi, thành tựu nơi đại sự. Các ngươi vào ngày mai, được sanh trong
Đại Thừa”).
Đối với bốn loại căn bản và tam-muội-da[50],
lại có một bài kệ, ắt phải răn dạy trực tiếp cho lọt vào tai, người được quán đảnh
đầy đủ các chi phần hãy nên lắng nghe. Hai bài kệ dạy răn cũng là A Lợi Sa, có
thể tụng hoàn toàn bằng tiếng Phạn thì càng lợi ích nhiều hơn, chép ra như sau:
A nễ dã (từ nay), dữu
sáp ma (ngươi), tỵ ra đổ la
(không ai sánh bằng), la bà (lợi
ích), lạp đà (đạt được), ma ha đát ma tỵ (đại ngã), duệ nẵng (các, những), tát bà (hết thảy), nhĩ nại (Phật), dụ diên (ngươi), sa bổ đát lại (và Bồ Tát), rị ha (đây), xá sa nê dã (dạy), tát
ra mai (hết thảy), bả rị nghĩ rị
hệ đá tát tha (nhiếp), xà da ma
nang (sanh), ma hỗ (to lớn),
nại da (thực hiện). Đế nẵng dụ diên (ngươi), ma ha dạ nê (Đại Thừa) thấp phụ nhã đá hê (sanh vào sáng
mai), bà vĩ tỷ dã tha (đạt được).
Bài kệ có ý nói: Ngươi từ
nay trở đi, sẽ đạt được lợi ích không gì bằng, có địa vị bằng với Đại Ngã. Đại
Ngã tức là tám Tự Tại Ngã thuộc về Pháp Tự Tại do Như Lai đã thành tựu, và các
Ma Ha Tát Đỏa. Kế đó nói hết thảy Như Lai và các vị Ma Ha Tát trong giáo pháp
này, hết thảy đều đã nhiếp thọ ngươi. Đây chính là các vị Kim Cang và Bồ Tát
trong mười cõi Phật thuộc giáo pháp bí mật của Đại Thừa. Kế đó nói “thành biện đại sự”, tức là có thể
thành tựu đại sự. Nhân duyên để có thể hoàn thành đại sự chính là “khai thị ngộ nhập tri kiến của Như Lai”.
Vì thế, kinh đã dung hội ý ấy để nói. Kế đó nói: “Ngày mai các ngươi sẽ được sanh trong Đại Thừa”, tức là vào Đại
Bi Mạn-đồ-la để được quán đảnh, sanh trong chủng tánh của hết thảy Như Lai. Lại
nữa, lìa duyên nghiệp mà sanh, đắc Đại Không mà sanh, cho nên nói là “Đại Thừa sanh”.
(Kinh)
Như thị giáo thọ dĩ, hoặc ư mộng mị trung, đổ kiến Tăng trụ xứ, viên lâm tất
nghiêm hảo, đường vũ tướng thù đặc, hiển sưởng chư lâu quán, tràng, cái, ma-ni
châu, bảo đao, duyệt ý hoa, nữ nhân tiên bạch y, đoan chánh sắc xu lệ. Mật thân
hoặc thiện hữu, nam tử như thiên thân, quần ngưu phong tự nhũ, kinh quyển tịnh
vô cấu. Biến tri nhân duyên giác, tịnh Phật, Thanh Văn chúng, đại ngã chư Bồ
Tát, hiện tiền thọ chư quả, độ đại hải, hà, trì, cập văn sở nhạo thanh, không
trung ngôn cát tường, đương dữ ý nhạo quả. Như thị đẳng hảo tướng, nghi ưng đế
phân biệt. Dữ thử tương vi giả, đương tri phi thiện mộng.
(經)如是教授已,或於夢寐中,覩見僧住處,園林悉嚴好,堂宇相殊特,顯敞諸樓觀,幢蓋摩尼珠,寶刀悅意華;女人鮮白衣,端正色姝麗,密親或善友,男子如天身;群牛豐牸乳,經卷淨無垢。遍知因緣覺,并佛聲聞眾,大我諸菩薩,現前授諸果。度大海河池,及聞所樂聲,空中言吉祥,當與意樂果。如是等好相,宜應諦分別,與此相違者,當知非善夢。
(Kinh: Dạy dỗ như thế rồi, hoặc là trong mộng mị,
trông thấy chỗ Tăng ở, vườn rừng trang nghiêm đẹp, điện đường tướng đẹp lạ, lầu
đài cao, thoáng đãng. Tràng, lọng, ma-ni châu, đao báu, hoa đẹp ý. Nữ nhân áo
trắng sạch, đoan chánh, sắc xinh đẹp. Người chí thân, bạn lành, nam tử như thân
trời, đàn bò cái đầy sữa, kinh quyển sạch chẳng dơ. Biết trọn nhân duyên giác,
và Phật, các Thanh Văn, các Bồ Tát đại ngã, hiện tiền trao các quả, vượt biển cả,
sông, ao, và nghe tiếng ưa thích, không trung nói cát tường, trao cho trái ưa
thích. Các tướng tốt như thế, hãy nên phân biệt kỹ. Nếu trái nghịch tướng ấy,
biết chẳng phải mộng lành).
Khi đó, A-xà-lê răn dạy, ấn trì như thế xong, lại bảo các đệ tử theo thứ tự
ngồi ở ngoài Mạn-đồ-la, hướng về phía Đông. A-xà-lê lại nên cúng dường, dùng
tâm chí thành, nghênh thỉnh chư tôn rằng: “Ngày mai con sẽ vì thương xót đệ tử mà cúng dường các đức tôn thánh,
kiến lập Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, tùy sức cúng dường. Kính mong từ bi nghĩ
nhớ, trong ngày mai sẽ đều giáng hạ, nhóm họp trong Mạn-đồ-la để gia trì”.
Đại ý như thế, những điều khác như trong kinh Cù Hê đã nói. Vị ấy chí thành thỉnh
ba lượt xong, tuyên thuyết kim cang cú kệ để ca ngợi chư tôn, sau đấy mới đúng
như pháp tống tiễn.
Lại vì đệ tử nói rộng pháp
yếu, sắc truyền họ hệ niệm tư duy, dựa vào cỏ cát tường, hướng mặt về Tây mà ngủ.
Nếu người ấy trong mộng đạt các thứ cảnh giới, sáng dậy nên thưa với thầy, thầy
sẽ biết tướng trạng có thể thành tựu Tất Địa hay không của hành nhân. Nếu là bậc
A-xà-lê kiến đế, sẽ tự trong Du Già sâu thẳm, thấy rõ căn duyên của đệ tử từ đầu
đến đuôi, chẳng phạm sai lầm. Nếu chẳng làm sự tướng như thế, và thuận theo Thế
Đế mà hành, thì hết thảy chẳng sai lầm. Nếu là vị thầy chưa kiến đế, hãy nên cẩn
trọng nương theo pháp tắc, chớ để thiếu sót!
Kinh nói: “Mộng trung kiến Tăng trụ xứ” (Trong
mộng thấy chỗ ở của Tăng sĩ), tức là trông thấy các thứ trang nghiêm thanh tịnh,
vi diệu. Thân vào trong ấy, lễ, quỳ, nhiễu quanh, gặp các chuyện vui mừng, tốt
lành. “Viên lâm” tức là trông
thấy hoa quả sum suê, tươi tốt, đặc biệt thù thắng, hoặc đích thân hái, bẻ, hoặc
trèo lên cành cây, bước đi trong không trung. “Đường vũ” tức là các loại nhà cửa đẹp đẽ, tráng lệ, được trang
hoàng lộng lẫy, ở trong đó hưởng thụ tự tại, thân tâm vui sướng. “Lâu quán” tức là đài nhiều tầng cao
trội, thoáng đãng, có thể ngó xa bốn phương, thấy các thứ cảnh thù thắng, tinh
thần thư thái. Phàm các tướng như thế đều là cát tường. Pháp môn được biểu thị
trong ấy cũng giống như đã nói trong phần chọn đất. Nếu trái nghịch các tướng ấy,
như thấy tháp, chùa bị đốt, phá hoại, bỏ hoang, dơ bẩn, tức chẳng phải là giấc
mộng tốt lành.
“Tràng” tức là cờ quạt, tràng báu, cao vời, đoan nghiêm, đẹp đẽ
hiện ra trước mặt, hoặc dùng để phất nhằm hướng dẫn mọi người, không ai chẳng
vâng theo. Đấy là hình tượng kiến lập đại Bồ Đề tâm uốn nắn vạn hạnh. “Cái” (lọng) tức là các thứ như đuôi
chim công v.v… năm màu xen kẽ [được kết lại], hoặc là để che phủ phía trên
không trung, hoặc do được người khác trao cho để cầm đi lại. Đấy chính là hình
tượng bi nguyện che chở trọn khắp. Châu Ma-ni cũng có nghĩa là viên minh, chiếu
thấu triệt, hoặc có thể sanh ra các vật thí cho mọi người. Đấy chính là hình tượng
của báu tịnh tâm giác ngộ Tứ Nhiếp lợi lạc người khác. “Đao” tức là chói ngời, soi thấu, cứng chắc, sắc bén, hoặc do
người khác đưa cho, hoặc tự mình cầm, nắm. Đó là biểu tượng của huệ tánh thành
tựu. “Duyệt ý hoa” (hoa đẹp ý)
tức là các thứ hoa sanh dưới nước, hay mọc trên đất. Tùy theo tánh chất, chủng
loại, mà có thượng, trung, hạ, như sắc thì coi trắng sạch là loại thượng, vị
thì coi ngọt thuần là thượng, đều là điềm “mầm thiện nẩy nở”, hãy nên suy nghĩ phân biệt [để nhận biết].
“Nữ
nhân” là hình tượng tam-muội, nam tử tượng trưng cho trí huệ, cũng
mang ý nghĩa “người có oai đức đoan chánh, được người khác yêu kính”. “Mật thân” (người thân thiết nhất)
như cha mẹ v.v… “Thiện hữu” (bạn
lành) tức là thượng nhân truyền pháp, thiện tri thức v.v… Hoặc thấy bò cái tụ tập,
vị sữa phong phú, hoặc có người vắt sữa, hoặc tự uống, đều là tượng trưng cho đề
hồ thượng vị của Đại Bi Mạn-đồ-la. Hoặc thấy kinh sách trắng sạch, vô cấu,
trang hoàng tề chỉnh, nét chữ phân minh, ghi chép các loại chuyện thù thắng; đó
là tướng lành. Nếu quyển kinh dơ bẩn, hư hoại, chữ nghĩa tàn khuyết; hãy nên biết
là bất thiện. Hoặc thấy chư Phật đích thân vì [hành nhân] xoa đầu, hiện tiền thọ
ký, dùng âm thanh vi diệu để an ủi, phủ dụ. Hoặc thấy Thanh Văn, Bích Chi Phật
v.v… cho đến trụ trong hư không, thị hiện vô lượng thần biến, đều nên tùy theo
sự mà chọn lựa, phân biệt, hiểu rõ nhân duyên của chúng. “Các quả” tức là các thứ quả mầu nhiệm
hy hữu, quý hiếm trong cõi đời, hoặc có người trao cho, hoặc từ trên hư không
giáng xuống v.v… đều là biểu tượng của Tất Địa. Hoặc vượt qua sông, ao, biển cả,
cho đến trong mộng trong khoảnh khắc bèn uống cạn, thì đều là cát tường. Nếu
trôi giạt, chìm đắm, không được cứu giúp v.v… Hãy nên biết đó là bất thiện. Hoặc
nghe trong hư không có các loại âm thanh tốt đẹp, ca vịnh pháp âm, tấu các kỹ
nhạc, hoặc xưng dương công đức Tam Bảo mà tâm thích nghe, hoặc nói lời tốt
lành, hoặc nói “hãy nên trao cho ngươi cái quả ngươi yêu thích”. Như thế đó đều
là thiện mộng. Hãy nên phân biệt thành các loại thượng, trung, hạ. “Như tự vũ đẳng” (Như chùa, miếu
v.v…) tức là ở trên mặt đất hay trong hư không sai khác. Người được trông thấy
cũng có nam, nữ, thánh, phàm sai khác. Vì thế, kinh nói: “Nghi ưng đế phân biệt chi” (Hãy nên
phân biệt kỹ càng).
Nếu trái nghịch với thiện
tướng trên đây, hoặc mộng thấy thân mình bị voi cuồng đuổi theo, kinh sợ, nguy
cấp, hoặc cưỡi lạc đà, lừa, hoặc thấy người đáng ghét, tệ ác, ăn mặc rách rưới,
hoặc tự thấy thân mình nằm lăn trên bùn xanh, ở trong phân nhơ, hoặc các thứ bất
tịnh từ trên hư không rơi xuống; đó đều là các tướng trái nghịch. Nếu là bậc
thâm hạnh A-xà-lê, sẽ tự trong Du Già, đều biết rõ giấc mộng của người ấy và
các nhân duyên tạo nên.
(Kinh)
Thiện trụ ư giới giả, thần khởi bạch sư dĩ. Sư thuyết thử cú pháp, khuyến phát
chư hành nhân: “Thử thù thắng nguyện đạo, đại tâm Ma Ha Diễn, nhữ kim năng chí
cầu, đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long, thế gian kính như tháp. Hữu,
vô tất siêu việt; vô cấu đồng hư không. Chư pháp thậm thâm áo, nan liễu vô hàm
tàng. Ly nhất thiết vọng tưởng, hý luận bổn vô cố. Tác nghiệp diệu vô tỷ, thường
y ư Nhị Đế, thị thừa thù thắng nguyện, nhữ đương trụ tư đạo”.
(經)善住於戒者,晨起白師已,師說此句法,勸發諸行人:此殊勝願道,大心摩訶衍,汝今能志求,當成就如來。自然智大龍,世間敬如塔,有無悉超越,無垢同虛空。諸法甚深奧,難了無含藏,離一切妄想,戲論本無故。作業妙無比,常依於二諦,是乘殊勝願,汝當住斯道。
(Kinh:
Người khéo trụ nơi giới, sáng dậy thưa với thầy. Thầy nói câu pháp này, khuyên,
phát khởi hành nhân: “Nguyện đạo thù thắng này, là đại tâm Đại Thừa, ngươi nay
hay chí cầu, sẽ thành tựu Như Lai. Rồng lớn trí tự nhiên, thế gian kính như
tháp. Hữu, vô đều vượt thoát, vô cấu như hư không. Các pháp rất sâu thẳm, khó
hiểu chẳng chứa đựng. Lìa hết thảy vọng tưởng, hý luận vốn chẳng có. Tác nghiệp
diệu khôn sánh, thường nương vào Nhị Đế. Nương vào nguyện thù thắng. Ngươi nên
trụ đạo này”).
Lúc sáng dậy, đệ tử thưa với thầy
[những chuyện đã thấy trong mộng], thầy nên tùy cơ khuyên nhủ, phát khởi, để đoạn
lưới nghi cho trò. Nếu thấy người ấy chẳng có lẽ nào thành tựu, ắt chẳng nên
phó pháp trọn đủ cho người ấy, sợ do lâu ngày chẳng có công hiệu, có lẽ [người ấy]
sẽ sanh lòng nghi hoặc, phỉ báng. Hoặc như kinh Cù Hê đã nói: “Thầy hãy vì trò làm hộ-ma để dứt trừ tai
ương. Đã được lìa các chướng rồi
mới cho vào [đàn tràng]”. Nếu thấy đủ loại cảnh giới thù thắng, hãy nên
dùng pháp ngôn để an ủi, khuyên dụ, khiến cho trò hoan hỷ. Nói “thiện trụ giới” (khéo trụ trong giới),
tiếng Phạn là Tô Phạ La Đa (Suvrata), tức là mỹ hiệu để gọi đệ tử, giống như gọi
họ là “Phật tử” vậy. Bài kệ được
nói trong phần chánh kinh cũng là A Lợi Sa, kiêm tụng bằng tiếng Phạn thì càng
hay hơn, [bản ấy] cũng được chép đầy đủ như sau:
Ế sa (cái này), ma lạt-già
(đạo), phạ ra ra (nguyện), thất-rị mạn (thù thắng, cũng có nghĩa
là đức), ma ha (to lớn), dạ nang (thừa), ma hộ (lớn), nại dã (tâm), duệ nẵng
(có thể), sưu diên (ngươi), nghiễm mị sái (cái được diễn nói), đổ (cầu), ba phí (thành), thiết
tha (tựu), đát tha yết đá
(Như Lai), tát diễm bộ vô (tự
nhiên trí), ma ha na già (đại
long), tát ma lô yết (người đời),
tả chế để da (kính trọng như
hình tướng của tháp), a tất-để
(có), na tất-để (không), vĩ-dã (đều), để yết-lan đa (vượt khỏi), ma ca xa (hư không), mị
phạ (cùng), thư (không) để lam (cấu nhơ), nghiêm tỵ lan (thâm áo), tát-bà (hết thảy), đạt mê tỵ (pháp), cát bát ra
đát kiên (trí thế gian chẳng thể biết rõ), ma na la diêm (chẳng chứa đựng), tát ra-ma (hết thảy), bát-ra
bán giá ra hệ đan (lìa hết thảy hý luận, vọng tưởng), bát-la bán chế (hý luận), cát (do là không), bát ra bán chỉ đan
(cũng là hý luận, lặp lại), tát bà
(hết thảy), cật-rị da tỵ (việc
làm), ra đổ lan (không sánh bằng),
tát để-dã (chân thật), nại-phạ dã-dã tham ma thiết-ra diêm (áo), y năng (cái này), đát nễ-dạ nang (thừa), mạt lan (nguyện), thất-lệ sắt sá (thù thắng), la tỵ-thiết (đạt được), tha nại duệ (đạo), tát thể-đá (trụ) (phàm là kệ được nói
trong bản tiếng Phạn đều thêm vào câu trợ thanh, gọi là Y Để).
Nửa đầu bài kệ ca ngợi đạo
Bí Mật Thừa. “Nguyện thù thắng”
chính là nói tới nguyện Nhất Thiết Trí. Nếu nhập Bồ Đề môn thanh tịnh này, sẽ
chiếu kiến tâm pháp, hiểu đạo, đó gọi là “đại
Bồ Đề đạo của cổ Phật”. Vì thế nói là “thử thù thắng nguyện đạo” (đạo nguyện thù thắng này). “Đại tâm” có ý nghĩa như đã nói
trong Ma Ha Tát Đỏa thuộc phần trước. Các vị đại tâm thuộc quá khứ, hiện tại, vị
lai, không vị nào chẳng ngự cỗ xe báu ấy để tới thẳng đạo tràng; vì thế nói là “đại tâm Ma Ha Diễn”. Bài kệ thứ nhất
tán thán công đức phát Bồ Đề tâm của hành nhân, tức là dùng pháp ấn nhất định của
hết thảy Như Lai để thọ ký đại Bồ Đề. Vì thế nói: “Nhữ kim năng chí cầu, đương thành tựu Như Lai. Tự nhiên trí đại long,
thế gian kính như tháp” (Ngươi nay dốc chí cầu, sẽ thành tựu Như Lai, rồng
lớn tự nhiên trí, thế gian kính như tháp). “Tự nhiên trí” là trí tự giác tự chứng của Như Lai. Đối với pháp
xưa kia chưa nghe, chưa biết, mà tự nhiên hiểu rõ, hiện tiền chẳng vướng mắc;
do vậy, gọi tên như thế. Ma Ha Na Già (Mahānaga, đại long) là biệt hiệu của Như Lai, do sánh ví tác dụng to lớn không ngằn
mé, chẳng thể nghĩ bàn). Chế-để (Caitya) được dịch nghĩa là “phước tụ” (khối phước), nghĩa là hết
thảy khối công đức của chư Phật tích tụ trong đó. Do vậy, người đời vì cầu phước,
thảy đều cúng dường, cung kính. Nay ngươi phát Bồ Đề tâm, cũng có thể nhiếp thọ
vô biên khối phước của hết thảy Như Lai. Vì vậy, thế gian phải nên tôn kính,
coi như tháp Phật. Kế đó là một bài kệ rưỡi nhằm hiển thị Bồ Đề tâm thanh tịnh
như Thật Tướng ấn, tức là khai Phật tri kiến, khiến cho [hành nhân] được thanh
tịnh. “Hữu vô tất siêu việt” (Hữu
và vô đều vượt thoát) tức là Trung Đạo chẳng thể nghĩ bàn, từ các duyên mà
sanh, vượt khỏi đoạn, thường, chẳng phải có, chẳng phải không, hết thảy tâm lượng
đều chẳng phải là hành xứ, nên gọi là “vô
cấu hư không kim cang trí ấn”.
“Chư
pháp thậm thâm áo” (Các pháp rất sâu xa): Do tâm
tánh quá sâu, hãy nên biết Ấm, Giới, Nhập v.v… cho đến Nhất Thiết Chủng Trí
cũng đều quá sâu, do hết thảy các pháp chẳng vượt ngoài Thật Tướng của cái tâm.
Thật Tướng như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể biết, chẳng do suy lường,
phân biệt mà có thể thấu đạt, nên nói là “thậm
thâm áo”. “Thế trí bất năng liễu”
(Trí thế gian chẳng hiểu rõ) là nói người thông huệ, lợi căn trong thế gian chẳng
thể nghĩ bàn tâm tánh ấy được! Giả sử các vị đại luận sư như Trường Trảo phạm
chí v.v… dùng đủ loại nhân duyên và thí dụ trang nghiêm để sánh ví, dò lường, đều
trọn chẳng phải là cảnh giới ấy. Hễ tư duy nhọc nhằn để cầu [thấu hiểu], chỉ
khiến [kẻ tư duy] phát cuồng. Chỉ riêng người có tín lực kiên cố nương theo
phương tiện bí mật này là có thể nhập mà thôi! “Vô hàm tàng” (Chẳng chứa đựng) nghĩa là khó thể biết rõ, chính
là trong chỗ không chứa đựng như thế, do như thật biết Uẩn A Lại Da vốn bất sanh,
không có gì để chấp thọ, mà cũng chẳng chứa đựng gì. Lúc bấy giờ, hết thảy tâm
ý thức vọng tưởng hý luận thảy đều thanh tịnh, chiếu trọn vẹn pháp giới như vầng
trăng Thu ở trên hư không. Do vậy, câu kế tiếp nói: “Ly nhất thiết vọng tưởng” (Lìa hết thảy vọng tưởng). Bản tiếng
Phạn ghi là “lìa hết thảy hý luận vọng
tưởng”, nay trong bài kệ [do số chữ có hạn], từ ngữ bị giản lược, nhưng
ý nghĩa chẳng khác, cho nên chẳng ghi đủ! Câu kế tiếp nói “hý luận bổn vô cố” (vì hý luận vốn
chẳng có), nếu nói đầy đủ theo bản tiếng Phạn, phải nên nói là “hý luận, vô hý luận cố, dĩ nhất thiết hý luận
giai tất tùng duyên sanh, vô hữu tự tánh” (do hý luận chẳng phải là hý
luận, vì hết thảy các hý luận đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh). Do chẳng có
tự tánh, tức là vốn sẵn bất sanh. Đây là giải thích câu trước, tức là nói “hý luận ấy vốn chẳng có hý luận”. Nay
dùng cách hội ý để nói, bèn bảo là “bổn
vô” (vốn chẳng có).
Kế đó có hai câu nói về
phương tiện rốt ráo của Bồ Đề tâm thanh tịnh ấy: Do vượt ngoài hết thảy vọng nghiệp,
tức là có thể thành tựu trí nghiệp của Như Lai. Phổ môn hướng dẫn lợi ích trọn
khắp, không gì chẳng phải là đại sự nhân duyên. Vì thế, hết thảy việc làm đều
chẳng thể sánh bằng. Cho nên nói “nhất
thiết nghiệp vô tỷ” (hết thảy các nghiệp đều chẳng sánh bằng). Tiếp đó
là diễn giải câu trước, luận định chung đại cương của Quyền và Thật; do đó nói:
“Thường y ư Nhị Đế” (Thường
nương vào Nhị Đế), tức là do vậy mà luận nói: “Chư Phật thuyết pháp thường nương vào Nhị Đế”. Nhưng điều được đề cao trong kinh
này là các loại phương tiện thuộc các chi phần đều tùy thuận Thế Đế; do nhân
duyên ấy mà đắc trí ấn Nhất Thiết Trí, tức là Chân Đế. Vì thế, dùng Thế Đế làm
nhân, Chân Đế làm quả, nhân như bốn vị (sữa, lạc, sanh tô, thục tô) thảy đều là
vô thường, quả như đề hồ tức là thường. Nhưng dùng mười câu duyên sanh để quán,
Thật Tướng của Thế Đế chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vì thế, tướng của Quyền và Thật
đều chẳng thể nghĩ bàn. Hai câu kinh văn này tuy giản lược, nhưng có thể khiến
cho hành giả trong hết thảy các phương tiện của Như Lai sẽ chẳng còn ngờ vực nữa.
Vì thế, hãy nên “xúc loại nhi trưởng”[51],
khiến cho văn nghĩa của toàn bộ bản kinh đều được [thấu hiểu] xuyên suốt như thế.
Đã khai thị đại lược đại Bồ Đề đạo xong, lại kết khuyến (khuyên lơn để kết lại)
ấn trì, cho nên nói “thừa thù thắng
nguyện, nhữ đương trụ tư đạo” (nương vào nguyện thù thắng, ngươi nên trụ
trong đạo này). Đấy cũng là nhắc lại ý nghĩa thọ ký vậy!
(Kinh) Nhĩ thời, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Nguyện thuyết tam thế vô ngại trí giới. Nhược Bồ Tát trụ thử giới giả, linh chư
Phật, Bồ Tát giai hoan hỷ cố”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Trụ Vô Hý Luận Chấp
Kim Cang đẳng ngôn: - Phật tử đế thính! Nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, dĩ
thân, ngữ, ý hợp vi nhất, bất tác nhất thiết chư pháp. Vân hà vi giới? Sở vị
quán sát xả ư tự thân, phụng hiến chư Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố? Nhược xả tự thân,
tắc vi xả bỉ tam sự. Vân hà vi tam? Vị thân, ngữ, ý. Thị cố, tộc tánh tử! Dĩ thọ
thân, ngữ, ý giới, đắc danh Bồ Tát, sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân, ngữ, ý cố, Bồ Tát
Ma Ha Tát ưng như thị học.
(經)爾時,住無戲論執金剛白佛言:世尊!願說三世無礙智戒。若菩薩住此者,令諸佛菩薩皆歡喜故。如是說已,佛告住無戲論執金剛等言:佛子諦聽。若族姓子住是戒者,以身語意合為一,不作一切諸法。云何為戒?所謂觀察捨於自身,奉獻諸佛菩薩。何以故?若捨自身則為捨彼三事。云何為三?謂身、語、意。是故族姓子!以受身語意戒得名菩薩。所以者何?離彼身語意故。菩薩摩訶薩應如是學。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim
Cang bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin hãy nói tam thế vô ngại trí giới. Nếu Bồ
Tát trụ trong giới này, sẽ khiến cho chư Phật, Bồ Tát đều hoan hỷ”. Nói như thế
xong, đức Phật bảo các vị như Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang v.v… rằng: - Phật tử
lắng nghe! Nếu tộc tánh tử trụ trong giới này, do thân, ngữ, ý hợp thành một, sẽ
chẳng làm hết thảy các pháp. Thế nào là giới? Chính là quán sát, xả tự thân,
dâng hiến chư Phật, Bồ Tát. Vì sao vậy? Nếu bỏ tự thân, tức là bỏ ba sự. Những
gì là ba? Tức là thân, ngữ, ý. Vì thế, tộc tánh tử! Do thọ thân, ngữ, ý giới,
mà được gọi là Bồ Tát. Vì lẽ nào vậy? Do lìa thân, ngữ, ý. Bồ Tát Ma Ha Tát hãy
nên học như thế).
Phần kinh văn trước đó chỉ
nhắc tới “thọ Tam Thế Vô Chướng Ngại
Giới”, chưa nói rõ tướng ấy. Vì thế, ngài Trụ Vô Hý Luận Kim Cang bèn thừa
dịp nêu lời hỏi. Lại nữa, đức Thế Tôn chờ [có người hỏi] rồi mới nói, cũng là
vì quyến thuộc trong pháp môn mà nêu rõ. Nay tịnh giới ấy chính vì lấy trí ấn
Trụ Vô Hý Luận Kim Cang làm Thể; do vậy, [đức Phật] đặc biệt nói với vị tôn
thánh này (ngài Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang), vì muốn cho nhân và pháp tương ứng,
hòng gởi gắm lưu truyền. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại nói: “Giới tướng này cũng là câu gia trì. Nếu khi truyền trao, trước hết hãy
nên tụng trì bản tiếng Phạn; sau đấy mới dùng ngôn ngữ địa phương để giải thích
thì càng tốt lành hơn”. Nay chép đầy đủ [nguyên âm tiếng Phạn] như sau:
Thất rị nô (lắng nghe), củ
la bổ đát-ra (tộc tánh tử), đát
thảm mạt lan (giới ấy), duệ
đát-ra (nếu), củ la bổ đát-ra
(tộc tánh tử), ca da phạ ngập-mãng na
sa (thân, ngữ, ý), mế yết
đát-ra nễ cật-sái bố na ram bà (kết hợp thành một). A cật-rị tà (chẳng làm), tát ra-ma đạt ma xá (hết thảy các
pháp), ca đá ma giả bà (gọi là
như thế nào), dã a đát mãng bà phạ
(quán tự thân), bát rị đát-dã ngung (xả
để hiến dâng), bột đà bồ đề tát đá-phệ
tệ (các vị Phật, Bồ Tát), trớ yết
sa-ma đệ đổ (vì sao vậy), rị dữu
hệ a đát-ma bà vãm (nếu
tự thân), bát rị để-dã nhã để
(xả thí), đế na phạ tát-đổ đát-rị diên
(ba vật ấy), bát rị để-dã yết-đan bà
phạ để (bỏ làm), yết đá mãng thất-giả
phạ-đát tốt đổ đát-ra diên (thế nào là ba vật), dã nỗ đá ca tà phạ ngập
mãng na y để (thân, ngữ, ý), đát
tát man trớ rị-hệ (vì thế), câu
la bổ đát-ra (thiện nam tử), ca
tà phạ ngập mãng na tam phạ ra tam vật-lật đế na (thọ thân ngữ ý giới), bồ đề tát đát-phệ na (Bồ Tát), bà vĩ đát vật-diễm (sẽ đạt được), đát yết sa-ma đệ đổ (vì lẽ nào), lật-nẵng ca tà phạ ngập mãng na san bát rị để-dã
nhĩ-dã (bỏ lìa thân, ngữ, ý ấy), thích
xoa cật-ra ha xá (hãy nên học), củ
mạn (chẳng lạnh), để (làm),
Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa y để”
(Bồ Tát Ma Ha Tát, Y Để là câu để đệm).
Câu thứ nhất là nói “Phật tử đế thính” (Phật tử hãy lắng
nghe). Củ La (Kula) trong tiếng Phạn có nghĩa là “tộc”, hoặc “bộ”, Bổ Đát La
(Putra) có nghĩa là “nam tử” (con trai). Nếu giải thích theo Thế Đế, thì sanh
trong bốn chủng tánh đều gọi là Đại Tộc; vì thế gọi là Tộc Tánh Tử. Nay được
sanh trong nhà Như Lai, thù thắng nhất trong các gia tộc. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Hãy nên hiểu ý, dịch là Phật tử
vì chú trọng nơi ý nghĩa”.
Kinh dạy “nhược tộc tánh tử trụ thị giới giả, đương
dĩ thân ngữ ý hợp nhi vi nhất” (nếu tộc tánh tử trụ trong giới này, hãy
nên đem thân, ngữ, ý hợp thành một). Giới này tiếng Phạn gọi là Tam Phạ La (Saṁvara), có nghĩa là “cộng duyên, cùng
thành tựu giới này”. Đó gọi là huệ, phương tiện v.v… hợp thành. Như Thi
La (Śīla) chỉ có nghĩa là “thanh
tịnh”. Hơn nữa, Tam Phạ La có nghĩa là “bình đẳng”. Đức Phật bảo kết hợp thân, ngữ, ý thành một, tức là
trụ trong pháp môn Tam Bình Đẳng (thân, ngữ, ý bình đẳng); cho nên được gọi là
Tam Thế Vô Chướng Ngại Giới. Như đức Phật đã vì các Thanh Văn nói đại lược giáo
giới, tức là nói ba nghiệp đạo thanh tịnh ấy chính là đạo của bậc đại tiên
nhân. Từ mười hai năm sau, Ngài hơi diễn nói ý nghĩa, tạo thành các thứ luật
nghi. Nay phần lược giảng ý nghĩa của giới trong trì minh (trì chân ngôn) cũng
giống như thế. Nếu phương tiện nơi ba nghiệp của hành nhân thảy đều thật sự thuận
theo Tam Bình Đẳng Xứ (thân ngữ ý bình đẳng), hãy nên biết đấy chính là trọn đủ
luật nghi của hết thảy chư Phật. Lại còn xé rách lưới tưởng, đó là ý nghĩa của
Tam Phạ La. Ý nói: Lưới các hý luận và kiến giải, do sợi ngang và sợi dọc hợp
thành, trùng lặp, chồng chéo, nên gọi là Lưới. Nay hành giả quán thân nghiệp và
khẩu nghiệp chẳng có một cái Thể riêng biệt, cuối cùng đều quy vào gốc thì chỉ
là một cái tâm, nhưng Thật Tướng của cái tâm ấy luôn là pháp giới bình đẳng. Vì
thế, khi trụ trong giới ấy, các thứ thân, khẩu, ý nghiệp đều có cùng một tướng,
vô lượng lưới kiến chấp thảy đều trừ sạch. Do vậy được gọi là “Trụ Vô Hý Luận kim cang ấn”.
Kinh nói: “Bất tác nhất thiết chư pháp” (Chẳng
làm hết thảy các pháp): Các thứ Ngũ Ấm nương vào phiền não, phiền não nương vào
nghiệp. Các thứ nghiệp ấy đều do thân, miệng, ý sanh ra. Như xét theo thân, miệng,
ý, mà chia thành mười loại nghiệp đạo thiện ác. Xét theo đầu mối của chúng, đều
là vô lượng vô biên. Do vậy, hễ tu hành ba nghiệp thì đều có hạnh để tiến nhập.
Kẻ chẳng tiến nhập tức là do suy tưởng điên đảo. Do suy tưởng điên đảo, nên có
vô lượng tướng sanh. Vì thế, bị các tướng gây trở ngại, chẳng đạt được vô ngại
trí của Phật. Nay hành giả quán sâu xa mười câu duyên sanh, biết rõ ba nghiệp rốt
ráo chẳng sanh, pháp tánh vốn tự thường hằng, chẳng có động tác. Đó gọi là “trụ vô vi giới”. Tịnh giới như thế
còn chẳng phải do Như Lai thực hiện,
huống hồ trụ vào giới này mà tạo tác các pháp ư?
Kinh dạy: “Vân hà
vi giới? Sở vị quán sát, xả ư tự thân, phụng hiến chư Phật, Bồ Tát. Hà dĩ cố?
Nhược xả tự thân, tắc vi xả bỉ tam sự! Hà đẳng vi tam? Vị thân, ngữ, ý”
(Thế nào là giới? Tức là quán sát, xả tự thân để dâng hiến chư Phật, Bồ Tát. Vì
sao vậy? Nếu bỏ thân mình, sẽ có thể bỏ ba sự. Những gì là ba? Tức là thân, ngữ,
ý). Kế đó, nói về phương tiện trọn đủ huệ để trì vô tác giới. Hành giả quán
trong Thật Tế của thân thì thân chẳng thể được. Đó chính là sự giải thoát của
Như Lai. Vì thế, bỏ sạch thân này, thí cho hết thảy các Như Lai. Từ đấy trở đi,
động tác, hành vi, hễ thực hiện điều gì, đều là sự giải thoát của Như Lai, chẳng
vì thân mình. Tuy đủ loại vạn hạnh hừng hực, trang nghiêm cõi Phật, thành thục
chúng sanh, nhưng pháp tánh vốn sẵn như thế, chẳng phải là tạo tác. Người có thể
dâng hiến, tu tập như thế, thì gọi là “vô
biên phước tụ”, gọi là “vô tận
phước hà” (sông phước vô tận). Hễ tạo thiện căn chừng bằng mảy giọt,
gieo vào biển pháp giới, sẽ có thể cứu vớt chúng sanh giới cũng chẳng cạn kiệt.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong bản tiếng Phạn, có bài kệ rằng: - Nếu có người giải thoát, trì
pháp giải thoát này, cúng dường bậc giải thoát, phước ấy thù thắng nhất”. Nếu hành nhân Chân Ngôn chẳng hiểu tịnh giới như thế, dẫu miệng tụng chân ngôn, thân trì mật ấn, tâm trụ
trong Bổn Tôn tam-muội, tu trọn đủ các nghi thức cúng dường chư tôn theo thứ tự,
vẫn gọi là “tạo tác các pháp, chẳng
lìa lưới nhân ngã”, sao có thể gọi là Bồ Đề Tát Đỏa cho được? Vì thế, tiếp
đó kinh nói: “Thị cố, tộc tánh tử! Dĩ
thọ thân ngữ ý giới, đắc danh Bồ Tát. Sở dĩ giả hà? Ly bỉ thân ngữ ý cố. Bồ Tát
Ma Ha Tát ưng như thị học” (Vì thế, tộc tánh tử! Do thọ thân, ngữ, ý giới
mà được gọi là Bồ Tát. Vì cớ sao vậy? Do lìa thân, ngữ, ý. Bồ Tát Ma Ha Tát hãy
nên học như thế). “Ưng học” ở
đây, được dịch theo lối cũ là Thức Xoa Ca La Ni (Śikṣākāraṇī), giống như thiên thứ năm trong Giới, thâu nhiếp chung các kiền-độ[52]
oai nghi hành pháp trong Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng). Người học Đại Thừa cũng giống
như thế, hãy nên trì giới phương tiện này, nhập trọn khắp hết thảy các hạnh
chân ngôn. Nếu giới có thiếu khuyết mà được thành Bồ Tát hạnh, chẳng có lẽ ấy!
(Kinh) Thứ ư minh nhật, dĩ Kim Cang Tát Đỏa gia trì tự thân, vị Thế Tôn
Tỳ Lô Giá Na tác lễ. Ưng thủ tịnh bình, thịnh mãn hương thủy, trì tụng Hàng Tam
Thế chân ngôn, nhi dụng gia chi, trí sơ môn ngoại, dụng sái thị chư nhân đẳng.
Bỉ A-xà-lê dĩ tịnh hương thủy, thọ dữ linh ẩm, bỉ tâm thanh tịnh cố.
(經)次於明日,以金剛薩埵加持自身,為世尊毘盧遮那作禮,應取淨瓶盛滿香水,持誦降三世真言而用加之。置初門外,用灑是諸人等。彼阿闍梨以淨香水授與令飲,彼心清淨故。
(Kinh: Kế đó, vào ngày hôm sau, dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì
tự thân, vì Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na mà làm lễ. Hãy nên lấy cái bình sạch, đựng đầy
nước thơm, trì tụng chân ngôn Hàng Tam Thế, dùng để gia trì, đặt ở ngoài cửa tầng
ngoài cùng [của đàn tràng], dùng rưới lên những người ấy. Vị A-xà-lê dùng nước
thơm thanh tịnh trao cho họ bảo uống, nhằm [khiến cho] tâm họ thanh tịnh).
Kinh dạy: “Thứ ư minh nhật, dĩ Kim Cang Tát Đỏa gia
trì tự thân, vị Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tác lễ” (Kế đó, vào ngày hôm sau,
dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì bản thân, đảnh lễ Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na Phật),
tức là nói ngày hôm sau thọ giới, chính là chiều ngày thứ bảy. Khi thực hiện
các sự việc để tạo tác Mạn-đồ-la, đều nên dùng Kim Cang Tát Đỏa để gia trì tự
thân, tức là quán thân mình chính là Chấp Kim Cang. Phương tiện trong ấy, sẽ
như kinh văn trong phần sau và Thứ Tự Cúng Dường sẽ nói. Nếu là bậc A-xà-lê kiến
đế, sẽ trụ trong tâm Kim Cang Tát Đỏa; đó gọi là “vô đẳng đẳng Bồ Đề tâm”. Do được bí mật gia trì như thế, các việc
làm đều chẳng thể phá hoại. Kế đó, hãy như trước mà vận tâm, lễ bái Đại Nhật
Như Lai. Sau đấy mới trì tụng chân ngôn Hàng Tam Thế để gia trì tịnh bình[53].
Đấy cũng là chân ngôn Thành Biện Chư Sự. Trước hết, hãy nên đúng như pháp, lấy
cái bình sạch sẽ, múc nước thanh khiết [từ giếng hay suối thanh tịnh], đúng như
pháp chắt lọc. Trong bình đựng, bỏ vào đó năm thứ báu, ngũ cốc, lại lấy các thứ
nước thơm, các thứ hoa quả đẹp đẽ cắm vào đó, trang nghiêm đủ mọi lẽ, dùng vải
lụa sạch sẽ buộc cổ bình, đều nên dựa theo Thứ Tự Cúng Dường để gạt trừ cấu
nhơ, tịnh hóa bằng chữ Pháp Giới Tâm (Raṃ) rồi mới gia trì. Nói chung, số lượt tụng chân ngôn chẳng có hạn lượng nhất
định, hãy nên dùng chữ để tính như trong kinh Tô Tất Địa[54]
đã nói.
Lại nữa, ở trong ấy, hễ thực
hiện Mạn-đồ-la của tam bộ (Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ), đối với mỗi bộ,
đều dùng Bộ Tâm (tâm chú trong một bộ) hoặc Bộ Mẫu[55]
chân ngôn để gia trì. Nay trong kinh này, thông dụng dùng Biện Sự Chân Ngôn để
gia trì. Chân ngôn ấy lại có rộng và lược. Vì thế, chẳng luận định cặn kẽ số lượt,
hãy nên suy nghĩ cân nhắc. Nếu chú quá lớn (quá nhiều chữ) thì tụng tới một
trăm lượt, kém hơn thì năm trăm lượt, ít chữ thì tụng tới một ngàn lượt. Đã gia
trì xong, hãy nên đặt [bình chứa nước sạch ấy] ở ngoài cửa của bạch đàn như đã
hoạch định trước đó. Người muốn vào Mạn-đồ-la, hãy nên dùng nước này rẩy lên,
khiến cho túc chướng của người đó trừ sạch thì mới được thấy Mạn-đồ-la.
Lại từ trong một bình chứa
khác, pha chế nước thơm, dùng các thứ hương tốt đẹp như uất kim, long não,
chiên đàn v.v… [để pha trộn], trao cho [đệ tử] bảo họ uống một chút. Đó gọi là
Kim Cang Thủy. Do được bí mật gia trì, thậm chí trọng chướng địa ngục thảy đều
trừ diệt, trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, kham làm pháp khí. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Đây gọi là thệ thủy,
cũng là thuận theo Thế Đế, giống như cách giao ước lập thệ, khiến cho hành nhân
đối trước các vị tôn thánh, uống nước thơm ấy, tự thệ nơi tâm, sao cho chẳng
thoái thất đại Bồ Đề nguyện”. Lại dùng vô ngại giới hương hòa hợp với
tâm thủy trong sạch nơi môn chữ Phạ (व, Va), ai được uống vào, hoặc tiếp xúc, đều nhất định thành
Vô Thượng Bồ Đề. Thanh tịnh cái tâm như thế, tức là kham nhập Bí Mật Mạn-đồ-la.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn Phật: - Chủng Trí
thuyết trung tôn, nguyện thuyết bỉ thời phần. Đại chúng ư hà thời, phổ tập hiện
linh thụy, Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần trì chân ngôn?
(經)爾時,執金剛祕密主以偈問佛:種智說中尊,願說彼時分。大眾於何時,普集現靈瑞,漫荼羅闍梨,慇懃持真言?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật: “Đấng thuyết pháp bậc
nhất, bậc Nhất Thiết Chủng Trí, xin hãy nói thời phần, đại chúng vào lúc nào,
cùng nhóm hiện điềm lành. Mạn-đồ-la xà-lê, ân cần trì chân ngôn?”)
Từ “nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dĩ kệ vấn
Phật” (lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ dùng kệ hỏi đức Phật) trở
đi, nói về chi phần “tạo lập Mạn-đồ-la”.
Trong kệ tụng, trước hết là tán thán Phật: Kính mong đấng Nhất Thiết Trí, bậc
nhất trong các vị thuyết pháp, sẽ nói về thời phần của pháp môn này. “Thời phần” tức là thời gian hạn lượng
từ lúc mới vẽ Mạn-đồ-la cho đến khi xong việc. Kế đó nói “đại chúng ư hà thời, phổ tập hiện linh thụy”
(đại chúng vào lúc nào, sẽ nhóm họp trọn khắp, hiện điềm lành linh diệu), tức
là hết thảy các thân phổ môn [của các vị tôn thánh] theo từng loại trong Đại Bi
Thai Tạng khi nào sẽ nhóm họp trọn khắp, hiện tiền trong đạo tràng, dùng thần lực
gia trì, thị hiện oai thần ứng nghiệm. Nếu đệ tử các căn thanh tịnh, nhạy bén,
căn cơ đáng được độ sâu xa, sẽ có thể là từ ngay trong thân này, đích thân
trông thấy vô biên thánh chúng, chẳng khác gì người tham dự hội Linh Sơn cùng
thấy [đức Phật] ba lượt biến ra cõi tịnh để dung nạp phân thân chư Phật. Hãy
nên biết khi đó, tức là lúc Mạn-đồ-la A-xà-lê truyền trì lời chân thành, chắc
thật, thực hiện Như Lai sự. Vì thế nói: “Ân
cần trì chân ngôn”.
(Kinh)
Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, cáo Trì Kim Cang Huệ: - Thường đương ư thử dạ, nhi tác
mạn-đồ-la, truyền pháp A-xà-lê, như thị ưng thứ thủ, ngũ sắc Tu-đa-la, khể thủ
nhất thiết Phật, Đại Tỳ Lô Giá Na, thân tự tác gia trì. Đông phương dĩ vi thủ,
đối trì Tu-đa-la, chí tề nhi tại không, tiệm thứ hữu toàn chuyển. Như thị Nam cập
Tây, chung cánh ư Bắc phương. Đệ nhị an lập giới, diệc tùng sơ phương khởi, ức
niệm chư Như Lai. Sở hành như thượng thuyết, hữu phương cập hậu phương, phục
châu ư thắng phương. A-xà-lê thứ hồi, y ư Niết-rị-để, thọ học đối trì giả, tiệm
thứ dĩ Nam hành. Tùng thử hữu toàn nhiễu, chuyển y ư Phong phương. Sư vị di bổn
xứ, nhi cư ư Hỏa phương. Trì chân ngôn hành giả, phục tu như thị pháp. Đệ tử tại
Tây Nam, sư cư Y-xá-ni. Học giả phục toàn nhiễu, chuyển y ư Hỏa phương. Sư vị
di bổn xứ, nhi trụ ư Phong phương.
(經)爾時,薄伽梵,告持金剛慧:常當於此夜,而作漫荼羅。傳法阿闍梨,如是應次取,五色修多羅,稽首一切佛。大毘盧遮那,親自作加持,東方以為首,對持修多羅,至齊而在空,漸次右旋轉,如是南及西,終竟於北方。第二安立界,亦從初方起,憶念諸如來,所行如上說,右方及後方,復周於勝方。阿闍梨次迴,依於涅哩底,受學對持者,漸次以南行,從此右旋遶,轉依於風方,師位移本處,而居於火方。持真言行者,復修如是法,弟子在西南,師居伊舍尼,學者復旋遶,轉依於火方,師位移本處,而住於風方。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm bảo Trì Kim Cang Huệ: - Thường
nên trong đêm này, tạo lập Mạn-đồ-la. A-xà-lê truyền pháp, kế đó hãy nên lấy,
chỉ ngũ sắc như thế. Đảnh lễ hết thảy Phật, Đại Tỳ Lô Giá Na, đích thân làm gia
trì. Khởi đầu từ phương Đông, đối diện tay cầm chỉ, ngang rốn tại hư không,
xoay dần theo chiều phải, từ Nam cho đến Tây, rốt cuộc tới phương Bắc. An lập
giới thứ hai, cũng từ phương đầu khởi (từ phương Đông mà bắt đầu), nghĩ nhớ các
Như Lai, đi đúng như nói trên, phương phải và phương sau, hết một vòng về Bắc.
Kế đó, thầy trở về, ở nơi Niết-rị-để (phương Tây Nam). Người học đối diện cầm
(tức cầm chỉ ngũ sắc đã được gia trì), lần lượt sang phương Nam. Từ đó, vòng
chiều phải, chuyển sang ở phương Phong (phương Tây Bắc). Thầy bèn dời khỏi chỗ,
đến ở nơi Hỏa phương (phương Đông Nam). Hành giả trì chân ngôn, lại tu pháp như
vậy. Đệ tử ở Tây Nam, thầy ở Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Người học lại nhiễu
quanh, chuyển sang trụ phương Hỏa (Đông Nam). Thầy lại dời khỏi chỗ, sang trụ
nơi phương Phong).
[Ngài Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ] nói bài kệ ấy xong, lúc đó, đức Thế Tôn bảo Trì Kim Cang Huệ rằng: “Thường đương ư thử dạ, nhi tác Mạn-đồ-la”
(Thường ngay trong đêm ấy, mà tạo Mạn-đồ-la), tức là trong đêm thứ bảy, khiến
cho pháp sự đều hoàn tất. Trong ngày hôm ấy, [khoảng thời gian] sau khi mặt trời
lặn cho đến khi tướng sáng xuất hiện (tức rạng đông ngày hôm sau) được gọi
chung là “đêm”. Khi bắt đầu vào
đêm (lúc mặt trời lặn), liền vẽ vời, xếp đặt tọa vị của các vị tôn thánh, sắp đặt
các vật cúng dường. Khi tướng sáng [của ngày hôm sau] chưa xuất hiện, bèn tống
tiễn [chư thánh] xong xuôi. Nếu trái nghịch pháp tắc này, sẽ sanh ra chướng ngại,
cho tới khiến cho chỗ nương vào để trụ cũng chẳng cát tường.
Nhưng nếu giải thích theo
cách bí mật, sâu xa, thì chính là coi cơ hội tốt lành cho đạo cơ là “thời”, hoặc dùng phương tiện gia
trì, rút gọn trăm kiếp thành một đêm, hoặc kéo dài một đêm thành trăm kiếp. Dài
hay ngắn do duyên, chẳng có thời hạn nhất định! Nếu là thiển hạnh A-xà-lê, sẽ cần
phải hoàn toàn tuân theo pháp tắc, trong lúc ban ngày sẽ tính toán, vẽ phần đường
ranh [của Mạn-đồ-la], dùng các thứ thảo mộc như bạch đàn v.v… để ấn định phương
vị của hình tượng chư tôn thánh. Từ ban ngày cho tới lúc tối, sắp sẵn hương,
hoa, đèn, đuốc v.v… đều phải chuẩn bị đầy đủ. Kinh Cù Hê nói: “Ư Mạn-đồ-la Bắc diện nhất xứ, dĩ bạch sắc
quy hoạch Biện Sự Chân Ngôn tịch trừ chư nạn, trí chư cúng cụ dã” (Ở một
chỗ tại mặt Bắc của Mạn-đồ-la, dùng màu trắng để ấn định chỗ vẽ chân ngôn biện
sự nhằm đoạn trừ các nạn, đặt các vật cúng dường). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu chẳng thể trong một đêm vẽ khắp hình tượng
của các tôn giả, hãy từ ngày thứ năm, sau khi thọ trì địa, bèn lần lượt làm,
theo lý thì chẳng trở ngại gì”. Lại còn có ba loại phương tiện vẽ hình ấn
và chữ chủng tử của chư tôn như kinh văn
trong
phần sau sẽ nói.
Kinh nói “truyền pháp A-xà-lê” đã biết thời phần,
tức là hiểu rõ nghi quỹ tạo lập. Tới lúc mặt trời lặn, A-xà-lê cùng các đệ tử
phụ giúp đúng như pháp tắm gội xong, mặc áo mới sạch, dấy tâm đại bi, cầm các vật
cúng đến chỗ Mạn-đồ-la. Trước hết, hãy nên mỗi mỗi đều gia trì đúng pháp trọn đủ
như trong phần Thứ Tự Cúng Dường đã nói. Kế đó, hãy nên đúng như pháp hộ trì bản
thân. Gọi đệ tử được độ đến, thầy tác pháp thủ hộ cho họ, dùng nước thơm rảy
lên, bảo họ đều theo thứ tự mà ngồi tại một nơi. Sau đấy, A-xà-lê tới trước cửa
đạo tràng, vận tâm trọn khắp, dập đầu đảnh lễ mười phương hết thảy chư Phật
cũng như trong phần trên đã nói. Sau đấy, cầm dây ngũ sắc, đứng hướng về phương
vị của Mạn-đồ-la mà đặt lên đỉnh đầu. Kế đó, quán thân mình là Tỳ Lô Giá Na,
kinh gọi chuyện này là “Đại Tỳ Lô Giá
Na nhi tự tác gia trì” (dùng Tỳ Lô Giá Na để tự gia trì). Vì cớ sao vậy?
Do Đại Nhật Như Lai chính là A-xà-lê của Đại Bi Thai Tạng này. Vì vậy, nếu lúc
hành giả làm chuyện của A-xà-lê, liền phải nên tưởng tự thân là Tỳ Lô Giá Na. Nếu
lúc làm các việc dựa theo Mạn-đồ-la, bèn quán tự thân là Kim Cang Tát Đỏa.
Phương tiện gia trì này sẽ được nói trong pháp Cúng Dường thuộc phần sau.
Lại nữa, hành giả hãy nên
biết tám vị trí thủ hộ thuộc các phương. Phàm tạo tác Mạn-đồ-la đều thuận theo các
vị trí ấy mà di chuyển. Từ phương Đông Nhân Đà La (Indra, Đế Thích) theo thứ tự
chuyển tới phương Nam Diễm Ma La (Yamarāja, Diêm Vương), phương Tây Phạ Rô Noa (Varuṇa, thủy thần), phương Bắc Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa, Đa Văn thiên vương), Đông Bắc Y Xá Ni (Īśana, tức thần Shiva), Đông Nam là
Hộ Ma (hỏa cúng), Tây Nam là Niết Rị Để (Nirṛti)[56], Tây Bắc là Phạ Dữu (Vāyu, thần gió). Các tôn thánh thuộc phương trên
phần nhiều ở bên phải của Đế Thích. Chư tôn thuộc phương hạ phần nhiều ở bên phải
của Long Tôn. Phương thượng là Không Cư, phương hạ là Địa Cư.
Lại nữa, đối với Trung Đài
Tạng thì ba lớp thành trì[57]
ranh giới đều đã hoạch định sẵn để làm tiêu chí, khiến cho các phương và các
góc cân bằng. Phải ấn định phương vị trọn vẹn để vẽ mạn-đồ-la sao cho vị trí của
Đại Nhật Phật nằm ở ngay giữa năm loại khối báu. Tới lúc vẽ các hình tướng,
A-xà-lê trước hết tới phương Nhân Đà La (phương Đông), đúng như pháp lễ bái. Kế
đó, đứng ở phương Hỏa (phương Đông Nam), hướng về phương Bắc. Các đệ tử phụ tá
thầy thì đứng ở phương Y Xá Ni (phương Đông Bắc). Đối diện nhau, tay cầm
Tu-đa-la (chỉ ngũ sắc như đã nói trong phần trước) để chuẩn định [phương vị của]
ngoại giới. Kế đó, đệ tử xoay theo chiều phải tới vị trí Niết Rị Để (phương Tây
Nam), thầy cũng xoay theo chiều phải hướng về phương Tây, đối diện nhau mà cầm
[chỉ ngũ sắc]. Kế đó, A-xà-lê lại nhiễu theo chiều phải, tới phương vị của Phạ
Dữu (Tây Bắc). Đệ tử cũng nhiễu theo chiều phải trở về phương Bắc đối diện thầy,
cầm chỉ. Đệ tử lại nhiễu theo chiều phải tới phương vị Y Xá Ni (Đông Bắc). Thầy
cũng nhiễu theo chiều phải, trở về phương Đông, cầm chỉ đối diện [với trò]. Hễ
giáp một vòng xong, đều nên căn [sao cho chỉ được căng ấy] ngay ngắn, vuông vắn
trên không trung. Tới vòng thứ hai, cũng chuyển theo chiều phải như trên, theo
thứ tự căng dây để làm đường ranh (tức phân định ranh giới giữa các viện trong
Mạn-đồ-la). Kế đó, chuẩn định đúng bốn góc. A-xà-lê lại nên nhiễu theo chiều phải
tới Niết Rị Để (Tây Nam), còn đệ tử trước tiên ở Y Xá Ni (Đông Bắc), xoay theo
chiều phải, đối diện mà cầm dây. Kế đó, đệ tử lại nhiễu theo chiều phải đến
phương Phạ Dữu (Tây Bắc), thầy liền chuyển theo chiều phải đến phương Hộ Ma
(Đông Nam), đệ tử cũng theo xoay theo chiều phải đối diện mà cầm chỉ ngũ sắc,
sao cho [chỉ được căng] ngang rốn ở trên hư không, để chuẩn định phương vị. Kế
đó, đệ tử lại xoay theo chiều phải đến phương Niết Rị Để, thầy liền chuyển theo
chiều phải đến phương vị Y Xá Ni, đối mặt nhau mà buộc dây. Kế đó, đệ tử lại
nhiễu theo chiều phải tới phương vị Hộ-ma (Đông Nam), thầy liền chuyển theo chiều
phải tới phương Phạ Dữu, đối diện mà buộc dây. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đối với đường chữ thập ở bốn phương, tuy
kinh không nói, nhưng theo lý ắt phải có, cũng cần phải xoay theo chiều phải, đối
diện nhau để buộc”.
(Kinh)
Như thị chân ngôn giả, phổ tác tứ phương tướng, tiệm thứ nhập kỳ trung, tam vị
dĩ phân chi, dĩ biểu tam phận vị, địa tướng phổ châu biến. Phục ư nhất nhất phần,
sai biệt dĩ vi tam. Thị trung, tối sơ phần, tác nghiệp sở hành đạo. Kỳ dư trung
hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ.
(經)如是真言者, 普作四方相,漸次入其中,三位以分之。已表三分位,地相普周遍,復於一一分,差別以為三。是中最初分,作業所行道,其餘中後分,聖天之住 處。
(Kinh:
Người trì chú như thế, tạo trọn tướng bốn phương, dần dần vào chính giữa, chia
mỗi tầng làm ba, biểu thị ba phận vị, tướng đất đều trọn khắp. Ở trong mỗi một
phần, chia ba phần sai khác. Trong ấy, phần thứ nhất, nơi tác nghiệp, tu đạo.
Phần giữa và sau đó, chỗ trụ của thánh, trời).
Ấn định [phương vị của] ngoại
giới (phía ngoài Trung Đài Bát Diệp) và tướng tám phương như thế xong. Kế đó,
vào bên trong, trước hết ấn định ngoại giới của Trung Đài, cũng giống như trên
xoay chuyển để căng dây hòng xác định tướng bốn phương. Ấn định tướng tám
phương xong, sẽ chẳng còn làm nữa. Kế đó, ấn định tầng ngoại giới thứ nhất, rồi
ấn định tầng ngoại giới thứ hai, cũng theo cùng pháp tắc như Trung Đài. Kích
thước rộng hẹp sẽ đều lần lượt bằng một nửa, [nghĩa là]: Giả sử Trung Đài có
kích thước mỗi bề là tám thước, tầng thứ nhất [ở ngoài Trung Đài] sẽ là bốn thước,
tầng thứ hai là hai thước, tầng thứ ba thì rộng một thước. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Bổn pháp là như thế. Nếu
sợ lớn nhỏ cách biệt quá nhiều, có thể cân nhắc sao cho cân bằng, theo lẽ thì
chẳng trở ngại gì”.
Chia như thế xong, lại
trong mỗi tầng, đều chia thành ba phần. Phần ở trong cùng là chỗ đường bao
quanh để đi lại, vì thế nói là “Phật tử
sở hành đạo”. Phần kế tiếp là chỗ đặt các vật cúng dường. Phần ngoài
cùng là chỗ đặt tọa vị của các vị tôn thánh. Vì thế, hai phần đó đều là chỗ của
tôn thánh và chư thiên [cho nên kinh nói: “Kỳ dư trung hậu phần, thánh thiên chi trụ xứ” (Hai phần giữa và
sau còn lại kia, là chỗ trụ của tôn thánh và chư thiên)]. Kế đó, ở phía ngoài lại
làm đường ranh bao quanh trọn khắp. Đối với các tọa vị trống không đó, hãy nên
vận tâm quán sát, thuận theo chư tôn tương ứng với phương diện phần vị mà đều
nên thỉnh vời, cúng dường. Bởi lẽ, khi A-xà-lê gặp chuyện lỡ quên mất, hoặc sai
lầm, có thể là xếp đặt chư tôn [trong Mạn-đồ-la] chẳng toàn vẹn. Đối với các vị
đáng nên thỉnh vời mà không có tọa vị, đều nên vận tâm cúng dường nơi ấy. Cách
chia thành ba phần này [như sau]: Trước hết, ở phía trong của tầng thứ nhất thuộc
ngoại giới (tức phần ngoài của Trung Đài Bát Diệp], chọn lấy chút phần dùng làm
đường ranh giới. Kích thước rộng hay hẹp đều nên cân nhắc để định đoạt, sao cho
hơi thông với các tọa vị. Phía trong ranh giới, hãy nên chia thành ba phần đều
nhau. Hãy nên là trước hết ấn định phần đặt tọa vị của chư tôn xong xuôi. Kế
đó, ấn định ranh giới của phần đặt đồ cúng dường và phần dùng làm đường đi. Tầng
thứ nhất như thế đã xong.
Kế đó, đối với tầng thứ
hai, cũng từ ngoài hướng vào trong mà lần lượt chia [thành ba phần]. Kế đó, đối
với tầng thứ ba, cũng [chia ba phần] giống như phần kinh văn trên đây đã nói.
Quang minh tỏa ra từ rốn của Đại Nhật Như Lai trở xuống là các tọa vị thuộc tầng
thứ ba. Quang minh phát ra từ rốn cho đến yết hầu là tọa vị thuộc tầng thứ hai.
Quang minh phát ra từ yết hầu cho đến đảnh tướng là tọa vị thuộc tầng thứ nhất.
Thai Tạng trong đó chính là hoa sen tám cánh nơi tự tâm của đức Tỳ Lô Giá Na.
Các kim cang đệ tử cùng [giúp thầy] kiến lập Mạn-đồ-la cần phải khéo thông đạt
chân ngôn, pháp yếu, gần bằng với thầy, thì sẽ có thể giúp thầy chẳng sai sót.
Nếu chẳng có người như thế, chỉ chọn lấy người đã từng được quán đảnh đúng
pháp, gặp việc bèn chỉ dạy họ hành trì. Nếu lại chẳng có người như thế thì dùng
cọc [để đánh dấu phương vị]. Trước hết, đóng cọc tại Hỏa phương (phương Đông
Nam), kế đó ở tại phương Y Xá Ni (Đông Bắc) cũng đặt dây chăng, tức là thầy trước
đã ghi nhớ chỗ có cọc ở Hỏa phương là chỗ của thầy. Sau đấy, từ phương Y Xá Ni
kéo dây tới chỗ Niết Rị Để (Tây Nam); những điều khác cứ chuẩn theo cách làm
này mà suy ra. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê lại bảo: “Muốn cùng kéo dây, cần phải chọn đệ tử muốn được quán đảnh. Trước hết,
dùng nước thơm đã gia trì rảy lên họ để cùng làm việc. Đối với các phương vị được
vẽ trong đàn, hãy dùng vật che lại, đừng để cho họ trông thấy”.
(Kinh)
Phương đẳng hữu tứ môn, ưng tri kỳ phận tễ. Thành tâm dĩ ân trọng, vận bố chư
thánh tôn. Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt. Nội tâm diệu bạch
liên, Thai Tạng chánh quân đẳng, tạng trung tạo nhất thiết, Bi Sanh Mạn-đồ-la.
Thập lục ương-cụ-lê, quá thử thị kỳ lượng. Bát diệp chánh viên mãn, tu nhị giai
nghiêm hảo. Kim cang chi trí ấn, biến xuất chư diệp gian.
(經)方等有四門,應知其分劑,誠心以殷重,運布諸聖尊。如是造眾相,均調善分別,內心妙白蓮,胎藏正均等。藏中造一切,悲生漫荼羅,十六央具梨,過此是其量。八葉正圓滿,鬚蘂皆嚴好,金剛之智印,遍出諸葉間。
(Kinh: Vuông vắn có bốn cửa, hãy nên biết ngằn
mé. Thành kính, tâm trân trọng, sắp đặt các tôn thánh. Tạo các tướng như thế, đều
khéo léo phân biệt. Nội tâm diệu bạch liên, thai tạng vừa ngay ngắn. Trong đó,
tạo Nhất Thiết, Bi Sanh Mạn-đồ-la. To mười sáu ngón tay, hơn đó làm hạn lượng.
Tám cánh thật tròn đầy, tua nhụy đều tươi đẹp. Các trí ấn kim cang, hiện khắp
trong các cánh).
“Phương đẳng hữu tứ môn” (Vuông vắn có bốn cửa), tức là mỗi tầng viện đều đặt bốn cửa, sao cho
ngay chính giữa, cân bằng. Cửa mở ra hướng Tây thì thông suốt để ra vào, các cửa
kia dùng dây chăng làm ranh giới chặn ngang. Kinh Cù Hê nói: “Phàm chư phương khai môn, giai tùy bỉ
phương ngung quảng hiệp, chuẩn vi cửu phần. Thủ trung nhất phần vi môn. Kỳ dư
bát phần tắc môn chi tả hữu các đắc tứ phần. Sở xuất nhập môn sảo linh hoát
tác. Tự dư chư môn, dĩ bạch sắc mạt tác họa bế chi” (Trổ cửa ở các
phương đều tùy theo mỗi phương và góc rộng hay hẹp để chuẩn theo đó mà chia
[phương đó] thành chín phần, dùng một phần làm cửa. Tám phần khác đều ở hai bên
cửa, sao mỗi bên đều có bốn phần. Cửa để ra vào làm hơi rộng hơn, các cửa khác
đều dùng bột màu trắng để vẽ đóng lại). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Dùng dây kim cang để chặn ngang ranh giới
xong, ví như kim cang chẳng thể vượt qua. Kẻ vượt qua sẽ phạm tam-muội-da. Hơn
nữa, kinh văn đều nói cửa để thông suốt hướng về phía Tây. Nếu có nhân duyên phải
trổ cửa hướng về phương khác, theo lý cũng chẳng phạm lỗi gì”. Những điều
khác như kinh văn trong phần sau sẽ nói.
“Thành tâm dĩ ân trọng, vận bố chúng thánh tôn” (Thành tâm lòng
trân trọn, sắp xếp các vị tôn thánh): Khi vẽ vời, trước hết trụ trong Du Già,
quán đại chúng hội trong Mạn-đồ-la này, mỗi mỗi hình sắc, tướng mạo, oai nghi,
tánh loại, tọa vị, các ấn, thảy đều hiện tiền rõ ràng trọn đủ. Sau đấy, dùng
cái tâm vô lượng ân cần, cung kính mà vẽ vời, cho đến mức độ lớn, nhỏ, thưa thớt
hay dày đặc, cũng đều cân bằng tương xứng. Vì thế nói: “Như thị tạo chúng tướng, quân điều thiện phân biệt” (Tạo các tướng
như thế, đều khéo điều chỉnh, phân biệt sao cho tương xứng).
“Nội tâm diệu bạch liên”: Đấy là bổn tâm của chúng sanh, là biểu
trưng bí mật của Diệu Pháp Phân-đà-lợi hoa (hoa sen trắng). Đài hoa có tám
cánh, viên mãn, cân bằng như hình thể đang nở tung. Đài hoa sen ấy chính là trí
huệ tự nhiên nơi Thật Tướng. Cánh hoa sen là phương tiện đại bi. Chính là dùng
tạng này để nói về cái Thể của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, ba tầng kia (ba tầng
ngoại giới bao quanh Trung Đài) là công đức tự chứng lưu xuất từ đó, tức các
thiện tri thức nhập pháp giới môn vậy. Bốn cánh sen đối diện với bốn phương
chính là tứ trí của Như Lai, bốn cánh sen ứng với bốn phương bàng là tứ hạnh của
Như Lai. Xét theo đó, hiện thành tám loại thiện tri thức, mỗi vị đều trì kim
cang huệ ấn. Vì thế nói “biến xuất chư
diệp gian” (hiện ra trọn khắp trong các cánh sen). Mười sáu pháp như thế,
mỗi mỗi đều bằng với pháp giới, cho tới chẳng có chút phần nào không bình đẳng.
Vì thế, tướng được biểu thị cũng ngầm phù hợp, lược nhiếp vạn đức của Như Lai thành
các vị tôn thánh trong [đàn tràng Mạn-đồ-la to] mười sáu ngón[58],
mở rộng ra sẽ là vô lượng vô biên. Do vậy, kích thước nhỏ nhất của Mạn-đồ-la bằng
mười sáu ngón, lớn thì vô hạn.
“Tua nhụy” là hết thảy các tam-muội môn, đà-la-ni môn, lục độ,
mười tám món Không v.v… như kinh Đại Bát Nhã đã nói. Từ mỗi tua nhị ấy, do được
thần lực gia trì, sẽ hiện một loại quyến thuộc trang nghiêm trong ba tầng Mạn-đồ-la.
Đấy là pháp bí truyền của Như Lai, chẳng thể dùng văn tự để hình dung được. Do
vậy, gởi gắm vào hình vẽ để chỉ dạy hành nhân. Nếu hiểu được thâm ý, sẽ tự ngầm
biết mà thôi! Từ trong Thật Tướng hoa đài ấy, biểu lộ tướng gia trì của Đại Nhật
Như Lai, ý nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Tám ấn bí mật kia sẽ được
nói trong phẩm sau và đồ hình.
(Kinh) Tùng thử hoa đài trung, Đại Nhật thắng tôn hiện,
kim sắc cụ huy diệu, thủ trì phát kế quan. Cứu thế viên mãn quang, ly nhiệt trụ
tam-muội. Bỉ Đông ưng họa tác, Nhất Thiết Biến Tri Ấn, tam giác liên hoa thượng.
Kỳ sắc giai tiễn bạch, quang diệm biến vi nhiễu, hạo khiết phổ châu biến. Thứ ư
kỳ Bắc duy, đạo sư chư Phật mẫu, hoảng diệu chân kim sắc, cảo tố dĩ vi y, biến
chiếu do nhật quang, Chánh Thọ trụ tam-muội. Phục ư bỉ Nam phương, cứu thế, Phật,
Bồ Tát. Đại đức thánh tôn ấn, hiệu danh Mãn Chúng Nguyện, Chân Đà Ma Ni châu,
trụ ư bạch liên hoa.
(經)從此華臺中,大日勝尊現,金色具暉曜,首持髮髻冠,救世圓滿光,離熱住三昧。彼東應畫作,一切遍知印,三角蓮華上,其色皆鮮白,光焰遍圍遶,皓潔普周遍。次於其北維,導師諸佛母,晃曜真金色,縞素以為衣,遍照猶日光,正受住三昧。復於彼南方,救世佛菩薩,大德聖尊印,號名滿眾願,真陀摩尼珠,住於白蓮華。
(Kinh: Từ trong đài hoa ấy, hiện Đại Nhật
thù thắng, sắc vàng trọn chói ngời, đội mão che búi tóc. Cứu thế quang viên
mãn, ly nhiệt trụ tam-muội. Phía Đông hãy nên vẽ, Nhất Thiết Biến Tri Ấn, hình
tam giác trên sen. Màu sắc đều trắng sạch. Ánh lửa nhiễu trọn quanh, trắng sạch
đều trọn khắp. Kế đó, ở góc Bắc, đạo sư chư Phật mẫu, sắc vàng ròng chói ngời,
dùng lụa trắng làm áo, chiếu khắp như vầng dương, Chánh Thọ trụ tam-muội. Lại ở
phía Nam Phật, cứu thế, Phật, Bồ Tát, đại đức thánh tôn ấn, tên là Mãn Chúng
Nguyện, châu Chân Đà Ma Ni, trụ trên hoa sen trắng).
Kế đó, ở phương Đông của nội viện[59],
ở phía trên của Đại Nhật Như Lai, hãy vẽ Nhất Thiết Biến Tri Ấn, có hình tam
giác, mũi nhọn hướng xuống dưới[60],
được bao quanh bằng quang minh có hình ngọn lửa sắc trắng, đặt trên hoa sen trắng.
Đấy chính là Đại Cần Dũng Ấn của mười phương ba đời hết thảy Như Lai, cũng gọi
là Tâm Ấn của chư Phật. “Tam giác”
có nghĩa là hàng phục, trừ chướng, tức là đức Phật ngồi nơi đạo thụ (cây Bồ Đề),
dùng thế lực to lớn oai mãnh, hàng phục tứ ma, thành Chánh Giác. Trắng tươi là
màu của đại từ bi. Sức phấn tấn đại tinh tấn của Như Lai chính là đại sự nhân
duyên, cho tới phóng đại bi quang thường trọn khắp pháp giới. Vì thế nói là “phổ châu biến” (giáp vòng trọn khắp).
Kế đó, ở phương Bắc của Đại
Cần Dũng, ở góc phía Bắc, đặt Hư Không Nhãn (Gagana-locanī), tức Tỳ Lô Giá Na Phật Mẫu. Oai nghi của Phật Mẫu như trong phẩm Phật Mẫu
của kinh Bát Nhã đã rộng nói. Chân kim (vàng ròng) là cái Thể của Như Như Thật
Tướng. “Tất cánh tịnh cú” (câu
thành tựu rốt ráo) là trang sức bên ngoài trong giáo môn của Ngài. Vì thế nói “cảo tố dĩ vi y” (dùng lụa trắng làm
áo). Khi diệt hết thảy hý luận, quang minh của vầng mặt trời nơi tâm không đâu
chẳng chiếu thấu; cho nên nói: “Biến
chiếu do nhật quang” (Chiếu trọn khắp như ánh sáng mặt trời). Người điềm
tĩnh mới có thể thấy quang minh ấy. Vì thế, điểm đặc trưng của Ngài là có hình
tượng giống như thiên nữ trụ trong Chánh Thọ.
Kế đó, ở phía Nam của Đại Cần
Dũng, cho đến góc phía Nam, vẽ Nhất Thiết Chư Phật Bồ Tát Chân Đà Ma Ni Ấn. Đấy
là do tổng thể của vô biên hạnh nguyện thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh kết thành,
thường có thể mưa trọn khắp hết thảy các của báu thế gian và xuất thế gian. Các
đấng cứu thế đều từ đài sen tánh tịnh hiện ra vật báu như thế. Vì thế nói “trụ ư bạch liên thượng” (trụ trên
hoa sen trắng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Ấn này bao gồm hết thảy các ấn, cũng có thể đặt ở mọi phương. Như chư
Phật, Bồ Tát nếu trong kinh không nói rõ trì ấn tướng nào thì cũng cầm ấn này,
vô giá bảo châu đều đạt được”.
Nói chung, trong tầng thứ
nhất, phương trên [của Trung Đài Bát Diệp] là các đức trang nghiêm nơi thân Phật.
Phương dưới là Trì Minh Sứ Giả của Phật, đều gọi là môn Như Lai Bộ. Bên phải[61]
[của Trung Đài Bát Diệp] là đại bi tam-muội của Như Lai, có thể trưởng dưỡng dồi
dào muôn điều thiện, nên gọi là Liên Hoa Bộ. Bên trái [của Trung Đài Bát Diệp]
là đại huệ lực dụng của Như Lai, có thể phá tan ba chướng, nên gọi là Kim Cang Bộ.
Vì thế, nhập vào môn chữ A, hết thảy các pháp chẳng sanh, đó là ý nghĩa của
Pháp Thân. Nhập môn chữ Sa, hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm, đó là ý nghĩa của
Liên Hoa. Nhập môn chữ Phạ, hết thảy các pháp lìa ngôn thuyết, đó là ý nghĩa của
Kim Cang. Như trong phẩm Tự Luân thuộc phần sau, sẽ dùng ba chữ ấy để thống nhiếp
hết thảy trăm bài minh chú là do ý nghĩa này.
(Kinh) Bắc phương đại tinh tấn, Quán Thế Tự Tại giả,
quang sắc như hạo nguyệt, Thương-khư, Quân-na hoa, vi tiếu, tọa bạch liên. Kế
hiện Vô Lượng Thọ. Bỉ hữu đại danh xưng, thánh giả Đa La Tôn, thanh bạch sắc
tương tạp, trung niên nữ nhân trạng, hiệp chưởng trì thanh liên, viên quang mỵ
bất biến, huy phát do tịnh kim. Vi tiếu, tiễn bạch y. Hữu biên Tỳ Câu Chi, thủ
thùy sổ châu man, tam mục, trì phát kế, tôn hình do hạo tố, viên quang sắc vô
chủ. Hoàng, xích, bạch tương nhập. Thứ cận Tỳ Câu Chi, họa đắc Đại Thế Tôn, bỉ
phục thương-khư sắc, đại bi liên hoa thủ, tư vinh nhi vị phu, vi nhiễu dĩ viên
quang. Minh phi trụ kỳ trắc, hiệu Trì Danh Xưng giả. Nhất thiết diệu anh lạc,
trang nghiêm kim sắc thân, chấp tiễn diệu hoa chi, tả trì bát-dận-ngộ, cận
thánh giả Đa La. Trụ ư Bạch Xứ Tôn, phát quan tập thuần bạch, Bát Đàm Ma hoa thủ.
Ư thánh giả tiền tác, Đại Lực Trì Minh Vương. Thần triêu nhật huy sắc, bạch
liên dĩ nghiêm thân. Hách dịch thành diễm man, hống nộ nha xuất hiện. Lợi trảo,
thú vương phát, Hà Da Yết Lợi Bà. Như thị tam-ma-địa, Quán Âm chư quyến thuộc.
(經)北方大精進,觀世自在者,光色如皓月,商佉軍那華,微笑坐白蓮,髻現無量壽。彼右大名稱,聖者多羅尊,青白色相雜,中年女人狀,合掌持青蓮,圓光靡不遍,暉發猶淨金,微笑鮮白衣。右邊毘俱胝,手垂數珠鬘,三目持髮髻,尊形猶皓素,圓光色無主,黃赤白相入。次近毘俱胝,畫得大勢尊,彼服商佉色,大悲蓮華手,滋榮而未敷,圍遶以圓光。明妃住其側,號持名稱者,一切妙瓔珞,莊嚴金色身,執鮮妙華枝,左持鉢胤遇。近聖者多羅,住於白處尊,髮冠襲純帛,鉢曇摩華手。於聖者前作,大力持明王,晨朝日暉色,白蓮以嚴身,赫奕成焰鬘,吼怒牙出現,利爪獸王髮,何耶揭利婆,如是三摩地,觀音諸眷屬。
(Kinh: Phương Bắc, Đại Tinh Tấn, là Quán Thế Tự
Tại, quang sắc như trăng trong, Thương-khư, hoa Quân-na. Mỉm cười, ngồi sen trắng.
Đỉnh hiện Vô Lượng Thọ. Bên phải, Đại Danh Xưng, là đức thánh Đa La. Màu xanh,
trắng chen lẫn. Tướng nữ nhân trung niên, chắp tay, cầm sen xanh. Viên quang
chiếu trọn khắp, rực rỡ như vàng ròng. Mỉm cười, áo trắng sạch. Bên phải, Tỳ
Câu Chi, tay cầm tràng hạt rủ, ba mắt, tóc kết búi. Hình dạng trắng tinh sạch.
Viên quang không màu chánh, vàng, đỏ, trắng xen lẫn. Gần bên Tỳ Câu Chi, hãy vẽ
Đại Thế Chí. Mặc áo màu thương-khư, tay hoa sen đại bi, tươi tốt, chưa nở xòe.
Viên quang phủ khắp thân. Minh phi ở bên cạnh, hiệu là Trì Danh Xưng. Hết thảy
diệu anh lạc, trang nghiêm thân sắc vàng, cầm cành hoa tươi đẹp. Trái cầm Bát-dận-ngộ.
Gần thánh giả Đa La, là vị Bạch Xứ Tôn. Mão che tóc lụa trắng, tay cầm hoa sen
hồng. Trước thánh giả bèn vẽ, Đại Lực Trì Minh Vương. Màu như ánh nắng sớm, hoa
sen trắng nghiêm thân. Chói ngời như vòng lửa, giận, rống, nhe răng nanh. Vuốt
bén, tóc thú vương, Hà Da Yết Lợi Bà. Tam-ma-địa như thế, các quyến thuộc Quán
Âm).
Kinh dạy: “Đại Nhật hữu phương,
trí đại tinh tấn Quán Thế Tự Tại” (Ở bên phải của đức Đại Nhật, vẽ bậc đại
tinh tấn là Quán Thế Tự Tại); đó chính là Liên Hoa Bộ Chủ[62],
tức là Như Lai rốt ráo quán sát mười câu duyên sanh, được thành tựu Phổ Nhãn
Liên Hoa, nên tên là Quán Tự Tại (Avalokiteśvara). Xét theo Như Lai hạnh, nên gọi là Bồ Tát. “Đảnh hiện Vô Lượng Thọ” (kinh chép là “kế hiện Vô Lượng Thọ” tức là trong búi tóc hiện ra Phật Vô Lượng
Thọ) là nói tới cực quả của cái hạnh ấy, tức là Phổ Môn Phương Tiện Trí của Như
Lai. Ngài có hình tượng giống như thân Bồ Tát, đều hiện dung mạo trụ trong “hiện
pháp lạc”, mỉm cười vui sướng. Thân sắc của ngài Quán Tự Tại như vầng trăng sạch,
hoặc như Thương-khư (Śaṅkha), tức là vỏ ốc thượng diệu. Hoặc như hoa Quân-na (Kunda)[63]. Hoa ấy mọc tại phương Tây, cũng rất trắng ngần. Hãy nên gộp chung cả ba
thí dụ ấy để nói [màu thân của Quán Tự Tại Bồ Tát] sáng ngời, tươi nhuận, trắng
ngần bậc nhất.
Bên phải của Quán Âm, vẽ Đa
La (Tārā) Bồ Tát. Phàm các vị tôn thánh đều hướng mặt về đức Đại Nhật, nay nói “bên phải của Quán Âm”, tức là phía
Tây của tòa. Những vị khác đều phỏng theo lệ này. Đấy là Quán Tự Tại tam-muội;
vì thế, Ngài có hình tượng nữ nhân. Đa La có nghĩa là “mắt”. Hoa sen xanh nghĩa là “thanh tịnh, vô cấu”. Dùng Phổ Nhãn như thế để nhiếp thọ quần
sanh, do chẳng phải thời trước mà cũng chẳng phải thời sau, cho nên vẽ hình
Ngài có hình dạng nữ nhân trung niên, [tức là] hình dạng không quá già, mà cũng
chẳng quá trẻ. Xanh[64]
là màu hàng phục, trắng là màu của đại bi; điểm hay khéo là ở trong hai tác dụng
ấy, nên khiến cho hai sắc hòa hợp. Do bởi nghĩa ấy, [thân Ngài có màu sắc] chẳng
xanh, chẳng trắng. Tượng Ngài được vẽ chắp tay, bàn tay cầm hoa sen xanh, tay
và mặt đều hướng về đức Quán Âm, vẻ mặt như mỉm cười. Viên quang[65]
nơi toàn thân như sắc của chất vàng trong sạch (vàng ròng). Ngài mặc áo trắng,
đầu có búi tóc giống như hình búi tóc của chư thiên, khác với cái mão che búi
tóc của đức Đại Nhật.
Bên trái đức Quán Âm, đặt thánh
giả Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī)[66]. Thân Ngài có bốn tay, một tay bên phải cầm mấy tràng hoa đẹp đẽ rủ xuống[67].
Một tay kết Thí Nguyện Ấn. Một tay bên trái cầm hoa sen, tay kia cầm bình Quân
Trì. Mặt Ngài có ba mắt giống như hình tượng Ma Hê Thủ La (Maheśvara, Đại Tự Tại
Thiên). Đầu đội mão bịt tóc, giống như mão che búi tóc của đức Tỳ
Lô Giá Na. Nói “trì” thì như
nói “đất duy trì vạn vật”, tức là ý nghĩa “chuyên chở” vậy. Thân Ngài trắng sạch, viên quang vây quanh.
Trong quang minh có ba màu vàng, đỏ, trắng, chẳng phải là thuần trắng, thuần đỏ,
hay thuần vàng. Vì thế nói là “vô chủ”
(không có màu chủ yếu). Màu vàng là màu Tăng Ích, trắng là màu Tịch Tai (Tức
Tai), đỏ là màu Hàng Phục. Do trong quang minh tam-muội này kiêm đủ ba lực. Vì
thế, dùng điều đó để biểu trưng.
Kế đó, gần bên trái của Tỳ
Câu Chi, vẽ Đại Thế Tôn (Mahāsthāmaprāpta, Đại Thế Chí Bồ Tát), như oai thế tự
tại của quốc vương và đại thần trong thế gian thì được gọi là Đại Thế. Ý nói: Vị
thánh giả này đã đạt được địa vị đại bi tự tại như vậy. Do đó, dùng điều này
làm tên. Bởi đó, Ngài cầm hoa sen chưa nở, như hoa đài Thật Trí của đức Tỳ Lô
Giá Na đã kết thành quả, Ngài lại cầm chủng tử như thế rải trọn khắp vào tâm thủy
của hết thảy chúng sanh, nên sanh ra hoa sen chưa nở. Vị tôn thánh này cũng hiện
dấu tích giống như thế, cũng có thể thủ hộ trọn khắp điều thiện tiềm tàng của
chúng sanh, khiến cho chúng chẳng bị tổn hoại, mà thường tăng trưởng trong mỗi
niệm. Ngài chính là Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ.
Kế đó, bên trái của Minh
Vương[68]
(Đại Thế Chí), vẽ minh phi Da Thâu Đà La (Yaśodhāra), dịch nghĩa là Trì Danh Xưng. Thân Ngài màu vàng ròng, dùng các thứ anh lạc
để trang hoàng tột bậc đoan nghiêm, có hình dáng như thiên nữ. Tay phải cầm
cành diệu hoa trắng ngần, quả lá xen kẽ, cành nhánh tươi tốt. Hoa ấy hoặc vừa
chớm búp, hoặc sắp nở, hoặc đang nở xòe, hoặc năm, hoặc mười bông, cho đến mấy
chục bông. Tay trái cầm Bát-dận-ngộ (Priyaṅgu), cũng là một loại hoa thù thắng ở
phương Tây. Do Đắc Đại Thế Minh Vương chủ trì an lập chủng tử Bồ Đề cho hết thảy
chúng sanh, mà minh phi thì chủ trì hàm tàng xuất sanh các loại công đức ấy. Vì
thế, y phục và biểu tượng của Ngài tương ứng với ý nghĩa ấy.
Bên phải của đức Đa La, đặt
Bán Noa La Phạ Tất Ninh (Pāṇḍaravāsinī), dịch nghĩa là Bạch Xứ, do vị tôn
thánh này thường ngự trên hoa sen trắng, nên đặt tên như thế. Ngài cũng đội mão
che búi tóc cõi trời, mặc áo trắng tinh, tay trái cầm hoa sen nở xòe. Từ chỗ trắng
sạch nhất ấy, sanh ra Phổ Nhãn; do vậy, tam-muội tên là Liên Hoa Bộ Mẫu.
Kế đó, phía dưới Quán Tự Tại
Bồ Tát, đặt Hà Da Yết Rị Bà (Hayagrīva)[69], dịch là Mã Đầu. Vị này thân chẳng vàng, chẳng đỏ, như lúc mặt trời mới mọc.
Dùng hoa sen trắng để làm chuỗi ngọc trang nghiêm thân thể. Quang minh chói rực
oai mãnh, sáng ngời như tràng hoa. Móng tay dài bén, hai nanh chĩa ngược lên. Đầu
tóc như bờm sư tử (do vậy, kinh nói “thú
vương phát” tức tóc giống như lông của vua các loài thú), hiện hình trạng
hét to vì phẫn nộ tột bậc. Đây là Phẫn Nộ Trì Minh Vương của Liên Hoa Bộ, giống
như ngựa báu của Chuyển Luân Vương tuần tra khắp bốn châu, trong hết thảy thời,
tới hết thảy các chốn, tâm chẳng ngưng nghỉ. Sức đại tinh tấn của các vị Bồ Tát
cũng giống như thế. Do đạt được thế lực oai mãnh như thế, ở trong trọng chướng
sanh tử, chẳng đoái hoài thân mạng, dùng nhiều cách dẹp tan. Chính vì tâm đại
bi trắng sạch, cho nên dùng hoa sen trắng làm chuỗi ngọc để trang nghiêm thân
thể. Đã đúng như pháp kiến lập quyến thuộc của Quán Âm xong.
(Kinh) Phục thứ, hoa đài biểu, Đại Nhật chi hữu phương, năng mãn nhất
thiết nguyện, Trì Kim Cang Huệ giả. Bát-dựng-ngộ hoa sắc, hoặc phục như lục bảo,
thủ đới chúng bảo quan, anh lạc trang nghiêm thân, gián thác hỗ nghiêm sức, quảng
đa số vô lượng, tả chấp Bạt-chiết-la, châu hoàn khởi quang diễm. Kim Cang Tạng
chi hữu, sở vị Mang Mãng Kê, diệc trì kiên huệ chử, nghiêm thân dĩ anh lạc. Bỉ
hữu thứ ưng trí, Đại Lực Kim Cang Châm. Sứ giả chúng vi nhiễu, vi tiếu đồng
chiêm ngưỡng. Thánh giả chi tả phương, Kim Cang Thương Yết La, chấp trì kim
cang tỏa, tự bộ chư sứ câu. Kỳ thân thiển hoàng sắc, trí chử vi tiêu xí. Ư Chấp
Kim Cang hạ, Phẫn Nộ Hàng Tam Thế, tồi phục đại chướng giả, hiệu danh Nguyệt Yểm
Tôn. Tam mục, tứ nha hiện. Hạ thời vũ vân sắc, A Trá Trá tiếu thanh, kim cang bảo
anh lạc. Nhiếp hộ chúng sanh cố, vô lượng chúng vi nhiễu, nãi chí bách thiên thủ,
thao trì chúng khí giới. Như thị Phẫn Nộ đẳng, giai trụ liên hoa trung. Thứ
vãng Tây phương họa, vô lượng Trì Kim Cang, chủng chủng kim cang ấn, hình sắc
các sai biệt. Phổ phóng viên mãn quang, vị chư chúng sanh cố. Chân Ngôn Chủ chi
hạ, y Niết Rị Để phương, Bất Động Như Lai sứ, trì huệ đao, quyến sách. Đảnh
phát thùy tả kiên, nhất mục nhi đế quán. Oai nộ thân mãnh diễm, an trụ tại bàn
thạch. Diện môn thủy ba tướng, sung mãn đồng tử hình. Như thị cụ huệ giả, thứ
ưng vãng Phong phương, phục họa Phẫn Nộ tôn, sở vị Thắng Tam Thế, oai mãnh diễm
vi nhiễu. Bảo quan, trì kim cang, bất cố tự thân mạng, chuyên thỉnh nhi thọ
giáo. Dĩ thuyết sơ giới vực, chư tôn phương vị đẳng.
(經)復次,華臺表,大日之右方,能滿一切願 ,持金
剛慧者,鉢孕遇華色,或復如綠寶,首戴眾寶冠,瓔珞莊嚴身,間錯互嚴飾, 廣多數無量,左執跋折羅,周環起光焰。金剛藏之右,所謂忙莽雞,亦持堅慧杵,嚴身以瓔珞。彼右次應置,大力金剛針,使者眾圍遶,微笑同瞻仰。聖者之左方,金剛商羯羅,執持金剛鎖,自部諸使俱,其身淺黃色,智杵為幖幟。於執金剛下,忿怒降三世,摧伏大障者,號名月黶尊,三目四牙現,夏時雨雲色,阿吒吒笑聲,金剛寶瓔珞,攝護眾生故,無量眾圍遶,乃至百千手,操持眾器械。如是忿怒等,皆住蓮華中。次往西方畫,無量持金剛,種種金剛印,形色各差別,普放圓滿光,為諸眾生故。真言主之下,依涅哩底方,不動如來使,持慧刀羂索,頂髮垂左肩,一目而諦觀,威怒身猛焰,安住在盤石,面門水波相,充滿童子形。如是具慧者,次應往風方。復畫忿怒尊,所謂勝三世,威猛焰圍遶,寶冠持金剛,不顧自身命,專請而受教。已說初界域,諸尊方位 等。
(Kinh: Kế đó, ngoài đài hoa, bên phải của Đại
Nhật, hay mãn hết thảy nguyện, là Trì Kim Cang Huệ, sắc hoa Bát-dựng-ngộ. Hoặc
lại như lục bảo. Đầu đội mão các báu, anh lạc trang nghiêm thân, xen kẽ để
trang hoàng, rộng nhiều số vô lượng. Tay trái: Chày kim cang, ánh lửa bốc quanh
thân. Bên phải Kim Cang Tạng, chính là Mang Mãng Kê, cũng cầm chày kiên huệ,
dùng anh lạc nghiêm thân. Kế đó, bên phải đặt, Đại Lực Kim Cang Châm. Các sứ giả
vây quanh, mỉm cười, cùng chiêm ngưỡng. Bên phải của thánh giả, Kim Cang Thương
Khiết La, cầm nắm xiềng kim cang, và sứ giả tự bộ[70].
Thân Ngài sắc vàng nhạt, đặc trưng: Chày trí huệ. Phía dưới Chấp Kim Cang, Phẫn
Nộ Hàng Tam Thế, bậc dẹp tan chướng lớn, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn. Ba mắt, bốn
nanh lộ. Màu như mây mưa hạ, tiếng cười A Trá Trá[71],
kim cang anh lạc báu. Do nhiếp hộ chúng sanh, vô lượng chúng vây quanh, cho đến
trăm ngàn tay, vung nắm các khí giới. Các Phẫn Nộ như thế, đều trụ trong hoa
sen. Kế đó, phương Tây vẽ, vô lượng Trì Kim Cang, các loại kim cang ấn, hình sắc
đều sai biệt, phóng trọn viên mãn quang, do vì các chúng sanh. Ở dưới Chân Ngôn
Chủ, nơi phương Niết Rị Để, Bất Động Như Lai sứ, cầm đao huệ, dây trói, tóc rủ
xuống vai trái. Một mắt quan sát kỹ. Thân oai nộ rực lửa, an trụ trên tảng đá.
Mặt có vết sóng nhăn. Thân bé trai đậm chắc. Bậc huệ trọn như thế. Kế đó, sang
phương Phong, lại vẽ đức Phẫn Nộ, tức là Thắng Tam Thế, lửa oai mãnh vây quanh.
Mão báu, cầm kim cang. Chẳng đoái thân mạng mình, chuyên thỉnh cầu, thọ giáo.
Đã nói giới vực đầu, phương vị chư tôn thánh).
Kế đó, bên trái của Đại Nhật Như Lai, an trí Kim Cang Bộ Minh Vương, tức
là vị Chấp Kim Cang có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện. Ngài có màu như hoa
Bát-dận-ngộ, tức là màu vàng nhạt. Hoặc như lục bảo, tức là Lục Mạt Yết Bảo, giống
như hiển sắc[72]
của hư không. Do sắc của pháp giới thanh tịnh và kim cang trí thể hòa hợp. Do vậy,
thân Ngài màu trắng pha sắc vàng. Trí thân như thế ví như hư không chẳng thể
phá hoại, hết thảy chẳng thể hàng phục Ngài. Vì thế, dùng hiển sắc của hư không
để làm biểu trưng. Điều này có nghĩa là nếu pháp có chút phần dẫu nhỏ như cực
vi để có thể đạt được, sẽ là vô thường, thay đổi, tùy thuộc các hành. Do vậy,
trí Tất Cánh Không là tánh kiên cố bậc nhất. Mật ấn[73]
mà Ngài cầm chính là chày kim cang năm nhánh. Ngũ trí Như Lai đều kiêm hai tác
dụng Quyền và Thật, nhưng dùng tay kim cang huệ để chấp trì. Vì thế kinh nói “[tay] trái cầm bạt-chiết-la (vajra, chày
kim cang)”. Ấn ấy nên dùng tràng hoa bằng quang minh để vây quanh trọn
khắp. Vì thế nói là “châu hoàn khởi
quang diễm” (ánh sáng như ngọn lửa cháy rực vây quanh). Đầu Ngài đội mão
báu có ba chóp, hình dạng như chữ Sơn (山). Giữa các chóp, có hình dáng như
vầng trăng non ngửa lên, dùng các nhiều loại chất báu vi diệu để làm hết thảy
các thứ anh lạc hòng trang nghiêm thân thể. Điều này có nghĩa là: Bát Nhã Ba La
Mật đạt tới cái tâm nơi quả địa, đổi danh xưng thành Nhất Thiết Chủng Trí. Vì
thế, đầu Ngài đội mão bằng các thứ báu. Dùng diệu huệ ấy để trải qua hết thảy
các pháp, tự tại xoay chuyển, sanh ra vô lượng pháp giới trang nghiêm. Vì thế
nói là “gián thác hỗ nghiêm sức” (xen
kẽ để trang hoàng lẫn nhau). “Quảng
đa” có nghĩa là số đến vô lượng.
Kế đó, bên phải Kim Cang Bộ
Chủ, đặt Mang Mãng Kê (Māmakī)[74]. Đó là Kim Cang Bộ Mẫu, cũng cầm chày kim cang trí, dùng các thứ anh lạc
để trang nghiêm thân. Đây là Xuất Sanh Kim Cang Trí Lực tam-muội, được gọi là
Kim Cang tam-muội.
Kế đó, bên phải Bộ Mẫu, đặt
Đại Lực Kim Cang Châm (Mahābala Vajrasūcī), [Bạt Chiết La] Tố Chi (Vajrasūcī) được dịch là Kim Cang Châm, cầm bạt-chiết-la một nhánh để làm biểu tượng.
Bạt-chiết-la ấy chính là trí huệ nhất tướng, nhất duyên, cứng chắc, sắc bén,
dùng nó để quán triệt các pháp, không gì chẳng thông suốt, nên gọi là Kim Cang
Châm. Phía dưới vị này có hai sứ giả đều mang hình dáng nữ nhân, hồ quỳ, mỉm cười,
ngước mắt chiêm ngưỡng. Hình dạng của họ nhỏ [hơn Đại Lực Kim Cang Châm], nhưng
tròn đầy, sắc vàng nhạt, dùng kim cang làm vật biểu tượng, tức là tam-muội phá
nát các trọng chướng.
Kế đó, ở bên trái của Chấp
Kim Cang, đặt Kim Cang Thương Yết La (Vajra-śṛṅkhala), dịch nghĩa
là Kim Cang Tỏa (金剛鏁, dây xích kim cang). Ấn của vị
này là cầm dây xích, hai đầu xích đều làm thành hình bạt-chiết-la. Phía dưới
Kim Cang Tỏa cũng có hai nữ sứ giả, chẳng khác sứ giả của ngài Kim Cang Châm.
Dùng trí ấn này để nhiếp trì hết thảy chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, khiến
cho họ chẳng thoái chuyển Vô Thượng Bồ Đề, cho nên Ngài có tên như vậy.
Kế đó, ở phía dưới Chấp Kim
Cang, đặt Phẫn Nộ Trì Minh hàng phục hết thảy các kẻ gây chướng nạn to lớn
trong ba đời, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn (Candratilaka)[75].
Mặt Ngài có ba mắt, bốn răng nanh chìa ra, [thân có màu] như sắc mây lúc trời đổ
mưa trong mùa Hè, hiện vẻ cười to, dùng chất báu kim cang làm anh lạc. Vị Trì
Kim Cang này dùng vô lượng môn tam-muội có thế lực to lớn, oai mãnh để nhiếp thủ,
hộ trì chúng sanh, cũng có vô lượng quyến thuộc tự vây quanh, thảy đều [vẽ
thành hình dáng] nhỏ bé, mà mập mạp. Ngài hiện hình dạng phẫn nộ, cho đến một
thân mà có trăm ngàn tay, cầm nắm các thứ khí giới, đứng thẳng oai nghiêm. Nếu
chẳng thể vẽ hết, hãy nên vẽ một, hai sứ giả cho đến năm, sáu người, đều nên [vẽ
họ] đứng trên hoa sen. Ý nói trong tâm liên hoa này đã vốn sẵn thành tựu hết thảy
các sức đại tinh tấn dũng kiện, chẳng từ nơi khác tới. Kiến lập các quyến thuộc
của Kim Cang Tát Đỏa đã xong.
Kế đó, ở phương Tây[76],
vẽ Trì Minh Sứ Giả và các vị Chấp Kim Cang, có các thứ hình sắc, tánh loại, các
thứ mật ấn để làm vật biểu trưng, đều dựa vào đồ hình mà vẽ. Đại huệ quang minh
của mỗi vị tôn thánh ấy thảy đều trọn khắp pháp giới, hiện ra thân, khẩu, ý mật
cũng trọn khắp pháp giới. Vì thế nói là “phổ
phóng viên mãn quang, vị chư chúng sanh cố” (tỏa trọn khắp quang minh
viên mãn, vì các chúng sanh vậy).
Phía dưới tôn vị này, nơi
phương Niết Rị Để (Tây Nam), vẽ Bất Động (Acala) Minh Vương là sứ giả của Như
Lai, có hình dạng đồng tử (bé trai), bên phải cầm đại huệ đao ấn, bên trái cầm
dây trói. Đỉnh đầu có sa kế[77],
tóc rủ xuống bên vai trái, hơi nhắm mắt trái. Răng thuộc hàm dưới nghiến lên
góc phải của môi trên, bên trái của môi dưới hơi đưa ra ngoài. Trán có vết nhăn
giống như sóng nước, ngồi trên tảng đá. Thân Ngài thấp bé, nhưng đầy đặn, mập mạp,
hiện tư thế phẫn nộ, hình dạng giận dữ cùng cực. Đó là hình tướng biểu trưng
cho mật ấn của Ngài. Nơi hoa đài của đức Đại Nhật, vị này thành Phật đã lâu. Do
tam-muội-da bổn thệ nguyện, mà thị hiện mới vừa phát đại tâm, có hình dạng các
tướng chưa trọn vẹn, làm người hầu để thực hiện các sự vụ cho Như Lai. Vì thế, Ngài
cầm đao bén và dây trói, vâng theo mạng lệnh phẫn nộ của Như Lai, tận lực muốn
sát hại [các phiền não và nghiệp chướng của] hết thảy chúng sanh. Quyến sách (羂索: Dây trói) chính là phương tiện Tứ Nhiếp trong Bồ Đề tâm. Dùng
đó để bắt trói kẻ chẳng hàng phục, dùng đao bén trí huệ để đoạn trừ mạng sống của
nghiệp thọ vô cùng, khiến đạt được Đại Không Sanh. Nếu chủng tử của nghiệp thọ
đã trừ, ắt gió ngôn ngữ hý luận cũng đều diệt mất, dứt bặt. Vì thế, Ngài ngậm
kín miệng. Ý nghĩa của việc “dùng một mắt để nhìn” là “Như Lai dùng mắt bình đẳng xem hết thảy chúng sanh không gì chẳng thể
khoan dung”. Do vậy, phàm các sự nghiệp tạo tác của vị tôn thánh này chỉ
vì một sự nhân duyên ấy. Ngài trấn áp tảng đá trọng chướng, khiến cho nó chẳng
còn động, thành tựu núi chúa Diệu Cao Bồ Đề tâm thanh tịnh. Vì thế nói: “An trụ tại bàn thạch” (Ở yên trên tảng
đá).
Lại ở góc Tây Bắc ở phía dưới,
họa hình đức Tam Thế Phẫn Nộ Trì Minh Vương, đầu đội mão báu, trì chày Kim Cang
năm nhánh làm ấn, chiêm ngưỡng đức Tỳ Lô Giá Na, dáng vẻ như thỉnh cầu [đức Phật]
truyền trao mệnh lệnh. Kệ nói “bất cố
tự thân mạng” (chẳng đoái hoài thân mạng của chính mình), tức là nói hãy
vẽ hình dạng Ngài cực phẫn nộ, dáng vẻ như liều mình chẳng tiếc mạng, nghĩa là
muốn nhiếp triệu pháp giới chúng sanh, khiến cho họ đều tùy thuận oai mạng (mạng
lệnh oai nghiêm) của đấng pháp vương. Đây cũng là [vị Bồ Tát nói ra] chân ngôn
Thành Biện Chư Sự. Do được sức đại tự tại của Ngũ Như Lai Trí gột rửa, dẹp tan,
mà thảy đều đạt tới quả địa trang nghiêm, chẳng phải chỉ là không chướng ngại,
riêng chứng Thiên Không mà thôi! Vì thế, Ngài cầm ngũ cổ ấn (chày kim cang năm
nhánh), đầu đội mão báu, trụ trong phong luân, tức là có ý nghĩa như kinh Pháp
Hoa đã nói: “Chư hữu sở tác, giai vị
khai Phật tri kiến, sử đắc thanh tịnh” (Các việc làm đều nhằm khai tri
kiến của Phật, khiến cho được thanh tịnh). An lập chư tôn thượng thủ trong tầng
thứ nhất của Mạn-đồ-la đã xong.
(Kinh) Trì Chân Ngôn hành nhân, thứ vãng đệ nhị viện.
Đông phương sơ môn trung, họa Thích Ca Mâu Ni, vi nhiễu tử kim sắc, cụ tam thập
nhị tướng, bị phục ca-sa y, tọa bạch liên hoa đài. Vị linh giáo lưu bố, trụ bỉ
nhi thuyết pháp. Thứ ư Thế Tôn hữu, hiển thị Biến Tri Nhãn, hy di tướng vi tiếu,
biến thể viên tịnh quang, hỷ kiến vô tỷ thân. Thị danh Năng Tịch Mẫu. Phục ư bỉ
tôn hữu, đồ tả hào tướng minh, trụ Bát Đầu Ma hoa, viên chiếu thương-khư sắc,
chấp trì như ý bảo, mãn túc chúng hy nguyện, huy quang đại tinh tấn. Cứu Thế
Thích Sư Tử, thánh tôn chi tả phương, Như Lai chi ngũ đảnh. Tối sơ danh Bạch
Tán, Thắng Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa Tụ, cập dữ Xả Trừ Đảnh. Đại
ngã chi Thích chủng, ưng đương y thị xứ, tinh tâm tạo chúng tướng. Thứ ư kỳ Bắc
phương, bố liệt Tịnh Cư chúng, Tự Tại dữ Phổ Hoa, Quang Man cập Ý Sanh, Danh
Xưng Viễn Văn đẳng, các như kỳ thứ đệ. Ư hào tướng chi hữu, phục họa tam Phật Đảnh.
Sơ danh Quảng Đại Đảnh, thứ danh Cực Quảng Đại, cập Vô Biên Âm Thanh, giai ưng
thiện an lập. Ngũ chủng Như Lai Đảnh, bạch hoàng chân kim sắc. Phục thứ tam Phật
Đảnh, bạch hoàng xích kiêm bị. Kỳ quang phổ thâm quảng, chúng anh lạc trang
nghiêm. Sở phát hoằng thệ lực, nhất thiết nguyện giai mãn. Hành giả ư Đông
ngung, nhi tác Hỏa Tiên tượng, trụ ư xí diễm trung, tam điểm hôi vi tiêu, thân
sắc giai thâm xích, tâm trí tam giác ấn, nhi tại viên diễm trung, trì châu cập
tháo bình. Hữu phương Diễm Ma vương, thủ bỉnh Đàn Noa ấn, thủy ngưu dĩ vi tòa,
chấn lôi huyền vân sắc, thất mẫu tịnh Hắc Dạ, hậu phi đẳng vi nhiễu.
(經)持真言行人,次往第二院,東方初門中,畫釋迦牟尼,圍遶紫金色,具三十二相,被服袈裟衣,坐白蓮華臺,為令教流布, 住彼而說法。次於世尊右,顯示遍知眼,熙怡相微笑,遍體圓淨光,喜見無比身,是名能寂母。復於彼尊右,圖寫毫相明,住鉢頭摩華,圓照商佉色,執持如意寶,滿足眾希願,暉光大精進,救世釋師子。聖尊之左方,如來之五頂,最初名白傘,勝頂最勝頂,眾德火光聚,及與捨除頂,是名五大頂,大我之釋種,應當依是處,精心造眾相。次於其北方,布列淨居眾,自在與普華,光鬘及意生,名稱遠聞等,各如其次弟。於毫相之右,復畫三佛頂,初名廣大頂,次名極廣大,及無邊音聲,皆應善安立。五種如來頂,白黃真金色,復次三佛頂,白黃赤兼備,其光普深廣,眾瓔珞莊嚴,所發弘誓力,一切願皆滿。行者於東隅,而作火仙像,住於熾焰中,三點灰為標,身色皆深赤,心置三角印,而在圓焰中,持珠及澡瓶。右方閻摩王,手秉壇拏印,水牛以為座 ,震電玄雲色,
七母并黑夜,妃后等圍繞。
(Kinh: Hành nhân trì Chân Ngôn, kế sang viện thứ
hai. Ở cửa đầu phương Đông, vẽ Thích Ca Mâu Ni, sắc vàng tía vây quanh, trọn đủ
băm hai tướng, thân mặc y ca-sa, ngồi trên đài sen trắng. Vì lưu truyền giáo
pháp, trụ nơi đó thuyết pháp. Ở bên phải Thế Tôn, hiển thị Biến Tri Nhãn, tướng
vui sướng, mỉm cười. Khắp thân, quang tròn sạch, vui thấy thân khôn sánh. Đó là
Năng Tịch Mẫu. Lại bên phải vị ấy, vẽ hình Hào Tướng Minh, trụ trên hoa sen hồng,
sắc thương-khư chiếu trọn. Cầm nắm báu như ý, trọn thỏa các mong nguyện, chói
ngời, đại tinh tấn. Cứu Thế Thích Sư Tử, bên trái của đức thánh, có năm đảnh
Như Lai, thứ nhất tên Bạch Tán, Thắng Đảnh, Tôn Thắng Đảnh, Chúng Đức Quang Hỏa
Tụ, cùng với Xả Trừ Đảnh. Đó gọi Ngũ Đại Đảnh. Đại ngã thuộc họ Thích, hãy nên
nương vào đó, tâm chuyên ròng tạo tướng. Kế đó, ở phương Bắc, xếp đặt chúng Tịnh
Cư: Tự Tại và Phổ Hoa, Quang Man cùng Ý Sanh, Danh Xưng Viễn Văn thảy, mỗi vị
theo thứ tự. Ở bên phải hào tướng, lại vẽ ba Phật Đảnh. Trước là Quảng Đại Đảnh.
Kế đó, Cực Quảng Đại, và Vô Biên Âm Thanh, đều nên khéo an lập. Năm loại Như
Lai Đảnh, trắng, vàng, sắc vàng ròng. Lại nữa, ba Phật Đảnh, trắng, vàng, đỏ đều
trọn. Quang ấy sâu rộng khắp, các anh lạc trang nghiêm. Do sức phát hoằng thệ,
hết thảy nguyện đều thỏa. Hành giả ở góc Đông, lại vẽ hình Hỏa Tiên, ở trong ngọn
lửa rực, ba chấm tro tiêu biểu, thân sắc đều đỏ rực, ngực có ấn tam giác. Ở
trong vòng lửa nung, cầm châu và tháo bình. Bên phải vua Diễm Ma, tay cầm gậy đầu
lâu, dùng trâu nước làm tòa, rền sấm, sắc mây đen. Thất Mẫu và Hắc Dạ, các hậu
phi vây quanh).
Kế đó, tới viện thứ hai, vẽ
Thích Ca Mâu Ni. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Trong ấy, tầng thứ hai là ẩn mật ngữ. Nếu từ trong hướng ra ngoài, hãy
nên đặt quyến thuộc của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc viện thứ ba”[78].
Nay coi pháp môn quyến thuộc của đức Tỳ Lô Giá Na[79]
là thứ nhất, quyến thuộc nơi sanh thân của Phật Thích Ca Mâu Ni thuộc thứ ba.
Các vị Bồ Tát thượng cầu hạ hóa trong bi trí, cho nên thuộc tầng thứ hai (tức
các vị Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ và Kim Cang Bộ). Sở dĩ nói tương hỗ như vậy, vì
đây là mật tạng của Như Lai, phải ngăn ngừa kẻ mạn pháp chẳng do thầy dạy mà sửa
đổi kinh văn lung tung. Do đó, cần phải khẩu truyền trao dạy.
Ở cửa thứ nhất thuộc phương
Đông, trước hết, vẽ Thích Ca Mâu Ni, thân chân kim sắc, và ba mươi hai tướng rạng
rỡ. Ngài mặc y ca-sa có màu Càn Đà[80],
ngồi trên hoa sen trắng, hiện tướng thuyết pháp, tức là dùng tay trái nắm góc y
ca-sa, giống như tượng A Dục Vương hiện thời. Các ngón trong tay phải giơ thẳng
lên, hai ngón Không và Thủy (ngón cái và ngón áp út)[81]
chạm đầu nhau; đó là biểu trưng. Hoa sen trắng ấy chính là Trung Đài tịnh pháp
giới tạng. Thế Tôn vì muốn cho giáo pháp này được lưu truyền rộng, nên dùng
sanh thân làm hình tướng biểu trưng để diễn nói, nhưng với thân bổn pháp giới sẽ
chẳng hai, chẳng khác. Vì thế nói: “Trụ
bỉ nhi thuyết pháp” (Trụ trong đó thuyết pháp).
Kế đó, ở phía Bắc của đức
Thế Tôn, đặt Phật Nhãn, cũng là Thích Ca Mâu Ni Phật Mẫu, phương này dịch là
Năng Tịch Mẫu (Śākyamuṇi-Mātṛ). Hãy nên vẽ Ngài có thân đoan nghiêm khôn sánh mà thế gian thích thấy, khắp
thân đều có viên quang, [dáng vẻ] vui sướng, mỉm cười. Đấy là xuất sanh tùy loại
sanh hình tam-muội (tam-muội có thể xuất sanh các hình tướng giống như từng loại
chúng sanh) của Như Lai. Tam-muội ấy lấy Đại Từ Phổ Nhãn làm Thể, quán sát
chúng sanh đáng độ mà hướng dẫn, tạo lợi ích cho họ. Quang minh của Từ Nhãn
không đâu chẳng trọn khắp, nên nói là “biến
thể viên tịnh quang” (khắp thân là quang minh viên mãn, thanh tịnh).
Kế đó, ở phía Bắc của Phật
Mẫu, vẽ Như Lai Bạch Hào Tướng Ấn, trụ trong hoa sen, có màu như thương-khư,
thân có viên quang, tay cầm hoa sen có hình dạng vừa nở một nửa; trong đó có
Như Ý Bảo Châu. Đấy là do vô biên phước nghiệp của Như Lai hợp thành, như kinh
Quán Phật Tam Muội v.v… đã rộng nói, có thể mãn nguyện cho hết thảy chúng sanh.
Kế đó, ở phía Nam của Thích
Ca Sư Tử, vẽ Như Lai Ngũ Đảnh:
- Thứ nhất là Bạch Tán Cái
Phật Đảnh[82]
(Sitātapatroṣṇīṣa).
- Thứ hai là Thệ Da (Jayoṣṇīṣa), dịch là Thắng Đảnh.
- Thứ ba là Vi Thệ Da (Vijayoṣṇīṣa), đây là dùng nhiều âm để gọi, dịch nghĩa là Tối Thắng Đảnh.
- Thứ tư là Đế Thù La Thí (Tejorāśi-uṣṇīṣa), dịch là Hỏa Tụ Đảnh. Kinh ghi là Chúng Đức, tức là chỉ dịch ý nghĩa
chánh yếu, phải nên hiểu nghĩa là “có
oai đức to lớn”.
- Thứ năm là Vi Cát La Noa
(Vikiraṇoṣṇīṣa), dịch là Xả Trừ Đảnh, có nghĩa là vứt bỏ hết thảy phiền não, cũng có
nghĩa là “đập tan”.
Đấy là năm trí đảnh của
Thích Ca Như Lai, trong hết thảy các công đức, giống như Luân Vương trọn đủ thế
lực to lớn. Các vị ấy đều được vẽ giống như hình dạng Chuyển Luân Thánh Vương,
tức là đỉnh đầu có nhục kế, trên ấy lại có búi tóc, tức là búi tóc trùng lặp.
Các tướng mạo khác đều như Bồ Tát, sao cho cực đoan nghiêm, hoan hỷ. Mật ấn do
các vị ấy cầm giống như trong đồ hình. Kế đó, ở phương Đông, gần rìa phía Bắc
nhất, đặt năm vị Tịnh Cư thiên chúng:
- Thứ nhất là Tự Tại Thiên
Tử (Īśvara).
- Thứ hai là Phổ Hoa Thiên Tử
(Samantapuṣpaka).
- Thứ ba là Quang Man Thiên
Tử (Prabhamālaka).
- Thứ tư là Ý Sanh Thiên Tử
(Manojava).
- Thứ năm là Danh Xưng Viễn
Văn Thiên Tử (Prakirtita-viśrūta).
Hãy nên xếp theo thứ tự. Ấn
tướng của họ đã được nói đầy đủ trong đồ hình. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đấy là Ngũ A Hàm thiên tử. Qua khỏi đó là
chỗ của Bồ Tát thọ chức vị Phật, cũng gọi là Tịnh Cư Thiên, phần đông là Nhất
Sanh Bổ Xứ Bồ Tát, thuộc vào viện thứ hai, chẳng thuộc vào điều đang được nói ở
đây”.
Kế đó, phía Nam của các vị
trời ấy, ở bên phải của Hào Tướng, lại vẽ ba vị Phật Đảnh: Thứ nhất tên là Quảng
Đại Phật Đảnh (Mahodgat-oṣṇīṣa), thứ hai là Cực Quảng Đại Phật Đảnh
(Abhyudgatoṣṇīṣa), thứ ba là Vô Biên Âm Thanh Phật Đảnh (Anantasvaraghoṣa-uṣṇīṣa), hình tướng đều giống như Ngũ Đảnh, tức là các đảnh thuộc về các đức của
Như Lai trong ba bộ. Năm loại Như Lai Đảnh gồm năm loại màu, tức là màu chân
kim, màu uất kim, màu vàng nhạt, màu cực trắng, màu trắng nhạt. Trong ấy, hai
màu chân kim và uất kim tương tự, nhưng chân kim thì tươi sáng, màu uất kim tối
hơn. Ba vị Phật Đảnh có ba màu, tức là trắng, vàng, đỏ, tức là kiêm trọn các
màu Tịch Tai, Tăng Ích và Hàng Phục. Tám vị ấy đều là quanh thân có quang minh,
quang minh tột bậc rộng dày. Dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm thân thể, do
bổn thệ nguyện của Như Lai, thảy đều có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện.
Bên phải góc Đông Nam, đặt
các vị Hỏa Thiên (Agni-ṛṣī), trụ trong vầng lửa, trán và hai tay đều có ba vạch tro, tức là như
Bà-la-môn dùng ba ngón tay bốc tro xoa lên thân thể. Hết thảy đều có sắc đỏ đậm,
giữa ngực có ấn tam giác được vòng lửa bao quanh. Tay trái cầm tràng hạt, tay
phải cầm tháo bình (tức bình Quân Trì để đựng nước dùng khi rửa ráy). Đấy là một
thân Phổ Môn, nhằm dẫn dắt, nhiếp thọ các Vi Đà phạm chí thờ lửa mà phương tiện
khai thị pháp Vi Đà của Phật. Vì thế, chỉ bày biểu trưng của Đại Huệ Hỏa Đàn Tịnh
Tu Phạm Hạnh này.
Kế đó, ở bên phải của
phương Nam, đối diện thẳng với đức Đại Nhật, vẽ hình pháp vương Diễm Ma, tay cầm
Đàn Noa (Daṇḍa) ấn. Ấn tướng có hình dạng giống như cái gậy, trên đó có hình đầu người
dáng vẻ cực phẫn nộ. Vua dùng thủy ngưu làm tòa, thân có màu đen tuyền. [Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi nhỏ, ta do bệnh
nặng, thần thức mê muội, đi đến minh ty (cõi âm), thấy vị pháp vương này và hậu
phi cùng trò chuyện, hình dạng hết sức từ bi, nhẫn nại. Nhưng ấn Đàn Noa ấy
dùng hình dạng phẫn nộ để kiểm giảo những tội đã phạm trong khi [phạm nhân] còn
sống, miệng phóng quang minh lớn tột bậc nghiêm khắc, và kiểm nghiệm công nghiệp
sau khi xuất gia. Sau đó, lặng im chẳng nói gì nữa. Vua Diễm Ma và hoàng hậu lập
tức xuống khỏi bệ, dùng lời lẽ tốt lành khen ngợi, ân cần hết sức tôn kính, cầu
thọ quy giới. Do vậy, bèn thả ta trở về. Tới khi tỉnh lại, chỗ buộc dây trói ở
hai tay hãy còn có vết trầy trụa, mười tháng mới lành”.
Ở phía Tây của vua Diễm Ma
vẽ Diễm Ma Hậu và Tử Hậu, đó cũng là vợ của Diễm Ma. Phía Đông vẽ Hắc Dạ Thần (Kālarātrī)[83]
và bảy Ma Đát Lý (Mātṛka), dịch nghĩa là Thất Mẫu[84],
đều là nữ quỷ. Hình dạng họ đều có màu đen.
(Kinh) Niết Rị Để quỷ vương, chấp đao khủng bố hình. Phạ Rô Noa long
vương, quyến sách dĩ vi ấn. Sơ phương Thích thiên vương, an trụ Diệu Cao sơn, bảo
quan, bị anh lạc, trì bạt-chiết-la ấn, cập dư chư quyến thuộc, huệ giả thiện
phân bố. Tả trí Nhật Thiên chúng, tại ư dư lộ trung, Thắng, Vô Thắng phi đẳng,
dực tùng nhi thị vệ. Đại Phạm tại kỳ hữu, tứ diện trì phát quan. Án tự tướng vi
ấn. Chấp liên, tại nga thượng. Tây phương chư địa thần, Biện Tài cập Tỳ Nữu, Tắc
Kiến Na, Phong Thần. Thương Yết La, Nguyệt Thiên. Thị đẳng y long phương, họa
chi vật di mậu. Trì chân ngôn hành giả, dĩ bất mê hoặc tâm. Phật tử thứ ưng
tác, Trì Minh Đại Phẫn Nộ, hữu hiệu Vô Năng Thắng, tả Vô Năng Thắng Phi. Trì Địa
Thần phụng bình, kiền kính nhi trường quỵ, cập nhị đại long vương, Nan Đà, Bạt
Nan Đà, đối xử sương khúc trung, thông môn chi đại hộ. Sở dư Thích chủng tôn,
chân ngôn dữ ấn đàn, sở thuyết nhất thiết pháp, sư ưng cụ khai thị.
(經)涅哩底鬼王,執刀恐怖形,嚩嚕拏龍王,羂索以為印。初方釋天王,安住妙高山,寶冠被瓔珞,持跋折羅印,及餘諸眷屬,慧者善分布。左置日天眾,在於輿輅中,勝無勝妃等,翼從而侍衛。大梵在其右,四面持髮冠,唵字相為印,執蓮在鵝上。西方諸地神,辯才及毘紐,塞建那風神,商羯羅月天,是等依龍方,畫之勿遺謬。持真言行者,以不迷惑心,佛子次應作,持明大忿怒,右號無能勝,左無能勝妃,持地神奉瓶,虔敬而長跪。及二大龍王,難陀拔難陀,對處廂曲中,通門之大護。所餘釋種尊,真言與印壇,所說一切法,師應具開示。
(Kinh: Quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, dạng đáng
sợ. Vua rồng Phạ Rô Noa, dùng dây trói làm ấn. Phương trước Thích thiên vương,
an trụ núi Diệu Cao, mão báu, đeo anh lạc, cầm ấn bạt-chiết-la, và các quyến
thuộc khác. Người trí khéo xếp bày. Trái đặt các Nhật Thiên, ngự ở trong cỗ xe,
Thắng phi, Vô Thắng phi, chầu hầu ở hai bên. Đại Phạm ở bên phải, bốn mặt, đầu
đội mão, dùng chữ Án làm ấn. Cầm hoa sen, cưỡi ngỗng. Các địa thần phương Tây,
Biện Tài và Tỳ Nữu, Tắc Kiến Na, thần gió. Thương Yết La, Nguyệt Thiên. Bọn họ ở
phương Rồng (phương Tây). Hãy vẽ, đừng sai sót. Hành giả trì chân ngôn, do tâm
chẳng mê hoặc. Phật tử kế đó vẽ, Trì Minh Đại Phẫn Nộ, bên phải Vô Năng Thắng,
trái: Vô Năng Thắng Phi. Trì Địa Thần nâng bình, thành kính, đều quỳ thẳng, và
hai vua rồng lớn: Nan Đà, Bạt Nan Đà. Góc xép, đối nhau cuộn, nơi cửa lớn thông
suốt. Các tôn thánh họ Thích, chân ngôn và ấn đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy đều
nên khai thị trọn).
Kế đó, ở góc
Tây Nam, vẽ quỷ vương Niết Rị Để, cầm đao, hiện hình dáng đáng kinh sợ; đó là
vua La Sát thủ hộ phương vị. Phạ Rô Noa (Varuṇa) là long vương thủ hộ ở phương
Tây, cầm dây trói làm ấn. Ở phương Đông, nơi phía Nam của Ngũ Đảnh, hãy nên vẽ
Nhân Đà La Thích Thiên Chúa (Đế Thích), ngồi trên núi Tu Di, thiên chúng nhiễu
quanh, đầu đội mão báu, thân khoác đủ thứ anh lạc, cầm phạt-chiết-la (vajra,
chày kim cang), và các quyến thuộc khác, tức là Xá Chi (Śacī)[85] phu nhân và Lục Dục Thiên v… chi tiết như đồ hình đã nêu bày.
Phía Nam của
quyến thuộc Đế Thích, hãy vẽ các chúng trời thuộc Nhật Thiên (Sūrya), ngồi
trong cỗ xe do tám ngựa kéo, và hai phi tần ở hai bên tức là Thệ Da Vi (Aparājita) và Thệ Da (Jaya), phương này dịch Thắng và Vô Thắng. Quyến thuộc của Nhật Thiên xếp đặt
các tinh tú: Áng Già (Aṃgāraka, Hỏa Tinh) ở phương Tây, Thâu Già (Śukra, Kim Tinh) tại phương Đông, Bột Đà (Buddha,
Thủy Tinh) ở phương Nam, Vật Lạc Tát Bát Để (Brhaspati, Mộc Tinh) ở phương Bắc,
Thiết Nễ Thiết Giá (Śanaiścara,
Thổ Tinh) tại Đông Nam, La Hầu (Rāhu) tại Tây Nam, Kiếm Bà ở Tây Bắc, Kế Đô (Ketu) tại Đông Bắc.
Lại ở phía Nam của trục ngang của phía Nam mạn-đồ-la, đặt Niết Già Đa (Nirghāta), tức là sao Thiên Cẩu[86].
Phía Bắc của trục ngang phía Bắc, đặt Ốt Ca Bả Đa, tức là Lưu Hỏa.
Phía Bắc của
quyến thuộc Đế Thích gần với Tịnh Cư Thiên, đặt Đại Phạm Vương, đội mão che búi
tóc, ngồi trên xe do bảy con ngỗng kéo, bốn mặt, bốn tay: Một tay cầm hoa sen,
một tay cầm tràng hạt. Đó là tay bên phải. Một tay cầm bình quân-trì, một tay kết
ấn chữ Án (Auṃ, ॐ), đó là tay
bên trái. Thủ ấn là hơi gập ngón trỏ, các ngón khác duỗi thẳng, đặt nghiêng tay
trước người như đang nói năng. Đó là ấn Cát Tường của bậc tịnh hạnh. Các vị trời
khác thuộc Tứ Thiền Thiên đều xếp vào bên trái, Ngũ Tịnh Cư Thiên như Vô Nhiệt
v.v… đều xếp vào bên phải. Tỳ Ni có nói giới “hãy nhìn cách ăn mặc của Tịnh Cư Thiên, chế định cách ăn mặc ba y và nội
y tề chỉnh” là nói tới các vị trời này. Ở phương Tây, gần cửa, đặt các vị
Địa Thần. Kế đó, ở phương Bắc đặt Tát Ra Tát Phạt Để (Sarasvatī), dịch là Diệu Âm Nhạc Thiên, hoặc dịch là Biện Tài Thiên. Cũng đặt phi tử
của vị này ở phương Bắc. Kế đó, lại đặt Vi Sắt Nữu (Viṣṇu), dịch theo lối cũ là Tỳ Nữu. Đấy chính là Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Và đặt Thương Yết La Thiên (Śaṅkara); đây chính là Ma Hê Thủ La (Maheśvara), có thế lực to lớn trong một thế giới, nhưng chẳng phải là chủ của tam
thiên đại thiên thế giới. Kinh văn trong phần sau cũng có Rô Nại La (Rudra), tức
là thân phẫn nộ của Thương Yết La, do sự mà đặt tên. Lại đặt Tắc Kiến Na Thiên
(Skanda), tức là Đồng Tử Thiên, đều đặt phi tử của họ bên cạnh. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Hãy nên theo thứ tự đặt
các vị thiên chúng ấy ở hai bên của Đế Thích và Phạm Vương”. Ngay góc
Tây Bắc, đặt quyến thuộc của Phong Thiên để thủ hộ phương vị. Phía Nam của cửa
Tây, đối diện với Nhật Thiên, hãy nên đặt Nguyệt Thiên (Candra) cưỡi xe ngỗng
trắng. Ở hai bên vị này, đặt hai mươi bảy tinh tú, mười hai cung thần v.v… để
làm quyến thuộc. Kế đó, ở cửa Bắc, hãy nên đặt Tỳ Sa Môn thiên vương, hai bên vị
này, đặt tám Dạ Xoa đại tướng:
- Một là Ma Ni Bạt Đà La (Maṇibhadra), dịch nghĩa là Bảo Hiền.
- Hai là Bố Rô Na Bạt Đà La
(Pūrnabhadra), dịch nghĩa là Mãn Hiền.
- Ba là Bán Chỉ Ca (Pāñcika, Mật
Chủ), dịch theo lối cũ là Tán Chi.
- Bốn là Sa Đa Kỳ Rị (Śatagiri, Oai
Thần).
- Năm là Hê Ma Phạ Đa (Himavanta), tức là Trụ Tuyết Sơn Giả.
- Sáu là Tỳ Sái Ca (Viśakha, Đại
Mãn, Trì Pháp).
- Bảy là A Trá Phạ Ca (Ātavaka, Vô Tỷ
Lực).
- Tám là Bán Giá La (Pañcala, Mật
Nghiêm) và Ha Lợi Để Mẫu (Hārītī).
Kinh văn không nhắc tới
Công Đức Thiên Nữ (Śrīdevi,
Lakṣmī). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Công Đức Thiên đáng nên ở cùng chỗ với Tỳ Sa Môn ở phương Bắc. Nếu đặt
riêng thì nên để ở phương Tây”. Phàm các vị đại thiên thần này, đều là
những vị được nhiều người biết, chúng sanh trong thế gian ai nấy tùy theo tánh
tình và lòng ưa thích mà tôn thờ, cúng dường. Đức Tỳ Lô Giá Na vì muốn Phổ Môn
nhiếp thọ chúng sanh, trọn khắp hết thảy mọi nơi đều thị hiện thân giống như họ,
dùng các biểu tượng mà thế gian cùng biết để làm biểu tượng bí mật xuất thế
gian. Ví như hình tượng Đế Thích an trụ trên núi chúa Diệu Cao, Nhân Đà La
tam-muội của Như Lai cũng chẳng dời khỏi nơi đây mà khai xuất núi chúa Diệu Cao
trong Bồ Đề tâm thanh tịnh. Các pháp môn khác đều là như thế, chẳng thể nói cặn
kẽ được! Nhưng hành giả hễ công hạnh thành tựu trong mỗi thừa, sẽ tự khai giải.
Hơn nữa, dưới tòa của Thích
Ca Mâu Ni Phật, hãy nên vẽ hình Phẫn Nộ Trì Minh. Vị bên phải hiệu là Vô Năng
Thắng, bên trái hiệu là Vô Năng Thắng Minh Phi, đều là sắc trắng, cầm đao ấn,
quán Phật mà ngồi nơi đó. Nói tới “địa
thần” thì chính là địa thần [được vẽ] ở cửa Tây như đã nói ở phần trên.
Hãy nên vẽ hình họ nâng bình báu, kiền thành cung kính, quỳ thẳng. Trong bình ấy,
cắm các loại hoa mọc trên đất hay sanh trong nước, các điều khác như đồ hình đã
nói. Và ở bên góc xép của cửa thông ra nơi tầng thứ hai, đặt hai long vương,
bên phải là Nan Đà, bên trái là Bạt Nan Đà. Trên đầu họ đều có bảy đầu rồng,
tay phải cầm đao, tay trái cầm dây trói, đứng ở trên mây. Những vị này đều là
[các tôn thánh] trọng yếu trong Mạn-đồ-la. Vì thế, hành giả Chân Ngôn hãy nên
dùng cái tâm không mê hoặc để nương theo thứ tự mà thực hiện!
Kinh nói: “Sở dư Thích chủng tôn, chân ngôn dữ ấn đàn,
sở thuyết nhất thiết pháp, sư ưng cụ khai thị” (Các tôn thánh họ Thích,
chân ngôn và ấn đàn, nói ra hết thảy pháp, thầy nên khai thị đủ): Như các thứ
bát, tích trượng, ấn v.v… thuộc Thích Ca Bộ, chủng loại rất nhiều, kinh chẳng liệt
kê trọn hết, chỉ tùy thuộc phương ấy có chỗ nào trống khuyết, bèn chọn lựa theo
những điều đã được nói trong các kinh khác để xếp đặt. Giả sử khuyết thiếu,
cũng chẳng phạm lỗi. Nhưng đối với các vị thượng thủ được kinh này nhắc tới, đều
phải nên mỗi mỗi đúng như pháp mà vẽ, chẳng được bỏ sót. Đối với các phương thuộc
Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ, cũng phỏng theo lệ này mà suy ra.
(Kinh) Trì chân ngôn hành giả, thứ chí đệ tam viện, tiên đồ Diệu Cát Tường.
Kỳ thân uất kim sắc, ngũ kế quan kỳ đảnh, do như đồng tử hình. Tả trì thanh
liên hoa, thượng biểu kim cang ấn. Từ nhan biến vi tiếu, tọa ư bạch liên đài.
Diệu tướng viên phổ quang, châu táp hỗ huy ánh. Hữu biên ưng thứ họa, Võng
Quang Đồng Tử thân, chấp trì chúng bảo võng, chủng chủng diệu anh lạc. Trụ bảo
liên hoa tòa, nhi quán Phật trưởng tử. Tả biên họa ngũ chủng, dữ nguyện kim
cang sứ, sở vị Kế Thiết Ni, Ưu Bà Kế Thiết Ni, cập dữ Chất Đa La, Địa Huệ, tịnh
Thỉnh Triệu. Như thị ngũ sứ giả, ngũ chủng phụng giáo giả, nhị chúng cộng vi
nhiễu, thị vệ vô thắng trí.
(經)持真言行者,次至第三院,先圖妙吉祥,其身欝金色,五髻冠其頂,猶如童子形,左持青蓮華,上表金剛印,慈顏遍微笑,坐於白蓮臺,妙相圓普光,周匝互暉映。右邊應次畫,網光童子身,執持眾寶網,種種妙瓔珞,住寶蓮華座,而觀佛長子。左邊畫五種,與願金剛使,所謂髻設尼,優婆髻設尼,及與質多羅,地慧并請召,如是五使者,五種奉教者,二眾共圍遶,侍衛無勝智。
(Kinh: Hành giả trì chân ngôn, kế đến viện thứ
ba. Trước vẽ Diệu Cát Tường, thân Ngài màu uất kim. Đỉnh đầu năm búi tóc, giống
như thân bé trai. Trái cầm hoa sen xanh, trên hiện ấn kim cang. Vẻ từ nhan, mỉm
cười, ngồi trên đài sen trắng. Diệu tướng quang trọn khắp, giáp vòng chiếu lẫn
nhau. Bên phải, kế nên vẽ, thân Võng Quang Đồng Tử, cầm nắm các lưới báu, đủ loại
diệu anh lạc. Trụ trên tòa sen báu, nhìn ngắm Phật trưởng tử. Bên trái vẽ năm vị,
kim cang sứ thỏa nguyện, tức là Kế Thiết Ni, Ưu Ba Kế Thiết Ni, cùng với Chất
Đa La, Địa Huệ và Thỉnh Triệu. Năm sứ giả như thế, có năm vị phụng giáo, hai
chúng cùng vây quanh, chầu hầu vô thắng trí).
Kế đó, kinh nói quyến thuộc của Bồ
Tát thuộc viện thứ ba. Hãy nên ở phía trong cửa chánh đông, tương ứng với Phật
Thích Ca, vẽ Văn Thù Sư Lợi, thân có màu uất kim, đỉnh đầu có năm búi tóc, có
hình dạng như bé trai. Tay trái cầm Nê Lô Bát La (Nīla-utpala), tức là hoa sen xanh có cánh nhỏ. Trên hoa có kim cang ấn. Vẻ mặt Ngài cực
vui sướng, mỉm cười, ngồi trên đài hoa sen trắng. Đó là biểu tượng bí mật của
Ngài. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Uất
kim chính là sắc vàng Diêm Phù, biểu thị kim cang thâm huệ. Đầu có năm búi tóc,
biểu thị Ngài đã thành tựu Ngũ Trí của Như Lai từ lâu. Do bổn nguyện nhân
duyên, hiện hình đồng chân pháp vương tử. Hoa sen xanh là tam-muội chẳng nhiễm
đắm các pháp, do tâm chẳng trụ vào đâu, tức là thấy Thật Tướng Kim Cang Trí Ấn,
có thể dùng thường tịch quang để chiếu trọn khắp pháp giới. Do vậy, Ngài ngồi
trên hoa sen trắng nhằm biểu thị ý nghĩa: Chẳng khác với Trung Đài Tạng”.
Ở phía Bắc của
ngài Văn Thù, hãy nên vẽ Quang Võng Đồng Tử (Jālinīprabha-kumāra) Bồ Tát, thân
màu vàng ròng, cầm nắm lưới báu, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm, ngồi
trên hoa sen báu. Ngài Văn Thù trì vô tướng diệu huệ, còn ngài Quang Võng trì vạn
đức trang nghiêm, như Trí Độ Luận đã nói: “Dùng muối nêm các món ăn, tăng thêm mùi vị, chẳng nhạt nhẽo”. Vì
thế, hành nhân đánh mất phương tiện Bát Nhã, chỉ tu Không Huệ, sẽ đọa vào Đoạn
Diệt. Thuần tu phước đức, sẽ đọa vào “có sở đắc”. Do vậy, “quán trưởng tử của Phật”, ý nghĩa ở
chỗ này!
Kế đó, ngài
Văn Thù có năm sứ giả: Một là Kế Thiết Ni (Keśinī), hai là Ưu Bà Kế Thiết Ni (Upakeśinī), ba là Chất Đa La (Citrā), bốn là Địa Huệ (Vasumatī), năm là Thỉnh Triệu (Ākarṣaṇī), được xếp theo thứ tự ở hai bên
ngài Diệu Cát Tường (Văn Thù Sư Lợi), vì mỗi vị trì một trí của ngài Văn Thù. Kế
Thiết Ni nghĩa là “tóc đoan nghiêm”. Ổ Bá (Ưu Bà) là Á (kém hơn). Ngài Văn Thù
dùng năm búi tóc để biểu thị ngũ trí. Do vậy, sứ giả cũng lấy “tóc đẹp” làm
tên. Chất Đa La có nghĩa là “nhiều màu”. Phía dưới năm sứ giả, [dưới mỗi vị] đều
vẽ một người tuân phụng giáo pháp, đều quỳ gối hướng về sứ giả, có dáng vẻ như
đang vâng lãnh lời dạy, đều là Văn Thù tam-muội. Vì thế, kinh nói: “Thị vệ vô thắng trí” (Chầu hầu vô thắng
trí).
(Kinh) Hành giả ư hữu phương, thứ tác đại
danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, chấp trì như ý bảo. Xả ư nhị phần vị,
đương họa bát Bồ Tát, sở vị Trừ Nghi Quái, Thí Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết Ác
Thú, Cứu Ý Huệ Bồ Tát, Bi Niệm
cụ huệ giả, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não, bất khả tư nghị
huệ.
(經)行者於右方,次作大名稱,除一切蓋障,執持如意寶。捨於二分位,當畫八菩薩,所謂除疑怪,施一切無畏,除一切惡趣,救意慧菩薩,悲念具慧者,慈起大眾生,除一切熱惱,不可思議慧。
(Kinh: Hành giả ở hữu phương, kế vẽ đại
danh xưng, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, cầm nắm báu như ý. Ngoại trừ hai phần vị,
hãy vẽ tám Bồ Tát, tức là Trừ Nghi Quái, Thí Nhất Thiết Vô Úy, Trừ Nhất Thiết
Ác Thú, Cứu Ý Huệ Bồ Tát, Bi Niệm: Đấng trọn huệ, Từ Khởi đại chúng sanh, Trừ
Nhất Thiết Nhiệt Não, huệ chẳng thể nghĩ bàn).
Kế đến là tầng thứ hai, ở
phía trái của Đại Nhật Như Lai, vẽ Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin). Theo thói tục ở phương Tây (Ấn Độ), đi theo hướng Đông, coi phương Đông
là sơ phương, phương Nam là hữu phương, phương Tây là hậu phương, phương Bắc là
thắng phương. Nay do cửa của đàn Mạn-đồ-la này hướng về Tây, nên [ngài Trừ Cái
Chướng thuộc về phía Nam của đàn tràng, được] coi là bên trái của đức Đại Nhật.
Trong đồ hình, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa đặt ma-ni
bảo châu, tay phải kết ấn Thí Vô Úy[87].
Vị Bồ Tát này và các quyến thuộc đều là môn “đại từ bi dẹp khổ, trừ chướng”.
Chính là dùng Như Ý Bảo Châu trong Bồ Đề tâm để bố thí cho hết thảy chúng sanh
chẳng sợ hãi, thỏa mãn điều họ mong nguyện.
Kinh nói: “Xả ư nhị phần vị, đương họa bát Bồ Tát”,
tức là ở bên cạnh Trừ Cái Chướng, hãy nên vẽ hai sứ giả. Sau đấy, theo thứ tự,
xếp đặt tám vị Bồ Tát. Hễ xếp đặt các quyến thuộc, đều là người đầu tiên ở bên
phải, người thứ hai bên trái, người thứ ba lại ở bên phải, người thứ tư ở bên
trái. Một trái, một phải như thế, theo thứ tự mà xếp đặt. Nay tám vị Bồ Tát ấy,
trước hết xếp Trừ Nghi Quái (Ascarya) ở bên phải của Trừ Cái Chướng, Thí
Nhất Thiết Vô Úy (Sarvasattvābha-yaṃdada) bên phải. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất
Thiết Ác Thú (Sarvāpāyaṃjaha)
ở bên phải của Trừ Nghi Quái. Xếp Cứu Ý Huệ (Paritrāṇā-śayamati) ở bên trái Thí Vô Úy. Kế đó, lại đặt Bi Niệm Bồ Tát (Kāruṇāmṛditamati) ở bên phải ngài Trừ Ác Thú, xếp Từ Khởi Bồ Tát (Mahāmaitrya-bhyudgata) ở bên phải của ngài Cứu Ý Huệ. Kế đó, lại xếp Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não (Sarvadāha-praśamita) ở bên phải Bi Niệm, Bất Khả Tư Nghị Huệ (Acintyamati) ở bên trái của ngài Từ Khởi. Xếp đặt các tọa vị khác đều phỏng theo lệ
này.
(Kinh) Thứ phục xả tư vị, chí ư Bắc thắng phương, hành giả dĩ nhất tâm,
ức trì bố chúng thái, nhi tạo cụ thiện nhẫn, Địa Tạng Ma Ha Tát. Kỳ tòa cực xảo
nghiêm, thân xử ư diễm thai, tạp bảo trang nghiêm địa, ỷ thác hỗ tương gián, tứ
bảo vi liên hoa, thánh giả sở an trụ. Cập dữ đại danh xưng, vô lượng chư Bồ
Tát, vị Bảo Xứ, Bảo Thủ, cập dữ Trì Địa đẳng. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ý, thượng thủ
chư thánh tôn, các dữ vô số chúng, tiền hậu cộng vi nhiễu. Thứ phục ư Long
phương, đương họa Hư Không Tạng, cần dũng bị bạch y, trì đao sanh diễm quang. Cập
dữ chư quyến thuộc, Chánh Giác sở sanh tử, các tùy kỳ thứ đệ, liệt tọa chánh
liên thượng. Kim thuyết bỉ quyến thuộc, đại ngã Bồ Tát chúng, ưng thiện đồ tảo
hội, đế thành, vật mê vong. Vị Hư Không Vô Cấu, thứ danh Hư Không Huệ, cập
Thanh Tịnh Huệ đẳng, Hạnh Huệ, An Huệ đẳng. Như thị chư Bồ Tát, thường cần tinh
tấn giả, các như kỳ thứ đệ, nhi họa trang nghiêm thân. Lược thuyết Đại Bi Tạng,
Mạn-đồ-la vị cánh.
(經)次復捨斯位,至於北勝方,行者以一心,憶持布眾綵,而造具善忍,地藏摩訶薩。其座極巧嚴,身處於焰胎,雜寶莊嚴地,綺錯互相間,四寶為蓮華,聖者所安住。及與大名稱,無量諸菩薩,謂寶處寶手,及與持地等。寶印手堅意,上首諸聖尊,各與無數眾,前後共圍遶。次復於龍方,當畫虛空藏,勤勇被白衣,持刀生焰光,及與諸眷屬,正覺所生子,各隨其次第,列坐正蓮上。今說彼眷屬,大我菩薩眾,應善圖藻繢,諦誠勿迷忘。謂虛空無垢,次名虛空慧,及清淨慧等,行慧安慧等,如是諸菩薩,常勤精進者,各如其次第,而畫莊嚴身。略說大悲藏,漫荼羅位竟。
(Kinh: Lại bỏ vị trí ấy, đến chỗ Bắc thắng
phương. Hành giả do nhất tâm, nghĩ nhớ sắp các màu, vẽ đấng trọn thiện nhẫn, Địa
Tạng Ma Ha Tát. Tòa Ngài cực tinh xảo, thân ngự trong thai lửa, các báu trang
nghiêm đất, lộng lẫy, xen kẽ nhau. Bốn báu làm hoa sen, được bậc thánh an trụ.
Cùng với đại danh xưng, vô lượng các Bồ Tát, là Bảo Xứ, Bảo Thủ, cùng với Trì Địa
thảy. Bảo Ấn Thủ, Kiên Ý, các tôn thánh thượng thủ, đều cùng vô số chúng, trước
sau cùng vây quanh. Rồi lại ở phương Rồng, sẽ vẽ Hư Không Tạng, đấng siêng
năng, mạnh mẽ, khoác mặc áo trắng ngần, cầm đao, tóe ánh lửa. Cùng với các quyến
thuộc, được sanh bởi Chánh Giác, mỗi vị theo thứ tự, sắp xếp trên hoa sen. Nay
nói quyến thuộc Ngài, hàng Bồ Tát đại ngã, hãy nên khéo vẽ vời, chân thành, đừng
mê, quên. Là Hư Không Vô Cấu, rồi đến Hư Không Huệ, và Thanh Tịnh Huệ thảy, Hạnh
Huệ, An Huệ thảy. Các Bồ Tát như thế, bậc thường siêng tinh tấn, ai nấy theo thứ
tự, mà vẽ thân trang nghiêm. Lược nói Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la đã xong).
Kế đó, ở phương Bắc, đặt Địa
Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha). Ở trên mặt đất trang nghiêm bằng nhiều thứ báu xen kẽ, dùng vàng, bạc,
pha-chi (Sphaṭika, pha lê), thủy tinh, bốn chất báu
làm tòa hoa sen, cũng sao cho tột bậc khéo léo, đẹp đẽ. Nay Bồ Tát ngự trên hoa
tòa ấy, quang minh chói ngời trọn khắp toàn thân, như ở trong thai tạng, nên
nói là “xử ư diễm thai” (ngự
trong thai lửa). Vị tôn thánh này chủ trì vô biên tạng báu do công đức phát khởi
từ tánh nơi bảo vương tâm địa. Vì thế, biểu tượng của Ngài được trang nghiêm bằng
hết thảy kỳ trân dị bảo xen lẫn choáng lộn. Các vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài
cũng có ý nghĩa tương đồng. Ở bên phải của đức Địa Tạng đặt Bảo Xứ Bồ Tát (Ratnākara), bên trái đức Địa Tạng đặt Bảo Chưởng Bồ Tát (Ratnapāṇi). Kế đó, bên phải Bảo Xứ, đặt Trị Địa Bồ Tát (Dharanindhara), bên trái Bảo Chưởng đặt Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratnamudrā-hasta). Bên phải Trị Địa, lại đặt Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāśaya) Bồ Tát. Các vị tôn thánh thượng thủ như thế, ở hai bên mỗi vị, đều vẽ
các quyến thuộc vây quanh.
Kế đó, ở phương Tây, vẽ Hư
Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha), mặc áo trắng ngần, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có Đại Đao Ấn. Trên
Đao Ấn sanh trọn khắp các ngọn lửa chói lòa, và các quyến thuộc đều ngồi trên
hoa sen. Vị Bồ Tát này trì “trí huệ như hư không” của Như Lai, cho nên cầm đại
đao; đó là biểu tượng của trí huệ nhạy bén. Ngài mặc áo trắng, biểu thị trắng sạch,
không nhơ. Đó là trang sức phía ngoài của giáo môn. Ví như hư không, chẳng phân
biệt, mà cũng chẳng tích tập, nhưng muôn hình tượng trong thế gian đều nương
vào đó để sanh thành. Nay pháp môn này cũng thế, trong Tất Cánh Không, xuất
sanh tác dụng tự tại chẳng thể nghĩ bàn, chẳng có cùng tận, như kinh Đại Tập Hư
Không Tạng đã nói cặn kẽ. Vì thế, gọi là Hư Không Tạng.
Quyến thuộc trong pháp môn
này là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala) Bồ Tát, Hư Không Huệ Bồ Tát (Gaganamati), Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddha-mati), Hạnh Huệ Bồ Tát (Cāritramati), An Huệ Bồ Tát (Sthiramati), cũng theo thứ tự như trên lần lượt xếp bên trái và bên phải.
Sở dĩ đều nói là “đẳng” (vân
vân), nhằm nói các vị thượng thủ
trên đây, mỗi vị đều có vô biên quyến thuộc. Hình tướng của các Ngài đều như
trong đồ hình miêu tả. Bài kệ này cuối cùng nói: “Lược thuyết Đại Bi Tạng, Mạn-đồ-la vị cánh” (lượt nói Đại Bi Tạng,
các vị trí trong mạn-đồ-la đã xong), hai câu này chính là người truyền độ (truyền
pháp, hóa độ) dùng để kết lại ý nghĩa, chẳng phải là kinh văn trong kinh này.
Như đã nói trên đây, Bồ Đề
tâm là nhân, đại bi là căn, phương tiện là rốt ráo, tức là Thật Tướng Hoa Đài Đại
Bi Thai Tạng trong tâm xòe nở, dùng phương tiện đại bi hiện thành ba tầng phổ
môn quyến thuộc. Do vì nghĩa ấy mà gọi là Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Như trong
một thế giới, hiện trọn khắp các thân theo từng loại trong sáu đường; trong hết
thảy các thế giới, cũng lại như thế. Trong các chúng đồng phận như thế, [các vị
tôn thánh ấy] là thượng thủ bậc nhất. Pháp do các vị ấy nói cũng là vi diệu bậc
nhất trong các pháp. Lại do nghĩa này, có thể nhiếp thọ trọn khắp vô tận chúng
sanh. Vì thế, đức Tỳ Lô Giá Na được gọi là Pháp Giới Vương. Nay các vị thượng
thủ này cùng nhau nhóm họp, ấn trì pháp như thế, cho nên hết thảy chúng sanh đồng
loại, ai nấy đều sanh tâm hy hữu, nói rằng: “Đấng ta tôn trọng chẳng có ai sánh bằng”. Cũng lại ở trong
chúng ấy, hãy nên biết pháp này rất hy hữu. Do sanh tâm hy hữu, sẽ tùy thuận hết
thảy pháp giới môn mà gieo thiện căn. Thậm chí, kẻ trong đêm dài dấy khởi bất
thiện căn, toan phá hoại chánh pháp, đã tới đạo tràng, thấy các vị đại thiên được
tôn phụng, lại được ban thí pháp thực chẳng thể nghĩ bàn, ác tâm liền diệt, vứt
bỏ ma sự, hoặc sanh một niệm tâm tùy hỷ. Do sanh một niệm tịnh tâm, sẽ có thể mở
ra Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la.
Lại nữa, các thứ pháp môn
trong Mạn-đồ-la này tuy cùng một pháp giới, nhưng công dụng cạn hay sâu đều có
sai khác. Như do cùng sanh trưởng trong một cuộc đất, cùng được một trận mưa tưới
tắm, nhưng do các dược thảo tánh phận bất đồng, nếu y vương xem xét, liền biết
thảo dược như thế tuy chẳng thích hợp để đối trị một căn bệnh nào đó, nhưng đối
với một chứng bệnh khác, lại có thế lực thù thắng. Nếu trong các phương tiện phổ
môn như thế đó, mỗi mỗi phân biệt chẳng sai, bèn kham làm bậc đại A-xà-lê.
Trong Đại Bổn mười vạn kệ, các vị tôn thánh ai nấy đều tự tuyên nói pháp giới
môn do chính mình thông đạt, các thứ pháp phương tiện lạ, nay lược bổn này chỉ
nêu lên pháp yếu phổ thông để tiến nhập đạo mà thôi. Nếu hành giả đúng pháp tu
hành, chẳng khuyết thiếu pháp tắc, khi được gia bị chẳng thể nghĩ bàn, sẽ tự
nhiên khéo chỉ bày phương tiện, không gì chẳng thông suốt. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Phàm hành giả chẳng trụ
trong Du Già, sẽ chẳng thích hợp vì người khác kiến lập Mạn-đồ-la”.
Thoạt đầu, khi sắp vẽ, trước
hết dùng tự môn để chuyển thành các vị tôn thánh, tọa vị, hình sắc, tánh loại,
mỗi mỗi tương ứng, liền quán Đại Bi Tạng như thế chính là thân ta rồi mới khởi
sự vẽ. Bậc thâm hạnh A-xà-lê như thế, ắt trong hết thảy các thời, đều thường chẳng
lìa Phật hội như thế. Khi làm pháp sự vẽ vời, theo đúng như pháp, lần lượt bắt
đầu [vẽ] từ đất kim cang, quán cung điện bảo vương trên đỉnh núi Tu Di, tất cả
mỗi mỗi đều trang nghiêm như trong phẩm sau sẽ nói. Hiểu rành rẽ như thế thì mới
có thể thỉnh vời được!
Phương vị trong Mạn-đồ-la được truyền bởi [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê liệt kê đầy đủ như sau:
1.
Phương thượng[88]
○ Như Lai Như Ý Bảo
○ Như Lai Giáp Trụ
○ Như Lai Quyến Sách
□ Như Lai Bố Ma
○ Như Lai Tề
□ Như Lai Mã Tạng
○ Như Lai Thần
□ Như Lai Thập Lực
○ Như Lai Nha
□ Như Lai Đại Hộ
△ Vô Sở Úy Đại Hộ Giả ○○
○ Như Lai Vô Sở Úy
□ Như Lai Linh Đạc
○ Như Lai Thương Khư
□ Như Lai Tam Muội Da Kim Cang
○ Như Lai Chánh Cần
□ Như Lai Tam-muội-da
○ Như Lai Thiệt
□ Như Lai Hào Tướng
○ Nhất Thiết Như Lai Tòa
□ Như Lai Đại Cần Dũng
□ Như Lai Nhãn
○ Như Lai Tâm
□ Như Lai Thước Để[89]
○ Vô Kham Nhẫn (Như Lai Vô Kham Nhẫn)
□ Thủy Tự Tại Tôn
□ Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả
□ Như Lai Niệm Xứ
○ Như Lai Đao
□ Như Lai Luân
□ Như Lai Liên Hoa
□ Như Lai Đảnh
○ Như Lai Kết Giới
□ Như Lai Thí Nguyện
○ Như Lai Bình Đẳng Thuyết
□ Như Lai Khẩu
○ Như Lai Yêu
□ Như Lai Diễm Quang
□ Như Lai Câu
□ Hư Không Nhãn
□ Vô Cấu Quang Đồng Tử ○ ○
□ Quang Võng Đồng Tử ○ ○
□ Nam Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○
△ Lục Diện Tôn
△ Hàng Diễm Ma Tôn
□ Địa Huệ Đồng Tử ○ ○
□ Ưu Ba Kế Thiết Ni ○ ○
* Văn Thù Sư Lợi
□ Kế Thiết Ni ○ ○
□ Chất Đa La ○ ○
□ Thỉnh Triệu Giả ○ ○
□ Nữ Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nam Sứ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Thủ Vệ Giả ○ ○ ○ ○
□ Nữ Phụng Giáo Giả ○ ○ ○ ○
□ Bảo Quan Đồng Tử ○ ○
□ Nguyệt Quang Đồng Tử
□ Thiện Tài Đồng Tử
△ Hỏa Thiên Hộ Phương Thần
△ Hỏa Thiên
△ Hỏa Thiên Hậu
△ Bà Tư Sắt Trá Đại Tiên
△ Kiệt Già Đại Tiên
△ Mạt Kiện Đồ Đại Tiên
△ Cù Đàm Đại Tiên
△ Ca Diếp Đại Tiên
△ Chư Chấp Diệu Thần đẳng
△ Tỳ Thệ Da Hậu
△ Nhật Thiên Tử
△ Thệ Da Hậu
□ Na La Diên và quyến thuộc
□ Ma Thiên Tha Hóa Tự Tại Thiên
□ Hóa Lạc Thiên
□ Đâu Suất Đà Thiên
□ Diễm Ma Thiên
□ Đông phương Đề Đầu Lại Tra thiên vương và các Càn Thát Bà.
□ Xá Chi phu nhân ○ ○
□ Đế Thích Tam Thập Tam Thiên
□ Đồng Tử Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Hoan Hỷ Bồ Tát
□ Thượng phương Hoan Hỷ Đức Bồ Tát
□ Bồ Tát chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ A Nan Đà
□ Tu Bồ Đề
□ Xá Lợi Tử
□ Đại Mục Liên
□ Đại Ca Diếp
□ Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh
□ Quảng Đại Phật Đảnh
□ Hỏa Tụ Phật Đảnh
□ Thắng Phật Đảnh
△ Như Lai Tích Trượng
○ Như Lai Bát
○ Như Lai Nha
□ Hào Tướng
△ Vô Năng Thắng Tôn
□ Thích Ca Mâu Ni Phật
△ Vô Năng Thắng Phi
○ Phật Mẫu
○ Như Lai Thước Để Ấn
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo tăng
□ Phổ Quang Bồ Tát
□ Đông phương Bảo Tánh Phật
□ Bồ Tát Chúng
□ Tỳ-kheo tăng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Phật Ca Sa
△ Phật Quân Trì
□ Bạch Tán Phật Đảnh
□ Tối Thắng Phật Đảnh ○ ○
□ Tồi Toái Phật Đảnh ○ ○
□ Tối Cao Phật Đảnh
□ Bích Chi Phật
□ Đại Phạm và Minh Phi quyến thuộc
□ Tứ Thiền Thiên
□ Vô Sắc Thiên
□ Tịnh Cư Tự Tại Thiên Tử
□ Phổ Hoa Thiên Tử
□ Quang Man Thiên Tử
□ Ý Sanh Thiên Tử
□ Danh Xưng Viễn Văn Thiên Tử
□ Đại Tự Tại Phi và quyến thuộc
□ Đại Tự Tại Thiên và quyến thuộc
□ Ma Hê Thủ La Thiên Tử và phi
□ Trì Minh Phi
□ Trì Minh Tiên
2.
Bên phải [của Trung Đài Bát Diệp]
△ Năng Thọ Nhất Thiết Tôn (thỏa mãn hết thảy các nguyện)
□ Liên Hoa Bộ Nữ Phụng Giáo Giả
□ Liên Hoa Bộ Phụng Giáo Giả
□ Liên Hoa Tam Cổ Kích
□ Liên Hoa Kích
□ Liên Hoa Tôn
□ Kim Cang Liên
□ Liên Hoa Luân
□ Liên Hoa Đao
□ Liên Hoa Đức Bồ Tát
□ Đại Thủy Cát Tường
□ Đại Cát Tường
□ Tăng Cát Tường ○ ○
□ Phật Cát Tường ○
□ Kim Sắc Bồ Tát
□ Danh Xưng Huệ Bồ Tát ○ ○
□ Bạch Sắc Bồ Tát
△ Hoại Chư Bố Úy Đại Hộ Giả ○ ○
□ Đại Thế Chí Bồ Tát
□ Tỳ Câu Chi Bồ Tát ○ ○
□ Quán Thế Âm Bồ Tát
□ Đa Lợi Tôn (Tara) ○ ○
□ Quán Âm Mẫu
□ Đại Bạch Bồ Tát
□ Tư Tài Chủ Bồ Tát
□ Biến Quán Bồ Tát
□ Cát Tường Bồ Tát
□ Đới Tháp Đức Bồ Tát
□ Bảo Đức Bồ Tát
□ Lộc Bì Y Hình
□ Liên Hoa Quân Trì
□ Liên Hoa Man
□ Liên Hoa Phủ
□ Liên Hoa Sách
□ Liên Hoa Đạc
□ Liên Hoa Loa
□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả
(□ Liên Hoa Bộ Sứ Giả △ Mã Đầu Quán Thế Âm)
□ Liên Hoa Bổng
(Tầng thứ nhất bên phải đã xong, [tức là hoàn tất Quán
Âm Viện])
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△ Hạnh Huệ Bồ Tát ○ ○
○ Thắng Diệu Thiên Bồ Tát ○ ○
□ Bảo Nghiêm Bồ Tát ○ ○
△ Bảo Ấn Thủ Bồ Tát ○ ○
○ Bảo Chưởng Bồ Tát ○ ○
□ Địa Tạng Bồ Tát ○ ○
○ Bảo Tác Bồ Tát ○ ○
○ Trì Địa Bồ Tát ○ ○
□ Hiền Ý Bồ Tát
○ Bảo Quan Bồ Tát ○ ○
△ Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ Tát ○ ○
□ Thiện Trụ Ý Bồ Tát ○ ○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
(Tầng thứ hai ở bên phải đã xong, [tức là hoàn tất Địa
Tạng Viện])
□ Y Xá Na hộ phương thần
□ Cưu Bàn Đồ chúng quyến thuộc
□ A Danh Yết Noa (tai dê)
□ A Thấp Phạ Yết Noa (tai ngựa)
□ Thú Bà Yết Noa
□ Tạp Bảo Tạng Thần ○ ○ ○ ○
△ Đồ Cát Ni
△ Đồ Ca
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Trần Dũng Mãnh Bồ Tát
□ Đông Bắc phương Định Thắng Thủ Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Nữ Bộ Đa ○ ○ ○ ○
□ Bộ Đa Dược Xoa loại ○ ○
□ Trụ Tuyết Sơn Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○ ○ ○
□ Sa Đa Kỳ Rị Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Bán Giá La Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sái Ca Dược Xoa Tướng ○ ○
□ A Trá Phạ Ca Dược Xoa Tướng ○ ○ ○ ○
□ Tỳ Sa Môn Tử Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Ma Ni Bạt Đà La Thần ○ ○ ○ ○
□ Hộ Phương Thần Hậu ○ ○ ○ ○
□ Câu Phệ Ra Hộ Phương Thần Tỳ Sa Môn ○ ○
□ Cát Tường Công Đức Thiên
□ Mãn Hiền Dược Xoa Tướng ○ ○
□ Ha Lật Để Mẫu (năm trai, năm gái)
□ Tán Chi Đại Tướng
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Thắng Thọ Bồ Tát
□ Bắc phương Thắng Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
□ Chủ Điền Nông Thần
□ Chủ Tượng Mã Cứu Thần
□ Chủ Vương Khố Tạng
□ Chủ Ngoại Đạo Phước Xứ Thần
□ Chủ Nham Huyệt Thần
□ Chủ Phục Tạng Thần
□ Chủ Trách Thần
□ Chủ Thi Lâm Thần
□ Chủ Ba Trì Thần
□ Chủ Long Tuyền Thần
□ Chủ Tỉnh Thần
□ Chủ Không Trung Cung Uyển Thần
□ Chủ Cung Thất Thần
□ Chủ Hải Thần
□ Chủ Thất Trạch Thần
□ Chủ Hạng Khúc Thần
□ Phương Thần
□ Chủ Nhai Mạch Thần
□ Chủ Hà Thần
□ Chủ Đạo Thần
□ Chủ Khoáng Dã Thần
□ Chủ Giao Dã Thần
□ Chủ Thiêm Tứ Thần
□ Chủ Thành Thần
□ Chủ Thôn Thần
□ Chủ Châu Thần
□ Chủ Điểu Thần
□ Chủ Sơn Thần
□ Chủ Tất Địa Vật Thần
□ Chủ Tất Địa Thần
□ Chủ Tiên Dược Thần
□ Chủ Dược Kế Thần
□ Chủ Dược Thần
□ Tất Địa Trì Minh Phi ○ ○ ○ ○
□ Tất Địa Trì Minh Tiên ○ ○ ○ ○
(Tầng thứ ba bên phải đã xong, [tức là tầng ngoại Kim
Cang giới bên phải đã xong]).
3. Bên
trái [của Trung Đài Bát Diệp]
□ Diệu Kim Cang
□ Thanh Kim Cang
□ Kim Cang Liên
□ Tịch Tĩnh Kim Cang
□ Đại Tấn Lợi Kim Cang
□ Kim Cang Nha
□ Na Mị Đồ Kim Cang (do nhân mà lập danh, còn gọi là Đoản)
□ Xích Thể Kim Cang
□ Phật Phụng Giáo Giả
□ Việt Vô Lượng Hư Không
△ Nguyệt Yển Tôn ○ ○
□ Nan Hàng Đại Hộ Giả (thân nữ) ○ ○
□ Kim Cang Bộ Sanh
□ Kim Cang Liên Tỏa
□ Chấp Kim Cang
□ Kim Cang Mẫu ○ ○
□ Kim Cang Châm
□ Kim Cang Câu
△ Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ Giả ○ ○
△ Quân Đồ Lợi Kim Cang ○ ○
△ Đại Lực Kim Cang ○ ○
□ Hư Không Vô Cấu Kim Cang
□ Tố Ra Đa Kim Cang (Diệu Trụ)
□ Đại Thân Kim Cang
□ Đại Thắng Kim Cang
□ Quảng Nhãn Kim Cang
□ Bạt-chiết-la Kim Cang
○ Đại Huệ Bồ Tát
□Tịch Huệ Bồ Tát
△ Vô Cấu Huệ Bồ Tát ○ ○
○ Vô Tận Ý Bồ Tát ○ ○
□ Bất Tư Nghị Huệ Bồ Tát ○ ○
△ Đại Từ Khởi Bồ Tát ○ ○
△ Vô Tượng Bồ Tát ○ ○
○ Cứu Ý Huệ Bồ Tát ○ ○
□ Thí Nhất Thiết Vô Úy Bồ Tát ○ ○
△ Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát ○ ○
□ Trừ Nghi Quái Bồ Tát ○ ○
○ Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ Tát ○ ○ ○
△ Bi Niệm Bồ Tát (còn gọi là Đại Bi Triền) ○○
□ Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ Tát ○○
○ Hải Huệ Bồ Tát ○○
△ Diệu Huệ Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát ○○○○
△ Niết Rị Để Hộ Phương Thần
△ Nữ La Sát ○○
△ La Sát chúng ○○
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Nhật Quang Bồ Tát
□ Tây Nam Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Tất Lăng Nghị Lật Tri
△ Chư Tỳ Na Dạ Ca
△ Ma Ha Ca La (Hắc Thần)
○ Ưu Bà, Lộ Hệ Đa nhị long vương
△ Tỳ Lô Giá thập quyến thuộc ○○○○○○
△ Tỳ Xá Chi thập quyến thuộc ○○
△ Hàn Lãnh địa ngục
△ Nhiệt Não địa ngục
□ Tỳ Lâu Bác Xoa vương ○○○○
△ Diễm Ma Một Lật Để Hậu
△ Diễm Ma Hậu
△ Diễm Ma Đản Đồ
△ Diễm Ma La pháp vương
△ Chất Đát La Cấp Đa Tấn Ngục Giả
△ Dạ Hắc Thiên
□ Biện Tài Thiên ○○
□ Đồng Nam Bồ Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Ly Ưu Bồ Tát
□ Nam phương Vô Ưu Đức Phật
□ Bồ Tát chúng
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng Nữ Bồ Tát
□ Biệt Dị địa ngục
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
△ Giá Muộn Noa
△ Kiều Phệ Rị
△ Phệ Sắt Noa Vị
△ Kiều Rị
△ Yến Nại Rị
△ Ta Nại Rị
△ Mạt Ra Mị
□ Khẩn Na La phi ○○
○ Khẩn Na La
○ Đồng Nam Bồ Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thủ Bồ Tát
○ Đông Nam Liên Hoa Thắng Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ Tát
△ Mộ Ha Nẵng
△ Khuyết Danh Hỏa Thần
△ Kiếp Vi
△ Mang Mãng Sa
△ Ngật Sái Dã
△ Đỗ Trá Ra
△ Cú Rô Đản Nang
△ Một Lật Noa
△ Lộ Hệ Đa
△ Mang Rô Đa
△ Nại Rô Ca
△ Sa Ma Hê Nại La
△ Chư hỏa tiên đẳng
4. Phương dưới của Mạn-đồ-la
* Hàng Tam Thế Tôn
□ Kim Cang Đạc ○○
□ Kim Cang Quyến
Sách
□ Kim Cang Đao
□ Bất Khả Việt
Hộ Môn Giả ○○
□ Tương Hướng
Thủ Hộ Môn Giả ○○
△ Như Lai Sứ Giả
□ Kim Cang Quyền
□ Vô Hý Luận
Kim Cang
□ Kim Cang Phủ
□ Kim Cang Luân
□ Kim Cang Bổng
* Thánh Bất Động Tôn
□ Hiền Kiếp Bồ
Tát
□ Kim Quang Bồ
Tát
○ Kim Sắc Bồ
Tát
△ Bảo Đức Bồ
Tát
□ Hiền Đức Bồ
Tát
○ Hoa Tràng Bồ
Tát
△ Kế Đô Bồ Tát
□ Vô Cấu Quang
Bồ Tát
△ Thanh Tịnh Huệ
Bồ Tát ○○
□ Hư Không Huệ
Bồ Tát ○○
○ Hư Không Tạng
Bồ Tát ○○
□ Hư Không Vô Cấu
Bồ Tát ○○
△ Pháp Huệ Bồ
Tát ○○
○ Huệ Bộ Bồ Tát
○○
□ Lạt Nê Mị Bồ
Tát
△ Nê Mị Bồ Tát
○ Bảo Phan Bồ
Tát
□ Kim Quang Bồ
Tát
△ Quang Minh Bồ
Tát
○ Diệu Tràng Bồ
Tát
□ Vô Biên Tràng Bồ Tát
□ Hiền Kiếp Bồ Tát
* Phong Thiên Hộ Phương Thần
* Phong Thần Hậu
△ Ca Lâu La nữ ○○○○
△ Ca Lâu La
△ Phi nhân quyến
thuộc
△ Nhất thiết
nhân quyến thuộc
□ Đồng Nam Bồ
Tát
□ Tỳ-kheo chúng
□ Bảo Thắng Bồ
Tát
□ Tây Bắc
phương Nhất Bảo Cái Phật
□ Tỳ-kheo chúng
□ Đồng nữ chúng
□ Hiền Kiếp Bồ
Tát
○ Tiểu Ngật Lật
Sắt Nộ nhị long vương
○ Ngật Tây Sắt
Noa nhị long vương
○ Lộ Hệ Đa nhị
long vương
○ Ưu Bà Tý Đa
nhị long vương
○ Ưu Bà Thúc Cật
Lao nhị long vương
○ Thúc Cật Lao
nhị long vương
○ Sa Già La
long vương
○ A Na Bà Đạt
Đa long vương
○ Đắc Xoa Ca
long vương
○ Ma Ca Tư long
vương
○ Củ Lợi Ca
long vương
○ Yết Cú Trá Ca
long vương
○ Hòa Tu Cát
long vương
○ A Nan Đà long
vương
○ Đại Liên Hoa
long vương
○ Ba Đầu Hoa
long vương
○ Thương Khư
long vương
○ Phạ Rô Noa hậu
○○
○ Phạ Rô Noa
long vương ○○○
□ Tỳ Lâu Lặc
Xoa hộ phương thiên vương ○○
○ Ưu Bà Tôn Na
Thủ Môn Giả ○○
Cửa để ra vào
○ Tôn Na Thủ
Môn Giả ○○
○ Địa Thần ○○
○ Long vương và
hậu quyến thuộc ○○
○ Đồng Nam Bồ
Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Hành Huệ Bồ
Tát
○ Tây phương Bảo
Diệm Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng Nữ Bồ
Tát
○ Chủ Bình
Tương Xâm Thần
○ Chủ Nhật Lịch
Thần
○ Chủ Thời Phần
Thần
○ Chủ Nghiệp
Tác Thần
○ Chủ Túc Thần
○ Chủ Túc Đối
Thần
○ Chủ Dạ Thần
○ Chủ Nguyệt Thần
○ Chủ Nhật Thần
○ Lục Thời Thần
○ Chủ Trực Thần
○ Chủ Nhập Bát
Tú Thần
○ Chủ Thập Nhị
Cung Thần
○ Nguyệt Hậu
tên Xích Sắc
○ Nguyệt Hậu
tên Nguyệt Tường
○ Nguyệt Thiên
Tử
○ Nguyệt Hậu
tên Nguyệt Tướng
○ Đồng Nam Bồ
Tát
○ Tỳ-kheo chúng
○ Liên Hoa Thắng
Bồ Tát
○ Hạ phương
Liên Hoa Đức Phật
○ Bồ Tát chúng
○ Tỳ-kheo chúng
○ Đồng nữ Bồ
Tát
○ Hiền Kiếp Bồ
Tát
□ A Tu La nữ
quyến thuộc
□ A Tu La quyến
thuộc
○ Ma Hầu La Già
nữ
○ Ma Hầu La Già
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Viện thứ nhất, ở phương Đông, từ Như Lai
Câu cho đến Như Lai Giáp v.v… đều là Tỳ Lô Giá Na tam-muội. Mỗi vị đều vẽ thành
hình dạng thiên nữ, tùy theo Mạn-đồ-la vuông hay tròn[90]
để biện định màu sắc của họ. Họ ngồi trên đài sen trắng, trong tay lại cầm hoa
sen. Trên hoa đều có các vật dùng làm biểu tượng đặc trưng cho mỗi vị như móc
câu, bánh xe, đao, giáo, thương-khư (ốc tù và), chuông, khánh, dây trói, giáp
trụ v.v… đều dựa theo tướng của mỗi vật ấy mà vẽ. Đảnh tướng, hào tướng, khẩu,
thiệt, nha, thần (miệng, lưỡi, răng, môi) v.v… chuẩn theo lệ ấy để hiểu. Như Lai Tề (rốn của Như Lai) thì trên hoa sen vẽ hình
tướng vòng tròn nối liền, tròn trặn. Như Lai Yêu (eo của Như Lai) thì cũng vẽ
hình như tràng hạt hơi cong. Như Lai Tạng giống như tạng tướng chẳng hiện nơi
mã bảo của Luân Vương. Như Lai Thí Nguyện thì vẽ thành tay Dữ Nguyện[91].
Như Lai Pháp và Biện Thuyết v.v… thì hoặc là cầm kinh tạng, hoặc giơ tay trong
tư thế thuyết pháp. Niệm, Xứ, Thập Lực v.v… đều là pháp tương ứng với Chỉ Quán,
hãy vẽ các vị ấy với dáng điệu tam-muội lặng lẽ. Đối với Tam-muội-da, hãy vẽ
như tướng Phật Đảnh. Như Lai Đảnh tướng nhiếp trọn hết thảy các công đức. Hễ
trong tay [của một vị tôn thánh] không có vật gì để có thể biểu trưng thì đều
nên dùng [Phật Đảnh tướng] để biểu thị”.
Nếu Mạn-đồ-la không vẽ hình các vị tôn thánh, chỉ nêu bày ấn bí mật[92]
[của từng vị] thì ở trên tòa Kim Cang, vẽ đài hoa sen, trên đài thì giống như
trên, vẽ biểu tượng đặc trưng của từng vị. Đối với Mạn-đồ-la chỉ vẽ chữ (tức là
Mạn-đồ-la dùng chữ chủng tử của từng vị tôn thánh thay vì vẽ hình tướng) thì nếu
trong kinh có chữ chủng tự [của từng vị tôn thánh], hãy nên đúng pháp mà đặt [từng
chữ vào đúng vị trí tương ứng]. Nếu trong kinh chẳng chép, hãy nên dùng chữ đầu
tiên trong tiếng Phạn (chữ A) làm chữ chủng tử, hoặc có thể đều dùng chữ A [cho
tất cả các vị tôn thánh.
Chư tôn thuộc
Liên Hoa Bộ ở phía Bắc[93]
[của mạn-đồ-la], nếu trong kinh chẳng nói hình tướng, sẽ đều vẽ chung là [thân
các Ngài có] màu hoa sen đỏ, hoặc sắc trắng sạch. Còn các vị như Kim Sắc v.v…
thì theo tên gọi để biện định thân sắc. Ấn tướng các Ngài cầm cũng giống như
trong Phật Bộ đã nói, nhưng dùng hoa sen làm biểu tượng. Như trong hình tượng
Liên Hoa Luân thì dùng bốn cánh sen [ghép lại] như hình chữ Thập để làm tướng
căm bánh xe. Ở phía ngoài “căm bánh xe” ấy, dùng hình khuyên tròn bao quanh. [Ấn
tướng] Liên Hoa Đao thì đặt đao trên hoa sen, trên mũi đao lại dùng hoa sen để
biểu thị tướng đặc trưng. Đối với chày kim cang, kim cang kích v.v… cũng đều
làm giống như thế. [Ấn tướng của] ngài Liên Hoa Quyến Sách thì dùng hoa sen làm
hai đầu mối [của dây thừng]. [Ấn tướng của ngài] Liên Hoa Đạc thì dùng hoa sen
để buộc [cái chuông ấy]. Ngài Liên Hoa Man thì dùng hoa sen xâu thành tràng hoa
để trang nghiêm thân, hoặc đặt trên hoa sen Ngài cầm. Ngài Đới Tháp Cát Tường
thì nơi búi tóc trên đỉnh đầu đặt Tốt-đổ-ba (stupa, tháp), hoặc đặt trên hoa
sen [mà vị ấy đang cầm]. [Ấn tướng của] Liên Hoa Tôn thì trên hoa sen lại đặt
hoa sen. Bảo Đức Tôn thì trên hoa sen có đặt vật báu.
Năng Thọ Nhất
Thiết Nguyện Minh Vương có thể thỏa mãn hết thảy các điều mong nguyện, hình trạng
chẳng phải chỉ có một. Như đức Quán Thế Âm tay cầm hoa sen, trên hoa đặt báu
Như Ý. Tùy theo làm pháp sự Tức Tai, Tăng Ích, hay Hàng Phục mà đặt trong đàn
tràng tương ứng. Ngài Đại Cát Tường hai tay đều cầm hoa sen. Thủy Cát Tường thì
hoa sen tuôn ra nước, hoặc tay Ngài rủ xuống tuôn nước. Ngài Bị Lộc Y (nghĩa
đen là “khoác da nai”) thì nên dùng da nai để trang nghiêm thân, giống như hình
tượng Phạm Thiên. Khế ấn Mạn-đồ-la giống như trên đã nói, dùng chung chữ Sa (स) làm chủng tử.
Đối với chư
tôn thuộc Kim Cang Bộ ở mặt Nam [của Mạn-đồ-la], cũng có thể dựa theo các danh
hiệu được liệt kê trong kinh để sắp xếp đầy đủ, tùy thuộc đàn tràng vuông,
tròn, tam giác, bán nguyệt v.v… Thân sắc cũng thế, hoặc là cầm bạt-chiết-la
(vajra, chày kim cang) một nhánh, hoặc cầm [bạt-chiết-la] ba nhánh, năm nhánh,
hai mũi nhọn trên dưới v.v… Các thứ hình tướng đặc trưng của kim cang, đúng như
kinh đã nói mà tùy ý xếp đặt. Các thứ đao, búa, móc câu, châm (cái kim) v.v… đều
dùng kim cang làm đặc điểm biểu trưng. Đao thì nơi mũi nhọn và cán đều làm
thành hình mũi chày kim cang bén nhọn. Quyến sách (羂索, dây trói)
và dây xích thì làm thành hình hai đầu đều có hình dáng như bạt-chiết-la
ba nhánh. Luân (bánh xe) thì dùng kim cang chữ thập[94] làm bánh xe, dùng các mũi nhọn bao quanh [để
tạo thành hình bánh xe]. Đạc (鐸, linh)[95]
thì dùng kim cang một nhánh làm cán, buộc kim cang chữ thập làm quả lắc. Những
điều khác đều phỏng theo lệ này để hiểu. Trong Khế Ấn
Mạn-đồ-la[96],
cũng ở trên tòa kim cang đặt hoa sen trắng, trên hoa đặt các vật [biểu tượng] ấy.
Nếu làm Tự Mạn-đồ-la (mạn-đồ-la chỉ vẽ các chữ chủng tử), đối với các quyến thuộc
được thống nhiếp bởi Chấp Kim Cang thì đều dùng chữ Phạ (व, Va), còn các vị Kim Cang khác
thì dùng chữ Hồng (हूं, Hūṃ) làm chủng tử.
Đối với các vị
Bồ Tát thuộc viện thứ hai, nếu trong kinh chép đầy đủ hình tướng của các Ngài,
mỗi mỗi đều theo đúng lời dạy mà vẽ. Không có kinh văn thì đều dùng ấn Chân Đà
Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo
Châu) [để làm vật biểu trưng]. Hãy nên vẽ [các vị ấy] cầm hoa sen, trên hoa đặt
báu Như Ý (Như Ý Bảo Châu), có vòng lửa vây quanh. Hoặc thuận theo ý nghĩa được
diễn tả bởi danh hiệu của các Ngài mà biểu thị, như Bảo Quan Bồ Tát thì đặt mão
trên hoa sen. Bảo Võng Bồ Tát thì đặt lưới trên hoa sen, Bảo Chưởng Bồ Tát thì
trong tay Ngài đặt vật báu. Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Ấn thì trong tay cầm một
bộ luận. Tất cả các chỗ khuyết vị (tức các chỗ kinh không nói rõ danh xưng của
vị tôn thánh ở vị trí đó) đều đặt Hiền Kiếp Bồ Tát.
Các vị như Sứ
Giả, Phụng Giáo v.v… đều vẽ thấp nhỏ [hơn so với tôn thánh mà các vị ấy chầu hầu].
Sứ Giả cầm nắm đao, gậy, hình dạng như đang phòng ngự cửa hẹp. Người phụng giáo
thì hoặc là cầm nắm gậy, ấn, hoặc chiêm ngưỡng vị tôn thánh [họ đang chầu hầu],
dường như đang tiếp nhận sự chỉ huy hay răn truyền. Người thủ hộ thì [có hình dạng]
như người canh cửa, truyền tin, có điều cần bẩm báo. Mỗi mỗi đều theo từng loại
[mà vẽ tương ứng]. Hàng Diễm Ma Tôn (Yamāntaka, Diễm Man Đắc Ca) là quyến thuộc của đức Văn Thù, có
oai thế to lớn. Thân Ngài sáu mặt, sáu tay, sáu chân, dùng trâu nước làm tòa ngồi,
mặt có ba mắt, sắc như mây đen, hình dạng tột bậc phẫn nộ. Hãy nên tra bổn tiếng
Phạn nói về ngài Văn Thù để vẽ đầy đủ. Phàm các vị tôn thánh như thế, nếu các
kinh khác nói đầy đủ hình tướng, cũng có thể dựa theo đó để tô vẽ khi nhập Mạn-đồ-la.
Các vị tôn thánh ấy, nếu kinh Tỳ Lô Giá Na chẳng chép chân ngôn và thủ ấn, tức
là được nói riêng trong các kinh khác, hãy nên dựa theo các kinh ấy để trao
truyền chân ngôn và thủ ấn, bảo [hành nhân] vâng theo thứ tự của pháp hạnh cúng
dường trong kinh này để thực hiện.
Mười phương
chư Phật trong viện thứ ba đều nương theo tướng thông thường để vẽ. Nếu làm Khế
Ấn [Mạn-đồ-la], hãy nên dùng Như Lai đảnh tướng, và chủng tử thì dùng chữ A.
Thanh Văn, Duyên Giác thì nên [vẽ] giống như nghi thức của tỳ-kheo. Trong ấy,
Duyên Giác có chút sai biệt là có thể có tướng nhục kế của bậc đại nhân. Nếu là
Khế Ấn [Mạn-đồ-la], hãy nên dùng bát, ca-sa, tích trượng v.v… để làm các vật biểu
trưng. Chữ chủng tử của các Ngài thì như chân ngôn trong kinh đã nói.
Trước mặt Nhật
Thiên ở phương Đông, có thể đặt thiên nữ Ma Lợi Chi (Marīci) như kinh Đà La Ni Tập[97]
đã nêu. Tám đại tướng Dạ Xoa ở phương Bắc nếu trong đồ hình khuyết thiếu, thì vẽ
hình dạng của họ tương tự, đều mặc giáp trụ, cầm ấn Già Đà (Gadā)[98],
thân tướng viên mãn, đoan chánh. Do trong đường ấy, sở cầu chẳng thiếu thốn, họ
thường vui sướng, tùy ý. Dương Nhĩ, Mã Nhĩ, Tượng Nhĩ v.v… đều là quyến thuộc của
Cưu Bàn Đồ (Kumbhāṇḍa, Đạm Tinh Khí Quỷ, Ủng Hình Quỷ[99]). Thân hình họ chẳng giống Dạ Xoa, đều là thân trần, lông rủ xuống, có
hình dạng phi nhân, tai giống như loài thú. Trong đồ hình có nhắc tới Trì Minh
Tiên, đó là [những ngoại đạo đạt được thành tựu] do sức của các thứ thuốc khác
tạo thành. Tất Địa Trì Minh Tiên đều là những người chuyên nương vào chú thuật
mà đắc Tất Địa. Nói “tiên nhân”
đều là những người theo pháp Vi Đà thờ lửa, siêng tu khổ hạnh, trở thành ngũ
thông thần tiên. Lại còn có Dạ Xoa Trì Minh là loại phước đức tối thắng trong loài
ấy, thuộc về đường trời, lại còn thù thắng hơn tiên nhân trong cõi đời.
Các loại thần
núi, sông, ao, rừng, cây cối, ngũ cốc, thuốc men, thành, ấp, đường sá v.v... đều
dùng danh tự của chính mình để làm tướng biểu trưng: Sơn thần ngồi trong núi,
thần sông ở trong sông, các vị thần cây cối, cỏ thuốc v.v… thì hoặc là tay cầm
nắm [các loại dược thảo], hoặc nương vào đó, hãy nên đều dựa theo nghĩa ấy để
suy ra. Trong kinh Hoa Nghiêm, lại có Túc Hành Thần, Thân Chúng Thần, đều là
các vị thần hộ trì các loài đi nhón gót và thần hộ thân, cũng có thể dựa theo
đó mà sắp đặt theo thứ tự. Hãy nên biết loài phi nhân ở phương Tây đều thuộc
vào thân phổ môn của đức Tỳ Lô Giá Na, thuần là các loại quỷ thần, bàng sanh
v.v… khác nhau. Trong đồ hình, nếu không ghi riêng danh tướng của họ, thì phần
nhiều thuộc loại này. Thuộc về loại này nhiều nhất là Lộ Hệ Đa màu đỏ, Bích Đa
màu vàng, Cật Lật Sắt Noa màu đen. Màu xanh cũng gộp trong loại này. Nếu dựa
theo ý nghĩa rõ rệt ở phương này thì cũng nên nêu riêng từng loại. Cật Lao sắc
trắng, đều là một loại long vương, mỗi mỗi đều dựa theo màu sắc của họ mà vẽ. Nếu
[tên của vị ấy có] thêm chữ Ổ Ba thì màu sắc sẽ nhạt hơn. Tốn Na, Ổ Ba Tốn Na
cũng là đại long vương thủ hộ cửa, đều là tay phải cầm đao, tay trái cầm dây
trói.
Các vị thần chủ
trì năm, tháng, ngày, giờ v.v… đều được vẽ thành hình thiên nữ, cầm nắm các thứ
như cành hoa v.v… để làm biểu tượng đặc trưng. Nếu là người chủ trì thiện sự,
cũng vẽ sao cho hoa ấy có sắc tướng trọn vẹn. Nếu là người chủ trì ác sự thì cầm
hoa, quả héo úa v.v… Vị thần chủ trì sáu thời cũng có thể cầm hoa gồm sáu cành,
thể hiện tướng tùy thời tươi tốt hay rơi rụng để biểu thị chuyện ấy. Đối với vị
thần chủ trì ngày hay đêm, cũng có thể vẽ hoa nở hay cụp để minh thị. Những vị
khác đều phỏng theo trường hợp này. Tất Lăng Cật Lật Tri (Bhṛṇgiriṭi) ở phía Nam là con của Ma Hê Thủ
La (Maheśvara), thân cực khô gầy. Do thường hàng phục oán địch, giả sử xương thịt tiêu sạch
cũng phải đắc thắng, cho nên có hình dáng như thế. Riêng tôi cho rằng đấy là
như Trí Độ Luận nói: “Thường tu khổ hạnh,
cắt thịt để tế lửa, cảm sanh các vị ác thần, cho nên có vị trí tại phương Nam”.
Mười hai vị Hỏa Thiên ấy trong kinh có nói đại lược hình tượng, có một vị khuyết
danh, chỉ dựa theo hình tướng chung của các Hỏa Thiên [để vẽ vị khuyết danh ấy],
các vị khác thì như trong đồ hình đã dạy.
* Phụ chú của người chuyển ngữ:
Đồ hình Thai Tạng Mạn-đồ-la:
Ngoại Kim Cang giới (Bắc) |
Ngoại Kim Cang giới (Đông) |
Ngoại Kim Cang giới (Nam) |
||||
Văn Thù viện |
||||||
Địa Tạng viện |
Thích Ca viện |
Trừ Cái Chướng viện |
||||
Liên Hoa viện |
Chánh Biến Tri viện |
Kim Cang Thủ viện |
||||
Trung Đài Bát Diệp |
||||||
Trì Minh viện |
||||||
Hư Không Tạng viện |
||||||
Tô Tất Địa viện |
||||||
Ngoại Kim Cang giới (Tây) |
Do lời sớ chỉ liệt kê các vị tôn thánh theo từng phương,
không nói rõ vị nào thuộc viện nào, chúng tôi xin liệt kê các vị tôn thánh thuộc
từng viện theo ghi chép trong Hiện Đồ Mạn-đồ-la[100],
hơi khác đôi chút với danh sách các vị tôn thánh trên đây.
1.
Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp)
Chính giữa là Đại Nhật Như Lai, từ vị Phật này, lưu xuất bốn
vị Phật, tạo thành bốn cánh sen chính: Đông phương Bảo Tràng Phật, Nam phương
Khai Phu Hoa Vương Phật, Tây phương Vô Lượng Thọ Phật, và Bắc phương Thiên Cổ
Lôi Âm Phật. Ở bốn góc là bốn cánh sen tương ứng với bốn vị đại Bồ Tát: Góc
Đông Nam là Phổ Hiền Bồ Tát, góc Tây Nam là Văn Thù Bồ Tát, góc Tây Bắc là Quán
Âm Bồ Tát, góc Đông Bắc là Di Lặc Bồ Tát.
2.
Chánh Biến Tri viện (Phật Mẫu viện)
Ở ngay phía trên của Trung Thai Bát Diệp (tức phía Đông của
Mạn-đồ-la. Trong Thai Tạng Mạn-đồ-la, phương Đông ở phía trên cùng của Mạn-đồ-la,
trong khi Kim Cang Giới Mạn-đồ-la thì phương Đông ở phía dưới của Mạn-đồ-la).
Chính giữa viện này là Nhất Thiết Biến Tri Ấn (Nhất Thiết Như Lai Trí Ấn) hình
tam giác, đặt trên hoa sen, bao quanh bởi vòng lửa. Bên phải của ấn ấy là Đại
Dũng Mãnh Bồ Tát và Đại An Lạc Bất Không Chân Thật Kim Cang (Phổ Hiền Diên Mạng
Bồ Tát, Vajrāmoghasamayasattva). Bên trái
của ấn ấy là Phật Nhãn Phật Mẫu (Buddhalocanī)
và Thất Câu Chi Phật Mẫu (Chuẩn Đề Bồ Tát, Cundā,
Cuṇḍī). Hai bên ở phía trên của Nhất Thiết Tri Ấn có vẽ hai vị tôn giả
có kích thước nhỏ hơn, bên trái là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, và bên phải là Già
Da Ca Diếp.
3.
Thích Ca Viện
Viện này ở phía trên của Chánh Biến Tri viện, tức tầng thứ
hai thuộc phương Đông của Mạn-đồ-la. Viện này biểu thị công năng thuyết pháp lợi
sanh của Đại Nhật Như Lai, gồm ba mươi chín vị tôn thánh.
Ở ngay phía trên của ấn Chánh Biến Tri, tương ứng với cửa
Đông là Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Ngài là tôn chủ của viện này. Chung quanh Ngài
có bốn vị tôn thánh, được sắp xếp như sau:
Hư Không Tạng Bồ Tát |
|
Quán Tự Tại Bồ Tát |
|
Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
Vô Năng Thắng Phi |
|
Vô Năng Thắng Kim Cang |
Bên trái của năm vị trung ương ấy, có mười bảy vị, chia
thành hai hàng, hàng trên gồm chín vị, hàng dưới gồm tám vị như sau:
Như Lai Xả |
Như Lai Hỷ |
Xá Lợi Phất |
Ca Diếp Ba |
Tu Bồ Đề |
Đại Mục Kiền Liên |
Đa Ma La Hương Bích Chi Phật |
Chiên Đàn Hương Bích Chi Phật
|
Như Lai Thước Khất Để[101] |
Như Lai Từ |
Như Lai Mẫn |
Như Lai Bi |
Vô Lượng Thanh Phật Đảnh |
Quang Tụ Phật Đảnh |
Đại Chuyển Luân Đảnh |
Như Lai Hào Tướng |
Nhất Thiết Như Lai Bảo |
|
Bên phải của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng gồm mười bảy vị,
hàng trên là chín vị, hàng dưới là tám vị.
Như Lai Nha |
Luân Bức Bích Chi Phật |
Bảo Bức Bích Chi Phật |
Câu Hy La |
A Nan |
Ca Chiên Diên |
Ưu Ba Ly |
Trí Câu Hy La |
Cúng Dường Vân Hải |
Bạch Tán Cái Phật Đảnh |
Thắng Phật Đảnh Chuyển Luân |
Tối Thắng Phật Đảnh Chuyển
Luân |
Cao Phật Đảnh |
Tồi Toái Phật Đảnh |
Như Lai Thiệt |
Như Lai Ngữ |
Như Lai Tiếu |
|
4.
Văn Thù Viện
Viện này ở phía trên Thích Ca viện, biểu thị trí huệ mầu
nhiệm của Đại Nhật Như Lai, đoạn trừ hết thảy hý luận, quán chiếu Trí Đức,
chính giữa viện này là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và bốn vị quyến thuộc như sau.
Quán Tự Tại Bồ Tát |
|
Phổ Hiền Bồ Tát |
|
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát |
|
Đối diện hộ môn |
|
Đối diện hộ môn |
Bên phải của Văn Thù Bồ Tát gồm có mười vị, được phân bố
như sau:
Kế Thiết Ni |
Ổ Ba Kế Thiết Ni |
Chất Đa La |
Địa Huệ |
Câu Triệu Sứ Giả |
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ giả |
|
Sứ giả |
|
|||||
Câu Triệu sứ giả quyến thuộc |
|
Sứ giả |
Bên trái là mười vị như sau
Phì Giả Da |
|
A Nhĩ Đa |
Diệu Âm Bồ Tát |
Nguyệt Quang Bồ Tát |
Vô Cấu Quang Bồ Tát |
Bảo Quan Bồ Tát |
Võng Quang Bồ Tát |
|
Đồng Mẫu Rô |
|
|||||
Giả Da |
|
A Ba La Nhĩ |
5.
Liên Hoa Bộ Viện
Viện này nằm bên phải của Trung Thai Bát Diệp (tức bên phải
của Đại Nhật Như Lai), biểu thị lực dụng đại bi của Đại Nhật Như Lai, gồm hai
mươi mốt vị tôn thánh, sắp xếp như sau:
Bị Diệp Y Bồ Tát |
Đại Tùy Cầu Bồ Tát |
Liên Hoa Bộ Phát Sanh Bồ Tát |
Bạch Thân Quán Thế Âm Bồ Tát |
Tốt Đổ Ba Đại Cát Tường Bồ
Tát |
Đại Thế Chí Bồ Tát |
Phong Tài Bồ Tát |
Da Thâu Đà La Bồ Tát |
Tỳ Câu Chi Bồ Tát |
Bất Không Quyến Sách Bồ Tát |
Như Ý Luân Bồ Tát |
Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát |
Thủy Cát Tường Bồ Tát |
Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát
|
Đa La Bồ Tát |
Đại Cát Tường Biến Bồ Tát |
Đại Cát Tường Minh Bồ Tát |
Đại Minh Bạch Thân Bồ Tát |
Bạch Xứ Tôn Bồ Tát |
Tịch Lưu Minh Bồ Tát |
Mã Đầu Quán Thế Âm |
Ngoài ra còn có các vị Đa La sứ giả (thị giả của Đa La Bồ
Tát), Phụng Giáo sứ giả (thị giả của Tỳ Câu Chi Bồ Tát), Liên Hoa Quân Đồ Lợi
(thị giả của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát), Man Cúng Dường (thị giả của Đại Cát Tường
Đại Minh Bồ Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả, ba vị Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại
Tùy Cầu Bồ Tát), Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Da Thâu Đà La), Bảo Cúng Dường
(thị giả của Như Ý Luân Quán Âm), Thiêu Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị
giả của Đại Cát Tường Minh Bồ Tát), hai vị Liên Hoa Bộ sứ giả (dâng cúng hoa
tươi), Đồ Hương Bồ Tát, Liên Hoa Bộ sứ giả (thị giả của Đại Cát Tường Biến Bồ
Tát). Các vị này sẽ vẽ rất nhỏ, gần với các vị tôn thánh mà họ chầu hầu.
6.
Kim Cang Thủ viện
Nằm bên trái trong tầng thứ nhất của Trung Thai Bát Diệp,
biểu thị Thật Trí của Như Lai cũng như lực dụng của Như Lai huệ, có thể phá tan
các Hoặc nghiệp chướng, được sắp xếp như sau:
Phát Sanh Kim Cang Bộ Bồ Tát |
Hư Không Vô Cấu Trì Kim Cang
Bồ Tát |
Kim Cang Luân Trì Kim Cang Bồ
Tát |
Kim Cang Câu Nữ Bồ Tát |
Kim Cang Lao Trì Bồ Tát |
Kim Cang Thuyết Bồ Tát |
Kim Cang Thủ Trì Kim Cang Bồ
Tát |
Phẫn Nộ Kim Cang Trì Bồ Tát |
Trạch Duyệt Trì Kim Cang Bồ
Tát |
Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát |
Hư Không Vô Biên Siêu Việt Bồ
Tát |
Kim Cang Nha Bồ Tát |
Trì Kim Cang Phong Bồ Tát |
Kim Cang Tỏa Bồ Tát |
Ly Hý Luận Bồ Tát |
Kim Cang Quyền Bồ Tát |
Trì Kim Cang Bồ Tát |
Trì Diệu Kim Cang Bồ Tát |
Phẫn Nộ Nguyệt Yển Tôn Bồ Tát |
Trì Kim Cang Lợi Bồ Tát |
Đại Luân Kim Cang Bồ Tát |
7. Địa
Tạng Viện
Thuộc tầng thứ hai, bên phải của Trung Thai Bát Diệp, biểu
thị sức đại bi cứu độ chúng sanh trong chín pháp giới, bộ chủ là Địa Tạng Bồ
Tát. Viện này gồm các vị tôn thánh, xếp từ trên xuống dưới theo thứ tự: Trừ Nhất
Thiết U Minh Bồ Tát (Trừ Nhất Thiết Ưu Não Bồ Tát), Bất Không Kiến Bồ Tát, Bảo Ấn
Bồ Tát, Bảo Xứ Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Kiên Cố
Thâm Tâm Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát.
8.
Trì Minh viện (Ngũ Đại viện, Phật Mẫu viện)
Nằm ngay dưới Trung Thai Bát Diệp, biểu thị đức chiết phục
và nhiếp thọ. Chính giữa là Bát Nhã Phật Mẫu, hai bên lần lượt là Đại Oai Đức
Minh Vương, Thắng Tam Thế Minh Vương, Hàng Tam Thế, và Bất Động Minh Vương.
9.
Hư Không Tạng viện
Nằm ngay dưới Trì Minh Viện, biểu thị bi trí hợp nhất, bao
hàm vạn đức, có thể ban vật báu cho hết thảy chúng sanh, trọn đủ các đức. Các vị
tôn thánh được chia thành hai hàng như sau:
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế
Âm Bồ Tát |
Đàn Ba La Mật Bồ Tát |
Giới Ba La Mật Bồ Tát |
Nhẫn Ba La Mật Bồ Tát |
Tinh Tấn Ba La Mật Bồ Tát |
Thiền Ba La Mật Bồ Tát |
Hư Không Tạng Bồ Tát |
Bát Nhã Ba La Mật |
Phương Tiện Ba La Mật |
Nguyện Ba La Mật |
Lực Ba La Mật |
Trí Ba La Mật |
Nhất Bách Bát Tý Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát |
|
Bất Không Câu Quán Tự Tại Bồ Tát |
Phẫn Nộ Câu Quán Tự Tại Bồ Tát |
Sanh Phẫn Xứ Bồ Tát |
Cộng Đăng Ý Vận Chuyển Bồ Tát |
Vô Cấu Thệ Bồ Tát |
Tô Bà Hồ Bồ Tát |
Kim Cang Châm Bồ Tát |
Tô Tất Địa Yết La Bồ Tát |
Mạn Đồ La Bồ Tát |
10.
Tô Tất Địa viện
Nằm ngay dưới Hư Không Tạng viện, biểu thị sự thành tựu
trong ba bộ của Thai Tạng Giới, gồm: Bất Không Cúng Dường Bồ Tát, Khổng Tước
Vương mẫu, Nhất Kế La Sát, Thập Nhất Diện Quán Âm, Bất Không Kim Cang Bồ Tát,
Kim Cang Quân Đồ Lợi, Kim Cang Tướng Bồ Tát, Kim Cang Minh Vương Bồ Tát.
11.
Trừ Cái Chướng viện
Trong tầng thứ hai, ở bên trái của Kim Cang Thủ Viện, biểu
thị tác dụng trừ cái chướng phiền não của Kim Cang Trí, gồm: Bi Mẫn Huệ Bồ Tát,
Phá Ác Thú Bồ Tát, Thí Vô Úy Bồ Tát, Hiền Hộ Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Bi
Mẫn Bồ Tát, Từ Phát Sanh Bồ Tát, Chiết Chư Nhiệt Não Bồ Tát, Bất Tư Nghị Bồ
Tát.
12.
Kim Cang Ngoại Giới ở phương Đông
Gồm các vị Y Xá Na Thiên, Hỷ Diện Thiên, Thường Túy Thiên,
Khí Thủ Thiên Hậu, Khí Thủ Thiên, Kiên Lao Địa Thần Hậu, Kiên Lao Địa Thần, Phi
Tưởng Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Thức Vô Biên Xứ Thiên, Không Vô Biên Xứ Thiên,
Nặc Da (quyến thuộc của Nhật Thiên), Nhật Thiên, Vi Nặc Da, Đế Thích Thiên, Thủ
Môn Thiên, Thủ Môn Nữ thiên nữ, Thủ Môn Thiên, Thủ Môn thiên nữ (hai vị này còn
gọi là Tương Hướng Thủ Hộ), Trì Quốc Thiên, Đại Phạm Thiên, Mão Tú, Tất Tú, Chủy
Tú, Sâm Tú, Quỷ Tú, Tỉnh Tú, Liễu Tú, Ngưu Mật Cung, Bạch Dương Cung, Phu Phụ
Cung, Tuệ Tinh, Lưu Tinh, Nhật Diệu, Bà Tẩu tiên hậu, Bà Tẩu đại tiên, Hỏa
Thiên hậu, Hỏa Thiên.
13.
Ngoại Kim Cang Giới viện - phương Bắc
Nằm ở bên phải Trung Thai Bát Diệp, ở rìa ngoài cùng, gồm
hai vị Phong Thiên quyến thuộc, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ nhất của Quang Âm
Thiên), Quang Âm Thiên, Quang Âm thiên nữ (vợ thứ hai của Quang Âm Thiên), hai
vị Đại Quang Âm thiên nữ, Đại Quang Âm Thiên, hai vị Đâu Suất thiên nữ, Đâu Suất
Thiên, hai vị Tha Hóa Tự Tại thiên nữ, Tha Hóa Tự Tại Thiên, hai vị Trì Man
thiên nữ, Trì Ma Thiên, hai vị Thành Tựu Trì Minh tiên nữ, Thành Tựu Trì Minh
Tiên, ba vị Ma Hầu La Già, hai vị Khẩn Na La, hai vị Ca Thiên, Nhạc Thiên, Đế
Thích Thiên Phi, Đế Thích Thiên, Câu La Phì (tức Cưu Bệ La Thiên, Kubera), Câu
La Phì nữ, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, Tỳ Sa Môn Thiên, Thành Tựu
Trì Minh Tiên, Thành Tựu Trì Minh tiên nữ, Hư Tú, Nguy Tú, Thất Tú, Khuê Tú,
Bích Tú, Vị Tú, Lâu Tú, Thiếu Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung, Kim Diệu (Kim
Tinh), Chiến Quỷ, Tỳ Na Dạ Ca, Ma Ha Ca La, Y Xá Na thiên phi.
14.
Ngoại Kim Cang giới viện – phương Nam
Gồm A Nghệ La Tiên, A Nghệ La tiên hậu, Cù Đàm Tiên, Cù Đàm
tiên hậu, Tỳ Nữu nữ, Tự Tại nữ, Dạ Ma nữ (ba vị này là quyến thuộc của Diêm
Vương), Hiền Bình Cung, Yết Ma Cung, Song Ngư Cung, La Hầu Tinh, Mộc Diệu, Hỏa
Diệu, Tinh Tú, Chẩn Tú, Cang Tú, Trương Tú, Dực Tú, Giác Tú, Đê Tú, hai vị Dược
Xoa Trì Minh nữ, Dược Xoa Trì Minh, Tăng Trưởng Thiên, Tăng Trưởng Thiên sứ giả,
Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương, hai A Tu La, Diễm Ma Thiên, Hắc Ám thiên
nữ, Thái Sơn Phủ Quân, Quỷ chúng, Đoạt Nhất Thiết Nhân Mạng, tám quỷ Tỳ Xá Xà,
ba Đồ Cát Ni, tử quỷ, bốn vị Trì Minh Thành Tựu Tiên, Ma Ni A Tu La, hai quyến
thuộc của Ma Ni A Tu La, A Tu La, hai quyến thuộc của A Tu La, hai Ca Lâu La,
hai Cưu Bàn Trà.
15.
Ngoại Kim Cang giới viện – phương Tây
Bao gồm Niết Rị Để vương, hai La Sát nữ, Đại Tự Tại Thiên,
Đại Tự Tại Thiên phi, Phạm Thiên nữ, Đế Thích nữ, Cưu Ma Lợi, Giá Văn Đồ, Ma
Noa Xá (nữ), Ma Noa Xá (nam), Thủy Diệu, Thổ Diệu, Nguyệt Diệu, Xứng Cung, Hạt
Trùng Cung, Cung Cung, Nữ Tú, Ngưu Tú, Đẩu Tú, Vĩ Tú, Cơ Tú, Phòng Tú, Tâm Tú,
Thủy Thiên quyến thuộc, Thủy Thiên, Nan Đà long vương, Ô Ba Nan Đà long vương,
Đối Diện Thiên, Nan Phá Thiên, Quảng Mục Thiên, Thủy Thiên, Thủy Thiên Phi, Thủy
Thiên Phi quyến thuộc, Na La Diên Thiên, Na La Diên Thiên Phi, Biện Tài Thiên,
Cưu Ma La Thiên, Nguyệt Thiên, Nguyệt Thiên Phi, Cổ Thiên, hai vị Ca Thiên, Nhạc
Thiên, hai vị Phong Thiên Phi quyến thuộc, Phong Thiên Phi, Phong Thiên quyến
thuộc, Phong Thiên.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ư
nhất thiết chúng
hội trung, đế quán Đại Nhật Như
Lai, mục bất tạm thuấn, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhất thiết trí huệ giả, xuất hiện
ư thế gian, như bỉ Ưu Đàm Hoa, thời thời nãi nhất hiện. Chân ngôn sở hành đạo,
bội phục thậm nan ngộ. Vô lượng câu-chi kiếp, sở tác chúng tội nghiệp, kiến thử
Mạn-đồ-la, tiêu diệt tận vô dư, hà huống vô lượng xưng, trụ chân ngôn hành
pháp? Hành thử vô thượng cú, chân ngôn cứu thế giả, chỉ đoạn chư ác thú, nhất
thiết khổ bất sanh. Nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động.
(經)爾時,執金剛祕密主於一切眾會中,諦觀大日如來,目不暫瞬,而說偈言:一切智慧者,出現於世間,如彼優曇華,時時乃一現。真言所行道,倍復甚難遇,無量俱胝劫,所作眾罪業,見此漫荼羅,消滅盡無餘,何況無量稱,住真言行法?行此無上句,真言救世者,止斷諸惡趣,一切苦不生。若修如是行,妙慧深不動。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
trong hết thảy chúng hội trung, quán kỹ Đại Nhật Như Lai, mắt chẳng tạm nháy,
mà nói kệ rằng: - Hết thảy bậc trí huệ, xuất hiện trong thế gian, như hoa Ưu
Đàm kia, lâu lâu hiện một lần. Tu hành đạo Chân Ngôn, càng khó gặp bội phần. Vô
lượng câu-chi kiếp, trót tạo các tội nghiệp, thấy Mạn-đồ-la này, diệt sạch chẳng
còn sót. Huống hồ vô lượng xưng, trụ hành pháp Chân Ngôn? Hành câu vô thượng
này, chân ngôn đấng cứu thế, dứt đoạn các đường ác, hết thảy khổ chẳng sanh. Nếu
tu hạnh như thế, diệu huệ sâu bất động).
Khi đó, đức Phật thị hiện
Phổ Môn Mạn-đồ-la như thế, diễn thuyết phương vị của chư tôn trong đồ hình đã
xong. Ngài Bí Mật Chủ dùng Phổ Nhãn quán mỗi vị tôn thánh ấy, đều chẳng thấy
căn bản, mà cũng chẳng có trụ xứ, đều là thân Thật Tướng nơi Liên Hoa Đài Tạng,
sanh ra đủ loại phương tiện chẳng thể cùng tận. Lúc bấy giờ, Ngài tự vui mừng
sâu xa, phát tâm hy hữu, sanh ý tưởng khó gặp gấp bội đối với pháp này. Do muốn
hỏi nghĩa càng sâu hơn, cho nên Ngài trước hết nói kệ. Bài kệ đầu tiên có ý
nói: “Hết thảy các bậc trí huệ xuất hiện trong thế gian, giống như hoa Linh Thụy,
rất lâu mới hiện một lần”. Phật như hoa Ưu Đàm tuy khó gặp, nhưng pháp yếu Chân
Ngôn này lại càng bội phần khó gặp hơn. Vì sao vậy? Đây là tạng bí mật của Như
Lai, được thủ hộ trong đêm dài, chẳng truyền trao bừa bãi cho người khác! Nếu
chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được truyền trao. Khi đức Thế Tôn còn tại
thế, pháp này còn bị nhiều nỗi oán ghét, huống hồ đời Mạt ư?
Hơn nữa, kinh này tự giải
thích nhân duyên khó hiện: Nếu chúng sanh được thấy Mạn-đồ-la này, ác nghiệp trọng
chướng từ vô thỉ tới nay sẽ bị dẹp tan, chẳng còn thừa sót, nhất định được thọ
ký Đại Bồ Đề. Vì thế, chẳng phải là kẻ độn căn, phước mỏng mà có thể gặp gỡ được!
Được thấy còn khó, huống hồ theo thứ tự tu hành ư? Hãy nên biết người ấy lại
càng hiếm có, thường được Phổ Môn hải hội ca ngợi, tiếng vang dội mười phương.
Lại giống như Đại Nhật Như Lai có đủ loại danh hiệu, nên nói là “vô lượng xưng”.
Kinh nói “hành thử vô thượng cú” (hành câu vô
thượng này) tức là tu hành câu Bồ Đề vô thượng. Môn chữ A này là vua của hết thảy
các chân ngôn, giống như đức Thế Tôn là vua của các pháp. Vì thế nói: “Chân ngôn cứu thế giả” (Đấng Chân
Ngôn cứu đời). Câu thứ hai nói về nghiệp cứu thế, có thể khiến cho hành nhân
thành tựu Kim Cang Tánh, “chỉ đoạn chư
ác thú, nhất thiết khổ bất sanh” (ngưng dứt các đường ác, hết thảy khổ
chẳng sanh).
Kinh nói “nhược tu như thị hạnh, diệu huệ thâm bất động”
(nếu tu hạnh như thế, diệu huệ sâu bất động): Nếu nói theo bản chép đầy đủ, phải
là “huệ cực thâm bất động” (trí
huệ đạt đến cùng cực, sâu xa, bất động), như tâm đại hải, do đã cực sâu rộng, lại
tột bậc xa lìa hai bên, thậm chí khi bão tố dấy lên, vẫn chẳng thể lay động. Nếu
khi hành giả nhập cái tâm biển cả Chân Ngôn này thì cũng giống như thế, do diệu
huệ rất sâu vô lượng, lại tột bậc xa lìa nhị biên, hết thảy các pháp chẳng thể
lay động. Như vua rồng Sa Kiệt La (Sāgara) tuôn mưa suốt sáu ngày, khi đó, trong cung của chính ông ta,
ba nghiệp đều chẳng dấy khởi. Nếu hiểu nghĩa như thế, sẽ biết các thứ phương tiện
trong Mạn-đồ-la đều trụ trong Thật Tế!
(Kinh) Thời, phổ tập hội nhất thiết đại chúng, cập chư Trì Kim
Cang giả, dĩ nhất âm thanh tán thán Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai! Thiện tai!
Đại Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết Chân Ngôn
nghĩa. Ngã đẳng hàm hữu ý tư duy, nhất thiết hiện vị nhữ chứng nghiệm, y trụ
Chân Ngôn chi hạnh lực, cập dư Bồ Đề đại tâm chúng, đương đắc thông đạt Chân
Ngôn pháp.
(經)時,普集會一切大眾及諸持金剛者,以一音聲讚歎金剛手言:善哉!善哉!大勤勇,汝已修行真言行,能問一切真言義。我等咸有意思惟,一切現為汝證驗,依住真言之行力,及餘菩提大心眾,當得通達真言法。
(Kinh: Khi đó, hết thảy đại chúng trong hội nhóm họp trọn khắp
và các vị Trì Kim Cang dùng một âm thanh tán thán ngài Kim Cang Thủ rằng: -
Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng, ông đã tu hành hạnh Chân Ngôn, có thể hỏi hết
thảy nghĩa Chân Ngôn. Chúng tôi đều có ý tư duy, hết thảy sẽ vì ông chứng nghiệm,
nương theo sức của hạnh Chân Ngôn, và các Bồ Đề đại tâm chúng, sẽ được thông đạt
pháp Chân Ngôn).
Các đại chúng ấy nghe đức
Phật rộng diễn các phương vị trong Mạn-đồ-la xong, muốn hỏi các biểu tượng đặc
trưng cho pháp giới và sự nghiệp Kim Cang trong ấy, do kính trọng đức Thế Tôn,
chưa dám thốt lời. Do ngài Kim Cang Thủ có thể quán sát tâm đại chúng, bèn thừa
dịp nói kệ, ắt biết họ muốn đoạn lưới nghi, lợi ích rộng khắp vô lượng chúng
sanh. Do vậy, [đại chúng] khen ngợi, chứng minh, khuyên Ngài hỏi han. Hơn nữa,
các đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật, do nhất tâm, một mực,
khiến cho một người tụng lời pháp âm này, chẳng phải là mỗi người đều cùng lúc
riêng nói. Kệ rằng: “Thiện tai! Thiện
tai! Đại Cần Dũng, nhữ dĩ tu hành Chân Ngôn hạnh, năng vấn nhất thiết chân ngôn
nghĩa. Ngã đẳng hàm hữu ý tư duy” (Lành thay! Lành thay! Đại Cần Dũng, ông đã tu hành hạnh Chân Ngôn, hay hỏi
hết thảy nghĩa Chân Ngôn. Chúng tôi đều có ý tư duy): “Hạnh
Chân Ngôn” chính là pháp môn Tam Bình Đẳng, ông là thượng thủ bậc nhất
trong những người trì Tam Mật, cho nên có thể hỏi đức Thế Tôn về nghĩa sâu Phổ
Môn. Như nhân giả toan hỏi ý nghĩa của đức Phật, chúng tôi cũng đều suy nghĩ ấy,
nay thảy đều đồng tâm suy nghĩ, mong biết, ông hãy nên mau chóng thưa trình. Kế
đó nói: “Nhất thiết hiện vị nhữ chứng
nghiệm, trụ Chân Ngôn chi hạnh lực” (Hết thảy nay vì ông chứng nghiệm,
trụ trong hạnh lực của Chân Ngôn), ý nói: Chúng tôi khi sơ phát tâm, do trụ
trong câu vô thượng này, thậm chí có thể bất động trong biển Kim Cang huệ rất
sâu. Vì thế, nhất định sẽ sư tử hống, sẽ hiện chứng minh cho bài kệ ông vừa nói
trên đây. Nếu ông muốn thưa hỏi phương tiện bí mật của Như Lai, những người có
lòng mong cầu Đại Thừa sẽ do hạnh pháp Chân Ngôn mà đều được thông đạt. Do
thông đạt, siêng năng tu hành chẳng lâu, cũng sẽ giống như chúng tôi không
khác. Do thấy nghĩa lợi như thế, dùng một âm thanh mà đồng tâm khuyến trợ vậy!
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục bạch Thế Tôn, nhi thuyết
kệ ngôn: - Vân hà thái sắc nghĩa? Phục đương dĩ hà sắc? Vân hà nhi vận bố? Thị
sắc thùy vi sơ? Môn tiêu kỳ lượng đẳng, sương vệ diệc như thị. Vân hà kiến chư
môn? Nguyện tôn thuyết kỳ lượng. Phụng thực, hương, hoa đẳng, cập dữ chúng bảo
bình. Vân hà dẫn đệ tử? Vân hà linh quán đảnh? Vân hà cúng dường sư? Nguyện
thuyết hộ-ma xứ. Vân hà chân ngôn tướng? Vân hà trụ tam-muội?
(經)爾時,執金剛祕密主復白世尊而說偈言:云何彩色義?復當以何色?云何而運布?是色誰為初?門標旗量等,廂衛亦如是。云何建諸門?願尊說其量。奉食華香等,及與眾寶瓶,云何引弟子?云何令灌頂?云何供養師?願說護摩處。云何真言相?云何住三昧?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại bạch đức Thế Tôn, mà nói kệ rằng: -
Màu sắc nghĩa thế nào? Lại nên dùng màu nào? Sắp đặt như thế nào? Màu nào dùng
đầu tiên? Kích thước cửa, cờ quạt? Góc xép cửa cũng thế. Lập các cửa ra sao?
Kính xin nói kích thước! Dâng thức ăn, hương, hoa, và bình bằng các báu. Dẫn đệ
tử ra sao? Dạy quán đảnh thế nào? Cúng dường thầy ra sao? Xin nói chỗ hộ-ma, tướng
chân ngôn thế nào? Trụ tam-muội ra sao?)
Lúc bấy giờ, ngài Bí Mật Chủ
do được đại chúng khuyến phát, liền nói già-tha (kệ tụng) để rộng hỏi đức Thế
Tôn. Bài kệ đầu tiên hỏi về ý nghĩa của màu sắc, gồm có bốn câu. Câu đầu tiên hỏi
về ý nghĩa của màu sắc [được dùng trong Mạn-đồ-la] là như thế nào? Câu thứ hai
nhằm hỏi nên chọn màu sắc nào? Câu thứ ba hỏi nên sắp đặt các màu ấy ra sao?
Trước hết, [xếp đặt] ở chỗ nào? Trong hay là ngoài? Câu thứ tư hỏi: Sắp xếp các
màu sắc thì màu nào xếp đầu tiên? Đây chính là một loại chi phần thuộc về Thời
của Mạn-đồ-la.
Bài kệ kế đó hỏi về các biểu
tượng nơi các cửa [của đàn tràng], gồm ba câu kệ: Câu đầu tiên hỏi về hình dạng
và kích thước của cửa và cờ quạt [treo trên cửa ấy]. Câu thứ hai hỏi về hình dạng
và kích thước của “môn sương”
(tức là chỗ trống hai bên cửa để đặt các vị thủ hộ). Câu thứ ba hỏi về cách kiến
lập các cửa: Hình dạng, kích thước, và pháp tắc của chúng. Đủ loại biểu trưng
bí mật như thế, A-xà-lê đều nên khéo thông đạt. Đây lại là một chi phần khác.
Kế đó có hai bài kệ, nói
chung có tám câu hỏi:
- Câu đầu tiên hỏi về cách
dâng cúng thức ăn, hương, hoa v.v… như thế nào?
- Câu thứ hai hỏi về pháp tắc
bảo bình. Hãy nên biết hết thảy các thứ vật cúng dường đều được bao gồm trong
đó, A-xà-lê hãy nên tùy theo từng sự mà biện định tánh loại của chúng. Đây cũng
lại là một loại chi phần.
- Câu thứ ba hỏi [thầy sẽ]
dẫn dắt đệ tử vào Mạn-đồ-la như thế nào?
- Câu thứ tư hỏi thực hiện
pháp quán đảnh như thế nào?
- Câu thứ năm là hỏi thân cận,
phụng sự vị tôn thánh mà chính mình tôn thờ như thế nào? Nhưng trong ấy lại có
hai loại:
1) Nếu là hành nhân nương theo Thế Đế Mạn-đồ-la, sẽ triệu vời
đệ tử vào đàn để quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào?
2) Nếu đã tu tập Du Già, thực hiện Bí Mật Quán Đảnh, sẽ triệu
vời đệ tử quán đảnh, dâng cúng A-xà-lê như thế nào? Trong khi đang tác pháp, tất
cả các phương tiện gia trì dạy bảo đều được nhiếp thuộc trong ấy. Đó lại là một
loại chi phần nữa.
- Câu thứ sáu là hỏi về nơi
chốn để hộ-ma, cũng có hai cách giải thích nông cạn và bí mật, và các phương tiện
lạ như Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục v.v…
- Câu thứ bảy hỏi về bộ loại,
tự nghĩa, và cú nghĩa của chân ngôn.
- Câu thứ tám hỏi về tướng
sai biệt của các môn tam-muội cạn sâu sai khác.
Phàm A-xà-lê mà chưa khéo
thông đạt pháp như thế, chớ nên kiến lập Mạn-đồ-la. Điều này lại hợp thành ba
loại chi phần vậy!
(Kinh) Như thị phát vấn dĩ, Mâu Ni chư pháp vương, cáo Trì Kim Cang Huệ:
- Nhất tâm ưng đế thính, tối thắng chân ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả, nhữ
kim thỉnh vấn ngã, vị đại hữu tình thuyết, nhiễm bỉ chúng sanh giới, dĩ pháp giới
chi vị, cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa. Tiên an bố nội sắc, phi
an bố ngoại sắc, khiết bạch tối vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng cập
thanh, tiệm thứ nhi chương trước, nhất thiết nội thâm huyền, thị vị sắc tiên hậu.
(經)如是發問已,牟尼諸法王,告持金剛慧:一心應諦聽。最勝真言道,出生大乘果,汝今請問我,為大有情說。染彼眾生界,以法界之味,古佛所宣說,是名為色義。先安布內色,非安布外色 ,潔白最為初 ,赤色為第二,
如是黃及青,漸次而彰著,一切內深玄,是謂色先後。
(Kinh:
Thưa hỏi như thế rồi, đấng Mâu Ni vua của các pháp, bảo ngài Trì Kim Cang Huệ:
- Nên nhất tâm lắng nghe, đạo chân ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại Thừa. Ông
nay thưa hỏi ta, vì đại hữu tình nói. Nhuộm chúng sanh giới ấy, dùng vị của
pháp giới, được cổ Phật tuyên nói. Đó là nghĩa của sắc. Trước xếp đặt nội sắc,
chẳng xếp bày ngoại sắc. Khiết bạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi
xanh như thế, lần lượt được phô rõ, sâu huyền trong hết thảy, gọi là sắc trước
sau).
Hỏi như thế xong, đấng Đại Tịch pháp vương bảo ngài Chấp Kim Cang rằng:
“Ông hãy nên nhất tâm lắng nghe” rồi nói kệ rằng: “Tối thắng Chân Ngôn đạo, xuất sanh Đại Thừa quả” (Đạo Chân Ngôn tối thắng, xuất sanh quả Đại Thừa). “Quả Đại Thừa” tức là vô thượng huệ của Phật, phải do phương tiện
như thế mà được sanh. Do ông khéo dùng lời tốt lành thưa hỏi ta, nên ta nay vì
trọn khắp các vị Ma Ha Tát khai thị diễn thuyết (“đại hữu tình” trong lời kệ chính là dịch nghĩa của chữ Ma Ha
Tát).
Bài kệ thứ nhất giải đáp ý
nghĩa của sắc: “Nhiễm bỉ chúng sanh giới,
dĩ pháp giới chi vị. Cổ Phật sở tuyên thuyết, thị danh vi sắc nghĩa” (Để
nhuộm chúng sanh thì dùng vị của pháp giới. Do vậy, đức Phật tuyên nói. Đó gọi
là ý nghĩa của màu sắc): Giống như nhuộm màu trong thế gian, có thể nhuộm vải sạch
thành cùng một vị. Vì thế, dùng vị để giải thích sắc. Như nói “ca-sa vị” tức là nhuộm thành màu
ca-sa. Nay ý nghĩa của sắc trong Mạn-đồ-la này cũng thế: Dùng sắc chẳng thể
nghĩ bàn của pháp giới để nhuộm tâm của chúng sanh thành cùng một vị Bồ Đề
thanh tịnh. Lại như thế gian nhuộm áo, trước là dùng nước tro để gột tẩy cho áo
dễ ăn màu. Nay dùng môn chữ Ra (र) để thiêu đốt tâm cấu của đệ tử cháy sạch thành tro. Sau đấy,
dùng nước đại từ bi thuộc môn chữ Phạ (व, Va) để gột rửa, khiến cho thuần nhất, trong sạch, lìa các
hý luận. Sau đấy mới nhuộm thành pháp giới Mạn-đồ-la, khiến cho các thứ thân Phổ
Môn đều có cùng màu với Thật Tướng.
Kế đó, có hai bài kệ đáp
chung ba câu hỏi. Hỏi “trong các màu sắc
ấy, nên dùng màu nào?” Nay trong lời đáp, [đức Phật dạy hãy] dùng trọn
năm sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Kệ nói: “Tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc” (Trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc, [hàm nghĩa:] Khi tô màu mạn-đồ-la,
phải nên làm theo thứ tự từ trong ra ngoài), nhằm trả lời câu hỏi “xếp đặt sắc như thế nào?” Chỗ nào bắt
đầu trước, chỗ nào bắt đầu sau. “Khiết
bạch dĩ vi sơ, xích sắc vi đệ nhị, như thị hoàng cập thanh, tiệm thứ nhi chương
trước. Nhất thiết nội thâm huyền, thị vi sắc tiên hậu” (Trắng sạch là đầu tiên, màu đỏ là thứ hai, vàng rồi xanh như thế, lần lượt
được nêu rõ. Màu đen sẫm trong hết thảy. Đó là thứ tự trước sau của các màu) tức là giải đáp câu
hỏi “sắc nào là đầu tiên?” Khiết
bạch là tịnh pháp giới sắc của đức Tỳ Lô Giá Na, tức là cội nguồn của hết thảy
chúng sanh; vì thế là tối sơ. Đỏ là màu của Bảo Tràng Như Lai, đã phát Bồ Đề
tâm do hiểu đạo, hàng phục ma oán, diệt trừ cái chướng. Vì thế là thứ hai. Màu
vàng là màu của Sa La Thụ Vương Phật (Khai Phu Hoa Vương Phật), do khi thành
Chánh Giác, muôn đức nở xòe, đều đạt tới Kim Cang Thật Tế, nên là thứ ba. Xanh
là màu của Vô Lượng Thọ Phật, đã đạt được Kim Cang Thật Tế, tức là dùng phương
tiện gia trì, hiện trọn khắp Đại Bi Mạn-đồ-la, như trong hư không thanh tịnh chứa
đựng trọn đủ vạn tượng, cho nên là thứ tư. Màu đen là màu của Cổ Âm Như Lai
(Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai). Sở dĩ hóa hiện dấu tích Phổ Môn đều vì hiển lộ Bổn. “Bổn” tức là địa vị do Như Lai tự chứng,
trụ trong Đại Niết Bàn. Nếu bỏ đi thần lực gia trì, sẽ chẳng phải là cảnh giới
mà tâm lượng của hết thảy chúng sanh có thể lãnh hội. Vì thế, sắc này u huyền,
xếp vào sau cùng.
Lại nữa, như lụa sạch trong
thế gian, sẽ nhuộm các màu trước. Cuối cùng, màu đen là màu nhuộm tột cùng, do
quá sẫm, chẳng thể nhuộm thêm nữa, cho nên xếp sau cùng. Ý nghĩa màu sắc trong
Mạn-đồ-la cũng giống như thế. Trắng nghĩa là “vượt khỏi một trăm sáu mươi tâm cấu”.
Đó là màu của Tín; cho nên đứng đầu. Đỏ là ý nghĩa Đại Cần Dũng, là màu của
Tinh Tấn. Vì thế là thứ hai. Vàng nghĩa là “khi một niệm tương ứng, Định và Huệ cân bằng, Thất Giác nở xòe”.
Đó gọi là màu của Niệm. Vì thế, đứng thứ ba. Xanh là ý nghĩa Đại Không tam-muội,
là màu của Định. Vì thế là thứ tư. Đen là ý nghĩa của Đại Niết Bàn, tức là huệ
rốt ráo của Như Lai. Đó là màu sắc của Huệ, nên là thứ năm. Hoặc có thuyết cho
rằng: Màu trắng là đầu tiên, vàng là thứ hai, đỏ là thứ ba, xanh là thứ tư, đen
là thứ năm. Đấy là xét theo ý nghĩa nhuộm màu sâu hay cạn tùy theo mức độ.
Lại nữa, trắng có ý nghĩa
là Tín, là màu đầu tiên. Vàng giống như kim cang chẳng thể ngăn trở, phá hoại,
tức là ý nghĩa Tinh Tấn, nên là thứ hai. Đỏ là trừ sạch chướng ngại nơi tâm,
quang minh chiếu rạng, tức là ý nghĩa của Niệm, cho nên là thứ ba. Những điều
khác như trên đây đã giải thích. Các điều được biểu thị trong pháp môn mỗi môn
mỗi khác.
Lại nữa, trắng là màu Tịch
Tai (dứt trừ tai nạn), là ý nghĩa của Như Lai Bộ. Cho nên đứng đầu. Vàng là màu
Tăng Ích, là ý nghĩa của Liên Hoa Bộ, nên là thứ hai. Đỏ là màu Hàng Phục, là ý
nghĩa của Kim Cang Bộ, cho nên là thứ tư. Xanh là Thành Biện Chư Sự (hoàn thành
các sự) cũng sanh ra các hình tướng tùy theo từng loại, cho nên là thứ tư. Đen
là ý nghĩa Nhiếp Triệu, tức các việc được thực hiện bởi các vị Phụng Giáo, Phẫn
Nộ v.v… Cho nên là thứ năm.
Lại nữa, như vẽ vời trong
thế gian chẳng ngoài năm sắc, nhưng liên quan tới đủ loại sâu hay cạn khác
nhau. Người xảo huệ sẽ khéo sắp xếp, sanh ra muôn hình tượng chẳng có cùng tận.
Màu pháp giới chẳng thể nghĩ bàn cũng giống như thế. Nói chung, chẳng vượt
ngoài năm tự môn (A, Ra, Va, Ha, Kha), nhưng lại phát huy thành đủ loại trí ấn
sai biệt. Như Lai do thiện xảo phổ môn vẽ vời Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la, cho đến
sanh ra các hình tướng theo từng loại nhiều như số vi trần trong thế giới mà vẫn
chẳng cùng tận. Nếu hành nhân Du Già hiểu được ý nghĩa trong ấy, sẽ càng hiểu
sâu hơn, tự tại thực hiện chẳng hề thiếu khuyết trong Chân Như tịch diệt. Những
điều kệ đã nói chính là nêu ra cương lãnh của một đường lối pháp môn vậy.
Kinh dạy “tiên an bố nội sắc, phi an bố ngoại sắc”
(trước xếp đặt nội sắc, chẳng xếp đặt ngoại sắc), tức là trong cách vẽ vời, hãy
nên trước hết vẽ nội tâm bí mật Liên Hoa Tạng xong. Kế đó, tạo tầng thứ nhất gồm
các nội quyến thuộc (Liên Hoa Bộ, Kim Cang Thủ, Chánh Biến Tri, Trì Minh) giống
như ba điểm của chữ Y. Kế đó, tạo các đại quyến thuộc của bốn vị Bồ Tát thuộc tầng
thứ hai (Văn Thù, Địa Tạng, Trừ Cái Chướng, Hư Không Tạng), và tầng thứ ba gồm
hết thảy các vị trời trong thế gian và quyến thuộc.
Lại ở trong các đường ranh
giới, phần chính giữa (Trung Thai Bát Diệp) và tầng thứ nhất, hãy nên dùng đủ
năm màu. Trước hết, dùng màu trắng vẽ đường ranh giới bao quanh xong; kế đó, ở
ngoài [đường ranh ấy] vẽ đường ranh giới màu đỏ. Kế đó, ở phía ngoài lại vẽ màu
vàng. Sau đấy, lại vẽ [ranh giới] màu xanh, ở ngoài cùng bèn vẽ đường ranh giới
màu đen. Trong tầng thứ hai, cũng theo thứ tự như trên để xếp đặt ba màu trắng,
đỏ, vàng. Ranh giới của tầng thứ ba chỉ dùng thuần một màu trắng, đều vẽ sao
cho tột bậc cân bằng, ngay ngắn, lần lượt xoay theo chiều phải để xếp đặt. Ở
rìa ngoài của chỗ đi lại và cúng dường v.v… đều làm đường ranh thuần một màu.
Kinh Cù Hê nói: “Đản dụng bạch sắc”
(Chỉ dùng màu trắng). Do vậy, trước hết dùng màu trắng từ trong hướng ra
ngoài, nhằm nêu tỏ năm loại căn lực (Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) của Bồ Đề tâm lần
lượt tăng rộng, cho tới trụ trong Đại Bát Niết Bàn, sẽ trọn hết thảy các chỗ,
không đâu chẳng hiện diện. Vì thế, màu đen ở ngoài cùng. Nếu từ cạn tới sâu, từ
Tích trở về Bổn, thì đức Thế Tôn rủ lòng cùng vì quyến thuộc sơ môn trong sáu
đường mà khai phát Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chúng sanh nhập minh môn này, khi
vượt thoát một trăm sáu mươi tâm, là đã dự vào địa vị Bồ Tát vượt ngoài thế
gian. Vì thế, tầng Mạn-đồ-la thứ ba chỉ nên dùng màu trắng để làm ranh giới. Tầng
Mạn-đồ-la thứ hai, ngoài sắc trắng, lại thêm màu đỏ và màu vàng thì đỏ là siêng
năng, dũng mãnh, tấn tu vạn hạnh trong Bồ Đề tâm. Vàng là vạn đức nở xòe trong
Niệm Xứ của Như Lai. Lúc bấy giờ bèn nhập trùng huyền môn, ngự trong cõi Tịch
Quang, thậm chí bậc đã đạt tới địa vị gần với Bổ Xứ mà chẳng nhận biết một ai
[đã nhập huyền môn ấy]. Do vậy, trong tầng thứ hai, chỉ dùng ba màu làm ranh giới.
Trong tầng thứ nhất của Mạn-đồ-la,
ngoài ba màu trên, còn thêm màu xanh và màu đen. Xanh là Đại Không tam-muội; đó
gọi là thân, khẩu, ý mật của Như Lai gia trì vô tận, cho nên dùng màu của đại
hư không. Đen là màu của thân Như Lai thọ lượng thường trụ. Diệu thân như thế rốt
ráo chẳng có hình tượng, nên vẽ thành hình đen sẫm. Hai câu này chính là bí tạng
của Như Lai, chẳng phải vì trọn khắp hết thảy chúng sanh, cho nên gọi là “quyến thuộc”. Lại vào trong màu đen
sẫm ấy chính là Thai Hoa Tạng do Như Lai tự chứng. Lúc bấy giờ, thấy màu của
ngũ trí đều cùng là một màu pháp giới, há có cạn hay sâu sai khác ư? Tuy chúng
sanh có người dần dần nhập, có người siêu thăng, có người đốn nhập, nhưng đều
cùng tiến hướng về một đích. Vì thế nói “nhất
thiết nội thâm huyền”.
(Kinh) Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai Tạng, sương vệ diệc
như thị. Hoa đài thập lục tiết. Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội đàn tề đẳng. Trí giả
ư ngoại viện, tiệm thứ nhi tăng gia. Ư bỉ sương vệ trung, đương kiến đại hộ giả.
Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên. Quảng nghĩa phục thù dị, Đại
Chúng Sanh đế thính. Phật thuyết nhất thiết Không, Chánh Giác chi Đẳng Trì,
tam-muội chứng tri tâm, phi tùng dị duyên đắc. Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết
Như Lai Định. Cố thuyết vi Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã.
(經)建立門幖幟,量同中胎藏,廂衛亦如是,華臺十六節。應知彼初門,與內壇齊等,智者於外院,漸次而增加,於彼廂衛中,當建大護者。略說三摩地,一心住於緣,廣義復殊異,大眾生諦聽。佛說一切空,正覺之等持,三昧證知心,非從異緣得。彼如是境界,一切如來定,故說為大空,圓滿薩婆若。
(Kinh:
Tạo lập các biểu tượng, đặt phía trên các cửa, lượng đồng Trung Thai Tạng, góc
xép cửa cũng thế. Đài hoa mười sáu lóng. Hãy nên biết cửa đầu, cân bằng với nội
đàn. Người trí ở ngoại viện, lần lượt mà tăng thêm. Ở nơi hai góc cửa, nên lập
bậc đại hộ, lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên. Nghĩa rộng lại khác hẳn,
Đại Chúng Sanh lắng nghe. Phật nói hết thảy Không, Đẳng Trì của Chánh Giác,
tam-muội chứng biết tâm, chẳng do duyên khác được. Cảnh giới như thế đó, hết thảy
Như Lai Định. Nên nói là Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã).
Kinh dạy: “Kiến lập môn tiêu xí, lượng đồng Trung Thai
Tạng, sương vệ diệc như thị, hoa đài thập lục tiết” (Kiến lập các biểu
tượng hoặc cờ quạt nơi cửa [của Mạn-đồ-la], có kích thước giống như Trung Thai
Tạng (Trung Thai Bát Diệp), các khoảng trống ở hai bên cửa cũng thế, hoa đài to
mười sáu ngón tay): Ở bên cạnh cửa [của đàn tràng Mạn-đồ-la], đều dựng tràng, cờ
để làm vật biểu trưng; gọi đó là “môn
tiêu xí”. Hai thứ cột cờ quạt biểu trưng ấy có kích thước tương đương,
sao cho cân bằng với Trung Thai (đó là ý nghĩa của câu “lượng đồng Trung Thai Tạng”). Trên đó đặt thanh ngang, cũng rộng
bằng chừng đó. Trên đầu mỗi cột treo tràng, đều đặt hình bán nguyệt. Dưới mặt
trăng, đặt cờ xí, dùng lụa màu cột cho ngay ngắn. Góc cờ có thể cắt ra để tạo
thành đuôi nheo, mỗi đuôi đều rủ xuống phía ngoài cột tràng, trên nhọn, dưới
tù. Ở bốn góc [của Mạn-đồ-la], cũng đặt sào treo tràng và hình bán nguyệt. Cờ
quạt đều đặt đối xứng nhau. Nơi cửa Đại Cần Dũng (tức cửa tương ứng với Thích
Ca Viện, tức cửa Đông), trên các hình bán nguyệt, đều đặt báu Như Ý. Nơi cửa
Kim Cang Thủ (cửa Nam) thì trên các hình bán nguyệt, đều đặt bạt-chiết-la
(vajra, chày kim cang). Nơi cửa Liên Hoa Thủ (cửa Bắc), trên mỗi hình bán nguyệt,
đều đặt Thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Kế đó, ở bốn góc cũng đều đặt vật báu. “Giáp môn sương vệ”[102]
như hình chữ Á (亞), còn thông đạo (lối đi) ở chính
giữa thì ở mỗi khúc quanh đều đặt cọc kim cang. Đầu cọc có hình dáng như bạt-chiết-la
một nhánh, phía dưới bén nhọn. Mỗi góc có sáu cọc, hai bên tổng cộng là mười
hai cọc. Bốn cửa và bốn góc tính chung là hai mươi tám cọc. Ba tầng đều như thế.
Và chuẩn bị chỉ ngũ sắc, đều dùng Bất Động chân ngôn hoặc Hàng Tam Thế chân
ngôn để gia trì [chỉ ấy] một trăm lẻ tám lượt, hoặc một ngàn tám mươi lượt.
Vào đêm hôm
A-xà-lê chánh thức tác pháp, đã vẽ Mạn-đồ-la xong, trước hết, xem xét Trung
Thai và viện thứ nhất, thấy chẳng thiếu sót gì, liền đóng cọc Kim Cang xuống.
Dùng chỉ Kim Cang (tức chỉ ngũ sắc vừa được gia trì trên đây) để chăng vòng
quanh các cọc kim cang ấy. Tới chỗ trổ cửa thì ngưng, chẳng cần cắt ngang. Ba tầng
đều sắp đặt như thế. Nếu chẳng thể như vậy, nơi viện thứ ba, ắt phải trọn đủ
pháp này, chẳng được thiếu khuyết. Tới chỗ thông môn (cửa để ra vào đàn tràng),
hãy nên nâng chỉ lên, thuận theo [phương vị của] cửa để căng vòng quanh phía
trên, khiến cho [người ra vào] chẳng bị vướng vào đầu. Đã kết giới xong, hãy
nên theo cửa để ra vào, chẳng được tự tiện vượt qua chỗ khác [để vào trong đàn
tràng]. Mỗi khi ra vào, vẫn cần phải tụng chân ngôn Bất Động. Nếu là Du Già
A-xà-lê, nếu lúc cần ra vào, đối với chỉ vây quanh [đàn tràng], cũng có thể
nghĩ nhấc chỉ lên để đi qua. Đi qua rồi bèn hạ chỉ xuống như cũ. Hoặc là khi
cách xa cửa, cần ra vào gấp, hãy nên quán tự thân là đức Tỳ Lô Giá Na, dùng
thân chẳng vướng mắc, chướng ngại, chớ sanh ý tưởng “vượt qua khỏi chỉ [kết giới],
tùy ý ra vào” thì không phạm lỗi!
Đối với chỗ
khuất khúc nơi sáu cây cọc, đều giữ sao cho khoảng cách [giữa các cọc] đều cân
bằng, vẫn cần phải giữ sao cho có lối đi qua lại giữa các viện. Đối với hai bên
góc xép của cửa ngoài cùng, cũng phải ngay ngắn tương xứng với Trung Thai. Vì
thế nói: “Sương vệ diệc như thị”
(Góc xép nơi cửa cũng phải như thế). “Hoa
đài” là chỗ quán đảnh. Đại để, quy chế về đàn hoa đài giống như Trung
Thai Bát Diệp Tạng. [Hoa đài] nhỏ nhất thì [có kích thước mỗi bề] bằng mười sáu
ngón tay, các ý nghĩa khác sẽ được nói cặn kẽ hơn trong phần sau. [Đàn quán đảnh]
chỉ trổ một cửa, cửa ấy hướng về đại đàn (tức đàn tràng của Thai Tạng Mạn-đồ-la).
Kệ nói: “Ưng tri bỉ sơ môn, dữ nội đàn
tề đẳng” (Hãy biết nơi cửa đầu, giữ bằng với nội đàn), tức là đối với cửa
ở tầng thứ nhất [của hoa đài, tức đàn quán đảnh], hãy tương đương chuẩn theo
chín phần[103],
khiến cho rộng hẹp đều bằng với [đàn chánh], khiến cho đường chánh trong nội
đàn dẫn thẳng tới tâm của hoa đàn. Các tầng thứ hai, thứ ba cũng dùng điều này
để suy ra mà phân định, tự nhiên lần lượt tăng rộng, mỗi mỗi đều thích hợp. Tại
hai góc xép nơi cửa của tầng thứ hai, đặt hai anh em long vương, Nan Đà ở
phương Nam, Bạt Nan Đà ở phương Bắc[104].
Các món báu trang nghiêm khác đại để giống như trong phẩm Bí Mật Mạn Đồ La [sẽ
nói].
[Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Nếu giải thích theo kiểu
sâu xa, bí mật, bốn mặt đàn đều phải vuông vắn, ngay thẳng, quân bình, chính là
ý nghĩa Tứ Niệm Xứ. Bốn cửa là Tứ Tĩnh Lự, mà cũng là Tứ Nhiếp Pháp. Các vật biểu
trưng nơi cửa là Tứ Phạm Trụ, góc hai bên cửa là Tứ Chánh Cần. Bốn góc là Tứ
Chân Đế (Tứ Thánh Đế), chỉ kim cang chính là Tu-đa-la. Do ba mươi bảy phẩm ấy
duy trì lẫn nhau mà tạo thành ngằn hạn của pháp môn vậy!” Vì thế, phân
lượng dài, ngắn, rộng, hẹp và vật tượng trưng nơi cửa ngoài đều tương xứng với
Trung Thai, hàm ý mỗi một pháp môn của Như Lai đều tương xứng với pháp giới, thậm
chí chẳng có mảy may tăng giảm. Lại còn phù hợp với Trung Đạo được hành, khế hợp
tâm Thật Tướng của Liên Hoa Đài. Dấu tích Phổ Môn đã xa lại càng rộng. Vì thế
nói: “Trí giả ư ngoại viện, tiệm thứ
nhi tăng gia” (Nơi ngoại viện, người có trí lần lượt tăng thêm).
Kệ nói: “Lược thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư
duyên” (Lược nói Tam-ma-địa, nhất tâm trụ nơi duyên). Từ đây trở đi, giải đáp đại
lược về chi phần tam-muội trong Mạn-đồ-la. Nếu là người chưa tu Du Già, chẳng
được làm A-xà-lê, do thiếu khuyết chi phần, pháp sự sẽ chẳng thành được! Kinh
đã giải thích sơ lược ý nghĩa của danh hiệu tam-muội; kế đó, sẽ nói sâu rộng
hơn. Trước hết, giải thích sơ lược thì là “tâm duyên chắc nơi một cảnh, chẳng rong ruổi, tán loạn”. Đó là
ý nghĩa Đẳng Trì. Vì thế, kệ nói: “Lược
thuyết Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ư duyên”.
Xét theo hữu
tướng Du Già, bèn có ba loại thượng, trung, hạ. Thượng là quán các thân của chư
vị Như Lai như Tỳ Lô Giá Na v.v… Trung là quán thân Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi
v.v… Hạ là quán thân của từng loại chúng sanh như Nhân Đà La (Indra, Đế Thích)
v.v… Đối với mỗi một điều được biểu thị trong Mạn-đồ-la, như sắc tượng, oai
nghi, các biểu trưng bí mật, hoặc ấn, hoặc chữ [chủng tử], chỉ nên nhất tâm trụ
duyên, chẳng còn để tâm rong ruổi, tán loạn. Đấy chính là môn tam-muội của vị
tôn thánh ấy. Nói tóm gọn, mỗi một vị thiện tri thức [trong các vị thiện tri thức]
nhiều như số vi trần trong cõi Phật thuộc Mạn-đồ-la hải hội, đều là một loại
tam-muội môn để nhập pháp giới. Nếu quán chung đại chúng phổ môn như thế, nhất
tâm trụ trong duyên chẳng rong ruổi, tán loạn, tức là môn Phổ Nhãn tam-muội,
cũng gọi là môn Phổ Môn Thế Giới tam-muội. Như một môn và hết thảy các môn, hoặc
chỉ nhập môn tam-muội thuộc Chánh Biến Tri Bộ, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc
Liên Hoa Bộ, hoặc chỉ nhập môn tam-muội thuộc Kim Cang Bộ, hoặc dùng Văn Thù
Quyến Thuộc Phổ Giai Tập Hội (tất cả các vị tôn thánh thuộc Văn Thù Viện) làm một
môn tam-muội. Đối với ba vị Bồ Tát kia cũng thế; tùy thuộc tâm lượng của hành
nhân lớn hay nhỏ, các thứ bất đồng.
Hành giả tu tập
Du Già, hoặc quán Bổn Tôn, hoặc quán ấn bí mật, hoặc là lúc quán chân ngôn, có
đủ loại cảnh giới hiện tiền; [nếu các cảnh giới ấy] chẳng giống với bổn quán
(phép quán chính mình đang tu tập), thì đều là tà quán. Như ở trong Định, hoặc
thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao quang minh chói ngời, hoặc là thấy đại
liên hoa vương trọn khắp không trung, hoặc thấy cây báu, lầu gác thù thắng
trang nghiêm giống như cung trời và các cõi tịnh, hoặc lại bỗng dưng chẳng còn
thấy có tướng thân tâm, hoặc thấy chư Phật, Bồ Tát, vô lượng đại chúng, hoặc
nghe đủ loại tiếng lạ, hoặc thấy vách núi dốc ngược, cho tới địa ngục Vô Gián,
do chẳng thuận theo điều ta vốn duyên theo, thì đều chớ nên giữ lấy. Chỉ nên nhất
tâm nhất ý như thường. Tuy đạt được định cảnh tương ứng, cần phải quán sát sâu
xa mười câu duyên sanh, chớ nên đắm chấp. Nếu thấy cảnh giới khác lạ mà ngỡ là
nhiệm mầu, thù thắng, chấp trước vào đó, sẽ gọi là Ngã Mạn Định, cũng gọi là
Xan Chấp Định (môn Định do keo tham, chấp trước). Chỉ khi nào tương ứng với chánh
quán, tự nhiên sẽ được thấy câu-chi cõi Phật, Phật trong ấy sẽ là trăm ngàn vị,
cõi nước thuộc mặt Sự chính là cõi tịnh. Khi tương ứng như thế, sẽ biết các thứ
sự tướng từ trước tới nay chẳng phải là không có nhân duyên. Do nhân duyên như
thế mà có sự tướng như thế, chẳng do điều gì khác mà ngộ, chẳng vướng mắc!
Lại giải thích
theo ý nghĩa sâu xa, bí mật. Trong tướng chân thật nơi pháp môn của mỗi vị thiện
tri thức, tâm trụ trong duyên, chẳng sanh vọng tưởng, hý luận. Đó chính là ý
nghĩa Đẳng Trì. Như nhập nhất niệm pháp giới thuộc môn chữ A thì chính là Tỳ Lô
Giá Na tam-muội. Nhất tâm bất loạn nơi pháp Liên Hoa Ấn, đó là tam-muội của
ngài Quán Tự Tại. Nhất tâm bất loạn trong Kim Cang huệ ấn thì là tam-muội của
Bí Mật Chủ. Cho đến các vị tôn thánh như Phạm vương, Đế Thích, mỗi vị đều được
tự tại trong một pháp giới môn. Nếu trong thân giải thoát ấy mà một duyên chẳng
loạn, mỗi pháp ấy chính là Tịnh Thiên Nhãn tam-muội. Nếu nhất tâm bất loạn
trong Đại Bi Tạng Vân Hải thì gọi là Phổ Nhãn tam-muội, cũng gọi là Phổ Hiện Sắc
Thân tam-muội. Giả sử Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp diễn nói nghĩa rộng
trong ấy, vẫn chẳng cùng tận! Nay muốn dùng hai câu kệ để thâu nhiếp rốt ráo chẳng
còn sót [các ý nghĩa ấy], nên nói: “Quảng
nghĩa phục thù dị, đại chúng sanh đế thính” (Nghĩa rộng lại sai khác, Đại
Chúng Sanh[105]
lắng nghe). Ở trong đó, lại có hai điều:
- Thứ nhất là
nói về Như Lai tam-muội ấn.
- Kế đó là nói
về ấn sai biệt trong tam-muội đạo.
Kệ nói: “Phật thuyết nhất thiết Không” (Phật
nói hết thảy Không), tức là nhập môn chữ A. Cho đến chẳng có chút pháp nào để
có thể đạt được, cũng chẳng có tướng nhất định để có thể gọi là tam-muội. Trụ
trong nhất tâm pháp giới như thế, gọi là “Chánh
Giác chi Đẳng Trì”. Do lẽ nào vậy? Nếu ở ngoài tâm tánh này mà có cảnh
giới để có thể duyên theo, tức chẳng phải là cảnh thường trụ, bị tứ tướng
(sanh, trụ, hoại, diệt) đổi dời, cái tâm “thời,
trụ, duyên” cũng lưu chuyển theo cảnh giới, sao có thể gọi là Định cho
được?
Do vậy, chánh
giác tam-muội giác ngộ “các pháp vốn
chẳng sanh”, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự biết tâm, từ lâu xa tới
nay, thường như Thật Tế chẳng đổi dời. Tức là dùng cái tâm như thế để trụ trong
cái duyên như thế; vì vậy, được gọi là Đẳng Trì. Đây chính là Bổn Tôn Tỳ Lô Giá
Na hiển hiện tạng trang nghiêm vô tận, cũng chẳng lìa Bổn Tôn như thế. Nếu quán
khác đi, sẽ đều gọi là “tà quán”.
Vì thế, nói chắc chắn rằng: “Tam-muội
duy chứng tâm, phi tùng dị duyên đắc” (Tam-muội chỉ chứng tâm, chẳng từ duyên nào khác mà đạt được). Nếu dựa theo
bản tiếng Phạn để nói, phải nên nói là “bỉ
cánh vô dị đắc” (điều đó lại chẳng do điều gì khác mà đạt được). Ý nói:
Chẳng còn từ các chỗ khác mà đạt được!
Kế đó nói: “Bỉ như thị cảnh giới, nhất thiết Như Lai định”
(Cảnh giới như thế đó là Định của hết thảy các Như Lai), như kinh Đại Bát Niết
Bàn đã nói “hết thảy người có tâm thì
đều có Phật Tánh”. Phật
Tánh ấy được gọi là Thủ Lăng Nghiêm Định, cũng gọi là Kim Cang tam-muội, cũng gọi
là Bát Nhã Ba La Mật. Phật Phật đạo đồng, trọn chẳng có đường nào khác. Nếu
hành nhân khi sơ phát tâm, có thể chánh quán tâm tánh đúng như lời dạy, thì
cũng gọi là “nhập Như Lai Định”,
há có phải là nhọc công dần dần vượt thoát tứ xứ (thân, thọ, tâm, pháp) thì mới
đạt đến rốt ráo ư?
Lại nữa, hành
nhân Du Già nếu được oai thần của chư Phật gia bị, thậm chí trong tam-muội thấy
trọn vô lượng ba loại mật ấn của vô lượng các vị tôn thánh chẳng xen tạp, số
nhiều như vi trần trong mười cõi Phật, hoặc lại nhất tâm bất loạn chuyển [các mật
ấn ấy] thành tự thân. Tuy là lạ lùng, đặc biệt, khó nghĩ tưởng, vẫn là hữu tướng,
hữu duyên, nên gọi là “thế gian tam-muội”.
Nếu lúc tam-muội ấy hiện tiền, hành giả quan sát mười câu duyên sanh, trừ sạch
hết thảy vọng tưởng, hý luận, và tương ứng không tịch, liền ngộ Mạn-đồ-la hải hội
như thế đều sanh từ các duyên, như bóng trong gương, trăng trong nước, thành
Càn Thát Bà v.v… Quán vô tánh tướng, được gọi là xuất thế gian tam-muội; nhưng
vẫn còn chứng bệnh Chấp Không chưa thể sạch hết, chẳng thể gọi là Đại Không. Đến
khi ngồi đạo tràng, tự chứng tâm tánh, liền biết cảnh giới gia trì là như thế
đó đều là Thật Tế của cái tâm. Lúc bấy giờ, tâm chẳng trụ vào tướng, mà cũng chẳng
nương vào Không, chiếu kiến Không và Bất Không rốt ráo vô tướng, mà trọn đủ hết
thảy các tướng. Vì thế gọi là Đại Không tam-muội. Trụ trong tam-muội ấy, tức là
trụ trong vô ngại huệ của Phật, đức Phật nói người ấy “trí Nhất Thiết Trí rốt ráo viên mãn”. Do vậy, kinh nói: “Cố thuyết vi Đại Không, viên mãn Tát Bà
Nhã” (Nên nói là Đại Không, viên mãn Tát Bà Nhã).
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng
tập hội, các các tuyên thuyết nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội
đạo. Thời Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ư thị,
Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Bồ Tát ngôn:
(經)爾時,毘盧遮那世尊與一切諸佛同共集會,各各宣說一切聲聞、緣覺、菩薩三昧道。時佛入於一切如來一體速疾力三昧。於是,世尊復告執金剛菩薩言:
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp, mỗi
vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Khi đó, đức
Phật nhập trong Nhất Thiết Như Lai Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội. Ngay khi đó,
đức Thế Tôn lại bảo Chấp Kim Cang Bồ Tát rằng).
Đầu quyển hai của chánh
kinh, có nói: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na
Thế Tôn dữ nhất thiết chư Phật đồng cộng tập hội, các
các tuyên thuyết nhất thiết Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát tam-muội đạo” (Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn và hết thảy chư Phật cùng nhau nhóm họp,
mỗi vị tuyên nói hết thảy đạo tam-muội của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát): Đức
Như Lai đã nói ba loại Không tam-muội ấn rốt ráo, vì khiến cho trọn khắp những
kẻ tiến nhập sẽ chẳng có chướng nạn, lại nói các thứ ấn sai biệt trong đạo
tam-muội. Các thứ hình loại được chỉ bày trong ba tầng Mạn-đồ-la đều là một loại
thân pháp môn của Như Lai. Do vậy, đều gọi là Phật. Hết thảy các đức Phật ấy, vị
nào cũng đều từ trong pháp môn do chính mình tự lưu thông mà tự nói đạo tam-muội
ấy. Nếu hiện thành thân các vị trời trong thế gian, bèn nói đạo tam-muội của
các vị trời ấy. Nếu hiện thân Thanh Văn, bèn nói đạo tam-muội của Thanh Văn. Nếu
hiện thân Bích Chi Phật, bèn nói đạo tam-muội của Bích Chi Phật. Nếu hiện thân
Bồ Tát, bèn nói đạo tam-muội của Bồ Tát. Nếu hiện thân Trì Kim Cang, bèn nói đạo
tam-muội của Kim Cang. Hãy nên biết kệ tụng trong ấy nhiều như số vi trần trong
vô lượng cõi, kinh quyển được kết tập trong thế gian chẳng thể chép trọn! Nhưng
nếu khi các hành nhân thâm nhập cảnh giới Du Già tam-muội, sẽ tự nghe rõ rành
rành, chẳng khác gì như được trực tiếp bảo ban. Do lẽ ấy mà nói là “ngày được Phật gia trì”.
Kinh chép “thời, Phật nhập ư Nhất Thiết Như Lai Nhất
Thể Tốc Tật Lực tam-muội” (khi đó, đức Phật nhập Nhất Thiết Như Lai Nhất
Thể Tốc Tật Lực tam-muội), tức là khi nhập tam-muội ấy, sẽ chứng biết “hết thảy Như Lai đều cùng là một pháp giới
trí thể”. Trong một niệm, có thể theo thứ tự quán sát các môn tam-muội
nhiều như số vi trần trong vô lượng thế giới hải, biết ngần ấy chúng sanh như
thế, trong mỗi môn tam-muội này hoặc môn tam-muội nọ đáng nên nhập đạo, biết vị
thiện tri thức ấy đã vì ngần ấy chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, chưa vì ngần
ấy chúng sanh tạo nhân duyên chủng tử, hoặc có chúng sanh nhập pháp môn như thế
nên có thể siêu thăng thành Phật, nhập các pháp môn khác dằng dai đã lâu mà
chưa thể thành Phật. Các loại căn tánh bất đồng như thế, phương tiện để tiến nhập
cũng đều khác nhau, thậm chí du hý trong ấy, theo thứ tự tu tập, xuất nhập siêu
thế gian, trong mỗi một môn, đều có thể thành tựu vô lượng chúng sanh. Vì thế gọi
là Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội.
(Kinh) Ngã tích tọa đạo tràng, hàng phục ư tứ ma, dĩ Đại Cần Dũng
thanh, trừ chúng sanh bố úy. Thị thời Phạm Thiên đẳng, tâm hỷ cộng xưng thuyết,
do thử chư thế gian, hiệu danh Đại Cần Dũng. Ngã giác bổn bất sanh, xuất quá ngữ
ngôn đạo. Chư quá đắc giải thoát, viễn ly ư nhân duyên, tri không đẳng hư
không, như Thật Tướng trí sanh, dĩ ly nhất thiết ám, đệ nhất Thật vô cấu. Chư
thú duy tưởng danh, Phật tướng diệc phục nhiên. Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia trì
lực cố, vị độ ư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết.
(經)我昔坐道場,降伏於四魔,以大勤勇聲,除眾生怖畏,是時梵天等,心喜共稱說,由此諸世間,號名大勤勇。我覺本不生, 出過語言道,諸過得解脫,遠離於因緣,知空等虛空,如實相智生,已離一切暗,第一實無垢。諸趣唯想名,佛相亦復然,此第一實際, 以加持力故,為度於世間, 而以文字說。
(Kinh:
Ta đã ngồi đạo tràng, hàng phục bốn loại ma, dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng
sanh sợ hãi. Khi đó, Phạm Thiên thảy, tâm mừng, cùng khen nói. Do vậy các thế
gian, gọi ta Đại Cần Dũng. Ta giác “vốn bất sanh”, vượt ngoài các ngôn thuyết.
Được giải thoát các lỗi, xa lìa nơi nhân duyên, biết Không như hư không, như Thật
Tướng trí sanh, đã lìa hết thảy tối, đệ nhất Thật vô cấu. Các đường chỉ là tưởng,
tướng Phật cũng như thế. Đệ nhất Thật Tế ấy, do vì sức gia trì, vì hóa độ thế
gian, bèn dùng văn tự nói).
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn
quán trọn khắp xong, biết rõ các loại tam-muội đạo cùng quy vào một Thể là Phật
thừa, lại vì ngài Chấp Kim Cang nói Bồ Đề ấn trong hết thảy các tam-muội đạo.
Trước hết, có hai bài kệ nói về dấu tích thành Phật được thị hiện bên ngoài, bảo:
Ta thoạt đầu ngồi đạo tràng, do Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội này, hàng phục
quân chúng của thiên ma. Nhưng trong ấy, lại có chỗ khó hàng phục, tức là các
loại ma phiền não v.v… chẳng có hình tướng, nơi chốn, mà cũng chẳng có dấu vết,
khó thể hay biết. Trong một niệm, cũng thảy đều diệt mất. Vì thế nói là “hàng phục tứ ma”. “Dĩ Đại Cần Dũng thanh” (Dùng âm thanh Đại Cần Dũng), nghĩa là đức Phật dùng lời thành thật bảo ma
Ba Tuần: “Ta trong vô lượng vô số kiếp,
vì điều phục chúng sanh, vứt bỏ thân mạng chẳng thể tính đếm, nên nay đã thành
tựu. Do có cơ hội nhập đạo, ta sắp chứng Bồ Đề, mở mắt thanh tịnh cho các chúng
sanh ấy, ngươi có thế lực gì mà gây trở ngại ư?” Khi đức Phật vừa thốt
ra lời ấy, hết thảy nỗi sợ hãi của chúng sanh đều trừ, thiên ma mê muội, ngã
lăn ra đất, lập tức lui tan. Nếu có chúng sanh thọ trì ấn tam giác (Nhất Thiết
Chánh Biến Tri Ấn) như thế, thậm chí trừ được vô lượng nỗi sợ hãi trong địa ngục
Vô Gián, huống hồ nỗi sợ hãi đối với thiên ma, quỷ thần v.v… ư? Vì thế nói: “Dĩ Đại Cần Dũng thanh, trừ chúng sanh bố
úy” (Dùng tiếng Đại Cần Dũng, trừ chúng sanh sợ hãi). Lúc bấy giờ, địa thần hoan
hỷ, xoay vần xưng nói, cho đến tiếng thấu tận cõi trời Tịnh Cư. Lúc đó, tám bộ chúng
sanh như Đại Phạm Thiên v.v… chỉ thấy dấu tích hàng phục ma bề ngoài. Vì vậy,
tiếng tăm [của đức Phật] rền khắp, được tôn xưng là bậc Đại Cần Dũng, nhưng đối
với chỗ ta thật sự thành Phật, họ sẽ chẳng thể suy lường. Do vậy, kế đó, có hai
bài kệ nêu ra thật nghĩa Bồ Đề: “Ngã
giác bổn bất sanh”, tức là giác “tự
tâm vốn bất sanh”, nghĩa là “thành
Phật mà thật sự chẳng giác, chẳng thành”. Hết thảy chúng sanh chẳng hiểu
“thường tịch diệt” như thế, do
suy tưởng phân biệt bèn hư vọng nói là “có
sanh”, luân hồi trong sáu nẻo, chẳng thể tự thoát! Nay tuy nghe âm thanh
chánh pháp, vẫn suy tìm, so đo, mong mỏi thành Phật trong đủ loại hình tích,
trong sự tướng hữu vi, há đắc lý ư?
“Xuất quá ngôn ngữ đạo” (Vượt thoát khỏi nói năng), từ đây
trở đi đều nhằm diễn giải môn chữ A. Giác “vốn bất sanh” chính là pháp mà chư
Phật đều tự chứng, chẳng do suy lường, phân biệt mà có thể thấu đạt, cũng chẳng
thể truyền trao cho người khác. Trí Độ Luận nói “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. “Chư quá đắc giải thoát” (Được giải thoát các lỗi): Hết thảy
vọng tưởng phân biệt được gọi là Quá (lỗi lầm), tức là đủ loại hý luận như
sanh, diệt, đoạn, thường, đến đi, một, khác v.v… Do chẳng biết Thật Tướng của
các pháp, thảy đều có thể phá, có thể chuyển. Nếu thấu hiểu “các pháp vốn vô sanh”, sẽ liền được
giải thoát hết thảy lầm lỗi như thế. Do vậy, thân Kim Cang xa lìa bách phi.
“Viễn ly chư nhân duyên” (Xa lìa các nhân duyên): Nếu cái Thể
của pháp giới có tướng sanh diệt, tức là có nhân duyên để có thể tuyên nói.
Nhưng nay do pháp sanh từ duyên, nên chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức
là vốn sẵn chẳng sanh. Khi nhân duyên hòa hợp thì cũng chẳng có gì được dấy
lên; khi nhân duyên ly tán thì cũng chẳng có gì chấm dứt. Vì thế, như hư không
thanh tịnh, thường chẳng thay đổi. Đại Kinh[106]
cũng nói “chỉ có Như Lai lìa các nhân
duyên”. “Tri không đẳng hư
không” (Biết Không giống như hư không): “Vốn
bất sanh” chính là nghĩa Tất Cánh Không, do tự tánh thanh tịnh, không có
thời hạn, vô phân biệt, giống như thái hư. Vì thế, để thế gian dễ hiểu, dùng hư
không để sánh ví Bất Tư Nghị Không.
“Như Thật Tướng trí sanh”: Thật Tướng của cái tâm chính là Tỳ Lô
Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi. Khi đức Phật ngồi đạo tràng, hiểu đúng như
pháp tướng, các thứ kiến giải chẳng như thật thảy đều diệt sạch, chẳng còn sót
thừa. Vì thế, trí huệ Tát Bà Nhã giống như hư không. “Dĩ ly nhất thiết ám” (Do lìa hết thảy tối tăm): Trong hết
thảy các pháp tướng mà chẳng biết như thật thì tức là vô minh. Vì thế, khi giác
“vốn bất sanh”, tức là sanh ra sự sáng suốt trọn khắp pháp giới. Dùng hết thảy
các loại quán để quán hết thảy các pháp, không gì chẳng thấy, nghe, hay, biết. “Đệ nhất Thật vô cấu”: Đó chính là sự thật chân thật nhất,
không chi hơn được nữa, được gọi là Đệ Nhất Thật Tế. Tức là nói cái tâm tự tánh
thanh tịnh, do lìa hết thảy tối tăm, tri kiến của Phật chẳng còn cấu ô. [Những
điều vừa nói trên đây] đều nhằm diễn giải ý nghĩa “bất sanh”.
Kế đó, có hai câu kết luận:
“Chư thú duy tưởng danh, Phật tướng diệc
phục nhiên” (Các đường luân hồi chỉ do tâm tưởng mà có danh xưng, Phật
tướng cũng lại giống như thế), ý nói: Chúng sanh trong sáu đường và Tỳ Lô Giá
Na Phật vốn chẳng có hai Thể, chỉ thuận theo đủ loại vọng tưởng của chúng sanh
mà lập ra đủ loại tên gọi. Phật cũng như thế, hết thảy thế gian chỉ thấy dấu tích
“ta hàng ma thành đạo, phương tiện độ
người”, bèn thuận theo tâm tướng của họ mà xưng nói, hoặc nói là Đại Sa
Môn, hoặc nói là Đại Cần Dũng, thậm chí như kinh Hoa Nghiêm đã nói “trong một thế giới có vô lượng tên gọi khác
nhau”, chẳng phải là nói “trong pháp tự chứng mà có thể diễn nói để biểu
thị được!”
Bài kệ kế tiếp lại giải
thích theo ý nghĩa thông với Thế Đế, nhằm nêu rõ nguyên do khởi giáo. Do vậy
nói: “Thử đệ nhất Thật Tế, dĩ gia trì
lực cố, vị độ chư thế gian, nhi dĩ văn tự thuyết” (Đệ nhất Thật Tế này,
do bởi sức gia trì, vì độ các thế gian, bèn dùng văn tự nói), tức là dùng Phật
nhãn để quán: Các thứ danh tướng, ngôn từ như thế lại chẳng ra ngoài Đệ Nhất Thật
Tế, nhưng chúng sanh nhập đạo có đủ loại nhân duyên bất đồng. Nếu là kẻ đáng
nên dùng văn tự, ngôn ngữ để đắc độ, Như Lai sẽ chẳng lìa Thật Tế, dùng thần lực
tự tại để gia trì các âm thanh, câu chữ này nọ để diễn nói. Nếu chúng sanh đúng
như pháp tu hành, khi được tương ứng với Tam Mật, sẽ biết Thế Đế chẳng khác Đệ
Nhất Nghĩa Đế.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang cụ đức giả, đắc vị tằng hữu khai phu
nhãn, đảnh lễ Nhất Thiết Trí, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)爾時,執金剛具德者得未曾有開敷眼,頂禮一切智而說偈言:
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang là bậc trọn đức,
đạt được mắt nở bừng chưa từng có, đảnh lễ đấng Nhất Thiết Trí mà nói kệ rằng).
“Cụ
đức” tức là trọn đủ hết thảy các đức trang nghiêm bí mật của Như Lai.
Như hoa sen khi tăng trưởng đủ mức, được ánh nắng mặt trời chiếu, tự nhiên nở
xòe đoan nghiêm, đáng yêu. Ngài Chấp Kim Cang cũng thế, mắt hoa
sen nơi tâm gặp quang minh từ ấn Bồ Đề, rạng ngời nở xòe, muôn đức đều trọn vẹn,
đẹp đẽ, thông suốt bên trong, tỏ lộ ra ngoài, cũng có tướng mắt hoa sen xanh nở
xòe, bèn nói già-đà [để trần thuật] sự lãnh ngộ ý chỉ trên đây.
(Kinh) Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất
tư nghị, ly nhất thiết hý luận, chư Phật tự nhiên trí, nhi vị thế gian thuyết,
mãn túc chúng hy nguyện, chân ngôn tướng như thị, thường y ư Nhị Đế. Nhược hữu
chư chúng sanh, tri thử pháp giáo giả, thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để.
(經)諸佛甚希有,權智不思議,離一切戲論,諸佛自然智,而為世間說,滿足眾希願,真言相如是,常依於二諦。若有諸眾生,知此法教者,世人應供養,猶如敬制 底。
(Kinh: Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí
chẳng nghĩ bàn, lìa hết thảy hý luận, chư Phật tự nhiên trí, mà vì thế gian
nói, trọn thỏa các mong cầu. Tướng Chân Ngôn như thế, thường nương vào Nhị Đế.
Nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo ấy, người đời nên cúng dường, ví như
kính tháp miếu).
Trước hết nói:
“Chư Phật thậm hy hữu, Quyền Trí bất
tư nghị” (Chư Phật rất hy hữu, Quyền Trí chẳng nghĩ bàn). Nếu theo bản đầy
đủ trong tiếng Phạn, phải nên nói là “trí
phương tiện hy hữu chẳng thể nghĩ bàn của hết thảy chư Phật”. “Trí” là nói tới sự lãnh ngộ “giác vốn
bất sanh” trong bài kệ thuộc phần trước, “phương
tiện” là nói lãnh giải thần lực gia trì trong bài kệ trước đó. Lại nữa, “trí” là đài hoa sen trọn đủ nơi tâm,
“phương tiện” là cánh sen, tua
nhị nở xòe. Hai loại đều chẳng thể nghĩ bàn, nên nói là “hy hữu”.
Kế đó nói: “Ly nhất thiết hý luận, chư Phật tự nhiên
trí” (Trí tự nhiên của Phật lìa hết thảy các hý luận), tức là rộng tán thán trí chẳng
thể nghĩ bàn. “Nhi vị thế gian thuyết,
mãn túc chúng hy nguyện” (Mà vì thế gian nói, trọn đủ các
mong nguyện) chính là rộng tán thán phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Nếu pháp do
nương vào thầy mà đắc, tức là sanh từ các nhân duyên, chính là tướng hý luận
sanh diệt, chẳng phải là pháp tánh, [chẳng phải là] trí huệ tự nhiên của Phật.
Nếu là trí huệ tự nhiên, sẽ chẳng do tu học mà có thể đạt được, cũng chẳng thể
truyền dạy cho người khác! Như vị cam lộ cõi trời nội chứng, giả sử dùng đủ loại
phương tiện để diễn nói cho kẻ chưa từng nếm trải, kẻ đó trọn chẳng thể hiểu được!
Nhưng Phật có sức đại phương tiện, dùng vô tướng Pháp Thân để làm đủ loại danh
tướng gia trì, khiến cho các chúng sanh dùng pháp nhân quả để chứng đắc pháp “chẳng phải nhân, chẳng phải quả”. Vì
thế, Quyền Huệ và Thật Huệ đều chẳng thể nghĩ bàn!
Kế đó nói: “Chân Ngôn tướng như thị, thường y ư Nhị Đế”
(Tướng Chân Ngôn như thế, thường nương vào Nhị Đế), nhằm kết lại [ý nghĩa]
“hai trí chẳng thể nghĩ bàn”, lãnh ngộ ý nghĩa lập bày Nhị Đế trong kinh văn
thuộc phần trên. Do biết danh tướng chính là Thật Tế, có thể dùng Thật Tế để
gia trì, tạo thành danh tướng. Do biết “nông cạn, sơ lược” chính là “sâu xa, bí
mật”, có thể biến “sâu xa, bí mật” thành “nông cạn, sơ lược”, tùy thuận nghĩa lợi
do chúng sanh thành tựu đều là chân thật, chẳng dối. Nếu khi có thể hiểu Thế Đế,
sẽ tự thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vì thế nói “chư Phật thuyết pháp thường nương vào Nhị Đế”.
Kế đó, có một
bài kệ nhằm nói rõ: Tin hiểu Bồ Đề ấn của Phật, sẽ đắc vô lượng khối phước. Vì
thế nói: “Nhược hữu chư chúng sanh,
tri thử pháp giáo giả, thế nhân ưng cúng dường, do như kính chế-để” (Nếu có các chúng sanh, hiểu biết pháp giáo này, người đời nên cúng dường,
ví như kính tháp miếu). Chế-để (Caitya) là chỗ để nương vào của sanh thân xá-lợi.
Do vậy, chư thiên và người đời, kẻ có phước, đều nên cúng dường. Nếu hành nhân
tin nhận nghĩa như thế, tức là chỗ nương vào của Pháp Thân xá-lợi, kham nhận hết
thảy thế gian cúng dường, cung kính. Hơn nữa, Chế-để trong tiếng Phạn có bản thể
giống như Chất-đa (Citta, tâm), trong ấy nói bí mật sẽ là “tâm là tháp Phật”. Như đệ tam Mạn-đồ-la,
dùng tự tâm làm nền, theo thứ tự tăng thêm, cho tới màu sắc của Trung Thai Niết
Bàn là tột đỉnh. Do vậy, Chế-để rất cao. Lại từ Trung Thai Bát Diệp, theo thứ tự
tăng thêm, cho đến loại thứ ba là tùy loại phổ môn thân, không chỗ nào chẳng trọn
khắp. Do vậy, Chế-để cực rộng. Liên hoa đài Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhatu, pháp giới)
được gọi là Pháp Thân xá-lợi. Nếu chúng sanh hiểu ấn Bồ Đề nơi tâm này, tức là
giống như Tỳ Lô Giá Na Phật. Vì thế nói: “Thế
gian ưng cúng dường, như kính Chế-để” (Thế gian nên cúng dường như kính trọng Chế-để).
(Kinh) Thời, Chấp Kim Cang thuyết thử kệ dĩ, đế quán Tỳ Lô Giá Na,
mục bất tạm thuấn, mặc nhiên nhi trụ.
(經)時,執金剛說此偈已,諦觀毘盧遮那目不暫瞬,默然而住。
(Kinh: Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nói bài kệ ấy xong, quán kỹ đức
Tỳ Lô Giá Na, mắt chẳng tạm nháy, đứng lặng yên).
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang
đã được nghe Tất Cánh tam-muội ấn, muốn hỏi sai biệt ấn trong tam-muội đạo. Nếu
dùng lời lẽ để bạch cùng đức Phật, sợ trái nghịch lý tột cùng; do vậy, lặng
thinh quán Phật, nhất tâm mà đứng. Đó chính là thưa hỏi nghĩa rất sâu! Lại nữa,
ngài Chấp Kim Cang đứng lặng yên, nhằm muốn biểu thị ý nghĩa “Như Lai chiếu soi căn cơ”. Như giáo
pháp thông thường đã nói: Trong ba thời của ngày đêm, đức Phật quán sát chúng
sanh có thể hóa độ mà độ thoát họ. Đấy là thuận theo tâm lượng của Thanh Văn mà
tự nói như thế. Nếu dùng Phật nhãn để quán rồi thấy, [đâm ra]: Chẳng quán sẽ chẳng
thấy. Hễ quán thì trí huệ sanh; chẳng quán, trí huệ chẳng sanh ư? Đó chính là cảnh
“sanh diệt, sáng tối”, chẳng thể gọi là đại huệ bình đẳng! Do trí huệ vô tướng,
vô phân biệt của Như Lai vốn sẵn vô ngại, thường chiếu pháp giới, căn, duyên,
như sóng trong biển cả trọn chẳng vượt quá mức hạn. Vì thế, do ngài Kim Cang Thủ
vừa khéo là căn cơ để có thể truyền dạy, Như Lai lập tức diễn nói, chẳng đợi hỏi
rồi mới đáp! Hơn nữa, ngài Kim Cang Thủ biết Thế Đế tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, sở
hành xứ chẳng khác tất cánh xứ; vì thế, im lặng chẳng nói. Như Lai đã biết rõ “Đệ Nhất Nghĩa Đế tức là Thế Đế, tất cánh xứ
chẳng khác sở hành xứ”. Vì
thế, rộng nói phân biệt. Vì khiến cho chúng sanh thông đạt tướng Nhị Đế, lại
nêu tỏ, nhưng thật ra là cùng quy vào nhất trí.
(Kinh) Ư thị, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Phục thứ, Bí
Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri thế
gian tướng, trụ ư nghiệp địa, kiên trụ Phật địa. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bát Địa tự
tại Bồ Tát tam-muội đạo, bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất
thiết huyễn hóa. Thị cố, thế xưng Quán Tự Tại giả. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thanh
Văn chúng trụ hữu duyên địa thức sanh, diệt trừ nhị biên, cực quán sát trí, đắc
bất tùy thuận tu hành nhân. Thị danh Thanh Văn tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Duyên
Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư
nhất thiết pháp, chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội
đạo. Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp, nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc
tha chủ, không tam-muội sanh. Thị danh thế gian tam-muội đạo.
(經)於是,世尊復告執金剛祕密主言:復次祕密主!一生補處菩薩住佛地三昧道,離於造作,知世間相住於業地,堅住佛地。復次,祕密主!八地自在菩薩三昧道,不得一切諸法,離於有生,知一切幻化,是故世稱觀自在者。復次祕密主!聲聞眾住有緣地識生,滅除二邊,極觀察智,得不隨順修行因,是名聲聞三昧道。祕密主!緣覺觀察因果,住無言說法,不轉無言說,於一切法證極滅語言三昧,是名緣覺三昧道。祕密主!世間因果及業,若生若滅,繫屬他主,空三昧生,是名世間三昧道。
(Kinh: Khi ấy, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Bí
Mật Chủ rằng: - Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong đạo tam-muội
thuộc Phật địa, lìa các tạo tác, biết tướng thế gian, trụ nơi nghiệp địa, trụ vững
nơi Phật địa. Lại này Bí Mật Chủ! Bát Địa tự tại trong đạo tam-muội của Bồ Tát,
chẳng đạt được hết thảy các pháp, lìa hữu sanh, biết hết thảy là huyễn hóa. Vì
thế, cõi đời gọi là bậc Quán Tự Tại. Lại này, Bí Mật Chủ! Các Thanh Văn trụ
trong địa vị hữu duyên, thức sanh, diệt trừ nhị biên, trí quán sát tột bậc, đạt
được chẳng tùy thuận cái nhân tu hành. Đó gọi là đạo tam-muội của Thanh Văn. Bí
Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ trong vô ngôn thuyết pháp, chẳng
chuyển vô ngôn thuyết, trong hết thảy các pháp, chứng diệt ngữ ngôn tam-muội tột
bậc. Đó gọi là đạo tam-muội của Duyên Giác. Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế
gian dù sanh hay diệt, đều thuộc về cái khác làm chủ, không tam-muội sanh. Đó gọi
là đạo tam-muội thế gian).
Xét theo lời đáp của Như
Lai, đại lược có bốn câu. “Phục thứ,
Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ Phật địa tam-muội đạo, ly ư tạo tác, tri
thế gian tướng, trụ ư nghiệp địa,
kiên trụ Phật địa” (Lại này Bí Mật Chủ! Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát trụ trong
đạo tam-muội thuộc Phật địa, lìa các tạo tác, biết tướng thế gian, trụ nơi nghiệp
địa, trụ vững nơi Phật địa): Đấy là địa vị quán đảnh tối thượng, nên nêu ra trước.
Như các kinh khác đã nói, đấy là bậc Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, từ đó sanh lên
cung trời Đâu Suất, kế nhiệm địa vị Phật, nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Nay trong
giáo thuyết chủ yếu của kinh này, nói “nhất
sanh” tức là từ một mà sanh ra. Thoạt đầu, khi đắc Bồ Đề tâm thanh tịnh,
từ đất Nhất Thật mà sanh khởi vô lượng vô biên môn tam-muội tổng trì. Trong mỗi
địa vị như thế, theo thứ tự tăng trưởng, hãy nên biết là cũng như thế. Khi đã
viên mãn Đệ Thập Địa, chưa đạt tới Đệ Thập Nhất Địa, lúc bấy giờ, từ cảnh giới
Nhất Thật, phát sanh trọn đủ hết thảy các trang nghiêm, chỉ còn thiếu một địa vị
Như Lai là chưa chứng biết, tức là hễ chuyển pháp tánh sanh thì chính là địa vị
sẽ được bổ làm Phật. Do vậy, gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ. Đấy là phát Bồ Đề tâm rốt
ráo, trong hết thảy đạo tam-muội, sẽ là tinh tấn nhập Phật đạo mạnh mẽ, hăng
hái nhất. Do vậy nói là “trụ trong đạo
tam-muội thuộc địa vị Phật”.
“Ly chư tạo tác” (Lìa các tạo tác): “Tác” là [thực hiện] là tu nghiệp Trị
Địa, cho tới trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh. Do tâm hữu trí phân biệt,
vẫn là tướng thế gian. Nay vị Bồ Tát này chánh hành Đại Không tam-muội, xa lìa
hý luận vi tế nơi pháp sanh bởi các duyên, nên nói là “lìa tạo tác”. Như đối với tướng thế gian, chính là thật sự biết
Thật Tế của thế gian rốt ráo chẳng khác Niết Bàn tế, có thể chẳng lay động Thật
Tế mà đều thấy nhân duyên vốn khởi lên của thế gian. Do vậy, trụ trong đạo
tam-muội này, niệm nào cũng tiến nhập địa vị Như Lai. “Trụ trong nghiệp địa”: Nói theo cách giản dị trong tiếng Phạn,
hãy nên nói là Tác Địa, tức là học tập sự nghiệp Kim Cang của Như Lai đều đạt
được thiện xảo. Kinh Anh Lạc cũng nói “nhập
trùng huyền môn, học Phật oai nghi”.
“Kiên trụ Phật địa”: Kiên cố bất động đối với Như Lai thì gọi là
Trụ, có ý nghĩa khác với Trụ trong phần trước. Như người khát, cầu nước đã lâu,
bỗng trông thấy cái ao trong mát, trong ấy lại chẳng có chướng ngại, chỉ nhất
tâm tiến hướng, chẳng còn duyên theo điều nào khác. Đó gọi là “đạo tam-muội của bậc Bổ Xứ”. Đã đạt
tới cái ao trong mát, điều mong cầu đều dứt sạch, cũng chính là Phật địa. Vì thế,
tuy cùng gọi là Đại Không Định, nhưng ý nghĩa có sai biệt.
Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Bát Địa Bồ Tát tam-muội đạo,
bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh, tri nhất thiết như huyễn. Thị cố,
thế xưng Quán Tự Tại giả” (Bí Mật Chủ! Đạo tam-muội của Bát Địa Bồ Tát,
chẳng đạt được hết thảy các pháp, lìa hữu sanh, biết hết thảy như huyễn. Vì thế,
cõi đời xưng là Quán Tự Tại): Đạo của bậc Thập Địa như đã nói trên đây, nếu
theo thứ tự mà tiến lên, hãy nên nói là Phật địa. Nếu nói thấp xuống thì nên
nói là Đệ Cửu Địa, cớ sao [chánh kinh] lại nói là Đệ Bát Địa? Do hết thảy các Bồ
Tát khi mới vượt khỏi Đệ Thất Địa, trên là chẳng thấy có chư Phật để có thể cầu,
dưới là chẳng thấy chúng sanh để có thể độ, cho rằng “trụ trong Đại Niết Bàn, ngưng dứt vạn hạnh”. Khi đó, mười
phương chư Phật dùng đạo tam-muội này để phát khởi cái tâm của vị ấy, hòng vượt
khỏi chỗ khó khăn đối với Bồ Đề tâm. Vì thế nói riêng. Từ đấy, tiến nhập Đệ Cửu
Địa, sẽ chẳng nói riêng nữa! Do lỗi họa ấy khó khăn, chẳng cần phải nói riêng
hành xứ ấn. Từ sơ phát ý trở đi, quán sâu xa mười câu duyên sanh; khi nhập địa
vị này, sẽ vượt lên bờ kia Tánh Không. Vì thế nói là “bất đắc nhất thiết chư pháp, ly ư hữu sanh” (chẳng đạt được hết
thảy các pháp, lìa hữu sanh). Lại do phương tiện thiện xảo, trong Như Như bất động,
khởi vô biên tác dụng to lớn của mười duyên sanh, dùng Như Huyễn tam-muội để tới
trọn khắp các cõi Phật trong mười phương, thân cận đủ loại thiện tri thức, học
trọn khắp vô lượng môn “độ người”, tùy thuộc chúng sanh đáng nên dùng loại hình
tượng, ngôn âm như thế nào để đắc độ, bèn đều hiện ra để vì họ thuyết pháp. Do
vậy, thế gian thấy dấu tích nơi mặt Sự như thế, bèn gọi Ngài là Quán Thế Tự Tại
Giả. Đó là tên gọi khác của Nhập Liên Hoa tam-muội.
Đối với chữ Tự Tại ở đây,
âm tiếng Phạn nếu dịch sát nghĩa, sẽ là Phú Quý. Như người đạt được thế lực và
địa vị to lớn, trọn đủ tài bảo, tùy theo lòng muốn mà tự nhiên thành tựu. Vị Bồ
Tát này cũng thế! Giả sử hết thảy hữu tình trong mười phương thế giới, mong cầu
đủ loại vật dụng cần thiết thuộc thế gian hay xuất thế gian, tùy theo sự ưa muốn
đủ loại khác nhau, mà đều có thể dùng Như Huyễn tam-muội để cùng lúc ban cho, khiến
cho ai nấy đều được mãn nguyện. Nhưng do chưa thể dứt bặt dấu tích khởi dụng (dấy
lên tác dụng), khiến cho các việc đã làm đều như kim cang. Vì thế, chia thành
hai thứ ấn. Lại nữa, ở đây nên nói về pháp môn đầu tiên để giảng giải đạo
tam-muội. Do trong phẩm trước đã nói, cho nên chẳng nhắc lại. Lại nữa, tam-muội
của bậc Nhất Sanh Bổ Xứ và Đệ Bát Địa như đã nói trên đây là xét theo giáo đạo
pháp môn hướng dẫn, dạy bảo mà nói như thế. Nhưng người thuộc bí mật thừa, từ
trong Thế Đế có thể thông đạt Đệ Nhất Nghĩa Đế, từ lúc sơ phát tâm đã hành trọn
đủ Đại Không tam-muội. Nếu chẳng như thế, trong một đời sẽ chẳng thể nhanh
chóng viên mãn các địa!
Kinh nói: “Phục thứ, Bí
Mật Chủ! Thanh Văn chúng trụ hữu duyên địa, thức sanh diệt, trừ nhị biên, cực
quán sát trí, đắc bất tùy thuận tu hành nhân, thị danh Thanh Văn tam-muội đạo” (Lại này, Bí Mật Chủ!
Các vị Thanh Văn trụ trong địa vị hữu duyên, biết sanh diệt, trừ nhị biên, trí
quán sát tột bậc, đạt được chẳng tùy thuận các cái nhân. Đó gọi là đạo tam-muội
của Thanh Văn): Như A Tỳ Đàm nói pháp cửu tưởng, bát niệm bối xả, thắng xứ, hết
thảy nhập, ba tam-muội v.v… đều gọi là “trụ
hữu duyên địa”. Nương vào các phương tiện tam-muội ấy, khiến cho tâm điềm
nhiên, an tĩnh, đạt được sự quán sát chánh đáng, nhận biết pháp thế gian và xuất
thế gian đều có nhân, có duyên. Thế gian thì lấy Tập làm nhân, dùng Khổ làm quả;
pháp xuất thế gian lấy Đạo làm nhân, dùng Diệt làm quả, như trong A Hàm đã nói
rộng. Nói tới pháp trọng yếu trong Tỳ Ni (Luật Tạng) thì chính là “các pháp do duyên khởi, Như Lai nói là
nhân, pháp ấy do duyên tận, Đại Sa Môn đã nói”. Do biết là nhân duyên sanh diệt, bèn diệt kiến giải Hữu và Vô, xa lìa Nhị Biên đoạn và thường,
trí Chân Đế sanh khởi. Vì thế, gọi là Cực Quán Sát Trí. Do có thể quán sát tột
cùng, chẳng điên đảo, chẳng sai lầm, nên gọi là Đế. Từ Vô Minh cho tới già, chết,
do cái này có nên cái kia có, do cái này sanh nên cái kia sanh, cho tới luân hồi
chẳng có ngằn hạn. Nếu thuận theo đó mà luân chuyển thì gọi là Thuận. Đã thấy Tứ
Chân Đế, liền trái nghịch sanh tử, hành theo chánh đạo, cho đến có thể nói chắc
chắn: “Sự sanh của ta đã tận, phạm hạnh
đã lập, việc làm đã hoàn thành, chẳng tiếp nhận hậu hữu (thân trong đời sau)”.
Đó gọi là “chẳng tùy thuận”. Các
hạnh chẳng tùy thuận như thế, phải dùng tam-muội làm nhân, cho nên nói là “đắc bất tùy thuận tu hành nhân” (đạt
được cái nhân tu hành chẳng tùy thuận). Tuy các bộ nói về tam-muội của Thanh
Văn đủ loại sai khác bất đồng, nhưng khế hợp pháp ấn như thế thì gọi là “chánh hạnh”. Nếu chẳng khế hợp pháp ấn
như thế, thì gọi là “tà hạnh”.
Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Duyên Giác quán sát nhân quả,
trụ vô ngôn thuyết pháp, bất chuyển vô ngôn thuyết, ư nhất thiết pháp, chứng cực
diệt ngữ ngôn tam-muội. Thị danh Duyên Giác tam-muội đạo” (Bí Mật Chủ!
Duyên Giác quán sát nhân quả, trụ vô ngôn thuyết pháp, chẳng chuyển vô ngôn
thuyết, trong hết thảy các pháp, chứng Cực Diệt Ngữ Ngôn tam-muội. Đó gọi là đạo
tam-muội của Duyên Giác). “Nhân quả”
chính là pháp mười hai nhân duyên. Như Cực Quán Sát Trí của Thanh Văn hiểu “chỉ có Uẩn, vô ngã”, do tâm chán
nhàm sâu nặng, bèn nhanh chóng đoạn phiền não, tự chứng Niết Bàn, chẳng thể
phân tích, tìm cầu Thật Tướng của mười hai nhân duyên. Bích Chi Phật trí huệ
sâu bén, có thể dùng tổng tướng và biệt tướng để quán sát sâu xa, thấy hết thảy
các Tập pháp đều là diệt pháp. Điều này khác hẳn Thanh Văn. Kinh A Hàm nói: “Thập nhị nhân duyên pháp giả, hữu Phật, vô
Phật, pháp vị thường trụ” (Pháp mười hai nhân duyên, dù có Phật hay không có Phật, pháp vị thường
trụ). Ngài Long Thọ cũng nói: “Pháp vị
trong ấy chính là tên gọi khác của Như; đấy chính là chỗ khó hiểu nhất trong hết
thảy thế gian”. Vì thế,
lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, chẳng muốn thuyết pháp là do ý này. Sở nhập của
Bích Chi Phật sâu dần, trụ trong vô ngôn mà thuyết pháp, nên nói là “bất chuyển”, tức là khi trụ Đệ Nhất
Nghĩa, chẳng có âm thanh và văn tự, cho nên chẳng thể truyền dạy kẻ khác. Đức
Thế Tôn đạt được tri kiến vô ngại, tự tại trong pháp, có thể trong vô ngôn thuyết
pháp mà lập ra danh tự để dạy lại chúng sanh. Trí huệ của Bích Chi Phật có ngăn
ngại; vì thế, chẳng thể diễn nói.
Lại nữa, Bích Chi Phật quán
hết thảy Tập pháp thảy đều như tướng Niết Bàn. Trong đủ loại cảnh giới hữu vi,
gió hý luận dứt bặt, mà chẳng hay biết, nên gọi là “chứng cực diệt ngữ ngôn tam-muội”. Tu Du Già tương ứng với điều này thì gọi là Duyên Giác tam-muội.
Hai loại tam-muội ấy đều là chỗ khó khăn trong Bồ Đề tâm, nhưng chỉ là một loại
tâm tướng trong đạo được hành, chẳng phải là tâm tánh chẳng thể nghĩ bàn có tướng
tam thừa nhất định như thế. Vì thế, hành nhân dùng pháp ấn này để tự ấn chứng,
nhận biết rồi, sẽ vượt thẳng qua vô ngại. Nếu chẳng khéo hay biết, sẽ bị chướng
ngại!
Kinh nói “Bí Mật Chủ! Thế gian nhân quả cập nghiệp,
nhược sanh, nhược diệt, hệ thuộc tha chủ, không tam-muội sanh, thị danh thế
gian tam-muội đạo” (Bí Mật Chủ! Nhân quả và nghiệp thế gian, dù sanh hay
diệt, đều thuộc vào cái khác làm chủ, Không tam-muội sanh, đó gọi là đạo tam-muội
của thế gian), tức là hết thảy tam-muội thế gian, nói tóm gọn, đạt tới chỗ rốt
ráo là đều diệt hoại nhân quả, và khi từ nhân mà biện định quả đối với tất cả
các nghiệp đã tạo, [người đời] luôn cho rằng ba chuyện ấy đều hệ thuộc thứ
khác. “Thứ khác” chính là Thần
Ngã. Vì lẽ nào vậy? Nếu hành nhân chẳng hiểu ý nghĩa của nhân duyên chánh yếu
mà tu chứng các môn Thiền, ắt sẽ chấp trước tự tâm, cho đó là nội ngã. Họ thấy
vạn pháp trong thế gian do tâm mà có, bèn bảo là do Thần Ngã sanh ra. Nếu chẳng
thuận theo nội ngã, ắt sẽ nương vào ngoại ngã, tức là Tự Tại Phạm Thiên v.v… Nếu
từ trong ấy, tìm cầu sâu xa cùng tột, [do vô minh, chấp trước], sẽ tự nhiên bác
bỏ nhân và nghiệp, chỉ cho rằng ngã tánh riêng tồn tại, cho đến chẳng có một
pháp nào nhập tâm để chứng Không định, [cho rằng] đó là lý tột bậc trong thế
gian. Vì thế, lẩn quẩn trong ba cõi, vẫn đọa trong tam đồ. Tuy trong Thiền Định
phát sanh đủ loại trí thế gian thù thắng, trọn đủ năm món thần thông, nhưng suy
xét tông thú, rốt cuộc vẫn quy vào chỗ ấy (tức là chấp có nội ngã hay ngoại
ngã). Vì thế, dùng cái ấn ấy để thâu nhiếp hết thảy đạo tam-muội thế gian. Khi
hành giả nhập cái tâm ấy, sẽ tự hay biết.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật Chủ đương tri, thử
đẳng tam-muội đạo, nhược trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát cứu thế giả, Duyên Giác,
Thanh Văn thuyết, tồi hại ư chư quá. Nhược chư thiên, thế gian, chân ngôn pháp
giáo đạo. Như thị cần dũng giả, vị lợi chúng sanh cố.
(經)爾時,世尊而說偈言:祕密主當知,此等三昧道,若住佛世尊,菩薩救世者,緣覺聲聞說,摧害於諸過。若諸天世間,真言法教道,如是勤勇者,為利眾生故。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng: - Bí Mật Chủ
nên biết, các đạo tam-muội ấy, nếu trụ Phật Thế Tôn, Bồ Tát đấng cứu đời, Duyên
Giác, Thanh Văn nói, dẹp sạch các lỗi lầm. Nếu chư thiên, thế gian, chân ngôn
pháp giáo đạo, bậc cần dũng như thế, do vì lợi chúng sanh).
Trong chánh kinh, đức Phật
nói kệ thâu nhiếp, chia năm loại tam-muội thành hai phần, tức là: Bốn loại
tam-muội của Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đều gọi là xuất thế gian
tam-muội; còn chân ngôn và pháp giáo do chư thiên v.v… đã nói thì thuộc vào thế
gian tam-muội. Xuất thế gian tam-muội đều có lợi ích chân thật, cho nên nói “tồi hại ư chư quá” (dẹp tan, trừ sạch
các lỗi lầm). Thế gian tam-muội chỉ có lợi ích quyền biến, cho nên nói “vị lợi ích chúng sanh” (vì lợi ích
chúng sanh). Như các kinh khác đã nói, người cầu Tiểu Thừa phải nên tu hành tác
quán, tức là sanh lòng chán nhàm sâu xa đối với giáo pháp thế gian. Người cầu Đại
Thừa lại sanh lòng sợ hãi sâu xa đối với giáo pháp Thanh Văn. Đấy đều là vì chẳng
biết “do bí mật tạng mà nói phương tiện
ấy!” Xét theo điều được đề cao trong kinh này, năm loại tam-muội đều là
môn Thật Tướng để khai tâm. Như hành giả sơ trụ hữu tướng Du Già chính là thế
gian tam-muội, nhưng biết rõ “chỉ có Uẩn,
không ngã” trong ấy thì là Thanh Văn tam-muội. Nếu dùng mười câu duyên
sanh để quán các Uẩn vô tánh, vô sanh, tức là Bồ Tát tam-muội. Những điều khác
như trong phẩm Trụ Tâm đã nói rộng. Các giáo pháp bất đồng khác do chưa hiểu rõ
ý chỉ của tâm tánh, nên ngũ thừa bèn thành sai khác, chẳng thể dung hội! Nếu lại
dùng cách giải thích sâu xa, bí mật, thì như ngũ vị tam-muội[107]
trong ba tầng Mạn-đồ-la đều được đức Tỳ Lô Giá Na bí mật gia trì, người tương ứng
với điều ấy, sẽ đều có thể thành Phật trong một đời, há có cạn hay sâu khác biệt
ư? Nay những điều được nói trong bài kệ đều là thuận theo pháp giáo được lưu
truyền của bọn họ mà nói đó thôi!
(Kinh) Phục thứ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ!
Nhữ đương đế thính chư chân ngôn chi phần dã”. Kim Cang Thủ ngôn: “Dụy nhiên!
Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.
(經)復次,世尊告執金剛祕密主言:祕密主!汝當諦聽諸真言支分也。金剛手言:唯然。世尊!願樂欲聞。
(Kinh: Lại nữa, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Ông hãy nên lắng nghe các chi phần của chân ngôn”. Kim
Cang Thủ thưa: “Bạch Thế Tôn, vâng ạ! Con ưa thích muốn nghe”).
Phán định đại lược chân
ngôn có năm loại, tức là do Như Lai nói, hoặc do Bồ Tát, Kim Cang nói, hoặc do
Nhị Thừa nói, hoặc do chư thiên nói, hoặc do địa cư thiên như rồng, chim, A Tu
La v.v… nói. Lại nữa, ba thứ đầu được gọi là “thánh giả chân ngôn”, loại thứ tư gọi là “chư thiên chúng chân ngôn”, loại thứ
năm là “địa cư giả chân ngôn”,
cũng có thể gọi là “chư thần chân
ngôn”. Như thánh giả chân ngôn cũng nói các chữ A, hoặc chữ Ra v.v…, các
vị trời trong thế gian, cho đến các địa cư quỷ thần cũng đều nói như thế. Tướng
trạng có gì khác nhau? [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu do Phật, Bồ Tát nói thì trong một chữ, trọn đủ vô lượng nghĩa”.
Lại nói đại lược, chữ A có ba nghĩa, tức là nghĩa bất sanh, nghĩa không, và
nghĩa có. Như chữ A trong tiếng Phạn có âm thanh bổn sơ. Nếu có bổn sơ thì tức
là pháp nhân duyên; vì thế là “có”. Lại nữa, A có nghĩa là Vô Sanh. Nếu pháp do
nắm níu nhân duyên mà thành, tức là chẳng có tánh; do vậy là Không. Lại nữa, bất
sanh chính là cảnh giới Nhất Thật, tức là Trung Đạo. Vì thế, ngài Long Thọ nói:
“Pháp sanh bởi nhân duyên, cũng là
Không, cũng là Giả, cũng là Trung”.
Lại nữa, Đại Luận nói Tát
Bà Nhã có ba loại tên gọi:
- Nhất Thiết Trí, chung với
Nhị Thừa.
- Đạo Chủng Trí, chung với
Bồ Tát.
- Nhất Thiết Chủng Trí là
pháp bất cộng của Phật.
Ba trí ấy thật ra là cùng đạt được trong một
tâm, chỉ nhằm phân biệt khiến cho người khác dễ hiểu mà lập ra ba loại tên, tức
là ba nghĩa của chữ A.
Lại như chữ Ra (र) cũng có ba nghĩa:
- Một, nghĩa là “trần” (bụi
bặm).
- Hai, do nhập môn chữ A
nên chính là nghĩa “vô trần”.
- Lại có nghĩa là Ba La Mật,
do rốt ráo đạt đến bờ kia, tức là bổn sơ bất sanh.
Hãy nên biết cũng là trọn đủ
ba điểm, ba điểm chính là nhiếp hết thảy các pháp. Như chữ A và chữ Ra, ý nghĩa
của các chữ khác cũng đều là như thế. Lại nữa, trong hết thảy lời nói, hễ có
kèm theo âm A, sẽ đều thuộc vào môn chữ A. Nếu kèm theo âm Ra, đều thuộc vào
môn chữ Ra. Các chữ khác cũng thế! Do Đại Luận giải thích ý nghĩa của các tiếng,
các chữ đều tương đồng, trong phần sau sẽ không giải thích cặn kẽ nữa!
Nếu chân ngôn của các Bồ
Tát có chữ A, hãy nên biết trong pháp giới môn được thông đạt bởi chân môn ấy
có trọn đủ hết thảy các nghĩa, chẳng phải là các ý nghĩa trọn đủ trong phổ môn
pháp giới. Nếu chân ngôn của Nhị Thừa có chữ A thì hãy nên biết: Chỉ xét theo Tận
Vô Sanh Trí, tịch diệt Niết Bàn để nói về nghĩa “bất sanh”. Nếu là chân ngôn do
Phạm Thiên nói ra mà có chữ A, xét theo lìa ngũ dục, dựa theo “giác quán bất
sanh” để nêu rõ ý nghĩa. Nếu chân ngôn của Đế Thích và các vị trời Hộ Thế có chữ
A, tức là xét theo Thập Bất Thiện đạo và ý nghĩa “các tai hoạn bất ngờ chẳng nẩy
sanh”. Những điều khác cứ phỏng theo đó mà suy ra. Những điều vừa nói trên đây
đều là lời lẽ thuận theo ý của người khác mà nói, nhằm nêu bày ý nghĩa nông cạn,
sơ lược.
Nếu là lời lẽ thuận theo ý
mình để nêu bày ý nghĩa sâu xa, bí mật, thì hễ nhập một môn, sẽ đều trọn đủ hết
thảy các pháp giới môn. Thậm chí các vị trời, quỷ thần v.v… trong thế gian đều
là Tỳ Lô Giá Na, há có cạn hay sâu sai khác ư? Nếu hành giả có thể từ trong vô
sai biệt, thấu hiểu ý nghĩa sai biệt, hãy nên biết là người thông đạt nghĩa Nhị
Đế, mà cũng là biết tướng chân ngôn vậy.
(Kinh) Chánh Đẳng Giác chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân
Đà La tông, chư nghĩa lợi thành tựu, hữu tăng gia pháp cú, bổn danh hạnh tương ứng.
Nhược Án tự, Hồng tự, cập dữ Bát Trách Ca, hoặc Hiệt Rị Bễ đẳng, thị Phật Đảnh
danh hiệu. Nhược Yết Lật Ngận Noa, Khư Đà Da Bạn Xà, Ha Na Ma Ra dã, Bát Trá Dã
đẳng loại, thị phụng giáo sứ giả, chư Phẫn Nộ chân ngôn. Nhược hữu Nạp Ma tự, cập
Sa Phược Ha đẳng, thị tu Tam-ma-địa, tịch hạnh giả tiêu tướng. Nhược hữu Phiến
Đa tự, Vi Thú Đà tự đẳng, đương tri năng mãn túc, nhất thiết sở hy nguyện. Thử
Chánh Giác Phật tử, cứu thế giả chân ngôn. Nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất
cú an bố. Thị trung Bích Chi Phật, phục hữu thiểu sai biệt, vị tam-muội phần dị,
tịnh trừ ư nghiệp sanh.
(經)正等覺真言,言名成立相,如因陀羅宗,諸義利成就。有增加法句,本名行相應,若唵字吽字,及與潑磔迦,或頡唎嫓等,是佛頂名號。若揭㗚佷拏,佉陀耶畔闍,訶娜摩囉也,鉢吒也等類,是奉教使者,諸忿怒真言。若有納麼字,及莎縛訶等,是修三摩地,寂行者標相。若有扇多字,微戍陀字等,當知能滿足,一切所希願。此正覺佛子,救世者真言,若聲聞所說,一一句安布,是中辟支佛,復有少差別,謂三昧分異,淨除於業生。
(Kinh: Chân ngôn Chánh Đẳng Giác; ngôn, danh thành lập
tướng, như Đế Thích tạo luận, thành tựu các nghĩa lợi. Có tăng thêm câu pháp, vốn
tên Hành Tương Ứng. Như chữ Án (Oṃ), chữ Hồng
(Hūṃ), cùng với Bát Trách Ca (Phaṭaka), hoặc Hiệt Rị (Hrīḥ), Bễ (Bhi) thảy, là danh hiệu Phật Đảnh. Nếu Yết Lật Hận
Noa (Gṛhṇa), Khư Đà Da (Khādaya) Bạn
Xà (Bhañja), Ha Na Ma Ra Dã (Hadamāraya), Bát Trá Dã (sphāṭaya) các loại,
là phụng giáo sứ giả, các Phẫn Nộ chân ngôn. Nếu có chữ Nạp Ma (namaḥ), và Sa Phược Ha (svāhā) thảy, chính là chữ biểu trưng, của người tu tịch hạnh.
Nếu có chữ Phiến Đa (Ṣata), chữ
Vi Thú Đà (viśuddha) thảy, hãy nên biết trọn thỏa, hết thảy các ước nguyện.
Đó chính là chân ngôn, bậc chánh giác Phật tử, chân ngôn đấng cứu thế. Nếu do
Thanh Văn nói ra, mỗi mỗi câu sắp xếp. Bích Chi Phật trong ấy, lại có chút sai
biệt, tức tam nghiệp muội sai khác, đều trừ sạch nghiệp sanh).
Lại nữa, trong kinh tự nói
tướng trạng của các Chân Ngôn. Bài kệ
thứ nhất nói: “Chánh Đẳng Giác
chân ngôn, ngôn danh thành lập tướng, như Nhân Đà La tông, chư nghĩa lợi thành
tựu” (Chân ngôn của bậc Đẳng Chánh Giác, do ngôn và danh mà thành lập tướng,
như Nhân Đà La tông (luận do Đế Thích soạn), thành tựu các nghĩa lợi), nói về
tướng trạng chung nơi chân ngôn của Như Lai. Nay chỉ nói theo tam-muội-da chân
ngôn tối sơ. “Ngôn” là nói mỗi
một chữ đều là một loại nhập pháp giới môn, như nói A Tam Mê (Asame) thì chữ A
là môn Vô Sanh, chữ Sa là môn Vô Đế, chữ Ma là môn Đại Không. “Danh” là mỗi một tự môn hợp thành một
danh, như A có nghĩa là Vô, Tam Mê là Đẳng. Nếu nói gộp chung, sẽ chính là Vô Đẳng.
“Thành lập” là nhờ vào các danh
ấy, từ đầu tới cuối, hợp thành một nghĩa. Như câu đầu là Vô Đẳng, câu kế là nói
Tam Đẳng, câu kế đó là tam-muội-da, cùng nhau thành lập, tức là Vô Đẳng Tam
Bình Đẳng Tam-muội-da. Lại nữa, như do nhiều danh cùng hợp thành một câu, như “chư hành vô thường” v.v… Cho đến tổng
hợp nhiều câu thành một kệ, sau đấy ý nghĩa mới viên mãn, tức là “chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp,
sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” (các hành vô thường, là pháp sanh
diệt, sanh diệt đã diệt, tịch diệt là vui), đều là tướng thành lập bởi chân
ngôn. Các điều khác đều phỏng theo lệ này.
“Như Nhân Đà La tông”: Nhân Đà La (Indra) là tên gọi khác của
Thiên Đế Thích. Đế Thích tự tạo thanh luận, trong một lời có thể bao hàm trọn
các nghĩa. Vì thế, dẫn chuyện này làm chứng. Trí huệ thế gian mà còn như thế,
huống hồ Như Lai tự tại trong các pháp ư?
“Chư nghĩa lợi thành tựu” (thành tựu các nghĩa lợi), tức là đối
với chân ngôn của Như Lai, trong mỗi một chữ đều trọn có thể thành tựu các
nghĩa lợi. Trong mỗi một danh, cũng đều trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi.
Trong mỗi tướng được thành lập, cũng trọn có thể thành tựu hết thảy nghĩa lợi.
Nếu nêu ra chữ tối sơ là chữ A trong tam-muội-da chân ngôn, do nó có nghĩa “vốn
bất sanh”, tức là có tác dụng Tức Tai. Do vốn bất sanh, nên hết thảy các công đức
trọn đủ, chẳng thiếu, tức là có tác dụng Tăng Ích. Do vốn chẳng sanh, vô lượng
lầm lỗi bị diệt trừ chẳng sót, tức là có tác dụng Hàng Phục. Lại chẳng có một
pháp nào vượt ngoài cái “vốn bất sanh” ấy, tức là có tác dụng Nhiếp Triệu.
Trong cái “vốn chẳng sanh” như thế, do chẳng có công dụng, nên có thể hoàn
thành hết thảy các sự. Như chữ A, mỗi chữ khác cũng đều là như thế. Như mỗi một
chữ, mỗi một danh, ngôn, và tướng thành lập cũng đều như thế. Do vậy, hãy nên
biết đấy chính là trong chân ngôn trọn đủ hết thảy các công dụng. Tướng trạng
chung của chân ngôn đã nói xong.
Kế đó, nói về biệt tướng của
chân ngôn, cho nên nói: “Hữu gia tăng
pháp cú, bổn danh hành tương ứng” (Có tăng thêm câu pháp, sao cho tên
gọi của chân ngôn tương ứng với điều sẽ được thực hiện bởi chân ngôn ấy), ý
nói: Phàm tạo tác các sự nghiệp chân ngôn, hãy nên quán danh xưng vốn được
thành lập và ý thú tạo tác trong chân ngôn ấy, nhằm biện định bộ loại sai biệt
của nó, tùy theo tánh tướng đáng nên mà thực hiện, sử dụng. Nếu danh nghĩa và
tác dụng của chân ngôn chẳng tương ứng, hãy nên vâng theo đúng pháp mà tăng
thêm các câu có ý nghĩa. Như trong chân ngôn có các thứ danh ngôn sai biệt
trong pháp giới pháp tánh Đại Không chẳng thể nghĩ bàn, do tương ứng với chân
thể tự chứng của Như Lai, hãy nên biết đó là chân ngôn thuộc Phật Bộ. Nếu là
[chân ngôn thuộc] các bộ khác [nhưng do tương ứng với chân thể tự chứng của Như
Lai], cũng có thể dùng như [chân ngôn thuộc] Phật Bộ. Nếu có danh nghĩa tương ứng
với Đại Bi Phổ Nhãn vô nhiễm trước, hãy nên biết là dùng cho Liên Hoa Bộ. Nếu
có danh nghĩa tương ứng với Kim Cang Bất Hoại Vô Hý Luận, hãy nên biết là dùng
cho Kim Cang Bộ. Các nghĩa như thế vô lượng vô biên, Du Già hành nhân hãy nên
dùng ý để suy ra, chẳng cần phải chép tường tận.
Lại nữa, kinh tự nói tác dụng
tương ứng với danh hạnh. Tức là nếu trong chân ngôn có các chữ Án (ॐ, Oṃ), Hồng (हूं, Hūṃ), Phát (फ, phát), ङ्क (ṅka, trách ca), Hiệt Rị (ह्रि, hri), Bệ (भि, bhi) v.v… Hãy nên biết đó là
danh hiệu của Phật Đảnh. Nếu có các chữ như Yết Lật (गृ, gṛ), Hận Noa (ह्ण, hṇa, có nghĩa là “chấp thủ”),
Khư (ख, kha), Đà (द, da), Da (य, ya) (nghĩa là “ăn”), Bạn Xà (भज, bhaja, nghĩa là “phá hoại”), Ha
Na (हद, hada, có nghĩa là “đánh”), Ma
La Dã (मरय, maraya, có nghĩa “giết”), Bát
Trá Dã (फटय, phaṭaya, nghĩa là “ném”) như thế,
hãy nên biết là chân ngôn của các vị Phẫn Nộ hoặc Phụng Giáo, có thể dùng để
hàng phục, nhiếp triệu. Như nói “đạm
thực” (ăn nuốt) thì “ăn nuốt” nghĩa là khiến cho các vị Phẫn Nộ nuốt, diệt
hết thảy loài Tỳ Na Dã Ca. Nếu hiểu là “thật sự ăn nuốt” [các quỷ thần], chư Phật
sẽ mắc tội giết chúng sanh. Nay xét theo nghĩa được giảng giải trong tông này,
nói Tỳ Na Dã Ca (Vināyaka) cũng tức là “hết thảy các thứ có thể gây ra chướng ngại”. Các chướng ấy đều
từ cái tâm vọng tưởng sanh ra. Nếu có thể “ăn nuốt” trọng chướng như thế, khiến
cho tâm mục mở sáng, hãy nên biết đó gọi là bậc Chân Phẫn Nộ. Dùng môn chữ Khư
(ख, Kha) để ăn nuốt các chướng của hết
thảy chúng sanh, sẽ là người được Như Lai sai khiến hành Như Lai sự. Những điều
khác có thể suy luận tương tự mà biết.
Lại nữa, nếu trong chân ngôn có chữ Nạp-ma (नमः, Namaḥ, có
nghĩa là “quy mạng”), chữ Sa Phược Ha (स्वाहा, Svāhā, nghĩa là “nhiếp thủ”)
v.v… hãy nên biết đó là chân ngôn tương ứng với tu Tam-ma-địa tịch tĩnh. Hoặc
có các chữ Phiến Đa (षत, Ṣata, nghĩa là “tịch”), Vi Thú Đà (विशुद्ध, Viśuddhā, nghĩa là “thanh tịnh”), hãy nên biết đó là chân
ngôn thành tựu viên mãn hết thảy các nguyện. Hơn nữa, Phiến Đa cũng có nghĩa là
Tức Tai, tương ứng với Phật Bộ. Những điều khác như trong các kinh Tô Tất Địa
v.v… đã nói tường tận. Những điều đã nói trên đây đều là tướng chân ngôn của Phật,
Bồ Tát.
Kế đó nói “nhược Thanh Văn sở thuyết, nhất nhất cú an
bố” (nếu là [chân ngôn] do Thanh Văn nói, mỗi câu đều xếp đặt): Do Thanh
Văn nhờ vào người khác mà được ngộ, nhập pháp tánh chưa sâu, không thể trong một
lời trọn chứa trọn các đức. Nếu nói một bài kệ bốn câu như “chư hành vô thường…”, muốn theo thứ
tự xếp đặt văn nghĩa chẳng khuyết để trở thành chân ngôn, chớ nên dùng tự môn để
nêu ra ý nghĩa và tăng thêm danh và cú (câu). Tuy Bích Chi Phật vô ngôn thuyết,
cũng có thể dùng sức thần thông hiện ra chân ngôn, khiến cho những người thọ
trì đều đạt được nghĩa lợi. “Thị
trung, thiếu hữu sai biệt” (Trong ấy, có chút sai biệt), tức là
Lậu Tận của Bích Chi Phật và Thanh Văn giống nhau, nhưng tam-muội có cạn hay
sâu sai khác, có thể dùng thần thông để lợi ích chúng sanh, khiến cho sở nguyện
của họ đều được thành tựu. Trừ tứ đại đệ tử ra, sức của các vị Thanh Văn khác
chẳng thể. Lại nữa, chân ngôn ấy chỉ nhằm nói lý “mười hai nhân duyên tịch diệt”; cho nên nói: “Vị tam-muội phần dị, tịnh trừ ư nghiệp
sanh” (Tức là tam muội có phần nào sai khác, nhưng đều là trừ sạch các
quả do nghiệp sanh khởi).
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thử chân ngôn tướng, phi nhất thiết chư
Phật sở tác, bất linh tha tác, diệc bất tùy hỷ. Hà dĩ cố? Dĩ thị chư pháp, pháp
như thị cố. Nhược chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất xuất, chư pháp
pháp nhĩ như thị trụ. Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố. Bí Mật Chủ!
Thành Chánh Đẳng Giác nhất thiết tri giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế,
nhi tự thử pháp thuyết chủng chủng đạo, tùy chủng chủng lạc dục, chủng chủng chư
chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng chủng tùy phương ngữ
ngôn, chủng chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia trì, thuyết chân ngôn đạo.
(經)復次,祕密主!此真言相非一切諸佛所作,不令他作亦不隨喜。何以故?以是諸法法如是故。若諸如來出現、若諸如來不出,諸法法爾如是住。謂諸真言,真言法爾故。祕密主!成正等覺一切知者、一切見者出興于世,而自此法說種種道,隨種種樂欲、種種諸眾生心,以種種句、種種文、種種隨方語言、種種諸趣音聲而以加持說真言道。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này
chẳng do hết thảy chư Phật làm ra, chẳng khiến người khác làm, mà cũng chẳng
tùy hỷ. Vì sao vậy? Do các pháp ấy, pháp vốn là như thế. Dù các đức Như Lai xuất
hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất hiện, các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức là
các chân ngôn và pháp chân ngôn vốn sẵn là như thế đó. Bí Mật Chủ! Bậc thành
Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy hết thảy, xuất hiện trong cõi đời, bèn từ
pháp này mà nói đủ loại đạo, tùy theo các thứ ưa thích, mong muốn, thuận theo
các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ
theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các đường để gia trì, nói đạo chân ngôn).
Kế đó, kinh nói đến Thật Tướng
của chân ngôn, nên nói: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thử Chân Ngôn tướng,
phi nhất thiết chư Phật sở tác, bất linh tha tác, diệc bất tùy hỷ, hà dĩ cố? Dĩ
thị chư pháp, pháp như thị cố. Nhược chư Như Lai xuất hiện, nhược chư Như Lai bất
xuất, chư pháp pháp nhĩ như thị trụ. Vị chư chân ngôn, chân ngôn pháp nhĩ cố” (Lại này, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này chẳng do hết thảy chư Phật làm
ra, chẳng khiến người khác làm, mà cũng chẳng tùy hỷ. Vì sao vậy? Do các pháp ấy,
pháp vốn sẵn là như thế. Dù các đức Như Lai xuất hiện, hay chư Như Lai chẳng xuất
hiện, các pháp vẫn vốn sẵn trụ như thế, tức là các chân ngôn và pháp chân ngôn
vốn sẵn như thế đó). Do thân, ngữ, ý của Như Lai rốt ráo bình đẳng; tướng,
thanh, và chữ của chân ngôn đều là thường. Do là thường nên chẳng dời, chẳng có
biến đổi, pháp vốn sẵn là như thế, chẳng phải là do tạo tác mà thành. Nếu có thể
tạo thành thì chính là sanh pháp (pháp được sanh bởi các pháp khác). Hễ pháp có
sanh, sẽ có thể phá hoại, bốn tướng đổi dời, vô thường, vô ngã, há có gì gọi là
chân thật ngữ ư? Do vậy, Phật chẳng tự làm, chẳng sai kẻ khác làm. Giả sử có
người có thể làm thì cũng chẳng tùy hỷ. Vì thế, tướng chân ngôn này, dù Phật xuất
hiện trong cõi đời, hoặc chẳng xuất thế, hoặc đã nói, hoặc chưa nói, hoặc đang
nói, pháp trụ pháp vị, tánh tướng thường trụ. Do vậy gọi là nhất định ấn, đạo của
các vị thánh như nhau. Tức là hết thảy các chân ngôn trong Đại Bi Mạn-đồ-la
này, tướng của mỗi chân ngôn đều vốn sẵn như thế, cho nên nhắc lại [lần nữa để
nhấn mạnh].
Nếu là như thế, tướng của
các chân ngôn là rốt ráo tịch diệt, chẳng truyền cho người khác, cớ sao có lúc
xuất hiện, có khi ẩn mất? Do vậy, kinh lại giải thích nguyên do, bèn nói rằng: “Bí Mật Chủ! Thành Chánh Đẳng Giác, nhất thiết
trí giả, nhất thiết kiến giả, xuất hưng vu thế, nhi tự dĩ thử pháp thuyết chủng
chủng đạo, tùy chủng chủng lạc
dục, chủng chủng chư chúng sanh tâm, dĩ chủng chủng cú, chủng chủng văn, chủng
chủng tùy phương ngữ ngôn, chủng chủng chư thú âm thanh, nhi dĩ gia trì thuyết
chân thật đạo” (Bí Mật Chủ! Bậc thành Chánh Đẳng Giác biết hết thảy, thấy
hết thảy, xuất hiện trong cõi đời, bèn từ pháp này mà nói đủ loại đạo, tùy theo
các thứ ưa thích, mong muốn, thuận theo các loại tâm của chúng sanh, dùng đủ loại
câu, đủ loại văn, đủ loại ngôn ngữ theo từng nơi, đủ loại âm thanh trong các đường
để gia trì, nói đạo chân thật). Ý nói: Pháp thể do Như Lai tự chứng, chẳng phải
do Phật tự làm, chẳng phải do trời, người nào khác làm ra, pháp vốn sẵn thường
trụ. [Đức Phật] bèn dùng thần lực gia trì để [chân ngôn] xuất hiện trong cõi đời,
lợi ích chúng sanh. Nay môn Chân Ngôn “thân, khẩu, ý bí mật” này chính là thân,
khẩu, ý bình đẳng của Pháp Thân Phật, nhưng cũng do sức gia trì, bèn xuất hiện
trong cõi đời để lợi ích chúng sanh. Tri kiến vô ngại của Như Lai vốn sẵn thành
tựu liên tục nơi hết thảy chúng sanh, chẳng có khuyết giảm. Do chẳng như thật
nhận biết thể tướng của chân ngôn ấy, nên gọi là “kẻ ở trong sanh tử”. Nếu lúc có thể tự biết, tự thấy, thì gọi
là bậc “biết hết thảy, thấy hết thảy”.
Do thấy biết như thế, chẳng do Phật tự tạo tác, cũng chẳng phải do kẻ khác truyền
trao.
Đức Phật ngồi đạo tràng, chứng
pháp như thế rồi, biết rõ hết thảy thế giới vốn sẵn thường là pháp giới, lập tức
sanh đại bi tâm: “Cớ sao chúng sanh hết sức gần Phật đạo mà chẳng thể tự giác?”
Do bởi nhân duyên ấy, Như Lai xuất hiện trong thế gian, vẫn dùng pháp giới chẳng
thể nghĩ bàn như thế, chia thành đủ loại đạo, khai thị đủ loại thừa, tùy thuận
đủ loại căn cơ, tâm hạnh, ưa thích, mà dùng đủ loại câu chữ, ngôn ngữ địa
phương, tự tại gia trì để nói đạo chân ngôn. Tuy sanh từ nhân duyên cơ cảm,
nhưng chẳng dao động Thật Tế. Tuy phương tiện thiện xảo không gì chẳng thực hiện,
nhưng chẳng phải là do Phật tạo tác. Dẫu nói trọn khắp các điều khác biệt,
nhưng chỉ dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, giác ngộ chúng sanh. Nếu hành giả
đối với mười thí dụ về Chân Ngôn (như huyễn, như mộng, như ánh nắng gợn v.v…)
mà hư vọng thấy hữu vi sanh diệt rồi tăng trưởng tâm cấu, sẽ chẳng phải là bổn
ý của Như Lai.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân ngôn đạo? Vị gia trì thử thư tả
văn tự.
(經)祕密主!云何如來真言道?謂加持此書寫文字。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân ngôn của
Như Lai? Chính là gia trì văn tự được biên chép ấy).
Lại nữa, do chúng sanh đời
vị lai độn căn, mê nơi Nhị Đế, chẳng biết “Tục chính là Chân”; vì thế, đức Thế Tôn ân cần chỉ bày rằng: “Bí Mật Chủ! Vân hà Như Lai chân thật đạo? Vị
gia trì thử thư tả văn tự” (Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo chân thật của Như
Lai? Chính là gia trì văn tự được biên chép ấy). Do văn tự của thế gian là thật
nghĩa của ngôn ngữ; vì thế, Như Lai liền dùng thật nghĩa của chân ngôn để gia
trì. Nếu vượt ngoài pháp tánh mà riêng có văn tự thế gian, tức là do vọng tâm
mà thấy lầm lạc, đều chẳng có thật thể để có thể cầu, nhưng đức Phật dùng thần
lực gia trì, sẽ là tùy thuận điên đảo, chẳng phải là chân ngôn. Đã biết chỗ gia
trì, Như Lai dùng pháp nào để gia trì vậy?
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp,
tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, Thập
Như Lai Lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ, thập bát Phật bất cộng
pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất Thiết Trí trí, nhất thiết
Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất thiết pháp giới gia trì lực,
tùy thuận chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân Ngôn giáo pháp.
(經)祕密主!如來無量百千俱胝那庾多劫,積集修行真實諦語,四聖諦、四念處、四神足、十如來力、六波羅蜜、七菩提寶、四梵住、十八佛不共法。祕密主!以要言之,諸如來一切智智。一切如來自福智力、自願智力、一切法界加持力,隨順眾生,如其種類開示真言教法。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm
ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân lý chân thật, Tứ Thánh
Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo,
Tứ Phạm Trụ, mười tám pháp bất cộng của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất
Thiết Trí của Như Lai, hết thảy sức phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự
thệ nguyện, sức gia trì của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như
chủng loại của họ mà khai thị giáo pháp Chân Ngôn).
Vì thế, kế đó đức Phật nói:
“Bí Mật Chủ! Như Lai vô lượng bách
thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập tu hành chân thật đế ngữ, Tứ Thánh Đế, Tứ
Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, thập Như Lai lực, Lục Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm
Trụ, thập bát Phật bất cộng pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, chư Như Lai Nhất
Thiết Trí trí, nhất thiết Như Lai tự phước trí lực, tự nguyện trí lực, nhất thiết
pháp giới gia trì lực, tùy thuận chúng sanh, như kỳ chủng loại, khai thị Chân
Ngôn giáo pháp” (Bí Mật Chủ! Như Lai trong vô lượng trăm ngàn câu-chi
na-dữu-đa kiếp, tích tập, tu hành lời chân lý chân thật, Tứ Thánh Đế, Tứ Niệm Xứ,
Tứ Thần Túc, mười lực của Như Lai, sáu Ba La Mật, Thất Bồ Đề Bảo, Tứ Phạm Trụ,
mười tám pháp bất cộng của Phật. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, trí Nhất Thiết Trí của
Như Lai, hết thảy sức phước trí của chính Như Lai, trí lực do tự thệ nguyện, sức
gia trì của hết thảy pháp giới, tùy thuận chúng sanh, đúng như chủng loại của họ
mà khai thị giáo pháp Chân Ngôn), tức
là Như Lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tích tập công đức, phổ môn gia trì trọn
khắp hết thảy các chốn. Vì thế, tùy theo mỗi một chữ, mỗi một danh từ được
thành lập, đều như thanh luận của Nhân Đà La (Indra, Đế Thích), hết thảy nghĩa
lợi không gì chẳng thành tựu. Lại còn trong mỗi một công đức ấy, đều giống như
tướng Chân Ngôn, pháp tánh vốn tự như vậy, chẳng phải do tạo tác mà thành.
Nay lại dựa theo một chữ A
để biện định nghĩa này. Như khi hành giả tự chứng cái tâm, biết rõ nhân quả thế
gian và xuất thế gian vốn bất sanh, chẳng có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mà có Nhất Thật
Đế. Đã thấy Nhất Thật Đế rồi, nhất định sẽ sư tử hống, rộng vì chúng sanh mà
nói. Đó gọi là “tích tập tu hành chân
thật đế ngữ”. Lại biết tám món điên đảo[108]
vốn thật sự chẳng sanh, thành tựu Như Lai Niệm Xứ. Do biết Tứ Như Ý Túc vốn bất
sanh, thành tựu pháp tánh thần thông. Do biết các thứ như Thị Xứ Phi Xứ Trí
v.v… vốn bất sanh, thành tựu trí lực tự nhiên của Phật. Do biết Lục Tế[109]
vốn bất sanh, đạt đến bờ kia Lục Độ. Do biết Thất Bồ Đề Phần vốn bất sanh,
thành tựu bảy loại báu Vô Sư Giác (giác ngộ không do thầy dạy). Do biết Tứ Phạm
Trụ (từ, bi, hỷ, xả) vốn bất sanh, thành tựu vô duyên từ bi hỷ xả. Do biết mười
tám loại pháp vốn bất sanh, cho nên vượt ngoài tâm lượng, chẳng cùng chung với
hết thảy chúng sanh. Cho tới đủ loại pháp môn, sẽ đều tự tại nói.
Lại nữa, như ý nghĩa trong
phẩm đầu tiên của kinh này, nếu biết rõ “chỉ
có Uẩn, không có ngã”, cho tới khi chứng tịch nhiên giới, hãy nên dựa
theo “ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả vốn
bất sanh” để nói rõ các thứ pháp môn. Khi dùng năm thứ thí dụ để quán
sát tánh Không, hãy nên dựa theo “các
Uẩn vốn bất sanh” để nói rõ các thứ pháp môn. Khi quán sát Uẩn A Lại Da
cho đến tiền tế và hậu tế của giác tâm đều chẳng thể được, hãy nên xét theo “hình bóng của cái tâm vốn bất sanh”
mà nói các thứ pháp môn. Khi tâm cực vô tự tánh sanh khởi, hãy nên dựa theo “Bồ Đề tâm thanh tịnh vốn bất sanh” để
nói rõ các loại pháp môn. Cho tới Như Lai địa, hãy nên dựa theo ý nghĩa “rốt ráo bất sanh” của Đại Bi Thai Tạng
Mạn-đồ-la để nói các thứ pháp môn. Như môn chữ A bất sanh, môn chữ Ca vô tác
v.v… đều nên nói rộng. Như mỗi một chữ, cho đến mỗi một danh, mỗi mỗi thành lập,
đều nên nói rộng.
Lại nữa, đức Thế Tôn tự tại
trong các pháp, hoặc dùng một chữ để nhiếp các thứ “một pháp môn” như Bồ Đề tâm
v.v… Hoặc dùng hai chữ để nhiếp đủ loại “hai pháp môn” như Chỉ Quán v.v… Hoặc
dùng ba chữ để nhiếp các loại “ba pháp môn” như Tam Không v.v… Hoặc dùng bốn chữ
để nhiếp đủ loại “bốn pháp môn” như Tứ Niệm Xứ v.v… Hoặc dùng năm chữ để nhiếp
các loại “năm pháp môn” như Căn, Lực v.v… Hoặc dùng sáu chữ để nhiếp đủ loại
“sáu pháp môn” như Lục Độ v.v… Hoặc dùng bảy chữ để nhiếp đủ loại “bảy pháp môn”
như Thất Bồ Đề Bảo (Thất Giác Chi) v.v… Hoặc dùng tám chữ để nhiếp đủ loại “tám
pháp môn” như Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo). Hoặc dùng chín chữ để nhiếp đủ loại
“chín pháp môn” như Cửu Định v.v… Hoặc dùng mười chữ nhiếp đủ loại “mười pháp
môn” như Thập Lực v.v… Cho đến dùng vô lượng chữ để nhiếp vô lượng pháp môn.
Các danh, cú v.v… cũng giống như thế.
Nếu xét theo tướng trạng
chung của chân ngôn, như khi hành giả trì một môn chữ A, tùy theo sự ưa thích
và cơ duyên của người đó, hoặc ngộ Tứ Niệm Xứ, hoặc ngộ Tứ Thần Thông v.v… mỗi
mỗi bất đồng. Nhưng khi đã hiểu bất cứ một môn nào, sẽ trọn đủ các pháp môn
khác, các thứ pháp bảo không cầu mà tự đến! Nếu xét theo biệt tướng, như dùng bốn
chữ để nhiếp Tứ Niệm Xứ môn. Nếu lúc đúng như pháp tu hành, tuy trước kia chưa
từng chánh quán “thân, thọ, tâm, pháp”, tự nhiên ngộ Niệm Xứ môn mà nhập các
pháp môn thuộc pháp giới. Danh nghĩa hiểu theo lối thông thường thì như trong Trí
Độ Luận v.v… đã nói rộng. Lại nữa, Như Lai dùng đủ loại pháp môn, chẳng thể nêu
trọn, lại nêu ra điều trọng yếu để nói. Thoạt đầu nói tới trí Nhất Thiết Trí, tức
là nêu chung hết thảy Kim Cang trí ấn của mười phương ba đời Như Lai, dùng pháp
ấy để cùng nhau gia trì, không gì chẳng trọn vẹn. Lại nữa, hết thảy Như Lai khi
hành Bồ Tát đạo, tích tập vô biên khối phước, phát sanh vô tận đại nguyện, cho
tới rốt ráo viên mãn Tát Bà Nhã. Do vậy, đều được gọi là Trí. Nói do phước nguyện
trí lực như thế, và sức gia trì của hết thảy các pháp giới bổn tánh, tùy thuận
thế gian, đúng như từng chủng loại mà thực hiện gia trì. Do vậy, trong thân, ngữ,
ý của hết thảy chúng sanh, đều có thể khai thị giáo pháp Chân Ngôn.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà chân ngôn pháp giáo?
(經)祕密主!云何真言法教?
(Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là pháp giáo chân ngôn?)
Tức là nói các môn như chữ
A v.v… chính là giáo tướng của chân ngôn. Tuy Tướng chẳng khác Thể, Thể chẳng
khác Tướng, Tướng chẳng tạo tác, tu đã thành tựu, chẳng thể chỉ bày cho người
khác, nhưng có thể chẳng lìa giải thoát, hiện làm âm thanh và chữ. Mỗi mỗi chữ
và âm thanh chính là nhập pháp giới môn. Vì thế, được gọi là “pháp giáo chân ngôn”. Luận định pháp
giáo chân ngôn, hãy nên trọn khắp hết thảy các danh ngôn trong các nơi, các đường;
nhưng do thoạt đầu Như Lai thị hiện dấu tích xuất thế tại Thiên Trúc, người
truyền pháp bèn dựa theo tiếng Phạn để làm phương cách nêu bày ý nghĩa vậy!
(Kinh) Vị A tự môn, nhất thiết chư pháp bổn bất sanh cố.
(經)謂阿字門,一切諸法本不生故。
(Kinh: Tức môn chữ A, do hết thảy các pháp vốn chẳng sanh).
Chữ A (अ) là cái gốc của hết thảy các
giáo pháp. Phàm âm thanh khi ban sơ mở miệng đều có âm A. Nếu lìa âm A, sẽ chẳng
có hết thảy các ngôn thuyết. Vì thế, [chữ A] là mẹ của các âm thanh. Phàm ngôn
ngữ trong tam giới đều nương vào danh, mà danh nương vào chữ. Vì thế, chữ A
trong Tất Đàm[110]
cũng là mẹ của các chữ. Hãy nên biết nghĩa chân thật của môn chữ A cũng lại giống
như thế này: “Thuộc vào trọn khắp hết
thảy các pháp nghĩa”. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp không gì chẳng
sanh từ các duyên. Hễ sanh từ duyên thì đều có khởi đầu, có cội gốc. Nay quán cái
duyên có thể sanh ấy, cũng lại sanh từ các nhân duyên, lần lượt từ duyên, cái
gì là gốc? Khi quán sát như thế, sẽ biết: Cái “vốn chẳng sanh” chính là cái gốc
của vạn pháp. Giống như khi nghe hết thảy ngôn ngữ, thì chính là nghe âm thanh
của chữ A. Khi thấy hết thảy các pháp sanh như thế, chính là thấy cái gốc chẳng
sanh. Nếu thấy cái gốc chẳng sanh, tức là đúng như thật biết tự tâm. Đúng như
thật biết tự tâm chính là trí Nhất Thiết Trí; do vậy, đức Tỳ Lô Giá Na chỉ dùng
một chữ này làm chân ngôn. Nhưng phàm phu trong thế gian do chẳng quán cội nguồn
của các pháp, hư vọng thấy có sanh, cho nên thuận theo sanh tử mà lưu chuyển,
chẳng thể tự thoát! Như thợ vẽ vô trí, tự dùng các màu vẽ thành hình tướng Dạ
Xoa đáng sợ. Vẽ xong, lại tự xem, tâm sanh kinh hãi, ngã lăn ra đất. Chúng sanh
cũng lại giống như thế, tự vận dụng cội nguồn của các pháp, vẽ ra tam giới, vẫn
tự chìm đắm trong đó, tự tâm hùng hực hứng chịu trọn các nỗi khổ! Như Lai là họa
sĩ đã biết rõ rồi, liền có thể tự tại thành lập Đại Bi Mạn-đồ-la. Do vậy bèn
nói, cái gọi là “bí tạng rất sâu”
chính là do chúng sanh tự bí mật đó thôi, chẳng phải là Phật có ẩn tàng!
(Kinh) Ca tự
môn, nhất thiết chư pháp ly tác nghiệp cố.
(經)迦字門,一切諸法離作業故。
(Kinh: Môn
chữ Ca (क, Ka), do hết thảy các pháp lìa
tác nghiệp).
Ca Rị Da (Kārya) trong tiếng Phạn có nghĩa là “tác nghiệp”. Như các ngoại đạo chấp trước có tác giả, có người
sai khiến làm v.v… Luận sư thuộc các bộ cũng nói có tác, có tác giả, có pháp được
sử dụng để tạo tác, do ba sự hòa hợp bèn có quả báo. Nếu do phương tiện Bát Nhã
mà bảo là có quyết định, tức là đọa vào “không
có nhân”. Nếu đọa vào “không có
nhân” thì hết thảy các pháp sẽ là không có nhân quả. Pháp có thể sanh được
gọi là Nhân, pháp được sanh ra thì gọi là Quả. Do hai pháp là không, tác và tác
giả, pháp được sử dụng để tạo tác, tội phước, quả báo, và Niết Bàn đạo, hết thảy
đều là chẳng có. Lại nữa, tác và tác giả do nhân mới sanh, nếu quyết định có
pháp để tạo tác, thì sẽ nhất định có tác giả (người làm), đều chẳng khác nghị
luận của ngoại đạo, như trong phẩm Quán Tác Tác Giả của Trung Luận đã nói cặn kẽ.
Nay chánh quán sát tác và tác giả v.v… đều sanh từ các duyên, liền nhập ngằn mé
“vốn bất sanh”. Ngằn mé “vốn bất sanh” dù có Phật hay không có Phật, pháp vẫn vốn
sẵn là như thế, ai là người cầm đầu tạo tác? Do vậy, thấy chữ Ca, sẽ biết hết thảy các pháp đều do tạo tác mà thành, đó
gọi là “tự tướng”. Nếu là tác
pháp, sẽ biết là rốt ráo vô tác. Đó gọi là nghĩa chân thật.
(Kinh) Khư tự môn, nhất thiết chư pháp đẳng
hư không bất khả đắc cố.
(經)佉字門,一切諸法等虛空不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Khư, do hết thảy các pháp như hư không chẳng thể được).
Chữ Khư (ख, Kha) trong tiếng Phạn có nghĩa
là hư không. Thế gian cùng chấp nhận “hư không là pháp vô sanh, vô tác”. Nếu hết
thảy các pháp vốn bất sanh, lìa các tạo tác, sẽ rốt ráo như tướng hư không;
nhưng cái tướng Không ấy cũng lại chẳng thể được! Vì lẽ nào vậy? Như chỗ không
có sắc trong thế gian được gọi là hư không tướng. Sắc là pháp tạo tác, vô thường.
Nếu sắc chưa sanh thì “sắc chưa sanh” chính là chẳng diệt. Lúc bấy giờ, chẳng
có tướng hư không. Do sắc mà có Vô Sắc Xứ. Vô Sắc Xứ được gọi là Không, phẩm
Quán Lục Chủng của Trung Luận đã nói cặn kẽ. Ở đây, cũng có ý nghĩa như thế. Nếu
sắc vốn chẳng sanh, vì sao gọi là Vô Sắc Xứ? Vô Sắc Xứ chẳng thể nói, tức là hư
không chẳng có tướng nhất định. Lại nữa, các pháp như tướng hư không, tức là Niết
Bàn chẳng có tướng hư dối, như kinh nói “Ngũ
Ấm diệt, sẽ chẳng sanh gì khác”. Ngũ Ấm chính là nghĩa Niết Bàn. Nếu Ngũ
Ấm vốn bất sanh, nay có chỗ nào diệt mà gọi là Niết Bàn ư? Vì thế, “như tướng
hư không” cũng chẳng thể được. Đó là ý nghĩa chân thật của môn chữ Khư.
(Kinh) Nga tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất
thiết hành bất khả đắc cố.
(經)哦字門,一切諸法一切行不可得故。
(Kinh: Môn chữ Nga (ग, Ga), do hết thảy các pháp và hết thảy hành đều chẳng
thể được).
Tiếng Phạn là
Nga Đá Dã (Gataya), được gọi là Hành. Hành có nghĩa “đi, đến, tiến, lùi, chẳng
trụ”. Nay từ môn chữ A để xoay vần giải thích. Do các pháp vốn chẳng sanh, nên
vô tác. Do vô tác, nên chẳng có gì đối đãi để có thể nói là Không. Không tức là
Bất Hành Xứ. Bất Hành Xứ còn chẳng thể được, huống hồ Hành Xứ ư? Phẩm Quán Khứ
Lai của Trung Luận đã nói về ý nghĩa của Hành và Chỉ. Do liên tục nên gọi là
Hành. Như từ hạt thóc sanh ra mầm, thân, lá, và vô minh duyên các hành v.v… Do
đoạn nên gọi là Chỉ, như hạt thóc diệt nên mầm, thân, diệt. Do vô minh diệt,
nên các hành v.v… diệt. Nếu pháp đã hành, sẽ là vô hành. Do đã hành, nên cái
chưa hành cũng sẽ là vô hành. Do chưa có hành pháp, hành thời (lúc thực hiện)
cũng là vô hành, do chẳng lìa đã hành và chưa hành. Do các thứ môn quán sát như
thế rốt ráo vô hành. Do vô hành nên chẳng có cái để chỉ. Do vô hành, vô chỉ,
nên chẳng qua lại các đường, mà cũng chẳng trụ Niết Bàn. Lại nữa, nếu người chẳng
lìa chỗ mình đang ở thì chính là không có chỗ đến. Hãy nên biết người ấy chẳng
hành, chẳng đến. Vì thế nói “hết thảy
các hành đều chẳng thể được”.
(Kinh) Già tự môn, nhất thiết chư pháp nhất
hợp bất khả đắc cố.
(經)伽字門,一切諸法一合不可得故。
(Kinh: Môn chữ Già (घ, Gha), hết thảy các pháp hợp nhất chẳng thể được).
Già Na (Ghaṇa) trong tiếng Phạn có nghĩa là “mật hợp” (ngầm
kết hợp). Như các thứ tướng nhỏ nhiệm hợp thành một tế trần,
các Uẩn kết hợp thành một thân v.v… Trong phẩm Quán Hợp của Trung Luận, các luận
sư đã nói: “Do ba sự là Thấy, cái có thể thấy, và người
thấy, mà có cái được thấy. Hãy nên biết cái hợp lại để nghe, cái có thể nghe,
và người nghe, cho đến nhiễm, cái có thể nhiễm, và người nhiễm v.v… Các phiền
não cũng thế”. Đáp rằng: Phàm mọi vật đều do khác nhau mà có hợp, nhưng
nay tướng khác biệt của hết thảy các pháp chẳng thể được. Do vậy, chẳng hợp.
Như luận ấy (Trung Luận) đã nói rộng. Dùng tự môn để xoay vần giải thích, lại
dùng nghĩa Hành để giảng giải. Phàm có cái được hành, hãy nên biết ắt có hành,
cái có thể hành, và người hành, ba sự kết hợp. Nay do hết thảy các pháp vốn bất
sanh, sẽ không có cái được hành. Nếu không có cái được hành, thì hành, có thể
hành, và người hành sao có thể hợp lại cho được? Lại nữa, nếu các pháp mỗi mỗi
đều có tướng khác, rốt cuộc sẽ chẳng có lúc kết hợp. Nếu đạt tới ngằn mé “vốn bất
sanh”, thì “không có tướng khác” cũng chẳng thể hợp được. Vì thế, hết thảy các
pháp rốt ráo chẳng hợp.
(Kinh) Giá tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất
thiết thiên biến cố.
(經)遮字門,一切諸法離一切遷變故。
(Kinh: Môn chữ Giá (च, Ca), hết thảy các pháp lìa hết thảy đổi dời).
Giá Dữu Để (Cyuti) trong tiếng Phạn có nghĩa là “đổi dời”. Hơn nữa, Giá Rị Da trong tiếng Phạn
nghĩa là “các hành”. Như khi thấy chữ Giá, liền biết các hành biến đổi chẳng trụ.
Phẩm Quán Hành trong Trung Luận đã viết: “Các
hành gọi là Ngũ Ấm, do từ các hành mà sanh. Ngũ Ấm ấy đều là hư vọng, chẳng có
tướng nhất định. Như sắc tướng từ trẻ nít cho đến sắc tướng khi lão niên, trong
khoảng ấy, chẳng trụ trong mỗi niệm. Phân biệt quyết định tánh chẳng thể được.
Tánh là quyết định có, chẳng thể biến đổi khác. Như vàng ròng bất biến. Nay các
pháp tuy sanh, chẳng trụ trong tự tánh. Vì thế, hãy nên biết là vô tánh”,
như trong luận ấy đã nói cặn kẽ. Nếu vô tánh tức là thoạt đầu vốn chẳng sanh,
thì “vốn thoạt đầu chẳng sanh” tức là thân Như Lai, thường hằng an trụ, chẳng
có thay đổi. Vì thế nói là “ly thiên
biến” (lìa đổi dời). Lại nữa, nếu hết thảy các pháp do hòa hợp mà thành
thì sẽ có đổi dời. Nay các pháp vô sanh, vô tác, cho đến vô sở hành, cho nên chẳng
có hòa hợp. Do chẳng có hòa hợp, nên lìa hết thảy đổi dời. Phàm các tự môn sẽ đều
nghịch thuận xoay vần giải thích lẫn nhau, chẳng vướng mắc. Nay chỉ dựa theo thứ
tự nối tiếp nhau [để giải thích] đó thôi!
(Kinh) Xa tự môn, nhất thiết chư pháp ảnh tượng
bất khả đắc.
(經)車字門,一切諸法影像不可得。
(Kinh: Môn chữ Xa (छ, Cha), hình ảnh của hết thảy các pháp chẳng thể được).
Tiếng Phạn, Xa
Dã (Chāyā) có nghĩa là “ảnh”. Như
bóng người đều nương vào tự thân. Cũng thế, vạn pháp trong tam giới chỉ là do
thức tâm nhân duyên biến hiện, giống như các cảnh, chuyện này như kinh Mật
Nghiêm đã rộng nói. Cho đến người tu Du Già có đủ loại chuyện chẳng thể nghĩ
bàn, hoặc có thể diện kiến mười phương chư Phật, hiện trọn khắp sắc thân, cũng
đều là bóng dáng của cái tâm. Do tâm vốn bất sanh, hãy nên biết hình bóng cũng
chẳng được sanh. Do chẳng được sanh, cho đến do tâm chẳng đổi dời, hình bóng
cũng chẳng đổi dời. Vì lẽ nào vậy? Như hình bóng không có tánh nhất định mà
“đi, ngừng” theo thân; hình bóng của cái tâm cũng thế. Do tâm động tác, hý luận,
không có niệm nào ngưng trụ, muôn công dụng trong thế gian cũng lại lưu chuyển
theo. Nếu lúc hiểu rõ tướng như thật của cái tâm, hình bóng cũng là tướng như
thật, cho nên chẳng thể được!
(Kinh) Nhạ tự môn, nhất thiết chư pháp sanh
bất khả đắc cố.
(經)惹字門,一切諸法生不可得故。
(Kinh: Môn chữ Nhạ (ज, Ja), hết thảy các pháp sanh chẳng thể được).
Nhạ Đá (Jāta) trong tiếng Phạn cũng có nghĩa là Sanh. Như do đất sét, bàn xoay, dây,
thợ gốm v.v… hòa hợp, nên mới sanh ra cái bình. Do sợi tơ, khung dệt, thợ dệt
v.v… hòa hợp mới sanh ra tấm vải. Do cuộc đất, nền đắp, kèo, rường, bùn, cỏ, sức
người v.v… hòa hợp mới sanh ra nhà. Do lạc, đồ đựng lạc, công người khuấy đảo
v.v… hòa hợp nên mới sanh ra tô. Do hạt giống, đất, nước, lửa, gió, hư không,
thời tiết v.v… hòa hợp mới sanh ra mầm. Nhân duyên của nội pháp cũng giống như
thế. Do vô minh, hành v.v… mỗi thứ đều sanh, cho nên lại sanh. Vì thế, nếu thấy
môn chữ Nhạ, liền biết hết thảy các pháp không gì chẳng sanh từ duyên. Như kệ
đã nói: “Pháp sanh bởi nhân duyên, chính
là vô tự tánh. Nếu là vô tự tánh, sao lại có pháp ấy?” Do đó, sanh chẳng
thể được! Luận sư ngoại đạo nói đủ thứ tà nhân duyên hoặc vô nhân duyên sanh ra
hết thảy các pháp. Trong Phật pháp, cũng có người do đánh mất phương tiện Bát
Nhã, nên chấp trước tướng sanh diệt nơi nhân duyên, như Trung Luận đã đả phá cặn
kẽ. Lại nữa, môn chữ A là các pháp bổn tánh chẳng sanh, môn chữ Nhạ dùng mười
thí dụ để quán “sanh tuy từ duyên mà có, nhưng chẳng thể được!” Nếu sanh đã là
rốt ráo chẳng thể được, sẽ chẳng khác với vô sanh tế. Lại nữa, mười thí dụ
chính là hình bóng của tâm, chẳng ra ngoài pháp giới. Vì thế, Sanh cũng chẳng
ra ngoài Vô Sanh Tế.
(Kinh) Xã tự môn, nhất thiết chư pháp chiến
địch bất khả đắc cố.
(經)社字門,一切諸法戰敵不可得故 。
(Kinh: Môn chữ Xã (झ, Jha), sự chống trái nhau của hết thảy các pháp đều
chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Xã Ma La (Jhamala) có nghĩa là “đối địch”.
Nếu thấy chữ Xã, liền biết hết thảy các pháp đều có đối địch, như pháp thiện và
bất thiện trong thế gian, pháp trái nghịch dòng sanh tử và pháp xuôi theo dòng
sanh tử, bố thí và keo tham, trì giới cho đến trí huệ, vô minh v.v… đều là đối
đãi, thắng, bại, vô thường. Cho đến Như Lai xuất thế, dùng sức Nhất Thiết Trí
phá lũ quân ma, cũng gọi là Chiến. Nhưng trong hết thảy các pháp, nghĩa ấy chẳng
thành, trí huệ và phiền não rốt cuộc thuộc về ai, mà nói Tỳ Bà Xá Na (Vipassanā) có thể phá phiền não? Nếu nói “khi sáng sanh thì tối diệt”,
thì gọi là phá. Vậy thì do đã sanh nên phá? Hay do chưa sanh mà phá ư? Đã sanh
thì chẳng còn tối, còn phá chỗ nào? Chưa sanh thì tự chẳng có cái Thể, sao có
thể phá cho được? Nếu lúc sanh, thì gọi là nửa đã sanh, nửa chưa sanh. Vì thế
nói “sáng, tối rốt ráo chẳng đạt được”.
Lại nữa, hết thảy các pháp vốn bất sanh, cho đến do chẳng có hình bóng, sẽ cùng
là một tướng, chẳng vượt ngoài Như. Vậy thì Phật giới Như chiến đấu với ma giới
Như ra sao? Do vậy, khi đức Phật ngồi đạo tràng, chỉ biết rõ “các pháp không có
đối đãi”, nhưng thế gian bàn luận, tự lập ra danh xưng “chiến thắng” đó thôi!
(Kinh)
Trá tự môn, nhất thiết chư pháp, mạn bất khả đắc cố.
(經)吒字門,一切諸法慢不可得故。
(Kinh:
Môn chữ Trá (ट, Ṭa), trong hết thảy các pháp, mạn chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn, Trá Ca Ra có nghĩa là Mạn, tức là thấy pháp kia thấp
hèn, pháp này cao thắng. Như trong tam giới, sáu đường đủ loại hơn kém khác
nhau, dấy khởi mạn tâm vô lượng sai biệt. Nói đại lược, có bảy loại tướng[111],
như trong Tỳ Đàm (A Tỳ Đạt Ma) đã nói rộng. Cho tới người cầu tam thừa, vẫn có
kiến chấp thượng địa, hạ địa chẳng bình đẳng, nay quán các pháp vô sanh, cho đến
chẳng có đối đãi, liền biết A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là pháp bình đẳng,
chẳng có cao, thấp. Vì thế, Như Lai còn được gọi là Nhất Thiết Kim Cang Bồ Tát,
cũng gọi là Tứ Quả Thánh Nhân, cũng gọi là phàm phu ngoại đạo, cũng gọi là
chúng sanh trong các thứ đường ác, cũng gọi là kẻ ngũ nghịch tà kiến. Đại Bi Mạn-đồ-la
nhằm biểu thị ý nghĩa này!
(Kinh) Trá tự môn, nhất thiết chư pháp trưởng
dưỡng bất khả đắc cố.
(經)咤字門,一切諸法長養不可得故。
(Kinh: Môn chữ Trá (ठ, Ṭha), hết thảy các pháp trưởng dưỡng chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn, Tỳ Trá Bát Na (Viṭhapana) có nghĩa là trưởng dưỡng. Như trong thế gian, chủng tử (hạt giống) làm
nhân, năm đại và thời tiết làm duyên, lần lượt tăng trưởng thành quả hạt. Nội
pháp cũng thế, trong ruộng nghiệp gieo xuống chủng tử, bị vô minh che phủ, nước
ái nhuần thấm mà được sum suê, như trong kinh Đạo Can đã rộng nói. Nay trong
kinh này, tám tâm liên tục tăng trưởng trái nghịch hay thuận tùng thế gian cũng
có nhân duyên, cho đến Bồ Đề tâm thanh tịnh dùng năm tự môn (A, Phạ, Ra, Ha,
Khư) để làm duyên, sanh ra rễ đại bi. Cây sa-la của Phật tăng trưởng, che rợp
khắp pháp giới. Nhưng hết thảy các pháp do năm tự môn ấy vốn bất sanh, lìa ngôn
thuyết, tự tánh tịnh, chẳng có nhân duyên, như tướng hư không, chẳng thể trưởng
dưỡng được. Lại nữa, từ chữ A, Ca trở đi, lần lượt giải thích, cho đến các pháp
rốt ráo bình đẳng, chẳng có cao, thấp. Do chẳng có cao, thấp, hãy nên biết tức
là chẳng có tăng trưởng!
(Kinh) Noa tự môn, nhất thiết chư pháp, oán
đối bất khả đắc cố.
(經)拏字門,一切諸法怨對不可得故。
(Kinh: Môn chữ Noa (ड, Ḍa), hết thảy các pháp, oán đối chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
nói Noa Ma Ra (Ḍamara) thì có nghĩa là “oán đối”.
Như thế gian cừu thù báo oán lẫn nhau; vì thế gọi là Đối. Hơn nữa, trong phần
trước nói “chiến địch” tức là
đôi bên công kích lẫn nhau, còn “oán đối”
ở đây hàm nghĩa “tỵ cừu” (tránh
né cừu thù), trong tiếng Phạn mỗi danh từ khác nhau. Trong Tỳ Ni, đức Phật dạy “dùng oán để báo oán, oán trọn chẳng dứt”,
chỉ có vô oán thì oán mới dứt bặt. Lại nói nữ nhân là oán đối của người hành Phạm
hạnh. Kinh Vô Lượng Nghĩa cũng nói “sanh
tử oán địch tự nhiên tan hoại”. Chứng Vô Sanh Nhẫn là một nửa của báu
nơi cõi Phật. Vì thế, hành giả khi thấy môn chữ Noa, sẽ biết hết thảy các pháp
đều có oán đối, gọi là biết rõ “tự tướng”
(tướng trạng của chữ). Lại do các pháp vốn bất sanh, cho tới chẳng thể trưởng
dưỡng. Vì thế, Như Lai rốt ráo chẳng có oán đối; đó chính là nghĩa chân thật của
tự môn.
(Kinh) Đồ tự môn, nhất thiết chư pháp chấp
trì bất khả đắc cố.
(經)荼字門,一切諸法執持不可得故。
(Kinh: Môn chữ Đồ (ढ, Ḍha), hết thảy các pháp chấp trì chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Đường Ca (Ḍhaṅka) nghĩa là “chấp trì”. Do
trên chữ Đồ (Ḍha), thêm một chấm, sẽ chuyển âm đọc thành Đường, nhưng Thể của nó tương đồng.
Lại nói Nghiệt Rị Hà (Graha) cũng là tên gọi khác của chữ này. Kinh nói bị quỷ
mị dựa, hoặc bị phi nhân nắm giữ, Trí Độ Luận nói Trước Tương (著襄, dựa dẫm quấy
phá), đều do quỷ Nghiệt Rị Hà gây ra. Lại [do quỷ] dựa vào người
sẽ chẳng lìa bỏ, nên đặt tên như thế. Mặt trời, mặt trăng, năm tinh tú, [cùng với
Kế Đô và La Hầu] cũng là từ đầu đến cuối nương theo nhau, tiếng Phạn gọi là
Nghiệt Rị Hà, dịch nghĩa là Cửu Chấp (九執). Khi chúng tụ hội một chỗ, lịch
Thiên Trúc gọi lúc ấy là Chánh Trước Thời (正著時). Nghĩa “chấp trì” ấy khác với chữ Đà La (Dhara). Thấy môn chữ Đồ này,
liền biết hết thảy chúng sanh từ vô thỉ tới nay, bị bốn ma[112]
dựa, chẳng thể lìa bỏ; đó là tướng danh tự. Nay dùng các môn như chữ A v.v… để
xoay vần mà quán “hết thảy các pháp đều chẳng thể được”, sẽ biết hết thảy các pháp
chẳng có oán đối. Do oán đối vốn chẳng sanh, trọn chẳng do pháp giới bình đẳng
mà chấp trước pháp giới bình đẳng. Vì thế nói “hết thảy các pháp, chấp trì đều chẳng thể được”!
(Kinh) Đa tự môn, nhất thiết chư pháp như
như bất khả đắc cố.
(經)多字門,一切諸法如如不可得故。
(Kinh: Môn chữ Đa (त, Ta), hết thảy các pháp như như chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Đá Tha Đa (Tathātā) có nghĩa là Như Như. Xét theo ngữ điệu thì kèm thêm cả ý “đắc”. Chứng đắc Như Như chính là ý
nghĩa giải thoát. “Như” là Thật
Tướng của các pháp; các thứ hý luận, kiến chấp chẳng thật đều diệt, thường như
bổn tánh chẳng thể phá hoại. Nếu thấy môn chữ Đa, liền biết hết thảy các pháp đều
là tướng Như Như. Đó là tướng trạng của chữ [Đa]. Nhưng có một loại ngoại đạo
chấp trước “có tánh Như Như”, nếu
thấy biết điều ấy thì gọi là “giải thoát”. Tuy nói như thế, chỉ là chuyển sang
gọi Ngã Kiến bằng một danh xưng khác. Ngài Long Thọ cho rằng “pháp trụ” được nói trong kinh Thanh
Văn cũng là nghĩa Như Như của các pháp. Do sở nhập chưa sâu, mà họ (các vị
Thanh Văn) sanh ý tưởng diệt độ, ngỡ là đã chứng Niết Bàn. Nhưng sanh tử và Niết
Bàn là pháp đối đãi; nếu biết sanh tử từ cội gốc đã thường là như tướng Niết
Bàn, há còn đối ứng với gì để nói là Niết Bàn được nữa? Do vậy, hết thảy các
pháp rốt ráo chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Trung Luận cũng nói: “Thật Tế Niết Bàn và thế gian tế, hai tế như
thế chẳng khác mảy may”. Do chẳng sai biệt, hết thảy các pháp chẳng có
oán đối. Do chẳng có oán đối, nên chẳng chấp trì. Do chẳng chấp trì nên cũng là
chẳng có Như Như giải thoát.
(Kinh) Tha tự môn, nhất thiết chư pháp trụ xứ
bất khả đắc cố.
(經)他字門,一切諸法住處不可得故。
(Kinh: Môn chữ Tha (थ, Tha), trụ xứ của hết thảy các pháp chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Tát Tha Na (Sthāna) nghĩa là “trụ xứ”, cũng có nghĩa là Trụ. Như người từ trụ xứ này dời sang
chỗ khác, thì chỗ ở đó cũng được gọi là Trụ. Các địa vị thánh hiền cũng như thế;
xét theo chỗ nương tựa, an trụ trong tâm tích (dấu tích nơi tâm) của những người
hành đạo mà nói đủ loại danh xưng. Nếu khi thấy chữ Tha, liền biết hết thảy các
pháp không gì chẳng đợi duyên mà thành, hãy nên biết chúng đều có chỗ y trụ. Đó
là tướng trạng của chữ này. Nhưng các pháp vốn bất sanh, cho tới Như Như giải
thoát cũng chẳng thể được, nên chẳng đến, chẳng đi, chẳng hành, chẳng trụ.
Trong tướng tịch diệt như thế, há có địa vị theo thứ lớp hay chăng? Lại nữa,
khi nhập môn chữ Tha, do biết rõ các pháp đều là không, chẳng trụ trong sanh tử,
tức là do Như Như cũng chẳng thể được, sẽ chẳng trụ trong Niết Bàn. Lúc bấy giờ,
hành xứ dứt bặt, các địa vị đều hết, trọn khắp hết thảy mọi nơi đích xác là chẳng
có chỗ nương tựa. Đó gọi là do chẳng trụ trong pháp mà trụ trong đại trụ của
Như Lai.
(Kinh) Na tự môn, nhất thiết chư pháp thí bất
khả đắc cố.
(經)娜字門,一切諸法施不可得故。
(Kinh: Môn chữ Na (द, Da)[113],
trong hết thảy các pháp, Thí chẳng thể được).
Trong tiếng Phạn,
Đàn Na (Dāna) nghĩa là “xả thí”. Nếu thấy chữ Na, liền biết hết thảy các pháp đều là
tướng có thể xả. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các pháp tan lìa hay kết hợp đều do
duyên, chẳng hề tồn tại chắc chắn. Nếu chấp trước, sanh yêu mến nơi đó, ắt sẽ bị
thiêu đốt. Cho đến các vị Bồ Tát thuộc Thập Địa, do công đức tịnh diệu sanh từ
địa vị của chính mình chưa đạt tới “xả
bờ kia”, vẫn còn có thoái thất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng được gọi là Đệ
Nhất An Lạc Xứ. Nay do quán các pháp bất sanh, người thí, chỗ thí và vật để thí
thảy đều vốn bất sanh, cho tới hết thảy các pháp chẳng có trụ xứ. Do chẳng có
trụ xứ, tức là ba chuyện ấy cũng chẳng có trụ xứ. Vì thế, đức Phật ngồi đạo tràng
đều chẳng có gì để có thể đạt được, mà cũng chẳng có gì để xả. Trong Hư Không Tạng,
chẳng có gì chất chứa, nhưng phổ môn lưu xuất thí trọn khắp quần sanh. Đó gọi
là Thật Tướng của Đàn (bố thí), mà cũng gọi là “trọn đủ Đàn Ba La Mật”. Lại nữa, tạng báu bí mật của Như Lai đều
là pháp vốn sẵn như thế, đó gọi là “chẳng
thể truyền trao cho người khác”. Nếu lúc thí cho người khác, vẫn là từ
trong tâm thất của chúng sanh mà khơi mở đó thôi! Vì thế, kinh dạy: “Nhất thiết chư pháp, thí bất khả đắc, danh
vi tự môn chân thật nghĩa” (Hết thảy các pháp thí chẳng thể được, gọi là
nghĩa chân thật của tự môn).
(Kinh) Đà tự môn, nhất thiết chư pháp, pháp
giới bất khả đắc cố.
(經)馱字門,一切諸法法界不可得。
(Kinh: Môn chữ Đà (ध, Dha), trong hết thảy các pháp, pháp giới chẳng thể
được).
Trong tiếng Phạn, Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu) là pháp giới. Giới có nghĩa là Thể, là Phần. Xá-lợi của Phật cũng gọi là
Như Lai Đà Đô, ý nói là thân phần của Như Lai. Nếu thấy môn chữ Đà, sẽ biết hết
thảy các pháp thảy đều có Thể, tức là dùng pháp giới làm Thể. Vì lẽ nào vậy? Nếu
lìa Thật Tướng của các pháp, thì ý nghĩa “Thể của hết thảy các pháp” đều chẳng
thành. Pháp giới chính là tâm giới. Do tâm giới vốn bất sanh, hãy nên biết pháp
giới cũng vốn bất sanh. Cho đến do tâm giới chẳng đắc, chẳng xả, hãy nên biết
pháp giới cũng chẳng đắc, chẳng xả. Xả còn tự không có, chẳng có pháp để có thể
xả, huống hồ có thể đắc ư? Nếu pháp giới là tướng có thể đạt được, tức là từ
các nhân duyên mà sanh. Nếu sanh từ các nhân duyên, hãy nên biết tự nó chẳng có
bản thể, huống hồ là Thể của các pháp ư? Vì thế, pháp giới chỉ là tự chứng thường
tâm, chẳng có pháp nào khác. Lại nữa, Như Lai đại thí chính là Đại Bi Mạn-đồ-la.
Pháp giới chính là phổ môn Thật Tướng. Thật Tướng như thế chẳng thể dùng thần lực
gia trì để dạy người khác. Vì thế, không có pháp để có thể đạt được!
(Kinh) Ba tự môn, nhất thiết chư pháp Đệ Nhất
Nghĩa Đế bất khả đắc cố.
(經)波字門,一切諸法第一義諦不可得故。
(Kinh: Môn chữ Ba (प, Pa), Đệ Nhất Nghĩa Đế trong hết thảy các pháp chẳng
thể đạt được).
Trong tiếng Phạn, Ba La Ma Tha (Paramārtha) dịch thành Đệ Nhất Nghĩa, hoặc là
Thắng Nghĩa. Tát Để Dã (Satya) được dịch thành Đế. Ý nghĩa của Đế được nói
trong môn chữ Sa. Nay trong môn chữ Ba này, chủ yếu nói về tướng của Đệ Nhất
Nghĩa. Ngài Long Thọ nói: “Đệ Nhất
Nghĩa là Thật Tướng của các pháp, do chẳng phá, chẳng hoại”. Lại nữa, bậc
nhất trong các pháp là Niết Bàn, như A Tỳ Đàm nói: “Thế nào là pháp vô thượng? Chính là trí duyên đã hết”. Trí
duyên đã hết chính là Niết Bàn. Nếu thấy chữ Ba, sẽ biết hết thảy các pháp chẳng
lìa Đệ Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa chẳng lìa Thật Tướng của các pháp. Đó là tướng
của chữ này. Nếu xét theo nghĩa chân thật của tự môn thì Đệ Nhất Nghĩa cũng chẳng
thể được. Vì lẽ nào vậy? Do chẳng yêu mến, chẳng đắm chấp. Trí Độ Luận lại nói:
“Do chúng sanh chấp trước âm thanh Niết
Bàn, mà tạo thành hý luận, hoặc có, hoặc không. Do phá chấp trước, bèn nói Niết
Bàn là không, gọi là Đệ Nhất Nghĩa Không. Chẳng phá pháp đạt được trong tâm
thánh nhân, do thánh nhân đối với hết thảy các pháp đều chẳng chấp tướng”.
Lại nữa, hết thảy các pháp đều nhập pháp giới bình đẳng, chẳng có cao, thấp, há
có nên khiến cho trong pháp vô sanh có tướng hơn kém ư? Vì vậy, Đệ Nhất Nghĩa Đế
chẳng thể được!
(Kinh) Phả tự môn, nhất thiết chư pháp bất
kiên như tụ mạt cố.
(經)頗字門,一切諸法不堅如聚沫故。
(Kinh: Môn chữ Phả (फ, Pha), hết thảy các pháp chẳng cứng chắc như bọt nước).
Phái Nô (Phena) trong tiếng Phạn được dịch thành Tụ Mạt (聚沫, bọt nước đọng).
Như sóng mòi nơi chỗ nước lớn va đụng nhau mà tạo thành bọt nước, có đủ loại tướng
sanh, thậm chí kết nối với nhau bèn có tướng kiên cố. Nhưng mỗi mỗi quán sát từ
thô tới tế, chỉ là từ duyên lại từ duyên, chẳng thể nắm bắt, sờ chạm, đều chẳng
có thật tánh. Xét đến bản chất, toàn thể đều là nước, chẳng có gì được sanh ra.
Các thứ Ngũ Ấm trong thế gian hiện thời cũng đều là như thế. Nay “gom ngọn về gốc, bỏ trượng theo thước”
để quán sát, thậm chí như trong khoảng mảy may mà có dao động vi tế, sẽ đều lần
lượt từ duyên. Nếu là từ các duyên mà sanh, sẽ chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự
tánh, hãy nên biết sanh chính là chẳng sanh. Còn như đạt tới bổn bất sanh tế,
chỉ là biển tâm tánh đó thôi! Nhưng thuận theo tình kiến hư vọng trong sáu đường,
bèn có tên gọi “thế giới”. Biển
tâm tánh chính là pháp giới, pháp giới chính là thắng nghĩa Niết Bàn. Khi nếu
có thể thấy như thế, dẫu sóng to vây bủa, tạo thành đủ loại sắc thân hiện trọn
khắp, vẫn chẳng hoại tánh trong lặng!
(Kinh) Ma tự môn, nhất thiết chư pháp phược
bất khả đắc cố.
(經)麼字門,一切諸法縛不可得故。
(Kinh: Môn chữ Ma (ब, Ba)[114],
trong hết thảy các pháp, trói chẳng thể được).
Mãn Đà
(Bandha) trong tiếng Phạn được cõi này dịch là Phược (trói buộc). Như người bị
dây thừng thô to bó chặt, chẳng thể cử động, đó là nghĩa “trói buộc”. Nếu lúc
dùng phương tiện để tháo gỡ sự trói buộc ấy, thì gọi là giải thoát. Nếu lìa khỏi
dây trói nơi thân, chẳng có pháp nào khác để trói buộc hay cởi gỡ. Như Thiên Đế
Thích dùng vi tế phược để trói A Tu La vương, đặt trên trời Đao Lợi. Khi [A Tu
La vương] khởi niệm muốn trở về, thì thân đã bị trói buộc năm chỗ; nếu dứt niệm
thì trói buộc tự tháo gỡ. Như lưới rập của Ba Tuần lại còn gấp trăm ngàn lần số
ấy, huống hồ sự trói buộc vô vi bởi nghiệp phiền não ư? Nói tóm lại, nếu lìa
các nhân duyên, chẳng đọa trong các pháp số, thì gọi là “vô phược” (không trói buộc). Đó là ý nghĩa của chữ [Ma này].
Trung Luận nói: “Lìa Ngũ Ấm mà riêng
có chúng sanh, hãy nên dùng Ấm để trói chúng sanh, nhưng thật sự lìa Ngũ Ấm, sẽ
chẳng có chúng sanh. Nếu lìa Ngũ Ấm mà riêng có phiền não, hãy nên dùng phiền
não để trói Ngũ Ấm, nhưng thật sự lìa Ngũ Ấm thì chẳng có phiền não nào khác!
Do các thứ nhân duyên như thế, hãy nên biết là chẳng trói buộc. Chẳng trói buộc
thì chẳng cởi gỡ. Do chẳng có trói buộc hay cởi gỡ, nên Niết Bàn chính là sanh
tử, sanh tử chính là Niết Bàn”. Như phẩm Quán Phược Giải [trong Trung Luận]
đã nói cặn kẽ. Lại nữa, nếu các pháp vốn sẵn bất sanh, cho đến như bọt nước,
trong ấy ai có thể cởi gỡ? Ai bị trói buộc? Do đó, các trói buộc đều chẳng thể
được!
(Kinh) Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất
thiết hữu bất khả đắc cố.
(經)婆字門,一切諸法一切有不可得故。
(Kinh: Môn chữ Bà (भ, Bha), hết thảy hữu trong hết thảy các pháp đều chẳng
thể được).
Bà Phạ (Bhava) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Hữu (có). Hữu là
là tam hữu (tam giới) cho đến hai mươi lăm Hữu[115].
Nếu thấy chữ Bà, liền biết hết thảy các pháp thảy đều có nhân duyên. Do các duyên hợp lại, nên nói là Hữu, chẳng có tánh quyết định.
Vì lẽ nào vậy? Nếu pháp nhất định có tướng Hữu, rốt cuộc chẳng phải là vô tướng,
tức là thường. Như nói “tam thế”
(ba đời), trong vị lai có pháp tướng, pháp ấy chuyển đến hiện tại, chuyển nhập
quá khứ, chẳng xả bổn tướng, liền đọa vào Thường Kiến. Nếu nói chắc chắn là “chẳng
có Hữu”, thì Vô tức là “trước có mà nay không”, đó là Đoạn Diệt Kiến. Do bởi
hai kiến ấy, xa lìa Phật pháp! Như phần Phá Hữu Vô trong Trung Luận đã nói cặn
kẽ. Nay quán các Hữu đều do duyên, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. Do vốn bất
sanh, nên chẳng tác, chẳng hành, cho đến chẳng trói buộc, chẳng giải thoát. Vì
thế, môn chữ Bà do từ duyên mà có, trọn đủ hết thảy các tự môn. Nếu trọn đủ hết
thảy các tự môn, tức là Tam Muội Vương tam-muội, có thể phá hai mươi lăm Hữu. Đức
Thích Ca Mâu Ni do nghĩa ấy mà được gọi là Phá Hữu Pháp Vương.
(Kinh) Dã tự môn, nhất thiết chư pháp, nhất
thiết thừa bất khả đắc cố.
(經)野字門,一切諸法一切乘不可得故。
(Kinh: Môn chữ Dã (य, Ya), trong hết thảy các pháp, hết thảy thừa đều chẳng
thể được).
Diễn Na (Yāna) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Thừa, còn dịch là Đạo. Như người ngồi thuyền hay xe, ắt có thể hoàn thành chuyện đưa vật nặng đến
được nơi xa. Nếu thấy môn chữ Dã, liền biết hết thảy chúng sanh do đủ mọi nhân
duyên mà tiến hướng sanh tử quả báo và hướng đến Niết Bàn, ai nấy đều có “thừa”
(phương tiện, đường lối, phương pháp) để nương vào, cũng biết vô lượng các thừa
đều là Phật thừa. Đó là tướng của chữ này. Nay quán các pháp vốn bất sanh, tức
là vô hành, vô trụ, bất động, bất thoái; trong ấy cái gì là Thừa? Sẽ vận dụng
pháp nào vậy? Lại nữa, Thừa là từ tam hữu mà thoát ra, đạt tới Tát Bà Nhã, năm
trăm do-tuần[116]
không gì chẳng phải là thật xứ, muốn đi theo đường nào để đến chỗ nào vậy? Vì
thế, hết thảy các thừa đều chẳng thể được, bèn gọi là đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa).
(Kinh) Ra tự môn, nhất thiết chư pháp ly nhất
thiết trần nhiễm cố.
(經)囉字門,一切諸法離一切塵染故。
(Kinh: Môn chữ Ra (र), hết thảy các pháp lìa hết thảy trần nhiễm).
La Thệ (Rajas)
trong tiếng Phạn có nghĩa là “trần nhiễm”. Trần là hành xứ của tình kiến hư vọng.
Vì thế nói cảnh tượng của sáu tình, tức mắt, tai v.v.. là sáu trần. Nếu thấy môn chữ Ra, sẽ biết hết thảy các pháp có thể “thấy, nghe, tiếp
xúc, biết” đều là trần tướng, giống như cái áo sạch bị nhuốm bẩn bởi trần cấu,
cũng như do bụi bay lăng xăng khiến cho thái hư mờ đục, nhật, nguyệt chẳng
sáng. Đó là tướng của chữ Ra này. Trung Luận dùng đủ loại Môn Đế để cầu thấy
pháp, chẳng có người thấy. Nếu chẳng có người thấy, ai có thể vận dụng pháp Thấy
để phân biệt ngoại sắc, thấy cái có thể thấy ư? Do thấy pháp là không, bốn pháp
Thức, Xúc, Thọ, Ái đều chẳng có. Do chẳng yêu mến, mười hai phần nhân duyên
cũng chẳng có. Vì thế, khi mắt thấy sắc, chính là tướng Niết Bàn; các trần khác
cũng phỏng theo đó [để luận định]. Lại nữa, dùng môn chữ A để lần lượt quán sát
các trần, do nó vốn bất sanh, do chẳng có tạo tác, cho đến chẳng có pháp để
nương vào và người nương vào, hãy nên biết pháp để có thể thấy, nghe, hay, biết
đều là tịnh pháp giới. Há nên dùng tịnh pháp giới để nhuốm bẩn lục căn của Như
Lai ư? Kinh Ương Quật Ma La có nói: Thường nhãn của Phật do trọn đủ vô diệt mà
thấy rõ thường sắc, cho đến ý và pháp cũng như thế. Đó là nghĩa chân thật của
môn chữ Ra.
(Kinh) La tự môn, nhất thiết chư pháp nhất
thiết tướng bất khả đắc cố.
(經)邏字門,一切諸法一切相不可得故。
(Kinh: Môn chữ La (ल), hết thảy tướng của hết thảy các pháp đều chẳng thể
được).
La Cật Sái (Lakṣṇa) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tướng. Có người nói: Tánh và tướng
chẳng có phân biệt, như nói tánh của lửa chính là nhiệt tướng. Hoặc nói: Có đôi
chút sai biệt, Tánh là nói về Thể, Tướng là nói về cái có thể biết. Như Thích Tử
thọ trì giới cấm là tánh (giới tánh), cạo tóc, cắt may, nhuộm y là tướng. Nếu
thấy môn chữ La, liền biết hết thảy các pháp thảy đều có tướng. Tướng lại có
hai thứ:
- Một là tổng
tướng, tức là tướng vô thường, khổ, không, vô ngã.
- Hai, biệt tướng,
tức là các pháp tuy vô thường, vô ngã, mà mỗi mỗi đều có tướng, như đất cứng,
nước ướt, lửa nóng, gió động v.v… Xả là tướng Thí. “Chẳng hối, chẳng não” là tướng Trì Giới. Tâm chẳng đổi khác là
tướng Nhẫn. Phát khởi siêng năng là tướng Tinh Tấn. Nhiếp tâm là tướng Thiền.
Chẳng chấp trước là tướng Huệ. Có thể hoàn thành sự việc là tướng Phương Tiện.
Tạo tác sanh tử là tướng thế gian. Chẳng tạo tác là tướng Niết Bàn v.v… Nay
quán thể tánh của các pháp hữu vi và vô vi đều là Không, tướng ấy là tướng của
điều gì vậy? Như trong phẩm Tam Tướng của Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận đã đều
nói rộng. Lại nữa, trong pháp giới thanh tịnh, đủ loại các tướng của một trăm
sáu mươi tâm v.v… vốn chẳng sanh, nên chẳng tạo tác. Do chẳng tạo tác, cho đến
rốt ráo vô trần. Do vô trần nên lìa hết thảy các tướng. Do lìa hết thảy các tướng,
bèn gọi là “chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề”.
(Kinh) Phạ tự môn, nhất thiết chư pháp ngôn
ngữ đạo đoạn cố.
(經)嚩字門,一切諸法語言道斷故。
(Kinh: Môn chữ Phạ (व, Va), hết thảy các pháp ngôn ngữ dứt bặt).
Phạ Kiếp Bả (Vākpā) trong tiếng Phạn chính là ngôn ngữ. Nếu lúc thấy chữ Phạ, liền biết hết thảy
các pháp chẳng lìa đất ngôn ngữ, do các pháp ấy không gì chẳng có nhân duyên! Nếu
pháp vốn sẵn bất sanh, sẽ lìa các nhân duyên. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Lại nữa,
nếu pháp là “tướng làm” (tác tướng) thì có thể tuyên nói. Không làm thì ngôn ngữ
dứt bặt. Nếu tướng hư không là hữu tướng thì có thể tuyên nói, do các pháp như
tướng hư không cũng lại là vô tướng. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Nếu pháp có
hành, có đổi dời, có hình bóng, thì sẽ có thể tuyên nói. Nếu vô hành, chẳng đổi
dời, chẳng có hình bóng, ngôn ngữ sẽ dứt bặt! Cho đến nếu các pháp là có tướng
thì sẽ có thể tuyên nói, nay hết thảy các pháp lìa hết thảy các tướng. Vì thế,
chẳng thể biểu thị, chẳng thể trao cho người khác. Do đó, ngôn ngữ dứt bặt. Lại
nữa, vô tướng cũng là không có tướng nhất định. Hãy nên biết hết thảy các pháp
từ ngay nơi tướng mà vô tướng, tức chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, như
ba mắt chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, ngôn ngữ dứt bặt. Các pháp môn khác cũng phỏng
theo đây mà suy ra.
(Kinh) Xa tự môn, nhất thiết chư pháp bổn
tánh tịch cố.
(經)奢字門,一切諸法本性寂故。
(Kinh: Môn chữ Xa (श, Śa), do bổn tánh của hết thảy các pháp là tịch).
Phiến Để (Śānti) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tịch. Như phàm phu trong thế
gian đạt được chút phần tâm đạm bạc, ngưng dứt ồn ào, náo động thì cũng gọi là
Tịch. Cho đến hàng Nhị Thừa vĩnh viễn đoạn các hành và luân hồi, chứng đắc Niết
Bàn, cũng gọi là Tịch, nhưng chẳng phải là bổn tánh thường tịch. Do lẽ nào? Các
pháp vốn sẵn là tướng thường tự tịch diệt, tam giới lục đạo có gì chẳng phải là
Niết Bàn? Khi vô lậu trí sanh, lại có khác gì phàm phu? Nhưng nay riêng ở trong
ấy, khởi ý tưởng diệt độ, há chẳng phải là điên đảo ư? Lại nữa, nếu bổn tánh của
các pháp là tịch, trong bốn mươi hai địa vị (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác), có gì chẳng phải là địa vị Như Lai? Có gì chẳng
phải là địa vị phàm phu? Như Di Lặc Bồ Tát do bổn tánh tịch mà được thọ ký Nhất
Sanh Bổ Xứ, hết thảy chúng sanh cũng đều nên được thọ ký! Nếu hết thảy chúng
sanh ở trong bổn tánh tịch, chẳng ngại tu học chuyện của phàm phu, Di Lặc Bồ
Tát cũng nên tu học chuyện của phàm phu! Mà nay khởi ý tưởng sai biệt, há chẳng
phải là hý luận ư? Nếu lúc nhập môn chữ Xa, sẽ biết là pháp bình đẳng, chẳng có
cao hay thấp, thường chẳng động, mà không gì chẳng làm! Cho nên nói: “Trong giải thoát, dung nạp nhiều thứ, Đại Bát Niết
Bàn có thể kiến lập đại nghĩa”, đều do điều này!
(Kinh) Sa tự môn, nhất thiết chư pháp tánh độn
cố.
(經)沙字門,一切諸法性鈍故。
(Kinh: Môn chữ Sa (ष, Ṣa), hết thảy các pháp tánh độn).
Nếu xét theo từ gốc trong bản tiếng Phạn, phải nên nói là “tánh đồng ư ngoan” (tánh giống như vật
trơ trơ). “Ngoan” (頑,trơ trơ) có nghĩa là giống như gỗ, đá chẳng hay biết, không cảm xúc. Nói “đồng” là nói theo thí dụ, chẳng phải
là một mực giống như thế. Kinh Đại Phẩm còn nói: “Bát Nhã vô tri, tự tánh độn
cố” (Bát Nhã vô tri, do tự tánh độn). Vì thế, người nhuận sắc
kinh văn đã giữ từ ngữ trong kiểu dịch theo lối cổ. Phàm [cho rằng] tự tánh là
độn, tức là tâm cực vô phân biệt, chẳng ngu, chẳng trí, chẳng huệ, chẳng biết,
chẳng trí, chẳng hư vọng, chẳng giác, cho đến hết thảy các pháp chẳng thể dao động,
chỉ là một cuộc đất thuần Kim Cang kiên cố. Vì sao vậy? Như người thế gian do lấy
bỏ chẳng quên, cho nên chuộng trí huệ mà vứt bỏ ngu si, đề cao Niết Bàn, coi rẻ
sanh tử, nhưng nay đã nhất loạt là “vốn bất sanh”, cho đến nhất loạt “bổn tánh
tịch”, vậy thì ai là lợi, ai là độn? Như lưỡi dao Kim Cang sắc bén kia, do đối ứng
với vật chẳng cứng chắc, chỉ dùng một bề, nên gọi là “lợi” (sắc bén). Nếu khiến
cho chỗ hướng về đều là Kim Cang, toàn thể đều viên, chẳng sử dụng lệch lạc,
thì lợi cũng sẽ quy vào độn giống như vậy.
(Kinh) Sa tự môn, nhất thiết chư pháp nhất
thiết Đế bất khả đắc cố.
(經)娑字門,一切諸法一切諦不可得故。
(Kinh: Môn chữ Sa (स), hết
thảy các Đế trong hết thảy các pháp chẳng thể được).
Tát Đá Dã
(Satya) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Đế. “Đế” là hiểu rõ chân tướng của các pháp đúng như thật, biết
không điên đảo, không sai lầm. Như nói: “Mặt
trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng, chứ Khổ Đế do đức Phật đã nói chẳng thể
đổi khác được!” Tập đúng là nhân, trọn chẳng có cái nhân nào khác. Nhân
diệt thì quả bèn diệt. Đạo diệt Khổ chính là chân đạo, trọn chẳng có đạo nào
khác. Lại nữa, kinh Niết Bàn dạy: “Giải
khổ vô khổ, thị cố vô khổ nhi hữu chân đế, dư tam diệc nhĩ” (Hiểu là khổ
chẳng có khổ. Do đó, không khổ mà có Chân Đế, ba thứ kia cũng thế). Cho đến
phân biệt Tứ Đế có vô lượng tướng và Nhất Thật Đế, như trong phẩm Thánh Hạnh đã
nói. Đó là tướng của tự môn. Nhưng hết thảy các pháp vốn chẳng sanh, cho đến vì
rốt ráo vô tướng mà ngôn ngữ dứt bặt, do bổn tánh là tịch, tự tánh là độn. Hãy
nên biết vô kiến, vô đoạn, vô chứng, vô tu. “Kiến, đoạn, chứng, tu” như thế đều là pháp giới chẳng nghĩ bàn,
vừa là Không, vừa là Giả, vừa là Trung, chẳng thật, chẳng vọng, chẳng có tướng
nhất định để có thể chỉ bày. Vì thế nói “Đế
chẳng thể được!” Phẩm Tứ Đế trong Trung Luận cũng biện định cặn kẽ nghĩa
này!
(Kinh) Ha tự môn, nhất thiết chư pháp nhân bất
khả đắc cố.
(經)訶字門,一切諸法因不可得故。
(Kinh: Môn chữ Ha (ह), nhân của hết thảy các pháp chẳng thể được).
Chữ Hệ Đát Phạ
(Hetva) trong tiếng Phạn có nghĩa là Nhân. Nhân có sáu loại[117],
và xét theo ý nghĩa nhân duyên thì nhân có năm loại, như A Tỳ Đàm đã rộng nói.
Nếu thấy môn chữ Ha, sẽ biết hết thảy các pháp không gì chẳng sanh từ nhân
duyên. Đó là tướng của chữ Ha. Do các pháp xoay vần đợi duyên mà thành, hãy nên
biết rốt cuộc không nương tựa; vì thế nói “vô trụ là cội gốc của các pháp”. Vì sao vậy? Như Trung Luận
dùng đủ mọi môn để quán “nhân duyên của các pháp đều chẳng sanh”, hãy nên biết
vạn pháp duy tâm, Thật Tướng của tâm chính là Nhất Thiết Chủng Trí, tức là pháp
giới của chư Phật. Pháp giới chính là cái Thể của các pháp, chẳng thể là nhân.
Do vậy bèn nói, nhân cũng là pháp giới, duyên cũng là pháp giới, pháp sanh bởi
nhân duyên cũng là pháp giới. Trong phần trước đã nói môn chữ A, từ gốc đến ngọn
đều rốt ráo là chỗ như thế. Nay môn chữ Ha cũng thế, cũng từ ngọn trở về gốc, rốt
ráo đạt tới chỗ như thế. Chữ A từ “vốn bất sanh” mà sanh ra hết thảy các pháp,
nay cũng dùng “không có nhân đối đãi” để làm nhân của các pháp, đầu cuối đồng
quy, tức là chỉ thú trong khoảng giữa ấy đều có thể biết.
Lại nữa, trong
tự luân tướng của Toàn Đà La Ni, dùng một chữ để giải thích ý nghĩa của hết thảy
các chữ, dùng hết thảy các chữ để giải thích ý nghĩa của một chữ. Dùng nghĩa của
một chữ để thành lập nghĩa của hết thảy các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ
để thành lập nghĩa của một chữ, dùng nghĩa của một chữ để phá nghĩa của hết thảy
các chữ, dùng nghĩa của hết thảy các chữ để phá nghĩa của một chữ. Như một chữ
và hết thảy các chữ, xoay chuyển nghịch thuận, phỏng theo lệ này có thể suy ra.
Thế nào là
“dùng một chữ để giải thích hết thảy các chữ?” Như khi giải thích chữ Ca, chỉ
dùng các thứ nhân duyên để quán “vốn bất sanh”, tức là thấy nghĩa “vô sở tác”.
Cho đến khi giải thích chữ Ha, cũng dùng các thứ nhân duyên quán “vốn bất
sanh”, tức thấy nghĩa “vô nhân”.
Thế nào là
“dùng hết thảy các chữ để giải thích một chữ?” Như khi giải thích môn chữ A,
dùng các thứ nhân duyên để quán vô tạo tác, liền thấy nghĩa “vốn bất sanh”. Cho
đến dùng các thứ nhân duyên để quán các pháp chẳng có nhân, tức là thấy nghĩa
“vốn chẳng sanh”. Các chữ khác cũng phỏng theo lệ đó, sẽ nói rộng!
Thế nào là “hết
thảy các chữ thành lập một chữ?” Tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh, do vô
tác, như hư không vô tướng, vô hành, vô hợp, cho đến vô nhân.
Thế nào là “một
chữ thành hết thảy các chữ?” Tức là hết thảy các pháp vô tác, do vốn bất sanh,
cho đến hết thảy các pháp vô nhân, do vốn bất sanh.
Thế nào là
“dùng hết thảy chữ để phá một chữ?” Như người chấp các pháp vốn có sanh, hãy
nên phá điều ấy như sau: Nếu các pháp lìa tạo tác mà nói là có sanh, thì nghĩa ấy
chẳng đúng! Cho đến nếu các pháp do chẳng thể được mà nói là “có sanh”, thì
nghĩa ấy chẳng đúng.
Thế nào là “một
chữ phá hết thảy các chữ?” Như người chấp có tạo tác, hãy nên phá điều ấy như
sau: Nếu nghĩa “các pháp vốn bất sanh” đã thành lập mà nói là “có làm”, nghĩa ấy
chẳng đúng. Cho tới nếu chấp “có nhân” thì cũng phá rằng: Nếu nghĩa “các pháp vốn
bất sanh’ đã thành lập mà nói là “có nhân”, nghĩa ấy chẳng đúng.
Thế nào là
“nghịch thuận xoay vần”? Tức là nếu pháp vốn sẵn bất sanh thì chẳng có tạo tác.
Nếu chẳng có tạo tác thì như hư không vô tướng. Nếu như hư không vô tướng, tức
là chẳng có hành. Nếu chẳng có cái để hành thì chẳng có hợp. Nếu chẳng có hợp
thì chẳng biến đổi, cho đến nếu không có nhân thì hãy nên biết pháp vốn chẳng
sanh. Đó gọi là Thuận. Nếu pháp chẳng có nhân thì Đế chẳng thể được. Nếu Đế chẳng
thể được thì tự tánh độn. Nếu tự tánh là độn thì hãy nên biết bản tánh tịch. Nếu
vốn là tịch thì hãy nên biết là vô tướng. Cho đến nếu “vốn bất sanh” thì hãy
nên biết là không có nhân. Tám loại nghĩa như thế tự tại xoay chuyển để nói.
Lại nữa, nay
nói “hết thảy các pháp” tức là tổng tướng. Nếu dựa theo kinh Ma Ha Bát Nhã, sắc
cho đến Nhất Thiết Chủng Trí, mỗi mỗi đều nói riêng khác, sẽ là vô lượng nghĩa.
Lại còn với mỗi môn, hãy nên dựa tướng cạn hay sâu được nói trong phẩm Chân
Ngôn Trụ Tâm để theo thứ tự phân biệt, do tự môn chuyển nên nghĩa cũng bất đồng.
Do bởi nghĩa ấy, có thể sanh ra trăm ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Lại nữa, do hết
thảy ngôn thuyết của Như Lai không gì chẳng phải là chân ngôn, hãy nên dùng tự
nghĩa như thế để nhập trọn khắp hết thảy Tu-đa-la. Do đó, Trí Độ Luận nói: “Nếu trong hết thảy các lời lẽ, Bồ Tát nghe
chữ A, lập tức thuận theo nghĩa, biết cái được gọi là ‘tướng chẳng sanh từ ban
sơ’ của hết thảy các pháp (chữ A hiểu theo nghĩa tiếng Hán là Sơ. A Nậu Ba Đà
(Anutpāda) dịch sang tiếng Hán là “bất sanh”). Nếu nghe chữ Ra, liền
thuận theo nghĩa, biết hết thảy các pháp lìa tướng (chữ Ra được dịch sang tiếng
Hán là Cấu). Nếu nghe chữ Ba, lập tức biết biết hết thảy các pháp nhập vào Đệ
Nhất Nghĩa (Ba La Mạt Đà (Paramārtha) dịch sang tiếng Hán là Đệ Nhất Nghĩa). Nếu nghe chữ
Giá, lập tức biết hết thảy các hành đều chẳng phải là hành (Giá Lợi Dạ (Kārya) dịch sang tiếng Hán là ngôn hạnh). Nếu nghe chữ Na, liền biết
hết thảy các pháp chẳng được, chẳng mất, chẳng đến, chẳng đi (Na dịch sang tiếng
Hán là Bất)”. Như trong phẩm Tứ Niệm Xứ của luận ấy đã nói rộng.
Lại nữa, trong
hết thảy các danh ngôn, hễ có thanh A đều nhập vào môn chữ A. Có thanh Ca thì đều
thuộc vào môn chữ Ca, cho đến có thanh Ha thì thuộc vào môn chữ Ha. Do vậy,
trong một tự môn có vô lượng nghĩa, chẳng phải là trong môn chữ Ha chỉ có nghĩa
“không có nhân”. Các tự môn khác cũng phỏng theo lệ ấy.
Lại như Sa Đá
Dã (Satya) có nghĩa là Đế. Vì thế, kinh nói: “Sa tự môn, nhất thiết chư pháp, Đế bất khả đắc” (Môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp, Đế chẳng thể được). Vả nữa, Sa Đá có
nghĩa là “vướng mắc”, cho nên trong Pháp Cúng Dường có nói: “Sa tự môn, nhất thiết chư pháp vô nhiễm trước”
(Môn chữ Sa, trong hết thảy các pháp chẳng đắm nhiễm). Lại như Bà Phạ (Bhava)
nghĩa là Có; do vậy, kinh nói: “Bà tự
môn, nhất thiết chư pháp hữu bất khả đắc” (Môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp, Hữu chẳng thể được). Lại nữa, Bà Phạ
Na (Bhāvanā) có nghĩa là Quán, cho nên trong Cúng Dường Pháp lại nói: “Bà tự môn, nhất thiết chư pháp, ly chư
quán” (Môn chữ Bà, trong hết thảy các pháp lìa các quán). Những điều khác đều phỏng
theo lệ này. Do vậy, trong kinh Đại Phẩm [Bát Nhã] và phẩm Nhập Pháp Giới của
kinh Hoa Nghiêm đều nói môn bốn mươi hai chữ [Tất Đàm]. Phẩm Văn Tự trong kinh
Niết Bàn, kinh Văn Thù Sở Vấn, phẩm Đà La Ni Tự Tại Vương của kinh Đại Tập đều
giải thích mẫu tự Tất Đàm, ý nghĩa tương đồng với những điều được nói trong
kinh này. Nếu hiểu ý này, ắt sẽ thẳng thừng thấu hiểu kinh này, chẳng hề trái
nghịch, trở ngại.
Lại nữa, mỗi một
tự môn đều nói “chẳng thể được”,
nhằm nêu ra ý nghĩa Trung Đạo. Nay dùng môn chữ Xa để nói, như nhìn hình ảnh
khuôn mặt trong gương, do bổn chất làm nhân, gương sạch làm duyên, có ảnh hiện
ra để thấy, đó chính là pháp được sanh. Tướng xấu hay đẹp hiện tiền, do chẳng
sai chạy, nên gọi là Có. Dùng đủ loại phương tiện để tìm cầu, sẽ đều chẳng thể
được, nên nói là Không! Nhưng Có hay Không đều chẳng ra ngoài bản thể của tấm
gương ấy, tức là Một, bèn gọi là Trung. Ba tướng bất đồng mà đồng, chẳng khác
mà khác. Vì thế, luận sư trong thế gian chẳng thể nghĩ bàn được! Nay Chân Ngôn
môn cũng thế, lấy quán tâm làm nhân, Tam Mật làm duyên, phổ môn hải hội hiện tiền
chẳng sai, do vậy là Có. Do dùng đủ loại môn để tìm tòi, đều chẳng thể được,
nên gọi là Không. Có và Không ấy đều chẳng ra ngoài pháp giới, nên nói là
Trung. Tam Đế bất đồng mà đồng, chẳng khác mà khác, người thuộc hết thảy các
phương tiện thừa đều chẳng thể nghĩ bàn được! Các pháp môn khác đều phỏng theo
đó, chẳng thể nêu trọn!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Ngưỡng nhưỡng nĩnh nẵng mãng, ư nhất thiết tam-muội
tự tại, tốc năng thành biện chư sự, sở vi nghĩa lợi giai tất thành tựu.
(經)祕密主!仰壤儜曩莾,於一切三昧自在 ,速能成
辨諸事,所為義利皆悉成就。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Ngưỡng, nhưỡng, nĩnh, nẵng, mãng[118],
trong hết thảy tam-muội tự tại, có thể nhanh chóng hoàn thành các sự, thực hiện
các nghĩa lợi thảy đều thành tựu).
Trong năm loại thanh là Ca, Giá, Trá, Đa, Ba, mỗi loại lại có năm thanh, từ
chữ thứ nhất tới chữ thứ tư đều là huệ môn như đã nói trên đây. Chữ thứ năm là
chứng môn, nay nói gộp chung. Chữ Phạn coi năm chữ này đều giống như chấm tròn.
Còn như bốn chữ Ca, Khư, Nga, Già đều tăng thêm tới mười một thanh, đều là đặt
dấu chấm trên mỗi chữ. Nếu muốn bỏ chấm ấy đi, mà ngay sau đó thêm các chữ như
Ngưỡng v.v… chúng sẽ chẳng khác khi có chấm. Lại nữa, trong mười hai thanh[119]
của tiếng Phạn, thanh thứ nhất là bản thể, tức thanh thứ hai là hạnh, từ
thanh thứ ba trở đi, dùng các nét để thêm vào đều là tam-muội. Thanh thứ mười một
thêm một chấm chính là Chứng. Bên thanh thứ mười hai (tức aḥ (ः), thêm hai chấm là Bát Niết Bàn. Như chữ Ngưỡng (ङ) này, do là âm thanh có thể trọn
khắp trí huệ tam-muội, hãy nên biết chính là nghĩa Đại Không. Do vậy, được nói
riêng, chẳng luận chung với các chữ trước đó. Kinh Niết Bàn nói năm chữ ấy nêu
trọn ý nghĩa của các chữ. Nay trong giáo nghĩa chủ yếu của đức Tỳ Lô Giá Na, nhờ
vào năm chữ ấy để diễn tả Đại Không. Đại Không là chứng xứ, chẳng có cách nào
nói được. Vì thế, chỉ dùng chấm tròn để biểu thị. Lại nữa, tuy tự thể của cái
chấm tròn ấy chẳng có môn nào, nhưng trọn khắp hết thảy các pháp môn, như hư
không xa lìa các tướng mà đều chứa đựng vạn tượng. Vì thế, hết thảy tự môn nếu
thêm một chấm Không, sẽ trọn đủ tác dụng tự tại, đều có thể hoàn thành các sự.
Như vô sanh diệu huệ thuộc môn chữ A, hết thảy chúng sanh bình đẳng đều có, chỉ
vì chẳng tự chứng biết, như cô gái nghèo có kho báu[120]
mà chẳng có thế lực [để khai quật]. Khi phát khởi hạnh, sẽ đúng như phương tiện
mà khai phát. Khi nhập chứng thì như kho báu hiện tiền; lúc bấy giờ, tùy ý thọ
dụng, sở cầu ắt đạt được. Vì thế nói: “Thêm
vào cái chấm Không thì các nghĩa lợi đều được thành tựu”.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:
- Chân Ngôn tam-muội môn, viên mãn nhất thiết nguyện, sở vị chư Như Lai, bất khả
tư nghị quả, cụ túc chúng thắng nguyện, chân ngôn quyết định nghĩa, siêu việt ư
tam thế, vô cấu đồng hư không, trụ bất tư nghị tâm, khởi tác chư sự nghiệp, đáo
tu hành địa giả, thọ bất tư nghị quả, thị đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai
thị. Nhược tri thử pháp giáo, đương đắc chư Tất Địa, tối thắng chân thật thanh.
Chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư duy, đương đắc bất hoại cú.
(經)爾時,世尊而說偈言:真言三昧門,圓滿一切願,所謂諸如來,不可思議果。具足眾勝願,真言決定義,超越於三世,無垢同虛空,住不思議心,起作諸事業,到修行地者,授不思議果,是第一真實,諸佛所開示,若知此法教,當得諸悉地。最勝真實聲,真言真言相,行者諦思惟,當得不壞句。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ
rằng: - Chân Ngôn tam-muội môn, viên mãn hết thảy nguyện, chính là chư Như Lai,
quả chẳng thể nghĩ bàn. Trọn đủ các thắng nguyện, nghĩa chân ngôn quyết định.
Vượt thoát khỏi ba đời, vô cấu như hư không, trụ tâm chẳng nghĩ bàn, khởi tạo
các sự nghiệp, đạt tới tu hành địa, trao quả chẳng nghĩ bàn. Là chân thật bậc
nhất, được chư Phật khai thị. Nếu biết pháp giáo này, sẽ đắc các Tất Địa, tiếng
chân thật tối thắng. Chân ngôn, tướng chân ngôn, hành giả tư duy kỹ, sẽ được
câu chẳng hoại).
Kế đó, trong lời
kệ do đức Thế Tôn đã nói: “Chân ngôn
tam-muội môn, viên mãn nhất thiết nguyện” (Các môn tam-muội của Chân Ngôn viên mãn hết thảy các nguyện), nếu nói đầy đủ
theo bản tiếng Phạn, phải là sau chữ “chân
ngôn” có thêm chữ Đạo. Người thuộc địa vị Gia Hạnh hễ duyên trụ trong chữ
A, bèn gọi là môn tam-muội chữ A. Môn tam-muội chữ A này chính là khai tâm minh
đạo môn, hết thảy các chữ khác cũng đều như thế. “Nhất thiết nguyện” trong tiếng Phạn là Tát Phạ Xa (sarvāsā), tức là ước nguyện mong cầu trong tâm; ý nói: Các chúng sanh tu môn
tam-muội này, hết thảy chí cầu đều được viên mãn. Khi nguyện ấy viên mãn thì
chính là cái quả chẳng thể nghĩ bàn của các Như Lai. Cái quả thường trụ, trí huệ
không có thầy mà còn có thể ban cho chúng sanh, huống hồ các nguyện Tất Địa thế
gian ư?
Lại nữa, Thật
Tướng của thanh và chữ trong mỗi môn tam-muội của Như Lai dù có Phật hay không
có Phật, pháp là như thế, tức là do vậy mà chẳng thay đổi, chính là bổn địa
Pháp Thân của Như Lai. Vì muốn thí Pháp Thân ấy cho trọn khắp chúng sanh, vẫn
dùng thần lực tự tại gia trì vào thanh và chữ vốn sẵn như thế. Vì vậy, thanh và
chữ chính là thân gia trì của chư Phật. Cái thân gia trì ấy có thể thực hiện trọn
khắp các thân tùy theo từng loài, không đâu chẳng hiện diện. Hãy nên biết thanh
và chữ gia trì cũng lại giống như thế. Do vậy, hành giả chỉ nên nhất tâm duyên
quán kỹ càng thanh và chữ ấy, sẽ tự thấy thân gia trì của Phật. Nếu thấy thân
gia trì, tức là thấy Pháp Thân nơi bổn địa. Nếu khi thấy Pháp Thân nơi bổn địa,
đấy tức là tự thân của hành giả. Vì thế, mỗi một môn ấy chính là cái quả chẳng
thể nghĩ bàn của Như Lai, chẳng do chỗ khác mà có.
“Cụ túc chúng thắng nguyện, chân ngôn quyết
định nghĩa” (Đầy đủ các nguyện thù thắng, nghĩa quyết định của chân ngôn): Nói đầy đủ
theo bản tiếng Phạn, hãy nên nói “trọn
đủ tất cả các nguyện thù thắng và nghĩa quyết định chân thật của chân ngôn”. “Nguyện thù thắng” ở đây trong tiếng
Phạn là Phạ Rô, tức là “trọn đủ các loại công đức”. Đó chính là tam-muội, tổng
trì, lực, vô úy v.v… Có nghĩa là “sở
nguyện đã mãn, sở cầu ắt trọn”, khác âm tiếng Phạn của chữ Nguyện trong
phần trước. Nói “quyết định” là
như môn chữ A, dù thanh hay chữ, toàn thể đều là bất sanh, nghĩa của thanh và
chữ chính là “toàn thể bất sanh”.
Nếu lúc chứng, vẫn chỉ chứng sự “bất sanh” này, trong khoảng giữa, trọn chẳng
xen tạp, mà cũng chẳng có đường khác. Nếu lúc thấy nghĩa chân thật này, giả sử
mười phương chư Phật đồng thời hiện tiền, nói đủ loại Tương Tự Ba La Mật, toan
khiến cho [người ấy] thay đổi cái tâm, [người ấy] vẫn chẳng sanh nghi hoặc. Vì
thế nói là “quyết”.
Lại nữa, “cụ túc chúng thắng nguyện” (đầy đủ
các nguyện thù thắng) tức là công đức nội chứng của Như Lai nhiều như số vi trần
trong mười phương thế giới. Do quyết định, mỗi mỗi đều thành ấn Kim Cang. Từ đấy
trở đi, tự chứng thân lại khởi lên gia trì thân; vì thế nói: “Siêu việt ư tam thế” (Vượt thoát ba đời). “Vô cấu đồng
hư không” (Vô cấu giống như hư không) tức là tâm địa thanh tịnh vô cấu chẳng nghĩ bàn,
dùng đại phương tiện để vẽ thành Phổ Môn Mạn-đồ-la nơi cuộc đất ấy. Do vậy, kế
đó kinh nói: “Trụ bất tư nghị tâm, khởi
tác chư sự nghiệp” (Trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn, dấy
khởi tạo tác các sự nghiệp). Bản tiếng Phạn nói đầy đủ là “tâm địa”, nhưng do mỗi câu kệ chỉ có
năm chữ, không thể ghi hết. Nhưng Địa chính là tâm thể; vì thế nói là “trụ trong tâm chẳng nghĩ bàn”. Trong
Chân Ngôn tam-muội môn, tuy có quả đức chẳng thể nghĩ bàn như thế, kham có thể
châu cấp, ban tặng cho chúng sanh nhiều bằng một quốc gia, nhưng nếu các chúng
sanh chẳng sanh ý tưởng khó gặp, cúng dường, tu hành, thì ví như cỗ bàn của vua
đầy ắp trước mặt, nhưng [chúng sanh] chẳng có tâm ăn uống, chư Phật biết làm
sao được? Vì thế, kế đó, kinh nói: “Nhược
đáo tu hành địa, thọ bất tư nghị quả” (Nếu đạt tới địa vị tu hành, sẽ trao cho cái quả chẳng thể nghĩ bàn). “Tu hành địa” ở đây chính là sơ pháp
minh môn trong cái tâm Bồ Đề thanh tịnh. Chẳng hạn như Thanh Văn sau khi kiến Đế,
lại dự vào Tu Hành Vị. Vị Bồ Tát ấy trong Bách Tự Minh Môn, đều thấy Liên Hoa
Thai Tạng Mạn-đồ-la thế giới hải, các tướng trang nghiêm ấy thảy đều bất đồng.
Trước hết, từ đại không luân trong môn chữ Khư, dùng môn chữ Ha để khởi đại
phong luân. Kế đó, trên đấy dùng môn chữ Phạ để khởi biển nước thơm. Tiếp đó, ở
trên ấy, dùng môn chữ A để khởi đất kim cang, Kim Cang Luân Sơn. Những điều
khác như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Trong Bồ Đề Mạn-đồ-la nơi mỗi thế giới thuộc một
trăm Liên Hoa Tạng ấy, đều có mười thế giới các Bồ Tát, Kim Cang v.v… làm quyến
thuộc. Hành nhân Du Già có thể chẳng rời khỏi tòa, mà đều tới các Phật hội như
thế, cũng có thể lần lượt tìm cầu các thiện tri thức. Vì thế nói: “Sơ Địa Bồ Tát hóa mãn bách Phật quốc”
(Sơ Địa Bồ Tát biến hóa đầy ắp một trăm cõi Phật), chẳng phải chỉ là trông thấy
mà thôi! Cũng có thể dùng một trăm Liên Hoa Tạng ấy chuyển thành tự thân. Còn
như khi viên mãn mười tâm “mầm, thân, hoa, búp” v.v… thuộc Sơ Địa, trong một
minh môn, khai xuất mười môn giải thoát, thành một ngàn thế giới, đều là tùy phần
truyền trao cái quả chẳng thể nghĩ bàn. Đạt đến gần Đệ Thập Nhất Địa, trong hư
không vân hải minh môn, mỗi mỗi đều thấy tánh, tướng, hình loại của thế giới
Liên Hoa Tạng trang nghiêm, xoay vần bất đồng, dùng đó làm tự thân tự tại vô ngại.
Đấy gọi là “bất tư nghị quả mãn”.
Kế đó, có hai
bài kệ nhằm khuyên tin, kết lại để ấn chứng: “Thị đệ nhất chân thật, chư Phật sở khai thị” (Là chân thật bậc nhất, được chư Phật khai thị). “Khai thị” chính là tri kiến của Phật, có cùng ý nghĩa với kinh
Pháp Hoa. Nửa bài kệ kế đó nói: “Nhược
tri thử pháp giáo, đương hoạch chư Tất Địa” (Nếu biết pháp giáo này, sẽ đạt các Tất Địa), tức là dẫn “chư Phật đạo đồng” để khuyến tín Thế
Đế. Nếu hành giả Chân Ngôn hiểu rõ thứ tự phương tiện trong pháp giáo này, do
nhất định tin tưởng, đúng như lời dạy mà tu hành, sẽ được thành tựu hết thảy
các Tất Địa. Nếu chẳng phải như vậy, mười phương ba đời chư Phật sẽ mắc tội
“trái nghịch bổn thệ, lừa dối chúng sanh”. Bài kệ kế tiếp nhằm khuyên [hành
nhân hãy] trụ trong Chân Đế. Nhưng Tất Đàm tự mẫu, trẻ nhỏ cũng đều tụng trì,
còn như hộ-ma, cúng dường v.v… Vi Đà thế tiên[121]
cũng đều cùng làm; nhưng nay sở dĩ môn Chân Ngôn này riêng trở thành bí mật là
do được nghĩa chân thật gia trì. Nếu chỉ miệng tụng Chân Ngôn mà chẳng tư duy ý
nghĩa, chỉ có thể thành tựu nghĩa lợi thế gian, há có đạt được thể tánh Kim
Cang ư? Vì thế, kệ rằng: “Tối thắng
chân thật thanh, chân ngôn, chân ngôn tướng, hành giả đế tư duy, đắc thành bất
hoại cú” (Tiếng chân thật tối thắng, chân ngôn, tướng chân ngôn. Hành giả
tư duy kỹ, được thành câu bất hoại). “Thanh”
chính là cái Thể của Ngữ Mật trong Chân Ngôn môn, như Đệ Nhất Chân Thật Nghĩa
trong thanh A, tức là “vốn bất sanh”. Thoạt đầu nói về Chân Ngôn, bản tiếng Phạn
dùng nhiều tiếng để gọi, tức là chỉ chung tướng bách tự môn Thế Đế tự luân. Kế
đó, nói “chân ngôn tướng” tức
là Thật Tướng của chân ngôn ấy. Từ ngay nơi Thật Tướng của chân ngôn, do tư duy
chắc thật, mỗi mỗi đều nhập Liên Hoa Đài. “Cú” chính là chỗ dấu tích ngưng dứt.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu, Thế
Tôn! Phật thuyết bất tư nghị chân ngôn tướng đạo pháp, bất cộng nhất thiết
Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh. Nhược tín thử
chân ngôn đạo giả, chư công đức pháp giai đương mãn túc, duy nguyện Thế Tôn thứ
thuyết Mạn-đồ-la sở tu thứ đệ.
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:希有。世尊!佛說不思議真言相道法。不共一切聲聞緣覺,亦非普為一切眾生。若信此真言道者,諸功德法皆當滿足。唯願世尊次說漫荼羅所須次第。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch
với đức Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu! Phật nói đạo pháp chân ngôn tướng chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng cùng chung với hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, cũng chẳng
phải vì trọn khắp hết thảy chúng sanh. Nếu tin tưởng đạo chân ngôn này, các
pháp công đức sẽ đều viên mãn. Kính mong đức Thế Tôn kế đó hãy nói về thứ tự cần
thiết trong Mạn-đồ-la).
Như trong sự giải thoát của
pháp Thanh Văn chẳng có văn tự, nhưng ngài Duy Ma Cật chẳng lìa văn tự để nói
tướng giải thoát, nên gọi là “bất tư
nghị giải thoát”. Nay tự luân này cũng thế, tức là dùng vô tướng Pháp
Thân để làm các loại thanh và chữ, các loại thanh và chữ làm vô tướng Pháp
Thân, nên gọi là “tướng chân ngôn chẳng
thể nghĩ bàn”. “Bất cộng nhất
thiết Thanh Văn, Duyên Giác, diệc phi phổ vị nhất thiết chúng sanh” (Chẳng cùng chung với hết thảy Thanh Văn và Duyên Giác, cũng chẳng phải vì
trọn khắp hết thảy chúng sanh): Kinh này là vật báu bí mật của đấng pháp vương,
chẳng thể tùy tiện trao cho người chẳng xứng đáng. Như đức Thích Ca xuất thế
hơn bốn mươi năm, do ngài Xá Lợi Phất ân cần thỉnh cầu ba lượt, [đức Phật] mới
vì Ngài nói đại lược nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa. Nay thân bổn địa này lại là chỗ
bí mật, sâu thẳm của Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên phẩm Thọ Lượng nói: “Thường tại Linh Thứu sơn, cập dư chư trụ xứ”
(Thường tại núi Linh Thứu, và các trụ xứ khác) cho tới “ngã Tịnh Độ bất hủy, nhi chúng kiến thiêu tận”
(Tịnh Độ của ta chẳng hủy, chúng sanh thấy cháy rụi), tức là ý nghĩa thuộc tông
Du Già này vậy. Lại nữa, do bậc Bổ Xứ Bồ Tát ân cần thỉnh ba lượt, [đức Phật] mới
nói. Nếu chẳng phải là căn cơ đốn ngộ, sẽ chẳng được nhận lấy. Vì thế, chẳng vì
trọn khắp hết thảy chúng sanh [mà nói pháp môn này]! Đó cũng là lãnh hội ý
nghĩa trong bài kệ trước đó “đạt đến địa
vị Tu Hành thì mới được truyền trao cái quả chẳng nghĩ bàn”.
Kế đó, nói về sự lãnh ngộ hai bài kệ khuyến tín và ấn khả để kết lại trong
phần trước, nên nói: “Nhược tín thử
Chân Ngôn đạo giả, chư công đức pháp giai đương mãn túc” (Nếu tin đạo Chân Ngôn này, các pháp công đức đều sẽ trọn đủ). Nếu lúc được
viên mãn, tức là trọn đủ các nguyện thù thắng. Trên đây, đã nói cặn kẽ về chi
phần chân ngôn xong. Ngài Chấp Kim Cang lại tiếp nối phần kinh văn trên đây, thỉnh
Phật kế đó hãy nói về thứ tự cần phải tu trong Mạn-đồ-la.
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn phục cáo Kim Cang Thủ, nhi thuyết kệ
ngôn: - Trì chân ngôn hành giả, cúng dường chư thánh tôn, đương phụng duyệt ý
hoa, khiết bạch, hoàng, châu sắc, Bát Đầu Ma, thanh liên, Long hoa Bôn Na Già,
Kế Tát Ra Mạt Lợi, Đắc Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm, Bát Trá La Sa
La. Thị đẳng tiễn diệu hoa, cát tường chúng sở nhạo, thải tập dĩ vi man, kính
tâm nhi cúng dường.
(經)如是說已,世尊復告金剛手而說偈言:持真言行者,供養諸聖尊,當奉悅意花,潔白黃朱色,鉢頭摩青蓮、龍花奔那伽、計薩囉末利、得蘗藍瞻蔔、無憂底羅劍、鉢吒羅娑羅,是等鮮妙華,吉祥眾所樂,採集以為鬘,敬心而供養。
(Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn lại bảo
Kim Cang Thủ mà nói kệ rằng: - Hành giả trì chân ngôn, cúng dường các đức
thánh, nên dâng hoa đẹp ý, sắc trắng tinh, vàng, đỏ: Bát Đầu Ma, sen xanh, Long
Hoa Bôn Na Già, Kế Tát Ra, Mạt Lợi, Đắc Nghiệt Lam, Chiêm Bặc, Vô Ưu, Để La Kiếm,
Bát Trá La, Sa La. Các hoa tươi đẹp ấy, cát tường, người ưa thích, thâu góp làm
tràng hoa, tâm cung kính cúng dường).
Kế đó, trong lời kệ giải
đáp, trước hết, đức Thế Tôn giải đáp về hai câu hỏi về dâng cúng thức ăn,
hương, hoa v.v… và các thứ bình báu, gọi chung là “chi phần Cúng Dường”. Trong các vật để cúng dường, trước hết
nói về hoa để dâng cúng. Phàm các vật để dâng cúng, đều tùy theo tánh loại của
các vị tôn thánh và phương vị của Mạn-đồ-la v.v... mà mỗi mỗi đều khéo phân biệt,
sao cho sắc, hương, vị, xúc đều khiến lòng người vui thích. Các loại hoa không
tốt lành sanh trên đất hay trong nước chỉ có thể dùng trong pháp Chiết Phục mà
thôi! Trong ba màu trắng, vàng, đỏ, Như Lai Bộ nên dùng màu trắng, Liên Hoa quyến
thuộc nên dùng màu vàng, Kim Cang Bộ nên dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng theo phương
vị của Mạn-đồ-la: Đàn tròn thì dùng màu trắng, đàn vuông thì dùng màu vàng, đàn
tam giác thì dùng màu đỏ. Lại nữa, [để cúng dường] chư Phật thì dùng màu trắng,
chư Bồ Tát dùng màu vàng, các vị trời trong thế gian thì màu đỏ. Các thứ khác như
hương v.v… cũng chuẩn theo ý này, kiêm đối chiếu với kinh văn của kinh Tô Tất Địa
và Cù Hê để dùng, chẳng chép tường tận [ở đây].
Bát Đầu Ma (Padma) là hoa
sen hồng. Phàm các loại hoa mọc trong nước như hoa sen xanh, đỏ, trắng v.v… đều
có thể dâng cúng chung chư tôn. “Long
Hoa Bôn Na Già” (Nāgakesara Puṃnāga):
Bôn Na Già là hoa Long Thụ. Di Lặc Thế Tôn thành Phật ở dưới cội cây
này. Nói thẳng là Long Hoa, tức loài hoa được rồng coi trọng. Phương Tây có loại
hoa này. Hoa Kế Tát Ra (Kesara), hoa Mạt Lợi (Mallika, hoa lài), hoa Đắc Nghiệt
La (Tagara), hoa Chiêm Bặc (Caṃpaka), hoa Vô Ưu (Aśoka), hoa Để La Kiếm (Tilaka), hoa Bát Trá La (Pāṭala), hoa cây Sa La (Śāla), đều là những thứ có ở Thiên Trúc, phương này chẳng thể biết
trọn.
Kinh nói “thị đẳng tiễn diệu hoa” (các loại
hoa tươi đẹp ấy), trong bản tiếng Phạn có kèm thêm chữ Hoặc, ý nói các thứ hoa ấy
đều có thể dùng chung, nên nêu ra một số trường hợp. Nhưng nếu phương này thì
có, phương kia thì không, chỉ cốt sao loại hoa được người ta yêu thích, thế
gian coi là cát tường, thì đều có thể dùng để cúng dường, hãy nên mỗi mỗi lắng
lòng khéo phân biệt. “Thái tập dĩ vi
man” (Gom góp thành tràng hoa), tức xen lẫn trang nghiêm, hoặc xâu, hoặc
kết, do cái tâm ân cần, thanh tịnh, thuần hậu của hành nhân khiến cho chư tôn
hoan hỷ hộ niệm.
(Kinh) Chiên đàn cập thanh mộc, mục túc hương, uất kim, cập dư diệu đồ
hương, tận trì dĩ phụng hiến. Trầm thủy cập tùng hương, Phạ Lam dữ long não, bạch
đàn, giao hương đẳng. Thất Lợi Phạ Tắc Ca, cập dư phần hương loại, phân phức thế
xưng mỹ. Ưng đương tùy pháp giáo, nhi phụng ư thánh tôn.
(經)栴檀及青木、苜蓿香欝金,及餘妙塗香,盡持以奉獻。沈水及松香,嚩藍與龍腦,白檀膠香等,失利嚩塞迦,及餘焚香類,芬馥世稱美,應當隨法教,而奉於聖 尊。
(Kinh:
Chiên đàn và thanh mộc, mục túc hương, uất kim, và các hương bôi quý khác, đều
dùng hết dâng hiến. Trầm thủy và tùng hương, Phạ Lam (Vāla) và long não, bạch đàn, giao hương (Sarjarasa) thảy, Thất Lợi Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka), và các loại hương đốt, thơm ngát, đời ca ngợi. Hãy
nên tùy pháp giáo, dâng lên các thánh tôn).
Kế đó nói về hương bôi.
Chiên đàn (Candana), thanh mộc (Kuṣṭha), uất kim (Kuṅkuma), cỏ Đố Lộ Bà (Turuska)[122]
loại hương Mục Túc (Spṛkkā) ở phương Tây, hơi khác hương Mục Túc ở phương này. “Cập dư diệu đồ hương” (Và các loại hương bôi tốt đẹp khác) như trầm thủy, cam tùng, đinh hương
(clove), lõi cây quế, đậu khấu (cadarmom, nutmeg) ở phương Tây, hương phụ tử[123]
v.v… như kinh Tô Tất Địa và Cù Hê đã nói. Lại nói trong các loại hương bôi ấy,
đừng dùng hương lấy từ thân thể của chúng sanh, tử khoáng[124],
cũng như bị trùng đục khoét. Hãy nên dùng thứ hương tốt, thanh tịnh, dùng nước
để nghiền. Nếu dâng cúng Phật, hãy nên dùng uất kim mới, tốt, hoặc hắc trầm
hương cùng với long não. Quyến thuộc Liên Hoa thì nên dùng bạch đàn, Kim Cang
quyến thuộc cũng nên dùng bạch đàn; còn các vị tôn thánh khác thì tùy ý mà dùng
chung, còn các loại hương hòa hợp thì đều thêm long não.
Kế đó, nói về hương đốt,
hãy nên dùng trầm thủy hương (agaru), tùng hương (dīpavṛkṣa), phạ lam hương (vāla), long não hương (karpūra), bạch đàn hương phương Tây tên là
Ma La Dữu (Malayū, tức là tên núi Malaya, phiên âm là Ma Lê Sơn), như Trí Độ Luận đã nói: “Ngoại trừ núi Ma Lê, không có chỗ nào khác
sanh ra Chiên Đàn” là nói về loại hương này. Bạch giao hương (sarjarasa) chính là nhựa cây Sa La. Thất Lợi
Phạ Tắc Ca (Śrīvāsaka) hương tương tự huân lục hương (kunduruka, tức frankincense) ở phương này.
Thất Lợi (Śrī) có nghĩa là trọn đủ đức cát tường, ý nói loại hương này thậm chí thiên
thần cũng đều yêu thích; do vậy đặt tên như thế. “Cập dư phần hương loại, phân phức thế xưng mỹ” (Và các loại hương đốt khác, thơm ngào ngạt được cõi đời khen ngợi) cũng như
trên đã nói. Kinh Cù Hê nói: “Thiêu
hương dụng bạch đàn, trầm thủy tương hòa, cúng dường Phật loại. Kỳ thụ chấp
hương, cúng dường Liên Hoa loại. Hắc trầm cập An Tức, cúng dường Kim Cang loại”
(Hương đốt thì dùng bạch đàn và trầm thủy hòa hợp để cúng dường Phật Bộ. Hương
từ nhựa cây để cúng dường Liên Hoa Bộ. Hắc trầm và an tức để cúng dường Kim
Cang Bộ). Hoặc vâng theo pháp ấy mà làm hương, hòa hợp trọn khắp để dâng lên
chư tôn. “Ưng đương tùy pháp giáo”
(Hãy nên tùy theo pháp giáo), tức là dùng chân ngôn và mật ấn để gia trì trừ
nhơ như nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường. Các loại hương bôi và hoa khác phỏng
theo lệ này mà suy ra.
(Kinh) Phục thứ, Đại Chúng Sanh, y giáo hiến chư thực, phụng nhũ mi, lạc
phạn, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca, bách diệp cam mỹ bính, tịnh diệu sa đường bính, bố lợi
ca, gián huyệt, cập mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát trá thực đẳng, như
thị chư hào thiện, chủng chủng trân diệu quả, kiển đồ dữ thạch mật, đường mật,
sanh thục tô, chủng chủng chư tương ẩm, nhũ lạc, tịnh ngưu vị.
(經)復次大眾生,依教獻諸食,奉乳糜酪飯,歡喜漫荼迦,百葉甘美餅,淨妙粆糖餅,布利迦間穴,及末塗失囉,嫓諾迦無憂,播鉢吒食等,如是諸餚饍,種種珍妙果,蹇荼與石蜜,糖蜜生熟酥,種種諸漿飲,乳酪淨牛味。
(Kinh: Lại này, Đại Chúng Sanh, theo giáo, hiến thức ăn, dâng
cháo sữa, cơm bơ, hoan hỷ, Mạn-đồ-ca, bánh ngon ngọt bách diệp, bánh đường cát
sạch ngon, bố lợi ca, gián huyệt, và mạt đồ thất ra, bễ nặc ca, vô ưu, bá bát
trá các món. Món ngon quý như thế, các thứ quả ngon, quý, kiển đồ và thạch mật,
đường, mật, sanh thục tô, và các thứ nước ép, sữa, lạc, các vị sữa).
Kế đó nói “y giáo hiến chư thực” (theo đúng lời
dạy, dâng các thức ăn). Như trong bản đầy đủ của kinh này nói, cúng dường các
thứ ăn đều có phương tiện để tịnh hóa cho tới ý nghĩa sâu mầu [của việc tịnh
hóa ấy], mỗi mỗi đều tương ứng với pháp môn. Phương này nếu không có, chỉ nên dựa
theo các kinh như Tô Tất Địa v.v… Theo đúng pháp tạo tác, kết giới, thủ hộ, gia
trì, sẽ được gọi là “y giáo”. “Nhũ mi”: Phương Tây có nhiều loại
cháo, hoặc dùng nước ép Ô Ma, hoặc dùng các loại đậu và các vị thuốc, như trong
các kinh văn Thập Tụng Dược Pháp v.v… đã nói cặn kẽ, nhưng cháo sữa[125]
là loại tốt nhất. Phàm khi dâng thức ăn, phải nên thêm vào các thứ như tô,
đường cát v.v… khiến cho sắc lẫn vị đều trọn vẹn để dâng cúng trước. Lại nữa,
cơm ở phương Tây có nhiều loại, cũng coi cơm nấu trộn bơ là vị ngon nhất. Khi
dâng món ăn này, phải nên nêm đường cát, muối, gừng các vị. Lại nên dâng canh
theo đúng cách nấu nướng ở phương đó, hoặc thuận theo phong tục nước nhà.
Đối với viên hoan hỷ (laḍḍuka), hãy nên dùng chất tô để nấu các loại bánh, hòa hợp các vị và ba loại thuốc
có vị đắng v.v… khiến cho trang nghiêm đủ mọi cách. Mạn-đồ-ca (Maṇḍaka) chính là loại bánh ép mỏng (pancake) ở phương này. Diệp bính là cách làm
bánh ở Thiên Trúc: Dùng các vị như mật, đường, trộn với bột mì, dầu bơ đem nấu,
hết sức thơm ngon. Bánh đường cát thì loại đường cát này có tên là Kiển Đồ
(Khanda, đường trắng), hình dạng giống như loại đường sản xuất tại Ích Châu, nhưng
màu sắc hết sức trắng sạch, đụng tới là vỡ ngay. Đem loại đường này pha nước;
trước hết, dùng bột mì làm bánh, nhỏ vài giọt nước đường lên đó rồi mới ăn. “Tịnh diệu” tức là chú trọng sao cho
thanh khiết, khiến cho sắc lẫn hương đều trọn vẹn. Bố-lợi-ca (Pūrikā) dịch là Trước Lam Bính, do các thứ vị ngon nhất hòa hợp để cân nhắc làm
thành. Bánh Gián Huyệt (Garitra) có hai loại hoặc đâm thành lỗ thủng,
hoặc có hình dạng như tơ rối cuộn tầng tầng ở mỗi lỗ thủng, thêm vào các vị.
Bánh Mạt-đồ-thất-ra (Madhuśīrṣaka) cũng rắc muối, bôi mật và đường
lên trên. Bánh Bễ-nặc-ca (Phenaka) dùng bột mì nổi, rắc muối, chiên bằng dầu
bơ, hình dáng như bọt nổi trên mặt nước, rất đáng yêu! Vô Ưu (Aśokavarti) là bánh đường cát cuộn lại. Món Bá
Bát Trá (Parpaṭa) là loại bánh mỏng làm bằng bột mì không lên men[126].
“Như thị chư hào thiện” (Các món ngon lành như thế), lại nói
là tùy theo địa phương, quốc gia, tất cả các món ngon nhất và các loại quả ngon
lành, quý báu, tùy ý dâng hiến. Đường trắng, thạch mật, đường cát, tô mật lại đều
sắp riêng. “Chủng chủng chư tương ẩm”
(Các loại nước uống chế từ nước ép): Cách chế nước ép ở phương Tây rất nhiều,
dùng hòa với thuốc thơm, ngon lành lại trị bệnh. Còn các thứ nước uống phi thời
như nước nho v.v… thì như trong Tỳ Ni đã nói. Các món có sữa và lạc thì cũng
dùng Tất Bát hoặc long não v.v… đúng như trong cách nấu ăn trong Y Minh mà làm.
Nói chung, phương Tây chế biến thức ăn và thức uống đều có thứ tự trước sau, phần
nhiều dựa theo dược thuật, có công hiệu dưỡng tánh phòng thân. Vì thế, họ phần
nhiều sống hết tuổi thọ, ít bị chết yểu.
Phàm chỗ đặt thức ăn, nên
dùng hương bôi để bôi khắp. Đặt đồ ăn trong viện, trải khắp lá sen, hoặc lá chuối
v.v… khiến cho trọn khắp. Nếu không có, hãy nên dùng vải trắng mịn hoặc vải sạch
mới tinh, tận lực dùng nước sạch để giặt tẩy, dùng hương bôi khắp. Khi sắp xếp
thức ăn, đối với các vị tôn thánh thượng thủ, nên xếp nhiều hơn, tức là nơi
Trung Thai Tạng Tỳ Lô Giá Na, Quán Âm và Kim Cang Thủ ở viện thứ hai, bốn vị Bồ
Tát như Văn Thù v.v… ở các viện kế tiếp, Thích Ca Mâu Ni ở ngoại viện và vị Bổn
Tôn mà ta tôn phụng. Giả sử như các vị trí khác thì dâng một phần, nơi các vị
tôn thánh thượng thủ thì dâng hai phần. Hoặc các vị trí khác dâng hai phần,
kinh Cù Hê nói: “Mạn-đồ-la chủ đương số
bội gia chi” (Nơi vị chủ của mạn-đồ-la thì nên tăng gấp bội). Tuy có thứ hạng bất đồng
như vậy, nhưng từ chư Phật cho đến quỷ thần trong thế gian, đều nên vận tâm
bình đẳng cúng dường, cốt sao đều dồi dào. Còn như không lo xuể, chỉ nên cúng
dường Bộ Chủ, hoặc đặt thức ăn trong nội viện, vận tâm cúng dường hết thảy chư
tôn. Các thứ hương, hoa v.v… dâng hiến cũng phỏng theo đây mà biết!
(Kinh) Hựu phụng chư đăng chúc, dị loại tân tịnh khí, thịnh mãn diệu
hương du, bố liệt vi chiếu minh. Tứ phương tăng phan, cái, chủng chủng sắc tướng
gian, môn tiêu dị hình loại, tịnh huyền dĩ linh, đạc.
(經)又奉諸燈燭,異類新淨器,盛滿妙香油,布列為照明。四方繒憣蓋,種種色相間,門標異形類,并懸以鈴鐸。
(Kinh:
Lại dâng các đèn, đuốc, các đồ đựng sạch mới, chứa đầy
dầu thơm quý, sắp bày để chiếu sáng. Bốn phương phan,
lọng lụa. Trong các thứ sắc tướng, cửa treo nhiều hình tướng, và treo các linh,
khánh).
Kế đó, nói đến chuyện dâng
đèn chiếu sáng. Các loại dầu thơm rất nhiều, như dầu thơm Chiêm Bặc, dầu thơm từ
hoa Tô Ma Na (Sumana) v.v… Phàm làm dầu thơm, hãy nên dùng hoa mới, giống như
cách kết tràng hoa để xâu lại, để đến ban ngày, đặt hoa trên đồ hứng dầu, dùng
vật dụng rót dầu rưới lên hoa khiến cho dầu ấy lại rơi xuống đồ hứng. Lại đem dầu
ấy rưới lên hoa, lặp đi lặp lại như thế từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt trời
lặn mới thôi. Hôm sau, lại lấy hoa mới làm giống như trước, khiến cho dầu ấy có
mùi thơm giống hệt như hoa mới thôi. Các vật dụng để dâng hiến thức ăn và đèn
chiếu sáng làm bằng các thứ báu là tốt nhất. Nếu chẳng thể lo liệu, dùng bạc, đồng
v.v… cho đến các thứ đồ sứ mới sạch cũng được! “Tứ phương tăng phan cái” (Phan lọng bằng lụa màu ở bốn phương):
Nếu có tài lực, hãy nên đặt riêng nơi mỗi vị tôn thánh, cũng coi các thứ làm bằng
chất báu là tốt nhất. Nếu chẳng thể lo liệu, thì dùng lụa màu cho đến vẽ vời.
Khi vẽ, nên dùng vật sạch sẽ, chớ nên dùng các chất keo v.v.. Nếu không thể tạo
rộng khắp thì tối thiểu là mỗi phương trong bốn phương đặt một cái lọng. Các vật
trang trí ở cửa, linh, khánh v.v… đều
tùy sức trang nghiêm đủ mọi lẽ, cũng nên chuẩn theo tướng trạng được dạy trong
phẩm Nhập Bí Mật Mạn Đồ La.
(Kinh) Hoặc dĩ tâm cúng dường, nhất thiết giai tác chi. Trì chân ngôn
hành giả, tồn ý vật di vong. Thứ cụ Ca La Xa, hoặc lục, hoặc thập bát, bị túc
chư bảo dược, thịnh mãn chúng hương thủy. Chi điều thượng thùy bố, gián sáp
hoa, quả, thật, đồ hương đẳng nghiêm sức. Kết hộ nhi tác tịnh, hệ cảnh dĩ diệu
y, bình số hoặc tăng quảng. Thượng thủ chư tôn đẳng, các các phụng kiêm phục.
Chư dư Đại Hữu Tình, nhất nhất giai hiến chi.
(經)或以心供養,一切皆作之。持真言行者,存意勿遺忘,次具迦羅奢,或六或十八,備足諸寶藥,盛滿眾香水。枝條上垂布,間插華果實,塗香等嚴飾,結護而作淨,繫頸以妙衣,瓶數或增廣。上首諸尊等,各各奉兼服,諸餘大有情,一一皆獻之。
(Kinh: Hoặc dùng tâm cúng dường, hết thảy đều thực hiện. Hành
giả trì chân ngôn, chú tâm đừng quên sót. Sắp đủ Ca La
Xa[127],
hoặc sáu, hoặc mười tám, trọn đủ các thuốc báu, chứa đầy các nước thơm. Xếp
cành nhánh buông rủ, cắm xen kẽ hoa quả, hương bôi để trang hoàng. Y đẹp buộc cổ
bình. Hoặc tăng thêm số bình. Nơi thượng thủ chư tôn, mỗi mỗi cúng gấp đôi. Các
Đại Hữu Tình khác, mỗi mỗi đều hiến dâng).
Như đức Thế Tôn đã nói,
trong các thứ cúng dường, tâm là tối thượng. Đối với mỗi một vật cúng như trên,
đều nên vận tâm trọn khắp pháp giới, dùng chân ngôn và bí ấn để gia trì, như
trong phần Thứ Tự Cúng Dường đã rộng nói. Hoặc quán đại bảo thụ vương phủ rợp hết
thảy các thế giới, giống như cây chúa Bồ Đề (Bồ Đề thụ vương) [được nói] trong
kinh Hoa Nghiêm trọn đủ các tướng trang nghiêm. Mỗi thứ vật cần dùng để thọ dụng,
đều từ trong ấy tuôn ra chẳng có cùng tận, tới khắp trước mặt hết thảy hiền
thánh. Sự cúng dường rộng lớn cũng phủ trọn hết thảy chúng sanh. Đã vận tâm như
thế xong, hãy nên dùng Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi để gia trì, sẽ tự nhiên
tùy ý thành tựu.
Kế đó, nói về pháp “bình cát tường”: Hãy nên dùng các thứ
báu như vàng, bạc v.v… [để làm bình], cho đến nếu chẳng thể, hãy nên dùng đồ sứ,
hoặc đồ gốm sạch. [Cái bình ấy] phải tột bậc viên mãn, đoan chánh, lại chẳng rò
rỉ. Đúng như phương tiện trong Tỳ Ni (Luật Tạng) mà gạn lọc nước sạch, chứa đầy
trong đó. Trong ấy, đặt năm thứ báu và ngũ cốc, năm loại thuốc như trong kinh
Cù Hê đã nói; nhưng năm thứ thuốc ấy đều thuộc về Ngũ Thiên Trúc, phương này chẳng
thể có đủ được. Dùng các thứ bột hương bôi như đã nói trong phần trước hòa vào
nước, bỏ thêm long não và ngưu hoàng. Nơi miệng bình, cắm hoa đẹp nhất, hoặc tất
cả các loại hoa nổi tiếng tại địa phương. Lấy các thứ hoa, quả, cành lá tươi tốt,
trọn đủ, để cắm xen kẽ rủ xuống vào đó, sao cho tột bậc đoan nghiêm. Dùng lụa
màu buộc vào cổ bình, cũng đeo tràng hoa, dùng các thứ hương bôi lên. Phương tiện
kết giới, thủ hộ, tịnh trị cũng như trong phần Thứ Tự Cúng Dường đã nói.
Tại Trung Thai Tạng [của Mạn-đồ-la],
nên đặt năm cái bình. Bình lớn nhất [cúng dường] đức Đại Nhật đặt tại hoa đài,
các bình khác đặt trên nhụy hoa. Phàm khi dâng thứ ăn lên Trung Thai, đối với bốn
vị Phật và bốn vị Bồ Tát, đều đặt nơi tòa của các Ngài trong hoa đài. Dâng cúng
cho đức Tỳ Lô Giá Na thì đặt trước đài hoa. Nếu có sức thì nơi mỗi vị tôn
thánh, đều đặt một bình. Nếu chẳng thể làm như vậy, thì ở chỗ các vị tôn thánh
thượng thủ các phương trong, ngoài, đều đặt [bảo bình]. Ở bốn cửa, mỗi nơi đều
đặt một bình, ở bốn góc cũng đặt mỗi nơi một bình. Ở ngoài cửa ra vào, lại đặt
riêng một bình nữa. Dùng chân ngôn và ấn của ngài Hàng Tam Thế để gia trì. Lúc
muốn ra vào [đàn tràng], hãy nên dùng [nước từ bảo bình đặt ở ngoài cửa ra vào]
để rưới lên thân tự thủ hộ, và khi gọi đệ tử vào đàn, cũng dùng [nước ấy] để rảy.
Ở chỗ hộ-ma, lại đặt riêng một bình. Đại lược là có thể hơn một trăm bình. Kinh
nói “sáu bình” là hạn lượng tối
thiểu. Trong ấy, ở bốn phương của Trung Thai Bát Diệp, mỗi phía đặt một bình và
ở ngoài cửa một bình là nhất định chẳng thể thiếu. Nếu dùng mười tám bình, thì
Trung Thai đặt một bình, nơi viện thứ hai, chỗ Đại Cần Dũng (tức chỗ Thích Ca
Mâu Ni Phật trong Thích Ca Viện), Liên Hoa, Kim Cang Bộ Chủ và ở cửa là bốn
bình, bốn vị đại Bồ Tát thuộc viện thứ hai, như Văn Thù v.v… [nơi mỗi vị] đặt một
bình, bốn cửa thuộc ngoại viện, bốn góc và ở ngoài cửa sử dụng số bình sao cho
vừa đủ.
Đối với người muốn nhận
quán đảnh, hãy tùy theo số người mà tạo một bình, chớ để thiếu khuyết. Giống
như bình đựng nước thơm, đồ đựng Át-già cũng thế, hãy nên dùng vàng,
bạc, bạch lưu ly v.v… để làm đồ đựng, cho đến thương-khư, đồng hun, đá, gỗ, hoặc
dùng lá cây, đồ gốm mới để đựng các nước thơm, cắm các hoa đẹp. Đối với mỗi chỗ
nên đặt bình như đã nói trên đây đều đặt [bình đựng Át-già]. Lại ở chỗ các vị
tôn thánh, đều dâng y sạch; như phần trước đã nói, ở chỗ các vị tôn thánh thượng
thủ nên chuẩn theo cách dâng thức ăn mà tăng gấp đôi. Vì thế nói “các các phụng kiêm phục” (ở mỗi chỗ
đều nên dâng, lại còn nhiều gấp đôi).
Nếu chẳng thể làm được, chỉ
nên đặt [bảo bình] ở chỗ các vị tôn thánh thượng thủ. Hoặc đem tất cả thứ mình
cất chứa được, đều đặt trong viện Trung Thai, vận tâm cúng dường hết thảy chư
tôn. Phàm các vật dâng cúng ở Trung Thai, hãy nên đặt ở chỗ trống thuộc ranh giới
tầng thứ nhất của phía ngoài Trung Thai. Nếu dâng cho các vị tôn thánh khuyết
danh, hãy nên đặt trong ranh giới của tầng thứ ba. Lại nữa, khi cúng dường, trước
hết nên dâng nước Át-già; kế đến dâng hương bôi, kế đó, dâng hoa, hương đốt, thức
ăn. Sau cùng, dâng đèn chiếu sáng, [tuy] kinh văn chẳng nói thứ tự trước sau.
Lại nữa, nếu giải thích
theo kiểu sâu xa, bí mật, hương bôi là nghĩa Tịnh. Như hương bôi trong thế gian
có thể tịnh trừ cấu uế, dứt trừ nhiệt não. Nay hành giả dùng Át-già như hư
không để gột rửa cấu nhơ một trăm sáu mươi loại hý luận trong Bồ Đề tâm, dùng
trụ vô vi giới để bôi, trừ diệt nỗi nóng bức sanh tử, đạt được tánh thanh
lương. Vì thế nói là “hương bôi”.
Nói đến hoa thì nghĩa là “sanh bởi từ
bi”. Tức là chủng tử tịnh tâm trong Đại Bi Thai Tạng vạn hạnh xòe nở,
trang nghiêm cây Bồ Đề của Phật, cho nên nói là “hoa”. Hương đốt nghĩa là “trọn khắp pháp giới”. Như cây chúa
trên cõi trời khi nở hoa, mùi hương ngược gió hay thuận gió tự nhiên lan khắp.
Hương Bồ Đề cũng thế, tùy thuộc mỗi công đức được lửa huệ đốt, được gió giải
thoát thổi, thuận theo sức bi nguyện mà lan tỏa, xông khắp hết thảy. Vì thế nói
là “hương đốt”. Thức ăn là cam
lộ vô thượng, là vị bất sanh bất tử. Nếu quả đức ấy lại thành thục, sẽ là vị
không chi hơn được nữa. Khi đó, bèn gọi là “nhập chứng”, cho nên nói là “thức ăn”. Nói tới đèn, chính là ý nghĩa “quang minh của Như Lai phá tối tăm”. Ý nói: Khi đạt tới quả địa
thì tâm chướng đều tận, chuyển vô tận huệ, chiếu trọn khắp chúng sanh, cho nên
nói là “đèn”.
Nếu nói theo chiều dọc,
trong mỗi địa đều có đủ năm nghĩa như thế. Nếu nói theo chiều ngang, trong mỗi
môn, đều có đủ năm nghĩa như thế. Chẳng hạn như thức ăn được nói trong phần
kinh văn trên đây, tuy ngon miệng như nhau, nhưng tùy theo tài nghệ khéo nêm nếm,
chế biến của mỗi người mà có đủ loại hương vị khác nhau! Các thứ khác như
hương, hoa v.v… cũng nên phỏng theo đó mà suy. Nếu hành giả khéo có thể dùng
năm tự môn làm kim cang vũ hý ứng hợp trọn khắp chúng sanh, ví như hòa hợp năm
vị, sắp đặt năm màu, hòa hợp ngũ âm, điều hòa năm loại thuốc, tuy tánh phận chẳng
vượt ngoài năm loại, nhưng thiên biến vạn hóa, xoay chuyển khéo léo chẳng cùng
tận! Hãy nên biết người ấy khéo hiểu ý nghĩa của Đồ Hương tam-muội, cũng hiểu ý
nghĩa của Hoa tam-muội, Thiêu Hương tam-muội, Ẩm Thực Đăng Minh tam-muội, cũng
hiểu ý nghĩa của năm loại Đà La Ni ấy. Dùng các vật cúng thuộc đủ loại pháp môn
như thế để cúng dường Tâm Vương Như Lai, có thể khiến cho chư tôn hoan hỷ, ắt đạt
được điều mong cầu. Nếu từ ý nghĩa ấy, phản quán hương, hoa v.v… thuộc Thế Đế,
sẽ tự nhiên biết chỗ đáng nên dùng của sắc, hương, tánh phận ấy, vô lượng
phương tiện sẽ tự nhiên hễ gặp chuyện bèn sanh khởi.
(Kinh) Như thị tu cúng dường, thứ dẫn ưng độ giả, sái chi dĩ tịnh thủy,
thọ dữ đồ hương, hoa, linh phát Bồ Đề tâm, ức niệm chư Như Lai, nhất thiết giai
đương đắc, sanh ư tịnh Phật gia. Kết Pháp Giới Sanh ấn, cập dữ Pháp Luân ấn,
Kim Cang hữu tình đẳng, nhi dụng tác gia hộ. Thứ ưng đương tự kết, chư Phật
tam-muội-da, tam chuyển gia tịnh y, như Chân Ngôn pháp giáo, nhi dụng phú kỳ thủ.
(經)如是修供養,次引應度者,灑之以淨水,授與塗香華,令發菩提心,憶念諸如來,一切皆當得,生於淨佛家。結法界生印,及與法輪印,金剛有情等,而用作加護。次應當自結,諸佛三昧耶,三轉加淨衣,如真言法教,而用覆其首。
(Kinh: Tu cúng dường như thế, kế dẫn người đáng
độ, dùng tịnh thủy rưới vẩy, trao cho hương bôi, hoa, dạy phát Bồ Đề tâm, nghĩ
nhớ các Như Lai, hết thảy sẽ đều được, sanh nhà Phật thanh tịnh. Kết ấn Pháp Giới
Sanh, cùng với ấn Pháp Luân, Kim Cang hữu tình thảy, dùng để làm gia hộ. Kế đó,
nên tự kết, chư Phật tam-muội-da, ba lượt gia y sạch, như Chân Ngôn pháp giáo,
dùng để che đầu họ).
Tiếp đó, nói về chi phần “gia trì, răn dạy khi tác pháp” và
chi phần hộ-ma. Phần “gia trì, răn dạy”
nhằm trả lời ba câu hỏi của ngài Kim Cang Thủ, tức là dẫn đệ tử [nhập đàn tràng]
như thế nào? Cho họ quán đảnh như thế nào? Cúng dường thầy như thế nào? Hỏi ba
câu ấy xong, mới hỏi về chỗ hộ-ma. Nay trong lời đáp ở đây, trước hết nói về
chuyện dẫn đệ tử, liền nói về chuyện hộ-ma rồi mới trả lời hai câu kia. Nhưng hộ-ma
là chung cho hết thảy các pháp sự, chẳng phải chỉ nhằm gia trì đệ tử mà thôi!
Vì thế, đáng nên tách thành một chi phần riêng! Trong quyển trước [của chánh
kinh], đã nói trong đêm thứ bảy, khi tác pháp, vẽ các phương vị trong Mạn-đồ-la,
trong ấy đã riêng nói về các chi phần trọng yếu; do vậy, mạch văn bị gián đoạn.
Nay bèn thừa tiếp mạch văn trong phần trước, nói theo thứ tự.
A-xà-lê đã vẽ Mạn-đồ-la
xong, quán sát trọn khắp, biết đã hoàn bị rồi mới ra ngoài, sái tịnh đúng như
pháp. Giống như trên, vận tâm lễ trọn khắp hết thảy các đức Như Lai, sám hối,
quy y, tự tịnh tam nghiệp. Sau đấy, tuân theo cách cúng dường, kết tam-muội-da
minh v.v… để hộ thân. Các vật cúng dường ấy cũng dùng chân ngôn Bất Động để trừ
cấu cho thanh tịnh, đúng như pháp mà chuẩn bị trọn vẹn. Lại nên mặc Kim Cang
giáp v.v… sao cho mỗi mỗi đều đúng pháp. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Khi làm thân Như Lai (khi quán tưởng thân
mình chính là thân Như Lai), hãy nên dùng Như Lai giáp. Khi làm Kim Cang thân,
nên dùng Kim Cang giáp. Hãy nên thay đổi để dùng”. Lại chuẩn theo các
kinh như Tô Tất Địa v.v…, dùng các tướng nhục kế, viên quang của Như Lai để
trang nghiêm thân sẽ càng tốt hơn, hoặc có thể dùng chung, hoặc dùng chân ngôn
Thành Biện Chư Sự để làm. Làm như thế xong, sau đấy mới đến chỗ Mạn-đồ-la, theo
lẽ đáng nên mà ngồi, trụ trong Du Già.
(Kinh) Thâm khởi bi niệm tâm, tam tụng tam-muội-da, đảnh đới dĩ Ra tự,
nghiêm dĩ Đại Không điểm, châu táp khai diễm man. Tự môn sanh bạch quang, lưu
xuất như mãn nguyệt. Hiện đối chư Cứu Thế, nhi tán ư tịnh hoa. Tùy kỳ sở chí xứ,
hành nhân nhi tôn phụng. Mạn-đồ-la sơ môn, đại long sương vệ xứ, ư nhị môn
trung gian, an lập ư học nhân, trụ bỉ tùy pháp giáo, nhi tác chúng sự nghiệp.
Như thị linh đệ tử, viễn ly ư chư quá, tác tịch nhiên hộ-ma, hộ-ma y pháp trụ.
(經)深起悲念心,三誦三昧耶,頂戴以囉字,嚴以大空點,周匝開焰鬘。字門生白光,流出如滿月,現對諸救世,而散於淨華,隨其所至處,行人而尊奉。漫荼羅初門,大龍廂衛處,於二門中間,安立於學人,住彼隨法教,而作眾事業,如是令弟子,遠離於諸過,作寂然護摩。護摩依法住。
(Kinh: Khởi tâm bi niệm sâu, tụng thệ nguyện ba lượt, đỉnh đầu đội
chữ Ra, trang nghiêm chấm Đại Không, vòng lửa sáng vây quanh. Tự môn sanh bạch
quang, túa ra như trăng tròn. Đối trước các Cứu Thế, mà tán rải tịnh hoa. Hoa
rơi xuống chỗ nào, hành nhân phụng pháp ấy. Cửa ngoài Mạn-đồ-la, nơi đại long
vương trụ, giữa tầng cửa thứ hai, xếp kẻ học đứng đó. Trụ đó, theo pháp giáo,
thực hiện các sự nghiệp. Dạy đệ tử như thế, xa lìa các lỗi lầm, làm tịch nhiên
hộ-ma, hộ-ma theo pháp trụ).
Trước hết, dùng môn chữ Ra
(र) để tịnh hóa trọn khắp tâm họ. Kế
đó, tịnh hóa đất nơi đạo tràng, đều trừ sạch các tướng ương hoạn giống như hư
không. Sau đấy, dùng môn chữ Ha (ह) để khởi đại phong luân. Trên phong luân, dùng chữ Phạ (व) để khởi biển nước thơm, liền
dùng môn chữ A (अ) để khởi đất kim cang và núi chúa
Diệu Cao. Hãy nên biết Mạn-đồ-la này ở ngay trên đó, vâng theo phương tiện quán
trong phần Thứ Tự Cúng Dường để tạo đủ mọi trang nghiêm, dùng hư không tạng để
gìn giữ. Kế đó, nơi mỗi một tôn vị trong Mạn-đồ-la, đều quán chữ chủng tử của mỗi
vị ấy. Từ các chữ ấy, đều chuyển thành thân Bổn Tôn. Nếu vị A-xà-lê chưa dung hội
quán đạo, sợ kéo dài thời gian, chỉ từ nơi đài hoa sen thuộc Trung Thai mà quán
chữ A. Tự môn tỏa ra vô lượng quang, chiếu trọn khắp các tọa vị của chư tôn.
Lúc bấy giờ, chư tôn liền hiện. Khi đó, dùng phương tiện để chuyển quán “các vị tôn thánh như thế và thân ta chẳng
hai, chẳng khác”, tức là chư tôn liền ở ngay trong thân. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Nếu hành giả chưa trụ Du
Già, sao có thể tạo đàn pháp như thế được? Cho tới khi mới kiến lập, đã quán
[chư tôn đều ở] trong thân rồi mới vẽ vời ư? Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê, sẽ
thường tụ họp với thánh chúng trong Đại Bi Thai Tạng như thế, cũng liền chứng
biết cái tâm này của ta cũng giống như mười câu duyên sanh rốt ráo chẳng thể được!”
Quán Bổn Tôn xong; kế đó, lại
vận tâm tưởng đủ loại cỗ xe báu, dùng chân ngôn và ấn Bất Động để gia trì. Dùng
đó để kính cẩn nghênh đón các vị thánh và tịnh trị đường nẻo. Kế đó, triệu thỉnh.
Kinh Cù Hê nói: “Đương các dĩ bổn chân
ngôn phụng thỉnh, hoặc dĩ Mạn-đồ-la chủ chân ngôn đô thỉnh chư tôn” (Hãy
nên dùng chân ngôn của mỗi vị tôn thánh để phụng thỉnh, hoặc đều dùng chân ngôn
của vị chủ Mạn-đồ-la để thỉnh chư tôn). Hoặc vâng theo những điều được nói
trong bổn giáo (pháp môn mà hành nhân đang tu tập). Hãy nên tùy ý [thực hiện] rộng
lược, kiêm dùng chân ngôn và ấn triệu thỉnh. Hơn nữa, điều được đề cao trong
kinh này là “bổn tọa thọ thỉnh”
(vị bổn tôn chẳng rời bảo tọa mà tiếp nhận lời triệu thỉnh), lại còn dùng tướng “chẳng đến mà đến” để tới đạo tràng này, chẳng giống như trong
thô phương tiện có tướng đây, kia.
Đại chúng đã vân tập xong,
hãy nên dùng Bất Động Minh (chân ngôn của ngài Bất Động Minh Vương) để trừ khử
các chướng, tức là phô bày ba loại tam-muội-da để gia trì. Kế đó, hãy nên dâng
nước Át-già và trải tòa, nói như thế này: “Đức Thế Tôn đến lành thay! Đức Thế Tôn đến lành thay! Do sức bổn nguyện
mà đến giáng hiện. Nguyện rủ lòng gia trì, tiếp nhận lời thỉnh cầu này và các vật
cúng nhỏ nhoi. Do đại từ bi, hãy rủ lòng tiếp nhận”. Khi đó, A-xà-lê do
muốn thực hiện Kim Cang sự, lại dùng đao Vô Động Huệ để tự trừ chướng nơi thân,
chuyển [bản thân] thành Kim Cang Tát Đỏa hàng phục ma nghiệp. Vẫn dùng huệ đao
để kết giới ở các phương. Lại còn dùng Như Lai đại giới chân ngôn và ấn để kết
giới chung quanh, dùng tứ đại hộ[128]
để thủ hộ mỗi phương. Lại trì Vô Kham Nhẫn Đại Hộ[129]
để đều thủ hộ trọn khắp.
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Phàm tạo Mạn-đồ-la, từ đầu trở đi đều dùng
chân ngôn của ngài Bất Động, hoặc [dùng chân ngôn của] ngài Hàng Tam Thế để hộ
trì cuộc đất ấy. Trong khoảng ấy, mỗi lúc trì tụng, đều đúng pháp kết giới,
xong việc sẽ giải giới. Tới đêm tác pháp, lại kết giới đầy đủ trong phạm vi của
kim cang tuyến (tức chỉ ngũ sắc đã được gia trì chăng quanh các cọc kim cang để
ấn định ranh giới của đàn tràng). Nơi đàn làm quán đảnh hoặc hộ-ma, ở phía
ngoài Mạn-đồ-la, nên chăng dây quanh khu vực ấy, sao cho thông với phía trong,
và xếp đặt cửa ra vào. Ở phía ngoài Mạn-đồ-la, đều dùng kim cang tuyến để vây
quanh làm ranh giới. Tới khi cúng dường, hộ-ma, cũng nên vận tâm. Ở nơi cửa ra
vào, nâng dây kim cang để qua lại, thông đến chỗ chư tôn. Lại nữa, khi kết giới,
chỉ nên ở chỗ tòa của mình để tác pháp như lệ thường. Nếu muốn đi nhiễu một
vòng để kết giới trọn khắp thì cũng đều thành tựu. Nếu đã kết giới, mà bỗng có
vọng niệm thì giới bị phá, hoặc đủ thứ ma sự dấy lên, hãy liền trì niệm Vô Kham
Nhẫn Đại Hộ. Nếu muốn cho hết thảy mọi lúc đều không có chướng ngại, đối với chỗ
kết giới ấy và các vật cúng, đều trước đó dùng Đại Hộ để thủ hộ. Sau đó, chướng
dấy lên, lại nên sử dụng [chân ngôn ấy để diệt trừ]”.
Kế đó, hãy nên làm lễ, dâng
nước Át-già, dùng đại huệ đao[130]
để rảy khắp các vật cúng dường, tịnh hóa bằng tâm pháp giới chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu lúc dâng hương bôi, hãy nên trụ trong Đồ Hương chân ngôn để trì. Lúc theo
thứ tự cúng dường, lại nhất nhất dùng chân ngôn của mỗi vị tôn thánh ấy để gia
trì, hoặc thông, hoặc biệt, hoặc dùng chân ngôn mà chính mình đang trì tụng.
Các vật cúng khác cũng phỏng theo đó. Lại nên thực hiện pháp “tâm cúng dường”, trì minh chú của
ngài Hư Không Tạng, và dùng kim cang A-lợi-sa để ngâm tụng, tán thán. Kế đó, ra
ngoài để thí thực cho quỷ thần Khoáng Dã. Theo đồ hình, ngoài cửa Đông thí thực
cho Tỳ Na Dã Ca, ngoài cửa Nam thí cho Nghiệt Lật Hà (Graha); đó là loại quỷ dựa
người. Ngoài cửa Tây, thì cho Nghiệt Ra, đó là quỷ gây tật dịch. Ngoài cửa Bắc,
thí cho Đồ Cát Nhĩ (Ḍākinī). Ở hai bên
ngoài cửa đều đặt bốn vị trí. Nhưng kinh Cù Hê dạy: “Giai thị La Sát, Tỳ Xá Xà, Bộ Đa, chư thực đạm huyết nhục giả, chủng
chủng phi nhân chi loại, hoặc cư địa giả, hoặc cư thụ lâm giả” (Đều là La Sát, Tỳ Xá Xà (Piśāca)[131],
Bộ Đa (Bhūta)[132],
các loại phi nhân ăn nuốt máu thịt, hoặc sống trên mặt đất, hoặc ở trong rừng
cây). Và các loài hễ tâm nghĩ tới, đều tùy theo phương vị của họ để thí trọn khắp.
Hết thảy thức ăn dùng cúng dường trong Mạn-đồ-la đều gom chung lại một chỗ. Và
các thứ như hương, hoa v.v… đều chia ra [theo từng loại], đặt chung một chỗ.
A-xà-lê hãy nên khởi tâm pháp thí đại bi vô hạn, từ trong Du Già, quán tưởng đủ
loại vật thọ dụng, cũng dùng minh chú của ngài Hư Không Tạng để gia trì rồi rải
trọn khắp. Các quỷ thần ấy thọ thực, sẽ không gây chướng cho Mạn-đồ-la. Hãy nên
khởi đầu từ phương Đông, kế đó là qua các phương Nam, Tây, Bắc. Trọn hết một
vòng như thế xong, lại thí ở phương Đông Bắc; kế đó qua các phương Đông Nam,
Tây Nam, và Tây Bắc. Lại hết một vòng xong, lại đến phía Đông của đàn để thí thực
cho quỷ thần ở phương trên. Sau đó, qua phương Tây của đàn để thí thực cho quỷ
thần ở phương dưới. Nói chung là tụng [chân ngôn] ba lần vào thức ăn. Trong các
pháp sự, pháp này khó nhất, vì trong lúc ấy, có thể hiện ra đủ loại hình dạng
đáng sợ nhất, hoặc nghe sấm rền ầm vang, hoặc tiếng dã can (chó rừng) tru v.v…
đủ loại tướng lạ. A-xà-lê hãy nên tự khéo an tâm. Lại nữa, khi sắp thí, trước
đó, hãy nên phòng hộ thân này, khiến cho mỗi mỗi đều đúng như pháp. Nếu họ ăn hết
rồi lại muốn thêm, hãy lại thí tiếp, cốt sao dồi dào khiến cho họ hoan hỷ. Nếu
vật dụng ít, chỉ thuận theo những thứ có được mà thôi!
Phàm vật để dâng hiến trong
đàn tràng, cũng nên dùng tâm bình đẳng, chớ nên có thiếu sót! Kinh Cù Hê dạy: “Nhược hành thực thời, thác ngộ, khuyết thiếu,
tức ưng bổ chi, nhưng khất hoan hỷ. Sở hành thực loại, nhược bất biến giả, ưng
dĩ dư vật sung số dã” (Nếu lúc hành thí thực mà có sai lầm, thiếu sót,
hãy nên bổ sung liền, vẫn xin họ hoan hỷ. Các vật thực để thí nếu chẳng trọn khắp,
hãy nên dùng vật khác thêm vào cho đủ số). Thí thực cho các phương đã xong, rửa
tay, sái tịnh, ở trước cửa [Mạn-đồ-la] đốt hương cúng dường. Kế đó, vào trong
[đàn tràng], dâng Át-già, hương đốt, vận tâm dâng cúng y phục để cúng thí. Sau
đấy, trụ nơi tòa Du Già, dùng ngũ luân tự (A, Ra, Va, Ha, Kha) để hộ trì thân,
trên đầu đặt Bách Quang Biến Chiếu Vương (Đại Nhật Như Lai). Dùng mắt vô cấu
quán chữ “bất sanh” (chữ A) nơi
hoa đài trong tự tâm rồi mới thực hiện phổ môn trì tụng. Trước hết, nơi tâm
nguyệt Tỳ Lô Giá Na, hiện chân ngôn rạng ngời. Sau đó, tụng trì và kết mật ấn
trọn khắp trong thai tạng xong; kế đó, tới chư tôn thuộc viện thứ hai cho đến hết:
Hoặc đối trước từng vị mà quán tưởng, trì tụng, hoặc tưởng tự thân là vị Bổn
Tôn ấy, trong tâm nguyệt hiện chữ chân ngôn để tụng trì, cho tới nhanh chóng hiện
thân Mạn-đồ-la để tụng trì, tùy thuộc thế lực quán tâm của hành giả. Nếu chẳng
thể làm như vậy, hãy nên nhất tâm tụng chân ngôn của Bộ Chủ một trăm lần. Đối với
các vị thượng thủ khác, đều tụng chân ngôn [của mỗi vị] bảy lượt, cũng kết ấn của
các Ngài. Chi
tiết thì như được nói trong phần Thứ Tự Cúng Dường.
A-xà-lê tác pháp như thế
xong xuôi, lại dùng tâm chí thành đảnh lễ chư tôn. Sau đấy mới triệu tập các đệ
tử, sao cho mỗi người đều vào đàn tràng. Trước đó, dùng nước thơm để sái tịnh,
trao cho họ hương bôi để xoa lên tay. Kế đó, trao cho tịnh hoa, vì họ tuyên nói
đại lược thật nghĩa của Bồ Đề tâm trong phẩm Trụ Tâm, khiến cho họ biết chỗ tự
quy y, chân chánh phát tâm, chí thành, trân trọng nghĩ nhớ hết thảy chư Phật.
Vì sao vậy? Do hành giả có thể phát khởi Phật tâm tức là Phật tử, sẽ nhận lấy địa
vị pháp vương tử quán đảnh, sanh trong chủng tánh của Như Lai. Trong hành động,
cư xử, đều chẳng quên chư Phật. Nay trong kinh này, mỗi khi sắp nói hết thảy
các chân ngôn, liền nói “quy mạng trọn
khắp hết thảy chư Phật” chính là do ý nghĩa này[133].
Nói “tịnh Phật” thì trong pháp
Thanh Văn, A La Hán cũng được gọi là Phật. Trong các kinh Đại Thừa chưa liễu
nghĩa cũng có ý nghĩa “thành Phật”,
nhưng chẳng được gọi là “giá tịnh”.
Nay nói thẳng vào vị Phật thường hằng trong bổn tâm, cho nên dùng chữ Tịnh để
phân định. Dịch sát nghĩa theo bản tiếng Phạn, hãy nên nói “Phật gia” là Phật Bộ, tức là hàm
nghĩa “chủng tộc, bộ loại”.
Khi đó, A-xà-lê quán ngũ
luân[134]
nơi thân đệ tử, dùng năm chữ để gia trì, kiêm đặt chữ A nơi hoa đài trong tâm,
khiến cho họ có cùng cái Thể với đức Đại Nhật. Dùng Nhập Phật Tam-muội-da ấn để
ấn lên đỉnh đầu họ. Kế đó dùng Pháp Giới Sanh Ấn để ấn tâm. Lại kết Chuyển Pháp
Luân ấn để ấn phía trên rốn, mỗi nơi đều tụng chân ngôn ba lượt. Kế đó, chuyển
chữ A trong tâm thành chữ Phạ, kết Kim Cang Tát Đỏa ấn để ấn các chi phần. Đó gọi
là “ngũ xứ”. Sở dĩ làm như vậy
là vì muốn thành tựu sự nghiệp kim cang cho họ vậy. Khi đó, A-xà-lê cũng nên
dùng các ấn chú như Tam-muội-da v.v… để tự hộ trì.
Sau đó, dùng vải mới trắng
sạch, hoặc các thứ lụa là khác; trước hết, dùng chân ngôn Bất Động để đúng như
pháp tịnh hóa [vải hay lụa ấy]. Lại dùng chân ngôn vương của bổn bộ để ba lượt
gia trì. Như làm Đại Nhật Mạn-đồ-la, liền dùng chân ngôn Tỳ Lô Giá Na; đối với
Liên Hoa Thủ và Kim Cang Thủ, cũng nên chuẩn theo đó. Dùng lụa màu thanh tịnh ấy
để phủ kín mặt đệ tử. Hãy nên khởi tâm từ bi hộ niệm sâu xa, kề tai nói với họ
về tam-muội-da giới, đừng để cho kẻ khác chưa nhập đàn nghe tiếng. Bài kệ ấy sẽ
được nói trong phẩm Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh. Lại quán trên đỉnh đầu người
ấy có một chữ Ra (र), tưởng trên chữ ấy có chấm. Vì thế nói “nghiêm dĩ Đại Không điểm” (trang nghiêm bằng cái chấm Đại
Không), đó chính là chữ Lãm (Ram, रं). Bốn phía chữ ấy có vầng sáng như ngọn lửa, giống như tràng
hoa liên hoàn chẳng dứt. Từ trong chữ ấy, lại lưu xuất quang minh màu trắng, giống
như ánh sáng của vầng trăng tròn thanh tịnh. Do được tâm tịnh pháp giới ấy gia
trì, có thể trừ các chướng trong và ngoài.
Kế đó, thầy dẫn [các đệ tử]
tới tầng cửa thứ nhất là chỗ hai long vương Tốn Na và Ưu Ba Tốn Na thủ vệ, khiến
cho họ dừng ở ngay nách cửa, chẳng được tiến lên. Thầy sẽ vì họ kết tam-muội-da
ấn, tụng chân ngôn ấy ba lượt, kết ấn trên hoa, bảo đệ tử dùng tâm chí thành,
hướng về đạo tràng mà rải. Tùy thuộc hoa rơi vào chỗ nào, sẽ biết hành nhân đã
có nhân duyên xưa kia với pháp môn và thiện tri thức ấy, liền nương theo phương
tiện môn ấy để tiến nhập, tu hành.
Kinh Cù Hê dạy: “Tương nhập đàn thời, A-xà-lê ưng tác thị
ngôn: ‘Ngã mỗ giáp như pháp tác thử Mạn-đồ-la, tương đệ tử nhập, tùy kỳ phước đức,
chủng tánh, cập dữ thành tựu sở kham pháp khí, duy nguyện ư thử Mạn-đồ-la
trung, thị hiện kỳ tướng’. Ký tán hoa dĩ, thứ ưng khai diện, linh chiêm đổ đạo
tràng, dĩ hoan hỷ tâm, nhi cáo chi viết: ‘Nhữ kim quán thử diệu Mạn-đồ-la, thâm
sanh kính tín. Nhữ dĩ sanh chư Phật gia, chư minh tôn đẳng đồng cộng gia hộ. Nhất
thiết cát tường, cập dữ Tất Địa giai hiện tiền. Thị cố, kiên trì tam-muội-da giới,
ư chân ngôn pháp giáo, ưng cần tu tập’. Thứ lệnh đệ tử dĩ hương, hoa đẳng phổ
cúng dường Mạn-đồ-la thánh chúng. Tức ư đạo tràng, thọ dữ bổn chân ngôn ấn,
linh tọa nhất xứ tụng chi. Thứ dẫn dư nhân nhập. Phàm A-xà-lê đương quán hoa sở
chí xứ, biện kỳ tánh loại. Nhược đọa Phật thủ thượng, Thế Tôn Phật Đảnh cập hào
tướng đẳng. Đọa diện thượng, ưng thành tựu Phật Nhãn. Tại thân trung phần,
đương tri thành tựu chư tâm. Nhược đọa hạ phần, thành tựu chư sứ giả đẳng. Hựu
tùy Phật thân thượng, trung, hạ phần, tri thượng, trung, hạ thành tựu. Liên
Hoa, Kim Cang diệc nhiên. Tự dư chư tôn, đản tri thượng, trung, hạ chi tướng.
Nhược hoa đọa khứ bỉ tôn viễn giả, cửu viễn phương nãi thành tựu. Nhược đọa
Cúng Dường Viện, tùy sở thuộc chi tôn, thọ bỉ chân ngôn. Nhược đọa lưỡng tôn
chi gian, đương quán kỳ viễn cận. Nhược tiên đọa nội viện tức di xuất ngoại viện
giả, bỉ nhân tín tâm bất cụ. Nhược cưỡng trì tụng, đắc hạ thành tựu. Đọa chư giới
đạo cập hành đạo viện giả, bỉ nhân vô quyết định tâm, bất hoạch thành tựu. Nhược
bỉ dục cánh trịch giả, ưng vị tác hộ-ma, nhiên hậu trịch chi” (Khi sắp vào đàn, vị A-xà-lê hãy nên nói như thế này: “Con tên là… đúng pháp
tạo Mạn-đồ-la này, dẫn đệ tử vào, tùy theo phước đức, chủng tánh, và pháp khí
đáng thành tựu, kính xin thị hiện tướng ấy trong Mạn-đồ-la này”. Đã rải hoa
xong; kế đó, nên bỏ khăn bịt mặt, dạy đệ tử chiêm ngưỡng đạo tràng, dùng tâm
hoan hỷ bảo rằng: “Nay ngươi quán Mạn-đồ-la mầu nhiệm này, hãy sanh lòng kính
tín sâu xa. Ngươi đã sanh trong nhà chư Phật, các vị minh tôn cùng gia hộ, hết
thảy cát tường cùng với Tất Địa đều hiện tiền. Do vậy, hãy giữ vững tam-muội-da
giới, hãy nên siêng năng tu tập pháp giáo chân ngôn”. Tiếp đó, bảo đệ tử dùng
các thứ như hương, hoa v.v… để cúng dường trọn khắp thánh chúng trong Mạn-đồ-la.
Liền ở ngay trong đạo tràng ấy, trao truyền chân ngôn và ấn của pháp ấy, bảo đệ
tử ngồi một chỗ mà tụng. Kế đó, dẫn người khác vào đàn. A-xà-lê nên quán chỗ
hoa rơi xuống để biện định tánh loại. Nếu rơi vào đầu Phật, sẽ thành tựu Phật Đảnh,
hào tướng v.v… Rơi trên mặt, sẽ thành tựu Phật Nhãn. Ở phần giữa thân, sẽ biết
là thành tựu các tâm. Rơi vào phần dưới, thành tựu các sứ giả v.v… Lại nữa, rơi
vào các phần thượng, trung, hạ nơi thân Phật, sẽ biết là thành tựu thượng,
trung, hạ. Đối với Liên Hoa và Kim Cang cũng thế. Đối với chư tôn khác, chỉ biết
tướng thượng, trung, hạ. Nếu hoa rơi cách xa vị tôn thánh ấy, sẽ lâu xa mới
thành tựu. Nếu rơi vào Cúng Dường Viện, sẽ tiếp nhận chân ngôn của vị tôn thánh
thuộc viện ấy. Nếu rơi vào giữa hai vị tôn thánh, hãy xem gần vị nào hơn. Nếu
trước là rơi vào nội viện rồi lăn ra ngoại viện, tức là người tín tâm không trọn
đủ, nếu cưỡng trì tụng, sẽ đắc hạ thành tựu. Hoa rơi vào phần đường ranh và chỗ
để đi lại, người đó chẳng có tâm quyết định, chẳng đạt được thành tựu. Nếu người
ấy muốn ném lại, hãy nên làm hộ-ma rồi mới ném). Các điều khác như kinh ấy đã
nói.
Kế đó, hãy vì các đệ tử làm
Tịch Nhiên Hộ-ma, tức là pháp Phiến Để Ca (Śāntika,
pháp Tức Tai), cũng có thể dịch là Tức Tai. Đó là một chi phần kế tiếp
phần này. Nay trong lời đáp của Như Lai, do xét theo thứ tự thực hiện, nói chi
phần Gia Trì Răn Dạy chưa xong, liền ở đây nói xen vào pháp hộ-ma, hoặc có thể
kết hợp với các pháp như Quán Đảnh v.v… để gộp thành một loại chi phần vậy.
Kinh nói “tác tịch nhiên hộ-ma, hộ-ma y pháp trụ”:
Hộ-ma (homa) được nói trong câu đầu, ý nói “hãy nên thực hiện pháp hộ-ma này”.
Câu kế là nói về người hộ-ma, tức là răn truyền người tác pháp: Nếu lúc làm hộ-ma,
hãy nên vâng theo pháp mà trụ. Do vậy, lặp lại [chữ hộ-ma]! Trong đó, dùng pháp
Du Già để gia trì tự thân, cho đến phụng thỉnh, kết giới v.v… đều phải vâng
theo phương tiện niệm tụng. Do đó nói “đương
y pháp trụ” (hãy nên nương theo pháp mà trụ).
(Kinh) Sơ tự trung thai tạng, chí đệ nhị chi ngoại, ư Mạn-đồ-la trung,
tác vô nghi lự tâm. Như kỳ tự trửu lượng, hãm tác quang minh đàn, tứ tiết vi
châu giới, trung biểu Kim Cang ấn. Sư vị chi hữu phương, hộ-ma cụ chi phần.
(經)初自中胎藏,至第二之外,於漫荼羅中,作無疑慮心。如其自肘量,陷作光明壇,四節為周界,中表金剛印,師位之右方, 護摩具支分。
(Kinh: Trước từ Trung Thai Tạng, ra ngoài tầng thứ hai, ở trong
Mạn-đồ-la, khởi tâm chẳng ngờ lo. Như lượng khủy tay mình, đào rãnh lập đàn
sáng, ranh giới rộng bốn lóng, giữa đặt ấn Kim Cang. Ở bên phải của thầy, đủ
chi phần hộ-ma).
Phần kinh văn trên đây là mật
ngữ, do Thích Ca Quyến Thuộc Viện là tầng thứ hai [của Thai Tạng Mạn-đồ-la, nên
nói là “từ trung Thai Tạng ra đến
ngoài tầng thứ hai”]. Ở phía ngoài đại đàn, [xếp đặt sao cho chỗ hộ-ma sẽ]
tương ứng với Trung Thai Tạng [của Thai Tạng Mạn-đồ-la]. A-xà-lê lại ở bên
ngoài, mặt hướng về [Thai Tạng] Mạn-đồ-la. Ở giữa hai vị trí ấy, hãy nên đặt hỏa
đàn. Bản tiếng Phạn cố ý nói bí mật rằng: “A-xà-lê Mạn-đồ-la trung tác hộ-ma đàn” (A-xà-lê lập đàn hộ-ma
trong Mạn-đồ-la). Nếu không được thầy truyền dạy, phần nhiều sẽ hiểu sai ý chỉ,
có thể sẽ tạo [đàn hộ-ma] ngay trong Mạn-đồ-la. Nay đàn để quán đảnh lại phải đối
diện trực tiếp với Trung Thai, có thể dời đàn [hộ-ma] này khá gần với phía Nam
[của Thai Tạng Mạn-đồ-la] cho đến góc Tây Nam, đều là ba vị trí đối ứng với
nhau, xét theo lý chẳng sai lẽ! “Vô nghi
lự tâm” có nghĩa là Tức Tai, hãy nên nhất duyên bất loạn mà làm. Nếu
hành giả trụ trong môn chữ Xa (श, śa) quán các pháp thường
vắng lặng, các tâm “ngờ vực, hối hận, mong mỏi” đều hết, cái chướng trừ sạch;
đó chính là bổn ý của Tịch Nhiên hộ-ma. Trong cách làm Mạn-đồ-la, [phân lượng]
dựa theo chiều dài một khủy tay của chính mình. Kích thước mỗi bề [của hỏa đàn]
là một khủy tay, có chiều sâu bằng một nửa. [Quanh đàn] vẽ đường ranh giáp
vòng, rộng bốn lóng tay, chiều cao cũng như thế. Đàn hộ-ma thì vuông, tròn, tam
giác, tùy theo sự nghiệp mà hoạch định, nhưng trong sự tác pháp ở đây [do là
truyền pháp quán đảnh], hãy nên dùng đàn vuông. Dùng Cù-ma-di (gomatī, phân bò), Cù-mô-đát-ra (gomūtra, nước tiểu bò) để tô trát, rảy nước
thơm.
“Trung biểu Kim Cang ấn” tức là trong lò nên vẽ hình bạt-chiết-la
(vajra, chày kim cang). Vì sao vậy? Hộ-ma là lửa trí huệ của Như Lai, có thể
thiêu rụi hết thảy tai ương bất ngờ sanh bởi nghiệp nhân duyên [khiến cho] hết
sạch, chẳng còn thừa sót! Đàn vuông gọi là Đại Nhân Đà La, có nghĩa là “tâm vương”, ý nói: Cái ấn lửa trí huệ
ấy tột cùng nguồn đáy, sanh từ Kim Cang tánh. Do vậy, giống như kim cang chẳng
thể phá hoại! Tới phẩm Thế Xuất Thế Hộ Ma trong phần sau, đức Thế Tôn sẽ tự nói
rộng nhân duyên. Nếu hành giả Chân Ngôn chỉ làm Thế Đế hộ-ma, chẳng hiểu mật ý
trong ấy, há chẳng phải là xen lạm cách cúng tế lửa của Vi Đà ư? Vì thế, người
dịch nói kèm thêm cái tên trí huệ, ngõ hầu cả hai cách giải thích theo ý nghĩa
cạn và sâu đều được cùng nêu ra!
Kinh nói: “Sư vị chi hữu phương, hộ-ma cụ chi phần”,
tức là giả sử cửa của đại Mạn-đồ-la mở về hướng Tây, hỏa đàn nên đặt ở phía Tây
của đại đàn. A-xà-lê lại ở phía Tây của hỏa đàn, mặt hướng về phía Đông mà ngồi.
Các thứ vật dụng cần dùng cho hộ-ma được xếp ở phía Nam của thầy. Củi để hộ-ma
nên dùng nhũ mộc (cây có nhựa thơm), như gỗ dâu chẳng hạn. Hoặc dùng cành ngưu
tất[135]
cắt thành đoạn dài chừng mười hai ngón tay. Cần phải chọn loại tươi nhuận, mới
đẵn. Chọn loại gỗ ngay ngắn, thẳng thớm, hãy nên xem xét trên dưới để xếp cùng
hướng với nhau. Dùng nước thơm sái tịnh, [xếp] sao cho phần gốc hướng về thân
mình. Nếu lúc sắp đốt, hãy nên dùng sữa, lạc, tô và mật bôi lên hai đầu [mỗi
khúc củi] rồi ném vào lò. Hoặc dùng trầm thủy hương, có kích thước dài chừng bốn
lóng tay, to bằng ngón cái, bôi hương tô hợp, thiêu một trăm lẻ tám lượt thì
càng hay hơn. Các thức ăn và hoa, hương v.v… đáng nên dùng để hiến cúng trong Mạn-đồ-la
đều nên sắp đặt, dùng Biện Sự chân ngôn để đúng pháp sái tịnh, đặt bên phải chỗ
ngồi. Bình đựng Át-già nên đặt bên trái. Các thứ thức ăn để hiến cúng đều nên
dùng tô, lạc v.v… để hòa trộn, cùng đặt trong cùng một đồ đựng. Cũng dùng tô, dầu
v.v… hòa trộn, cùng chứa trong một đồ đựng khác, thảy đều chuẩn bị đầy đủ.
Nếu giải thích theo cách
sâu xa, bí mật, thì chi phần Hộ-ma có nghĩa là các nhân duyên. Do các nhân
duyên ấy mà có thể sanh ra tai ương, hoạn nạn trong ba cõi. Nay lại dùng đó làm
nguồn đốt cho lửa trí huệ, hòng cúng dường hết thảy các thân Phổ Môn, tăng ích
thế lực chẳng thể nghĩ bàn. Kinh dạy: “Phiền
não vi tân, trí huệ vi hỏa, dĩ thị nhân duyên thành Niết Bàn phạn, linh chư đệ
tử tất giai cam thị” (Phiền não làm củi, trí huệ làm lửa. Do nhân duyên ấy,
nấu thành cơm Niết Bàn, khiến cho các đệ tử thảy đều nếm vị ngon ngọt) chính là
ý nghĩa này.
(Kinh) Học nhân trụ kỳ tả, tôn cứ, tăng kính tâm, tự phu Cát Tường thảo,
tạ địa dĩ an tọa. Hoặc bố chúng thái sắc, đồng huy cực nghiêm lệ, nhất thiết hội
sự thành, thị lược hộ-ma xứ. Châu táp bố tường mao, đoan tọa hỗ tương gia, hữu
toàn giai quảng hậu, biến sái dĩ hương thủy, tư duy Hỏa Quang Tôn, ai mẫn nhất
thiết cố. Ưng đương trì mãn khí, nhi dĩ cúng dường chi.
(經)學人住其左,蹲踞增敬心。自敷吉祥草,藉地以安坐,或布眾綵色,彤輝極嚴麗,一切繢事成,是略護摩處,周匝布祥茅,端坐互相加,右旋皆廣厚,遍灑以香水,思惟火光尊,哀愍一切故,應當持滿器, 而以供養之。
(Kinh: Người học trụ bên trái, ngồi xổm, tâm thêm kính. Tự trải
cỏ Cát Tường, để an tọa trên đất. Hoặc sử dụng nhiều màu, rực rỡ cực đẹp đẽ. Vẽ
vời hết thảy xong. Lược làm chỗ hộ-ma, trải khắp cỏ Cát Tường, ngay ngắn gác
lên nhau, theo chiều phải rộng dày. Dùng nước thơm rưới khắp, tư duy Hỏa Quang
Tôn, do xót thương hết thảy. Nên cầm đồ đựng đầy, để thực hiện cúng dường).
Lại nữa, khi vì đệ tử tác
pháp, ở phía Bắc của A-xà-lê, lót bằng cỏ tranh tươi, bảo họ ngồi xổm [trên
đó]. A-xà-lê cũng nên ngồi trên đệm cỏ tranh, đừng lót thêm các loại nệm. Nhưng
thọ dụng cỏ tranh tươi thì đại lược có ba nghĩa:
- Một, cỏ có tánh chất khiết
tịnh, lìa cảm xúc vui sướng, có thể trừ khử cái tâm hôn trầm, giải đãi, buông
lung, kiêu mạn của hành giả.
- Hai, đấy là loại cỏ cát
tường, đức Thế Tôn dùng nó để trải ngồi mà chứng Bồ Đề. Do vậy, có thể trừ hết
thảy các chướng.
- Ba, dùng cỏ cát tường để
biểu thị huệ tánh. Loại cỏ này hai bên rìa lá đều có gai nhọn. Nếu ngồi, nằm hoặc
cầm, nắm mà chẳng có phương tiện, đâm ra sẽ bị thương. Nếu thuận tay khéo giữ
gìn, sẽ chẳng bị hại. Hết thảy các pháp cũng giống như thế, nếu thuận theo đế
lý để quán hết thảy trần lao, sẽ đều có tác dụng bổn tánh thanh tịnh. Nếu đánh
mất phương tiện, sẽ có thể làm hại trí thân. Do vậy, dùng nó làm biểu tượng cho
pháp môn.
Nếu tạo Mạn-đồ-la trên tảng
đá lớn, hoặc trên gác nhiều tầng, chẳng thể đào bới để làm lò, hãy nên dùng các
màu sắc để vẽ [lò hộ-ma], sao cho tột bậc trang nghiêm rực rỡ, liền có thể sử dụng.
Đó là “lược tác hộ-ma xứ” (đại
lược làm chỗ hộ-ma). Nếu Mạn-đồ-la được tạo trong phòng chật hẹp, hãy nên ra
ngoài, hướng vọng chỗ đạo tràng, đúng pháp làm lò. Bốn phía chung quanh lò, đều
dùng cỏ tranh tươi trải, xoay theo chiều phải, theo thứ tự đều xếp đè cỏ lên
nhau cho ló đầu ra. Các điều khác như trong phẩm Hộ Ma sẽ nói. Lại nên xếp cỏ
dày đặc quanh lò, đừng để lộ đất ra, dùng nước thơm rải khắp. Hãy nên dùng
[chân ngôn] Thành Biện Chư Sự để gia trì, và dùng chân ngôn rảy tưới đất như đã
nói trong phần trước. Trong hành pháp hộ-ma này, trước hết là A-xà-lê cúng dường,
trì tụng trong Mạn-đồ-la xong; kế đó, hãy nên ra ngoài để thực hiện hỏa pháp:
[A-xà-lê] hướng về phía
Đông, ngồi trên cỏ Cát Tường. Trước hết, lấy củi nhũ mộc khô, đặt ở trong lò,
dùng chất tô rưới lên để đốt. Sau đó, đặt củi ướt (củi còn tươi). Dùng chân
ngôn Biện Sự để trừ khử cấu uế và sái tịnh xong, hãy nên trụ trong Du Già, dùng
chủng tử của Hỏa Thiên để chuyển [tự thân] thành vị tôn thánh ấy. Ở trong Mạn-đồ-la
hình tam giác, đối với mười hai vị hỏa tôn được chỉ bày trong phẩm sau, hãy chọn
lấy một vị tương ứng với sự nghiệp (tức là ương ứng với pháp sự mà A-xà-lê muốn
thực hiện). Đã tương ứng rồi, hãy nên quán thân Hỏa Tôn và thân chính mình chẳng
hai, chẳng khác. Như Hỏa Tôn, hãy nên biết Hỏa Mạn-đồ-la cũng thế. Hãy nên quán
ba chỗ đều cùng một tướng; sau đấy, dùng chân ngôn của Hỏa Thiên để phụng thỉnh.
Kinh Tô Tất Địa dạy: “Dục phụng thỉnh
thời, tiên tác thị ngôn: - Ngã kim phụng thỉnh Hỏa Thiên chi thủ, thiên trung
chi tiên, phạm hạnh sở tông kính giả, duy nguyện giáng lâm thử xứ, thọ nạp hộ-ma”
(Khi muốn phụng thỉnh, trước hết, hãy nói như thế này: Con nay phụng thỉnh vị đứng
đầu Hỏa Thiên, là bậc tiên trong các trời, được bậc phạm hạnh tôn kính, kính
mong giáng lâm chốn này, nhận lãnh hộ-ma).
(Kinh) Nhĩ thời, thiện trụ giả, đương thuyết thị chân ngữ: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, a yết na duệ, sa ha.
(經)爾時,善住者 ,當說是真語 :南摩三曼多勃陀喃
阿揭娜曳莎訶(नमः समत बुद्धानां अखये स्वाहा, Namaḥ samata buddhānāṃ akhaye, svāhā).
(Kinh: Lúc ấy, bậc khéo trụ, sẽ nói chân ngôn
này: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a yết na duệ, sa ha).
Câu đầu tiên là quy mạng
chư Phật, ý nghĩa như đã nói trong phần trước. Câu thứ hai, tức “a yết na duệ” (akhaye) có nghĩa là Lửa.
Ở đây, dùng chữ A tối sơ làm chủng tử, do hết thảy các pháp vốn chẳng sanh, tức
là giống như kim cang trí thể. “Nga”
có nghĩa là hành, do các pháp vốn bất sanh, tuy trọn đủ vạn hạnh mà vô sở hành.
Do vậy gọi là “vô sư tự giác”
(không có thầy mà tự giác). Nếu là vô sư tự giác, tức là giống như Đại Không trọn
khắp hết thảy mọi nơi. Vì thế, có cùng Thể với chữ Na. Do các pháp không thầy,
vô hành, tự trọn khắp hết thảy mọi nơi; vì vậy, ở trong tam giới bất động mà đạt
tới Tát Bà Nhã (Sarvajña). Vì thế, không có thừa và người nương vào cái thừa ấy, bèn
là Đại Thừa. Do vậy, cũng thêm âm thanh tam-muội, ngụ ý: Thừa ấy Định và Huệ
cân bằng. Khi chư Phật hành Bồ Tát đạo, đều dùng lửa trí huệ như thế để thiêu đốt
hết thảy tâm cấu, quang minh chánh pháp hừng hực. Do vậy, nói như thật bèn
thành chân ngôn. Nếu lúc thỉnh triệu (thỉnh vời), hãy thêm chữ Y Hệ Y Hệ. Tới
lúc tống tiễn, thì thêm chữ Yết Xa Yết Xa. Ấn tướng [của chân ngôn ấy] như
trong phẩm sau sẽ nói.
Đã thỉnh triệu rồi, trước hết,
dùng nước thơm Át-già để sái tịnh ba lượt, ba lần dâng nước súc miệng, liền lấy
các vật như ngũ cốc, tô, lạc v.v…, dùng chân ngôn đã nói trên đây để ba lượt hộ-ma
cúng dường Hỏa Thiên. Phàm khi hộ-ma, đều là trước hết dùng thìa to đựng đầy chất
tô sạch để đốt. Kế đó, đốt củi. Kế đó là hộ-ma cơm. Kế đến là các loại hạt
lương thực, hoặc dùng cháo sữa. Kế đó, lại dùng hoa sen v.v… để tùy ý đốt.
Trong khoảng giữa, các vật thí đều dùng muỗng nhỏ. Vì thế, kinh nói: “Ưng đương trì mãn khí, nhi dĩ cúng dường
chi” (Hãy nên dùng đồ đựng chứa đầy [vật cúng] để cúng dường). Cúng dường xong, lại
rảy nước thơm và rót Át-già ra, như người ăn xong dùng nước súc miệng, lại dùng
hương, hoa v.v… để cúng dường. Hãy nên vận tâm tiễn Hỏa Thiên đến tòa của vị ấy.
Kế đó, hãy nên phụng thỉnh
chư tôn. Trước là lấy một bông hoa, dùng Thành Biện Chân Ngôn để trừ khử nhơ uế,
tạo thanh tịnh, và dùng chân ngôn của Bộ Chủ để gia trì. Hai tay chắp lại ngang
ngực, tâm nghĩ, miệng nói: “Kính mong
chư tôn gia trì chỗ này, nhận sự cúng dường nhỏ bé của con”. Liền cách
lò, ném [bông hoa] ấy hướng về Mạn-đồ-la. Tùy thuộc xa hay gần, khi sắp ném,
trước đó, hãy quán hoa tới trọn khắp tọa vị của hết thảy chư tôn, tạo thành tòa
ngồi tương ứng với từng loại. Lại dùng Thành Biện Chư Sự để khử cấu, tác tịnh
trong lò, rồi mới thỉnh chư tôn. Hoặc dùng chân ngôn của mỗi vị chư tôn để thỉnh
riêng từng vị, hoặc tùy theo quyến thuộc của một bộ [mà thỉnh]. Cho đến dùng
chân ngôn vương để thỉnh cùng lúc.
Hơn nữa, lò lửa ấy đã đồng
hỏa giới, khi thỉnh, chỉ quán chư tôn chẳng rời bổn tọa mà đều giáng lâm. Lúc
xong việc, cũng vô tướng trở về chỗ của các Ngài. Mỗi khi hộ-ma cho một vị, liền
dùng nước thơm rảy vào lò, và dâng nước súc miệng, dùng chân ngôn Tịch Tai sẽ
được nói trong phần sau tụng bảy lượt để cúng dường. Nhất nhất làm như thế
xong, lại hộ-ma một trăm lẻ tám lần, lại dùng đồ đựng chứa đầy chất tô đốt một
lần nữa. Còn như chẳng thể làm như thế, hãy nên cúng dường chung một trăm lẻ
tám lần, hoặc một ngàn tám mươi lần, niệm rằng: “Kính mong chư tôn cùng nhận tất cả những thứ cúng dường này”. Kế
đó, nên xin trọn khắp [chư tôn] hoan hỷ.
(Kinh) Phục dĩ tam-muội thủ, thứ trì chư đệ tử, huệ thủ Đại Không chỉ,
lược phụng trì hộ-ma. Mỗi hiến, triếp thành tụng, các biệt chí tam thất, đương
trụ từ mẫn tâm, y pháp chân thật ngôn: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ma ha
phiến để nghiệt đa, phiến để yết ra, bát ra thiểm ma đạt ma niết nhã đa, a bà
phạ, tát phạ bà phạ, đạt ma tam mạn đa, bát ra bát đa, sa ha.
(經)復以三昧手,次持諸弟子,慧手大空指,略奉持護摩。每獻輒誠誦,各別至三七,當住慈愍心,依法真實言:南麼三曼多勃陀喃。阿摩訶扇底蘗多。扇底羯囉。鉢囉睒摩達磨涅若多。阿婆嚩。薩嚩婆嚩。達摩三曼多。鉢囉鉢多。莎訶。
(Kinh: Lại dùng tay tam-muội (tay trái), rồi cầm ngón Đại Không
(ngón cái) nơi tay huệ (tay phải) đệ tử, sơ lược trì hộ-ma, mỗi dâng, chí thành
tụng. Mỗi trò: Hăm mốt lần. Nên trụ tâm từ mẫn, nương pháp chân thật nói: - Nam
ma tam mạn đa bộ đà nẫm, a ma ha phiến để nghiệt đa, phiến để yết ra, bát ra
thiêm ma, đạt ma niết nhã đa, a bà phạ, tát phạ bà phạ, đạt ma tam mạn đa, bát
ra bát đa, sa ha).
Đúng như pháp cúng dường xong,
sau đấy mới sám hối, hồi hướng, và ngâm kim cang phúng vịnh, đốt hương chẳng dứt.
Lại dâng Át-già; sau đó, đảnh lễ chư tôn, triệu tập các đệ tử, đúng như kinh
văn trong phần trên đã nói để thực hiện các pháp như rải hoa v.v… cho đến kề
tai bảo ban đều xong, mới dẫn từng đệ tử tới chỗ hộ ma. Để họ ở bên trái của
A-xà-lê, dùng tâm cung kính ngồi chồm hổm. Sư dùng tay trái nắm lấy ngón cái của
đệ tử mà tụng chân ngôn Tịch Tai, cứ mỗi lần tụng là một lần thí hỏa thực (hộ-ma).
Như thế cho đến hai mươi mốt lượt, đối với các đệ tử đều làm như thế. Kinh Cù
Hê nói: “Phục dĩ hương đồ thủ, án kỳ
hung thượng, tùy ý trì tụng nhi phát khiển khứ dã” (Lại dùng hương bôi
tay, đè lên ngực người ấy, tùy ý trì tụng để tiễn đi). Dưới đây, giải thích Tịch
Tai chân ngôn:
Chân ngôn này dùng chữ A (अ) tối sơ làm Thể. A có nghĩa là “các pháp vốn bất sanh”, tức là cái
Thể của kim cang trí hỏa, thêm một chấm tam-muội thành bổn sanh hạnh kim cang
huệ hỏa. Bên cạnh vạch tam muội có hai chấm (आः), tức là nghĩa Niết Bàn. Ý nói:
Nhập môn chữ A này, do huệ hạnh trọn đủ, có thể thiêu sạch hết thảy các chướng
cái, đạt được đại tịch Niết Bàn. Sở dĩ gọi là Tịch Tai chân ngôn chính là do
nghĩa này.
Lại nữa, khi tác pháp, hãy
nên quán tràng quang minh bao quanh chữ này. Từ lửa, xuất hiện đủ ba màu: Bản
thể là sắc trắng pha vàng, vạch tam-muội màu đỏ như vàng Diêm Phù, hai điểm bên
cạnh màu đen như lửa kiếp tai. Do bản tánh trắng sạch, nên có tác dụng Tức Tai.
Kèm thêm màu vàng là tác dụng Tăng Ích. Màu đỏ là tác dụng thiêu đốt. Màu đen
là tác dụng dẹp tan, khuất phục đại chướng và nhiếp triệu. Hơn nữa, cái Thể của
chữ này là phương tiện môn, hãy nên biết là nó có cùng màu với Đại Không, bao gồm
đủ loại sự nghiệp.
Lại nữa, trong
phần nói về mười hai vị Hỏa Thiên thuộc phần sau, chữ A là lửa trí huệ, cái vạch
tam-muội là lửa hạnh viên mãn. Có ý nghĩa nhiếp triệu là gió thổi bùng lửa. Có
ý nghĩa hàng phục là lửa Lô Hê Đa (Rohitaka, sắc đỏ), vàng và đỏ hòa hợp là lửa
Một Lật Noa (Vrata), kèm thêm màu đỏ và đen là lửa Phẫn Nộ. Lại kèm thêm các sắc
là Xà Trá La hỏa. Nói tóm lại, đều trọn đủ mười hai loại tác dụng[136],
hãy nên rộng diễn. Các câu kế đó đều nhằm lần lượt diễn giải. Câu đầu tiên “ma ha phiến để” (Mahāśānti) có nghĩa
là Đại Tịch, “nghiệt đa” (Gata)
có nghĩa là Thệ (逝, đi tới), ý nói: Như Lai do nghĩa của
một chữ này, đạt tới bổn tánh thường tịch Đại Niết Bàn. Thể của chữ A là “bổn tịch” (vốn sẵn vắng lặng), do có
nét vẽ tam-muội nên là Thiện Thệ (khéo đi). Do có cái chấm tịnh trừ nên là Niết
Bàn, chẳng động nơi đây mà liền đi, liền tới, giống như Đại Không không gì chẳng
trọn khắp. Vì thế nói là Đại Tịch. Câu kế đó, tức “phiến để yết ra” (śāntikara) có nghĩa là Tác Tịch, ý nói: Do tự
môn này trọn đủ phương tiện, nên thường trọn khắp mười phương ba đời, thực hiện
trọn khắp sự nghiệp Phổ Môn thành tựu chúng sanh, khiến họ đều đạt tới đại tịch.
Vì thế, nói là Tác Tịch.
Kế đó, nói “bát ra thiểm ma đạt ma niết nhã đa”
(praśamadharma nirjāta), Bát Ra nghĩa là “tối
thắng”. Thiểm Ma là chứng cái Tịch ấy, giải thích lần nữa câu trước đó:
Do tác tịch, nên chính là Tịch nhất trong các Tịch. Vì lẽ nào vậy? Do Tịch rốt
ráo chẳng thể được, nên thường tác. Do Tác Tịch rốt ráo chẳng thể được, nên thường
tịch. Do hết thảy thế gian chẳng thể nghĩ bàn, nên nói là Tối Thắng. Đạt Ma là
pháp, Niết Nhã Đa là sanh. Từ gì mà sanh? Tức là từ tịch nghiệp chẳng thể nghĩ
bàn này mà sanh. Do động và tịch rốt ráo bình đẳng, trong câu “vốn bất sanh” lại sanh đủ rễ, thân,
cành, lá, hoa, quả, thành Bồ Đề thụ vương. Giống như hỏa giới có thể thiêu, mà
có thể dưỡng; lửa kim cang trí cũng thế, dùng cái chấm tịnh trừ để thiêu, dùng
cái chấm tam-muội để dưỡng. Kế đó nói “bà
phạ, tát phạ bà phạ” (abhāva svabhāva), lại nhằm giải thích câu trước
đó, nên nói là “vô tự tánh”. Hết thảy tự tánh do bản tánh là tịch
mà từ duyên dấy lên, cho nên chẳng có tự tánh. Từ duyên dấy lên thì đều là bổn
tánh tịch; do vậy là tự tánh của hết thảy các pháp. Do bởi nghĩa này, vọng tưởng
chẳng sanh, mà Đại Không sanh. Kế đó nói “đạt
ma tam mạn đa bát ra bát đa” (dharma samantaprāpta) chính là để giải
thích câu trước đó. Do bởi nghĩa này, Như Lai bình đẳng trong hết thảy các
pháp, tức là thành Vô Thượng Bồ Đề. “Bát
ra bát đa” (prāpta) nghĩa là “đạt được”. Do vô sở đắc nên đạt được câu
bình đẳng này. Những điều khác như trong phần trước đã giải thích.
Lúc hộ-ma, sẽ
có đủ loại tướng hiện, hoặc có lúc đốt lửa không cháy, hoặc cháy mà nhanh chóng
tắt mất, chẳng cháy rất mạnh, hoặc khói bốc lên nhưng không có ngọn lửa, hoặc
khói mù mịt, hoặc vang ra tiếng như lừa kêu v.v… Người ta chẳng thích nghe, hoặc
nói chẳng thành tựu v.v… Hãy nên biết đó là tướng chướng ngại chẳng thành tựu.
Hoặc trong khói lửa hình thành đủ loại hình tướng mầu nhiệm như bình báu, lưới
báu, sư tử, xe cộ v.v… Hoặc vẳng ra các tiếng âm nhạc như chuông, linh, ốc (tù
và) v.v… Hoặc phát ra tiếng cát tường thành tựu. Hãy nên biết đó là tướng Vô Ngại
Tất Địa.
Cho tới người
khéo hộ-ma, sẽ từ trong các thứ tướng đó mà ngầm được chỉ dạy, hiểu rõ biết trọn
tướng thông tắc. Phàm hộ-ma đều thuận theo các sự nghiệp đáng nên, hoặc dùng
tâm tịch tĩnh, hoặc dùng tâm hoan hỷ, hoặc tâm oai mãnh, mặc quần áo có các màu
trắng, vàng, đỏ, nên ngồi mặt hướng về phía Bắc, phía Đông, phía Nam. Mạn-đồ-la
ấy (Mạn-đồ-la để hộ-ma) cũng có tròn, vuông, tam giác khác biệt, màu sắc [của
đàn hộ-ma] cũng nên biết giống như thế. Củi để hộ-ma thì Tức Tai bèn dùng cành
cây cao nhất, Tăng Ích thì dùng cành cây bậc trung. Nếu là chuyện chiết phục,
nên dùng rễ cây. Nếu là chuyện Tức Tai, nên dùng tô, sữa, đại mạch (barley), mật,
và cháo sữa, mầm cỏ tranh, hoa Quân-na (Kunda), bạch đàn hương, gỗ Vô Ưu. Nếu
là chuyện Tăng Ích, đáng nên dùng cháo sữa, cơm bơ, mật, cháo sữa và lạc, mè,
thiên mộc, hồi hương (fennel), thiên môn đông (chinese asparagus), long hoa, các
loại hạt thực phẩm v.v… Nếu là chuyện Nhiếp Phục, nên dùng hạt cải đỏ hay trắng,
hoặc dầu hạt cải, thuốc độc, xương, tóc, các loại cây có gai góc v.v…
Tuy kinh chẳng nói trọn, hãy nên suy luận để biết.
Lại tùy theo
[từng sự nghiệp như Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục v.v…] mà thiêu tô mấy lượt. Đối
với mè cũng thế, những vật khác thì tùy ý mà làm nhiều hay ít. Lần đầu tiên và
lần cuối cùng, đều nên bôi đẫm tô rồi mới hộ-ma, các pháp sự khác cũng phỏng
theo đó. Phàm là Tức Tai hộ-ma, trước hết cần phải thực hiện pháp Hàng Phục. Nếu
trong các chân ngôn sử dụng đã có ý nghĩa hàng phục thì cứ trực tiếp nương theo
kinh bổn mà tụng. Nếu không có ý nghĩa ấy, hãy vâng theo pháp mà tăng thêm (tức
là làm Hàng Phục hộ-ma trước khi Tức Tai hộ-ma). Dùng các thứ như hạt cải v.v…
để làm vật hàng phục tương ứng, thực hiện bảy lần hay mười bốn lần hộ-ma. Kế
đó, quán cú nghĩa và vật cúng tương ứng với pháp để làm hộ-ma bảy hay mười bốn
lần rồi mới thực hiện đầy đủ pháp Tịch Tai (Tức Tai). Nếu làm Tăng Ích hộ-ma
thì trước hết cần tu pháp Hàng Phục rồi mới thực hiện trọn đủ pháp Tăng Ích.
Pháp Hàng Phục hộ-ma thì thực hiện trực tiếp một pháp ấy, chẳng cần lập tiền
phương tiện. Hãy nên biết Mạn-đồ-la này có ba loại pháp sự.
Kinh Cù Hê
nói: “Quán đảnh liễu hậu, phục đương y
pháp hộ-ma. Tiên dụng Mạn-đồ-la chủ chân ngôn phần tô bách biến. Thứ đương dĩ Tịch
Tĩnh chân ngôn, dụng tô, mật, lạc hòa phạn bách biến. Thứ dụng hồ ma bách biến,
phương nãi quảng thị Mạn-đồ-la” (Sau khi quán đảnh xong, lại nên theo
đúng pháp hộ-ma. Trước hết, dùng chân ngôn của vị Mạn-đồ-la chủ để thiêu tô một
trăm lượt. Kế đó, hãy lấy Tịch Tĩnh chân ngôn, và dùng tô, mật, lạc trộn với
cơm [để hộ-ma] một trăm lượt. Kế đó, dùng mè [để hộ-ma] một trăm lượt rồi mới
chỉ bày rộng rãi Mạn-đồ-la). Tới khi xong việc, sắp giải tán, thầy hãy nên
[dùng nước thơm] tự rưới thân mình, lại dâng Át-già, theo thứ tự cúng dường mỗi
vị tôn thánh. Kế đó, dùng [chân ngôn của] vị chủ Mạn-đồ-la để hộ-ma tám trăm lượt.
Kế đó, dùng Tịch Tĩnh chân ngôn [để hộ-ma] một trăm lần. Kế đó, dùng Bộ Tâm để
thực hiện hai mươi mốt lần. Kế đó, đối với chân ngôn của mỗi vị tôn thánh, đều
dùng ngưu tô để hộ-ma mỗi vị bảy lần. Sau đấy mới dùng chân ngôn mình vốn trì tụng
để tùy ý hộ-ma, xong rồi mới làm các pháp giải giới, tống tiễn v.v… Hoặc là
nương theo phần trên để thực hiện Tổng Tướng phương tiện thì cũng được.
Nay ba chữ A,
Sa, Phạ trong kinh này, như phẩm Tự Luân đã nói, chính là tâm chân ngôn của ba
bộ[137].
Nếu là ba thứ pháp sự vào các lúc khác, chỉ cần trì tụng trong đàn xong xuôi,
liền ra ngoài để làm hộ-ma. Hoặc nếu thực hiện thành tựu hộ-ma, năm chỗ cần phải
thẳng hàng, tức thứ nhất là Bổn Tôn, thứ hai lò lửa, thứ ba vật được thành tựu,
thứ tư là đồ đựng chất tô, thứ năm là chỗ ngồi của A-xà-lê. Các vật để thành tựu
dùng lá sạch đậy lên, mỗi lần lấy các thứ như tô v.v… đều dùng bôi thêm trên lá
rồi mới đốt.
Nếu thành tựu hữu tình, hãy
nên đặt vật ấy ở chỗ tô vẽ hình tượng ấy, những điều khác như trên đã nói. Nếu
vì người khác hộ-ma, thì mỗi mỗi [lượt hộ-ma] đều xưng danh [người ấy] rồi mới
ném [vật hiến cúng] vào trong lửa. Nếu không có Mạn-đồ-la, chỉ thực hiện pháp hộ-ma,
hãy nên tạo quanh lò một tầng Mạn-đồ-la, xếp đặt tọa vị của chư tôn, muốn thỉnh
chư tôn để cúng dường, cặn kẽ hay đại lược đều tùy ý. Kinh Tô Tất Địa nói: “Hộ-ma liễu dĩ, giai đương dụng bổn trì chân
ngôn gia trì tịnh thủy, dĩ thủ tuần nhiễu, tán sái lô trung tam độ. Tu phục thỉnh
Hỏa Thiên trùng thọ dư cúng, nãi chí tưởng hoàn bổn tòa. Sở tàn cốc, tô, mật, lạc
đẳng, tổng hòa nhất xứ, dụng Hỏa Thiên chân ngôn tam chuyển trì chi, nhi tác hộ-ma,
trùng tác hộ thân, hộ phương đẳng ấn, nãi chí giải giới, phương khả phát khiển
dã” (Hộ-ma xong, đều nên dùng chân ngôn mình vốn trì tụng để gia trì nước
sạch, đi vòng quanh lò, dùng tay rảy rắc trong lò ba lượt. Lại cần phải thỉnh Hỏa
Thiên lần nữa nhận lấy các vật cúng còn dư, cho đến tưởng vị ấy trở về tòa của
mình. Các thứ ngũ cốc, tô, mật, lạc v.v… còn thừa lại, đều nên để chung một chỗ,
dùng chân ngôn của Hỏa Thiên để ba lượt trì tụng làm hộ-ma, lại kết các ấn hộ
thân, thủ hộ phương vị v.v… cho đến giải giới, thì mới có thể tống tiễn).
Kinh Cù Hê nói: “Đệ lục dạ tác đệ tử pháp cánh, vị trừ chướng
cố, tiên tác Hàng Phục hộ-ma, thứ vị tự tăng ích cố, dĩ bộ tâm chân ngôn hộ-ma.
Nhiên hậu, dĩ Tịch Tĩnh chân ngôn tác Tức Tai hộ-ma. Chí lâm tác pháp sự thời,
nhược sổ hữu bất thiện tướng giả, đương dĩ Bộ Mẫu chân ngôn tác Tức Tai hộ-ma,
phần tô cập tân các bách biến. Ư tác pháp chi minh nhật, vị mãn sở khuyết phạp
cố, cánh tác Tức Tai hộ-ma bát bách biến” (Đêm thứ sáu, thực hiện pháp
[quán đảnh cho] đệ tử xong, vì để trừ chướng, trước hết làm Hàng Phục hộ-ma. Kế
đó, vì tăng ích cho chính mình, dùng bộ tâm chân ngôn để hộ-ma. Sau đó, dùng Tịch
Tĩnh chân ngôn để làm Tức Tai hộ-ma. Cho tới lúc đang làm pháp sự, nếu có mấy
lượt tướng bất thiện, hãy nên dùng Bộ Mẫu chân ngôn để làm Tức Tai hộ-ma, đốt
tô, củi, mỗi thứ đều tám, trăm lần. Trong lúc tác pháp thuộc ngày hôm sau, nhằm
khiến cho các điều thiếu khuyết được trọn đủ, lại thực hiện Tức Tai hộ-ma tám
trăm lần). Nhưng hỏa pháp này cũng là chuyện khó khăn trong chi phần, do nó sẽ
trừ tai chướng, tăng ích oai thế của chánh pháp. Vì thế, các kẻ gây chướng nạn
đều rình rập tìm cơ hội trong khi ấy. Nếu chẳng hiểu rõ từng điều, sẽ tự bị
thương tổn, chớ nên bộp chộp làm bừa!
(Kinh) Hành giả hộ-ma cánh, ưng giáo linh sấn thí, kim, ngân chúng trân
bảo, tượng, mã, cập xa thặng, ngưu, dương, thượng y phục, hoặc phục dư tư tài.
Đệ tử đương chí thành, cung kính khởi ân trọng, thâm tâm tự hân khánh, nhi phụng
ư sở tôn. Dĩ tu hành tịnh xả, linh bỉ hoan hỷ cố.
(經)行者護摩竟,應教令儭施,金銀眾珍寶,象馬及車乘,牛羊上衣服,或復餘資財。弟子當至誠,恭敬起慇重,深心自忻慶,而奉於所尊。以修行淨捨,令彼歡喜 故。
(Kinh: Hành giả hộ-ma xong, nên dạy họ bố thí, vàng, bạc, các thứ
báu, voi, ngựa, và xe cộ, trâu, dê, y phục tốt, hoặc các tài vật khác. Đệ tử
nên chí thành, cung kính, tâm trân trọng, tự vui mừng sâu xa, dâng lên đấng tôn
kính. Do tu hành tịnh xả, khiến người ấy hoan hỷ).
Từ đây là trả lời câu hỏi
“cúng dường thầy như thế nào?” trong lời hỏi của ngài Bí Mật Chủ, vẫn thuộc vào
chi phần “dạy bảo gia trì”. Do vậy, thầy tự dạy đệ tử hãy bố thí, đừng vì tham
đắm các vật ấy mà tìm cầu, mà hãy vì phát sanh thiện căn, thành tựu công đức
quán đảnh. Nếu đệ tử có thể đối với tất cả các thứ tài vật trong, ngoài, vì cầu
đại sự nhân duyên mà chẳng hề keo tiếc, chí thành, trân trọng dâng tặng, hòng
báo đáp người truyền pháp, sẽ có thể phá tan vô lượng túc chướng. Lại do tự thấy
lợi ích của bố thí, sanh tâm mừng rỡ sâu xa: “Ta nay xả tài vật thế gian yêu mến
này, chúng là tài sản chung của năm nhà, lắm điều lầm lỗi, ương hoạn, hòng đổi
lấy của báu chánh pháp là pháp bảo vô thượng, thí trọn khắp chúng sanh thường
chẳng cùng tận”. Do tư duy như vậy, cái tâm hoan hỷ; do hoan hỷ bèn được lìa
nghi hối. Do lìa nghi hối, sẽ được trụ trong sự an lạc tịch nhiên trong tâm.
Sau đấy, dùng pháp thủy để rưới, sẽ có thể vĩnh viễn lìa trần cấu. Nếu chẳng có
vật, thậm chí xả thân để cúng dường thầy, tức là dùng thân này để phụng sự,
cung cấp A-xà-lê, chẳng ngại khổ nhọc, thường chẳng lìa bỏ tìm cầu chánh pháp,
cho đến chẳng tiếc thân mạng vì cầu đạo vậy. Lúc bấy giờ, A-xà-lê cảm lòng trân
trọng của trò, sanh tâm bi niệm, bèn dạy bảo phương tiện thẳm sâu, bí mật, cho
tới công hạnh do chính mình trì chân ngôn trọn khắp trong đạo tràng của chính
mình, đều tác pháp hồi hướng bố thí. Dùng công sức ít mà đạt được thành tựu to
lớn, đấy là bậc thượng trong các cách bố thí. Kinh Cù Hê nói: “Đệ tử đương ư hộ-ma xứ, dĩ chí thành tâm, đảnh
lễ A-xà-lê. Tiên đương phụng hiến y tài nhị táp, nhiên hậu xả thí dư tài”
(Đệ tử hãy nên ở chỗ hộ-ma, dùng tâm chí thành đảnh lễ A-xà-lê. Trước hết, nên
dâng cúng hai rương y đã may cắt. Sau đấy xả thí các tài vật khác). Lại nữa,
trong kinh văn ấy nói: Sau khi quán đảnh xong, [thầy] dạy cặn kẽ về tướng Mạn-đồ-la,
dạy chân ngôn và ấn rồi [đệ tử] mới dâng thí, chẳng giống kinh này. Có thể tùy
ý sử dụng [cách nào để cúng dường thầy cũng được].
(Kinh) Dĩ vị tác gia hộ, ưng triệu nhi cáo ngôn: “Kim thử thắng phước
điền, nhất thiết Phật sở thuyết. Vị dục quảng nhiêu ích, nhất thiết chư hữu
tình, phụng thí nhất thiết Tăng, đương hoạch ư đại quả, vô tận đại tư tài, thế
thuyết thường tùy sanh. Dĩ cúng dường tăng giả, thí cụ đức chi nhân. Thị cố, Thế
Tôn thuyết: - Ưng đương phát hoan hỷ, tùy lực biện hào thiện, nhi thí hiện tiền
Tăng”.
(經)已為作加護,應召而告言:今此勝福田,一切佛所說,為欲廣饒益,一切諸有情。奉施一切僧,當獲於大果,無盡大資財,世說常隨生。以供養僧者,施具德之人。是故,世尊說:應當發歡喜,隨力辦餚膳,而施現前 僧。
(Kinh: Đã gia hộ xong xuôi, [thầy] nên triệu vời [đệ tử] bảo rằng:
- Nay ruộng phước thù thắng, được hết thảy Phật nói. Vì muốn lợi ích rộng, hết
thảy các hữu tình, dâng thí hết thảy Tăng, sẽ đạt được quả lớn, tài vật to vô tận,
đời đời thường sanh theo, do bởi cúng dường Tăng, và thí người trọn đức. Vì vậy,
Thế Tôn nói: “Hãy sanh tâm hoan hỷ, tùy sức sắm món ngon, để thí hiện tiền
Tăng”).
Ý nói: Từ lúc được gọi vào
[đàn tràng] cho tới nay, đều là phương tiện gia trì. Nay vì phát khởi cái tâm của
đệ tử, lại do dạy bảo mà [thầy] nói như thế này: “Kim thử thắng phước điền, nhất thiết Phật sở thuyết, vị dục quảng
nhiêu ích, nhất thiết chư hữu tình” (Nay phước điền thù thắng này do hết
thảy chư Phật đã nói, vì muốn lợi ích rộng lớn hết thảy các hữu tình), nghĩa là
đức Thế Tôn thấy các chúng sanh từ vô thỉ cho tới nay, luôn thường thiếu hụt
tài vật trong, ngoài, thực hiện các việc chẳng được tự tại. Do nhân duyên ấy, đọa
vào chỗ chẳng thanh nhàn, chẳng thể mau chóng đạt tới Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy,
[chư Phật] cùng dùng thần lực, nói phước điền vô thượng này. Do trong Đại Bi Tạng
này, hết thảy biển cả Phổ Môn không gì chẳng nhóm họp trọn hết. Nay do rộng
gieo thiện căn vô hạn ở trong ấy, từ đời này trở đi, cho đến tột đời vị lai
sau, thường làm thân Như Ý Châu, hoặc thân Hư Không Tạng, có thể thỏa mãn hết
thảy mong ước của mình lẫn người. Vì thế nói là “quảng nhiêu ích nhất thiết chúng sanh” (rộng lợi ích hết thảy
chúng sanh). Lại nữa, đã thí cho Đệ Nhất Nghĩa Tăng và người truyền pháp xong,
thầy lại sắc truyền [đệ tử hãy] cúng dường Thế Đế hòa hợp tăng. Nếu lúc thí cho
hòa hợp Tăng, mười phương hết thảy các vị Tăng dù thánh hay phàm thảy đều có phần.
Vì thế, phước ấy như hư không, như mây, như biển chẳng thể nghĩ bàn!
“Đương hoạch ư đại quả” (Sẽ đạt được cái quả to lớn) chính
là lợi ích rốt ráo. Nếu gieo phước trong ấy, giống như ăn kim cang, rốt ráo chẳng
tiêu, ắt sẽ xuyên thấu tới kim cang địa tế[138]
rồi mới ngừng. Vì thế, ngài Đạo Sanh nói: “Một mảy điều thiện có thể tiến nhập Phật quả”. Kế đó, do nói về
các điều ước nguyện của thế gian, nên lại nhắc đến nghĩa lợi thế gian, tức là “vô tận đại tư tài, thế thuyết thường tùy
sanh” (của báu to lớn vô tận, cõi đời nói là “thường sanh theo”). Đó là
Thế Giới Tất Đàn; do vậy nói là “thế
thuyết”. Như ngài Bạc Câu La (Vakkula) do dùng một quả Ha Lê Lặc
(Haritaki, myrobalan) thí cho Tăng, trong suốt chín mươi mốt kiếp thường chẳng
bệnh tật, chẳng chết bất ngờ. Ngài A Na Luật (Aniruddha) do thí một bữa ăn cho
Bích Chi Phật, cũng trong vô lượng kiếp thường sanh cùng với kho báu, như trong
kinh Bổn Sanh đã nói cặn kẽ, nên nói là “thường
tùy sanh”. Lại nữa, Hữu Bộ Tỳ Ni (Luật Tạng của Nhất Thiết Hữu Bộ) nói:
Bốn vị đại đệ tử là Đại Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề giống như
hiền bình (bảo bình). Nếu có ai tịnh tâm cúng dường [các Ngài] xong, mong cầu
quả báo thế gian trong đời hiện tại, không gì chẳng được như nguyện. Hà huống
thí cho hết thảy tăng! Hãy nên biết: Các vị trọn đủ đức trong mười phương thế
giới như thế đều được bao gồm trong đó, cho đến bậc thánh nhân vô học muốn kéo
dài tuổi thọ để trụ thế, đều phải cậy vào sức của Tăng chúng. Vì thế, nay quý vị
muốn thành tựu cái quả Tất Địa, hãy nên tu Đàn thí (bố thí) trọn đủ chẳng thiếu.
Lại nên dùng tâm hoan hỷ để cúng dường Thế Đế hiện tiền Tăng. Do mười phương
tăng chẳng thể nhóm họp trọn hết, chỉ thuận theo những vị hiện tiền nhóm họp
trong vùng mà cúng thí thì chính là “thí
cho hết thảy các vị Tăng”.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ,
nhi thuyết kệ ngôn: - Nhữ Ma Ha Tát Đỏa, nhất tâm ưng đế thính, đương quảng
thuyết quán đảnh, cổ Phật sở khai thị. Sư tác đệ nhị đàn, đối trung Mạn-đồ-la,
đồ họa ư ngoại giới, tương cự nhị trửu lượng. Tứ phương chánh quân đẳng, nội hướng
khai nhất môn, an tứ Chấp Kim Cang, cư kỳ tứ duy ngoại. Vị Trụ Vô Hý Luận, cập
Hư Không Vô Cấu, Vô Cấu Nhãn Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y đẳng. Nội tâm đại liên hoa,
bát diệp cập tu nhụy. Ư tứ phương diệp trung, tứ bạn lữ Bồ Tát, do bỉ đại hữu
tình, vãng tích nguyện lực cố. Vân hà danh vi tứ? Vị Tổng Trì Tự Tại, Niệm Trì,
Lợi Ích Tâm, Bi Giả Bồ Tát đẳng. Sở dư chư tứ diệp, tác tứ phụng giáo giả, Tạp
Sắc Y, Mãn Nguyện, Vô Ngại, Vô Giải Thoát.
(經)爾時,毘盧遮那世尊復告執金剛祕密主而說偈言:汝摩訶薩埵,一心應諦聽;當廣說灌頂,古佛所開示。師作第二壇,對中漫荼羅,圖畫於外界,相距二肘量,四方正均等,內向開一門,安四執金剛,居其四維外,謂住無戲論,及虛空無垢。無垢眼金剛,被雜色衣等,內心大蓮華,八葉及鬚蘂,於四方葉中,四伴侶菩薩,由彼大有情,往昔願力故。云何名為四?謂總持自在,念持利益心,悲者菩薩等。所餘諸四葉,作四奉教者,雜色衣滿願,無礙及解脫。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại bảo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, bèn nói kệ rằng: - Ông Ma Ha Tát Đỏa, nên nhất tâm
nghe kỹ, sẽ rộng nói quán đảnh, do cổ Phật khai thị. Thầy lập đàn thứ hai, đối
diện Trung Thai đàn, tô vẽ ở bên ngoài, cách đại đàn hai khủy. Bốn phương đều
cân xứng, mở một cửa hướng nội, đặt bốn Chấp Kim Cang, ở phía ngoài bốn góc, tức
Trụ Vô Hý Luận, và Hư Không Vô Cấu, Vô Cấu Nhãn Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y thảy. Giữa
vẽ đóa sen to, tám cánh và tua nhụy. Nơi bốn cánh bốn phía, bốn bạn lữ Bồ Tát,
do các đại hữu tình, nguyện lực từ thuở trước. Thế nào là bốn vị? Tức Tổng Trì
Tự Tại, Niệm Trì, Lợi Ích Tâm, Bi Giả Bồ Tát thảy. Nơi bốn cánh sen kia, vẽ bốn
vị phụng giáo: Tạp Sắc Y, Mãn Nguyện, Vô Ngại, và Giải Thoát).
Kế đó, nói về pháp quán đảnh,
vẫn thuộc chi phần “gia trì dạy bảo”.
Nhưng phép quán đảnh này cũng thông với các pháp sự khác, hoặc có thể xếp riêng
thành một chi phần. A-xà-lê tạo Mạn-đồ-la thứ hai, đối xứng với Trung Thai Mạn-đồ-la,
cách đại Mạn-đồ-la (Trung Thai Mạn-đồ-la) hai khủy tay. “Đệ nhị” có nghĩa là kém hơn, nhỏ hơn, tức là nói tương đối.
Phàm lò lửa nên đặt ở trung thai (phần chính giữa của Mạn-đồ-la). Nếu nơi chốn
bất tiện, có thể dời [đàn quán đảnh] hơi lệch về phía Nam, thậm chí dời sang
góc Tây Nam [của Trung Thai Mạn-đồ-la]. Đàn quán đảnh này lại ở phía Bắc hỏa
đàn, cũng lập sao cho bốn phía cân bằng, chỉ mở một cửa. Cửa mở hướng về phía đại
đàn. Ở bốn góc của đàn [quán đảnh] này, vẽ bốn vị Chấp Kim Cang. Nơi Hỏa
phương, tức là phương Đông Nam, đặt Trụ Vô Hý Luận (Aprapañcavihārin) Chấp Kim Cang. Ở phương Niết Rị Để (Tây Nam), đặt Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala), nơi phương Phong (Tây Bắc) đặt Vô Cấu Nhãn (Vimalanetra), nơi phương Y Xá Ni (Đông Bắc), đặt Bị Tạp Sắc Y (Vicitrāmbaradhara).
Đại liên hoa vương tám cánh
trong đàn, tua nhị đầy đủ. Ở bốn cánh sen, đặt bốn vị Bạn Lữ Bồ Tát: Ở phương Đế
Thích (phương Đông) là Tổng Trì Tự Tại Bồ Tát (Dhāraṇīśvara-rāja), phương Diễm Ma (phương Nam) là Niệm Trì Bồ Tát (Smṛtisaṃprajanyin), phương Na Già (phương Tây) là Lợi Ích Tâm Bồ Tát (Hītadhyāśayin), phương Dạ Xoa (phương Bắc) là Bi Giả Bồ Tát (Kāruṇika). Kế đó, nơi bốn cánh sen tương ứng bốn góc, đặt bốn vị phụng giáo giả[139].
Hỏa phương (phương Đông Nam) là Bị Tạp Sắc Y (Vicitrāmbara), phương Niết Rị Để (Tây Nam) là Mãn Nguyện (Āśāparipūraka), phương Phong (Tây Bắc) tên là Vô Ngại (Asakta), phương Y Xá Ni (Đông Bắc)
tên là Giải Thoát (Vimukta).
(Kinh) Trung ương thị pháp giới, bất khả tư nghị sắc.
(經)中央示法界,不可思議色,
(Kinh: Chính giữa bày pháp giới, màu chẳng thể
nghĩ bàn).
Tức là chữ Lam (रं) được vẽ với màu thuần trắng; đó
gọi là biểu tượng của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Lại giải thích theo kiểu
sâu xa, bí mật, thì đàn vuông chính là Đại Nhân Đà La Tâm Vương Kim Cang Giới.
Trụ Vô Hý Luận chính là trí giới cội nguồn tánh tịnh, ba đời chẳng chướng ngại.
Do giới này, hết thảy các hý luận đều dứt. Do dứt hý luận, được thành trí huệ
to lớn không có thầy, các thứ trần cấu che lấp đều hết sạch như hư không thanh
tịnh. Vì thế, gọi là Hư Không Vô Cấu. Như trong hư không, lúc chẳng có cấu chướng,
mắt nhìn tột cùng mười phương, không gì chẳng thấy. Bát Nhã cũng thế, do lìa hết
thảy các tướng, trong hết thảy các loại, không gì chẳng thấy, nghe, hay, biết.
Vì thế, gọi là Vô Cấu Nhãn. Như người sáng mắt, có thể tự tại làm các sự nghiệp;
nay dùng lòng Bi vô ngại quán trọn khắp hết thảy căn duyên xong, liền hiện trọn
khắp sắc thân để tạo lợi ích. Vì thế gọi là Bị Tạp Sắc Y. Nếu bốn thứ kim cang
huệ ấn ấy trọn đủ trong một tâm chẳng thiếu sót, tức là có thể trấn định tâm địa
ấy, kham trì thân quán đảnh huệ, giống như ở dưới cội Bồ Đề từ Kim Cang địa tế
trở lên, thảy đều cứng chắc. Vì thế, lúc Như Lai thành đạo, [tòa Bồ Đề] chẳng
nghiêng ngửa, chẳng khuyết hãm.
“Bốn bạn lữ” là nói tất cả các pháp trong tâm (tức tâm sở), là bầu
bạn của tâm vương. Ý nói tâm vương trong pháp giới thanh tịnh ấy thành tựu bốn
pháp, có thể hành bốn loại Như Lai sự, sẽ kham quán đảnh, tiếp nhận địa vị pháp
vương. Trước hết nói Đà La Ni Tự Tại Vương, tức là thông đạt môn chữ A. Khi thấy
chân ngôn vương này, liền có thể trong hết thảy các môn đà la ni, đều được tự tại.
Do vậy, đặt tên như thế. Lại do tổng trì tự tại, thành tựu Như Lai niệm giác
như ý tam-muội vương, có thể nắm giữ một vạn cõi Phật, như vật báu bí mật trong
cung rồng có thể giữ cho biển cả chẳng dâng tràn, mà cũng có thể giữ cho biển
chẳng khô cạn. Vì thế gọi là Niệm Trì. Đã có được niệm bảo như thế, liền nhớ đến
bổn nguyện, mưa trọn khắp pháp tài đầy ắp pháp giới, thí trọn khắp chúng sanh,
gọi là Lợi Ích Tâm. Đã tuôn ra vô tận tài vật để thực hiện đại thí vô hạn,
nhưng chúng sanh hèn kém, chẳng có tâm thọ dụng, chẳng chịu cầu. Vì thế, hưng
khởi tâm đại bi, dùng đủ loại phương tiện để điều phục đứa con nghèo túng, cho
nên nói “Bi Giả Bồ Tát đẳng”.
Nói “phụng giáo giả” tức là từ nay trở đi, dùng bốn môn chiết phục,
nhiếp thọ để hành Như Lai sự. Hãy nên biết Bị Tạp Sắc Y chính là sự nghiệp được
thực hiện bởi Đà La Ni Tự Tại Vương. Mãn Nguyện là niệm trì sự nghiệp được tạo
tác bởi như ý bảo vương. Vô Sở Quái Ngại là đại từ bi pháp thí, tạo tác sự nghiệp.
Giải Thoát là phương tiện đạo bi, dẹp khổ chúng sanh, tạo tác sự nghiệp. Vì thế,
gọi là “bốn vị phụng giáo”.
(Kinh) Tứ bảo sở thành bình, thịnh mãn chúng dược bảo, Phổ Hiền, Từ Thị
tôn, cập dữ Trừ Cái Chướng, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, nhi dĩ tác gia trì. Bỉ ư
quán đảnh thời, đương trí diệu liên thượng, hiến dĩ đồ hương, hoa, đăng minh cập
Át-già. Thượng ấm tràng, phan, cái, phụng nhiếp ý âm nhạc, cát khánh già-đà đẳng,
quảng đa mỹ diệu ngôn.
(經)四寶所成瓶,盛滿眾藥寶。普賢慈氏尊,及與除蓋障,除一切惡趣,而以作加持。彼於灌頂時,當置妙蓮上,獻以塗香華,燈明及閼伽。上蔭幢幡蓋,奉攝意音樂,吉慶伽陀等,廣多美妙言。
(Kinh: Bốn báu
làm thành bình, chứa đầy các thuốc báu, Phổ Hiền, ngài Từ Thị, cùng với Trừ Cái
Chướng, Trừ Nhất Thiết Ác Thú, thảy đều cùng gia trì. Trong khi làm quán đảnh,
đặt bình trên diệu liên, dâng cúng hương bôi, hoa, đèn sáng và Át-già. Trên che
tràng, phan, lọng. Dâng âm nhạc nhiếp ý, kệ tụng tốt lành thảy, lời tốt đẹp rộng
nhiều).
“Tứ bảo sở thành bình” (Bốn báu làm thành bình) chính là
báu tứ đức của ngài Tỳ Lô Giá Na, đặt ở bốn góc của Trung Thai như trong phần
trước đã nói. Dùng Bất Động Minh Vương để gia trì xong, lại dùng chân ngôn của
bốn vị Bồ Tát để gia trì mỗi bình. Phổ Hiền là vô tận nguyện hạnh bảo, Từ Thị
(Di Lặc) là vô tận nhiêu ích chúng sanh bảo, Trừ Cái Chướng (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin) là vô tận tịnh tri kiến bảo, Trừ Chư Ác Thú (Sarvāpāyaṃjaha) là vô tận đại bi phương tiện bảo. Lại nữa, Phổ Hiền là biến pháp giới tịnh
Bồ Đề tâm (tâm Bồ Đề thanh tịnh trọn khắp pháp giới), Từ Thị là rễ, mầm, thân,
lá phát sanh từ Thai Tạng trong tịnh tâm ấy. Trừ Cái Chướng là hoa quả nở bừng
của thụ vương tịnh giác diệu nghiêm ấy. Trừ Nhất Thiết Ác Thú là sau khi thâu
hoạch quả hạt ấy, bèn gieo vào ruộng “hết thảy chúng sanh”. Xoay vần sanh khởi
như thế, chẳng có cùng tận! Vì thế, dùng bốn cái bình báu ấy, đựng đầy các thứ
thuốc báu, các hạt ngũ cốc, ngâm trong nước thơm tánh tịnh dùng để rưới lên đài
hoa sen trong tâm pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, được gọi là “con của đấng pháp vương”.
Hãy nên biết một loại bảo
bình lại còn cơ cảm tương ứng với một
vị Bồ Tát, một Kim Cang, hoặc một sứ giả, dùng phương vị pháp môn đối ứng,
sẽ có thể biết. Phàm khi muốn quán đảnh, hãy dùng Biện Sự Chân Ngôn để gia trì
tòa và vật, đặt trên đài hoa sen. A-xà-lê lại vì đệ tử đúng như pháp hộ thân:
Trước hết, dùng [chân ngôn và ấn của] Bất Động Minh Vương để trừ các chướng. Kế
đó, dùng ba loại tam-muội-da để gia trì ba chỗ, [dùng chân ngôn và ấn của] Kim
Cang Tát Đỏa gia trì chi phần xong, bảo các đệ tử theo cách ngồi cát tường[140]
mà ngồi trong đó. Tất cả hương bôi, hoa, đèn, nước Át-già v.v… trước đó đã được
đúng pháp gia trì, nhất loạt như cách đã nói trong phần trên. Trước hết,
A-xà-lê nên dâng nước thơm. Kế đó, dùng hương bôi xoa khắp thân [tôn thánh
trong đàn quán đảnh], dùng tràng hoa trang hoàng thân họ, coi như anh lạc. Tiếp
đó, dâng hương đốt để xông, xếp đặt đèn chiếu sáng trước họ, và dâng cúng các
thứ thức ăn. Phàm các vật cúng dường, tổng cộng là mười ba tọa vị, tức là bốn vị
Kim Cang, bốn Bồ Tát, bốn sứ giả và đệ tử. Vật cúng cho đệ tử phải sao cho dồi
dào nhất, giống như cúng dường Bổn Tôn. Cũng có thể đặt trước tòa vị để cúng dường
trong Đại Mạn-đồ-la.
Còn như khi quán đảnh, chỉ
nên trì danh hiệu của các Ngài để thỉnh các Ngài gia trì đệ tử. Bốn vị Bồ Tát
thì nơi viện thứ nhất, đều đặt mỗi vị ở mỗi phương. Sứ giả thì đặt ở hai bên cửa
hẹp ở phía dưới Như Lai. Lại chuẩn bị một cái lọng mới sạch, trên đó treo tràng
hoa và lụa trắng, cũng trước đó dùng Bất Động chân ngôn để khử cấu trừ chướng,
dùng chân ngôn của Đại Nhật Như Lai để gia trì. A-xà-lê tự cầm lọng để che lên
trên, lại sai người khác cầm phất trần bằng lông mao ngưu (lông bò Yak), quạt,
và lò hương, [các thứ ấy] đều dùng Biện Sự chân ngôn gia trì. Lại ở trong
rương, đặt y, và các vật cát tường, tức là kim vàng để khêu màng mộng mắt,
gương sáng, bánh xe báu, thương-khư (vỏ ốc to), cũng cầm bình bằng bốn chất báu
để cúng dường, cũng tấu âm nhạc thâu nhiếp ý niệm. Khúc nhạc này được chép đầy
đủ trong Du Già Đại Bổn. Nếu lúc cúng hương bôi, liền có nhạc khúc dâng hương
bôi. Hoa, đèn, thức ăn v.v… cũng đều như thế. Mỗi lời ca vịnh đều là chân ngôn,
mỗi một điệu múa không gì chẳng phải là mật ấn. Thậm chí nếu không có người biết
thì A-xà-lê hãy nên tự tấu. Nếu chẳng được như vậy, [A-xà-lê] sẽ chẳng gọi là “kiêm tổng chúng nghệ”. Nói “nhiếp ý”, tức là người trông thấy sắc thanh đẹp đẽ, hay khéo
như thế, tâm say đắm, tình thức chuyên chú, chẳng còn duyên theo điều chi khác.
Nay kim cang kỹ nhạc này có thể cảm động tâm người cũng giống như thế, như Mã
Minh Bồ Tát tự tấu khúc nhạc Lại Trá Hòa La (Raṣṭrapāla),
năm trăm vương tử nghe xong, đồng thời bỏ nhà nhập đạo, tức là ý nghĩa này.
Kinh Cù Hê chỉ nói: “Nhược đắc biện giả,
ưng tác âm nhạc” (Nếu có người có thể làm, hãy nên tấu âm nhạc).
Kinh nói “cát tường già-đà đẳng, quảng đa mỹ diệu
ngôn” (kệ tụng tốt lành thảy, lời hay đẹp rộng nhiều). Kệ tụng có ba loại:
Một là cát khánh, hai là cát tường, ba là cực cát tường, đều là A Lợi Sa
già-tha. Dùng lời tốt lành, mừng vui ấy để an ủi cái tâm, lại còn có tác dụng
gia trì, A-xà-lê hãy nên tự nói. Kế đó, phần kinh văn tiếp theo nêu ra một loại
cát khánh, có thể dùng cách [tán tụng] ở phương này để tạm thay thế. Khi nói
bài kệ ấy, hãy nên tự cầm phất trần trắng để phảy lên thân người ấy.
(Kinh) Như thị nhi cúng dường, linh đắc hoan hỷ dĩ, thân đối chư Như
Lai, nhi tự quán kỳ đảnh, phục đương cúng dường bỉ, diệu thiện chư hương hoa.
(經)如是而供養,令得歡喜已,親對諸如來,而自灌其頂。復當供養彼,妙善諸香華。
(Kinh: Cúng dường như thế xong, khiến được hoan hỷ rồi, đối trước
các Như Lai, để tự rưới đỉnh đầu, lại nên cúng dường Phật, các hương hoa tốt
lành).
Tán tụng xong xuôi, A-xà-lê
lại nên đảnh lễ hết thảy chư tôn trong Mạn-đồ-la, vì quán đảnh mà chí thành khải
bạch. Liền cầm bình báu nhiễu quanh Mạn-đồ-la ba vòng, lại theo đúng pháp mà
gia trì. Tới chỗ đệ tử, trước hết, dùng chữ Ra (र) làm lửa, [quán tưởng] thiêu đốt
thân người ấy thành tro xong, mới dùng bốn bình theo thứ tự mà xối. Xối xong,
quán môn chữ Phạ (व, Va) trong tro ấy, sắc thuần trắng. Từ chữ ấy, sanh ra năm chữ, tức là A
Vãm Lãm Hám Khiếm (A, Vaṃ, Raṃ, Haṃ, Khaṃ), trì năm luân ấy. Kế đó, nói chữ
Ám ở trên đỉnh đầu chuyển thành Trung Thai Tạng. Lại từ chữ ấy, sanh ra ba tầng
lửa sáng:
- Một tầng nhiễu quanh cổ họng.
Nó chiếu đến đâu, chư tôn đều hiện, liền thành viện thứ nhất của Mạn-đồ-la.
- Tầng ánh sáng kế đó nhiễu
khắp quanh tim, chư tôn đều hiện theo đó, thành tầng thứ hai của Mạn-đồ-la.
- Tầng ánh sáng kế đó, nhiễu
khắp quanh rốn, thành tầng thứ ba của Mạn-đồ-la.
Lúc bấy giờ, các đệ tử đều
thành thân Mạn-đồ-la. Nếu giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật hơn, sẽ là thân
phổ môn pháp giới.
(Kinh) Thứ ưng chấp kim bễ, tại ư bỉ tiền trụ, ủy dụ linh hoan hỷ, thuyết
như thị già-tha: “Phật tử! Phật vị nhữ, quyết trừ vô trí mạc, do như thế y
vương, thiện dụng dĩ kim trù”. Trì chân ngôn hành giả, phục đương chấp minh
kính, vị hiển vô tướng pháp, thuyết thị diệu già-tha: “Chư pháp vô hình tượng,
thanh trừng vô cấu trược, vô chấp ly ngôn thuyết, đản tùng nhân nghiệp khởi. Như
thị tri thử pháp, tự tánh vô nhiễm ô, vi thế vô tỷ lợi, nhữ tùng Phật tâm
sanh”. Thứ đương thọ pháp luân, trí dĩ nhị túc gian. Huệ thủ truyền pháp loa,
phục thuyết như thị kệ: “Nhữ tự ư kim nhật, chuyển ư cứu thế luân, kỳ thanh phổ
châu biến, xuy vô thượng pháp loa. Vật sanh ư dị huệ, đương ly nghi hối tâm.
Khai thị ư thế gian, thắng hạnh chân ngôn đạo. Thường tác như thị nguyện, tuyên
xướng Phật ân đức, nhất thiết Trì Kim Cang, giai đương hộ niệm nhữ”.
(經)次應執金篦,在於彼前住,慰喻令歡喜,說如是伽他:佛子佛為汝,決除無智膜,猶如世醫王,善用以金籌。持真言行者,復當執明鏡,為顯無相法,說是妙伽他:諸法無形像,清澄無垢濁,無執離言說,但從因業起。如是知此法,自性無染污,為世無比利,汝從佛心生。次當授法輪,置以二足間,慧手傳法螺,復說如是偈:汝自於今日,轉於救世輪,其聲普周遍,吹無上法螺。勿生於異慧,當離疑悔心,開示於世間,勝行真言道。常作如是願,宣唱佛恩德,一切持金剛,皆當護念汝。
(Kinh: Kế nên cầm kim vàng, đứng trước mặt người ấy, khuyên nhủ
khiến hoan hỷ, nói già-tha thế này: “Phật tử! Phật vì ngươi, gỡ bỏ màng vô trí,
như y vương trong đời, khéo sử dụng đũa vàng”. Hành giả trì chân ngôn, lại nên
cầm gương sáng, hiển thị pháp vô tướng, nói kệ mầu nhiệm này: “Các pháp không
hình tượng, lắng trong, không nhơ đục, chẳng chấp, lìa ngôn thuyết, chỉ từ nhân
nghiệp khởi. Biết pháp này như thế, tự tánh chẳng nhuốm bẩn, lợi khôn sánh
trong đời, ngươi sanh từ tâm Phật”. Kế nên trao pháp luân, đặt ở giữa hai chân,
tay Huệ (tay phải) truyền ốc pháp, lại nói kệ thế này: “Ngươi từ nay trở đi,
xoay chuyển luân cứu đời, tiếng vang rền trọn khắp, thổi ốc pháp vô thượng, đừng
nẩy sanh dị huệ, nên lìa tâm nghi hối. Khai thị trong thế gian, đạo chân ngôn
thắng hạnh. Thường nguyện như thế ấy, tuyên xướng Phật ân đức, hết thảy Trì Kim
Cang, sẽ đều hộ niệm ngươi”).
Kế đó, dẫn các đệ tử tới một
chỗ, A-xà-lê đích thân khoác áo cho đệ tử, lụa trắng bịt đầu, dùng hương bôi
lên thân, trang điểm bằng tràng hoa, dâng hương, đèn sáng, đúng như pháp cúng
dường, cánh tay cũng buộc chỉ kim cang, cũng như vòng cổ tay, nhẫn đeo nơi ngón
tay. Cách tạo tác như đã nói trong phần Tất Địa Cúng Dường. Lại nữa, trước đó,
A-xà-lê dùng chữ Ra để gia trì kim vàng, dùng chữ Mãn để gia trì gương sáng,
pháp luân, ốc pháp (tù và), dùng chân ngôn gia trì pháp luân và thương-khư (ốc
pháp). Lại còn ở trước đệ tử, dùng kim vàng khêu sáng mắt để nói kệ, hãy nên
quán môn chữ Ra để trừ sạch cấu chướng trong mắt người ấy. Kế đó, lại đối trước
người ấy, chỉ bày gương sáng, vì người ấy nói kệ, hãy nên quán môn chữ Mãn để tịnh
trừ cấu chướng trong tâm. Kế đó, cầm pháp luân đặt giữa hai chân người ấy, cũng
trao cho thương-khư để cầm trong tay phải, vì người ấy nói kệ. Đối với mỗi món,
đều dùng chân ngôn của vật ấy để trì. Vì sao vậy? Nếu hành nhân ấy có thể dùng
mắt thanh tịnh để trong hiện tiền tự quán tâm kính, tức là thành tựu đại Bồ Đề.
Thành đại Bồ Đề rồi sẽ chuyển pháp luân. “Chuyển
pháp luân” chẳng phải là hạn định số lượng chừng bao nhiêu đó, mà
là giác ngộ hết thảy chúng sanh. Vì thế,
thổi ốc pháp lớn. Phàm trong tông Bí Mật, đều nói nhân duyên sự tướng để sánh
ví ý chỉ sâu xa, cho nên trao truyền như thế đó.
(Kinh) Thứ đương ư đệ tử, nhi khởi bi niệm tâm, hành giả ư nhập trung,
thị tam-muội-da kệ: “Phật tử! Nhữ tùng kim, bất tích thân mạng cố, thường bất
ưng xả pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận nhất thiết pháp, bất lợi chúng sanh hạnh.
Phật thuyết tam-muội-da. Nhữ thiện trụ giới giả, như hộ tự thân mạng, hộ giới
diệc như thị. Ưng chí thành cung kính, khể thủ thánh tôn túc, sở tác tùy giáo
hành, vật sanh nghi lự tâm.
(經)次當於弟子,而起悲念心,行者應入中,示三昧耶偈:佛子汝從今,不惜身命故,常不應捨法、捨離菩提心、慳悋一切法、不利眾生行,佛說三昧耶,汝善住戒者,如護自身命,護戒亦如是。應至誠恭敬,稽首聖尊足,所作隨教行,勿生疑慮心。
(Kinh: Kế nên, với đệ tử, dấy lên tâm bi niệm, hành giả vào
trong ấy, dạy kệ tam-muội-da: “Phật tử! Ngươi từ nay, do chẳng tiếc thân mạng,
thường chớ nên xả pháp, lìa bỏ tâm Bồ Đề, keo kiệt hết thảy pháp, hạnh chẳng lợi
chúng sanh. Phật nói tam-muội-da. Ngươi khéo trụ trong giới, như thủ hộ thân mạng.
Thủ hộ giới cũng thế. Nên chí thành cung kính, lễ dưới chân thánh tôn, vâng lời
dạy mà hành, đừng sanh tâm lo ngờ).
Kế đó, A-xà-lê cũng nên cầm
lọng che phía trên, dẫn họ nhiễu quanh Mạn-đồ-la ba vòng, trước hết nhiễu quanh
chỗ đi lại thuộc tầng thứ nhất trong đàn tràng, kế đó nhiễu quanh chỗ đi lại
thuộc tầng thứ hai, cuối cùng nhiễu quanh chỗ đi lại thuộc tầng thứ ba. Khi đi
nhiễu như thế, A-xà-lê hãy nên dùng các bài kệ cát tường, cực cát tường v.v… hoặc
có thể tụng kệ cát khánh bằng tiếng Phạn. Làm xong xuôi, lại tới chỗ hai vị
long vương ở hai bên nách của cửa Tây, bảo đệ tử ân cần lễ bái. Cái lọng ấy nên
thuận theo mà che trên, che dưới. Thầy liền vì trò nói tam-muội-da kệ, đó chính
là bốn loại trọng cấm trong Bí Mật Tạng. Các bài kệ ấy đều là A Lợi Sa kệ,
trong phần sau sẽ giải thích. Kinh Cù Hê nói: “Đệ tử chí Tây môn lễ bái dĩ, A-xà-lê đương bạch chư tôn vân: ‘Ngã mỗ
giáp dĩ dữ mỗ giáp quán đảnh cánh, kim phó chúc chư tôn, linh trì minh tạng’.
Tác thị ngữ dĩ, ưng đương phóng tán, linh kỳ khởi lập, đối Mạn-đồ-la tiền, vị
thuyết tam-muội-da giới: - Nhữ kim dĩ thành tựu Mạn-đồ-la trì minh A-xà-lê
cánh, chư Phật, Bồ Tát, cập Chân Ngôn Chủ, nhất thiết thiên thần dĩ cộng tri nhữ.
Nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, lân mẫn bỉ cố, đương vị kiến lập Mạn-đồ-la,
nhi giáo thọ chi” (Đệ tử đến cửa Tây lễ bái xong, A-xà-lê hãy nên bạch với
chư tôn rằng: “Con là X… đã quán đảnh cho Y…, nay phó chúc chư tôn dạy kẻ ấy
trì minh tạng”. Nói lời ấy xong, hãy nên bỏ lọng, bảo người ấy đứng lên, đối
trước Mạn-đồ-la, vì người ấy nói tam-muội-da giới: - Ngươi nay đã thành tựu Mạn-đồ-la
trì minh A-xà-lê. Chư Phật, Bồ Tát, và Chân Ngôn Chủ, hết thảy thiên thần đều
cùng biết ngươi. Nếu thấy chúng sanh kham làm pháp khí, vì thương xót họ, hãy
vì họ mà kiến lập Mạn-đồ-la để dạy bảo).
Nhưng trong kinh này có bài
kệ truyền pháp loa. Như người ở phương Tây (Ấn Độ) khi [đồng tử trong hoàng thất]
thọ pháp Quán Đảnh, sẽ lấy nước từ bốn biển, và nước từ hết thảy các sông trong
đất nước, sắp đặt đầy đủ các thứ báu, thuốc, hạt lương thực v.v… Làm địa đồ của
đất nước, bảo đồng tử ngồi xổm trên tòa sư tử, dùng đủ loại trân bảo để trang
nghiêm. Các quyến thuộc lớn nhỏ thuộc quyền thống lãnh [của hoàng đế] theo thứ
tự chầu hầu. Vi Đà phạm chí sư ngồi trên voi báu, sau khi đã đến nơi, bèn cầm
bình nước báu ấy rưới lên ngà voi để xối lên đỉnh đầu [đứa trẻ ấy]. Sau đó, xướng
lời bảo ban mọi người. Lại tán thán, diễn nói cách cai trị, cứu đời của bậc
vương giả tiên triết thuở trước: “Tùy
thuận làm theo như thế, sẽ đạt được thọ mạng dài lâu, quyến thuộc đông đảo, kế
tục hưng thịnh sự nghiệp Chuyển Luân. Nếu chẳng làm chuyện như thế, ắt sẽ thoái
thất địa vị, mất mạng, tuyệt tự”. Mỗi mỗi đều răn bảo như thế. Nay pháp
quán đảnh của pháp vương chẳng giống như vậy, phơi bày đồ họa to lớn của pháp
giới trong cõi Phật mật nghiêm, ngồi trên tòa sư tử thần thông tự tại của Diệu
Pháp Liên Hoa, dùng nước từ bi trí huệ từ bản tánh thanh tịnh, chứa đủ vạn đức
để rưới cái tâm này. Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát cho tới tám bộ chúng sanh,
không ai chẳng hoan hỷ, tán thán, sanh lòng kính ngưỡng. Khi đó, A-xà-lê dùng
di huấn của đấng pháp vương để giáo huấn. Từ đấy trở đi, [người được quán đảnh]
sẽ được sanh trong nhà Như Lai, nhất định kế tục địa vị Phật. Nếu chẳng đối trước
đệ tử nói rõ như thế, [đệ tử] sẽ chẳng biết tôn trọng chánh pháp.
* Cát Khánh A Lợi Sa Kệ (trích từ kinh Phạ Nhật Ra A Tỵ Dữu – Vajrābhyutthāna sūtra, tiếng
Hán dịch là Kim Cang Khởi Kinh)
(Sớ)[141] Lạc
cật sáp mị (cát tường dã), đạt ra (trì dã) kiến giả nẵng (kim dã), bát lạt ma
(sơn dã), đa bà (quang dã), tất đát rị lộ ca (tam thế dã), nẵng tha (đạo dã) tất
đát rị (tam dã), mãng la (cấu dã) bát ra hệ noa (trừ dã), một độ (Phật dã) vi một
đản (khai phu dã), mẫu đồ (thủy sanh dã), bát đát ra (diệp dã), nê đát rô (nhãn
dã), đát mộng nghiệt lam (thị bỉ khánh dã), hệ đa yết lam (nhiêu ích dã), bát
ra tha môn (tối sơ dã), bát ra xã nan (dẫn chư chúng sanh dã. Nhất kệ).
(疏)落吃澁弭(吉相也)達囉(持也)。建者曩(金也)鉢喇麼(山也)多婆(光也)。悉怛哩路迦(三世也)曩他(導也)。悉怛哩(三也)莽羅(垢也)鉢囉係拏(除也)。沒度(佛也)。微沒誕(開敷也)畝闍(水生也)。鉢怛囉(葉也)泥怛嚧(眼也)。怛懵蘗藍(是彼慶也)係多羯藍(饒益也)。鉢囉他門(最初也)。鉢囉社難(引諸眾生也。一偈)
(Sớ: Lạc cật sáp mị (cát tường), đạt ra (trì)
kiến giả nẵng (vàng), bát lạt ma (núi), đa bà (quang minh), tất đát rị lộ ca
(ba đời), nẵng tha (hướng dẫn) tất đát rị (ba), mãng la (dơ bẩn) bát ra hệ noa
(trừ), một độ (Phật) vi một đản (nở xòe), mẫu đồ (sanh từ nước), bất đát ra
(lá), nê đát rô (mắt), đát mộng nghiệt lam (là điều họ vui mừng), hệ đa yết lam
(lợi ích), bát ra tha môn (tối sơ), bát ra xã nan (dẫn dắt các chúng sanh. Đây
là bài kệ thứ nhất).
(Sớ) Đế nộ ba nễ sắt trá (bỉ sở tuyên thuyết dã) bát ra phạ ra (thắng
pháp dã) tất đát phạ nhận bỉ dã (bất động dã), khế đa (tuyên thuyết dã) tất đát
rị lộ kế (tam thế dã) nại ra (nhân dã) nê phạ bố nhĩ dã (ưng cúng dường dã) đạt
ra mộ (pháp dã) chiêm mãng (thù thắng dã) phiến để (tịch dã) yết ra (năng tác
dã), bát ra xã nan (chư chúng sanh) lộ kế (thế gian) nễ vĩ để diên (đệ nhị dã)
thâu bà (thiện dã) mộng nghiệt ram đam (gia khánh dã. Nhị kệ).
(疏)諦怒波儞瑟吒(彼所宣說也)。鉢囉嚩囉(勝法也)。悉怛嚩釰粃也(不動也)。契多(宣說也)。悉怛哩路計(三世也)。捺囉(人也)泥嚩布爾也(應供養也)。達囉慕(法也)瞻莽(殊勝也)扇(寂也)羯囉(能作也)。鉢囉社難(諸眾生)路計(世間)儞尾底延(第二也)輸婆(善也)。懵蘗藍儋(嘉慶也。二 偈)
(Sớ: Đế nộ ba nễ sắt trá (điều được tuyên nói) bát ra phạ ra
(pháp thù thắng) tất đát phạ nhận bỉ dã (bất động), khế đa (tuyên thuyết) tất
đát rị lộ kế (ba đời) nại ra (người) nê phạ bố nhĩ dã (đáng nên cúng dường) đạt
ra mộ (pháp) chiêm mãng (thù thắng) phiến để (tịch) yết ra (có thể làm), bát ra
xã nan (các chúng sanh) lộ kế (thế gian) nễ vĩ để diên (thứ hai) thâu bà (thiện)
mộng nghiệt ram đam (vui mừng cát khánh. Kệ thứ hai).
(Sớ) Tát đạt lạt ma (chánh pháp dã) dục cật đa (tương ứng dã) thất rô để
(văn dã) mộng nghiệt la (hỷ khánh dã) trì tà (tuyên dã) tăng cù (chúng dã) đản
lật (nhân dã) nê phạ (thiên dã), tố la (phi thiên dã) nặc cật tỷ nị dã (ứng
cúng giả) hiệt rị (quý dã) thất rị (cát tường dã), ngu nĩnh (công đức dã) trì
da (phú dã) bát ra phạ lam (thù thắng dã), nghiễn nĩnh nan (chúng dã) lộ kế (thế
gian dã) đát rị để diên (đệ tam dã) thâu bà (thiện dã) mộng nghiệt đam (khánh
gia dã. Tam kệ)
(疏)薩達喇摩(正法也)欲吃多(相應也)室嚕底(聞也)懵蘗邏(喜慶也)遲邪(宣也)僧忂(眾也)𭈂栗(人也)泥嚩(天也)素囉(非天也)諾吃屣膩也(應供者)頡唎(愧也)室唎(吉祥也)麌儜(功德也)遲耶(富也)鉢囉嚩藍(殊勝也)巘儜難(眾也)路計 (世間也)怛哩底延(第三也)輸婆(善也)懵蘗儋(慶嘉也。三 偈)
(Sớ: Tát đạt lạt ma (chánh pháp) dục cật đa (tương ứng) thất rô
để (nghe) mộng nghiệt la (vui mừng) trì tà (tuyên nói) tăng cù (đại chúng) đản
lật (người) nê phạ (trời), tố la (phi thiên) nặc cật tỷ nị dã (đấng ứng cúng)
hiệt rị (thẹn), thất rị (cát tường), ngu nĩnh (công đức) trì da (giàu) bát ra
phạ lam (thù thắng), nghiễn nĩnh nan (đại chúng) lộ kế (thế gian) đát rị để
diên (thứ ba) thâu bà (tốt lành) mộng nghiệt đam (vui mừng tốt lành. Kệ thứ
ba).
(Sớ) Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) đổ
sử đa nê phạ (thăng Đâu Suất Thiên dã), vi mãng nẵng (cung dã) nghiệt lạt sa na
tứ (diệc như dã) nễ hà (thử dã) phạ đa la (hạ dã), đổ nhã nghiệt đổ (ư chúng
sanh dã) hệ đa dã (lợi ích dã) tắc ấn nại lại (dữ Đế Thích) tố lại (thiên dã),
bát rị vật lật đát tả (vi nhiễu giả) đát tha nghiệt đa tả (Như Lai giả), đát mộng
nghiệt (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để (tịch dã) yết lam (tác dã) đát
phạ nễ dã (kim nhật dã. Tứ kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)覩史多泥嚩(昇兜率天也)微莾曩(宮也)蘗喇娑那賜(亦如也)儞何(此也)嚩多羅(下也)覩若蘗覩(於眾生也)係多也(利益也)塞印捺嬾(與帝釋)素𡃤(天也)鉢哩勿栗怛寫(圍遶者)怛他蘗多寫(如來也)。怛懵蘗(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底(寂也)羯藍(作也)哆嚩儞也(今日也。四偈)
(Sớ: Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng
rỡ ấy) đổ sử đa nê phạ (thăng lên trời Đâu Suất), vi mãng nẵng (cung điện) bách
lạt sa na tứ (cũng giống như), nễ hà (cái này) phạ đa la (dưới), đổ nhã nghiệt
đổ (nơi chúng sanh), hệ đa dã (lợi ích) tắc ấn nại lại (và Đế Thích) tố lại (trời),
bát rị vật lật đát tả (vây quanh), đát tha nghiệt đa tả (Như Lai), đát mộng
nghiệt (sự mừng rỡ ấy) bà phạ đổ (đạt được) phiến để (tịch) yết lam (làm) đát
phạ nễ dã (ngày nay. Kệ thứ tư).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bổ ra (cung thành dã) phạ lê (thắng dã)
Ca Bỉ La (cổ vân Ca Tỳ La), ha phạ duệ giá (danh dã) nễ phệ (thiên dã) ma ha (đại
dã) đát ma tỳ (đức dã) đá phạ nễ nễ đát tả (kính lễ giả dã) a tứ (diệc như dã)
na chấn để dã (bất tư nghị dã), đản xá la tả (thiện giả), đát tha nghiệt đa tả
(Như Lai dã) đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để yết
lam (tịch nễ dã) đát phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Ngũ kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)補囉(宮城也)嚩𠼐(勝也)迦粃羅(古云迦毘羅)訶嚩曳遮(名也)儞吠(天也)麼訶(大也)怛麼毘(德也)哆嚩儞儞怛寫(敬禮者也)阿賜(亦如也)梛震底也(不思議也)但舍邏寫(善者)怛他蘗多寫(如來也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底羯藍(寂儞也)怛嚩儞也(汝今日也。五偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng rỡ ấy) bổ ra (cung thành) phạ lê (thù thắng)
Ca Bỉ La (xưa kia nói là Ca Tỳ La), ha phạ duệ giá (danh) nễ phệ (trời) ma ha
(lớn) đát ma tỳ (đức) đá phạ nễ nễ đát tả (kính lễ), a tứ (cũng như thế) na chấn
để dã (chẳng nghĩ bàn), đản xá la tả (thiện), đát tha nghiệt đa tả (Như Lai)
đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy), bà phạ đổ (đạt được) phiến để yết lam (tịch
nễ) đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay. Bài kệ thứ năm).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) chỉ sa la du (hoa chi điều dã) nhập phạ
la (quang dã) bổ sáp ba (hoa dã) na đề (nghiêm sức dã) lam mê giá (duyệt lạc
dã) lâm mị ni (viên danh) phạ ninh (viên dã) ma hộ (vô lượng dã) nê phạ (thiên
dã) nhũ sắt sái (sở cư dã) nẵng tha tả (đạo sư dã) nhiên mãng nễ (đản sanh dã)
phạ bộ phạ (thời dã) bà phạ đa ca tả (hữu tận giả), đát mộng nghiệt lam (bỉ
khánh dã) bà phạ đô (đắc dã) phiến để ca lam đát phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Lục
kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)枳娑攞瑜(花枝條也)入嚩攞(光也)補澁波(花也)梛提(嚴飾也)藍迷遮(悅樂也)啉弭尼(園名)嚩寧(園也)麼護(無量也)泥嚩(天也)乳瑟𪘜(所居也)曩他寫 (導師也)然莽儞(誕生也)嚩部嚩(時也)婆嚩多迦寫(有盡者)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩都(得也)扇𫪭迦藍怛嚩儞也(汝今日也。六偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) chỉ sa la du (cành nhánh hoa) nhập
phạ la (ánh sáng) bổ sáp ba (hoa) na đề (trang hoàng đẹp đẽ), lam mê giá (vui
sướng) lâm mị ni (tên vườn) phạ ninh (vườn) ma hộ (vô lượng) nê phạ (trời) nhũ
sắt sái (cư trú) nẵng tha tả (đạo sư) nhiên mãng nễ (hạ sanh) phạ bộ phạ (thời)
bà phạ đa ca tả (có cùng tận), đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy) bà phạ đô
(đạt được) phiến để ca lam đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay. Bài kệ thứ sáu).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) vĩ vĩ đà (chủng chủng dã) nậu khư (khổ
dã) nang thiết nẵng da (trừ diệt dã) đổ sắt thất dã (hỷ duyệt dã) đát bố phạ nẵng
(khổ hạnh xứ dã) mãng tỵ (thú dã) một la nhã đổ (vãng dã) lại đà ra đát lê
(trung dạ dã) a tứ (diệc như dã) tố lại (thiên chúng dã) bá rị vật lật đát tả
(vi nhiễu giả) nạp mãng (lễ dã) tắc cật lật đát tả (tác giả) đát mộng bệ lam (bỉ
khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (nhữ
kim nhật dã. Thất kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)。尾尾馱(種種也)䅶佉(苦也)囊設曩耶(除滅也)賭瑟室也(喜悅也)怛布嚩曩(苦行處也)莽避(趣也)。沒囉若覩(往也)𡃤馱囉怛𠼐(中夜也)阿賜(亦如也)素𡃤(天眾也)播唎勿栗怛寫(圍遶者)納莽(禮也)塞吃栗怛寫(作者)怛懵𧂸藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。七偈)
(Sớ:
Duệ mộng nghiệt lam (như sự mừng rỡ ấy) vĩ vĩ đà (các loại)
nậu khư (khổ) nang thiết nẵng da (trừ diệt) đổ sắt thất
dã (mừng vui) đát bố phạ nẵng (chỗ khổ hạnh) mãng tỵ (tiến đến) một la nhã đổ
(đi qua), lại đà ra đát lê (nửa đêm) a tứ (cũng như thế) tố lại (các vị trời),
bá rị vật lật đát tả (vây quanh) nạp mãng (lễ bái) tắc cật lật đát tả (người
làm) đát mộng bệ lam (sự vui mừng ấy) bà phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo
sự vắng lặng) đát phạ nễ dã (ngươi ngày nay. Bài kệ thứ bảy).
(Sớ)
Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bộ nhã già (long dã) ra xà (vương dã) nạp
mãng tắc cật lật đát tả (tác lễ giả) nại nễ dạ (hà dã) tát đá sái (ngạn dã) bát
lý vật lật đát tả (vi nhiễu giả) hệ giả sái bán để dã (điểu hàng liệt dã) phiến
để lật tha (tịch nghĩa dã) mãng nại bộ đan (kỳ dã) mãng bộ (đắc dã) ốt bà phạ
(hữu dã) tô nại nẵng tả (đoạn trừ giả dã) đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà
phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (kim nhật dã. Bát kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)部若伽(龍也)囉闍(王也)納莽塞吃栗怛寫(作禮者)捺儞夜(河也)薩跢𮭮(岸也)鉢履勿栗怛寫(圍遶者)係者灑半𫪭也(鳥行列也)扇𫪭栗他(寂義也)莽捺部單(奇也)莽部(得也)嗢婆嚩(有也)蘇捺曩寫(斷除者也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(今日也。八偈)
(Sớ: Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bộ nhã già (rồng)
ra xà (vua) nạp mãng tắc cật lật đát tả (làm lễ) nại nễ dạ (sông) tát đá sái (bờ)
bát lý vật lật đát tả (vây quanh) hệ giả sái bán để dã (chim sắp thành hàng)
phiến để lật tha (ý nghĩa tịch tĩnh) mãng nại bộ đan (lạ lùng) mãng bộ (đạt được)
ốt bà phạ (có) tô nại nẵng tả (đoạn trừ) đát mộng nghiệt lam (sự mừng vui ấy)
bà phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo sự tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ngày hôm
nay. Kệ thứ tám).
(Sớ) Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bạc già phạt đổ (Thế Tôn dã)
tốt rô mãng (thụ dã) ra xà (vương dã) mộ lê (căn hạ dã) muội để rị (từ tâm dã)
mạt lệ nẵng (lực dã) vi nhĩ đế (hàng phục bỉ dã) mạc hồ (vô lượng dã) mang ra
(ma dã) bác cật sô (đảng dã) nang nang (chủng chủng dã) bát ra ca ra (dị loại
dã) mãng bà phạ (hữu dã) na bộ vĩ (biến nhân gian dã) chiêm mạt lệ giả (chí
thiên dã), đát mộng nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam
(tịch tác dã) đát
phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Cửu kệ).
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)薄伽伐覩(世尊也)。窣嚕莽(樹也)囉闍(王也)慕𠼐(根下也)昧底唎(慈心也)沫麗曩(力也)微爾帝(降伏彼也)莫胡(無量也)忙囉(魔也)博吃蒭(黨也)囊囊 (種種也)。鉢囉迦羅(異類也)莽婆嚩(有也)娜部尾(遍人間 也)瞻沫麗者(至天也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇底迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。九偈)
(Sớ: Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bạc già phạt đổ
(Thế Tôn), tốt rô mãng (cây cối) ra xà (vua) mộ lê (bén rễ) muội để rị (từ tâm)
mạt lệ nẵng (lực) vi nhĩ đế (hàng phục kẻ đó) mạc hồ (vô lượng) mang ra (thiên
ma) bác cật sô (bè lũ) nang nang (các thứ) bát ra ca ra (dị loại) mãng bà phạ
(có) na bộ vĩ (khắp nhân gian) chiêm mạt lệ giả (tới trời), đát mộng nghiệt lam
(sự vui mừng ấy), bà phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo tịch tĩnh) đát phạ
nễ dã (ngươi hôm nay. Kệ thứ chín).
(Sớ) Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) bát ra phạ na đô phạ ra (thượng
diệu dã) đạt ra mãng (pháp dã) chước cật lệ (luân dã) phạ la nại tư (cổ viết Ba
La Nại), tất thể đa (trụ dã) phạ đa (ư dã) tô nghiệt đát tả (thiện thệ giả) xá
tốt đổ (đạo sư dã) hạt đế bộ đam (hy kỳ dã) bộ phí (nhân gian dã) phạ bộ (thời
dã) bà phạ đa ca tả (hữu tận giả), đát mộng nghiệt lạm (bỉ khánh dã) bà phạ đổ
(đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát phạ nễ dã (kim nhật dã. Thập kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)鉢囉嚩娜都嚩囉(上妙也)達囉莽(法也)斫吃囇(輪也)嚩囉捺斯(古曰波羅奈)悉𭍑多(住也)嚩多(於也)蘇蘗怛寫(善逝者)舍窣覩(道師也)曷諦部儋(希奇也)部費(人間也)嚩簿(時也)婆嚩多迦寫(有盡者)怛懵蘗灆 (彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(今日也。十偈)
(Sớ: Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) bát ra phạ na đô
phạ ra (thượng diệu) đạt ra mãng (pháp) chước cật lệ (luân) phạ la nại tư (xưa
kia nói là Ba La Nại), tất thể đa (trụ) phạ đa (trong) tô nghiệt đát tả (đấng
Thiện Thệ) xá tốt đổ (đạo sư) hạt đế bộ đam (hiếm lạ) bộ phí (nhân gian) phạ bộ
(thời) bà phạ đa ca tả (có cùng tận), đát mộng nghiệt lạm (sự vui mừng ấy) bà
phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ngày nay. Kệ thứ mười)
(Sớ) Duệ mộng nghiệt lam (như bỉ khánh dã) hệ đa yết lam (tác lợi ích
dã) bát ra môn (đệ nhất dã) bả vĩ đát lạm (cát nghĩa dã) bổn nật dã (phước dã)
cật rị da (lợi dã) ca la nĩnh (nhiêu ích dã) mang rị dã (thánh dã) nhã nang
(chúng dã) tỳ nhũ sắt (xưng tán dã) cật lật tha nẵng (biến dã) nhã già na (thuyết
dã) bạc già phạm (Thế Tôn dã) mâu ni thước cật dã tăng ha (sư tử dã) đát mộng
nghiệt lam (bỉ khánh dã) bà phạ đổ (đắc dã) phiến để ca lam (tịch tác dã) đát
phạ nễ dã (nhữ kim nhật dã. Thập nhất kệ)
(疏)曳懵蘗藍(如彼慶也)係多羯藍(作利益也)鉢囉門(第一也)跛尾怛灆(吉義也)本昵也(福也)吃唎耶(利也)迦羅儜 (饒益也)忙哩也(聖也)若囊(眾也)毘乳瑟(稱讚也)吃栗瑳曩 (遍也)若伽娜(說也)薄伽梵(世尊也)牟尼鑠吃也僧訶(師子 也)怛懵蘗藍(彼慶也)婆嚩覩(得也)扇𫪭迦藍(寂作也)怛嚩儞也(汝今日也。十一偈)
(Sớ: Duệ mộng nghiệt lam (như sự vui mừng ấy) hệ đa yết lam (tạo
lợi ích) bát ra môn (đệ nhất) bả vĩ đát lạm (ý nghĩa tốt lành) bổn nật dã (phước)
cật rị da (lợi) ca ra nĩnh (lợi ích) mang rị dã (thánh) nhã nang (chúng) tỳ nhũ
sắt (khen ngợi), cật lật tha nẵng (trọn khắp) nhã già na (nói) bạc già phạm (Thế
Tôn) mâu ni thước cật dã tăng ha (sư tử) đát mộng nghiệt lam (sự vui mừng ấy)
bà phạ đổ (đạt được) phiến để ca lam (tạo tác tịch tĩnh) đát phạ nễ dã (ông
ngày nay. Kệ thứ mười một).
[Dưới đây là các bài kệ dịch nghĩa của các bài kệ bằng tiếng Phạn trên
đây]:
(Sớ) Trì cát tường chúng đức, cụ tướng kim sơn quang, tam thế chi đạo
sư, trừ diệt ư tam cấu, khai phu chánh giác nhãn, do như thủy sanh diệp. Thị
nhiêu ích chúng sanh, tối sơ chi thiện khánh.
(疏)持吉祥眾德,具相金山光,三世之導師,除滅於三垢,開敷正覺眼,猶如水生葉,是饒益眾生,最初之善慶。
(Sớ: Giữ các đức cát tường, núi vàng đủ tướng sáng, đạo sư của
ba đời, trừ diệt hết tam cấu, nở bừng mắt Chánh Giác,
ví như cánh hoa sen. Điều thiện khánh tối sơ, nhằm lợi ích chúng sanh).
Trong bài kệ trên đây, trước
hết nêu ra nguyên do vì sao hết thảy các điều cát khánh (vui mừng tốt lành)
sanh khởi: Đều do Như Lai xuất thế. Vì thế, tiếng Phạn nói là Lạc-cật-sáp-mị (Lakṣmī), dịch nghĩa là Cát Tường Tướng, hoặc dịch
là Cụ Tướng (tướng trọn đủ), cũng mang ý nghĩa “điều mừng vui tốt đẹp, cát tường,
cát khánh, sự ủy dụ đẹp đẽ, oai đức, tướng mạo tốt đẹp”. Hãy nên biết danh xưng
này thâu nhiếp hết thảy công đức, vì thế nói theo cách hội ý. “Khai phu” (Nở bừng) trong câu kế đó cũng có nghĩa là “giác ngộ”. “Thủy sanh”
là tên khác của hoa sen. Do có các nghĩa như vậy, Như Lai xuất thế tạo nhiều lợi
ích, cho nên nói là “tối sơ thiện
khánh”, hoặc nói “cát khánh”,
hoặc nói “gia khánh”, đại thể đều
tương đồng!
(Sớ) Cập bỉ sở tuyên thuyết, đệ nhất vô động pháp, khai thị ư tam giới,
nhân thiên ưng cúng dường. Thù thắng pháp năng linh, chư chúng sanh vĩnh tịch,
thị tắc vi thế gian, đệ nhị chi thiện khánh.
(疏)及彼所宣說,第一無動法,開示於三界,人天應供養。殊勝法能令,諸眾生永寂,是則為世間,第二之善慶。
(Sớ: Và Ngài đã tuyên nói, pháp bất động
bậc nhất, khai thị cho tam giới, trời, người nên cúng dường. Pháp thù thắng khiến
cho, chúng sanh vĩnh viễn tịch. Nên là điều thiện khánh, thứ hai trong thế
gian).
Bài kệ trên đây nói hết thảy những điều đức Thế Tôn đã nói đều là rốt ráo
đệ nhất Thật Tế, vì thế nói là “pháp
vô động”. Chữ Khế Đa trong tiếng Phạn có nghĩa là “tuyên thuyết”, cũng có nghĩa là “khai thị”. Trong tam giới này, trong
nguyên bản tiếng Phạn là “tam thế”,
ngụ ý xuyên suốt ba cõi trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Do có thể dạy trọn khắp
thế gian Đệ Nhất Thật Tế, hết thảy trời người đều nên cúng dường pháp này nhằm
báo đại ân. Chữ Phiến Để Yết La (Śāntikara) trong tiếng Phạn dịch nghĩa là Tác
Tịch. Tác là có thể làm, tức là có thể khiến cho đạt được. Pháp này có thể khiến
cho chúng sanh ngộ hết thảy các pháp bản tánh thường tịch, các chướng trong và
ngoài rốt ráo chẳng sanh. Vì thế nói là “vĩnh
tịch”. Các bài kệ sau đều xét theo ý nghĩa này. Do Như Lai xuất thế bèn
có thể tuyên nói pháp này; vì thế nói là “điều thiện thứ
hai”.
(Sớ) Chánh diệu pháp tương ứng, hoạch đắc đa văn khánh, nhân, thiên, Tu
La đẳng, ưng cúng phước điền tăng. Phú cát tường, tàm quý, công đức thù thắng
chúng, thị tắc vi thế gian, đệ tam chi thiện khánh.
(疏)正妙法相應,獲得多聞慶,人天修羅等,應供福田僧。富吉祥慚愧,功德殊勝眾,是則為世間,第三之善慶。
(Sớ:
Chánh diệu pháp tương ứng, đạt niềm vui đa văn, trời, người, Tu La thảy, nên
cúng phước điền tăng, lắm công đức thù thắng, nhiều cát tường, hổ thẹn. Đấy là
điều khánh thiện, thứ ba trong thế gian).
Trong bài kệ trên đây, Tát
Đạt Lạt Ma (Sadharma) trong tiếng Phạn được dịch là Chánh Pháp, hoặc Diệu Pháp,
vì cho đủ số chữ nên ghi cả hai ý. Trong ấy, Tương Ứng là Dục Cật Đa, có nghĩa
là “nên kết hợp như thế”, tức là “khế hợp, ngầm phù hợp”, hơi khác với Du Già.
Câu kế đó, [ý nói] do được nghe nhiều pháp hạnh này, bèn khế hợp lý. Đó là niềm
mừng rỡ to lớn, nên nói là “đa văn
khánh” (vui mừng vì được nghe nhiều). Nếu xét theo cách dịch chính xác, phải nên nói là “phú văn”, nay thuận theo cách dịch cổ.
Lại nữa, danh từ Ưng Cúng ở đây khác với A La Ha. Ưng Cúng ở đây có nghĩa là “các hàng trời, người vì cầu phước nên cúng
dường”. Bài kệ thứ hai nói Phú, có ý nghĩa tương đồng với “phú văn” trong bài trước, cũng có
nghĩa là “đầy đủ, chẳng thiếu khuyết”.
Dồi dào cát tường, tràn trề hổ thẹn, công đức phong phú. Chữ Chúng trong câu cuối
chỉ có nghĩa là nhiều, khác với từ ngữ Tăng Già trong tiếng Phạn, vì Tăng Già
còn có ý nghĩa “hòa hợp”. Do
chánh pháp tạng xuất hiện trong cõi đời, sẽ có người tu hành đạt đến cái quả.
Vì thế nói là điều thiện khánh thứ ba.
(Sớ) Như tại Đâu Suất Đà, thiên cung tàng thời khánh, cập dữ tùng thiên
giáng, lợi ích chư quần sanh, Đế Thích thiên thần chúng, dực tùng Như Khứ giả,
nhữ kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在兜率陀,天宮藏時慶,及與從天降,利益諸群生。帝釋天神眾,翊從如去者 ,汝今得同彼 ,作寂之嘉
慶。
(Sớ: Như tại Đâu Suất Đà, lúc ẩn trong cung trời, và từ trời
giáng xuống, lợi ích các quần sanh. Đế Thích, các thiên thần, chầu hầu đấng Như
Khứ, ngươi nay được giống vậy, mừng rỡ tạo tịch tĩnh).
Trong bài kệ trên đây, chữ
Tạng âm tiếng Phạn là Nghiệt Lạt Bà (Garbha), chính là tâm tạng, hoặc chữ Tạng
trong Trung Thai Tạng, có ý nghĩa khác với Tỷ Trá Ca Câu Xá (Piakakośa) v.v… Như Bồ Tát lúc ở cung trời và
lúc giáng sanh, trong các thế gian có vô lượng vô biên điều tốt lành, vui mừng
như đã được nói cặn kẽ trong các kinh như Hoa Nghiêm v.v… Tu La (Sura, được phiên
âm thành Tốt Lại trong phần phiên âm tiếng Phạn của bài kệ này) tức là các
thiên chúng. Vì muốn phân biệt với chư thiên, nên nói là A Tu La (Phi Thiên).
Các bộ luận như Lập Thế v.v… dịch từ ngữ này (A Tu La) thành Phi Thiên. Lại nữa,
Đát Tha Yết Đa (Tathāgata), dịch là Như
Lai, còn dịch là Như Khứ, hàm ý: Do đạo như thật mà đạt tới Niết Bàn, chẳng còn
sanh nữa, nên gọi như thế, dùng để giải thích ý nghĩa từ cõi trời giáng sanh rất
thuận tiện, cho nên dùng xen lẫn. Nếu cõi trời Đâu Suất có bậc Nhất Sanh Bổ Xứ
Bồ Tát thì Phật chủng trong thế gian chẳng đoạn. Nếu ai thọ địa vị Quán Đảnh
trong bí mật tạng, cho đến trong một đời, có thể thành Chánh Giác. Vì thế nói
là “đồng bỉ khánh” (cùng một niềm
vui mừng ấy).
(Sớ) Như tại Ca Tỳ La, thắng cung thành khánh thời, chư đại oai đức
thiên, xưng thán nhi tác lễ. Do nhược bất tư nghị, như thật thiện lai giả, nhữ
kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在迦毘羅,勝宮城慶時,諸大威德天,稱歎而作禮。猶若不思議,如實善來者,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ: Như tại Ca Tỳ La, lúc ngự cung thù thắng, các trời oai đức
lớn, khen ngợi và làm lễ. Chẳng nghĩ bàn dường ấy, bậc khéo đến như thật. Ngươi
nay được giống thế, mừng vui tạo tịch tĩnh).
“Như bỉ khánh” (Như sự vui mừng ấy) trong bản tiếng
Phạn hàm nghĩa “thời”, các đoạn
sau đều phỏng theo ý này. Đấy là Bồ Tát khi ở trong thai, hết thảy thế gian có
vô lượng chuyện cát khánh, cũng như các phẩm Nhập Pháp Giới và Ly Thế Gian của
kinh Hoa Nghiêm đã nói cặn kẽ. Cho đến mười phương vô lượng các đại Bồ Tát đều
cùng tụ tập trong bụng [của Phật mẫu] vì để nghe pháp. Do vậy, chẳng thể nghĩ
bàn! Đối với ý nghĩa Như Khứ trong bài kệ trước đó, nay dùng “đến thành Chánh Giác” để giải thích
ý nghĩa, cũng là do thuận tiện xét theo ý nghĩa. Như Bồ Tát tuy ở trong thai,
mà hết thảy chư thiên có oai đức lớn, không vị nào chẳng ca ngợi, làm lễ. Ngươi
nay cũng ở trong thai tạng của Hư Không Nhãn Phật Mẫu mà nương gởi thánh thai.
Do vậy, bát bộ long thần đều cùng tôn kính, do vậy nói là “đắc đồng bỉ khánh” (cùng đạt được niềm
vui mừng giống như vậy).
(Sớ) Như tại hoa viên khánh, quang hoa biến nghiêm sức, duyệt lạc Lâm
Vi Ni, vô lượng thiên chúng cư. Đạo sư sơ đản sanh, hữu tận hậu biên thân, nhữ
kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如在華園慶,光花遍嚴飾,悅樂林微尼,無量天眾居。道師初誕生,有盡後邊身,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ: Như mừng tại vườn hoa, hoa quang trang hoàng khắp, vui sướng
Lâm Vi Ni, vô lượng chúng trời ngự. Đạo sư mới đản sanh, đã hết thân hậu hữu,
ngươi nay được giống Ngài, mừng vui tác tịch tĩnh).
Chỉ Sa La Du trong tiếng Phạn
có nghĩa là nhánh cây có hoa trong rừng cây. Kế đó nói Bổ Sáp Ba (Puṣpa) là nói trực tiếp cái Thể của hoa. Như
tràng hoa, tán hoa v.v… đều dùng danh từ này. Vì thế, câu trước đó dùng vườn
hoa để phân biệt cho rõ. Bồ Tát lúc mới đản sanh, trong thế gian cũng có vô lượng
điều vui mừng ứng hiện cát tường, tốt lành, cho đến vô lượng chư thiên do cúng
dường mà vân tập tại vườn Lâm Vi Ni (Lumbinī, Lâm
Tỳ Ni). Lại có vô lượng chẳng thể nghĩ bàn giải thoát Bồ Tát cũng như mây dầy
phủ trăng đồng thời xuất sanh. Ngươi nay cũng vừa mới được đản sanh trong bí mật
tạng, hết thảy các quyến thuộc trong pháp môn đều đã chớm nẩy. Nếu có thể dũng
mãnh, tinh tấn tu hành, cũng sẽ là thân sanh tử cuối cùng. Vì thế nói là “đắc đồng bỉ khánh” (cùng đạt được niềm
vui mừng đó).
(Sớ) Như diệt trừ tại gia, chủng chủng khổ thời khánh, trung dạ tâm
hoan hỷ, vãng nghệ khổ hạnh xứ. Diệc như chư thiên chúng, kính lễ vi nhiễu giả,
nhữ kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi hỷ khánh.
(疏)如滅除在家,種種苦時慶,中夜心歡喜,往詣苦行處。亦如諸天眾,敬禮圍遶者 ,汝今得同彼 ,作寂之喜
慶。
(Sớ: Như lúc vui diệt trừ, các nỗi khổ tại gia, nửa đêm tâm hoan
hỷ, đi tới chỗ khổ hạnh. Cũng như các chúng trời, kính lễ và vây quanh, ngươi
nay được giống vậy, niềm mừng vui tác tịch).
Đây là Bồ Tát khi mới xuất
gia, bản tiếng Phạn chỉ nói “diệt trừ
các nỗi khổ” tức là đã bao gồm ý nghĩa tại gia, đó gọi là “lìa bỏ các nỗi khổ vì ân ái trói buộc”.
Đối với từ ngữ tiếng Phạn của “khổ hạnh
xứ”, dịch sát nghĩa thì phải là “tu
thân xứ”. Như khi Bồ Tát mới bắt đầu vượt thành, đi tới chỗ tu thân, hết
thảy thế gian có vô lượng vô biên chuyện cát khánh, cũng như các kinh Hoa
Nghiêm v.v… đã nói rộng. Lúc bấy giờ, thiên chúng cõi trời Tịnh Cư cho đến các
vị hộ thế đều hết sức hoan hỷ, biết là chẳng lâu sau hoa Ưu Đàm Chánh Biến Giác
sẽ nở tung, thảy đều đảnh lễ, vây quanh, hoặc đích thân nâng chân ngựa đưa đi.
Ngươi nay cũng ở trong tạng bí mật, vừa mới giã biệt cha mẹ vô minh, đi tới chỗ
tu thân sơ pháp minh đạo. Hãy nên biết Tịnh Cư thiên chúng v.v… cũng đều hoan hỷ
kính lễ, biết là không lâu sau sẽ giống như đức Thế Tôn. Vì thế nói là “đắc như bỉ khánh”.
(Sớ) Hựu như bỉ long vương, cung kính lễ thời khánh, hà tân chúng phi
điểu, hoàn nhiễu nhi hàng liệt, đãi hy hữu tịch nghĩa, tương tồi chư hữu giả,
nhữ kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)又如彼龍王,恭敬禮時慶,河濱眾飛鳥,環遶而行列。逮希有寂義,將摧諸有者,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ: Lại như khi vua rồng, vui mừng cung kính lễ, các chim bay bến
sông, vây quanh xếp thành hàng, do tịch nghĩa hiếm có, sẽ dẹp tan các cõi,
ngươi nay được giống vậy, mừng tạo nghĩa tịch tĩnh).
Lúc ấy, Bồ Tát đã thấu đạt
tận nguồn cội khổ hạnh chẳng có nghĩa lợi, tiếp nhận cháo sữa do cô gái chăn bò
[dâng cúng]. Tắm gội trong sông, tướng hảo viên mãn. Lúc bấy giờ, gần bên đường
đi của Phật có điềm lành là vô lượng chim thanh tước như trong kinh Bổn Hạnh đã
rộng nói. Loại chim ấy có tên chánh xác là Táng Sa, giống thanh tước nhưng bé
hơn, ở bên đó (Ấn Độ), thường gọi nó là Tiên Nhân Điểu. Bồ Tát tắm gội xong,
tâm tư duy các pháp vốn vắng lặng, thấy rõ con đường đại Bồ Đề, sanh tâm hiếm lạ,
tự biết ắt có thể dùng thế lực to lớn để phá nát các cõi. Ngay khi đó, lại có
vô lượng vô biên chuyện cát khánh xuất hiện trong thế gian. Ngươi nay cũng ở
trong bí mật tạng, vứt bỏ nỗi khổ do đủ thứ mệt thân nhọc trí chẳng có nghĩa lợi
của chín mươi lăm thứ ngoại đạo, uống cháo sữa chữ A một vị, tăng thêm sắc lực
của thọ mạng thường hằng, dùng pháp thủy thanh tịnh rưới gội thân này, hiểu rõ
tâm vương đại đạo, sẽ đến chỗ “ngồi đạo tràng” của đức Tỳ Lô Giá Na. Vì thế nói
là “đắc đồng bỉ khánh”.
(Sớ) Do như Bà Già Bà, thụ vương hạ thời khánh, dĩ từ tâm lực cố, phá
vô lượng ma quân. Chủng chủng tùy loại hình, biến thiên nhân thế gian, nhữ kim
đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)猶如婆伽婆,樹王下時慶,以慈心力故,破無量魔軍。種種隨類形,遍天人世間,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ: Ví như Bà Già Bà, mừng lúc ngồi dưới cây, do sức của từ
tâm, phá vô lượng ma quân. Tùy loại các thứ hình, trọn thế gian trời, người.
Ngươi nay được giống vậy, vui mừng tạo tịch tĩnh).
Khi đức Thế Tôn ngồi dưới
cây đạo tràng (cây Bồ Đề), hàng phục thiên ma, thành Chánh Giác, hết thảy thế
gian và xuất thế gian đều có đủ loại vui mừng đẹp đẽ, như cây chúa trên cõi trời
là Thượng Xuân Nguyệt trổ hoa chi chít. Tất cả các mong mỏi khi hành Bồ Tát đạo
đã được như ý, liền hiện trọn khắp sắc thân, trọn khắp thế giới, khai hóa chúng
sanh. Lại nữa, “ma quân” được
nói ở đây, chánh âm trong tiếng Phạn là Bác Cật Sô (Pakṣa), có nghĩa là “bè đảng phe cánh”, nay dựa theo cách dịch hội
ý theo lối cổ. Ngươi nay đã phát Bồ Đề tâm, hãy nên biết đã được an tọa dưới cội
giác Sa La thụ vương của đức Phật, dùng thần lực gia trì của Như Lai hàng phục
trọn khắp ma quân. Nếu từ nay trở đi, kiên cố bất động, cho tới khi thấy tâm hiểu
đạo, tức là từ sơ phát tâm liền thành Chánh Giác, dùng Trừ Cái Chướng tam-muội
để hiện trọn khắp thân Mạn-đồ-la. Vì thế nói là “đắc đồng bỉ khánh”.
(Sớ) Như Thiện Thệ đạo sư, trụ ư Ba La Nại, sơ chuyển tối vô thượng,
pháp luân gia khánh thời, kỳ đặc vị tằng hữu, thế gian thời phần tận. Nhữ kim đắc
đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如善逝導師,住於波羅奈,初轉最無上,法輪嘉慶時,奇特未曾有,世間時分盡 ,汝今得同彼 ,作寂之嘉
慶。
(Sớ: Như Thiện Thệ đạo sư, trụ tại Ba La Nại, lúc mới chuyển
pháp luân, vô thượng tốt đẹp nhất, hiếm lạ, chưa từng có, thời phần thế gian hết.
Ngươi nay được giống vậy, mừng vui tạo tịch tĩnh).
Đức Thế Tôn do mười nghĩa
mà chuyển chánh pháp luân, như kinh Hoa Nghiêm v.v… đã rộng nói. Chữ Bát Ra Phạ
Na Đổ Phạ Ra (Pravanatuvara) trong tiếng
Phạn nghĩa là “thượng diệu, thù thắng, bậc nhất trong thế gian, không gì hơn được”,
cho nên nói là “tối vô thượng”.
Lại nữa, những điều đức Thế Tôn đã nói đều vì đại sự nhân duyên, nên nói là “tối vô thượng”. Hết thảy thế gian
trước nay chưa từng nghe, mà cũng chẳng thể chuyển, nên nói là “kỳ đặc” (lạ lùng, đặc biệt). “Chưa từng
có” được ghi trong bản tiếng Phạn là “kỳ
hy”, nay dịch thành [“chưa từng có”] là dịch theo ý. Tự độ các cõi, cũng
khiến cho vô lượng chúng sanh trụ nơi thân tối hậu, cho đến cũng khiến cho ý niệm
nẩy sanh thô trọng vĩnh viễn diệt mất. Nay ngươi cũng thế, trong đời này cho tới
khi đắc Trừ Cái Chướng tam-muội và Ngữ Ngôn Đà La Ni, khởi thần thông tự tại,
cũng sẽ có thể chuyển pháp luân giống như đức Tỳ Lô Giá Na, nên nói là “đắc đồng bỉ khánh”.
(Sớ) Như bỉ vi lợi ích, đệ nhất cát nghĩa khánh, phước lợi sở nhiêu
ích, xưng tán chư thánh chúng, biến thuyết cụ đức tôn, Mâu Ni Thích sư tử, nhữ
kim đắc đồng bỉ, tác tịch chi gia khánh.
(疏)如彼為利益,第一吉義慶,福利所饒益,稱讚諸聖眾。遍說具德尊,牟尼釋師子,汝今得同彼,作寂之嘉慶。
(Sớ: Như vì lợi ích đó, nghĩa cát khánh bậc nhất, phước lợi tạo
lợi ích, ca ngợi các vị thánh, nói trọn đấng đủ đức, Mâu Ni Thích sư tử. Ngươi
nay được giống Ngài, vui mừng tạo tịch tĩnh).
Bản tiếng Phạn ghi là Hệ Đa
(Hita), dịch nghĩa là “lợi ích”.
Kế đó nói Cật Rị Da (Kriyā), phương này dịch
là Lợi. Ca Ra Nĩnh (Karaṇi) dịch là “nhiêu ích” (tạo lợi ích). Vốn là các
danh từ khác biệt, nhưng người truyền thừa chẳng phân biệt. Ví như nói Sơ Tai (初哉), Thủ Cơ (首基), Triệu Tổ (肇祖), Thỉ Thai (元胎), tuy đều [là các danh từ] quy vào vị thỉ tổ, nhưng có đôi chút sai khác. “Lợi ích” trong câu đầu tiên cũng có
nghĩa là “khiến cho đạt được lợi ích”, nhằm kết lại phần kệ tán thán Phật. “Đệ nhất cát nghĩa” trong câu kế tiếp
nhằm kết lại phần kệ tán thán Pháp. Hai câu kế đó nói về cái quả thù thắng được
thành tựu bởi sự tu hành, cúng dường, nhằm tổng kết phần kệ tán thán Tăng. Hai
câu kế đó tổng kết bảy bài kệ nói về bổn hạnh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Nói
tóm lại, hết thảy các công đức như thế đó, nay ngươi đã đạt được trọn vẹn. Lúc
đức Thế Tôn nhập Niết Bàn và thành Chánh Giác chẳng hai, chẳng khác, nhưng nếu
xét theo Thế Đế thì nói “ba cõi trống
rỗng, phước của chúng sanh đã hết”. Vì thế, ẩn đi chẳng nói. Nhưng ở
đây, kết lại Tam Bảo và bổn hạnh của Như Lai, tức là ý nghĩa Đại Niết Bàn. Mười
một bài kệ này trọn đủ vô lượng nghĩa, sẽ được rộng nói phân biệt trong các Tu
Đa La. Do sợ trở ngại cho phần nói về ý nghĩa của Mạn-đồ-la, nên tôi chỉ nêu lời
giải thích đại lược đó thôi!
* Kim trù kệ (kệ đũa vàng - bản tiếng Phạn)
(Sớ) A nhưỡng nẵng (vô trí dã) bát trá lam (mạc dã) phạ tha (Phật tử
dã) a bả nễ than (quyết trừ dã) nhĩ nãi (nhân giả dã) tát-đá phạ (vị nhữ dã) xá
la chỉ (thiện dụng trù dã) muội nễ-dã ra chiết tốt đô (y vương dã) duệ tha lộ yết
tả (như thế gian dã) muội bổ ra (do như dã).
(疏)阿壤曩(無智也)。鉢吒藍(膜也)。嚩瑳(佛子也)。阿跛儞嘽(決除也)爾乃(仁者也)薩哆嚩(為汝也)。舍邏枳(善用籌也)昧儞也囉折窣都(醫王也)。曳他路羯寫(如世間也)。昧補囉(猶如也)。
(Sớ: A nhưỡng nẵng (vô trí) bát trá lam (màng mộng) phạ tha (Phật
tử) a bả nễ than (trừ bỏ) nhĩ nãi (nhân giả) tát-đá phạ (vì ngươi) xá la chỉ
(khéo dùng đũa) muội nễ-dã ra chiết tốt đô (y vương) duệ tha lộ yết tả (như thế
gian) muội bổ ra (giống như).
[Ý nghĩa của bài kệ này
là]: Phật tử! Đức Phật đã vì ngươi trừ bỏ màng mộng vô trí, giống như bậc y
vương trong thế gian khéo dùng đũa vàng. Cách trị bệnh mắt ở phương Tây là dùng
vàng làm đũa, hai đầu tròn trơn nhẵn, ở giữa nhỏ, giống như cái chày, dài chừng
bốn năm tấc. Khi dùng thì bôi thuốc lên hai đầu, dùng mỗi đầu để bôi thuốc lên
một mắt. “Kim bễ” (Chiếc kim bằng vàng để lột màng mộng trong mắt) được nói trong kinh Niết
Bàn thuộc loại này. Trong tâm mục của hết thảy chúng sanh vốn sẵn có tánh tri
kiến của Phật, chỉ vì màng mộng vô trí che lấp, Thật Tướng của các pháp chẳng
thể hiện tiền rõ rệt. Nếu để cho thầy thuốc vụng về chữa trị, không chỉ vô hiệu
mà thôi, hoặc càng tăng thêm màng mộng, hoặc thương tổn tròng mắt! Như Lai
phương tiện trọn đủ, khéo dùng đũa vàng, chẳng giống như thế! Như người thợ đất
Dĩnh[142]
vung búa, tận lực trừ cấu nhơ, nhưng chẳng thương tổn chỗ chẳng thể bị thương!
Nếu có chút nào sai sót, chênh lệch mảy may, sẽ bị Đoạn Không che lấp, chẳng
thành tri kiến vô ngại. Hơn nữa, con mắt bị bệnh ấy thấy tánh của sắc, trong thế
gian dù có bậc y vương hay không, pháp vốn sẵn thành tựu như thế đó, chỉ gặp cơ
hội được chữa trị thì sẽ có thể sáng bừng, chẳng phải do công sức của thuốc và
đũa vàng mới tạo thành vậy! Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã có thí dụ về kẻ
mù, trong ấy đã nói cặn kẽ. Hết thảy chư Phật có đủ loại môn phương tiện, xét đến
chỗ chỉ quy, thảy đều là ý này!
* Minh kính kệ ( kệ gương sáng - bản tiếng Phạn)
(Sớ) Bát-ra để phạ (tượng dã) ma mãng da (hình dã) đạt ma (pháp dã) a
xa (trừng dã) thâu đà (thanh tịnh dã) a nang vĩ la (bất trược dã) a nghiệt-ra hệ
da-nẵng (vô chấp dã) tỳ la tất-dạ thất-giả (ly ngôn thuyết dã) hệ đô (nhân dã)
yết ma (nghiệp dã) tam mẫu ốt bà-phạ (phát khởi dã, nhất kệ). Ế văn (như thị
dã) nhưỡng đát-phạ (tri dã) y doãn man (thử dã) đạt ma (pháp dã) niết sa-phạ bà
phạ (vô tự tánh dã) nẵng nang vi lam (bất trược dã) củ rô (vi dã) tát đát phạ
(hữu tình dã) lạt tha (lợi dã) mãng đổ lam (vô tỷ dã) bột đà nẫm (chư Phật dã)
nhã đa (sanh dã) tất-đát-phạ (nhữ dã) mạo ra sa (tâm dã). Chư pháp vô hình tượng,
thanh trừng vô cấu trược, vô chấp ly ngôn thuyết, đản tùng nhân nghiệp khởi.
Như thị tri thử pháp, tự tánh vô nhiễm ô, vi thế vô tỷ lợi, nhữ tùng Phật tâm
sanh.
(疏)鉢囉底嚩(像也)麼莾耶(形也)。達摩(法也)阿車(澄也)。輸駄(清淨也)阿囊尾羅(不濁也)阿蘗囉係耶曩(無執也)。毘邏必夜室者(離言說也)係都(因也)羯麼(業也)。三母嗢婆嚩(發起也。一偈)。翳文(如是也)壤怛嚩(知也)伊𭾥瞞(此也)達麼(法也)。涅娑嚩婆嚩(無自性也)曩囊微藍(不濁也)。矩嚕(為也)薩怛嚩(有情也)。喇他(利也)莽賭藍(無比也)。勃駄喃(諸佛也)若多(生也)。悉怛嚩(汝也)冒囉娑(心也)。諸法無形像,清澄無垢濁,無執離言說,但從因業起,如是知此法,自性無染污,為世無比利,汝從佛心生。
(Sớ: Bát-ra để phạ (hình tượng) ma mãng da (hình) đạt ma (pháp)
a xa (lắng trong) thâu đà (thanh tịnh) a nang vĩ la (bất trược) a nghiệt-ra hệ-da
nẵng (vô chấp) tỳ la tất-dạ thất-giả (lìa ngôn thuyết) hệ đô (cái nhân) yết ma
(nghiệp) tam mẫu ốt-bà phạ (phát khởi, kệ thứ nhất). Ế văn (như thị) nhưỡng
đát-phạ (biết) y doãn man (cái này) đạt ma (pháp) niết sa-phạ bà phạ (vô tự
tánh) nẵng nang vi lam (chẳng đục) củ rô (làm) tát đát phạ (hữu tình) lạt tha
(lợi) mãng đổ lam (khôn sánh) bột đà nẫm (chư Phật) nhã đa (sanh) tất-đát-phạ
(ngươi) mạo ra sa (tâm). [Dịch nghĩa]: Các pháp không hình tượng, lắng trong,
không cấu trược, chẳng chấp, lìa ngôn thuyết, chỉ do nghiệp nhân khởi. Biết
pháp này như thế, tự tánh chẳng nhuốm bẩn, lợi khôn sánh trong đời, ngươi sanh
từ tâm Phật).
Câu đầu tiên trong bản tiếng
Phạn chỉ nói “hình tượng”, nhưng mạch văn liên quan “vô tướng pháp”, ý nói
“pháp chẳng có hình tượng”. Tánh vốn tịnh, giống như gương sáng trong lặng,
thanh tịnh, chẳng có uế trược, có thể hiện trọn khắp các hình bóng. Hãy nên biết
hình bóng ấy chẳng sanh từ gương, chẳng sanh từ vật chất bên ngoài, chẳng cộng
sanh (do gương và vật bên ngoài cùng sanh ra), mà cũng chẳng phải là không có
nhân duyên. Đủ loại hý luận đều chẳng tương ứng, cũng lại chẳng thể chấp giữ,
chỉ thuộc vào các nhân duyên đó thôi! Duyên hợp chẳng sanh, duyên lìa chẳng diệt,
tức là nói “chẳng thường, chẳng đoạn,
chẳng đến, chẳng đi”. Hãy
nên biết hình bóng chính là gương, gương chính là hình bóng. Nếu có thể hiểu
như thế, sẽ thấy Thật Tướng của các pháp, biết tự tánh của tâm vốn chẳng nhiễm
ô. Dùng cái tâm như gương để soi xét cái gương như tâm, nên nói “tâm tự thấy tâm, tâm tự biết tâm, trí và
gương chẳng hai, chẳng khác”. Vì thế, trừ khử màng mắt, chính vì quán
pháp giới như thế. Do vậy, tự hiểu rõ! Nếu lúc tương ứng với điều này, tức là từ
trong phổ môn Mạn-đồ-la, đắc Trừ Cái Chướng tam-muội, có thể vì hết thảy chúng
sanh tạo lợi ích vô cùng, hoặc nói là “vô
đối”, hoặc bảo là “vô xứng”,
tức là chẳng thể tính kể được! Do có thể tự sanh vào nhà của vị Phật trong tự
tâm, nên gọi là “đứa con của vị Phật trong tâm”. Do sanh từ vị Phật trong tâm,
bảo là “nhữ tùng Phật tâm sanh”
(ngươi sanh từ Phật tâm).
* Pháp luân pháp loa kệ (bản tiếng Phạn)
(Sớ) A nại-dã (kim nhật dã) bát-ra bột-rị để (dĩ hậu dã) lộ yết tả (thế
gian dã) chước yết-lan mạt rị-đa dã (luân chuyển dã) đá diễn nan (cứu thế giả
dã) a bố lại diên (xuy dã) tam mạn đa nột-phạ (phổ biến dã) đạt ma (pháp dã)
thương khư (loa dã) mãng (vô dã) nỗ đá lam (thượng dã. Nhất kệ). Nẵng (vô dã) đế
đát-ra kiến cật-sái (bỉ lự dã) vĩ mạt để lạt-phạ (dị huệ dã) niết lạt-vĩ thương
kế nẵng (vô nghi dã) chế đá sa (tâm dã) bát-ra ca xa dã (khai thị dã) sa-phạ lộ
kế tất-mẫn (thế nhân dã) man đát-ra (chân ngôn dã) giá rị-tà (hành dã) nẵng diễn
(đạo dã) bát lam (thắng dã. Nhị kệ). Y phạm (như thị dã) cật-lật đá nhung (tác
nguyện dã) bột đà nẫm (chư Phật dã) ổ bả ca rị (ân đức dã) để nghĩ dã tế hát
(xướng dã, sai thuyết dã) đế giá (bỉ dã) phạ nhật-ra đà lạt (Chấp Kim Cang dã)
tát lạt-bệ (nhất thiết dã) lạc cật sạn-để (hộ dã) đát phạ (nhữ dã) tát bà xa
(giai thường đương dã. Tam kệ). Nhữ tự ư kim nhật, chuyển ư cứu thế luân, kỳ thanh
phổ châu biến, xuy vô thượng pháp loa, vật sanh ư dị huệ, dĩ vô nghi lự tâm,
khai thị ư thế gian, thắng đạo chân ngôn hạnh, thường tác như thị nguyện, tuyên
xướng Phật ân đức. Nhất thiết Trì Kim Cang, giai đương hộ niệm nhữ.
(疏)阿捺也(今日也)。鉢囉勃哩底(已後也)。路羯寫(世間也)斫羯蘭沫唎多也(輪轉也)。哆演難(救世者也)。阿布籟延(吹也)。三漫多訥嚩(普遍也)。達麼(法也)商佉(螺也)。莾(無也)努哆藍(上也。一偈)曩(無也)諦。怛囉建吃灑(彼慮也)。尾末底喇嚩(異慧也)。涅喇尾商計曩(無疑也)。制哆娑(心也)。鉢囉迦奢也(開示也)。娑嚩路計悉泯(世人也)。瞞怛囉(真言也)。遮唎邪(行也)。曩演(道也)鉢藍(勝也。二偈)。醫梵(如是也)。吃栗哆茸(作願也)。勃馱喃(諸佛也)鄔跛迦唎(恩德也)。底擬也細喝(唱也差說也)。諦遮(彼也)。嚩馹囉駄喇(執金剛也)。薩喇鞞(一切也)。𡀩吃鏟𫪭(護也)。怛嚩(汝也)薩婆奢(皆常當也。三偈)。汝自於今日,轉於救世輪,其聲普周遍,吹無上法螺,勿生於異慧,以無疑慮心,開示於世間,勝道真言行。常作如是願,宣唱佛恩德,一切持金剛,皆當護念汝。
(Sớ: A nại-dã (ngày nay) bát-ra bột-rị để (về sau) lộ yết tả (thế
gian) chước yết-lan mạt rị-đa dã (luân chuyển) đá diễn nan (đấng cứu thế) a bố
lại diên (thổi) tam mạn đa nột-phạ (phổ biến) đạt ma (pháp) thương khư (tù và)
mãng (không) nỗ đá lam (trên. Kệ thứ nhất). Nẵng (Không) đế đát-ra kiến cật-sái
(lo nghĩ khác) vĩ mạt để lạt-phạ (dị huệ) niết lạt-vĩ thương kế nẵng (chẳng
nghi) chế đá sa (tâm) bát-ra ca xa dã (khai thị) sa-phạ lộ kế tất-mẫn (người đời)
man đát-ra (chân ngôn) giá-rị tà (hành) nẵng diễn (đạo) bát lam (thù thắng. Kệ
thứ hai). Y phạm (như thế) cật-lật đá nhung (phát nguyện) bột đà nẫm (chư Phật)
ổ bả ca rị (ân đức) để nghĩ dã tế hát (xướng, nói) đế giá (điều đó) phạ nhật-ra
đà lạt (Chấp Kim Cang) tát-lạt bệ (hết thảy) lạc cật-sạn để (thủ hộ) đát phạ
(ngươi) tát bà xa (đều sẽ thường. Kệ thứ ba). [Dịch nghĩa]: Ngươi từ nay trở đi,
chuyển pháp luân cứu đời, tiếng ấy lan trọn khắp, thổi ốc pháp vô thượng, đừng
nẩy sanh dị huệ, dùng tâm chẳng lo ngờ, khai thị cho thế gian, đạo thù thắng
chân ngôn, thường nguyện như thế này, tuyên xướng Phật ân đức. Hết thảy Trì Kim
Cang, sẽ đều hộ niệm ngươi).
Giống như tự luân xoay
tròn, cùng hợp thành một Thể. Giống như tự luân, ấn luân thân cũng thế. Vì thế,
khi hiểu nghĩa của Viên Kính Mạn-đồ-la, liền hiểu nghĩa “chuyển pháp luân” trong bí mật tạng. Khi chuyển pháp luân này,
dùng một âm thanh trọn khắp mười phương thế giới, cảnh tỉnh, giác ngộ chúng
sanh. Vì thế nói là “thổi ốc pháp lớn”.
Phạm âm trong chữ “phổ biến”, có
nghĩa “vang ra tiếng, thổi ra”, lại có nghĩa là “khiến cho âm thanh ấy phổ biến”.
“Dị huệ” là trí huệ phân biệt vọng
tưởng. “Vô nghi tâm” chính là
nghi hối vĩnh viễn diệt mất, trụ trong Thật Trí. Do trụ trong Thật Trí, liền có
thể nhất định sư tử hống, khai thị đạo pháp chân ngôn hạnh vô thượng cho trời,
người. Nếu ngươi có thể phát nguyện như thế, trong hết thảy mọi nơi, hết thảy mọi
lúc, sẽ là báo đáp đại ân chánh pháp, tuyên bố ân đức của Phật, tức là được Phật
sai khiến hành Như Lai sự. Do vậy, hết thảy Trì Kim Cang đều hộ niệm ngươi. Lại
nữa, tâm vương của ngươi khi hiểu rõ đạo pháp, thành Phật, chuyển pháp luân, đã
có vô lượng vô biên kim cang trí ấn trọn khắp cùng phù tá và hộ trì, huống hồ tất
cả oai thế của đấng Tỳ Lô Giá Na khi rốt ráo tâm vương thành Phật ư? Vì thế,
hãy nên vì pháp này mà phát khởi đại tinh tấn.
* Tam-muội-da kệ (Phạn bổn)
(Sớ) A nễ dã bát ra bột rị để (tùng kim dĩ hậu) đế phạ tha (tác Phật tử
dã) a bỉ nhị vĩ đá (bất tích mạng dã) ca la nĩnh đa (cố dã) a bát rị (bất ưng
dã), để dạ dũng hệ (xả dã) tát đạt mô (chánh pháp dã) bồ đề chất đá (Bồ Đề tâm
dã) mạt đát bát ra (xả ly dã. Nhất kệ) Mãng tha rị diên (xan dã) tát bà đạt mê
số (ư nhất thiết pháp dã) tát đát phạ (chư chúng sanh dã) nẵng mang (vật dã, bất
dã) hệ thả giả dã đa (lợi ích hạnh dã) y đế (thử dã) tam-muội-da hệ (giới dã)
tam bột đài (Phật dã) ra khế dã đá (thuyết dã) tát đát phạ (nhữ dã) tô một ra
đá (thiện trụ giới giả. Nhị kệ) Duệ tha (do như dã) sa phạ (tự thân dã) nhị vĩ
đan (mạng dã) lạc cật sản (hộ dã), đát tha lộ cật sản (diệc hộ dã) y mê (như thị
dã) đát phạ dã bát ra nật bát nễ (thủ khể ư dã) ngu rô (tôn dã) thỉ sử (đệ tử
dã, nhữ dã) thất giả ra nhứ du bạc cát để (cung kính dã) phạ tha ra (kiền thành
dã. Tam kệ) A bửu bế da (y giáo phụng hành dã) tát thản đa (chư hữu dã) tát lạt
man (sở tác dã) niết thất chỉ đế (vô dã) nang (dã) thản ra (nghi lự dã) thản
mãng na (tâm dã. Phán kệ). Phật tử nhữ tùng kim, bất tích thân mạng cố, bất ưng
xả chánh pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận nhất thiết pháp, bất lợi chúng sanh hạnh.
Phật thuyết tam-muội-da, nhữ thiện trụ giới giả, như hộ tự thân mạng. Hộ giới
diệc như thị, ưng chí thành cung kính, khể thủ thánh tôn túc, sở tác tùy giáo
hành, vật sanh nghi lự tâm.
(疏)阿儞也鉢。囉勃哩底(從今以後)。諦嚩瑳(作佛子也)。阿粃貳尾哆(不惜命也)。迦羅儜多(故也)。阿鉢唎(不應也)。𫪭夜𭮛係(捨也)。薩達摸(正法也)菩提質哆(菩提心也)沫怛鉢囉(捨離也。一偈)莾瑳唎延(慳也)。薩婆達謎數 (於一切法也)薩怛嚩(諸眾生也)。曩忙(勿也不也)係且者也多(利益行也)。醫帝(此也)三昧耶係(戒也)三勃臺(佛也)囉契也哆(說也)薩怛嚩(汝也)蘇沒囉哆。(善住戒者。二偈)曳他(猶如也)娑嚩(自身也)貳尾單(命也)落吃鏟(護也)怛他蕗吃鏟(亦護也)伊迷(如是也)怛嚩也鉢囉抳鉢儞(首稽於也)虞嚧(尊也)。始史(弟子也汝也)。室者囉絮瑜薄吉𫪭(恭敬也)嚩瑳囉(虔誠也。三偈)。阿𭍇閉耶(依教奉行也)薩坦多(諸有也)。薩喇瞞(所作也)。涅室旨帝(無也)囊(也)坦囉(疑慮也)坦莾娜(心也。判偈)。佛子汝從今,不惜身命故,不應捨正法,捨離菩提心,慳悋一切法,不利眾生行。佛說三昧耶,汝善住戒者,如護自身命,護戒亦如是,應至誠恭敬,稽首聖尊足,所作隨教行,勿生疑慮心。
(Sớ: A nễ dã bát ra bột rị để (từ nay trở đi) đế
phạ tha (làm Phật tử) a bỉ nhị vĩ đá (chẳng tiếc mạng) ca la nĩnh đa (vì thế) a
bát rị (chớ nên), để dạ dũng hệ (xả) tát đạt mô (chánh pháp) bồ đề chất đá (Bồ
Đề tâm) mạt đát bát ra (xả ly. Kệ thứ nhất). Mãng tha rị diên (keo kiệt) tát bà
đạt mê số (trong hết thảy các pháp) tát đát phạ (các chúng sanh) nẵng mang (đừng,
chớ), hệ thả giả dã đa (lợi ích hạnh) y đế (cái này) tam-muội-da hệ (giới) tam
bột đài (Phật) ra khế dã đá (nói) tát đát phạ (ngươi) tô một ra đá (khéo trụ
trong giới. Kệ thứ hai) Duệ tha (giống như) sa phạ (tự thân) nhị vĩ đan (mạng)
lạc cật sản (thủ hộ) đát tha lộ cật sản (cũng thủ hộ) y mê (như thế) đát phạ dã
bát ra nật bát nễ (đảnh lễ) ngu rô (tôn quý) thỉ sử (đệ tử, ngươi) thất giả ra
nhứ du bạc cát để (cung kính) phạ tha ra (kiền thành. Kệ thứ ba) A bửu bế da (y
giáo phụng hành) tát thản đa (các cõi) tát lạt man (việc làm) niết thất chỉ đế
(không) nang (cũng) thản ra (nghi lự) thản mãng na (tâm. Kệ phán định). Phật tử
kể từ nay, do chẳng tiếc thân mạng, chớ nên xả chánh pháp, lìa bỏ tâm Bồ Đề,
keo tiếc hết thảy pháp, chẳng hành lợi chúng sanh. Phật nói tam-muội-da, ngươi
khéo trụ trong giới, như gìn thân mạng mình. Hộ giới cũng như thế, nên chí
thành cung kính, đảnh lễ chân thánh tôn, hành đúng theo lời dạy, đừng sanh tâm
ngờ lo).
Trong phần trước đã nói “kề tai bảo ban một bài kệ”, giống
như Tăng Kỳ Gia (Đại Chúng Bộ) truyền trao Lục Niệm, Tát Bà Đa (Nhất Thiết Hữu
Bộ) truyền trao pháp Ngũ Thời, dùng đó để nghiệm chứng [người được truyền dạy]
đã từng thọ giới Cụ Túc hay không? Nay nếu thọ trọn đủ bốn giới ấy rồi, đã dạy
đại lược giới tướng, hãy nên hiểu biết Tứ Ba La Di[143]
trong tạng bí mật. Giống như người bị kẻ khác chặt đứt đầu, mạng căn chẳng tiếp
nối được, hết thảy các chi phần chẳng thể làm gì được, chẳng lâu sau sẽ đều tan
hoại. Nay bốn giới Ba La Di này chính là mạng căn trong Chân Ngôn Thừa, mà cũng
là mạng căn của chánh pháp. Nếu phá hoại, sẽ giống như tử thi trong tạng bí mật.
Tuy có đủ thứ hạnh công đức, chẳng lâu sau sẽ bại hoại.
Giới thứ nhất là “chớ nên xả chánh pháp”, vì hết thảy
chánh giáo của Như Lai sẽ đều nhiếp thọ, tu hành, thọ trì, đọc, tụng, như biển
cả dung nạp trăm sông, chẳng có tâm chán đủ! Nếu đối với hết thảy các pháp môn
dù liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa trong các thừa mà sanh tâm vứt bỏ, như trong
Thanh Văn Thừa nếu đối với người có thể tu pháp mà tâm sanh ý niệm, hoặc miệng
nói vứt bỏ một pháp, thì cũng thành xả giới! Tuy đối với Cụ Túc Tỳ Ni, chẳng đọa
vào các số[144],
nhưng chẳng phải là tội phạm giới. Nay do Đại Thừa bí mật này rốt ráo chẳng có
ý nghĩa “xả”, bèn thành trọng tội. Lại nữa, hết thảy các pháp môn đều do đức đại
bi Thế Tôn trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tích tập, vì muốn lợi ích trọn khắp hết
thảy các chúng sanh nên diễn nói, giống như đối với các tự luân chẳng thể vứt bỏ
một tự luân nào. Như người thuộc Thanh Văn thừa, hễ bỏ một chuyện, thì do vậy,
nghĩa “hòa hợp” bị đoạn mất, đã
đánh mất luật nghi, huống hồ Ma Ha Diễn ư?
Giới thứ hai là “chớ nên lìa bỏ Bồ Đề tâm”. Trong vạn
hạnh của Bồ Tát, Bồ Đề tâm này ví như cờ soái của bậc đại tướng. Nếu lúc vị đại
tướng đánh mất cờ soái, tức là ba quân thất bại, bị kẻ khác chiến thắng. Vì thế,
phạm Ba La Di. Có người tuy yêu mến sâu đậm pháp tạng tam thừa, tâm chẳng vứt bỏ,
nhưng nghĩ như thế này: “Vô thượng Đại Thừa có đủ loại khổ hạnh khó hành, ta chẳng
thể kham nổi! Hãy nên giữ lấy sự diệt độ trong Tiểu Thừa”. Hoặc nói: “Ta sẽ rộng
gieo thiện căn cúng dường Tam Bảo, lãnh nhận phước báo nhân thiên lâu dài. Vô
thượng Bồ Đề là hành xứ của các bậc đại nhân như Phổ Hiền, Văn Thù v.v… Nay ta
há có thể đạt được ư?” Các thứ nhân duyên thoái thất Bồ Đề nguyện như thế chính
là tự đoạn mạng căn, phạm tội Ba La Di. Lại nữa, Bồ Đề tâm rốt ráo chẳng có ý
nghĩa thoái thất. Vì thế, chẳng giống như trong pháp Thanh Văn, thậm chí buông
bỏ Tam Quy, lui về làm bạch y ngoại đạo, Phật vẫn từ bi, yêu mến, xót thương,
chấp thuận lời dối trá ấy.
Giới thứ ba là “trong hết thảy các pháp, chớ nên keo tiếc”.
Có người tuy chẳng xả chánh pháp, chẳng lìa Bồ Đề tâm, nhưng keo tiếc chánh
pháp, không chịu xem xét căn cơ để bố thí rộng rãi, thì cũng phạm tội Ba La Di.
Vì lẽ nào vậy? Do Như Lai xuất thế rồi mới có chánh pháp, thậm chí một câu, một
kệ, không gì chẳng phải là do đức Thế Tôn đã táng thân xả mạng làm đầy tớ rồi mới
đạt được. Đấy là tài sản do cha mẹ để lại của hết thảy chúng sanh, chẳng phải của
riêng một chúng sanh nào! Mà nay trộm lấy làm của chính mình; vì vậy, trong tạng
bí mật, [hành vi ấy] giống như trộm vật của Tam Bảo vậy!
Nói đại lược, pháp có bốn
loại, tức là tam thừa và bí mật thừa. Tuy chẳng nên keo tiếc, nhưng phải quán
sát chúng sanh, lượng định căn khí của họ rồi sau đó mới truyền trao. Nếu bộp
chộp nói ngay các chuyện sâu xa, bí mật, khiến cho [người nghe] sanh lòng nghi
báng, đoạn thiện căn của họ, tức là [người cẩu thả nói pháp] đã phạm tội Ba La
Di trong giới thứ tư! Còn cái tội keo kiệt tài vật, không chịu bố thí rộng rãi,
sẽ phạm lỗi trong mười loại phương tiện giới, sẽ được nói trong phẩm sau.
Giới thứ tư là “chớ nên chẳng tạo hạnh lợi ích cho hết thảy
chúng sanh”. Đây là pháp trái nghịch Tứ Nhiếp. Tứ Nhiếp là Tứ Y trong giới
cụ túc của bậc Bồ Tát. Khi mới thọ giới, trước hết hãy nên khai thị giá nạn[145]
của giới này, người nếu có thể phụng hành thì mới thọ. Chẳng thể phụng hành thì
chẳng phải là Ma Ha Tát Đỏa, chớ nên thọ! Vì sao vậy? Bồ Tát phát tâm Nhất Thiết
Trí, vốn vì nhiếp thọ trọn khắp hết thảy chúng sanh để tạo nhân duyên nhập đạo
cho tam thừa, mà nay ngược ngạo hành pháp trái nghịch Tứ Nhiếp, khởi lên nhân
duyên chướng đạo cho chúng sanh. Hết thảy chúng sanh cũng có cùng một cái Thể của
tự luân, chẳng thể rời lìa. Hễ tổn hại thiện căn của mỗi một chúng sanh, hoặc bỏ
hạnh tạo lợi ích cho họ, sẽ đều cùng phạm tội Ba La Di. Chẳng hạn như trong
pháp Thanh Văn, hễ xả một người trong thất chúng, thì chính là nghĩa “chẳng hòa hợp”, đoạn mất Cụ Túc Luật
Nghi. Chỉ thuận theo cái tâm phiền não, tạo dâm, trộm, giết, dối v.v… nhưng
chưa tổn hại thiện duyên của tam thừa, giống như tội Thâu Lan Giá[146]
trong pháp Thanh Văn, sẽ thuộc vào phương tiện học xứ.
Kế đó là lời răn dạy của
A-xà-lê. Tam-muội-da do đức Phật đã nói, trong bản tiếng Phạn có ghi kèm thêm
chữ Thử (này), hàm ý: Mười phương ba đời chư Phật cùng nói tam-muội-da này,
cùng hành một đạo như thật, chẳng hề khác đường! Nay hết thảy nhóm họp trong Mạn-đồ-la
để hiện thân chứng nghiệm. Tiếng Phạn là Tô Một La Đa (Suvrata), dịch thành Thiện
Trụ Giới Giả (người khéo trụ trong giới), do người ấy khéo trụ trong tam-muội-da.
Thiện Trụ Giới Giả cũng chính là tên gọi khác của Phật Tử. Như thủ hộ tấm thân
do cha mẹ sanh ra của ngươi, nay cũng nên yêu mến Pháp Thân huệ mạng này giống
như vậy! Ngươi nay đã thọ giới Cụ Túc, hãy nên chí thành làm lễ chư tôn rồi lui
ra. Từ nay trở đi, hễ có làm điều gì, hãy nên hoàn toàn dựa theo pháp giáo chân
ngôn để hành đúng như lời dạy. Những người cùng mới thọ giới giống như kẻ đó, đối
với hết thảy sự nghiệp, đều nên hỏi thầy, chớ nên bộp chộp tự tiện làm, khiến
nghi hối ác tà nẩy sanh! Lại nữa, A-xà-lê nói hai bộ giới bổn trong Trì Minh Tạng,
mỗi mỗi đều là chân ngôn, có thể thực hiện hoàn tất các việc, Như Lai dùng đó để
gia trì các đệ tử. Các bài kệ ở đây cũng thế, khi tác pháp hãy nên tụng Phạn bổn,
kiêm thêm dùng tự môn để rộng giải thích.
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nhược hữu chư
thiện nam tử, thiện nữ nhân nhập thử Đại Bi Tạng Sanh đại Mạn-đồ-la vương
tam-muội-da giả, bỉ hoạch kỷ sở phước đức tụ?
(經)爾時,金剛手白佛言:世尊!若有諸善男子善女人入此大悲藏生大漫荼羅王三昧耶者,彼獲幾所福德聚?
(Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng: -
Bạch Thế Tôn! Nếu có các thiện nam tử, thiện nữ nhân nhập Đại Bi Tạng Sanh đại Mạn-đồ-la
vương tam-muội-da này, người ấy sẽ được bao nhiêu khối phước đức?)
Do [học nhân] đã thọ [quán
đảnh] đầy đủ xong, [đức Phật] bèn nói vô tác công đức trong Chân Ngôn môn. Như
trong pháp Thanh Văn, nếu đã thọ Cụ Túc Giới, đối với mỗi học xứ trong các học
xứ “dâm, trộm, giết, dối” v.v…
đều có [tác dụng khiến cho] mỗi một chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới
đều đạt được vô tác công đức, sông phước tuôn chảy cho đến khi mạng chung. Thậm
chí do giới “không uống rượu”, trong cổ họng của mỗi chúng sanh đều sanh ra vô
tác công đức. Do giới “chẳng tổn hoại sanh mạng, đào cuốc đất”, khiến cho hết
thảy cây cỏ cho đến tận kim cang tế, mỗi mỗi vi trần đều sanh ra vô tác công đức.
Do nhân duyên này, tuy là phàm phu trọn đủ kết sử mà được cùng bậc thánh nhân
vô học dự vào hàng Ứng Cúng, cùng nắm giữ thánh sự. Nay trong tạng bí mật này,
do giới đầu tiên mà trong mười phương ba đời, hết thảy các chánh pháp tạng đều
sanh ra vô tác công đức. Do giới thứ hai, trong hạnh của mười phương ba đời hết
thảy Bồ Tát, đều sanh ra pháp vô tác công đức. Do giới thứ ba mà trong mười
phương ba đời, hết thảy các môn “độ
người” đều sanh ra vô tác công đức. Do giới thứ tư, trong mười phương ba
đời, hết thảy chúng sanh và trong Tứ Nhiếp Sự, đều sanh ra vô tác công đức. Chẳng
phải chỉ dùng một kỳ làm hạn lượng, mà lấy tam thiên làm cảnh giới vậy.
Lại nữa, trong hết thảy luật
nghi Thanh Văn, do nhân duyên tạo tác rốt cuộc là Vô Dư Niết Bàn, đều quy vào “hôi đoạn” (nát thân diệt trí như lửa
tắt, tro lạnh). Nay trong luật nghi của Bồ Tát, vốn sanh từ Nhất Thiết Trí, rốt
cuộc tiến nhập biển Tát Bà Nhã, từ đầu đến cuối rốt ráo đều như kim cang. Lại
như trong pháp Thanh Văn, tuy có trọn đủ các giai tầng phiền não, học, vô học
v.v… bất đồng, nhưng phát khởi vô tác luật nghi sẽ chẳng có hơn kém sai khác.
Nay luật nghi này của Bồ Tát cũng giống như thế. Tuy là ban sơ phát tâm cho tới
bốn mươi hai địa vị, giai tầng bất đồng, nhưng cùng lúc phổ biến pháp giới,
phát khởi vô tác thiện căn, cùng Như Lai trọn chẳng có tăng giảm sai khác. Lại
nữa, như lúc phát tâm ban đầu, hết thảy công đức liền bằng với Như Lai. Từ đấy
trở đi, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, trong mỗi niệm luôn tiến lên thù thắng,
chuyển thành sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn! Do bởi nghĩa này, nên gọi là “vô tác công đức trong tạng bí mật”.
Vì vậy, kinh nói ngài Kim Cang Thủ hỏi “thiện
nam tử, thiện nữ nhân do nhập Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la này, sẽ đạt được bao nhiêu
khối phước đức?”
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Tùng
sơ phát tâm, nãi chí thành Như Lai, sở hữu phước đức tụ, thị thiện nam tử, thiện
nữ nhân phước đức tụ dữ bỉ chánh đẳng. Bí Mật Chủ! Dĩ thử pháp môn, đương như
thị tri: Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân tùng Như Lai khẩu sanh, Phật tâm chi tử.
Nhược thị thiện nam tử, thiện nữ nhân sở tại phương sở, tức vi hữu Phật thi tác
Phật sự. Thị cố, Bí Mật Chủ! Nhược nhạo dục cúng dường Phật giả, đương
cúng dường thử thiện nam tử, thiện nữ nhân. Nhược nhạo dục kiến Phật, tức đương
quán bỉ”. Thời Kim Cang Thủ đẳng thượng thủ Chấp Kim Cang, cập Phổ Hiền đẳng
thượng thủ chư Bồ Tát, đồng thanh thuyết ngôn: “Thế Tôn! Ngã đẳng tùng kim dĩ hậu,
ưng đương cung kính cúng dường thị thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hà dĩ cố? Thế
Tôn! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến Phật Thế Tôn cố!”
(經)如是說已,佛告金剛手言:祕密主!從初發心乃至成如來所有福德聚,是善男子善女人福德聚與彼正等。祕密主!以此法門當如是知,彼善男子善女人從如來口生、佛心之子,若是善男子善女人所在方所,即為有佛施作佛事。是故,祕密主!若樂欲供養佛者,當供養此善男子善女人;若樂欲見佛,即當觀彼。時金剛手等上首執金剛及普賢等上首諸菩薩同聲說言:世尊!我等從今以後,應當恭敬供養是善男子善女人。何以故?世尊!彼善男子善女人同見佛世尊故。
(Kinh: Nói như thế xong, đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ rằng:
“Bí Mật Chủ! So với tất cả khối phước đức từ sơ phát tâm cho đến khi thành Như
Lai, thì khối phước đức của thiện nam tử, thiện nữ nhân bằng đúng với khối phước
đức ấy. Này Bí Mật Chủ! Hãy nên biết pháp môn này như sau: Thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy sanh từ miệng Phật, là con trong tâm Phật. Nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy ở chỗ nào, nơi đó có Phật thực hiện Phật sự. Vì thế Bí Mật Chủ! Nếu ưa
thích muốn cúng dường Phật, hãy nên cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy.
Nếu ưa thích muốn thấy Phật, hãy nên thấy những người ấy”. Khi đó, các vị thượng
thủ Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ v.v… và các thượng thủ đại Bồ Tát như Phổ Hiền
v.v… đồng thanh nói rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay trở đi, sẽ đều nên
cung kính, cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì sao vậy? Do thấy thiện
nam tử, thiện nữ nhân ấy giống như thấy Phật Thế Tôn).
Đức Phật nói: Khối phước đức
của thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy bằng với khối phước đức từ sơ phát tâm cho đến
khi thành Như Lai. Phước ấy hết thảy chúng sanh suy lường, phân biệt chẳng thể
biết được, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Nay chỉ nêu bày chỗ tiến nhập,
ngõ hầu [thính chúng] lãnh hội ý viên mãn, nên nói: “Hãy nên biết pháp môn này như thế”. Ví như thái tử của Luân
Vương vừa mới ở trong thai tạng, đã có thể trì tứ thiên hạ, khiến cho phước đức
chẳng giảm, các thần thuộc tám bộ [trời, rồng...] đều tôn kính. Huống hồ lợi
ích gây tạo khi người ấy đã kế tục địa vị quán đảnh! Do vậy, đức Phật nói: Do tất
cả khối phước đức của người ấy bằng với Như Lai, hãy nên biết người ấy chính là
sanh từ miệng Phật, là con trong tâm Phật. Nơi người ấy ở chính là chỗ có Phật
thực hiện Phật sự. Giống như trong kinh Thanh Văn, đức Phật nói “hễ Xá Lợi Phất du hành đến nơi đâu thì ở
nơi đó, ta vô sự!” Sở dĩ hết thảy chúng sanh cúng dường, thân cận Như
Lai là do có thể xuất sanh phước huệ vô tận; nhưng nay tất cả khối phước đức của
thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy bằng với Như Lai. Vì vậy, đức Thế Tôn do lòng đại
bi mà căn dặn hết thảy chúng sanh: “Nếu
thích cúng dường Phật, hãy nên cúng dường thiện nam tử, thiện nữ ấy. Nếu muốn
thấy Phật, hãy nên quán người ấy”.
Lúc mới vào Thế Đế Mạn-đồ-la
thì tất cả khối phước đức đều bằng với Như Lai. Lúc mới vào Du Già thâm bí mật
Mạn-đồ-la thì tất cả khối phước đức lại bằng với Như Lai. Cho đến nói rộng, hễ
lúc nhập Mạn-đồ-la thuộc mỗi mỗi địa vị, sẽ sanh ra khối phước đức đều bằng với
Như Lai. Trong ấy, cũng có sai biệt và vô sai biệt. Do thấy Kim Cang Giới như
thế, nên gọi là Kim Cang Thủ. Do thấy pháp giới như thế, nên gọi là Phổ Hiền.
Do vậy, các bậc tôn thánh thượng thủ và hết thảy Kim Cang, Bồ Tát đều đồng
thanh nói: “Chúng con từ nay về sau sẽ
đều nên cung kính cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. Vì lẽ nào vậy? Do
giống như thấy Phật Thế Tôn”. Giống như phụ tá của Luân Vương, vì biết
rõ chủng tánh của Luân Vương, thấy vua xuất hiện trong thế gian, sẽ tạo nhiều
nghĩa lợi, muốn cho bảy báu thường chẳng ẩn mất, đều dùng lòng chí thành kính lễ
và thủ hộ thái tử ở trong thai, chẳng phải là lời lẽ bịa đặt vậy!
Kinh Cù Hê dạy: “A-xà-lê như thượng sở thuyết tác hộ-ma dĩ,
dụng tịnh thủy sái chư đệ tử đảnh thượng, quảng thị Mạn-đồ-la vị, giáo bỉ đại ấn,
cập minh vương chân ngôn, linh tọa nhất xứ trì tụng chi. Thứ giáo dĩ hương, hoa
cúng dường Bổn Tôn, cập dư chư tôn cánh, thứ đệ nhi tọa. Sư tự tụng Bát Nhã
Kinh, linh bỉ thính chi. Thứ vị đô thuyết tam-muội-da giới: - Nhữ đẳng tùng kim
nhật, thường ư Tam Bảo, cập chư Bồ Tát, chư chân ngôn tôn, cung kính cúng dường,
ư Ma Ha Diễn kinh, hằng sanh tín giải. Phàm kiến nhất thiết thọ tam-muội-da giả,
đương sanh ái nhạo. Ư tôn giả sở, hằng khởi cung kính, bất ưng ư chư tôn sở
hoài hiềm hận tâm, cập dữ tín học ngoại đạo kinh thư. Phàm lai cầu giả, tùy lực
thí dữ. Ư chư hữu tình, hằng khởi từ bi. Ư chư công đức, cần tâm tu tập, thường
nhạo Đại Thừa. Ư Chân Ngôn hạnh, vật đắc giải phế. Sở hữu bí mật chi pháp, vô
tam-muội-da giả, bất ưng vị thuyết” (A-xà-lê làm hộ-ma như đã nói trong
phần trên xong, dùng nước sạch rảy lên đỉnh đầu các đệ tử, chỉ bày cặn kẽ các vị
trí trong Mạn-đồ-la, dạy họ đại ấn và minh vương chân ngôn, bảo họ ngồi ở một
chỗ trì tụng. Kế đó, dạy họ dùng hương, hoa cúng dường Bổn Tôn và các vị tôn
thánh khác xong, theo thứ tự mà ngồi. Thầy tự tụng kinh Bát Nhã cho họ nghe. Kế
đó, vì họ nói trọn tam-muội-da giới: - Các ngươi từ nay trở đi, thường nên cung
kính cúng dường Tam Bảo và các Bồ Tát, các vị tôn thánh trong chân ngôn, luôn
sanh tín giải đối với kinh Đại Thừa. Hễ thấy hết thảy những người thọ tam-muội-da,
đều nên sanh lòng yêu thích. Đối với các tôn giả, luôn dấy tâm cung kính. Chớ
nên ôm lòng hiềm hận các vị tôn giả, và đừng tin tưởng, học theo kinh sách của
ngoại đạo. Phàm có người đến cầu, đều tùy sức mà thí cho. Luôn khởi lòng từ bi
đối với các hữu tình, tâm siêng năng tu tập các công đức, thường ưa chuộng Đại
Thừa. Đừng lười nhác, đừng buông bỏ hạnh Chân Ngôn. Tất cả pháp bí mật, chớ nên
nói với kẻ chẳng có tam-muội-da).
Đại lược là như thế, những
điều khác như đã nói cặn kẽ trong phẩm thứ nhất thuộc Pháp Cúng Dường. Truyền dạy
như thế xong, mỗi mỗi chỉ bày chân ngôn, ấn và bộ sở thuộc của Bổn Tôn (tức là
vị Bổn Tôn ấy thuộc Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, hay Kim Cang Bộ), và giải nói Mạn-đồ-la
của vị ấy. Sau đấy mới làm hộ-ma lần cuối cùng. Hộ-ma xong, lại đúng như pháp hộ
thân, thí thực cho các phương. Thí xong, rửa tay, sái tịnh, trao cho các đệ tử
hương, hoa v.v... [để họ] theo thứ tự cúng dường hết thảy chư tôn, thành tâm đảnh
lễ, và xin [các Ngài] hoan hỷ. Lại cầm Át-già, mỗi mỗi đều dùng chân ngôn của mỗi
vị [tôn thánh] mà đúng như pháp tống tiễn, hoặc dùng chân ngôn của vị chủ Mạn-đồ-la
để cùng lúc tống tiễn, giống như cách thức phụng thỉnh vậy. Đem các thức ăn đã
cúng dường thí cho người nghèo, chớ nên để cho chó, quạ v.v… ăn nuốt. Tất cả
tài vật, A-xà-lê đáng nên nhận lấy thì tùy ý thọ dụng. Nếu chẳng thể thì đem
cúng thí Tam Bảo. Các vật như lọng, phất trần v.v… dâng cúng cho Phật. Hương
bôi, hương đốt v.v… dâng cúng cho Pháp. Y, bình, đồ đựng v.v… thì cúng thí Phật
và tứ phương Tăng. Nếu không có Tăng, hãy nên thí cho thất chúng. Các đệ tử ấy
dù chút phần cũng không được dùng. Nếu dùng, sẽ phạm tam-muội-da, như trong
kinh ấy (kinh Cù Hê) đã rộng nói.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán nhất thiết chúng hội,
cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đẳng chư Trì Kim Cang giả, cập đại chúng ngôn:
“Thiện nam tử! Hữu Như Lai xuất thế, vô lượng quảng trường ngữ luân tướng, như
xảo sắc Ma-ni năng mãn nhất thiết nguyện, tích tập vô lượng phước đức, trụ bất
khả hại hạnh, tam thế vô tỷ lực chân ngôn cú”. Như thị ngôn dĩ, Kim Cang Thủ Bí
Mật Chủ đẳng chư Chấp Kim Cang cập đại hội chúng, đồng thanh thuyết ngôn: “Thế
Tôn! Kim chánh thị thời, Thiện Thệ! Kim chánh thị thời”.
(經)爾時,毘盧遮那世尊復觀一切眾會,告執金剛祕密主等諸持金剛者及大眾言:善男子!有如來出世,無量廣長語輪相,如巧色摩尼能滿一切願、積集無量福德、住不可害行,三世無比力真言句。如是言已,金剛手祕密主等諸執金剛及大會眾同聲說言:世尊!今正是時。善逝!今正是時。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại
quán sát hết thảy chúng hội, bảo các vị Trì Kim Cang như Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ v.v… và đại chúng rằng: “Thiện nam tử! Có Như Lai xuất thế, vô lượng tướng
ngữ luân rộng dài như Ma-ni màu hay khéo, có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện,
tích tập vô lượng phước đức, trụ trong hạnh chẳng thể hại, là câu chân ngôn có
sức ba đời khôn sánh”. Nói lời ấy xong, các vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ
Bí Mật Chủ v.v… và đại chúng trong hội đồng thanh nói rằng: “Bạch Thế Tôn1 Nay
chính là đúng lúc. Bạch đấng Thiện Thệ! Nay chính là đúng lúc”).
Từ đây trở đi là chi phần
nói về các chân ngôn cần thiết khi làm pháp sự Mạn-đồ-la, A-xà-lê phải nên hiểu
rõ. Vì thế, kế đó nói ra. Do sắp phơi bày ngữ mật tạng của Như Lai, [đức Phật]
lại quán sát trọn khắp đại chúng để gia trì. Như sanh thân Phật khi sắp thốt lời
thành thật, sẽ hiện tướng lưỡi rộng dài, che kín cả mặt, bảo người đáng được độ
rằng: “Từ trong kinh sách, ông có thấy người có tướng như thế này mà thốt lời
hư vọng hay chăng?” Nếu là trong Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thì hiện tướng lưỡi che
phủ tam thiên đại thiên thế giới. Nay đức Thế Tôn sắp nói lời bình đẳng của Như
Lai, nhằm chỉ rõ ngữ luân ấy theo chiều ngang lẫn chiều dọc đều trọn khắp hết
thảy các pháp giới, nên nói là “quảng
trường ngữ luân tướng”. Chữ Tướng ở đây, trong bản tiếng Phạn thì ghi là
Mạn-đồ-la. Trước đó, đã khai thị Phổ Môn Mạn-đồ-la, nay lại phô bày Phổ Môn Ngữ
Mạn-đồ-la, như Như Ý Châu vắng lặng vô tâm, cũng chẳng có tướng nhất định, mà
có thể ứng hiện trọn khắp hết thảy, khiến cho [mọi chúng sanh] đều vui sướng,
thỏa lòng. Vì thế gọi là “xảo sắc
Ma-ni”.
Lại từ bản thân của xảo sắc
Ma-ni phát ra xảo sắc Ma-ni ngữ, chỉ bày xảo sắc Ma-ni tâm, mưa trọn khắp pháp
tài hòng thỏa mãn các thứ mong ước của chúng sanh trong pháp giới. Dấu tích ứng
hợp chúng sanh như thế thường trọn khắp mười phương ba đời, dùng vô lượng môn
gieo các cội đức. Trong vô cùng tận thời, trụ nơi hạnh chẳng thể hại, tức là có
ý nghĩa “trong hết thảy các sự nghiệp,
thảy đều chẳng thể gây tai nạn, chẳng thể phá hoại”. Vì thế gọi là “tam thế vô tỷ lực chân ngôn cú” (câu
chân ngôn có sức mạnh ba đời khôn sánh). Đó là nói chung chỗ xuất sanh của các
chân ngôn. Còn như phần kinh văn sau đó nói về đại lực, đại hộ v.v… chính là từ
Như Ý Châu Luân xuất sanh tác dụng tương xứng căn cơ. Lúc bấy giờ, hết thảy đại
chúng tự biết cái tâm và căn khí thuần tịnh, lại được Như Lai gia trì chẳng thể
nghĩ bàn, nên kham nhận đại pháp, lập tức dùng vô lượng môn, ai nấy cùng nhau đồng
thanh thỉnh đức Phật rằng: “Thế Tôn!
Kim chánh thị thời. Thiện Thệ! Kim chánh thị thời” (Bạch Thế Tôn! Nay đúng
là phải lúc. Thiện Thệ! Nay đúng là phải lúc). Theo Phạn bổn, “tiền thời” là Ca La, tức là thời hạn
lâu dài, như một năm được chia thành ba phần chẳng hạn. “Hậu thời” gọi là Tam Ma Da, như tiểu thời (giờ) trong các thời,
giống như trong ngày đêm sáu thời cũng được chia thành nhỏ hơn. Như có người
nói: “Nay đúng là lúc canh tác, gặp được
mưa dầm, hãy nên kịp thời gieo cấy, đừng bỏ lỡ dịp”. Do vậy, họ nói lặp
lại như thế.
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn trụ ư mãn nhất thiết nguyện, xuất
quảng trường thiệt tướng, biến phú nhất thiết Phật sát, thanh tịnh pháp tràng
cao phong quán tam-muội. Thời Phật tùng Định khởi, nhĩ thời, phát biến nhất thiết
Như Lai pháp giới ai mẫn vô dư chúng sanh giới thanh, thuyết thử đại lực đại hộ
minh phi viết:
(經)爾時,毘盧遮那世尊住於滿一切願出廣長舌相遍覆一切佛剎清淨法幢高峯觀三昧。時佛從定起,爾時發遍一切如來法界哀愍無餘眾生界聲,說此大力大護明妃曰:
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn trụ trong tam-muội
“pháp tràng như từ trên đỉnh núi cao quán sát thanh tịnh, hiện tướng lưỡi rộng
dài che khắp hết thảy các cõi Phật”. Khi đó, đức Phật từ Định khởi, lúc ấy,
Ngài phát tiếng thương xót chẳng sót chúng sanh trong hết thảy các pháp giới của
chư Như Lai, nói đại lực đại hộ minh phi rằng).
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã
tiếp nhận lời thỉnh cầu, sắp nói đại lực đại hộ minh phi. Do vậy, Ngài trụ
trong tam-muội pháp tràng như từ trên đỉnh núi cao quán sát thanh tịnh, hiện tướng
lưỡi rộng dài che khắp hết thảy các cõi Phật. Ở đây nói là “phát ra”, nhưng theo nguyên văn tiếng
Phạn, nếu dịch sát nghĩa, phải nên là “phát
sanh”, hoặc dịch theo lối cũ là “phấn
tấn”[147].
Hiện tướng lưỡi rộng dài ấy chính là Như Lai phấn tấn thị hiện sức đại thần
thông được nói theo kiểu hội ý vậy. Môn tam-muội này có tác dụng thượng thủ bậc
nhất trong tác dụng phổ môn to lớn xảo sắc Ma-ni nơi tướng lưỡi của Như Lai rộng
dài che khắp hết thảy các cõi Phật, giống như cái tràng của vị đại tướng, nên nói
là “thanh tịnh pháp tràng”.
Chữ Đà Phạ Nhã (Dhvaja)
trong tiếng Phạn được phương này dịch là Tràng. Chữ Kế Đô (Ketu) trong tiếng Phạn
được phương này dịch là Kỳ (旗, cờ). Hình tướng của chúng hơi khác: Tràng chỉ dùng đủ loại
biểu hiện [bằng vải, lụa, gấm vóc] nhiều màu để trang nghiêm, còn Kế Đô thì đại
để tương đồng, nhưng có thêm mật hiệu của các loại cờ quạt, giống như binh gia
vẽ các loại hình ảnh như rồng, rùa, chim, thú v.v… để làm cờ hiệu điều khiển ba
quân. Có chỗ cũng dịch Kế Đô là Tràng, cho nên nói gộp chung. Nếu nói đầy đủ
theo bản tiếng Phạn, phải nên nói là “thanh
tịnh pháp tràng kỳ”. Như ở chỗ cao ngất phía trên vị đại tướng, sẽ kiến
lập tràng kỳ, thấy trọn địa thế núi sông cao thấp, tình huống của địch nhân, chỉ
huy trăm vạn người, chuyển động, ngừng lại, phân ra, gộp vào tùy tâm, hễ chiến
đấu ắt thắng, hễ công kích ắt giành được. Nếu là vị tướng vụng về, mù mờ sự thế,
lại đánh mất tác dụng của tràng kỳ, ai nấy đều có tâm khác lạ, sẽ chẳng tránh
khỏi đại bại! Bồ Đề tâm thanh tịnh như thế là tràng kỳ của vạn hạnh, cũng giống
như thế. Trụ an ổn, vững vàng bất động trên núi Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế,
dùng Kiện Hành tam-muội (Thủ Lăng Nghiêm tam-muội) quán trọn khắp mười phương,
đều thấy sự hơn kém giữa tài, tánh, và chỗ đáng nên sử dụng của vô lượng độ
môn, cùng với nhân duyên chánh đạo thông tắc giữa các địa vị. Vì thế, có thể
nhiếp trì vô lượng công đức, thủ hộ trọn khắp hết thảy chúng sanh; hễ có làm điều
gì, đều chẳng bị ngăn trở, phá hoại.
Khi đó, đức Thế Tôn nghĩ
như thế này: “Ta từ sơ phát ý tới nay, thường dùng Bồ Đề tâm dũng kiện này để hộ
trì chánh pháp và chúng sanh, trong đủ loại chuyện khổ hạnh khó hành, giống như
kim cang chẳng thoái chuyển, chính là vì thành tựu tam-muội như thế, hộ trì trọn
khắp mười phương các cõi Phật. Nay sở nguyện của ta đều đã được trọn vẹn, nay
đúng là lúc làm chuyện đáng nên làm”. Ngài lập tức phát ra âm thanh thương xót
chẳng còn thừa sót chúng sanh trong hết thảy các pháp giới của Như Lai, nói câu
trì minh pháp này: “Nếu lời ta nói
thành thật, chẳng dối, hễ có ai trì tụng, tu tập [minh chú này], sẽ khiến cho
thế lực của người ấy chẳng khác ta”. Do vậy, gọi là “đại lực, đại hộ” (sức mạnh to lớn,
thủ hộ to lớn).
[Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Minh có nghĩa là quang minh đại huệ. Phi
trong tiếng Phạn là La Thệ (Rājñī), tức là danh từ giống cái của chữ Vương (La Xà, Rāja). Vì
thế, người truyền độ xét theo ý nghĩa mà nói là Phi. Phi có nghĩa là tam-muội,
tức là Đại Bi Thai Tạng tam-muội. Tam-muội ấy chính là mẹ của hết thảy Phật tử.
Phật tử chính là thanh tịnh pháp tràng Bồ Đề tâm. Như thai tạng thoạt đầu là chứa
đựng, che chở Ca La La (Kalala, phôi thai), khiến cho nó chẳng bị các duyên gây
thương tổn. Lần lượt tăng trưởng cho đến khi sanh nở. Sau đó, do tâm siêng
năng, kiên cố mà che chở, nuôi nấng. Vì thế nói mẹ có ân sâu nhất, khó thể báo
đáp ân đức”. Từ tam-muội này mà phát khởi, lúc trụ hay xuất, đều là pháp
giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải như Thiền Định thế gian, động và tịch trở
ngại lẫn nhau, [môn tam-muội này] chẳng có chút nào gián đoạn, thoái thất.
(Kinh) Nam ma tát bà thản tha nghiệt đế tế. Tát bà bội dã vi nghiệt đế
tế. Vi thấp phạ mục khế tệ. Tát bà tha hám. Khiếm ra cật sa ma ha mạt lệ. Tát
bà đát tha nghiệt đa. Bôn nật dã nễ xà đế. Hồng hồng đát ra trách, đát ra
trách, a bát ra để ha đế, sa ha.
(經)南麼薩婆坦他蘖帝𡃇。薩婆佩野微蘖帝𡃇。微濕嚩目契弊。薩婆他唅。欠囉吃沙摩訶沫麗。薩婆怛他蘖多。奔昵也儞闍帝。。吽吽怛囉磔。怛囉磔。阿鉢囉底訶帝。莎訶。
(Kinh: Nam ma tát bà thản tha nghiệt đế tế. Tát
bà bội dã vi nghiệt đế tế. Vi thấp phạ mục khế tệ. Tát bà tha hám. Khiếm ra cật
sa ma ha mạt lệ. Tát bà đát tha nghiệt đa. Bôn nật dã nễ xà đế. Hồng hồng đát
ra trách, đát ra trách, a bát ra để ha đế, sa ha).
Câu đầu tiên là quy mạng hết
thảy các đức Như Lai. Câu kế tiếp là “có thể trừ hết thảy các chướng và sợ hãi
v.v…” nhằm tán thán hết thảy phẩm đức đại lực đại hộ của Như Lai. Lại nữa, câu
kế tiếp tán thán vô lượng pháp môn. Vi Thấp Phạ (Viśva) cũng có nghĩa là Xảo;
đó gọi là “vô lượng xảo độ môn”,
tức nghiệp dụng phổ môn của Pháp Tràng Cao Phong Quán tam-muội. Nay muốn nói
minh phi này, cho nên trước hết quy kính công đức như thế của hết thảy Như Lai.
Kế đó nói “tát bà tha” (sarvathā)
nhằm nói chung công đức như thế của chư Phật, muốn khiến cho [người nghe] cùng
nhập một tự môn. Kế đó, có hai chữ Hám (हं) và Khiếm, đấy chính là cái Thể của chân ngôn, cũng gọi là
Chủng Tử. Các câu kế đó nhằm lần lượt giải thích hai tự môn ấy. Chữ Ha (ह) có nghĩa là “cái nhân”, tức là “cái nhân của Đại Thừa chính là Bồ Đề tâm”.
Do hết thảy các nhân vốn bất sanh, cho đến do lìa nhân duyên, mà gọi là “Bồ Đề tâm thanh tịnh”. Đó là cái
nhân thành Phật chân thật, là chủng tử của tràng kỳ chánh pháp. Trên [chữ Ha]
đó, lại thêm một chấm Không, chính là ý nghĩa “nhập chứng”, cho nên chuyển âm đọc thành Hám (हं, Haṁ). Khư (ख) là Đại Không, thêm một chấm bèn
chuyển âm thành Khiếm (खं, Khaṁ), tức là chứng Đại Không ấy, gọi là Bát Nhã Phật Mẫu, chính là ý
nghĩa của minh phi: Trong hư không tạng ấy, chứa đựng, nuôi dưỡng chủng tử của
cái nhân chân thật. Đấy chính là ý nghĩa “đại
hộ”.
Lại nữa, trong môn chữ Khư,
giống như hư không rốt ráo thanh tịnh, vô sở hữu, tức là cảnh giới thấy biết được
khi nhìn từ đỉnh núi cao. Chữ Ha là Bồ Đề tràng, mà cũng là sức tự tại. Do hai
chữ ấy tương ứng, giống như đại tướng có thể phá tan oán địch. Lại nữa, môn chữ
Ha là báu Bồ Đề tâm, hòa hợp với hư không tạng trong môn chữ Khư, thành xảo sắc
Ma-ni, có thể thỏa mãn hết thảy ước nguyện. Nay trong chân ngôn này thiếu chữ
Khiếm, phần sau thì có.
Câu kế đó nói Ra Khất Xoa
(Rakṣa, tức “ra cật sa” trong lời chú), tức là ý nghĩa “ủng hộ”. Như người mắc nạn sợ hãi, nếu
nương cậy người có thế lực lớn, hoặc có thành cao, hào sâu kiên cố, sẽ thanh thản,
không lo lắng. Lũ oán địch tuy dùng đủ loại phương tiện, chẳng làm được gì!
Hành nhân cũng thế, nương dựa Bồ Đề tâm vương, dùng Thai Tạng Bát Nhã làm thành
quách, giống như hư không chẳng thể phá hoại; đấy chính là giải thích ý nghĩa
trước đó. Câu kế đó là Ma Ha Mạt Lệ (Mahābale), dịch nghĩa là “đại lực”. Chữ Ha [hàm nghĩa] trong Bồ
Đề tâm trọn đủ hết thảy các Như Lai lực, nay kết hợp với chữ Khư, [có nghĩa là]
lìa các trói buộc, chẳng còn vướng mắc, như gió trên hư không tự tại xoay chuyển.
Do vậy gọi là Đại Lực. Lại nữa, do sức tự tại nơi chữ Ha và vô lượng xảo độ môn
của chữ Khư hòa hợp, giống như lực sĩ trọn đủ ngàn loại kỹ năng. Do vậy, mọi
người không ai có thể thắng được, nên gọi là Đại Lực. Câu thứ bảy nhằm giải
thích nguyên do của đại lực. Do vậy nói: “Hết
thảy sanh từ công đức của Như Lai”, [hàm ý]: Sức đại kiên cố ấy vốn giống
như sanh từ chủng tánh Kim Cang của chư Phật. Lại còn từ vô lượng kiếp đến nay,
thường dùng chân ngôn chữ Ha này làm cái nhân chân thật để tu trọn vạn đức nơi
pháp tự, mỗi mỗi đều như kim cang chẳng thể phá hoại. Nay các đức đã mãn, các sức
đều đủ, lại sẽ dùng Pháp Tràng Cao Phong Quán tam-muội ấy để mạnh mẽ đập tan
oán địch của pháp giới, thủ hộ trọn khắp chúng sanh.
Kế đó chính là thốt ra lời
thành thật, tức là chữ Hồng Hồng. Hồng (हूं, Hūṃ) là âm thanh khủng bố, cho nên nhắc lại hòng: Một là đập tan ngoại chướng,
hai là đập tan nội chướng. Lại nữa, ngoài là Phiền Não Chướng, trong là Trí Chướng.
Nếu giải thích theo tự môn, Như Lai dùng pháp gì để đe dọa các chướng? Tức là
dùng môn chữ Ha này. Dưới chữ này có vạch tam-muội (ू, ū)
chính là tu trọn vạn hạnh, trên có cái chấm Đại Không (ं, ṃ)
tức là đã thành tựu vạn đức. Chữ Ha[148]
chính là Pháp Tràng Kỳ tam-muội, do Không điểm (cái chấm Đại Không) kết hợp nên
chính là Cao Phong Quán tam-muội. Chữ Ha là chủng tử của hết thảy các đức Như
Lai, cái chấm trên chữ đó là mẹ minh phi, nét vạch ở dưới là thai phần ngày một
tăng trưởng. Do ý nghĩa như thế, vừa phát ra âm thanh, ma quân tan hoại.
Kế đó nói Thản Ra Trá (Trāṭ,
phần chú ngữ phiên âm là “đát ra
trách”) có nghĩa là “quát mắng nhiếp phục”. Như lúc sư tử cáu giận, rống
to, các loài thú không gì chẳng bị nhiếp phục. Đấy cũng là nhắc lại, tức là đối
trị căn bản phiền não, tùy phiền não, cho đến đối trị hết thảy phiền não, giới
nội phiền não, giới ngoại phiền não. Câu cuối cùng là A Bát Ra Để Ha Đế (Apratihate)
tức là nghĩa “sức chẳng thể đối địch, chẳng thể sánh bằng” nhằm kết lại các câu
trên. Do nhân duyên ấy, gọi là Đại Lực Đại Hộ minh phi. Sa Ha (Svāhā) là nhắc
nhở chư Phật chứng minh, cũng là ý nghĩa “ức
niệm, thọ trì” như trong phần trước đã giải thích.
(Kinh) Thời nhất thiết Như Lai cập Phật tử chúng thuyết thử minh dĩ, tức
thời, phổ biến Phật sát lục chủng chấn động.
(經)時一切如來及佛子眾說此明已,即時普遍佛剎六種震動。
(Kinh: Khi đó, hết thảy Như Lai nói với các Phật
tử minh chú ấy xong, ngay lập tức trọn khắp cõi Phật sáu loại chấn động).
Khi Đại Nhật Như Lai phát
ra tiếng trọn khắp pháp giới ấy, hết thảy chư Phật, Bồ Tát do cảnh giới vô nhị,
thảy đều đồng thanh mà cùng nói. Nay câu gia trì này oai thế trọn đủ, lại dùng
lời chân thành của Như Lai, tức thời mười phương cõi Phật chấn động sáu cách,
nhằm nêu tỏ đại thệ của Phật chân thật, chẳng dối. Đối với ý nghĩa của sáu loại
chấn động, các kinh khác đã nói đầy đủ các tướng ấy. Nay theo cách giải thích
bí mật trong tông này, “sáu loại”
chính là sáu loại căn bản phiền não: Tham, sân, si, kiến, mạn, nghi. Tâm địa của
hết thảy chúng sanh thường bị các thứ cấu nặng nề ấy nắm giữ, chẳng thể tự khởi,
nay do được đức Thế Tôn chí thành cảm động, thảy đều nứt vỏ, Phật chủng nẩy mầm.
Vì thế nói là “lục chủng chấn động”.
(Kinh) Nhất thiết Bồ Tát đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, ư chư Phật tiền,
dĩ duyệt ý ngôn âm, nhi thuyết kệ ngôn:
(經)一切菩薩得未曾有開敷眼,於諸佛前。以悅意言音而說偈言:
(Kinh: Hết thảy các Bồ Tát do được mở mắt chưa
từng có, ở trước chư Phật, dùng tiếng nói đẹp ý mà nói kệ rằng).
Lúc bấy giờ, hết thảy các vị
Bồ Tát thấy hai loại nhân duyên đất chấn động nông cạn và sâu xa, bí mật ấy,
không ai tâm chẳng tự bừng nở, đạt được điều chưa từng có, dùng lời kệ vi diệu
ca ngợi Đại Nhật Thế Tôn. Kinh nói “ư
Phật tiền” (ở trước Phật) tức là khi đức Phật (Đại Nhật Như Lai) nói
minh chú ấy, các vị Bồ Tát trong mười phương thế giới cũng đều thấy Phật trong
cõi mình đối trước họ mà nói. Vì thế, cùng một âm thanh, cùng lúc lãnh ngộ, tín
giải, liền nhờ vào phần kinh văn này để chứng thành oai lực đại hộ.
(Kinh) Chư Phật thậm kỳ đặc, thuyết thử đại lực hộ, nhất thiết Phật hộ
trì, thành trì giai cố mật. Do bỉ hộ tâm trụ, sở hữu vi chướng giả, Tỳ Na Dạ Ca
đẳng, ác hình chư La Sát, nhất thiết giai thoái tán, niệm chân ngôn lực cố.
(經)諸佛甚奇特,說此大力護,一切佛護持,城池皆固密。由彼護心住,所有為障者,毘那夜迦等,惡形諸羅剎,一切皆退散,念真言力故。
(Kinh: Chư Phật rất đặc biệt, nói đại lực hộ
này, hết thảy Phật hộ trì, thành trì đều kín chắc. Do thủ hộ tâm trụ, tất cả kẻ
gây chướng, Tỳ Na Dạ Ca thảy, La Sát dáng hung ác, hết thảy đều tan lui, do sức
niệm chân ngôn).
Trong phần kệ lãnh ngộ, câu
“chư Phật thậm kỳ đặc” (chư Phật
rất đặc biệt, lạ lùng), nói đủ theo bản tiếng Phạn phải là “lạ thay! Hết thảy
chư Phật”. “Thuyết thử đại lực hộ”
(Nói đại lực đại hộ này) tức là các vị Bồ Tát trong hết thảy các thế giới thảy
đều đồng thời lãnh ngộ chân ngôn do mười phương hết thảy chư Phật đã nói. Do mười
phương chư Phật cùng hộ trì, giống như tường thành kim cang kiên cố, cao vút chẳng
thể bay qua, lại còn do hào mương sâu thẳm chẳng thể vượt được! Do vậy, hết thảy
các kẻ gây chướng chẳng thể xâm lăng! “Do
bỉ hộ tâm trụ” (Do chân ngôn ấy thủ hộ cái tâm mà trụ) tức là các hành nhân có thể dùng
chân ngôn và mật ấn này để thủ hộ thân tâm mà trụ. Do vậy, tất cả kẻ gây chướng,
các Tỳ Na Dạ Ca, bọn La Sát hình dáng hung ác v.v… đều tự nhiên lui tan. Lại nữa,
chữ Trụ này nếu xét theo âm tiếng Phạn thì cũng là Tại, tức là “trấn trong cái tâm này”. Nếu giải
thích theo ý nghĩa sâu xa thì là nói người có cái tâm Bồ Đề thanh tịnh do dùng
thật nghĩa của minh phi này để hộ tâm mà trụ. Vì thế, ba loại trọng chướng, các
ác La Sát v.v… thảy đều tan chạy, chẳng thể tổn thương thiện căn; thậm chí khi
sanh tâm nghĩ nhớ thì cũng có thế lực như vậy. Do đó, câu cuối cùng chính là lời
kết luận vậy.
(Kinh) Thời Bạc Già Phạm quảng đại pháp giới gia trì, tức ư thị thời,
trụ Pháp Giới Thai Tạng tam-muội. Tùng thử Định khởi, thuyết Nhập Phật Tam-muội-da
Trì Minh viết:
(經)時薄伽梵廣大法界加持,即於是時住法界胎藏三昧。從此定起,說入佛三昧耶持明曰。
(Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm gia trì pháp giới rộng lớn, liền
lập tức trụ trong Pháp Giới Thai Tạng tam-muội. Từ môn Định ấy khởi, nói Nhập
Phật Tam-muội-da Trì Minh rằng:).
Chữ Tỳ Phú La (Vipula)[149]
trong tiếng Phạn có nghĩa là “rộng lớn”, tức là sâu rộng không ngằn mé, chẳng
thể dò lường! Tự thể của các pháp như thế thì gọi là Tỳ Phú La pháp giới. Thật
Tướng của chư Phật, Thật Tướng của chân ngôn, Thật Tướng của chúng sanh đều là
Tỳ Phú La pháp giới. Do dùng những điều này cùng gia trì, nên gọi là “pháp giới gia trì”. Lại nữa, như do
nhân duyên nam nữ giao hội, chủng tử gá vào thai tạng, chẳng bị mất đi, hư hoại,
tức là ý nghĩa gia trì lẫn nhau. Cũng như thế, chư Phật là quốc vương và minh
phi hòa hợp, cùng sanh chủng tử Tỳ Phú La, được Đại Bi Thai Tạng duy trì chẳng
bị mất đi, hư hoại. Vì thế gọi là “pháp
giới gia trì”. Đức Thế Tôn gia trì trọn khắp hết thảy chúng sanh, đều tạo
chủng tử bình đẳng xong, tức thời nhập trọn khắp Pháp Giới Thai Tạng tam-muội, quán mỗi mỗi chủng tử ấy đều
là quyến thuộc phổ môn vô tận trang nghiêm của đức Tỳ Lô Giá Na trên đài hoa
sen, cũng bình đẳng chẳng khác Đại Bi Mạn-đồ-la. Nhưng các chúng sanh chẳng thể
tự chứng biết; do vậy gọi là “ở trong
thánh thai câu xá”. Nếu lúc ra khỏi thai tạng, tức là sự giải thoát của
Như Lai. Đức Thế Tôn thị hiện quán sát như thế xong, lập tức xuất tam-muội, nói
tam-muội-da trì minh.
Tam-muội-da (Samaya) có
nghĩa là bình đẳng, có nghĩa là bổn thệ, nghĩa là trừ chướng, có nghĩa là cảnh
giác. Nói “bình đẳng” tức là
khi Như Lai hiện chứng tam-muội này, thấy các loại thân, ngữ, ý của hết thảy
chúng sanh thảy đều bình đẳng với Như Lai, Thiền Định, trí huệ và thân Thật Tướng
rốt ráo bình đẳng. Vì thế, thốt lời chân thành bảo ban chúng sanh: “Nếu lời ta nói nhất định chẳng dối, sẽ khiến
cho hết thảy chúng sanh khi nói ra lời thành thật này, cũng được Tam Mật gia
trì, vô tận trang nghiêm bằng với Như Lai”. Do nhân duyên ấy, có thể làm sự nghiệp kim cang, nên gọi là
tam-muội-da.
Nói “bổn thệ” tức là khi Như Lai thấy, chứng tam-muội này, thấy hết
thảy chúng sanh đều có nghĩa lý “thành Phật”, ngay lập tức lập đại thệ nguyện rằng:
“Nay ta sẽ từ Phổ Môn dùng vô lượng
phương tiện khiến cho hết thảy chúng sanh đều đạt tới Vô Thượng Bồ Đề. Do chúng
sanh chẳng cùng tận, sự nghiệp của ta trọn chẳng ngưng nghỉ. Nếu khi có chúng
sanh thuận theo bổn thệ của ta mà thốt ra lời thành thật này, cũng sẽ khiến cho
sự nghiệp do người ấy thực hiện đều thành kim cang tánh”. Vì thế gọi là
tam-muội-da. Nói “trừ chướng”
là do Như Lai thấy “hết thảy chúng sanh đều có Pháp Thân của Như Lai, chỉ vì một
niệm vô minh nên thường đối trước mắt mà chẳng hay biết”. Do vậy, thốt lời
thành thật rằng: “Ta nay phải nên lập
đủ loại phương tiện, vì khắp hết thảy chúng sanh nạo bỏ màng mộng che mắt. Nếu
thệ nguyện của ta ắt sẽ thành tựu, sẽ khiến cho các chúng sanh khi thuận theo
phương tiện của ta mà nói lời thành thật này, thậm chí ngay trong một đời, sẽ đạt
được vô cấu nhãn, cái chướng đều hết sạch”. Vì thế, gọi là tam-muội-da.
Nói “cảnh giác” nghĩa là Như Lai do hết thảy chúng sanh đều đang
chìm trong giấc ngủ vô minh, đối với công đức như thế, chẳng tự hay biết, cho
nên Ngài dùng lời chân thành để cảm động, khiến họ được tỉnh ngộ. Cũng dùng điều
này để cảnh tỉnh, giác ngộ các vị Bồ Tát, khiến cho họ vùng dậy khỏi hang Thiền
Định sâu thẳm, học theo sư tử vươn mình. Nếu có hành nhân Chân Ngôn nói tam-muội-da
này, chư Phật chúng ta cũng sẽ nhớ nghĩ, gìn giữ bổn thệ, chẳng thể trái vượt,
giống như quốc vương đã tự chế pháp tắc xong, lại tự mình kính thuận hành theo,
nên gọi là tam-muội-da. “Trì minh”
trong tiếng Phạn là Đà La Ni, ý nói: “Tổng
trì hết thảy minh môn, minh hạnh, cho tới trọn hết tam-muội-da thệ nguyện này,
trọn chẳng rò rỉ, mất mát”. Vì thế, gọi là Nhập Phật Tam-muội-da Trì
Minh.
(Kinh) Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A tam mê. Đát rị tam mê. Tam ma duệ.
Sa ha.
(經)南麼三曼多勃馱喃。阿三迷。呾唎三迷。三麼曳。莎訶。
(Kinh: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A tam mê.
Đát rị tam mê. Tam ma duệ. Sa ha).
Câu đầu tiên là tự quy mạng
hết thảy chư Phật như trong phần trước đã giải thích. Câu kế đó nói vô đẳng,
câu kế đó là ba thứ bình đẳng. Liên kết các câu ấy lại, sẽ là Vô Đẳng Tam Bình
Đẳng tam-muội-da. Lại nữa, A nghĩa là “các pháp vốn bất sanh”, tức là thể tánh
của pháp giới. Sa có nghĩa là “chắc thật”. Mê có nghĩa là tam-muội. Ma là tự chứng
Đại Không, cũng có nghĩa là Ngã. Khi đức Thế Tôn chứng tam-muội này, đế quán
“tâm lực phổ môn mạn-đồ-la của mỗi chúng sanh đều bằng với ta”. Vì thế, chẳng
có đối đãi, chẳng thể sánh ví, gọi là “vô
đẳng”. “Tam đẳng” tức là ba đời bình đẳng, ba nhân bình đẳng, ba nghiệp
đạo bình đẳng, ba thừa bình đẳng, tức là để giải thích cho câu trước đó, nên có
ý nghĩa là “vô đẳng”. Đát Rị
(Tri) có nghĩa là “tâm như Thật Tướng”.
Hết thảy trần cấu vốn bất sanh, các loại phương tiện của tam thế Như Lai thảy đều
vì một đại sự nhân duyên, tức là ý nghĩa “trừ
chướng”. [Minh chú được] kết lại bằng “tam-muội-da”, tức là nhất định sẽ sư tử hống để nói ý nghĩa “các pháp bình đẳng”, lập đại thệ
nguyện “sẽ khiến cho hết thảy đều được
như ta, muốn cho trọn khắp chúng sanh khai tri kiến thanh tịnh”, dùng điều
này để cảnh giác chúng sanh và chư Phật. Do vậy, tam-muội-da này có tên là Nhất
Thiết Như Lai Kim Cang Thệ Thành. Nếu chẳng niệm trì trước, sẽ chẳng thể làm hết
thảy các pháp sự chân ngôn.
(Kinh) Tức ư nhĩ
thời, ư nhất thiết Phật sát, nhất thiết Bồ Tát chúng hội chi trung, thuyết thử
nhập tam-muội-da minh dĩ, chư Phật tử đẳng đồng văn thị giả, ư nhất thiết pháp
bất vi việt.
(經)即於爾時,於一切佛剎一切菩薩眾會之中說此入三昧耶明已,諸佛子等同聞是者,於一切法而不違越。
(Kinh: Ngay khi đó, trong hết thảy cõi Phật, trong hết thảy chúng
hội của các Bồ Tát, [đức Thế Tôn] nói nhập tam-muội-da
minh này xong, các Phật tử đều cùng nghe [minh chú] này, chẳng trái vượt hết thảy
các pháp).
Đức Thế Tôn dùng thân ngữ
tâm luân trọn khắp hết thảy các cõi Phật để nói tam-muội-da này xong, hết thảy
các vị Phật tử không ai chẳng được nghe. Đã nghe như thế xong, chẳng dám trái
vượt hết thảy các pháp chân ngôn. Vì lẽ nào vậy? Nếu Bồ Tát trong các pháp của
chúng sanh mà khởi lên đủ loại kiến chấp bất bình đẳng, tức là trái vượt pháp
tam-muội-da. Nếu trong bình đẳng thệ này mà khởi đủ loại tâm hạn lượng, thì
cũng là vượt pháp tam-muội. Các việc làm đều tùy thuận danh lợi thế gian, chẳng
vì đại sự nhân duyên, thì cũng là vượt pháp tam-muội-da. Buông lung, lười nhác,
chẳng thể cảnh tỉnh, giác ngộ cái tâm này, cũng là vượt khỏi pháp tam-muội-da.
Do vượt tam-muội-da, sẽ có đủ loại chướng sanh khởi, tự tổn, tổn người, chẳng
có nghĩa lợi. Vì thế, các hàng Bồ Tát phụng trì tam-muội-da này như thủ hộ thân
mạng, chẳng dám trái vượt!
(Kinh) Thời Bạc Già Phạm phục thuyết Pháp Giới Sanh chân ngôn.
(經)時薄伽梵復說法界生真言。
(Kinh: Khi đó, Bạc Già Phạm lại nói Pháp Giới Sanh chân ngôn).
Trong phần trước, khi đức
Thế Tôn nhập Pháp Giới Thai Tạng tam-muội, thấy hết thảy chúng sanh đều có chủng
tử Bồ Đề bằng với chư Phật, cho nên nói Nhập Phật Tam-muội-da Trì Minh. Do trì
minh ấy, [chúng sanh] được nhập vào các giới bình đẳng của Phật, tức là ý nghĩa
“nương gá thánh thai”. Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn lại dùng Phổ Nhãn để quán chắc thật hết thảy chúng sanh, [thấy
họ] thảy đều là thánh thai trọn đủ, sanh trong nhà Phật. Lúc đó, vô tận trang
nghiêm cũng lại bằng với Như Lai. Đã từ tam-muội ấy khởi, bèn nói Pháp Giới
Sanh chân ngôn. Lại dùng Phổ Nhãn để quán chắc thật, thấy mỗi chúng sanh ấy đều
thành tựu trọn đủ kim cang sự nghiệp. Lúc bấy giờ, vô tận trang nghiêm cũng lại
bằng với Như Lai. Từ tam-muội ấy khởi, liền nói Kim Cang Tát Đỏa chân ngôn. Do
vậy, ba thứ ấy đều được gọi là tam-muội-da. Lại nữa, do Nhập Phật Tam-muội-da,
khiến cho chẳng chết yểu trong thai tạng. Do sanh từ pháp giới, lúc mới ra khỏi
thai, lìa các chướng ngại. Do Kim Cang Tát Đỏa có thể chuyển biến gia nghiệp,
trọn đủ các nghề khéo. Lại do Nhập Phật Tam-muội-da gia trì bí mật Trung Thai Tạng,
dùng Pháp Giới Sanh gia trì hai tầng quyến thuộc của Kim Cang và Bồ Tát. Dùng
Kim Cang Tát Đỏa gia trì đủ loại hình sắc theo từng loài, Nhập Phật Tam-muội-da
như liên hoa tạng, Pháp Giới Sanh như hoa sen nở, Kim Cang Tát Đỏa như hoa sen
thành tựu, lại trở thành chủng tử. Vì vậy, ba thứ ấy đều gọi là tam-muội-da.
(Kinh) Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ cú
ngân.
(經)南麼三漫多勃陀喃。達摩馱賭。薩嚩婆嚩句痕。
(Kinh: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà
đổ, tát phạ bà phạ cú ngân.
Đạt Ma Đà Đổ (Dharmadhātu)
nghĩa là “pháp giới”. Tát Phạ
Bà Phạ (Svabhāva) là tự tánh, cũng gọi là bản tánh. Cú Ngân (Ko’haṃ) nghĩa là
Ngã. Câu này có nghĩa “Ngã là tự tánh
của pháp giới”. Dùng nhất định sư tử hống để nói “ta và hết thảy chúng sanh đều là pháp giới tự tánh”, có nghĩa
là bình đẳng. Ta sẽ lập đủ loại phương tiện, khiến cho hết thảy chúng sanh thảy
đều chứng biết; đó là ý nghĩa “bổn thệ”.
Do biết ta chính là pháp giới tự tánh, sẽ có thể trừ hết thảy phân biệt, mở
mang tri kiến thanh tịnh. Đó là ý nghĩa “trừ
chướng”. Chư Phật chỉ nguyện nghĩ nhớ bổn nguyện, nên khiến cho thân này
của ta liền giống như pháp giới tự tánh của đức Tỳ Lô Giá Na. Đấy chính là ý
nghĩa “cảnh giác”. Hãy nên dùng
tự môn để giải thích rộng rãi!
(Kinh) Kim Cang Tát Đỏa gia trì chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt
chiết ra nạn, phạt chiết ra đát ma cú ngân.
(經)金剛薩埵加持真言曰:南麼三漫多伐折囉𧹞。伐折囉呾麼句痕。
(Kinh: Kim Cang Tát Đỏa gia trì chân ngôn rằng:
- Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, phạt chiết ra đát ma cú ngân).
Trong câu đầu tiên, do sắp
nói về chân ngôn của ngài Kim Cang Tát Đỏa, cho nên quy mạng hết thảy Kim Cang
(Namaḥ
samantavajrāṇāṃ, nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn). Tức là từ vô lượng môn, trì Kim Cang Trí của Như Lai đều khiến cho nghĩ
nhớ, chấp trì, hộ niệm. Câu kế đó, nói “phạt
chiết ra đát ma câu ngân” (Vajrātmako ’ham) chính là “thân ta giống như kim cang”. Kim cang chính là pháp giới tự
tánh, do thành tựu sức đại kiên cố chẳng thể phá hoại, các môn khác bèn nói
[pháp giới tự tánh] là “kim cang”.
Như Lai dùng Phổ Nhãn của Như Lai để quán trí thể kim cang của hết thảy chúng
sanh chẳng khác ta; đó là nghĩa “bình
đẳng”. Do chúng sanh chẳng tự hay biết, [Như Lai bèn] từ vô lượng kim
cang trí môn, thực hiện đủ loại kim cang sự nghiệp, muốn dẹp tan đại chướng như
thế, hòng [chúng sanh] đạt tới Thật Tế. Đó là ý nghĩa “bổn thệ”. Thật Tế như thế gọi là vô cấu nhãn, hoặc kim cang
nhãn, tức là ý nghĩa “trừ chướng”.
Dùng âm thanh sư tử hống ấy chấn động mười phương cõi Phật, tức là ý nghĩa “cảnh giác”. Vì thế, gọi là tam-muội-da.
Lại nữa, hành giả Chân Ngôn
do môn tam-muội-da đầu tiên mà đạt được thân “thân, khẩu, ý bí mật” bình đẳng với Như Lai. Do môn tam-muội-da
thứ hai, đạt được thân tôn đặc ngự trong pháp giới cung do Như Lai gia trì. Do
môn tam-muội-da thứ ba, khiến cho thân và cõi nước đều như kim cang, và vô lượng
các vị Trì Kim Cang tự vây quanh. Đức Phật nói môn tam-muội-da đầu tiên là để tự
thọ dụng, môn tam-muội-da thứ hai nhằm thành tựu các vị Bồ Tát pháp tánh thân.
Môn tam-muội thứ ba là vì chiết phục, nhiếp thọ các chúng sanh theo từng loài.
Đức Phật nói môn tam-muội-da đầu tiên nhằm kiến lập Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la,
môn tam-muội-da thứ hai nhằm thực hiện sự nghiệp A-xà-lê của đức Tỳ Lô Giá Na,
môn tam-muội-da thứ ba vì sự nghiệp đệ tử của Chấp Kim Cang. Môn tam-muội-da đầu
tiên nhằm gia trì quyến thuộc của Như Lai. Môn tam-muội-da thứ hai nhằm gia trì
quyến thuộc Liên Hoa. Môn tam-muội-da thứ ba nhằm gia trì quyến thuộc Kim Cang.
Do vậy, đức Phật nói ba môn tam-muội-da.
Kế đó, nói Kim Cang Khải
chân ngôn để trang nghiêm thân Kim Cang Tát Đỏa. Hành nhân đã phát kim cang thệ
nguyện, muốn vì hết thảy chúng sanh diệt tan các chướng, do kiên cường tinh tấn,
bèn mặc kim cang giáp trụ. Lại như Lục Ba La Mật, mỗi môn đều như Thật Tướng, đều
như kim cang chẳng thể phá hoại. Lại còn trong mỗi Độ, đều trọn đủ năm Độ kia.
Vì thế, khắp thân dày đặc kín kẽ, chẳng có kẽ hở. Giống như Lục Độ, ba mươi bảy
phẩm, mười tám Không, một trăm lẻ tám tam-muội, năm trăm đà la ni v.v… đều sẽ rộng
nói. Do mặc kim cang giáp của Như Lai, xoay vần xuất sanh nhập tử trong lục đạo,
nhưng hết thảy phiền não nghiệp khổ chẳng thể thương tổn. Nếu giải thích nông cạn,
sơ lược thì là hành nhân do dùng chân ngôn này để tự gia trì, sẽ được hết thảy
các trời, rồng v.v… thấy người ấy giống như thân Kim Cang Tát Đỏa, khắp thân đều
khoác kim cang giáp trụ cứng dày không ngằn mé như lửa cháy rực. Do vậy, hết thảy
kẻ gây chướng chẳng thể thương tổn được!
(Kinh) Kim Cang Khải chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra
nạn, phạt chiết ra ca phạ giá hồng.
(經)金剛鎧真言曰:南麼三漫多伐折囉𧹞。伐折囉迦嚩遮吽。
(Kinh: Chân ngôn áo giáp Kim Cang là: - Nam ma
tam mạn đa phạt chiết ra nạn, phạt chiết ra ca phạ giá hồng).
Phạt Chiết Ra (Vajra) là
kim cang, Ca Phạ Giá (Kavaca) là giáp. Như Lai dùng kim cang nhãn quán khắp
chúng sanh, không ai chẳng mặc giáp trụ kim cang này. Do vậy, dùng lời thành thật
để diễn nói. Dùng chữ Phạ (व, Va) tối sơ làm cái Thể của chân ngôn, Phạ nghĩa là “các pháp lìa ngôn thuyết”. Nếu là
hành xứ của ngôn thuyết hý luận, sẽ đều có thể phá cái có thể chuyển, chẳng có
kiên cố. Do vậy, lấy chữ Phạ làm Thể. Các chữ kế đó đều nhằm lần lượt giải
thích. Vì sao các pháp lìa ngôn thuyết? Do sanh bất khả đắc. Cớ sao sanh bất khả
đắc? Do tự tánh thanh tịnh. Tự tánh thanh tịnh chính là thân Kim Cang Tát Đỏa.
Kế đó, nói về ý nghĩa của Giáp. Nếu pháp do tạo tác mà thành, hãy nên biết nó
chỉ có giả danh, biến thiên theo duyên, còn chẳng thể kiên cố tánh của nó, huống
hồ có thể ngăn chặn mũi tên nhọn của sáu trần ư? Nay quán kim cang thể vô tận
trang nghiêm, thảy đều lìa khỏi các tạo tác. Do vậy, kiên cố, bất hoại, bách
phi chẳng thể liên can. Do vậy gọi là kim cang giáp trụ. Chữ Hồng cuối cùng
chính là tiếng vô sở úy, cũng có nghĩa là “sức tự tại”. Khi dùng Định Huệ trọn đủ để chứng môn chữ Ha này,
tự biết ắt sẽ có thể dẹp tan các chướng, thủ hộ trọn khắp chúng sanh. Do vậy, đại
hoan hỷ!
Kế đó nói Như Lai Nhãn chân
ngôn, như kim xí điểu vương oai lực trọn đủ, lông vũ hoàn bị, cứng cáp, lại có
con mắt tột bậc sáng suốt, nhạy bén, ở trong hư không ngó nhìn biển cả như nhìn
vào hình bóng trong gương, có thể tùy ý tự tại bắt lấy các rồng. Hãy nên biết
hành nhân Chân Ngôn cũng lại giống như thế, do được tịnh nhãn của Như Lai tự
gia trì, Mạn-đồ-la hải hội hiện ra trước mắt, thấy trọn hết thảy căn duyên và
pháp chướng đạo, do sự nghiệp kim cang này mà tùy ý đều thành. Vì thế, kế tiếp
bèn nói [chân ngôn ấy].
(Kinh) Như Lai nhãn hựu quán chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, đát tha yết đa chước cật sô, vĩ dã phạ lộ ca dã, sa ha.
(經)如來眼又觀真言曰:南麼三漫多勃陀喃。怛他揭多斫吃蒭。尾也嚩路迦也。莎訶。
(Kinh: Như Lai nhãn lại quán chân ngôn rằng: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha yết đa chước cật sô, vĩ dã phạ lộ ca dã,
sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây, Đá
Tha Yết Đa Chước Cật Sô (Tathāgatacakṣu) là mắt của Như Lai. Kế đó nói Vĩ Dã Lộ
Ca Dã (Vyāvalokaya) có nghĩa là Quán. Ý nói “dùng mắt Như Lai để quán”. Dùng chữ Đa tối sơ để làm Thể, Đa
nghĩa là “các pháp Như Như”. Do
hết thảy các pháp vốn bất sanh, tức là cái Như Như ấy cũng chẳng thể được. Do vậy,
Như Lai quán hết thảy các pháp rốt ráo chẳng Như, chẳng khác; tuy chẳng thể thấy
mà cũng thấy rõ. Như chư Phật, mắt của các chúng sanh cũng thế. Nếu lúc hành giả
nói lời chân thật này, sẽ được mắt Phật chẳng thể nghĩ bàn gia trì, sẽ dần dần
đạt được mắt thanh tịnh.
Kế đó, có sáu loại chân
ngôn như Đồ Hương v.v… đều là chân ngôn cần thiết khi vào Mạn-đồ-la tu cúng dường,
cho nên được nói trong phẩm này.
(Kinh) Đồ hương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu
đà kiện đỗ nạp bà phạ, sa ha.
(經)塗香真言曰:南麼三漫多勃陀喃。微輸馱健杜納婆嚩。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn hương bôi là: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, vi thâu đà kiện đỗ nạp bà phạ, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây,
Vi-thâu-đà (Viśuddha) nghĩa là tịnh, kiện-đỗ (gandha) là hương, nạp-bà-phạ (odbhava)
nghĩa là phát sanh, tức là nói “phát
sanh hương thanh tịnh”. Do câu chú này dùmg chữ Vi đầu tiên làm Thể,
trên chữ Phạ (व, Va) lại thêm vạch chữ Y (ि), nên chuyển thanh thành Vi (वि). Chữ Phạ nghĩa là Kim Cang, là ý
nghĩa “lìa ngôn thuyết”. Tam-muội[150]
nghĩa là trụ. Định và Huệ cân bằng như thế, tức là trí giới Trụ Vô Hý Luận
Chấp Kim Cang tam thế vô chướng ngại. Giới hương như thế tánh vốn tịch tĩnh, chẳng
đến, chẳng đi, mà thường trọn khắp pháp giới, nên gọi là “hương bôi thanh tịnh”. Hết thảy
chúng sanh tuy bình đẳng cùng có, nhưng do chưa phát tâm, hương ấy chưa phát.
Ta nay dùng giới hương này để bôi khắp Pháp Thân, cho nên có thể xông hương
thanh tịnh trọn khắp hết thảy! Kế đó là Hoa chân ngôn.
(Kinh) Hoa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha muội
đát rị dã tỳ dữu nghiệt đế, sa ha.
(經)華真言曰:南麼三曼多勃馱喃摩訶。妹呾唎也。毘庾蘖帝。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn về hoa là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma
ha muội đát rị dã tỳ dữu nghiệt đế, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây, Ma
Ha Muội Đát Rị (Mahāmaitriya) có nghĩa là Đại Từ. Tỳ Dữu Nghiệt Đế (bhyudgate)
có nghĩa là Sanh, tức là ý nghĩa “do đại từ sanh ra”. Do lấy chữ Muội (मै, Mai) làm cái Thể của chân ngôn,
tức là chữ Mãng (म, ma) thêm nét tam-muội. Vì thế,
chuyển âm để đọc. Mãng có nghĩa là tâm, là tôi, cũng là Đại Không. Ý nói tâm
liên hoa này bị vọng ngã buộc ràng, chẳng thể tăng trưởng, nay do tự chứng biết
Thật Tướng của tâm, từ tám cánh sen và tua nhụy trong từ bi tạng theo thứ tự nở
xòe, nên nói là “sanh bởi đại từ”.
Lại nữa, chủng tử thụ vương thuộc Bồ Đề tâm thanh tịnh từ đất từ bi mà tăng trưởng
sum suê, nở xòe hoa vạn đức, do phương tiện nên kết trái, nên nói là “sanh từ đại bi”. Hãy nên dùng tự môn
để giải thích rộng rãi. Kế đó là chân ngôn về hương đốt.
(Kinh) Thiêu hương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt
ma đà đổ nỗ nghiệt đế, sa ha.
(經)燒香真言曰:南麼三漫多勃陀喃。達摩馱賭弩蘗帝。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn về hương đốt là: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ nỗ nghiệt đế, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây, Đạ
Ma Đà Đổ (Dharmadhātu) nghĩa là pháp giới, Nỗ Nghiệt Đế (Anugate) là “tùy chí” (theo đến), cũng có nghĩa
là “biến chí” (tới trọn khắp),
cũng có nghĩa Thệ (逝, đi qua), là
tiến lên chẳng ngừng, dịch thành Biến Chí Pháp Giới (tới trọn khắp pháp giới).
Do câu đầu dùng chữ Đạt (ध, Dha) làm Thể, do chúng sanh giới vốn chẳng sanh, cho tới tướng
nhất định của pháp giới cũng chẳng thể được. Pháp giới như thế sâu rộng chẳng
có ngằn mé, chẳng thể đo lường, mà hành nhân Du Già luôn tiến lên thù thắng chẳng
ngưng nghỉ, thân ngữ tâm nghiệp đều trọn khắp pháp giới như thế. Cho tới lúc
dùng một đóa hoa cúng dường Phật thì cũng trọn khắp pháp giới như thế, tức là ý
nghĩa “thiêu hương” vậy! Kế đó
là ẩm thực chân ngôn.
(Kinh) Ẩm thực chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ra la,
ca la la, mạt lân nại na mị, mạt lân nại nê, ma ha mạt lý, sa ha.
(經)飲食真言曰:南麼三漫多勃陀喃。阿囉羅。迦羅羅。沫隣捺娜弭。沫隣捺泥。摩訶沫履。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn về thức ăn rằng: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, a ra la, ca la la, mạt lân nại na mị, mạt lân nại nê, ma ha
mạt lý, sa ha).
Trên đây, trước hết nói A
Ra La (Arara) có nghĩa là “tiếng không ưa nghe, tiếng không tốt”. Như người lớn
tiếng quát tháo, khiến cho người nghe tâm không tịch tĩnh. Kế đó nói Ca La La
(Karara) nhằm ngăn dứt âm thanh ầm ĩ, không tốt đẹp trên đây, mang ý nghĩa “điềm
tĩnh, tịch tĩnh”. Ở đây chính là dùng pháp hỷ Thiền Duyệt làm ý nghĩa của thức
ăn; do vậy, mượn các từ ngữ ấy [để biểu đạt]. Nếu xét theo tướng tự luân thì A
có nghĩa là “bổn sơ”. Do có cái
bổn sơ ấy mà có hai loại trần cấu, tức là phiền não và sở tri chướng. Do hai loại
trần cấu ấy, bèn có tiếng hý luận, quát tháo. Nay dùng “các pháp vốn bất sanh”, hai loại trần cấu cũng vốn là bất sanh,
tức là khai cam lộ môn, thành cơm Niết Bàn, nên nói là A Ra La. Lại nữa, nếu có
ai siêng tu vạn hạnh, mong đạt được pháp vị như thế, do tạo tác nên hai chướng
vẫn sanh khởi, vẫn chẳng phải là thường mạng sắc lực, [chẳng phải là] vị cam lộ
thật sự. Nay do các pháp chẳng tạo tác, vị “nội chứng” chẳng từ cái gì khác mà
đạt được, giống như đã ăn cháo sữa, chẳng cần gì nữa. Vì thế nói là “chấm dứt âm thanh không tốt trước đó”.
Mạt Lân Nại Na Mị (Baliṃ dadāmi): Phàm người ở phương Tây lúc cúng tế, trên là hiến cúng chư Phật, dưới
là thần quỷ, đều gọi là Mạt Lê (Bale). Câu này có nghĩa là “tôi đã hiến dâng thức
ăn”. Kế đó nói Mạt Lân Nại Nê (Baliṃ dade), hàm ý: Đã tiếp nhận thức ăn do tôi
dâng cúng, hãy nên hoàn lại diệu thực cho tôi. Như người thế gian dùng món ngon
lành để cúng thí phước điền, hòng khiến cho đời này và đời sau thức ăn chẳng
thiếu hụt. Nay dùng vô tận pháp thực gia trì vật cúng dường trong thế gian, phụng
thí chư tôn, để mong thỏa sở nguyện, khiến cho thường sung túc vị “bất tử, bất sanh”. Kế đó nói Ma Ha Mạt
Lý (Mahābali), tức là khiến cho các thức ăn rộng lớn, dồi dào, ngon lành gấp
đôi. Dùng điều này để liệu giản câu trước, ý nói: “Tôi nay dâng hiến và cầu nguyện đều là vị khôn sánh tột bậc, không chi
hơn được, chẳng cầu thức ăn có hạn lượng!” Kế đó là Đăng Minh chân ngôn:
(Kinh) Đăng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha yết
đa lạt chỉ, tát phả ra nĩnh a phạ bà sa na, già già nhu đà rị da, sa ha.
(經)燈真言曰:南麼三漫多勃陀喃。怛他揭多喇旨。薩叵囉儜阿嚩婆娑那。伽伽猱陀哩耶。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn về đèn như sau: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, đát tha yết đa lạt chỉ, tát phả ra nĩnh a phạ bà sa na, già già
nhu đà rị da, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây,
Đát Tha Yết Đa (Tathāgata) là Như Lai, Lạt Chỉ (Arci) là chói sáng. Kế đó nói
Tát Phả Ra Nĩnh (Spharaṇa) là phổ biến, A Phạ Bà Sa Na (Vabhāsana) là các tối
tăm. Già Già Nhu Đà Rị Da (Gaganaudārya) là “vô hạn lượng như hư không”. Ý nói: Quang minh chói rực của Như Lai chiếu trọn khắp các tối
tăm, giống như hư không chẳng có hạn lượng. Chân ngôn này lấy chữ Đa trong câu
đầu tiên làm Thể, như Thật Tướng của cái tâm, tức là ánh sáng trí huệ của đức Tỳ
Lô Giá Na chiếu khắp thế gian, không đâu chẳng trọn khắp. Nói “các tối tăm” chính là vô minh; do vô
minh vốn bất sanh, nên Thể của nó chính là minh. Vì thế, quang minh của Như Lai
chiếu trọn khắp các tối tăm. Nói “bằng
với hư không” là do vô minh vô lượng như hư không, trí quang của Như Lai
cũng vô lượng như hư không. Cho đến già, chết cũng vô lượng như hư không, trí
quang của Như Lai cũng vô lượng như hư không. Như mười hai nhân duyên, hết thảy
các pháp cũng nói như thế. Do nghĩa quyết định như thế, gọi là Đăng Minh chân
ngôn. Dùng chân ngôn này để gia trì đèn sáng hòng cúng dường Phật, tức là sự
cúng dường tối thắng trong các thứ cúng dường. Kế đó, là Át-già chân ngôn.
(Kinh) Át-già chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na,
sa ma, a sa ma, sa ha.
(經)閼伽真言曰:南麼三曼多勃陀喃。伽伽那。娑摩阿娑摩。娑訶。
(Kinh: Chân ngôn về Át-già như sau: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, già già na, sa ma, a sa ma, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây,
Già Già Na (Gagana) nghĩa là hư không. Sa Ma (Sama) nghĩa là Đẳng, A Sa Ma
(Asama) là Vô Đẳng, đó gọi là Đẳng Hư Không Vô Đẳng. Do Pháp Thân của Như Lai bổn
tánh là tịnh, vô phân biệt, chẳng có ngằn mé, giống như hư không, nhưng lại có
vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, hư không chẳng thể sánh ví được!
Vì thế nói là Vô Đẳng. Lại nói A Sa Ma nghĩa là “chẳng bình đẳng”. Chẳng bình đẳng
chính là Nhị Thừa. Nay đã bằng với hư không, cái “bằng” ấy lại chẳng bằng, nên
nói là Đẳng Hư Không Vô Đẳng. Chân ngôn này dùng chữ Già đầu tiên làm Thể.
Trong chúng sanh giới, đến đi cũng chẳng thể được. Trong pháp giới, tướng đến
đi cũng chẳng thể được. Do Như Lai Như Khứ cũng chẳng thể được, nên gọi là Đại
Không. Do tánh của nước Đại Không là thanh tịnh, dùng nó để tắm cái thân vô cấu.
Đó là ý nghĩa chân thật của Át-già. Kế đó, có bốn chân ngôn, cũng là tướng
trang nghiêm Mạn-đồ-la của A-xà-lê. Do vậy, chúng được nói trong phẩm này. Trước
hết là Như Lai đảnh tướng chân ngôn.
(Kinh) Như Lai đảnh tướng chân ngôn: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Già già na, a nan đa tát phát ra nĩnh tỳ thâu đà đạt ma nễ xà đa, sa ha.
(經)如來頂相真言:南麼三漫多勃陀喃。伽伽那阿難多。薩發囉儜。毘輸馱達摩儞闍多。娑訶。
(Kinh: Chân ngôn tướng đỉnh đầu Như Lai: - Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm. Già già na, a nan đa tát phát ra nĩnh tỳ thâu đà đạt
ma nễ xà đa, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây,
Già Già Na A Nan Đa (Gaganānanta) là “hư không vô lượng”. Tát Phát Ra Nĩnh (Spharaṇa) là “phổ
biến”. Tỳ Thâu Đà (Viśudha) là “thanh tịnh”. Đạt Ma Nễ Xà Đa
(Dharmanirjāta) nghĩa là “sanh ra pháp giới”. Ý nói: Tướng đỉnh
đầu của Như Lai giống như hư không, vượt ngoài số lượng, thanh tịnh trọn khắp.
Hãy nên biết đảnh tướng như thế sanh từ pháp giới thai tạng, chẳng phải sanh từ
thai tạng của cha mẹ trong thế gian. Chân ngôn này cũng lấy chữ Già làm Thể. Ý
nói: Tướng búi tóc của Như Lai chẳng có tướng đến đi giống như Đại Không, nhưng
hết thảy chúng sanh dùng tướng đến đi để quán. Vì thế, trọn khắp mười phương,
chẳng thể thấy được ngằn mé ấy. Nếu hành giả dùng cái tâm nhất định, tự biết đảnh
tướng của chính mình cũng giống như thế, thì gọi là Phật Đảnh Chân Ngôn. Khi
A-xà-lê tự quán chính mình là Tỳ Lô Giá Na, xõa búi tóc rồi búi lại. Nếu là người
xuất gia, nên dùng tay phải nắm thành quyền, đặt trên đỉnh đầu. Sau đó, nói
chân ngôn này để gia trì, hết thảy thiên thần v.v… sẽ chẳng thể thấy tướng đỉnh
đầu của vị ấy. Kế đó là Như Lai Giáp chân ngôn.
(Kinh) Như Lai giáp chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt
chiết ra nhập phạ la, vi tát phổ ra, hồng.
(經)如來甲真言曰:南麼三曼多勃陀喃。伐折囉入嚩羅。微薩普囉。吽。
(Kinh: Chân ngôn áo giáp của Như Lai là: - Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết la nhập phạ la, vi tát phổ ra, hồng.
Trong cú nghĩa trên đây, Phạt
Chiết Ra Nhập Phạ La (Vajrajvāla) là “kim cang quang”. Vi Tát Phổ Ra
(Visphura) nghĩa là “phổ biến”.
Ý nói: Kim cang trí quang ấy trọn khắp hết thảy, có thể trừ sanh tử ám chướng,
cũng có thể chói ngời. Đó là ý nghĩa của Như Lai giáp. Chân ngôn này lấy chữ Hồng
(हूं, Hūṃ) cuối cùng làm Thể, trọn đủ ba
môn giải thoát, tức là phía trên [chữ Ha] có chấm Không (ं) của chữ Nẵng, tức là Không giải
thoát môn. Bản thể [của chữ Hồng] là chữ Ha (ह), do lìa nhân duyên, tức là vô tướng
giải thoát môn. Phía dưới là nét vạch tam-muội (ू) của chữ Ổ (ऊ, Ū),
do vốn bất sanh, tức là vô tác giải thoát môn. Ba môn như thế, hết thảy các chướng
chẳng thể nhập. Dùng huệ quang ấy để trang nghiêm trọn khắp cái thân, nên gọi
là Như Lai Giáp. Kiểm mật ấn thì dường như bản tiếng Phạn tàn khuyết, nghi rằng
đây chính là Kim Cang Tát Đỏa viên quang chân ngôn, phải nên tìm trong các bản
tiếng Phạn khác nữa [để kiểm chứng]! Kế đó là Như Lai viên quang chân ngôn.
(Kinh) Như Lai viên quang chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
nhập phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha.
(經)如來圓光真言曰:南麼三曼多勃陀喃。入嚩羅摩履儞。怛他蘗多栗旨。䓾訶。
(Kinh: Như Lai viên quang chân ngôn như sau: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhập phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ,
sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây, Nhập
Phạ La (Jvāla) nghĩa là “quang minh chói
rực”, Ma Lý Nễ (Mālini) nghĩa là “tràng hoa”, tức là dùng ngọn lửa làm
tràng bao quanh không gián đoạn. Do vậy gọi là Như Lai Viên Quang. Câu kế đó
nói Đát Tha Nghiệt Đa Lật Chỉ (Tathāgatārci) nghĩa là “quang minh của Như Lai”; đấy là quang minh trong sáng. Âm tiếng
Phạn và quang minh do vòng lửa vây quanh khác nhau, dùng chữ Lật Chỉ (Rci, र्चि) làm cái Thể của chân ngôn.
[Trong chữ Lật Chỉ], phía trên có âm thanh Ra (tức âm R) nghĩa là “trần cấu”. Dưới là chữ Giá (च, Ca) có nghĩa là “biến đổi”. Do nhập vào môn chữ A, tức
là vốn chẳng có trần cấu, mà cũng chẳng biến đổi, tức là quang minh thường tịch
của Như Lai. Lại kèm thêm âm tam-muội của chữ Y (ि), ý nói ánh sáng thường tịch ấy
trọn đủ Định Huệ. Do vậy, tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. A-xà-lê
dùng điều này để gia trì cái thân, hết thảy các hàng thiên thần được Như Lai Diễm
Man phủ trọn khắp thân, oai mãnh khó nhìn như vầng mặt trời. Do vậy, những kẻ
gây chướng chẳng có dịp hãm hại!
(Kinh) Như Lai thiệt tướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
ma ha a ma ha, đát tha nghiệt đa nhĩ ha phạ, tát để dã đạt ma bát ra, để sắt sỉ
đa, sa ha.
(經)如來舌相真言曰:南麼三曼多勃陀喃。摩訶阿摩訶。怛他蘗多爾訶嚩。薩底也達摩鉢囉。底瑟恥多。䓾 訶。
(Kinh: Chân ngôn tướng lưỡi của Như Lai rằng: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, ma ha a ma ha, đát tha nghiệt đa nhĩ ha phạ, tát để
dã đạt ma bát ra, để sắt sỉ đa, sa ha).
Trong cú nghĩa trên đây, Ma
Ha A Ma Ha (Mahāmahā) nghĩa là “đại,
vô đại”, Đát Tha Nghiệt Đa Nhĩ Ha Phạ (Tathāgatajihva) nghĩa là “cái lưỡi của Như Lai”. Tướng lưỡi ấy
rộng dài, che khắp hết thảy các cõi Phật, nên gọi là Đại. Cái “đại” ấy không có gì hơn được, không
thể đối đãi, tướng Đại cũng là Không, nên nói là Vô Đại. Kế đó, nói Tát Để Dã (Satya)
là Đế (chân thật, chắc thật), Đạt Ma (Dharma) là pháp, Bát Ra Để Sắt Sỉ Đa
(Pratiṣṭhita) là “thành tựu”, dịch nghĩa là “thành tựu pháp Thật Đế”. Như Lai từ vô lượng kiếp đến nay do
thường tu chân thật đế ngữ, đạt được bình đẳng ngữ luân ấy. Thành tựu pháp Thật
Đế, phát ra lời lẽ chân thành, nhất định chẳng sai khác. Vì thế, dùng chữ Đa cuối
cùng làm Thể của chân ngôn, nêu rõ tất cả ngôn ngữ của Như Lai thường như Thật
Tướng, chẳng hề dối gạt, không khác lạ. A-xà-lê dùng chân ngôn này để gia trì bản
thân, sẽ chuyển thuyết pháp giáo đều như kim cang. Thậm chí có thể do một âm mà
trọn khắp các cõi Phật. Phàm đối với các chân ngôn này, hãy đều nên dùng tự môn
để giải thích rộng rãi!
[1] Bố Tát
(Uposattha, Upavasatha, Uposadha, Upavāsa, Posadha) có nghĩa gốc là “thanh tịnh”.
Do vậy, từ ngữ này được dịch nghĩa thành Trưởng Tịnh, Trưởng Dưỡng, Tăng Trưởng,
Thiện Túc, Tịnh Trụ, Trường Trụ, Cận Trụ, Cộng Chủ, Đoạn, Xả, Trai, Thuyết Giới.
Đây là thông lệ cứ mỗi nửa tháng, toàn thể Tăng chúng tại một trụ xứ tụ tập
(người vì lý do nào đó chẳng thể tham dự, phải xin tăng đoàn cho phép vắng mặt)
nhằm trùng tụng giới luật để các tăng sĩ kiểm điểm tự thân có giữ giới thanh tịnh
hay không. Nếu ai vi phạm, sẽ tự đối trước Tăng đoàn sám hối. Các cư sĩ tại gia
thọ Bồ Tát giới cũng phải theo lệ tụng Bồ Tát Giới để kiểm điểm chính mình. Khi
bố-tát, có quy định “người chưa thọ giới ấy phải lui ra, không được nghe trộm”,
nhằm bảo vệ kẻ ấy chẳng khởi tâm khinh mạn, tùy tiện phán xét người thọ giới chẳng
giữ giới thanh tịnh, hoặc rêu rao các lỗi của tỳ-kheo hay cư sĩ khi họ phát lộ
sám hối.
[2] Ca La La
(Kalalaṃ) tức là phôi thai hình thành sau khi trứng của mẹ được thụ tinh sau bảy
ngày, còn được phiên âm là Yết La Lam, Yết La La, Ca La Lã, hoặc dịch nghĩa
thành Ngưng Hoạt, Tạp Uế.
[3] Nghĩa lợi:
Lợi ích trong hiện tại được gọi là Nghĩa, lợi ích trong tương lai gọi là Lợi.
[4] Chi phần:
Có thể hiểu đại lược như các giai đoạn, các phân đoạn của một sự việc. Chẳng hạn
như để vẽ Mạn-đồ-la sẽ gồm các yếu tố như phẩm hạnh của vị A-xà-lê, cách chọn lựa
cuộc đất thích hợp, kết cấu của Mạn-đồ-la, trình tự vẽ Mạn-đồ-la, trình tự cúng
dường, tác pháp v.v… Mỗi phần như thế được gọi là một chi phần.
[5] Theo Phật
Học Từ Điển của Đinh Phước Bảo, thập bát minh xứ (hay còn gọi là thập bát đại
kinh) là danh xưng của Bà La Môn giáo để chỉ các kinh điển cần phải thông hiểu
của một tu sĩ Bà La Môn, gồm bốn bộ Vệ Đà (Vedas, tức Lực Vệ Đà, Dạ Nhu Vệ Đà,
Sa Ma Vệ Đà, và A Thát Bà Vệ Đà), và sáu bộ luận lớn gồm Thức Xoa (Śiksā), Tỳ
Già La (Vyākarana), Kha Lạt Ba (Kalpa), Thụ Để Sa (Jyotisa), Xiển Đà (Chandas),
Ni Lộc Đa (Nirukta). Tám bộ luận nhỏ là Mế Mang Sa (Mīmāmsā), Na Da Tỳ Tát Đa
(Naya-vistara), Y Để Ha Sa (Itihāsa), Tăng Khư (Sāmkhya), Khóa Già (Garga), Đà
Nậu (Dhanur), Kiện Thát Bà (Gandharva), A Thâu (Āyur-śāstra). Nói chung, “thập
bát minh xứ” được dùng trong kinh luận Phật theo nghĩa “thông hiểu trọn khắp
các sách vở thế gian”.
[6] Tam bình
đẳng ở đây phải hiểu theo giáo nghĩa Mật Tông, tức là ba món thân ngữ ý đều
bình đẳng, dung nhập lẫn nhau, chỉ cùng một vị.
[7] Âm thanh
tam-muội là thuật ngữ trong văn tự Tất Đàm chỉ mười hai nguyên âm (thường gọi
là Thập Nhị Ma Đa), tức a, ā, i, ī, u, ū, e, ai, o, au, am, ah. Ở đây có ý nói
chữ Chất (tức Cit trong từ ngữ Citta, चित्त), chính là
ghép phụ âm Giá (Ca, च) với nguyên âm I (ि),
thành Cit (चि), nên nói “chữ Giá kèm thêm âm thanh tam-muội”.
[8] Ý nói
khi hành giả tu mật pháp, hoặc tay liên tiếp kết các thủ ấn, hoặc có lúc nhảy
múa theo các điệu kim cang vũ.
[9] Át-già (閼伽, Argha), còn phiên âm là A-già, Át-ra-già, dịch
nghĩa là Công Đức, Công Đức Thủy, hay chỉ dịch là Thủy. Đôi khi gọi gộp chung
là Át-già Hương Thủy, hoặc Hương Hoa Thủy. Đây là từ ngữ chỉ nước có mùi thơm
được dùng để cúng dường, hay vật dụng đựng nước ấy. Đây chính là một trong sáu
món cúng dường chính yếu trong đàn tràng Mật Tông, gồm nước Át-già (có tác dụng
tẩy rửa), hương bôi, tràng hoa, hương đốt, thức ăn, và đèn thắp sáng. Theo truyền
thống, thời cổ, tại Ấn Độ khi tiếp đón các khách quý, luôn dâng nước tẩy rửa có
mùi thơm để khách rửa tay, rửa mặt. Vì thế, Mật giáo cũng dùng nước Át-già như
một cách biểu hiện lòng kiền thành, trân trọng đối với Bổn Tôn và thánh chúng
trong đàn tràng. Đôi khi như trong truyền thống Tây Tạng, nước Át-già chỉ đơn
giản là nước trong hòa với một chút bột nghệ.
[10] Tỳ Na
Dã Ca (Vināyaka), còn phiên âm là Tỳ Na Dạ Ca, Tỳ Na Da Ca, Tần Na Dạ Ca, Tỳ Na
Da Đát Ca, Tỳ Na Trá Ca, Phệ Na Dã Đát Ca, dịch nghĩa là Tùy Ma, Chướng Ngại Thần.
Đây là một loại ác quỷ thần thân người, mũi voi, thường rình rập để hại người
tu hành.
[11] Tát Đà
Ba Luân Bồ Tát (Sadāpralāpa), tức Thường Đề Bồ Tát. Sở dĩ có tên gọi như vậy là
do vị này thấy chúng sanh chìm đắm trong sanh tử, nên thường khóc. Trong kinh Đại
Bát Nhã có nói đến công hạnh cầu Bát Nhã của vị Bồ Tát này. Do được nghe Bát
Nhã, cảm kích ân Phật, nhưng không có gì để cúng dường, nghe nói trưởng giả cần
tủy người để làm thuốc. Ngài liền đập vỡ xương mình, chắt lấy tủy đem bán để
mua hương hoa cúng dường Phật.
[12] Giá Văn
Đồ, còn được biết dưới các danh xưng Chamundeshwari, Chamundi, hoặc Charchika,
là dạng phẫn nộ của Chandi (một vị nữ thiên được coi là hùng mạnh nhất trong Bà
La Môn giáo). Bà này cũng là một vị trong Thất Mẫu (Saptamatrikas), thường được
coi là quyến thuộc của vua Diễm Ma (Diêm vương) vì bà ta thường ngự nơi hỏa
thiêu xác chết. Trong Mật Tông Tây Tạng, bà ta được coi là thân phẫn nộ của Đại
Hắc Thiên Nữ (Kali), là minh phi của Đại Hắc Thiên (Mahakala).
[13] Đồ Cát
Nhĩ (Ḍākinī), còn được phiên âm là Đồ Chỉ Ni, Đồ Cát Ni, Trá Chỉ Ni, hoặc dịch
nghĩa là Không Hành Mẫu. Trong Ấn giáo và Đông Mật, Đồ Cát Nhĩ được hiểu là một
loại nữ quỷ chuyên ăn thịt sống và hấp thụ tinh khí của con người. Theo truyền
thống Đông Mật, Đại Nhật Như Lai đã hiện thân Đại Hắc Thiên để hàng phục các Đồ
Cát Nhĩ, buộc họ phải thôi ăn thịt người và hộ trì Phật pháp. Trong Mật Giáo
Tây Tạng, Đồ Cát Nhĩ đóng vai trò khá quan trọng, họ thường được gọi theo tiếng
Tạng là Khandroma, và được xưng tụng là Kim Cang Thừa hành giả, được coi là hóa
thân của Phật và Bồ Tát. Họ thường được miêu tả dưới hình dạng thiếu nữ vẻ mặt
phẫn nộ, đội mão kết bằng xương người, một tay cầm bát (kapala) chứa đầy máu
tươi, một tay cầm dao cong, thường là khỏa thân nhảy múa trên xác người, có
công năng bảo vệ Mật pháp, thủ hộ hành giả Kim Cang Thừa. Hai Đồ Cát Nhĩ nổi tiếng
nhất trong Phật giáo Tây Tạng là Kim Cang Hợi Mẫu (Vajravārāhī), và Y Hỷ Tán
Gia (Yeshe Tsogal). Y Hỷ Tán Gia vốn là công chúa của xứ Karchen, theo học đạo
với Liên Hoa Sanh (Padmashambava, sáng tổ của Phật giáo Tây Tạng), trở thành đối
tượng song tu của ông ta với danh xưng là “sự nghiệp thủ ấn phi” (Karmamudrā
consort).
[14] A Tỳ
Giá Lỗ Ca (Abhicāraka), còn phiên âm là A Tỳ Trá Lưu Ca, A Tỳ Tả Lưu Ca, tức là
điều phục, hàng phục, nghĩa đen là “trói buộc khiến cho chẳng tự tại”.
[15] Hiểu
theo nghĩa thông thường, Tứ Trọng Cấm chính là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, và
nói dối. Trong Mật Giáo, Tứ Trọng Cấm là:
1. Chẳng xả
chánh pháp.
2. Chẳng xả
Bồ Đề tâm.
3. Chẳng keo
kiệt pháp thù thắng.
4. Chẳng tàn
hại chúng sanh.
[16] Tiểu Thừa
sau khi chứng quả, sẽ thường nhập diệt tận định, trụ trong Thiên Chân Niết Bàn,
xả sắc thân, kinh thường nói là “hôi thân diệt trí” (thân như tro, trí nhập diệt),
do không có bi nguyện độ sanh, nên thường gọi là “hôi đoạn” (đoạn diệt như lửa
tắt, chỉ còn tro).
[17] Dư nghiệt
(餘枿):
Các chủng tử tập khí xấu ác còn sót lại từ quá khứ.
[18] Bạch
nguyệt (Śukla-paksa) chỉ nửa đầu mỗi tháng Âm lịch, từ lúc trăng mới mọc cho đến
khi trăng tròn.
[19] Hai
mươi bảy tinh tú (Nakṣatram) là hai mươi bảy chòm sao trong thiên văn học cổ Ấn
Độ, gồm: A Thuyết Nhĩ (Ashvinī), Bạt Lạt Nhĩ (Bharanī), Cơ Lật Để Kha (Kṛttikā),
Lỗ Hỷ Ni (Rohini), Ma Lê Già Thi La (Mrigashīra), A Đà La (Ārdrā), Bất Nại Bà
Tu (Punarvasu), Phất Sa (Pushya), A Sa Ly Sa (Āshleshā), Ma Già (Maghā), Phất
Bà Phả Cầu Ni (Pūrva Phalgunī), Úc Đa La Phả Cầu Ni (Uttara Phalgunī), Ha Sa Đa
(Hasta), Chất Đa La (Chitrā), Sa Để (Svātī), Tỳ Thích Kha (Vishākhā), A Nô La
Đà (Anurādhā), Chiết Sa Tha (Jyeshtha), Mâu Lam (Mūla), Phất Bà Sa Tha (Pūrva
Ashādhā), Úc Đa La Sa Tha (Uttara Ashādhā) Sa La Ba Na (Shravana), Đản Nhĩ Sắt
Đà (Dhanistha), Xá Đa Tỳ Sa (Shatabhisha), Phất Bà Bạt Đà La Bát Tha (Pūrva
Bhādrapadā), Úc Đa La Bạt Đà La Bát Tha (Uttara Bhādrapadā), và Ly Bà Để
(Revatī)
[20] Thập Nhị
Thứ còn được gọi là Phận Dã, là khái niệm thiên văn được định ra vào thời Ân
Thương. Cổ nhân căn cứ theo sự vận chuyển của Tuế Tinh (Mộc Tinh) trên bầu trời,
họ nhận thấy: Nhìn từ trái đất, Tuế Tinh xoay quanh trái đất một vòng hết mười
hai năm. Do vậy, họ chia hoàng đạo (quỹ đạo vận chuyển của Tuế Tinh) thành mười
hai cung, gọi là Thập Nhị Thứ, đặt tên là Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tu Tứ, Giáng
Lâu, Đại Lương, Thật Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa,
và Tích Mộc. Từ đó, mở rộng thành khái niệm mỗi Thứ trong mười hai Thứ sẽ ứng với
một khu vực trên mặt đất của Cổ Trung Hoa (chỉ tương ứng với phần gọi là Trung
Nguyên, tức khu vực giữa Hoàng Hà và Trường Giang), gọi mỗi thứ là một “phận
dã”, đồng thời quy định hai mươi tám ngôi sao thuộc vào phận dã nào.
[21] Một
trăm lẻ tám Túc là do có hai mươi bảy ngôi sao, mỗi ngôi có bốn Túc, thành ra
27x4=108 Túc. Túc (pāda) ở đây là đơn vị đo khoảng cách di chuyển của mặt trăng
trên bầu trời khi quan sát từ trái đất.
[22] Theo
thiên văn học cổ Ấn Độ, La Hầu là giao điểm giữa quỹ đạo của mặt trăng và hoàng
đạo, nên còn gọi là Giao Hội. Do trong huyền thoại Ấn Độ, các thiên chúng và A
Tu La cùng quấy đảo biển sữa để tìm cam lộ (Amrta). Sau đó, thiên chúng đánh bại
A Tu La, độc chiếm cam lộ, Mohini (một hóa thân của thần Vishnu) chia cam lộ
cho chư thiên. Một A Tu La tên là Svarbhanu đã giả làm thiên chúng để uống cam
lộ. Do Nhật Thiên (Surya) và Nguyệt Thiên (Chandra) phát hiện, tố cáo với
Mohini. Mohini cắt đứt đầu Svarbhanu, phần đầu được gọi là Rahu (La Hầu), phần
thân được gọi là Ketu (Kế Đô). Để báo thù, La Hầu thường tìm cách nuốt mặt trời,
mặt trăng, tạo nên hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Vì thế, La Hầu còn được
gọi là Thực Thần.
[23] Trực Nhật
ở đây có nghĩa là mỗi sao ứng với một ngày trong tuần.
[24] Hộ Ma
(Homa) dịch nghĩa là hỏa thiêu, hỏa tế, còn gọi là Hỏa Cúng, tức là cúng dường
bằng cách thiêu vật cúng như gỗ thơm, thảo dược, sữa, mật v.v… trong lửa, hàm
nghĩa dùng lửa trí huệ thiêu đốt mê tâm, vọng tưởng.
[25] Tiêu xí
(摽幟) có nghĩa gốc là cờ quạt hoặc ký hiệu để
phân biệt một sự vật. Ở đây, lời sớ thường dùng chữ này để chỉ một dấu hiệu đặc
biệt, hoặc một pháp khí cầm trong tay của các vị tôn thánh để biểu thị hạnh
nguyện của vị đó, giúp cho hành nhân nhận biết vị tôn thánh ấy.
[26] Sao Cơ
(gọi đầy đủ là Cơ Thủy Báo) là một chùm sao trong Nhị Thập Bát Tú của Trung
Hoa, nằm ở phương Đông, tương ứng với chòm sao Nhân Mã (Sagittarius) trong
thiên văn học Tây phương. Thần thoại Trung Hoa coi sao này là hiện thân của thần
Gió. Sao Tất (gọi đầy đủ là Tất Nguyệt Ô, gồm mười lăm ngôi sao chánh như Tất,
Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết…) tương ứng với chòm sao Kim Ngưu (Taurus)
trong thiên văn học hiện đại.
[27] Đại lực
minh: Các chân ngôn (minh chú, đà-la-ni) do các thân phẫn nộ (thường gọi là
minh vương) nói ra.
[28]
Tô-đa-la ở đây không phải là Khế Kinh, mà chỉ có nghĩa là sợi dây do các sợi chỉ
nhiều màu được xe lại.
[29] Lục Tế
(sáu thứ ngăn che) chính là sáu thứ ác tâm trở ngại hành nhân chứng nhập tự tâm
thanh tịnh, gồm tâm keo kiệt, tâm phá giới, tân sân hận, tâm lười nhác, tâm tán
loạn, và tâm si.
[30] A Lợi
Sa (Ārṣa) dịch nghĩa là Cổ Thánh Chủ, tức là công đức thù thắng, tự lợi, lợi
tha, là đạo của cổ thánh tiên hiền. Nói A Lợi Sa Kệ là gọi chung các bài kệ do
cổ thánh đã soạn ra với dụng ý tán dương các điều tốt lành, hoặc tóm tắt các
pháp yếu để tu tập.
[31] Du Già
(Yoga) dùng trong kinh sách Phật giáo không có nghĩa là một môn tập luyện để bồi
bổ sức khỏe hay các phương pháp Thiền Định của ngoại đạo, mà dùng theo nghĩa
“tương ứng”. Theo Đại Nhật Kinh Sớ, Du Già có năm loại tương ứng: Một là tương ứng
với cảnh, hai là tương ứng với hạnh, ba là tương ứng với lý, bốn là tương ứng với
quả, năm là tương ứng với cơ duyên. Duy Thức hay dùng chữ Du Già nhằm thể hiện
ý nghĩa tương ứng với lý thú (do vậy mới có bộ luận Du Già Sư Địa). Mật Tông
thì dùng chữ Du Già nhằm thể hiện hành giả Tam Mật tương ứng, khế hợp với Bồ Đề
tâm thanh tịnh.
[32] Giác
Quán là danh xưng khác của Tầm Tứ, tức là suy nghĩ ở mức độ thô thiển thì gọi
là Giác, suy nghĩ cặn kẽ sâu xa, thì gọi là Quán.
[33] Năm thứ
báu nhằm tượng trưng cho hết thảy các vật báu, biểu thị “tôn quý nhất, vô thượng”.
Tùy theo từng kinh mà năm thứ báu khác nhau. Chẳng hạn như kinh Tô Tất Địa nói
năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, loa bối (vỏ ốc), xích châu. Kinh Cù Hê
(kinh Nhuy Hế Da) nói năm thứ báu là san hô, pha lê, vàng, bạc, thương-khư (vỏ ốc
biển to). Kinh Đà La Ni Tập nói năm thứ báu là vàng, bạc, chân châu, san hô, hổ
phách. Kinh Kiến Lập Mạn Đồ La Trạch Địa Pháp nói năm thứ báu là vàng, bạc,
chân châu, sắt sắt (một loại đá quý có màu xanh đậm), và pha lê.
[34] Ngũ cốc
là năm loại hạt dùng làm lương thực, gồm đại mạch (barley), tiểu mạch (lúa mì),
đạo cốc (gạo tẻ), tiểu đậu (đậu đỏ), và hồ ma (mè). Các kinh Mật giáo thường dạy
như vậy, nhưng Quán Trí Nghi Quỹ lại nói ngũ cốc là đạo cốc, đại mạch, tiểu mạch,
lục đậu (đậu xanh) và bạch giới tử (hạt cải trắng). Nói chung, ngũ cốc tượng
trưng cho chủng tử của Bồ Đề tâm thuộc Ngũ Trí của Như Lai.
[35] Năm món
thuốc (ngũ dược) đại biểu cho phá trừ mê hoặc, tận trừ các thứ bệnh khổ do vô
minh phiền não chướng gây ra. Các kinh nói ngũ dược bất đồng. Chẳng hạn như
kinh Kim Cang Đảnh Du Già nói năm thứ thuốc là Bà Hạ Tát Ra, Bà Hạ Nễ Phược, Kiến
Tra Cát Rị, Ngại Rị Yết Ra Noa, Vật Rị Đáp Hạ Định. Do Trung Hoa không có các vị
thuốc ấy, bèn dùng các thứ thuốc được coi là linh dược để thay thế, tức là dùng
Phục Linh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Nhân Sâm, và Xích Tiễn.
[36] Đẳng
Chí là danh xưng khác của Định. Ở
trong Định, thân tâm
hòa hợp an trụ
trong bình đẳng,
đó là Đẳng. Do Định mà có thể đạt tới địa vị bình đẳng, nên gọi là Đẳng Chí.
[37] Phật Mẫu
hiểu theo nghĩa chung chính là Bát Nhã Ba La Mật, vì Phật do trí huệ mà sanh.
Trí huệ vô thượng là Bát Nhã Ba La Mật, nên Bát Nhã Ba La Mật được gọi là Phật
Mẫu. Trong Mật giáo, Phật Mẫu chính là thần cách hóa của nguyên tố có thể sanh
ra chư Phật, Bồ Tát (tức trí huệ Bát Nhã Ba La Mật), lập ra các tôn vị như Phật
Nhãn, Chuẩn Đề v.v… (được xếp vào Biến Tri Viện của Thai Tạng Mạn-đồ-la), đấy
chính là các thân cụ thể hóa của trí huệ chư Phật.
[38] Liên
Hoa Thủ là một danh xưng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Tên Ngài còn được dịch thành
Quang Thế Âm, Quán Tự Tại, Quán Thế Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Hiện Âm Thanh,
Khuy Âm, Cứu Thế, Viên Thông Đại Sĩ v.v…
[39] Thủ Đà
Hội Thiên (Suddhāvāsehi) chính là Ngũ Tịnh Cư Thiên, tức chư thiên thuộc năm tầng
trời Tịnh Cư.
[40] Thù, lượng
là các đơn vị trọng lượng thời cổ, khá nhẹ. Cách tính như sau: Một thạch là một
trăm hai mươi cân, một cân là mười sáu lượng, một lượng là hai truy, một truy bằng
sáu thù. Mà một cân thời Tần Thủy Hoàng chỉ là 253g. Như vậy, một Thù chỉ khoảng
0,65 g.
[41] Ô Lật
Đà (hrdaya) có nghĩa là nhục đoàn tâm, kiên thật tâm.
[42] Cù Hê
là phiên âm của chữ Guhya, có nghĩa là niệm tụng. Đây là tên gọi tắt của bộ
kinh Nhuy Hế Da, gọi đầy đủ là Cúc Hế Da Đàn Đát La Kinh (Guhyatantra) gồm ba
quyển, do ngài Bất Không dịch, gồm mười một phẩm, giảng rất nhiều về nghi thức
Mật pháp.
[43] Yết Ma
(Karma) có nghĩa là “tác nghiệp”, tức là nghi thức tuyên cáo khi Tăng chúng thực
hiện các việc như thọ giới, sám hối, cử tội v.v…
[44] Bộ kinh
này do ngài Pháp Chúng dịch sang tiếng Hán vào đời Bắc Lương. Kinh này còn có
tên là Phương Đẳng Đàn Trì Đà La Ni Kinh, hoặc Đàn Trì Đà La Ni. Do Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát thỉnh vấn đức Phật bèn nói các loại đà-la-ni, tu hành, hộ giới v.v…
Ngài dạy rõ cách hành sám hối, diệt tội v.v… Đồng thời, kinh còn dạy hai mươi bốn
giới trọng của Bồ Tát. Dựa theo kinh này, Nam Nhạc đại sư đã hành pháp Phương Đẳng
tam-muội, chứng viên vị. Vì thế, Trí Giả đại sư đã soạn một quyển Phương Đẳng
Tam Muội Hành Pháp.
[45] “Xỉ mộc”
(齒木) ở đây vốn là một phiến gỗ có chất chát hoặc
tinh dầu thơm, dùng để chà răng cho sạch sẽ, hoặc nhai nhỏ để chất chát hoặc
tinh dầu tiết ra, có tác dụng khử trùng, khử mùi hôi khiến cho hơi thở thơm
tho.
[46] Kết hộ:
Kết ấn hộ thân để gia trì.
[47] Ý nói
miếng xỉ mộc để dùng trong đàn pháp này phải chọn miếng ngay ngắn, không cong vẹo,
có thể phân biệt rõ đầu nào là phía trên thân cây, phần nào là dưới (tức hướng
xuống gốc cây) như trong lời sớ sẽ giải thích cặn kẽ.
[48] A Thuyết
Tha là tên gọi khác của cây Tất Bát La (Pippala), tức cây Bồ Đề.
[49] “Diên”
theo nghĩa gốc là dây để buộc, nghĩa hẹp là cái dây để buộc mũ cho khỏi rớt.
“Kinh” là sợi dọc khi căng sợi để dệt vải.
[50] Tam-muội-da
(Samaya) có rất nhiều ý nghĩa, các ý nghĩa chủ yếu là bình đẳng, thệ nguyện, cảnh
giác và trừ cấu chướng. Tuy vậy, khi nói đến Tam-muội-da, thường được hiểu theo
các nghĩa sau đây:
- Một hệ thống
giáo pháp hay giáo nghĩa, đặc biệt là giáo nghĩa Mật Tông.
- Hiểu đồng
nhất với khái niệm Tam-muội-da giới, tức các giới luật cần thiết cho hành giả
chân ngôn.
- Sự nhận thức
Phật tánh, Phật quả.
- Hành giả hợp
nhất với Tam Mật của Phật.
[51] Đây là
một câu thành ngữ phát xuất từ kinh Dịch, hàm ý: Sau khi đã hiểu rõ, lý giải
quy luật của một chuyện, tiến cao hơn nữa là đối với những sự lý có cùng một loại
với chuyện đó, sẽ đều có thể hiểu rõ thấu đáo hơn.
[52] Kiền-độ
(skandha), còn phiên âm là Kiến Đà, Kiến Đồ, Càn Độ, Tắc Càn Đà, Sa Kiền Đồ, có
các ý nghĩa: Uẩn, Tụ, Chúng, Phần Đoạn, tức là phân loại các điều tương đồng để
hợp riêng thành từng nhóm. Do vậy, Kiền Độ tương đương với Phẩm hoặc Tiết.
Trong giới luật, nói chung có hai mươi hai loại kiền độ, chẳng hạn như: Kiền-độ
nhằm quy định pháp thức xuất gia, thọ giới, còn gọi là Đại Kiền Độ; kiền-độ về cách
Bố Tát (tụng giới), kiền-độ gồm các quy định về an cư, kiền-độ về tự tứ…
[53] Tịnh
bình còn gọi là bình Quân Trì (Kuṇḍikām, còn phiên âm là Quẫn Trĩ Ca), chỉ có
nghĩa là Bình. Do tác dụng mà chia thành hai loại là tịnh bình và xúc bình. Tịnh
bình dùng để đựng nước rửa tay sạch, còn xúc bình (tháo bình) là bình đựng nước
để rửa tay dơ. Có sách còn nói rõ tịnh bình bằng sứ, còn tháo bình thì dùng kim
loại như đồng, sắt đúc thành. Sách Ký Quy Truyện lại bảo tịnh bình đựng nước uống,
còn tháo bình dùng để rửa ráy, tắm gội. Khi cầm tịnh bình, phải dùng tay sạch,
cất tịnh bình ở chỗ sạch.
[54] Tô Tất
Địa có tên gọi là Tô Tất Địa Yết La Kinh (Susiddhikara Mahātantra Sādhanopāyika
Paṭala) do ngài Thâu Ba Ca La (Śubhakarasiṃha, tức ngài Thiện Vô Úy) dịch vào
năm Khai Nguyên 14 (726) đời Đường, gồm ba quyển, chia thành ba mươi bảy phẩm.
Kinh dạy về sự thành tựu trong ba bộ của Mật Tông (Phật bộ, Liên Hoa bộ và Kim
Cang bộ), bao gồm các nghi thức trì tụng, quán đảnh, cầu thỉnh, hộ ma, thành tựu,
thời phần v.v… Do kinh này nói nhiều về oai nghi pháp tắc của hành giả Chân
Ngôn, nên kinh này lại cùng với kinh Tô Bà Hô Đồng Tử Thỉnh Vấn được coi là Giới
Kinh của Mật Tông. Trong truyền thống Đông Mật, kinh này cùng với kinh Đại Nhật
và Kim Cang Đảnh được coi là Mật Tông Tam Đại Bộ. Thai Mật (Mật Tông trong
Thiên Thai Tông Nhật Bản) cho rằng kinh Kim Cang Đảnh và kinh Đại Nhật nói
riêng về Kim Cang Tạng và Thai Tạng, còn Tô Tất Địa nhằm diễn bày ý chỉ sâu xa
Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới bất nhị. Lời Sớ nói “dùng chữ để tính” tức là
tùy theo chú dài hay ngắn mà giảm hay tăng số lượt tụng niệm tương ứng.
[55] Trong
ba bộ của Mật Tông, vị tôn thánh có phẩm đức năng sanh ra các công đức và hành
pháp của bộ ấy, được gọi là Bộ Mẫu. Chẳng hạn như Bộ Mẫu của Phật Bộ là Phật
Nhãn, Bộ Mẫu của Liên Hoa Bộ là Bạch Y Quán Tự Tại, Bộ Mẫu của Kim Cang Bộ là
Mang Mãng Kê Bồ Tát. Bộ Mẫu thường được gọi là Phật Mẫu, nhưng không có nghĩa
là “sanh ra Phật”, mà là vị có công năng sanh ra các phẩm đức của Tỳ Lô Giá Na
Phật.
[56] Niết Rị
Để có hai cách hiểu:
1. Hiểu theo
nghĩa thông thường là tên một nữ thần chủ trì sự phá hoại, bất hạnh, tai họa, bệnh
tật, nguy hiểm, sợ hãi, hoặc là mẹ của địa ngục.
2. Theo Mật
giáo, đây là tên của một La Sát Thiên, tay cầm đao bén, hình dạng như quỷ vương
đáng kinh sợ, thủ hộ phương Tây Nam.
[57] Tức ba
tầng để bọc quanh Trung Đài Bát Diệp trong Mạn-đồ-la sẽ dùng để thiết lập từng
khu (thường gọi là Viện) như Liên Hoa Viện, Kim Cang Thủ Viện, Trì Minh Viện
v.v…
[58] Ương-cụ-lê
(Aṅguli) có nghĩa là ngón tay.
[59] Trong
Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên Mạn-đồ-la được coi là phương Đông.
[60] Mạt
nhân ngờ rằng đây là lỗi lầm do khắc ấn, vì trong các hình vẽ Mạn-đồ-la từ đó tới
giờ, phần nhọn của ấn này luôn hướng lên trên.
[61] Bên
trái và bên phải trong lời Sớ là nói theo Đại Nhật Như Lai trong đồ hình, không
phải là theo phương hướng của người nhìn Mạn-đồ-la. Nếu nhìn theo phương hướng
của người nhìn vào Thai Tạng Mạn-đồ-la, phía trên là phương Đông, phía dưới là
phương Tây, bên phải của người ấy là phương Nam, bên trái là phương Bắc.
[62] Bộ Chủ
là một vị Bồ Tát trọng yếu nhất, có các phẩm đức đặc trưng nhất của một bộ. Có
thể hiểu Bộ trong Mạn-đồ-la như tập hợp các vị Bồ Tát hoặc thánh giả có phẩm đức
tương đồng. Chẳng hạn như phẩm đức của Liên Hoa Bộ là đại bi, có tác dụng trưởng
dưỡng muôn điều thiện, cứu độ chúng sanh. Các vị Bồ Tát trong một bộ có thể là
các hóa thân khác nhau của vị Bộ Chủ (chẳng hạn Đa La, Đại Bạch, Tỳ Câu Chi, Mã
Đầu đều là các thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát), hoặc các Bồ Tát có phẩm đức
tương đồng với vị Bộ Chủ.
[63] Hoa
Quân-na còn phiên âm là hoa Quân-đà, hoặc Quần-na, hoa nở ra trắng tinh, nên
còn gọi là Bạch Mạt Lợi Hoa (hoa nhài trắng, tuy chẳng phải là hoa nhài), thường
hay được dùng để cúng dường trong các nghi lễ của Mật giáo.
[64] Khi nói
Thanh thì là màu xanh dương, không phải xanh lá cây. Nếu nói đến màu xanh lá
cây, kinh sẽ dùng chữ Lục.
[65] Viên
quang là quang minh phóng ra từ đỉnh đầu của Phật, hay Bồ Tát, có hình tròn xoe
bao quanh đầu, còn hào quang là quang minh phóng ra từ tướng bạch hào giữa hai
mày.
[66] Tỳ Câu
Chi, còn phiên âm là Tất Rị Câu Chi, có nghĩa là nhíu mày, vì vị này sanh ra từ
vết nhăn trên trán của Quán Âm khi Ngài nhíu mày. Do vậy, kinh Bất Không Quyến
Sách Tâm Chú Vương dịch tên Ngài là Sân Mục (mắt giận dữ). Ngài có ba mắt, bốn
tay, mang hình dạng thiên nữ.
[67] Ở đây lời
Sớ ghi là “sổ thù man” (數殊鬘,
mấy tràng hoa thù thắng), nhưng chánh kinh và các tự điển đều ghi là “sổ châu
man” (數珠鬘, tràng hạt,
xâu chuỗi). Có lẽ Châu bị viết sai thành Thù.
[68] Minh
Vương (Vidyā-rāja) còn gọi là Trì Minh Vương, Phẫn Nộ Tôn, Oai Nộ Vương. Minh
là tên gọi khác của chân ngôn (thần chú) vì có tác dụng phá ngu ám giống như
quang minh trí huệ. Đây là giáo lệnh thân luân, hiện vẻ phẫn nộ nhằm điều phục
chúng sanh ương ngạnh, bạo ác. Phi trong minh phi có nghĩa là nữ tính, nhằm
miêu tả tác dụng nhu hòa, từ bi, sanh trưởng hết thảy công đức của một thần
chú. Có thể hiểu thô thiển Minh Vương là biểu hiện của lực dụng, còn Minh Phi
là nhân cách hóa của trí huệ.
[69] Đây là
thân minh vương giáo lệnh thân luân của Liên Hoa Bộ, còn gọi là Mã Đầu đại sĩ.
Vị này được coi là thân phẫn nộ của Vô Lượng Thọ Phật, dùng Quán Âm làm tự tánh
thân, nên thường gọi là Mã Đầu Quán Âm. Do đỉnh đầu Ngài có đầu ngựa, biểu thị
hóa độ chúng sanh thuộc súc sanh đạo, đồng thời biểu thị mã bảo của Chuyển Luân
Thánh Vương có thể đi khắp tứ phương hàng phục nghiệp chướng, oai thế đại tinh
tấn hàng phục tứ ma, ăn nuốt các trọng chướng.
[70] Có
nghĩa là các trì minh sứ giả thuộc Kim Cang Bộ.
[71] Đây là
chữ dùng để mô phỏng tiếng cười vang dội của vị này.
[72] Hiển sắc:
Sắc tướng có thể thấy bằng mắt thường. Xanh, vàng, đỏ, trắng, mây, khói, bụi,
sương mù, sáng, tối, bóng, ánh sáng được gọi là mười hai hiển sắc.
[73] Ở đây, ấn
phải hiểu theo nghĩa rộng, ấn có thể bao gồm các tư thế nơi tay (thủ ấn), hoặc
các vật dụng nhằm biểu thị pháp nghĩa như chày kim cang, linh (chuông kim
cang), dây quyến sách, bánh xe, ngọc ma-ni, hoa sen, gươm v.v…
[74] Mang
Mãng Kê còn được phiên âm là Mãng Mạc Kế, Mang Ma Kế, Ma Mạc Chỉ, Mang Mang Kê,
Mang Mạc Chỉ, Ma Ma Kê, Ma Mạc Kê, Mang Mạc Kế Minh Phi, dịch là Kim Cang Mẫu,
hoặc Đa Mẫu, tức là vị Bồ Tát biểu thị trí huệ Bát Nhã. Theo các kinh Mật Tông
khác, Ngài được mô tả là ngồi bán già, tay trái ngửa lên đặt dưới rốn, hoặc cầm
Như Ý Bảo Châu trong tư thế kết ấn Thí Nguyện, tay phải cầm chày kim cang ba
nhánh, hoặc cầm kinh Bát Nhã. Thân màu xanh nhạt pha sắc tía, oai nghi tịch
tĩnh. Hình tam-muội-da của Ngài là chày kim cang ba nhánh, biểu thị có thể sanh
ra trí huệ kiên cố.
[75] Theo Phật
Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, đây là một danh hiệu khác của minh vương
Hàng Tam Thế (Trailokyavijaya). Ngài còn được gọi là Thắng Tam Thế, Tam Thế Thắng,
Hàng Tam Thế Kim Cang Bồ Tát, là vị thứ hai trong Ngũ Đại Minh Vương của Mật
Giáo. Đây chính là giáo lệnh thân luân của Kim Cang Bộ. Ngài có mật hiệu là Tối
Thắng Kim Cang. Do hàng phục tam độc và tam giới nên gọi là Hàng Tam Thế. Hình
tượng Ngài là ba mặt, tám tay, hoặc bốn mặt, tám tay, màu xanh dương đậm. Tay cầm
các thứ khí giới, sau lưng có vòng lửa bao quanh, chân đạp lên Tự Tại Thiên và
Ô Ma Phi, biểu thị đối trị phiền não. Vị này do chính Đại Nhật Như Lai biến hiện.
[76] Đây
chính là phía dưới của Mạn-đồ la, từ đây trở đi là nói tới các vị tôn thánh thuộc
Trì Minh Viện.
[77] Sa kế
là búi tóc theo kiểu dùng cỏ để quấn lại, đây là thói quen để tóc của nô lệ tại
Ấn Độ thời cổ. Trong Mật giáo, Bất Động Minh Vương là thị giả của Như Lai, nên
Ngài để kiểu tóc này nhằm biểu thị Ngài là nô bộc của chư Phật. Trên đầu Ngài,
tóc kết thành bảy búi nhằm biểu thị Thất Bồ Đề Phần. Đuôi tóc thả xuống vai
trái biểu thị từ bi thương xót chúng sanh xấu ác cùng cực, đang hứng chịu khổ
não.
[78] Ý nói:
Nếu tính từ Trung Đài Bát Diệp trở ra, ngoại giới tầng thứ nhất ở phía trên của
Trung Đài Bát Diệp là Biến Tri Viện (tức nơi đặt Nhất Thiết Biến Tri Ấn), tầng
thứ hai của ngoại giới (tức là tầng thứ ba nếu kể luôn Trung Đài Bát Diệp) là
Thích Ca Viện, nơi đặt hình tượng Phật Thích Ca và các vị Phật Đảnh.
[79] Quyến
thuộc của Tỳ Lô Giá Na Phật chính là bốn vị Như Lai và bốn vị Bồ Tát thuộc
Trung Đài Bát Diệp.
[80] Màu Càn
Đà (Kanthā, Kanṭaka), còn phiên âm là Kiện Đà, hay Kiệm Đạt, tức là màu đỏ có
ánh vàng. Sách Báo Phục Nghi giảng: “Dùng nhựa cây mộc lan để nhuộm, sắc đỏ nhiều,
sắc đen ít, thì thành màu Càn Đà”, tức màu gần giống màu y maroon dùng tại Tây
Tạng và Miến Điện.
[81] Trong Mật
giáo, năm ngón tay sẽ tương ứng với nhiều ý nghĩa như Thập Độ, ngũ đảnh, ngũ đại
v.v… Nói riêng về ngũ đại thì:
- Ngón cái
là Không, tương ứng với chủng tự Kha.
- Ngón trỏ
là Phong, tương ứng với chủng tự Ha.
- Ngón giữa là
Hỏa, tương ứng với chủng tự Ra.
- Ngón áp út
là Thủy, tương ứng với chủng tự Va.
- Ngón út là
Địa, tương ứng với chủng tự A.
[82] Phật Đảnh
(Buddhośnīsa), còn phiên âm là Ốt Sắt Ni Sa, Ô Sắt Ni Sa, Uất Sắt Ni Sa… Nghĩa
đen là nhục kế trên đỉnh đầu đức Phật, còn gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng. Xương đỉnh
đầu Phật đột nhiên nhô cao, có hình dạng như búi tóc, nên gọi là Nhục Kế. Phàm
nhân sẽ chẳng thấy tướng thù thắng nơi đỉnh đầu đức Phật nên gọi là Vô Kiến Đảnh
Tướng. Trong Mật giáo, chia thành các vị Phật Đảnh để biểu thị công đức trí huệ
của Phật, gồm Tam Phật Đảnh (phẩm đức của Như Lai trong ba bộ của Thai Tạng Giới),
Ngũ Phật Đảnh (năm trí của Như Lai)…
[83] Hắc Dạ
Thần còn gọi là Hắc Dạ Thiên, Ám Dạ Thiên, Hắc Ám Thiên, chính là một trong ba
người vợ của Diễm Ma Vương.
[84] Đây
chính là bảy chị em của Diễm Ma vương. Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích giảng: “Vua Diễm
Ma có bảy chị em, một là Tả Vấn Noa, hai là Kiều Phệ Rị, ba là Phệ Sắt Noa Vi,
bốn là Kiều Ma Rị, năm là Ấn Nại Rị, sáu là Lao Nại Rị, bảy Mạt Đa Hế Nhị”.
[85] Xá Chi,
còn được phiên âm là Thiết Thí, Thích Chi, Thiết Chi, Sa Hế Ca, dịch nghĩa là Tịnh
Lượng, Diệu An, Khả Ái, là vợ cả của Đế Thích, là con gái của một A Tu La
vương. Theo kinh Hoa Nghiêm, bà này có thể trong âm thanh mà diễn xuất ngàn loại
âm. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, bà này khi phát ra âm thanh siểm mị, khiến cho các
tiên nhân trong đại châu đều sanh ý niệm ái dục, đánh mất Định thù thắng,
[86] Thiên Cẩu
Tinh, còn gọi là Thiên Cẩu Thất, tức là tinh tú thuộc chòm sao Quỷ, gồm bảy
ngôi sao, trong đó ba ngôi sao đầu từ một đến ba thuộc về tinh tòa Thuyền Phàm
(Vela), bốn sao còn lại thuộc về tinh tòa La Bàn (Pyxis).
[87] Thí Vô
Úy ấn (Abhayamudrā) còn gọi là Vô Úy Ấn. Người kết ấn này, giơ tay phải lên,
lòng bàn tay hướng ra ngoài, các ngón hơi cong, biểu thị ý gia trì khiến cho
chúng sanh cảm thấy được an toàn, gia hộ.
[88] Nói
“phương thượng” tức là phía trên của Trung Đài Bát Diệp (Trung Thai Bát Diệp),
gồm các tầng Biến Tri, Thích Ca Viện, Văn Thù Viện và ngoại kim cang giới ở
phía trên của mạn-đồ-la.
[89] Thước Để
(Śakti) hay còn gọi là Thước Khất Để, Chước Cất Để, dịch nghĩa là Sóc (giáo), tức
là một loại kích. Đây là vũ khí đặc trưng của Bấtt Động Minh Vương. Thước Để
dùng trong Mật giáo như biểu tượng của oai lực.
[90] Theo phẩm
Thành Tựu Tất Địa của kinh Đại Nhật, tùy theo hình dạng của đàn tràng mà có màu
khác nhau. Đàn vuông là màu vàng, đàn tròn là màu trắng.
[91] Tay Dữ
Nguyện tức là tay kết ấn Dữ Nguyện (còn gọi là Thí Nguyện, hoặc Mãn Nguyện): Ngửa
lòng bàn tay hướng ra ngoài, năm ngón tay duỗi ra hướng xuống dưới. Ngụ ý tay
tuôn ra Như Ý Bảo Châu hoặc nước Cam Lộ.
[92] Đông Mật
chia Mạn-đồ-la thành bốn loại lớn:
- Đại Mạn-đồ-la
(còn gọi là Hình Tượng Mạn-đồ-la, tức là Mạn-đồ-la có vẽ hình các vị tôn thánh,
có màu sắc, tư thế, hình dạng tương ứng với các lời dạy trong kinh Đại Nhật và
Kim Cang Đảnh.
- Tam-muội-da
Mạn-đồ-la không vẽ hình tôn thánh mà chỉ vẽ các vật biểu trưng (thường gọi là “ấn”
trong bản sớ giải này) như đao, kiếm, kích, hoa sen, bảo châu, tích trượng, bát
v.v…
- Pháp Mạn-đồ-la,
còn gọi là Chủng Tử Mạn-đồ-la tức “Tự Mạn-đồ-la” trong bản sớ giải này, nơi mỗi
tọa vị của các tôn thánh chỉ vẽ chữ chủng tử chân ngôn tương ứng.
- Yết-ma Mạn-đồ-la
tức mạn-đồ-la miêu tả tư thế, oai nghi của Phật, Bồ Tát, tác dụng sự nghiệp của
các Ngài, có thể hiểu thô thiển là tổng hợp của cả ba loại trên.
[93] Trong hệ
thống Thai Tạng Giới, khi nhìn vào mạn-đồ la được vẽ trên giấy, vải v.v… treo
lên thì phía trên là phương Đông, phía dưới là phương Tây, bên phải là phương
Nam, bên trái là phương Bắc.
[94] Kim
Cang chữ thập (Vishva-vajra, còn gọi là chày kim cang kép) tức là loại chày
kim cang gồm
hai chày kim cang đặt vuông góc với nhau, giống như hình chữ Thập, gồm bốn đầu
kim cang cùng xuất phát từ một khối tròn chung, tạo thành hình dáng chữ thập,
biểu thị bất động, đồng thời biểu thị Tứ Trí của Như Lai cùng phát xuất từ Đại
Viên Kính Trí.
[95] Đạc là
một loại chuông lắc bằng đồng gần giống như Linh, nhưng to hơn. So với Linh thì
Đạc thô hơn. Nếu quả lắc trong lòng Đạc bằng gỗ thì gọi là Mộc Đạc, bằng đồng
thì gọi là Kim Đạc.
[96] Tức Mạn-đồ-la
chỉ vẽ các pháp khí hoặc biểu tượng của các vị tôn thánh, không vẽ hình người.
[97] Đà La
Ni Tập Kinh (Dhāraṇīsamuccaya) gồm mười hai quyển, do sa-môn A Địa Cù Đa (Atikūṭa,
Vô Cực Cao) dịch vào năm Vĩnh Huy thứ tư (652) đời Đường tại chùa Huệ Nhật ở
kinh đô Trường An. Kinh chép về nghi quỹ Mật giáo, chia thành năm bộ: Phật Bộ,
Bồ Tát Bộ, Kim Cang Bộ, Thiên Bộ, và Phổ Tập Hội pháp đàn.
[98] Ở đây, ấn
Già Đà nói đúng hơn là Già Đà Bổng, còn gọi là Bảo Bổng, tức một loại gậy dùng
làm vũ khí. Nếu nói theo thủ ấn (Mudra) thì ấn Già Đà như sau: Hai tay chắp lại,
hơi khum các ngón tay để có chỗ trống giữa hai lòng bàn tay, hai ngón út chéo
nhau gập vào lòng bàn tay, hai ngón cái dựng thẳng, hai ngón trỏ cong lại, đè
lên lưng hai ngón giữa.
[99] Do loài
quỷ này bụng rất to, tay chân ngắn, trông như cái vò nên gọi là Ủng Hình Quỷ.
[100] Hiện Đồ
Mạn-đồ-la (現圖曼荼羅),
còn được gọi là Tùy Cơ Mạn-đồ-la, là danh từ được Mật giáo Nhật Bản dùng để chỉ
hai bộ Mạn-đồ-la (Thai Tạng và Kim Cang Giới) được vẽ thành hình ảnh cụ thể để
lưu hành. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp đây là hai bộ Mạn-đồ-la do sáng tổ Mật Tông
Nhật Bản (ngài Không Hải) vẽ được lưu giữ tại chùa Thần Hộ và Đông Tự (tương
truyền được trực tiếp truyền thừa từ tổ Huệ Quả). Hiểu theo nghĩa rộng, đây là
Mạn-đồ-la tổng hợp từ các lời dạy của các vị Không Hải, Viên Nhân, Viên Chân,
Tông Duệ mang từ Trung Hoa về. Tương truyền, Hiện Đồ Thai Tạng Mạn-đồ-la do
ngài Thiện Vô Úy cầu thỉnh, mạn-đồ-la liền hiện ra giữa không trung để Ngài vẽ
lại. Còn Kim Cang Giới Mạn-đồ-la là do ngài Kim Cang Trí cảm được. Thai Tạng Mạn-đồ-la
về sau được ngài Huệ Quả truyền cho ngài Không Hải, còn Kim Cang Giới Mạn-đồ-la
do ngài Bất Không truyền cho Huệ Quả. Ngài Huệ Quả là người thuộc huyện Chiêu Ứng
ở kinh đô, sống vào đời Đường, họ ngoài đời là Mã. Thoạt đầu, ngài học Thiền. Về
sau, gặp Bất Không Tam Tạng, ngài Bất Không hết sức ngạc nhiên, mừng rỡ nói:
“Pháp của ta sẽ do ngươi hưng thịnh”. Bất Không đại sư liền truyền dạy giáo
nghĩa Mật Tông cho ngài Huệ Quả. Về sau, ngài Huệ Quả làm quốc sư cho cả ba triều
vua (Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông), các đệ tử của Ngài đều là hành giả Mật
Tông lỗi lạc như Nghĩa Minh, Nghĩa Viên, Biện Hoằng, Huệ Nhật, Nghĩa Thao, Duy
Thượng, Mai Đài, Thao Mẫn, Kiên Thông, Không Hải v.v...
[101] Thước
Khất Để (Śakti) dịch nghĩa là Tác Sóc, tức là một loại giáo ngắn, thường dùng để
bài trí trong đàn Mật Tông, hoặc làm pháp khí của Bất Động Minh Vương.
[102] Còn gọi
là sương khúc, hay sương vệ, tức là chỗ vị thủ hộ cửa đàn tràng ngự ở hai bên cửa
thông vào đàn tràng.
[103] Tức là
như trong phần trước đã nói, đối với mỗi cạnh của mạn-đồ-la, chia thành chín phần
bằng nhau. Giữ một phần chính giữa làm cửa, mỗi bên cửa là bốn phần cho cân bằng.
[104] Do cửa
vào đàn tràng mở ra ở phương Tây, Nam tức là bên trái của cửa, Bắc là ở bên phải
của cửa khi đứng ở ngoài cửa nhìn vào đàn.
[105] Đại
Chúng Sanh ở đây là dịch nghĩa của chữ Ma Ha Tát Đỏa, tức đại Bồ Tát.
[106] Hiểu
theo nghĩa thông thường, kinh có số quyển nhiều, hoặc rất quan trọng cho một
tông phái thì gọi là Đại Kinh. Như Tịnh Độ Tông coi kinh Vô Lượng Thọ là Đại
Kinh, Thiên Thai Tông coi Đại Bát Nhã Kinh là Đại Kinh v.v… Do Đông Mật lấy
kinh Đại Bát Nhã làm cơ sở lý luận cho tánh Không, do vậy, Đại Kinh ở đây chính
là kinh Đại Bát Nhã.
[107] Tức
tam-muội của Phật, của Bát Địa Bồ Tát, của Duyên Giác, của Thanh Văn, và của thế
gian như vừa mới nói trong phần trên.
[108] Tám
món điên đảo chính là phàm phu đối với pháp hữu vi sanh diệt, bèn chấp là thường,
lạc, ngã, tịnh; Nhị Thừa đối với Niết Bàn vô vi bèn chấp chẳng phải là thường,
chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh.
[109] Lục Tế
là sáu cái tâm chướng lấp chân tánh, gồm tâm keo kiệt, tâm phá giới, tâm sân
khuể, tâm giải đãi, tâm tán loạn, và tâm si.
[110] Tất
Đàm (Siddhāṃ) còn gọi là Phạn Thư, Phạn Tự, có nghĩa là “thành tựu hoàn mỹ”, là
văn tự được dùng để ghi chép chữ Phạn từ năm 600 đến 1200. Đây là văn tự được
phát triển trên cơ sở văn tự Brahmi, vốn phát xuất từ sự hoàn thiện hóa văn tự
dùng trong vương triều Gupta. Phần lớn các kinh Phật được mang tới Trung Hoa
theo con đường tơ lụa được chép bằng văn tự Tất Đàm, đặc biệt là các văn bản Mật
giáo. Sau này, tại Ấn Độ, văn tự Tất Đàm bị thay thế bởi chữ viết theo kiểu
Devanagari (Thiên Thành văn tự). Đồng thời, một biến thể của văn tự Tất Đàm là
Gaugi đã phát triển thành các văn tự của các xứ Đông Nagari, Tirhuta, Odia, và
tự mẫu của Nepal. Do vậy, cho đến nay văn tự Tất Đàm chỉ còn được bảo tồn ở
Đông Á (Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn quốc …) qua các văn bản hoặc nghi thức Mật
giáo, hoặc các kiến trúc, điêu khắc liên quan tới Mật giáo.
[111] Tức là
mạn (tự chấp trước chính mình hơn người, có nhiều ưu điểm), quá mạn (chẳng hơn
người khác mà tự cho là mình ăn đứt người ta), mạn quá mạn (do hơn người khác
điều gì đó bèn kiêu ngạo, hống hách), ngã mạn (chấp vào ngã mà kiêu mạn), tăng
thượng mạn (chưa đắc xưng là đã đắc, chưa chứng xưng là đã chứng), ty mạn (tuy
hơn người khác mà tự ty mặc cảm mình thua kém họ), tà mạn (chính mình chẳng có
đức mà tự cậy mình đức rất nhiều).
[112] Tứ ma:
Phiền não ma, ấm ma, tử ma, và thiên ma.
[113] Chữ Na
này tương ứng với âm Da (đa) trong tiếng Phạn. Không hiểu vì sao cổ đức dùng âm
N trong tiếng Hán để phiên âm D (nhất là trong thời Đường - Tống); vì thế, có bản
dịch phiên âm Mandala thành Mạn Noa La. Hoặc phiên âm tên Chuẩn Đề Bồ Tát
(Cundā) thành Tôn Na như Trì Minh Tạng Du Già Đại Giáo Tôn Na Bồ Tát Minh Thành
Tựu Nghi Quỹ chẳng hạn.
[114] Chữ Ma
này tương ứng với âm Ba trong Phạn văn. Nhất là thời Đường - Tống, một số bản dịch
khi phiên âm thần chú thường phiên âm B thành âm M, chẳng hạn câu đầu của chú
Tiêu Tai Giáng Cát Tường được phiên âm là “nam mô tam mãn đa một đà nẫm” (quy mạng
hết thảy chư Phật) trong khi tiếng Phạn là Namaḥ samanta Buddhānāṃ.
[115] Hai
mươi lăm Hữu chỉ là tam giới được chia nhỏ, chẳng hạn sáu đường, tứ đại châu
v.v… mỗi nơi đó đều gọi là một hữu.
[116] Phẩm
Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa nêu thí dụ: Để đến được chỗ có của báu, phải
vượt qua đường xa đầy dẫy hiểm nạn, dài năm trăm do-tuần.
[117] Đây là
một khái niệm được đề ra trong Nhân Minh Học. Theo đó, nhân có sáu loại:
- Năng tác
nhân (còn gọi là sở tác nhân, tùy tạo nhân): Chỉ chung tất cả các sự vật chẳng
gây trở ngại cho sự phát sanh của một sự vật nào đó.
- Câu hữu
nhân (còn gọi là cộng hữu nhân, cộng sanh nhân) tức là cái nhân có thể đồng thời
lần lượt làm nhân và quả.
- Đồng loại
nhân (còn gọi là tự phần nhân, tự chủng nhân) chính là hết thảy các pháp hữu lậu
từ quá khứ đến hiện tại, do cùng loại tương tự nương vào nhau. Chẳng hạn như
thiện pháp sẽ làm nhân cho thiện pháp phát sanh.
- Tương ứng
nhân: Khi nhận thức phát sanh, tâm và tâm sở đồng thời tương ứng phát khởi,
cùng nương vào nhau mà tồn tại.
- Biến hành
nhân: Tức là nói đến một pháp có thể hiện diện trọn khắp trong hết thảy các
pháp nhiễm ô, phát sanh từ mười một món Biến Hành Tâm Sở.
- Dị thục
nhân (còn gọi là tác báo nhân): Chính là nghiệp nhân thiện ác chiêu cảm cái quả
khổ lạc trong ba đời.
[118] Đây là
các chữ ṅa (ङ), ña (ञ), ṇa (ण),
na (न), ma (म) trong tiếng
Phạn.
[119] Mười
hai thanh chính là mười hai nguyên âm ghép với các phụ âm, tức a, ā, i, ī, u,
ū, e, ai, o, au, aṃ, aḥ. Thanh thứ mười một chính là thêm một cái chấm trên chữ
A. Trong các nguyên âm trên đây, ngoại trừ A, các âm khác khi viết sẽ dùng các
vạch ký hiệu nên gọi là vạch tam-muội. Chẳng hạn như Hetu (हेतु),
chữ He do Ha (ह) và E (ए), nhưng E
chỉ được viết bằng vạch tam muội tức là े, nên He được
viết thành हे. Tương tự, Tu (तु)
do chữ Ta (त) ghép với vạch tam-muội của chữ U (tức ु)
nên thành तु thay vì viết là तउ.
Vì thế, lời Sớ mới viết “từ thanh thứ ba trở đi dùng các nét để thêm vào đều là
tam-muội”.
[120] Đây là
một thí dụ được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển thứ bảy: “Ngã giả tức thị
Như Lai Tạng nghĩa. Nhất thiết chúng sanh tất hữu Phật tánh, tức thị Ngã nghĩa.
Như thị Ngã nghĩa tùng bổn dĩ lai thường vị vô lượng phiền não sở phú, thị cố
chúng sanh bất năng đắc kiến. Thiện nam tử! Như bần nữ nhân xá hữu chân kim chi
tạng, gia nhân đại tiểu vô hữu tri giả. Thời hữu dị nhân, thiện tri phương tiện,
ngữ bần nữ nhân: Ngã kim cố nhữ, nhữ khả vị ngã vân trừ thảo uế. Nữ tức đáp
ngôn: Ngã bất năng dã, nhữ nhược năng thị ngã tử kim tạng nhiên hậu đương tốc vị
nhữ tác… Thị nhân tức ư kỳ gia quật xuất chân kim chi tạng” (Ngã chính là nghĩa
Như Lai Tạng. Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, tức là ý nghĩa của Ngã.
Nghĩa của Ngã như thế vốn thường bị vô lượng phiền não che lấp. Vì thế, chúng
sanh chẳng thể thấy được. Thiện nam tử! Như người nữ nghèo, nhà có kho vàng
ròng, người nhà lớn nhỏ chẳng có ai biết. Khi đó, có người lạ khéo biết phương
tiện, bảo người nữ nghèo rằng: “Ta nay mướn bà để dọn cỏ dại”. Người nữ liền
đáp: “Tôi chẳng thể, nếu ông có thể chỉ cho con tôi kho vàng. Sau đó, tôi sẽ
nhanh chóng làm cho ông”… Người ấy liền ở trong nhà bà ta đào ra kho vàng
ròng).
[121] Vi Đà
thế tiên: Những người tu khổ hạnh trong Bà La Môn giáo.
[122] Có
thuyết nói loại cỏ này tương ứng với hương Tô Hợp.
[123] Hương
Phụ Tử chính là cỏ gấu (nut grass), còn gọi là cỏ cú, hay cỏ gấu vườn, thuộc họ
Cói. Đây là một loại cỏ dại, có thể mọc cao tới 40 cm. Trong y học, củ cỏ gấu
được dùng làm thuốc để chữa trị vết thương, điều hòa khí, chữa mụn nhọt, trị chứng
nôn mửa, sốt, và viêm nhiễm.
[124] Tử
Khoáng (bastard teak, flame of the forest) là một loại cây thường thấy ở Đông
Nam Á, tức cây lâm vố, hoặc cây gièng gièng, còn có các tên gọi như Dhak hoặc
Palash tại Ấn Độ. Có lẽ không dùng hương chế từ loại cây này vì tại Ấn Độ, trên
cây này có nhiều loại bọ hút nhựa như Kerria Lacca, chúng bị người Ấn bắt lấy
trích nhựa đã được tiêu hóa bởi chúng để chế thành chất nhựa cánh kiến
(shellac) chuyên dùng để sơn phết, hoặc nhuộm răng.
[125] Ngu ý
cho rằng đây là món Kheer (còn gọi là Payasam hay Payesh) tức là gạo nấu nhừ,
khá đặc, thêm đường, sữa, đôi khi thêm các loại hạt khô như hạnh nhân, hạt
pistachio, và bột đậu khấu, hoặc nghệ để tạo vị. Đây là món ngọt rất phổ biến
trong các tiệm ăn của Ấn Độ.
[126] Hiện
thời, loại bánh này được gọi là Papadam, thường làm bằng bột (ngoài bột gạo,
còn có thể sử dụng bột đậu, kê hoặc khoai tây) nhào thành miếng mỏng như bánh
tráng của người Việt rồi nướng trên lò hay chiên trong dầu. Đôi khi họ cho rất
nhiều tiêu để tạo vị.
[127] Ca La
Xa (Kalaśa) chính là bình cát tường, còn phiên âm là Yết La Xá, Yết Ra Xa, dịch
nghĩa là Bảo Bình, Hiền Bình. Trong ấy, chứa đầy nước thơm, năm thứ báu, năm thứ
hương, năm thứ thuốc, năm thứ hạt lương thực… Loại bình này đôi khi còn gọi là
Purna-Kalaśa (Mãn Hiền Bình), Soma-Kalaśa (Nguyệt Hiền Bình)... Truyền thống Ấn
Giáo cũng dùng loại bình bằng sành, miệng thắt, thân bình vẽ các biểu hiện cát
tường, hoặc chân ngôn, hay hình các vị thần của Ấn giáo, chứa đầy nước, cắm lá
xoài, để một quả dừa để nút kín miệng bình, cài tràng hoa, hay cắm hoa xen kẽ với
lá. Họ đặt cái bình ấy trong nhà với dụng ý đem lại may mắn, thịnh vượng, xua
đuổi quỷ mị... Loại bình Bumpa của Phật giáo Tây Tạng cũng phát xuất từ loại hiền
bình này. Bình Bumpa thường làm bằng đồng hay bạc, cổ bình thắt lại, miệng bình
có thành nhô ra hơi quặp xuống. Quanh thân bình chạm trổ các hoa văn, các biểu
tượng cát tường, hình Phật, hoặc Bồ Tát. Từ miệng bình, dùng đồng hoặc bạc làm
thành hình bốn dải lụa rũ xuống chạm thành bình. Bumpa được chia thành hai loại:
Tsobum thường đặt trên bàn thờ, hay trong Mạn-đồ-la, có nút đậy trang trí bằng
hình Phật, Bồ Tát ngồi trên tòa sen, thân có viên quang. Loại thứ hai gọi là Le
Bum, đặt trên bàn của vị lạt-ma chủ pháp, cắm chuôi gỗ, buộc lông công, có thêm
vòi để rót nước. Vị chủ pháp sẽ dùng bình này để rảy nước sái tịnh hay rót ra một
chút nước cho người thọ pháp uống khi làm lễ quán đảnh.
[128] Tứ đại
hộ chính là bốn vị Kim Cang thần thủ hộ bốn cửa của Mạn-đồ-la, bao gồm:
- Vô Úy Kết
Hộ, thủ hộ cửa Đông, thân màu vàng ròng, mặc áo trắng, mặt hiện dáng vẻ sân hận,
tay cầm gậy. Ấn là bổng ấn (hình gậy đặt trên hoa sen), chủng tử là chữ Phạ.
- Hoại Chư Bố
Kết Hộ, thủ hộ cửa Bắc, thân màu trắng, mặc áo trắng, tay cầm đao có vòng lửa
bao quanh, đao ấn, chủng tử là chữ Truyền.
- Nan Hàng
Phục Kết Hộ, thủ hộ cửa Tây, thân có màu hoa Vô Ưu (tím đậm), mặc áo đỏ, vẻ mặt
mỉm cười, thân có viên quang, hiện dáng vẻ như đang quan sát đại hội, đao ấn,
chủng tử là chữ Sách.
- Kim Cang
Vô Thắng Kết Hộ, thủ hộ cửa Nam, thân màu đen, hiện tướng phẫn nộ, mặc áo đen,
tay cầm gậy, thân phóng ra quang minh như ngọn lửa, bổng ấn, chủng tử là chữ
Sám.
Mỗi vị lại sứ
giả chầu hầu, ngồi trên hoa sen trắng.
[129] Tức
chân ngôn Đại Lực Đại Hộ Minh Phi sẽ được nói trong phần sau. Trong phần sau, sớ
có giải thích: “Chân ngôn này oai quang dữ dội, ví như mắt trẻ nhỏ chẳng thể
kham nhìn tia nắng mặt trời chói rực, nên gọi là Vô Kham Nhẫn”.
[130] Theo
Phật Học Đại Từ Điển, đây chính là Tháp Ấn (còn gọi là Tốt Đổ Ba ấn, hoặc còn gọi
là Bảo Bình Ấn). Tức là hai tay chắp lại sao cho lòng bàn tay đừng chạm sát
nhau (tức là có khoảng trống giữa hai lòng bàn tay, thường gọi là Hư Tâm Hiệp
Chưởng), hai ngón trỏ và ngón cái giáp nhau thành hình khuyên, các ngón còn lại
gác chéo đầu vào nhau, sao cho ngón phải đè lên ngón trái.
[131] Tỳ Xá
Giá, còn phiên âm là Tất Xá Giá, Tỳ Xá Giá, Tịch Xá Chá, Tý Xa Chá v.v… là một
loại ác quỷ chuyên ăn nuốt tinh khí khiến cho người bị điên cuồng, có thuyết
nói là loài quỷ này chuyên ăn xác chết, có thể biến hình và ẩn thân.
[132] Đây là
một loại quỷ Dạ Xoa. Theo Huệ Uyển Âm Nghĩa, quyển hạ: “Bộ Đa được phương này dịch
là Tự Sanh, ý nói hễ từ cha mẹ sanh ra thì gọi là Dạ Xoa, loại hóa sanh được gọi
là Bộ Đa”.
[133] Tức là
câu đầu tiên trong các bài chú “nam-ma tam mạn đa bột đà nẫm” (Namaḥ
samanta-Buddhānāṃ).
[134] Ngũ
luân ở đây phải hiểu theo nghĩa ngũ thể, tức là năm chỗ trên thân người gồm đầu,
hai vai và hai đầu gối.
[135] Ngưu tất
(Achyranthes bidentata, cỏ xước hai răng) là một loài thực vật thân thảo (tức
thân mềm, không có gỗ cứng), có thể mọc cao đến một mét. Thân có bốn cạnh,
phình lên thành các đốt, thuộc họ Dền (Amarathaceae). Hạt của nó có thể ăn được.
Loại cỏ này được dùng trong Đông Y với tên gọi là Hoài Ngưu Tất.
[136] Mười
hai tác dụng của lửa ở đây được biểu hiện thành mười hai vị Hỏa Thiên, biểu thị
ý nghĩa chân thật của pháp hộ-ma trong Đại Thừa Mật giáo (quyển hai mươi của bộ
sớ này sẽ nói cặn kẽ hơn):
- Trí Hỏa, tức
nội chứng của Đế Thích, biểu thị huệ quang Bồ Đề đốt sạch vô minh, tương ứng với
pháp Tức Tai. Do Đế Thích là vua của chư thiên, nên vị hỏa thiên này biểu thị
trí quang của Đại Nhật Như Lai. Vị này có thân màu vàng, quanh thân có vòng
quang minh như ngọn lửa bao bọc, đàn pháp có hình vuông.
- Hạnh Mãn,
biểu thị đại bi hạnh, tương ứng pháp Tức Tai. Vị này như trăng thu, thân mặc áo
trắng tinh, tay phải cầm tràng hạt, tay trái cầm bình Quân Trì.
- Ma Rô Đa
(Phong Tháo), như gió có thể thổi tan mây, biểu thị ý nghĩa phá hoại các chướng,
tương ứng pháp Điều Phục. Vị này ngồi trên bán nguyệt màu đen, tay cầm khăn.
- Rô Hê Đa
(Xích Sắc), biểu thị trí huệ nhạy bén. Vị này ngồi trên đàn tam giác, tay phải
cầm đao, vẻ mặt hơi phẫn nộ.
- Một Lật
Noa, biểu thị từ bi và trí huệ hòa hợp. Thân hình vị này nửa bên trái có màu đỏ,
hình tướng phẫn nộ, nửa phải có màu sắc, vẻ mặt nhu hòa mỉm cười. Tay trái cầm
đao, tay phải cầm chày kim cang.
- Phẫn Nộ
bao gồm Nhiếp Phục lẫn Tức Tai, thân có màu khói hơi ngả đen, nhắm một mắt như
Bất Động Minh Vương, tóc bốc lửa, miệng há to như đang rống, lộ bốn răng nanh.
- Xà Trá La
(Ôn Phúc), thân đủ năm màu, hình dạng tột bậc phẫn nộ.
- Ngật Sái
Da (Phí Hao), biểu thị ý nghĩa dẹp trừ nghiệp chướng. Vị này có hình tướng nhiều
tia chớp tụ lại, chẳng thể nhìn ngắm được.
- Ý Sanh, biểu
thị trí huệ tự tại, khắp trong pháp giới, dùng thân ngữ ý thiện xảo để ứng với
chúng sanh, tùy ý thành tựu Phật sự.
- Yết Khẩu
Vi (Thọ Thực Hỏa) biểu thị đạt được cái quả tam thân, hình tướng vị này được
miêu tả là tay cầm chữ Án (Aum).
- Vị thứ mười
một khuyết tên.
- Mô Hạ Na
(Tất Thành), biểu thị hàng phục các ma, việc làm đã xong!
[137] A là
tâm chân ngôn của Phật Bộ, Sa là tâm chân ngôn của Liên Hoa Bộ, và Phạ là tâm
chân ngôn của Kim Cang Bộ.
[138] Theo
kinh Tăng Nhất A Hàm, thế giới được kiến lập dựa trên hư không, trong hư không
có một tầng phong luân, trên phong luân là thủy luân, trên thủy luân là địa
luân. Nền tảng của địa luân được gọi là kim cang tế (đôi khi còn gọi là kim
cang sát).
[139] Phụng
giáo giả (người tuân phụng giáo pháp) có thể hiểu vị này là thị giả hoặc sứ giả
của một vị tôn thánh.
[140] Cách
ngồi Cát Tường tức là ngồi bán già (còn gọi là “đơn bàn”), chân nọ chồng lên
chân kia, không phải là kiểu ngồi hai chân xếp chéo vào nhau, lật ngửa bàn chân
lên (ngồi kiểu này được gọi là “kết già phu tọa”, thường gọi tắt là “ngồi kết
già”, hay “song bàn”, “song phu”, hay “toàn phu”). Khi ngồi bán già, nếu chân
trái chồng lên chân phải thì gọi là Cát Tường Tọa. Chân phải chồng trên chân
trái thì gọi là Hàng Ma Tọa. Trong cách ngồi kết già (thường bị đọc trại thành
“kiết già”), nếu chân phải ở trên chân trái thì gọi là Liên Hoa Tọa, ngược lại
thì gọi là Kim Cang Tọa.
[141] Do các
đoạn kệ phiên âm tiếng Phạn này và lời dịch tiếng Hán do ngài Nhất Hạnh trích từ
kinh Kim Cang Khởi ghép vào đây, không thuộc phần chánh kinh của kinh Đại Nhật,
chúng tôi tạm ghi là Sớ để phân biệt với phần chánh kinh của kinh Đại Nhật.
[142] Đây là
một điển tích lấy từ câu chuyện Từ Vô Quỷ trong sách Trang Tử. Theo đó, tại
Dĩnh Quận của nước Sở, có một người thợ khéo sử dụng búa. Nếu dùng phấn trắng
bôi lên mũi người khác một đốm chừng bằng cánh con ruồi, người thợ ấy vung búa,
gạt phăng chấm phấn ấy, mũi người đó chẳng bị tổn thương mảy may! Vì thế, chữ
“Dĩnh tượng” (người thợ đất Dĩnh) được dùng để chỉ người có tài văn học lỗi lạc
hoặc nghề khéo tài ba.
[143] Ba La
Di (Pārājika) dịch nghĩa là Tha Thắng (bị những điều khác khống chế), Cực Ác,
Trọng Cấm, Đọa, Đọa Bất Như, Đoạn Đầu, Vô Dư, Khí, đều có nghĩa là đã phạm các
giới này, chính là phạm tội cực nặng, đoạn dứt thiện căn, sẽ đọa lạc không còn
thuộc chủng tánh thánh hạnh, đáng phải loại bỏ khỏi Tăng đoàn.
[144] Thông
thường, “chúng số” tức là các pháp thuộc sanh tử luân hồi. Do còn phải luân
chuyển sanh tử luân hồi thì sẽ có Ngũ Ấm, Thập Nhị Nhập, Thập Bát Giới v.v… tức
là rơi vào các hữu pháp, nên gọi là “đọa ư chúng số”. Theo mạch văn ở đây, dường
như phải hiểu “tuy đối với Cụ Túc Tỳ Ni, chẳng đọa vào các số” có nghĩa là chẳng
phạm tội nào trong Cụ Túc Giới. Theo ngu ý, đoạn này phải hiểu là: Nếu có ý
nghĩ hay thốt ra lời nói “phải bỏ một pháp nào đó trong Phật pháp”, xét theo Cụ
Túc Tỳ Ni của Hiển Giáo thì không thành tội phạm giới vì giới luật không kết tội
chuyện này, nhưng trong Mật Giáo, không được phép chối bỏ bất cứ một pháp nào
[do Phật đã dạy], cho nên nếu có ý niệm hoặc thốt ra lời khuyên người khác bỏ một
pháp nào đó thì sẽ là phạm tội Ba La Di trong Mật Giáo.
[145] Giá nạn
là nói gộp chung của Thập Lục Giá (mười sáu điều ngăn che) và Thập Tam Nạn (mười
ba nạn), tức là những quy định nhằm xem xét một người muốn thọ giới có đủ tư
cách, phẩm chất để thọ Cụ Túc Giới hay không. “Giá” tức là những điều ngăn cấm
đối với các điều ác chẳng thuộc về tự tánh, còn Nạn là ngăn cấm các điều ác thuộc
về tự tánh. Do sợ rườm rà, chỉ xin trích dẫn một đôi điều. Chẳng hạn kẻ muốn thọ
giới mà trước đó đã phạm Tứ Ba La Di thì gọi là Biên Tội trong Thập Tam Nạn. Hoặc
trước khi thọ giới, đã lén nghe giới luật rồi dối trá xưng mình là tỳ-kheo. Đó
là Tặc Tâm Thọ Giới trong mười ba nạn. Còn “Giá” là nếu người muốn thọ giới bị
bệnh ngặt như cùi, ung thư, điên cuồng v.v… hoặc đang thiếu nợ, là nô tỳ trốn
chủ, là người đang làm quan mà chưa từ chức, cha mẹ không cho phép mà cứ lén xuất
gia v.v… Nếu phạm phải những điều ấy, đều không được phép thọ giới xuất gia, và
vị thầy nếu biết mà vẫn cứ truyền giới thì cũng phạm tội.
[146] Thâu
Lan Giá (Sthūlātyaya) dịch nghĩa là Đại Tội, Trọng Tội, Thô Tội, Thô Ác, Thô
Quá, Đại Chướng Thiện Đạo, bao gồm các tội không thuộc loại Ba La Di, Tăng Tàn
và Đột Cát La. Do những điều này thuộc về tỳ-kheo đại giới, chỉ nói sơ lược như
thế, không tiện ghi ra chi tiết được!
[147] Chữ Phấn
Tấn (奮迅) theo nghĩa
gốc là chim hay thú có thế lực mạnh mẽ, hào hứng bay nhảy. Chữ này về sau được
hiểu theo nghĩa tinh thần phấn chấn, hăng hái, dũng mãnh.
[148] Chữ Hồng
(हूं) gồm ba bộ phận ghép lại, tức chữ Ha (ह),
vạch tam-muội tức nguyên âm ū (ू) và chấm Đại Không (ं)
hình dung âm ṃ.
[149] Tỳ Phú
La (Vipula) còn phiên âm là Tỳ Bố La, Tỳ Phù La, Bệ Phù La, dịch nghĩa là Quảng
Bác Hiếp Sơn, Quảng Phổ Sơn, Phương Sơn, hoặc Đại Sơn, là một trong năm quả núi
to tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Quả núi này thường được dùng để sánh ví
sự to lớn.
[150] Tam-muội
được nói ở đây chính là nguyên âm
đi kèm với phụ âm
trong chữ
Phạn. Trong
đoạn này, “tam-muội” chính là âm Y được thêm vào chữ Va.
Comments
Post a Comment