Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
21. Phẩm thứ hai mươi mốt: Thành tựu địa vị trăm chữ
Bách Tự Vị Thành Phẩm Đệ Nhị Thập Nhất
百字位成品第二十一
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đắc
vị tằng hữu, nhi thuyết kệ ngôn: - Phật thuyết chân ngôn cứu thế giả, năng sanh
nhất thiết chư chân ngôn, Ma Ha Mâu Ni vân hà tri? Thùy năng tri thử tùng hà xứ?
Thùy sanh như thị chư chân ngôn? Sanh giả vị thùy duy diễn thuyết? Đại Cần Dũng
Sĩ thuyết trung thượng, như thử nhất thiết nguyện khai thị.
(經)爾時,執金剛祕密主得未曾有,而說偈言:佛說真言救世者,能生一切諸真言。摩訶牟尼云何知,誰能知此從何處?誰生如是諸真言?生者為誰惟演說?大勤勇士說中上,如此一切願開示。
(Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ đạt được điều chưa từng có, bèn nói kệ rằng: - Phật: Đấng cứu đời
nói chân ngôn, hay sanh ra hết thảy chân ngôn. Ma Ha Mâu Ni vì sao biết? Ai biết
chân ngôn từ nơi đâu? Ai sanh ra chân ngôn như thế? Người sanh sẽ vì ai diễn
nói? Bậc Đại Cần Dũng tối thượng thuyết, hết thảy như thế nguyện khai thị).
Lúc
bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn!” Kế đó, nói kệ. “Chân ngôn cứu thế giả” (Ý nói môn trăm chữ trên đây) có thể sanh
ra các chân ngôn. “Chân ngôn cứu thế”:
Làm sao biết các chân ngôn sanh khởi? Ai có thể biết? Ở nơi nào? Ai sanh ra các
chân ngôn của đấng Đại Mâu Ni? Vì ai mà nói? Do hết thảy các vị Đại Dũng Sĩ
nói, nói với người ước nguyện. Đó là [các ý chánh yếu] trong kinh văn. Khi đó,
ngài Bí Mật Chủ nghe đức Phật nói [môn trăm chữ xong], đạt được điều chưa từng
có, bạch rằng: “Đức Thế Tôn hy hữu đã nói bậc chân ngôn cứu thế này. “Bậc cứu thế” chính là Phật. Như Phật
trong hết thảy chúng sanh là chỗ đại quy y, cứu vớt, che chở, chân ngôn này
cũng thế, trong hết thảy các chân ngôn, giống như đấng cứu thế, là chỗ cứu
giúp, che chở của các chân ngôn. Như Phật là chỗ để hết thảy quy hướng; chân
ngôn này cũng thế, là chỗ quy hướng của hết thảy các chân ngôn. Bậc đại thánh
giả nghe đức Phật nói, liền do một chữ mà có thể sanh ra vô lượng chân ngôn,
thân, miệng, ý sai biệt, tùy theo tánh của chúng sanh mà phô bày các loại thân,
nói đủ loại pháp, hiện đủ loại thần biến. Do vậy, [ngài Kim Cang Thủ] hỏi chân
ngôn này sanh như thế nào? Lại do ai chứng biết? Sanh ở nơi đâu? Ngài hỏi ba sự
ấy.
Đại
Mâu Ni là [từ ngữ để] tán thán [đức Phật]. [Lời hỏi của ngài Kim Cang Thủ lại gồm
bốn ý]: Một, biết như thế nào? Hai, người biết là ai? Ba, [sanh] ở nơi nào, hàm
ý từ chỗ nào mà có được kinh này? Bốn, ai sanh ra các chân ngôn? Trước là hỏi
ai được biết? Còn bốn điều sau nhằm hỏi người sanh là ai? Đại Dũng Sĩ [trong lời
kệ của ngài Kim Cang Thủ] chính là Phật. Hết thảy [các điều con đã thắc mắc ấy]
đều xin [đức Thế Tôn] nói, nói cho bậc trung thượng. Nguyện đấng Nhất Thiết Trí
là đấng Dữ Nguyện (ban cho ước nguyện) hãy nói. Đấy là tán thán Phật đức (công
đức của Phật), [Ngài là đấng] có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện. Do vậy, gọi
Ngài là Dữ Nguyện. Bởi đó, thỉnh đức Phật nói. Phật là bậc Đại Mâu Ni tự tại
viên mãn trong các pháp.
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, pháp tự tại
Mâu Ni, viên mãn phổ châu biến, tất biến chư thế giới, nhất thiết trí huệ giả,
Đại Nhật Tôn cáo ngôn: - Thiện tai Ma Ha Tát, đại đức Kim Cang Thủ! Ngô đương
nhất thiết thuyết, vi mật tối hy hữu, chư Phật chi bí yếu, ngoại đạo bất năng
tri. Nhược Bi Sanh Mạn Đồ, đắc Đại Thừa quán đảnh, điều nhu, cụ thiện hạnh, thường
bi, lợi tha giả. Hữu duyên quán Bồ Đề, thường sở bất năng kiến.
(經)爾時,薄伽梵,法自在牟尼,圓滿普周遍,悉遍諸世界,一切智慧者,大日尊告言:善哉摩訶薩,大德金剛手!吾當一切說,微密最希有,諸佛之祕要,外道不能知。若悲生漫荼,得大乘灌頂,調柔具善行,常悲利他者,有緣觀菩提,常所不能見。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm là đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp, là đấng
viên mãn trọn khắp, trong trọn khắp các thế giới, Ngài là bậc trọn đủ hết thảy
trí huệ, chính là đức Đại Nhật bảo rằng: - Lành thay, Ma Ha Tát, đại đức Kim
Cang Thủ! Ta sẽ nói hết thảy, bí yếu của chư Phật, kín nhiệm, hiếm có nhất, ngoại
đạo chẳng thể biết. Nếu quán đảnh Đại Thừa, trong Bi Sanh Mạn Đồ, thuần dịu, đủ
thiện hạnh, tâm thường bi, lợi người. Hữu duyên quán Bồ Đề, sẽ thường chẳng thể
thấy).
Nói như thế xong, đức Thế Tôn là bậc đại
Mâu Ni tự tại trong các pháp, trọn khắp Nhất Thiết Trí của các vị Tỳ Lô Giá Na
trong các thế giới bèn bảo rằng: - Lành thay! Lành thay, Bậc Ma Ha Tát Kim
Cang Thủ trọn đủ đức. Ta sẽ nói hết thảy (tức là vì các ông) điều bí mật trọng
yếu, hy hữu, bí mật nhất của chư Phật mà hết thảy các ngoại đạo chẳng thể biết.
Đó là các Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la trong Quán Đảnh của Đại Thừa (từ đây trở đi là
Sanh Đàn Quán Đảnh). “Điều nhu cụ thiện
hạnh, thường bi lợi tha giả, hữu duyên quán Bồ Đề, bỉ thường bất năng kiến”
(Kẻ tâm tánh điều thuận, nhu hòa, trọn đủ các hạnh lành, thường có tâm bi, lợi
ích người khác, hữu duyên quán Bồ Đề, sẽ chẳng thể thường trông thấy). “Phổ biến” là trong thế gian đều trọn
khắp. Khi đó, đức Phật vì muốn nói tâm pháp chân ngôn này, liền dùng thần lực
gia trì, khiến cho trọn khắp pháp giới đều có âm thanh ấy nói với ngài Kim Cang
Thủ. Đấng Nhất Thiết Trí Tỳ Lô Giá Na bảo: “Lành thay, lành thay, bậc đại chúng
sanh là đại đức Kim Cang Thủ! Ta sẽ nói pháp bí mật hy hữu bậc nhất trong hết
thảy các pháp bí mật nhất của chư Phật, hết thảy các ngoại đạo chẳng biết!”
Trên đây là [các ý chánh trong] kinh văn. Đức Phật tán thán ngài Kim Cang Thủ: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại đức Chấp Kim
Cang”. “Đại đức”: Trọn đủ
vạn đức. Pháp này chính là bí mật nhất trong hết thảy các bí mật của Như Lai, tối
thượng trong các bí tạng, cùng được thủ hộ, chẳng hư vọng truyền cho người
khác, là pháp khó có hy hữu bậc nhất. Nay pháp bí mật nhất trong các pháp này,
hết thảy ngoại đạo đều chẳng thể hay biết. Nhưng ngoại đạo có hai thứ: Một là
các loại ngoại đạo thế gian, hai là trong Phật pháp có các ngoại đạo. [Sở dĩ có
loại thứ hai là] do họ tuy đã nhập Phật pháp, nhưng chưa thể biết bí mật của
Như Lai, vẫn là tâm tà kiến, hành đạo ở ngoài lý. Vì thế, cũng gọi là Ngoại.
Hai loại ngoại đạo ấy đều không thể biết pháp này. “Ngoại đạo trong Phật pháp” tức là hàng Nhị Thừa. Phật chẳng tùy
tiện trao [pháp này] cho người khác, do Ngài thầm suy nghĩ đã lâu, đợi đúng căn
cơ mà trao.
Nay người nào thích hợp nghe pháp này? Vì thế, kế đó [chánh
kinh] nói nếu ai được nhập pháp Đại Bi Sanh Quán Đảnh trong Đại Thừa, sẽ thích
hợp để nghe. Nếu không, sẽ chẳng được [nghe pháp này]. Kế đó lại hỏi, cần phải
xem xét người như thế nào thì mới có thể dẫn nhập [đàn tràng, tiếp nhận] quán đảnh?
Nếu người nào tánh điều phục, mềm mỏng, chất trực, đầy đủ các thiện hạnh; người
như thế mới có thể dẫn nhập pháp quán đảnh. Lại phải có tâm thường bi thì mới
thích hợp dẫn nhập Mạn-đồ-la. [Chánh kinh nói] “thường bi” [nhằm phân định rõ]: Nếu như có ai trong lúc này thì
có lòng Bi, lúc khác chẳng có, hoặc ở nơi này thì có, nơi khác thì không, hoặc
có lòng Bi đối với người thân, chẳng có lòng Bi đối với kẻ oán. Nay [người thường
bi] thì chẳng phải là như vậy, trong hết thảy các thời, các chốn, đều thường có
bi tâm. Lại còn [là bi tâm] bình đẳng rộng lớn trọn khắp. Người như thế mới
thích hợp dẫn nhập quán đảnh. Đã được quán đảnh mới thích hợp nghe pháp này, chẳng
phải như các kinh thường lưu truyền. Bài kệ biện định [người căn cơ thích hợp để
nghe, học, tu tập] trong kinh Pháp Hoa cũng có thể dẫn dụng [nhằm nêu rõ ý
nghĩa] liệu giản căn cơ [ở đây].
Lại nữa, nếu là người hữu duyên quán thì cũng chẳng thích hợp
nghe pháp này. Phật pháp lìa hết thảy các tướng, lìa hết thảy các
duyên. Nếu có tướng, có duyên, tức chẳng lìa Đoạn Kiến và Thường Kiến, cho nên
không được nghe pháp này. Nay nói “vô
duyên”, há có phải là bài bác hết thảy các pháp đều là không, là vô sở hữu
ư? Chẳng phải như vậy! Phật pháp tuy lìa duyên, lìa tướng, nhưng do phương tiện
trọn đủ hết thảy các thứ cảnh giới công đức và thần lực tốt lành chẳng thể nghĩ
bàn, từ ngay nơi tướng mà vô tướng, từ ngay vô tướng mà trọn đủ hết thảy các tướng,
là duyên mà vô duyên, tuy vô duyên mà trọn đủ hết thảy các duyên, chẳng phải chỉ
là rỗng tuếch, vô sở hữu mà thôi! Ý chánh yếu là người trọn đủ đại hạnh, đại
nguyện Bồ Tát, phát khởi đại tâm, đối với người như thế thì mới có thể nói.
(Kinh) Bỉ năng hữu tri thử, nội tâm chi Đại Ngã, tùy kỳ tự
tâm vị, đạo sư sở trụ xứ, bát diệp tùng ý sanh, liên hoa cực nghiêm lệ, viên
mãn nguyệt luân trung, vô cấu do tịnh kính. Ư bỉ thường an trụ, chân ngôn cứu
thế tôn, kim sắc cụ quang diễm, trụ tam-muội hại độc, như nhật nan khả quán, chư chúng sanh diệc nhiên.
(經)彼能有知此,內心之大我,隨其自心位,導師所住處,八葉從意生,蓮華極嚴麗。圓滿月輪中,無垢猶淨鏡,於彼常安住,真言救世尊。金色具光焰,住三昧害毒,如日難可觀,諸眾生亦然。
(Kinh:
Người ấy sẽ biết được, Đại Ngã trong nội tâm, tọa vị trong tự tâm, là chỗ đạo
sư trụ. Đóa sen sanh từ ý, tám cánh cực nghiêm, đẹp. Trụ vầng trăng viên mãn,
vô cấu như gương sạch. Thường an trụ trong ấy, đấng cứu thế chân ngôn, sắc
vàng, lửa rực sáng, trụ tam-muội, hại độc, như mặt trời khó nhìn, các chúng
sanh cũng thế).
Trong phần trước đã hỏi “từ điều gì mà sanh?”, nay đáp “từ Phật tâm mà sanh”. “Đạo sư” tức là Phật. Nếu thuận theo
chỗ trụ của đấng đạo sư, sẽ có thể biết được chân ngôn này. [Nói] “nội tâm chi Đại Ngã” (Đại Ngã trong
nội tâm) chính là tán thán cái tâm này. Thuận theo đó mà sanh, tức là từ hết thảy
các chi phần mà sanh. “Tùy kỳ tự tâm vị,
đạo sư sở trụ xứ, bát diệp tùng ý sanh, liên hoa cực đoan nghiêm. Viên mãn nguyệt
luân trung, vô cấu đồng ư kính, ư bỉ thường an trụ, chân ngôn cứu thế tôn,
hoàng sắc cụ quang viêm, hại độc trụ tam-muội, như nhật nan khả quán”
(Thuận theo các vị trong tự tâm, đó là chỗ trụ của bậc đạo sư. Từ ý sanh ra đóa
sen tám cánh tột bậc trang nghiêm, đẹp đẽ. Ở trong vầng trăng viên mãn, vô cấu
giống như gương, bậc chân ngôn cứu đời sắc vàng, trọn đủ các tia sáng tỏa ra
như ngọn lửa, trừ phiền não, trụ trong tam-muội, như vầng mặt trời khó thể thấy
được): Hết thảy các chúng sanh ấy đều giống như đóa sen tám cánh sanh từ ý, tột
bậc đoan nghiêm như thế, ở trong vầng trăng tròn, giống như tấm gương vô cấu. Bậc
đại đức chân ngôn cứu thế thường trụ trong ấy, [thân Ngài] kim sắc, trọn đủ các
tia sáng như ngọn lửa mà trụ, tức là hoa đài ấy sanh từ tâm ý. Đó chính là quán
đóa sen tám cánh trong tự tâm. Hoa ấy chẳng sanh từ nơi khác, mà sanh từ ý. Ý
chính là hoa, chẳng hai, chẳng khác. Hoa đài ấy tròn sáng như mặt trăng, thanh
tịnh, vô cấu, giống như tấm gương tròn, chẳng vật nào trong thế gian có thể
sánh ví, chỉ tấm gương tròn là có thể sánh ví [phần nào], khiến cho người nghe
hiểu ý quên lời. Nhưng thật ra, [cái tâm ấy sáng sạch hơn tấm gương] gấp trăm
ngàn vạn lần, chẳng thể thí dụ được! Nay ngự trong vầng tròn sáng ấy, có đấng
chân ngôn cứu thế, trọn đủ công to lớn, màu vàng ròng, có quang minh như ngọn lửa.
Ngài trụ trong tam-muội tịch nhiên để trụ nơi đó.
Hãy nên quán chân ngôn vương một chữ.
Từ chân ngôn vương ấy, liền quán Bổn Tôn, hoặc quán đức Đại Tỳ Lô Giá Na như
trong pháp Du Già đã nói trước kia. Do nói chưa phân minh, hãy nên tra cứu
thêm; nhưng phần kinh văn trên đây đã đủ để dẫn chứng hòng kiểm nghiệm. “Hại” có nghĩa là “hết thảy các phiền
não thảy đều bị đoạn trừ”. Oai quang ấy giống như hòa hợp trăm ngàn mặt trời!
Oai quang mạnh mẽ, hừng hực, [khiến cho các chúng sanh] giống như đứa trẻ mới
sanh bảy ngày chẳng thể ngửa nhìn mặt trời chói chang để thấy được ánh sáng của
nó. Nay quang minh này cũng giống như thế.
(Kinh) Thường hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia trì, dĩ như
thị huệ nhãn, liễu tri ý minh kính. Chân Ngôn giả huệ nhãn, quán thị viên kính
cố, đương kiến tự hình sắc, tịch nhiên Chánh Giác tướng. Thân sanh thân ảnh tượng,
ý tùng ý sở sanh, thường xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng tự tác nghiệp. Thứ ư
bỉ quang hiện, viên chiếu như điện diễm. Chân Ngôn giả năng tác, nhất thiết chư
Phật sự. Nhược kiến thành thanh tịnh, văn đẳng diệc phục nhiên, như ý sở tư niệm,
năng tác chư sự nghiệp.
(經)常恒於內外,普周遍加持,以如是慧眼,了知意明鏡。真言者慧眼,觀是圓鏡故,當見自形色,寂然正覺相。身生身影像,意從意所生,常出生清淨,種種自作業。次於彼光現,圓照如電焰,真言者能作,一切諸佛事。若見成清淨,聞等亦復然,如意所思念,能作諸事業。
(Kinh:
Thường luôn ở trong ngoài, gia trì trọn khắp cả. Do huệ nhãn như thế, biết rõ
gương ý sáng. Mắt huệ bậc Chân Ngôn, do quán gương tròn ấy, sẽ thấy hình sắc
mình, tướng Chánh Giác vắng lặng. Thân sanh ra hình bóng, ý từ ý mà sanh, thường
xuất sanh thanh tịnh, đủ loại nghiệp tự làm. Kế đó, trong quang hiện, chiếu trọn
như ánh chớp. Bậc Chân Ngôn hay làm, hết thảy các Phật sự. Nếu thấy, thành
thanh tịnh, hễ nghe thì cũng vậy. Đúng như ý suy nghĩ, hay làm các sự nghiệp).
“Thường
hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia trì. Dĩ như thị huệ nhãn, nhi tri ư ý kính”
(Thường luôn ở trong ngoài mà gia trì trọn khắp. Dùng huệ nhãn như thế để biết
được tấm gương ý): Hiểu [“ý kính”]
là tâm kính cũng được. Huệ nhãn của hành giả Chân Ngôn quán tấm gương tròn ấy,
sẽ thấy hình sắc của chính mình (tự thấy thân mình) là tướng Chánh Giác vắng lặng.
Thân và hình bóng sanh bởi thân, [chánh kinh gọi là] “thân, thân sở sanh tượng”, chữ “thân” trước là [nói về] thân hữu vi, hữu lậu; chữ “thân” sau là thân vô vi. Tâm sanh ra
tâm (tức là câu “ý tùng ý sở sanh”
nghĩa là “ý sanh từ ý”, lời sớ
diễn giải thành “tâm sanh ra tâm”)
tức là từ cấu tâm sanh ra tịnh tâm. “Thường
xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng tự tác nghiệp” (Thường sanh ra đủ loại nghiệp tự tạo
thanh tịnh), [tức là] nghiệp trong A Lại Da Thức ô nhiễm có thể sanh ra tịnh
nghiệp. Trừ khử bất tịnh nghiệp, tịnh nghiệp sẽ hiện. Trừ khử nghiệp bất tịnh,
tịnh nghiệp sẽ hiện. Tịnh nghiệp đã hiện, sẽ sanh ra quang minh giống như tia
chớp chiếu soi trọn khắp. [Đó chính là ý nghĩa của hai câu] “thứ đương bỉ quang hiện, viên chiếu như điện
diễm” (kế đó, quang minh ấy sẽ hiện, chiếu trọn khắp như ánh chớp)
[trong chánh kinh]. Cũng chẳng chấp vào ý nghĩa của chớp; chỉ dùng ý nghĩa ánh
sáng đủ loại màu viên mãn, ánh sáng đủ màu viên mãn chiếu soi. [Nhờ đó], “Chân Ngôn giả năng tác, nhất thiết chư Phật
sự” (người trì chân ngôn có thể làm hết thảy các Phật sự).
Hãy nên biết “trọn khắp trong ngoài” có ý nói về gương. “Gương” chính là hoa đài viên minh.
Hãy nên biết gương ấy chính là ý. Hãy nên biết gương ấy chính là tự tâm. Dùng
phương tiện nào để quán biết? Chính là phương tiện như trên: Nơi hai mắt, đặt
chữ Ra (र). Dùng huệ nhãn ấy để quán cái tâm Thật Tướng như tấm gương tròn sáng. Vì
thế, được hiểu rõ hiện tiền. Ai có thể quán? Chính là hành nhân Chân Ngôn. Vị
hành nhân ấy dùng mắt chữ Ra diệu huệ quang minh để quán tấm gương nơi hoa đài.
Thoạt đầu là quán bên ngoài ý, quán rành rẽ, rõ ràng: Như Lai ở trong vầng tròn
sáng ấy, cho đến âm thanh, sắc tướng, thảy đều vô biên. Đã hiểu rành rẽ như thế
rồi, liền dẫn khởi những điều ấy thành nội thân, tức là thân Tỳ Lô Giá Na đã
quán trên đây vắng lặng, chánh thọ, oai quang không ngằn mé, quán đó là thân của
chính mình, tức là khiến cho thân chính mình giống như thân Ngài, vắng lặng mà
trụ trong vầng tròn sáng, giống hệt như đức Phật ấy. Do lìa hết thảy các tướng
mà hiện bày tướng ấy, bèn gọi là “tướng
chân thật”. Vì sao vậy? Hoa sen ấy sanh từ ý, tức là trước đó dùng chữ
Ra đặt nơi mắt để quán tấm gương trên hoa đài nơi tâm. Đó chính là “thấy bên
ngoài”. Từ cái thấy bên ngoài trở thành cái thấy bên trong, tức là tự hiểu rõ
cái tâm. Do đó, kinh nói về huệ nhãn như thế. “Huệ nhãn trì tụng”: Từ nơi gương, trông thấy hình sắc của chính
mình và Phật tướng vắng lặng. Thân (thân hữu lậu), thân sanh (cái thân sanh bởi
thân hữu lậu, tức thân vô lậu) duyên theo ý tâm mà sanh ra, thường tịnh hóa các
loại nghiệp của chính mình. Kế đó, do quang minh [sanh ra từ tịnh nghiệp] như
ánh chớp sáng lòa, chiếu quanh khắp người trì chân ngôn, người ấy sẽ có thể làm
hết thảy các Phật sự. Cũng có thể nói “kiến
nhược tịnh ngã” (như thấy cái ngã trong sạch) có nghĩa là “làm hết thảy các sự”.
Nói “sanh” tức là thân ngữ ý sanh. Trước là quán hình tượng Phật
viên minh, sắc vàng v.v… Hãy nên biết các điều ấy sanh từ ý, liền từ [hình tướng]
bên ngoài mà dẫn khởi vào trong (tức là biến hình tướng, ngôn ngữ v.v… ấy thành
ba nghiệp của chính mình), như thân mình giống như thân ấn của Phật, tiếng nói
của mình giống như âm thanh nơi chân ngôn của Phật, tâm đồng Phật tâm. “Sanh” đều là từ ý mà sanh. Tức là do
sanh ra sự “sanh” ấy, có thể tịnh
hóa hết thảy các nghiệp. Vì thế nói là “thường
tịnh chủng chủng tự nghiệp” (thường tịnh hóa các thứ nghiệp của chính
mình), tức là lìa hết thảy các nghiệp. Nếu lìa hết thảy các nghiệp, bèn gọi là “chư Phật”. Nếu giác tri như thế, sẽ
có thể dùng viên quang để chiếu trọn khắp. “Biến chiếu” (Chiếu trọn khắp) chính là làm Phật sự. Do thân, khẩu, ý trang nghiêm chiếu
trọn khắp, sẽ làm hết thảy các Phật sự, tức là giống như đức Tỳ Lô Giá Na. Ai
có thể thực hiện Phật sự ấy? Chính là người trì chân ngôn. Đấy đều là đức Phật
trả lời ngài Kim Cang Thủ [câu hỏi về] chỗ sanh của chân ngôn. Tức là chân ngôn
ấy sanh từ thân, khẩu, ý của hành giả. Nếu biết như thế, tức là trong ngoài đều
thanh tịnh mà làm Phật sự. Kinh nói “tự
nghiệp” tức là Phật sự, nghĩa là hiện trọn khắp sắc thân, hoặc hiện bày
hành Bồ Tát đạo khắp chốn, tám tướng thành Phật, các sự nghiệp bổn sanh vô lượng
vô biên. Nói tóm lại, đều là tự nghiệp của Như Lai. Nếu có thể biết như thế,
chính là thành Phật. Người trì chân ngôn do trụ trong phương tiện, quán theo thứ
tự trên đây, hạnh chân ngôn ấy chính là thân hữu duyên khởi lên, chẳng có gì
khác biệt với Phật. Vì thế kinh nói: “Nhược
kiến thành thanh tịnh, văn đẳng diệc phục nhiên” (Nếu thấy thì sẽ thành thanh tịnh. Nghe,
biết v.v… thì cũng giống như thế). Người thấy, nghe, chạm, biết đều được thanh
tịnh. Chữ “năng” ở đây chứa đựng
nhiều ý nghĩa. “Như ý sở tư niệm, năng
tác nhất thiết sự” (Đúng như ý niệm suy nghĩ mà có thể làm hết thảy các
sự): Kế đó, quang minh giống như ánh chớp vây quanh người trì chân ngôn để làm
hết thảy các Phật sự. Như cái ngã thanh tịnh cũng nói là “làm hết thảy các Phật sự”, ý nghĩa
cũng giống như thế.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát như thị tự thân ảnh tượng sanh khởi vô hữu
thù thắng quá Tam Bồ Đề, như nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý đẳng, tứ đại chủng
nhiếp trì, tập tụ, bỉ như thị tự tánh Không, duy hữu danh tự sở chấp, do như hư
không, vô sở chấp trước, đẳng ư ảnh tượng. Bỉ Như Lai thành Chánh Giác, hỗ
tương duyên khởi, vô hữu gián tuyệt. Nhược tùng duyên sanh, bỉ tức như ảnh tượng
sanh. Thị cố, chư Bổn Tôn tức ngã, ngã tức Bổn Tôn, hỗ tương phát khởi thân sở
sanh thân, tôn hình tượng sanh. Bí Mật Chủ! Quán thị pháp duyên thông đạt huệ,
thông đạt huệ duyên pháp, bỉ đẳng đệ vi tác nghiệp, vô trụ tánh Không.
(經)復次,祕密主!真言門修菩薩行諸菩薩如是自身影像生起無有殊勝過三菩提,如眼耳鼻舌身意等四大種攝持集聚,彼如是自性空,唯有名字所執,猶如虛空,無所執著,等於影像。彼如來成正覺,互相緣起無有間絕。若從緣生,彼即如影像生。是故,諸本尊即我、我即本尊,互相發起身所生身尊形像生。祕密主!觀是法緣通達慧、通達慧緣法,彼等遞為作業,無住性空。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, hình
bóng của tự thân sanh khởi như thế, chẳng có gì hơn được Chánh Giác, như mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý do bốn đại chủng nhiếp trì, tụ tập, tự tánh Không như
thế chỉ có chấp trước danh tự, giống như hư không chẳng bị chấp trước, giống
như hình bóng. Đức Như Lai thành Chánh Giác, duyên khởi lẫn nhau, chẳng có gián
đoạn, cách tuyệt. Nếu sanh từ duyên, sẽ giống như sanh ra ảnh tượng. Vì thế,
các Bổn Tôn chính là ta, ta chính là Bổn Tôn, hỗ tương phát khởi cái thân sanh
bởi thân, sanh ra hình tượng chư tôn. Bí Mật Chủ! Quán pháp duyên này thông đạt
huệ, thông đạt pháp duyên nơi huệ, lần lượt thực hiện các nghiệp ấy, là tánh
Không vô trụ).
Bí Mật Chủ! Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn, trong tâm sanh duyên khởi như thế, không có gì thù thắng
như Phật. Trên đây là kinh văn. Thầy nói chưa phân minh, hãy nên hỏi thêm (có
thể suy nghĩ nghĩa này, theo thứ tự phối ứng với hình tượng). Hình tượng cũng
là duyên khởi, tức là quán đóa hoa tám cánh nơi tâm, trên hoa có vầng tròn
sáng, giống như một tấm gương thanh tịnh. Thoạt đầu, chưa sáng tỏ ngay, do dùng
phương tiện huệ nhãn chữ Ra, nên dần dần biết rõ, cho đến từ trong tấm gương
tròn, thấy thân chính mình bằng với hết thảy chư Phật. Pháp sanh như thế chính
là từ nhân duyên mà khởi. Nếu từ duyên khởi, quán môn Bất Sanh này liền nhập thể
tánh của pháp giới. Lấy huệ nhãn làm nhân, cảnh thanh tịnh làm cái để duyên
theo, vô lượng Phật sự thuộc tự nghiệp sẽ từ nhân duyên mà sanh, nhưng thật sự
chẳng phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh, chẳng phải là cộng sanh (tự và
tha cùng sanh), chẳng phải là không có nhân, như Trung Luận v.v… đã nói. Pháp
này thù thắng, không chi hơn được! Như trong phần trước luôn nói “lìa hết thảy các tướng, chẳng đối đãi, vô
duyên”, mà nay lại thực hiện các pháp Quán này, há chẳng phải là mâu thuẫn
ư? Như từ chữ A sanh ra hết thảy các chữ. Khi sanh hết thảy các chữ thì chính
là ý nghĩa “vốn chẳng sanh”. Ở
đây, cũng giống như thế, Phật do dùng sức phương tiện, cho nên trong pháp vô tướng
tịch diệt mà thực hiện hạnh Du Già này, từ trong vô tướng mà nói các tướng, từ
ngay nơi các tướng ấy mà chính là vô tướng. Cái gọi là “tướng” chính là pháp sanh bởi duyên, nhưng thật ra chẳng phải
là tự sanh, chẳng phải là tha sanh, lìa “bát
bất”[1],
tức là vô tướng bậc nhất, chẳng lìa tướng mà nói riêng có vô tướng! Nếu riêng lập
ra cách nói ấy, tức là giống như Đoạn Không của ngoại đạo! Nhưng có kẻ gạn rằng:
Nay lại quán các thứ cảnh giới thân, ngữ, ý của Bổn Tôn, [há chẳng phải là mâu
thuẫn ư?].
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Chân
Ngôn môn, hình ảnh sanh từ thân, tức là hình ảnh sanh khởi từ nơi thân. “Thân” là cấu thân, “ảnh” là tịnh thân. Các thứ khởi lên ấy
không gì hơn Phật được. Ý nói: Sự thù thắng do hình ảnh khởi lên không gì hơn
Phật được. Như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chấp giữ như thế, tự tánh ấy rỗng
không, chỉ có danh tự; điều được chấp trước giống như hư không! Chẳng chấp trước
do nhân nghiệp mà sanh. “Giống như
hình ảnh” tức là tướng. “Tướng”
chính là pháp thế gian. Nay đức Phật nói “hạnh
chân ngôn thành Phật”, chính là nói về pháp tam muội hữu tướng trong thế
gian. Vì sao? Do đó, kế tiếp, đức Phật bèn dẫn thí dụ để giảng rõ. Như mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân v.v… do tứ đại chủng nhiếp thủ như thế, tự tánh của chúng
là Không, chỉ có danh tự. Hãy nên biết sở chấp (những điều bị chấp trước) giống
như hư không, không có cái để chấp giữ, từ nhân nghiệp (nghiệp thuộc về nhân,
hay cái nghiệp tạo thành cái nhân) mà sanh ra hình ảnh. Kinh văn nói như thế
đó. Cái nhân như gương, nghiệp như thân, giống như đối trước gương mà ảnh hiện.
Như hành giả trước là quán tấm gương sáng nơi cái tâm ngoại duyên, dẫn nhập
[các ngoại duyên ấy trở thành] thân mình. Nếu tự và tha bình đẳng chẳng hai, tức
là Du Già đã thành. Thân chính mình làm nhân, những cái được duyên theo làm
duyên. Do nhân duyên hòa hợp mà có hình ảnh sanh ra. Nếu hiểu rõ nhân duyên ấy,
liền thành Đẳng Chánh Giác. Ai thành Chánh Giác? Chính là hành nhân Chân Ngôn.
Ý này giống như ngũ căn trong thế gian, từ nhân duyên Tứ Đại mà sanh, từ các thứ
như nghiệp v.v… mà sanh. Tuy hữu tướng, hữu duyên, nhưng tự tánh là Không, tức
là giống như pháp vô tướng bậc nhất. Nay Du Già này cũng thế, tuy dường như có
tướng, nhưng từ duyên sanh. Thật Tướng của duyên sanh chính là cái thể pháp giới
của chữ A; sao có thể bắt bẻ là hữu tướng được ư? Nếu liễu đạt ý nghĩa như thế,
tức là thành Chánh Giác. Vì thế, kinh nói “như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý do tứ đại chủng nhiếp thủ, nhưng tự
tánh của chúng là Không. Cái tên rỗng không như thế, chỉ là chấp trước”.
Hư không giống như chẳng chấp trước,
do nghiệp mà sanh ra hình ảnh v.v… Như Lai thành Chánh Giác, làm duyên khởi lẫn
nhau, trong sự liên tục chẳng gián đoạn như duyên sanh. Đó là sanh ra ảnh tượng.
Vì thế, chư thần, chư tôn chính là ta, ta chính là chư thần, chư tôn, phát khởi
lẫn nhau. Thân của chư tôn sanh từ thân ta, giống như sanh ra hình tượng của
chư thiên. Kinh văn nói như thế đó! Cái được ta dấy lên (hình tượng của chư tôn
thánh) giống như lúc do tấm gương tròn, nhìn vào tấm gương sáng đó, [sẽ thấy]
hình bóng của thân chính mình hiện ra. Do chưa thấy viên minh, sẽ chẳng có ảnh
tượng. Như Lai thành Chánh Giác, duyên khởi lẫn nhau, như trong gương sanh ra
hình ảnh, hình ảnh sanh ra lẫn nhau. Trong nhân duyên chẳng đoạn, từ nơi cấu
thân của chính mình sanh ra tịnh thân, [cấu thân và tịnh thân] sanh ra lẫn nhau
chẳng gián đoạn. Sự liên tục trong gián đoạn chính là chẳng gián đoạn. Nếu từ
duyên sanh, đó chính là như sự sanh khởi của các hình bóng. Điều này hiển thị “chẳng lìa nhân duyên”. Vì thế, chư
tôn chính là ta, ta chính là Bổn Tôn, phát khởi lẫn nhau. Do sanh ra lẫn nhau,
từ thân sanh ra thân (tức là [từ cấu thân của ta] sanh ra tịnh thân [của chư
tôn thánh]). Hình tượng của chư tôn được sanh ra như thế đó! Thân sanh từ nơi
thân, tức là cấu thân sanh ra tịnh thân, tịnh thân tức là hình tượng của Phật,
Bổn Tôn. Hãy nên hiểu như thế! Thân tâm của chính mình, thân của chính mình đã
tịnh, lại giống như thế đó, duyên khởi lẫn nhau chẳng có gián đoạn. Vì thế nói “duyên sanh chính là hình ảnh sanh”.
Do trong và ngoài làm nhân cho nhau, Tướng Phần phát khởi, lần lượt thấy lẫn
nhau, chư tôn chính là ta, ta cũng chính là chư tôn, Phật tức là ta, ta tức là
Phật. “Thân sanh, hình tướng sanh”
tức là sanh từ thân chính mình vậy! Này Bí Mật Chủ! Đã quán như thế rồi, pháp
duyên theo trí huệ thông đạt, trí huệ thông đạt duyên theo pháp, đôi bên tạo
thành nghiệp cho nhau, chẳng trụ trong tánh Không.
(Kinh) “Bí Mật Chủ! Vân hà tùng ý sanh? Ý năng sanh ảnh tượng. Bí Mật
Chủ! Thí như nhược bạch, nhược hoàng, nhược xích, tác ý giả tác thời, nhiễm trước
ý sanh, bỉ đồng loại như thị thân chuyển. Bí Mật Chủ! Hựu như nội quán ý trung
Mạn-đồ-la liệu trị nhiệt bệnh, bỉ chúng sanh nhiệt bệnh tức thời trừ dũ, vô hữu
nghi hoặc. Phi Mạn-đồ-la dị ý, phi ý dị Mạn-đồ-la. Hà dĩ cố? Bỉ Mạn-đồ-la nhất
tướng cố. Bí Mật Chủ! Hựu như huyễn giả huyễn tác nam tử, nhi bỉ nam tử hựu phục
tác hóa. Bí Mật Chủ! Ư ý vân hà? Bỉ hà giả vi thắng?” Thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử nhị nhân giả, vô
tương dị dã. Hà dĩ cố? Thế Tôn! Phi thật sanh cố. Thị nhị nam tử bổn tánh Không
cố, đẳng đồng ư huyễn”. “Như thị Bí Mật Chủ! Ý sanh chúng sự cập ý sở sanh, như
thị câu Không, vô nhị, vô biệt”.
(經)祕密主!云何從意生?意能生影像。祕密主!譬如若白若黃若赤,作意者作時染著意生,彼同類如是身轉。祕密主!又如內觀意中漫荼羅療治熱病,彼眾生熱病即時除愈無有疑惑。非漫荼羅異意,非意異漫荼羅。何以故?彼漫荼羅一相故。祕密主!又如幻者幻作男子,而彼男子又復作化。祕密主!於意云何?彼何者為勝?時,金剛手白佛言:世尊!此二人者,無相異也。何以故?世尊!非實生故。是二男子本性空故,等同於幻。如是祕密主,意生眾事及意所生,如是俱空,無二無別。
(Kinh:
“Bí Mật Chủ! Thế nào là từ ý mà sanh? Ý có thể sanh ra
hình ảnh. Bí Mật Chủ! Ví như là trắng, hay vàng, hay đỏ, hễ tác ý khởi lên, ý đắm
nhiễm sẽ sanh, chuyển thân cũng có một nguyên tắc như thế đó. Bí Mật Chủ! Lại
như nội quán Mạn-đồ-la trong ý để chữa trị bệnh nhiệt, bệnh nhiệt của chúng
sanh ấy lập tức khỏi hẳn, chẳng có nghi hoặc. Chẳng phải là Mạn-đồ-la khác ý,
chẳng phải là ý khác Mạn-đồ-la. Vì sao vậy? Do ý ấy và Mạn-đồ-la cùng một tướng.
Bí Mật Chủ! Lại như huyễn nhân huyễn hóa một nam tử, nam tử ấy lại biến hóa. Bí
Mật Chủ! Ý ông nghĩ sao? Trong bọn họ, ai hay hơn?” Khi đó, ngài Kim Cang Thủ bạch
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Hai người ấy chẳng khác nhau. Vì sao vậy? Bạch Thế
Tôn! Do họ chẳng thật sanh. Do hai người nam ấy tánh vốn là Không, do đều giống
như huyễn”. “Đúng như vậy, Bí Mật Chủ! Ý sanh ra các việc và những thứ được
sanh bởi ý, hai đằng đều là
không, chẳng hai, chẳng khác”).
Bí Mật Chủ! Thế nào là ý và ý sanh? Do
hình ảnh có thể sanh! “Thông đạt”
nghĩa là “chứng quả”, đạt tới
chỗ sẽ đạt đến. Hãy nên nói sự thông đạt ấy là “chứng”. Bí Mật Chủ quán điều này, giống như thí dụ về cái gương
trong phần trước. Khi gương sáng trong tâm hiện hình bóng, chẳng có phân biệt,
[bởi các hình tượng ấy] chỉ từ duyên khởi. Nay quán pháp ấy, từ gương sanh ra
ư? Hay từ mặt sanh ra? Tìm tòi như thế, [sẽ thấy các hình tượng ấy] đều chẳng
có thật xứ (chẳng có thực chất). Nếu do gương mà có, dẫu không có mặt, [hình
bóng] vẫn nên thường có. Nếu từ mặt mà có, dẫu không có gương, cũng phải nên là
chẳng không có [hình bóng]. Nhưng chúng đều chẳng thể được; vì thế biết chỉ do
duyên mà có, nhưng thật sự thường không. Đấy là pháp. Do quán pháp này mà được
thành tựu “chứng huệ”, nhưng huệ
ấy vĩnh viễn dứt bặt hý luận, chẳng thể phô bày, bàn nói. Nếu chẳng nói, chẳng
độ người khác, lại là trái nghịch bổn nguyện. [Do vậy], lại từ chứng trí, vẫn
sanh ra pháp duyên, từ Phật nhân mà thấy pháp thành Phật. Đã thành Phật rồi lại
thuyết pháp, cũng có thể từ cái duyên sanh này mà lại thành pháp.
“Ví
như trắng, vàng, đỏ, khi khởi lên ý niệm thì ý đắm nhiễm cũng nẩy sanh, thân
cũng chuyển theo cùng một nguyên tắc ấy”, ý nói: Ngài Bí Mật Chủ quán
pháp, quán tướng không tịch của pháp tánh. Do vậy, duyên theo tướng ấy, dùng huệ
để có thể thông đạt. “Pháp” là
pháp lìa các tướng, pháp chính là duyên. Do quán điều này, nhập pháp tánh mà
thông đạt pháp. Nếu thông đạt pháp, tức là thấu đạt duyên. Thấu đạt duyên tức
là thấu đạt pháp, phát khởi lẫn nhau, cùng biết pháp không tịch chính là thấu đạt
pháp. Do có phân biệt dấy lên, biết pháp là không, vô trí duyên, duyên nương
vào pháp, pháp nương vào duyên, duyên khởi lẫn nhau. Đó gọi là “các pháp tánh Không”. Nếu pháp là tánh Không như thế, cớ
sao từ ý sanh khởi nguyện? Theo kinh văn, “chúng đều chẳng trụ trong tánh Không”.
Bí Mật Chủ! Vì sao ý có thể sanh ra ảnh
tượng? Bí Mật Chủ! Ví như nếu suy nghĩ [một vật nào đó] là trắng, là vàng, hoặc
đỏ; đấy chính là nêu thí dụ. Như người lúc mắt mới thấy màu trắng thì không biết
rõ. Kế đó, liền sanh tâm phân biệt; đấy có phải là duyên hay chăng? Trong phần
trước không hỏi, chẳng phải là ngài Kim Cang Thủ không biết, chỉ vì chúng sanh
mà Ngài thốt lên lời nghi vấn. Nếu là như thế, ý ấy sanh từ tâm, ai có thể biết?
Đức Phật bèn nói thí dụ, ví như màu trắng. Do vì lẽ nào? Do nó khác với các màu
xanh, vàng v.v… Tâm sanh ra sự hiểu biết ấy, đó chính là khởi [tâm động niệm],
từ tâm mà sanh ra tâm. Thế gian còn là như thế; hãy nên biết từ nhiễm tâm sanh
ra tịnh tâm cũng như thế. “Ý đắm nhiễm
sanh khởi” là như khi thấy màu trắng, tâm hiểu là màu trắng; do màu trắng
ấy, khiến cho tâm cũng trắng. Như tỳ-kheo quán màu trắng, thấy hết thảy cũng là
trắng. Thấy màu xanh thì hết thảy cũng đều xanh. Khi tưởng thì thì đối với màu
trắng bèn tưởng [hết thảy đều là] màu trắng, do ý thành tựu vậy. Thức tâm sanh
từ cái tâm trắng, chẳng từ bên ngoài dấy lên. Như người khi quán màu trắng, sẽ
thấy hết thảy là trắng. Như kinh Nguyệt Đăng Tam Muội[2]
nói: “Như nữ nhân hảo tự trang nghiêm,
chiếu kính tự kiến, hoàn tự sanh ái trước. Nhược trí giả quán thử tùng hà sanh?
Hà lai xứ? Nhất nhất quán chi, bất khả đắc dã” (Như người nữ thích tự
trang điểm, soi gương để tự thấy, vẫn là tự sanh lòng yêu đắm [đối với hình
bóng của chính mình trong gương]. Nếu bậc trí nhìn vào đó, sẽ thấy [hình bóng
trong gương] từ gì mà sanh? Từ nơi nào đến? Quán mỗi mỗi điều đều là chẳng thể
được!) Do vậy nói: “Hình ảnh sanh từ
tâm vẫn tự nhiễm”. Nếu biết rõ đấy chỉ là từ duyên sanh, ắt chẳng đắm
nhiễm. Dùng đó để chứng chính mình thì là “tự tâm sanh từ tâm”. “Chuyển
thân” giống như thế (tức là từ các pháp quán tưởng mà thấy hình tướng
chư tôn, rồi từ các hình tướng ấy lại quán tự thân mình chính là bổn tôn), đó gọi
là “đồng nữ tự thấy thân mình”.
Nếu nhiễm thì tức là sanh tử; nếu tương xứng với “chỉ từ duyên sanh, chẳng có tự tánh” thì chính là Niết Bàn. Vì
thế nói “thân đồng loại chuyển”
(chuyển biến cái thân cũng theo cùng một loại, tức là theo cùng một nguyên tắc).
Từ câu “nội quán ý trung” (nội quán từ trong ý) trở đi là phần kệ tụng.
Bí Mật Chủ! Lại như nội quán Mạn-đồ-la trong ý để trị bệnh nhiệt. Bệnh nhiệt của
các chúng sanh ấy liền trừ, tức là trong khoảng một sát-na [liền lành bệnh].
[Nơi hội Pháp Hoa], trong sát-na [long nữ phát Bồ Đề tâm, thành Phật], [đại
chúng đối với] Đề Bà Đạt Đa chẳng còn nghi nữa. Chẳng phải là ý khác Mạn-đồ-la,
chẳng phải là Mạn-đồ-la khác ý. Vì lẽ nào vậy? Ý đó và Mạn-đồ-la là một tướng! “Tác ý” (Khởi lên ý niệm) là như quán xanh, vàng,
đỏ, trắng v.v… Như tu Thập Biến Xứ[3]
v.v… khi tưởng màu xanh, hết thảy đều xanh. Màu xanh ấy chỉ do tâm mà sanh. Do
tác ý lâu ngày, ý sẽ có thể sanh, sắc ấy tùy tâm mà hiện. Tâm đã có thể duyên,
có thể sanh ra loại ấy. “Nhiễm”
có nghĩa là “chấp thủ”. Hãy nên
biết ý sanh từ tâm, có cùng loại với nó. Tâm đã là như thế, thân và ngữ cũng thế.
Kế đó, lại dẫn thí dụ. Lại như Mạn-đồ-la
được khởi lập trong ý, tưởng nó có hình tam giác v.v… giống như trong phần trên
đã nói. Lại như phương tiện để trừ nhiệt thì làm Mạn-đồ-la hình tròn, màu trắng.
Trong ấy có chữ Vãm, hoặc trên chữ chủng tử đặt cái chấm. Những điều khác có thể
hiểu tương tự. Cái chấm ấy chính là trừ nhiệt não, là cam lộ vị. Do làm pháp
này, do từ tâm mà làm, nên có thể trừ nhiệt. Cho đến trong khoảng sát-na, bệnh ấy
liền trừ, do nó từ tâm mà khởi! Hãy nên biết cái tâm ấy chẳng khác Mạn-đồ-la, Mạn-đồ-la
chẳng khác tâm. Vì chúng là một tướng! Nói “Mạn-đồ-la ấy và tâm chẳng hai, chẳng khác”, nay pháp này cũng
có thể hiểu như thế.
Kế đó, đức Phật lại dẫn thí dụ: “Như huyễn hóa thành nam tử”. Bí Mật Chủ! Lại như những người ảo
thuật biến hóa ra nam tử. Kế đó, huyễn nam tử lại biến hóa. “Ý ông nghĩ sao?
Này Bí Mật Chủ! Ai giỏi hơn?” Ngài Kim Cang Thủ thưa: “Hai người ấy chẳng khác nhau. Do vì lẽ nào vậy? Bạch Thế Tôn! Do họ chẳng
thật sự sanh. Hai người nam ấy bổn tánh là Không, cùng giống như huyễn”.
[Đức Phật bảo]: Đúng như thế đó, Bí Mật Chủ! “Sự” là các việc như Tất Địa v.v… “Đẳng” có nghĩa là nhiều. Ý nói: Các sự được sanh bởi ý đều do ý
mà sanh, tánh của hai đằng đều là Không, chẳng phân biệt (tức là chẳng hai, chẳng
khác). Do ý và cái được sanh bởi ý, cả hai đều là Không, chẳng hai, chẳng khác.
Hóa nhân lại biến hóa, trong hai thứ huyễn như thế, thứ gì cao hơn? Thứ nào trội?
Thứ nào kém? Thứ nào dài? Thứ nào ngắn? Thứ nào đẹp? Thứ nào xấu? Kinh nói “thùy thắng” (ai hơn?) tức là hỏi
trong hai thứ huyễn ấy, thứ nào tôn thắng? Câu trả lời là “cả hai thứ ấy chẳng khác nhau!” Vì cớ
sao vậy? Do chúng đều từ chẳng thật mà sanh! Bản tánh của cả hai đều là Không.
Phàm do huyễn mà biến hiện huyễn, vậy thì huyễn nhân biến hiện huyễn sự và người
biến ra huyễn nhân ấy có sai khác gì? Do vậy, đức Phật bảo rằng: “Ông hãy nên quán pháp này, như từ tấm gương
tròn sanh nơi tâm. Tâm chính là gương, gương chính là tâm, chẳng hai, chẳng
khác, chẳng thể luận định tướng sai biệt được!” Nếu nhiễm tâm (tâm đắm
trước vào tướng sanh bởi tâm) thì chính là thế gian. Nếu tâm lìa nhiễm thì
chính là tâm xuất thế gian.
Trên đây là phẩm Địa Vị Của Trăm Chữ.
Do nói chưa rõ ràng, nên cần phải hỏi thêm. Nhưng đại ý của phẩm này là: Trước
tiên, do tu Du Già nên thành tựu, cho đến phổ biến rộng khắp cực đại. Nhưng nếu
chẳng dùng huệ phương tiện để quán Thật Tướng của Không nhằm gột rửa cái tâm,
thì vẫn là pháp thế gian. Vì thế, cần phải tu quán hạnh này, khiến cho [hành
nhân] nhập Thật Tướng của Mạn-đồ-la, trở thành đàn tràng Đại Không, không gì chẳng
có, thường hằng rốt ráo thanh tịnh. Đấy chính là đại lược [nội dung của phẩm
này] vậy!
[1] Bát Bất
là tám chữ do đại sư Long Thọ dùng để tóm gọn ý nghĩa của tánh Không trong kinh
Đại Bát Nhã khi soạn bộ Trung Luận: Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất
nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Khi truyền sang Trung Hoa, Bát Bất trở thành
giáo nghĩa trọng yếu của Tam Luận Tông. Nguyên văn bài kệ trong Trung Luận như
sau: “Bất diệt diệc bất khởi, bất sanh diệc bất diệt, bất đoạn diệc bất thường,
bất thường diệc bất đoạn. Phi nhất, phi chủng chủng, bất nhất diệc bất dị. Bất
lai diệc bất khứ, bất lai diệc bất xuất” (Chẳng diệt cũng chẳng khởi, chẳng
sanh cũng chẳng diệt. Chẳng đoạn cũng chẳng thường, chẳng thường cũng chẳng đoạn.
Chẳng một, chẳng các thứ, chẳng một cũng chẳng khác. Chẳng đến cũng chẳng đi,
chẳng đến cũng chẳng ra).
[2] Nguyệt
Đăng Tam Muội Kinh (Candrapradīpasamādhi sūtra) còn có tên gọi là Tam Ma Địa
Vương Kinh, được xếp vào Đại Tập Bộ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Trong
kinh này, đức Phật vì Nguyệt Quang đồng tử (Candraprabha Kumāra) dạy môn tam-muội
Nhất Thiết Chư Pháp Thể Tánh Bình Đẳng Vô Hý Luận. Kinh này sau khi được dịch
ra tiếng Hán không được phổ biến tại Trung Hoa và Nhật Bản cho lắm, nhưng tại Ấn
Độ, Nepal, Tây Tạng, kinh này được coi là tài liệu trọng yếu để nghiên cứu
Trung Quán, và được trích dẫn rất nhiều bởi các vị luận sư như Nguyệt Xứng
(Chamndarkirti), Tịch Thiên (Shantideva). Phái Kargyupa của Tây Tạng coi kinh
này là cơ sở cho phép tu Đại Thủ Ấn của họ. Kinh này được dịch sang tiếng Hán bởi
các vị Na Liên Đề Da Xá (Narendrayaśas) và Đạt Ma Xà Na (Dharmajñāna) vào năm
Thiên Bảo thứ tám (557) nhà Cao Tề.
[3] Thập Biến
Xứ (Daśakrtsnāyatanāni) còn gọi là Thập Nhất Thiết Nhập, Thập Nhất Thiết Xứ, Thập
Biến Nhập, Thập Biến Xứ Định, tức là nương theo thắng giải mà tác ý, quán mười
pháp như sắc v.v… đều trọn khắp hết thảy các nơi, chẳng hề có kẽ hở. Mười pháp
tức là đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, không và thức. Pháp quán này
nhằm giúp cho các hành giả tu bát giải thoát, bát thắng xứ, sẽ đạt được tướng
thanh tịnh đối với các pháp như sắc v.v…
Comments
Post a Comment