Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
19. Phẩm thứ mười chín: Sanh ra
trăm chữ
Bách Tự Sanh Phẩm Đệ Thập Cửu
百字生品第十九
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát chư đại hội chúng, thuyết
bất không giáo, tùy lạc dục, thành tựu nhất thiết chân ngôn tự tại, chân ngôn
chi vương, chân ngôn đạo sư, đại oai đức giả, an trụ tam tam-muội-da, viên mãn
tam pháp cố, dĩ diệu âm thanh, cáo Đại Lực Kim Cang Thủ ngôn: “Cần Dũng Sĩ! Nhất
tâm đế thính chư chân ngôn, chân ngôn đạo sư”. Tức thời, trụ ư Trí Sanh tam-muội,
nhi thuyết Xuất Sanh Chủng Chủng Xảo Trí Bách Quang Biến Chiếu chân ngôn viết:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám”.
(經)爾時,毘盧遮那世尊觀察諸大會眾,說不空教,隨樂欲成就一切真言自在、真言之王、真言導師、大威德者、安住三三昧耶,圓滿三法故、以妙音聲告大力金剛手言:勤勇士一心諦聽諸真言、真言導師。即時,住於智生三昧,而說出生種種巧智百光遍照真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát các đại chúng trong hội, nói giáo
pháp bất không, thuận theo sự ưa muốn [của đại chúng] mong thành tựu hết thảy
chân ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư, bậc đại oai đức an trụ
trong ba món tam-muội-da, do viên mãn ba pháp, dùng âm thanh mầu nhiệm bảo Đại
Lực Kim Cang Thủ rằng: “Cần Dũng Sĩ! Hãy nhất tâm lắng nghe chân ngôn đạo sư của
các chân ngôn”. Ngay lập tức, đức Phật trụ trong Trí Sanh tam-muội, bèn nói
chân ngôn Sanh Ra Đủ Loại Trí Khéo, Trăm Quang Minh Chiếu Trọn Khắp rằng: “Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, aṃ”).
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán
sát các đại chúng hội, dạy về Bất Không Tất Địa, nói giáo pháp bất không, tùy
lòng ưa muốn [của thính chúng] mà thành tựu hết thảy. Chân ngôn tự tại, chân
ngôn vương, chân ngôn đạo sư trọn đủ oai đức to lớn, an trụ trong ba món tam-muội-da,
do viên mãn ba pháp (địa vị an trụ này như ngồi, nằm, hoặc đứng trên cỗ xe vậy),
dùng âm thanh mỹ diệu, bảo Đại Lực Kim Cang Thủ rằng: “Cần Dũng Sĩ! Hãy nhất tâm lắng nghe chân ngôn đạo sư của hết thảy các
chân ngôn”. Ngay lập tức, đức Phật trụ trong Trí Sanh tam-muội, thuận
theo sự ưa thích [của hết thảy đại chúng trong pháp hội], nói hết thảy chân
ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư đại oai đức do viên mãn ba món
tam-muội-da mà bảo ban. Trên đây là [tóm lược ý] của chánh kinh. Trong các phần
trước, tuy đã nói đủ loại phương tiện của chân ngôn, nhưng vẫn chưa trọn đủ,
nên lại nói thêm. Do vậy, đức Phật quán sát đại hội, soi rõ tâm cơ của họ, [biết
rõ] trọn khắp đại chúng trong ấy đều là chân thật, kham làm pháp khí, Ngài lại
vì họ nói. Lại còn dùng thần lực chẳng thể nghĩ bàn để gia trì họ, khiến cho họ
đắc pháp lực, kham nghe diệu pháp này. Vì thế, quán sát họ.
Các chân ngôn như trong các phần trước
đã rộng nói. Ở đây là chữ
Ám (Aṃ), tức tâm chú của hết thảy các chân ngôn, là thượng thủ bậc
nhất trong hết thảy các chân ngôn. Hãy nên biết đấy chính là chân ngôn thuộc
giáo pháp Bất Không. Bất Không là hết thảy chúng sanh hễ thấy, nghe, tiếp xúc,
hay biết, không ai bỏ lỡ, mà đều sẽ nhất định trụ trong Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế,
gọi là Bất Không. Lại nữa, thuận theo thiện nguyện của họ mà đều được trọn đủ,
cho đến đại Bồ Đề nguyện của chúng sanh cũng có thể thỏa mãn, như đại bảo vương
ở trên tràng cao, trọn đủ hết thảy. Vì thế, gọi là Bất Không.
“Nhất
thiết chân ngôn tự tại” (Tự tại trong hết thảy các chân ngôn): Giống như Như Lai là
vua của các pháp, tự tại trong các pháp. Nay chân ngôn này cũng giống như thế,
được tự tại trong hết thảy các chân ngôn. Do nhân duyên này, lại được gọi là Chân
Ngôn Vương. Lại gọi là Chân Ngôn Đạo Sư, như nhiều người vào biển nương theo vị
đạo sư (người hướng dẫn), thậm chí có người đến được [chỗ có của báu], đạt được
khối báu lớn đem về thọ dụng. Chân ngôn vương này cũng giống như thế, là đạo sư
của hết thảy các chân ngôn. Chân ngôn đạo sư tức là đấng cứu thế. Ý nói: Chân
ngôn này giống như Phật. Lại còn trọn đủ đại oai đức, sức thần thông bí mật tự
tại của Như Lai đều do đây mà sanh ra. Nếu hành giả có thể hành đúng như pháp,
tức là cũng giống như chân ngôn này mà đạt được như thế.
“Tam
tam-muội-da tòa” tức là ba môn tam-muội-da thuộc thân, khẩu, ý. Miệng niệm
chân ngôn, thân kết pháp ấn, tâm quán Bổn Tôn, nay tức là kim cang tòa. Ba pháp
viên mãn tức là lý, hạnh, quả. Giáo tức là những điều đã nói trong phần trước.
Nay từ trong giáo, viên mãn ba pháp này, rốt ráo chẳng thừa sót. Đức Phật phát
ra diệu âm, bảo ngài Kim Cang Thủ: “Ta
nói pháp này, ông là bậc dũng sĩ đại lực, hãy nhất tâm nghe kỹ”. Đáng lẽ phải nói trong các phẩm chân
ngôn trước, sao lại chẳng nói? Cho tới tận đây mới nói, [dụng ý là] khiến cho
người câu nệ kinh văn bị u mê vậy. Đức Phật sẵn lòng đại bi, sao không nói rõ
mà mê hoặc chúng sanh vậy? Đáp rằng: Chẳng phải là keo tiếc! Chỉ vì trong thế
gian có các luận sư, tự cậy lợi căn mà phân biệt, dùng trí lực để nói các pháp
tướng, do thông đạt văn tự, do tâm kiêu mạn nên chẳng thuận theo thầy, tự tiện
tìm tòi trong kinh liền muốn tự hành. Nhưng pháp này vi diệu, nếu chẳng nương
theo bậc đạo sư sáng suốt, sẽ trọn chẳng thể thành. Lại sợ họ vọng động hành
trì, tự tổn, tổn người. Nếu ẩn tàng phần kinh văn này, khiến cho họ dùng trí lực
của mình chẳng thấu hiểu được, sẽ bỏ lòng kiêu mạn mà nương theo thầy. Do nhân
duyên này, sẽ chẳng sanh nhân duyên phá pháp; do vậy, cần phải như thế đó!
Đức Phật sắp nói chân ngôn đạo sư này,
liền trụ trong Xảo Trí Sanh tam-muội, tức là tam-muội này có thể sanh ra trí phổ
môn thiện xảo của Như Lai, cho nên gọi tên như thế. “Nói Bách Quang Biến Chiếu chân ngôn” tức là từ một chữ mà tỏa
ra quang minh trăm pháp chiếu tỏa trọn khắp. Chữ này nếu dịch là Biến (遍: trọn khắp), cũng chẳng
đúng lý cho lắm. Nếu dịch là Phóng Quang, thì ý nghĩa Phóng Quang cũng chưa trọn
hết, phần lớn là ý nghĩa “tỏa ra trọn
khắp”. Ánh sáng trăm oai đức này cũng từ đó mà ra. Trong chân ngôn này,
trước hết là quy mạng hết thảy chư Phật rồi mới nói. Chân ngôn này của Kim Cang
Thủ là bậc chân ngôn cứu thế, oai đức to lớn. Phật chính là đấng Mâu Ni tự tại
trong hết thảy các pháp!
(Kinh) Phật cáo Kim Cang Thủ: - Thử nhất thiết chân ngôn, chân vương cứu
thế giả, thành tựu đại oai đức, tức thị Chánh Đẳng Giác, pháp tự tại Mâu Ni,
phá chư vô trí ám, như nhật luân phổ hiện, thị ngã chi tự thể. Đại Mâu Ni gia
trì, lợi ích chúng sanh cố, ứng hóa tác thần biến, nãi chí linh nhất thiết, tùy
tư nguyện sanh khởi, tất năng vi thi tác, thần biến vô thượng cú. Cố đương nhất
thiết chủng, tịnh thân ly chư cấu, ứng lý thường cần tu, chí nguyện Phật Bồ Đề.
(經)佛告金剛手:此一切真言,真王救世者,成就大威德,即是正等覺,法自在牟尼。破諸無智暗,如日輪普現,是我之自體,大牟尼加持,利益眾生故,應化作神變。乃至令一切,隨思願生起,悉能為施作,神變無上句。故當一切種,淨身離諸垢,應理常勤修,志願佛菩提。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Chân ngôn vương cứu đời, trong hết thảy chân
ngôn, thành tựu oai đức lớn, tức là Chánh Đẳng Giác, pháp tự tại Mâu Ni, phá
các tối vô trí, như mặt trời hiện khắp, là tự thể của ta. Đại Mâu Ni gia trì,
vì lợi ích chúng sanh, ứng hóa, hiện thần biến, cho tới khiến hết thảy, theo tưởng
nguyện sanh khởi, đều có thể thực hiện, câu thần biến vô thượng. Vậy nên, hết
thảy loài, tịnh thân, lìa các cấu, ứng lý, thường siêng tu, chí nguyện Phật Bồ
Đề).
Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: “Trong
hết thảy các chân ngôn, chân ngôn cứu thế này thành tựu oai đức to lớn, tức là
Đẳng Chánh Giác, là đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp (tức là “tự tại trong hết thảy các pháp”),
phá tan các tối tăm do vô trí, như vầng mặt trời hiện khắp, tức là do được tự
thể Đại Mâu Ni của ta gia trì, ứng hiện tạo thần biến (kinh văn ở đây nói là “biến hóa”, tức là thực hiện sự biến
hóa), thuận theo lòng mong muốn mà lợi ích chúng sanh, cho đến hết thảy đều thuận
theo “tư nguyện” mà sanh khởi,
tức là thuận theo tâm họ suy nghĩ, mong nguyện, liền được sanh khởi, đều có thể
thực hiện câu vô thượng thần biến ấy. Do vậy, trong hết thảy các điều thù thắng
(tức là trong hết thảy các mong muốn, trong các điều ước muốn), trong hết thảy
các sự, không gì bằng cầu “câu Chánh
Giác” này. Vì thế, trong hết thảy các loại thân thanh tịnh lìa các chướng,
theo đúng lý, thường siêng tu, cầu câu Chánh Đẳng Giác. Thân thanh tịnh, lìa
chướng, tức là hành giả tự tịnh hóa thân mình, khiến cho lìa hết thảy các chướng
mà tu hành. “Nhất thiết chủng”
tức là tu trong hết thảy các phương tiện, sắc loại. Phá tan hết thảy tối tăm vô
trí, cùng thấy vầng mặt trời hiện ra; đấy chính là do ta gia trì. Đại Mâu Ni thực
hiện biến hóa nhằm lợi ích chúng sanh, cho đến đối với các tâm tư khởi lên của
các chúng sanh ấy, khiến cho nó phát sanh, thường vì họ thực hiện câu biến hóa
tối thượng này. Do vậy, siêng tu hết thảy các loại phương tiện dục, theo đúng
lý hãy nên thanh tịnh ta. Trên đây là [đại lược ý nghĩa của] phần kinh văn. Chân
ngôn này giống như bậc cứu thế, tức là Phật. Nó có oai đức to lớn, tức là oai
thần của Như Lai. Chân ngôn này chính là đấng Mâu Ni tự tại trong hết thảy các
pháp; đấy chính là biệt danh của đức Tỳ Lô Giá Na. Ánh sáng từ huệ phương tiện
của chân ngôn này có thể phá hết thảy tối tăm do vô trí, giống như khi vầng mặt
trời to lớn hiện ra, các tối tăm tự diệt, vì trọn khắp hết thảy chúng sanh mà
nhanh chóng trừ diệt hết thảy tối tăm vô minh. Hãy nên biết chữ này do chính ta
gia trì, tức là giống như ta, chẳng khác gì ta. “Ta” tức là tự thể của Phật. Ta do môn Chân Ngôn này, tùy loại
hiện trọn khắp các sắc thân. Hết thảy các loài chúng sanh trong khắp pháp giới,
tùy theo các loại thân mà họ thích thấy, sẽ có thể cùng lúc hiện trọn khắp các
thân ấy, thuận theo tâm họ mong muốn mà vì họ thị hiện. Không chỉ hiện thân mà
thôi, mà còn do [chúng sanh] tâm nguyện, suy tưởng vô lượng khác biệt, cho đến
trong khoảnh khắc có vô lượng mong muốn, ưa thích, thảy đều có thể thỏa nguyện
cho họ. Vì thế nói là “tư phát trí” (trí
sanh khởi do suy nghĩ). Lại còn
phát khởi cơ duyên nhập đạo cho họ, cho nên nói là “phát trí”. “Trụ vị”
là trụ trong câu tối thượng này. Do vậy, đối với đủ loại câu phương tiện ấy,
hãy nên siêng tu học. Nếu tu, sẽ thanh tịnh ta, tức là Tỳ Lô Giá Na.
Nhưng trong tự luân, ở phần trong cùng
nhất, đặt chân ngôn vương này. Luân kế đó ở bên ngoài gồm mười hai chữ, tức là
từ chữ Y (ī) tới chữ Áo (au), gồm
mười hai âm tam-muội. Kế đó, ở ngoài xếp một trăm chữ, trước tiên là từ chữ Ca
(क, Ka) v.v… gồm hai mươi lăm chữ. Kế đó là chữ Kā (का) v.v… hai mươi lăm
chữ, rồi đến chữ Kaṃ (कं) v.v… gồm hai mươi lăm chữ. Trong ấy,
các chữ Nga, Nhã, Noa, Na, Ma có cái chấm Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi.
Vì thế, cùng được xếp đặt (lại có cách giải thích khác như sau: Năm chữ ấy được
xếp vòng quanh ở ngoài hai mươi lăm chữ). Nếu xếp thành năm tầng thì hai mươi
lăm chữ từ chữ Ka là tầng thứ nhất, các chữ như Kā là tầng thứ hai, các chữ như
Kaṃ là tầng thứ ba. Các chữ như Kaḥ là tầng thứ tư cũng được (cần phải hỏi thêm
vì ý chưa trọn hết). Thứ tự xếp đặt các chữ xoay theo bên phải, tức chiều xoay
của mặt trời. Phẩm kế tiếp sẽ nói về cái quả của Chân Ngôn Vương này.
Comments
Post a Comment