Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
5. Phẩm
thứ năm: Thế Gian Thành Tựu
Thế Gian Thành Tựu Phẩm Đệ Ngũ
世間成就品第五
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, nhi
thuyết kệ ngôn: - Như Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả, đương tự tự
tương ứng, cú cú diệc như thị, tác tâm tưởng niệm tụng, thiện trụ nhất lạc-xoa,
sơ tự Bồ Đề tâm.
(經)爾時,世尊復告執金剛祕密主而說偈言:如真言教法,成就於彼果,當字字相應,句句亦如是,作心想念誦,善住一洛叉,初字菩提心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Như
giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu nơi quả ấy, nên mỗi chữ tương ứng, từng câu cũng
như thế, vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa. Chữ đầu Bồ Đề tâm).
Trong phần trước, [ngài Kim
Cang Thủ Bí Mật Chủ] đã thưa hỏi đức Phật, do tiếp nối lời giải đáp trong phần
trước, nên [ở đây, đức Phật] không hỏi mà tự nói. “Như Chân Ngôn giáo pháp, thành tựu ư bỉ quả” (Như giáo pháp Chân Ngôn, thành tựu cái quả ấy): Hành nhân Chân Ngôn vâng
theo đúng giáo pháp, nương theo chánh giáo để tu pháp hạnh; do khéo hành hạnh ấy,
đắc quả Tất Địa. Ý Phật là: Nếu có chúng sanh muốn được thành tựu đại quả như
trên, trước hết nên nương theo thứ tự [được nói] trong phẩm này để tu hành. Đó
chính là chỗ đặt chân ban đầu vậy!
“Đương tự tự tương ứng, cú cú diệc như thị. Tác tâm tưởng niệm tụng,
thiện trụ nhất lạc-xoa, sơ tự Bồ Đề tâm” (Nên mỗi chữ tương ứng, từng
câu cũng như thế. Vận tâm tưởng niệm tụng, khéo trụ một lạc-xoa, chữ đầu Bồ Đề
tâm): Mỗi chữ như trên đều có ý nghĩa. Từ chữ ấy, nhập môn Thật Tướng, tức là
[nói tới] chữ [trong mỗi bài] chân ngôn. Lại nữa, các chữ ấy hợp thành câu, bèn
có “cú nghĩa” (ý nghĩa của mỗi
câu). Câu ấy nói thẳng vào cái Thể của Thật Tướng. Vì thế, hành giả trì Chân
Ngôn, ắt phải sao cho từng chữ đều tương ứng, từng câu đều tương ứng. Hoặc trụ
trong chữ chủng tử nơi tâm, hoặc tưởng chân ngôn trở thành hình vòng tròn, hoặc
như hình tràng hoa, hoặc như viên châu được treo, sáng sạch, vô cấu, tuần hoàn
liên tục, chẳng gián đoạn. [Tưởng] như thế, sao cho hiện tiền rành rẽ xong, tưởng
chân ngôn luân (các chữ trong chân ngôn kết thành vòng tròn) ấy sáng suốt, trắng
trong như sữa tinh thuần, lần lượt tuôn trào chẳng ngưng dứt, lọt vào trong miệng
[của người trì chú], từ trên xuống dưới, rưới trọn khắp hạ phẩm (phần dưới thân
thể), đầu đuôi liên tiếp, lôi kéo lẫn nhau, rót vào trong thân, tưới trọn khắp
thân tâm, tưới tắm các thân phần. Do nhân duyên ấy, có thể khiến cho các chướng
nơi thân tâm của hành giả thảy đều thanh tịnh.
Nói “một lạc-xoa” chính là ẩn ngữ. Phải hiểu theo biệt ý của tiếng
Phạn, tức [lạc-xoa (lakṣa)] có nghĩa là “nhất kiến”
(vừa trông thấy), [hàm nghĩa] “giữ cho cái tâm trụ trong cảnh ấy, một
duyên bất loạn, từng chữ tương ứng, từng câu cũng tương ứng”. Tưởng mỗi
chữ ấy trong sáng, trắng sạch, thấu triệt như minh châu thanh tịnh. Mỗi chữ lại
đều rõ rệt, đều có vầng sáng bao quanh trọn khắp như tràng hoa, theo thứ tự
không ngừng rót vào tâm, như tưới rảy cam lộ. Khi duyên tưởng chuyên nhất như
thế, giả sử có đủ loại chướng dấy lên, hoặc hiện ra hình tượng hết sức đáng sợ,
những kẻ tán tâm trông thấy sẽ cuồng loạn. Hoặc phát ra âm thanh to lớn, giả sử
núi chúa cũng có thể bị phá nát. Khi có các chuyện như thế, hành giả trụ trong
tâm Bồ Đề chân thật dũng kiện, nhất duyên bất động, chẳng có lấy, bỏ. Vì thế
nói là “trụ trong nhất kiến”. Nếu chẳng vậy, dẫu trải qua trăm
năm, tụng trọn ngàn vạn lạc-xoa (lạc-xoa hiểu theo nghĩa đen là “mười vạn”), vẫn
chẳng có thành tựu, huống hồ [chỉ tụng niệm] một lạc-xoa ư?
Hơn nữa, chữ ấy chính là Bồ
Đề tâm. Do mỗi chữ liền nhập môn Thật Tướng, đều đạt được cái Thể của pháp giới.
Chữ Tự như đã nói, tiếng Phạn là A Sát Lam, A có nghĩa là “bất hoại”, tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh.
Hành môn như thế chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Nếu chẳng trừ cấu, Bổn Tôn
tam-muội sẽ không do đâu mà hiện tiền được! Do vậy, hành giả khiến cho mỗi chữ
đều tương ứng với Bồ Đề tâm thanh tịnh.
(Kinh) Đệ nhị danh vi thanh, cú tưởng vi Bổn Tôn, nhi ư tự xử tác.
(經)第二名為聲,句想為本尊,而於自處作。
(Kinh: Thứ hai chính là thanh, tưởng câu là Bổn
Tôn, tự trụ để tác pháp).
Lại nên quán tưởng âm thanh của từng chữ, từng câu chân ngôn, theo thứ tự
như trên mà liên tục xoay tròn không ngừng. Mỗi một âm thanh đều rõ ràng, như
là âm thanh của linh, khánh, gió, phạm chung (hồng chung) theo thứ tự chẳng đoạn,
nhập vào thân, trọn khắp trong cơ thể. Do nhân duyên ấy, có thể quét sạch cấu
trược trong thân tâm, như lúc lửa bốc lên, các trần đều hết sạch. Tâm cũng nên
khéo trụ trong một cảnh bất loạn. Giả sử có đủ loại cảnh giới thì cũng như trên
đã nói. Lại nữa, ý nghĩa trong mỗi câu chính là cái Thể của Bổn Tôn. Trước hết,
tưởng Bổn Tôn rõ ràng; kế đó, tự quán thân chính mình giống như Bổn Tôn, khiến
cho trong lẫn ngoài đều sáng tỏ. Quán chữ chân ngôn chính là thân chân ngôn,
quán âm thanh nơi chân ngôn chính là Chân Ngôn Chủ, ý nghĩa của mỗi câu chính
là cái Thể của chân ngôn, tức là chân ngôn tâm. Câu là chỗ quy hướng của ý
nghĩa, tức là cái tâm của Bổn Tôn. Thân, ngữ, ý thanh tịnh thì ba sự thanh tịnh
bình đẳng, ví như trong có mắt sáng, ngoài có cảnh thanh tịnh, lại chẳng có ám
chướng. Do ba sự bình đẳng, nên hiện tiền rõ rệt. Do ba sự bình đẳng, nên thân
khẩu, ý đều trụ trong “nhất kiến”.
Do các duyên đầy đủ, sẽ có niềm vui thành tựu. Ba sự ấy bình đẳng, thấy rõ Bổn
Tôn, cho nên tự ở trong ấy để tác pháp. Lại còn chính là tự quán thân này cũng
giống như Bổn Tôn, do ba sự bình đẳng, mà gọi là “thành tựu thế gian”. Lúc
bấy giờ, Bổn Tôn và các vị Bồ Tát v.v… sẽ thuận theo tâm tưởng mà hiện, hễ nghĩ
liền tới, hễ hỏi liền đáp. Sau đấy, mới nhập hạnh Chân Ngôn, tu học xuất thế. Nếu
chẳng như vậy, sẽ uổng phí công sức, chẳng có lợi ích gì!
(Kinh) Đệ tam cú đương tri, tức chư Phật thắng cú, hành giả quán trụ bỉ,
cực viên tịnh nguyệt luân, ư trung đế thành tưởng, chư tự như thứ đệ.
(經)第三句當知,即諸佛勝句。行者觀住彼,極圓淨月輪,於中諦誠想,諸字如次第。
(Kinh:
Nên biết câu thứ ba, câu thù thắng chư Phật. Hành giả hãy quán trụ, vầng trăng
cực tròn sạch, tưởng chân thật, chắc chắn, các chữ theo thứ tự).
Kế đó, hãy nên quán Phật, tức
là quán Bổn Tôn. Tùy thuộc người ấy (người hành trì chân ngôn) muốn làm chuyện
gì, đều có các pháp môn cùng loại. Như sắc có trắng, vàng, đỏ v.v…, các hình dạng
ngồi, đứng, thân ấn, tùy theo chuyện muốn làm mà tận lực quán. Như muốn [thực
hiện pháp] tịch tâm tức tai, liền quán hình tượng tức tai. Đã được thành tựu,
rõ ràng vô ngại, lại tưởng vầng trăng tròn sáng, thanh tịnh. Quán tự luân (các
chữ trong chân ngôn kết thành vòng tròn) ở trong cái tâm sáng sạch nơi luân ấy,
thành tựu như trong phần trên. Đấy chính là ý nghĩa của Bồ Đề tâm thanh tịnh vậy.
Do ba nghiệp bình đẳng thanh tịnh, sẽ có thể thấy tướng của chư Phật. Bồ Đề tâm
thanh tịnh tương ứng với Niệm Phật tam-muội, sáng suốt vô ngại, chỉ riêng tự
mình hiểu rõ, người khác chẳng trông thấy! Nói “ư trung đế thành tưởng” (tưởng chắc thật trong đó), tức là quán
Bổn Tôn và các chữ [chân ngôn] viên minh, chắc thật, rành rẽ, chẳng hề khuất lấp,
mơ hồ, thì gọi là “đế liễu phân minh”.
(Kinh) Trung trí tự cú đẳng, nhi tưởng tịnh kỳ mạng, mạng giả sở vị
phong, niệm tùy xuất tức nhập.
(經)中置字句等,而想淨其命。命者所謂風,念隨出入息。
(Kinh: Trong ấy, đặt chữ, câu, tưởng là thanh tịnh mạng. Mạng là
nói đến gió, niệm theo hơi hít thở).
Tức là quán chữ, quán âm
thanh, quán Bổn Tôn như trên, rồi mới quán Phật. Phật chính là Bổn Tôn, thuận
theo tất cả các duyên ấy mà quán [các điều ấy] đều là thân phổ môn của Phật. Do
vậy, chẳng có tướng khác, cùng gọi [các điều ấy (chữ chân ngôn, âm thanh chân
ngôn, Bổn Tôn)] là Phật. Trước là thực hiện ba loại quán ấy đều phù hợp thì mới
thành chủng tử. Do là chủng tử, ắt sẽ đắc quả. Kế đó, quán Bổn Tôn vì muốn
thành tựu cái quả. Như người có hạt giống, đem gieo trong ruộng tốt, [dùng các]
phương tiện vun quén, [các hạt giống ấy] sẽ kết thành quả. Vì thế nói là “thành tựu chủng tử, đã thành cái quả của
trí Nhất Thiết Trí”; do vậy quán Phật. Khi hành giả mới quán, bỗng tạm
được tương ứng, giống như tia chớp, tạm được thấy đạo. Lúc đó, chớ nên sanh chấp
trước. Như tại phương Tây, có đệ tử của một vị A-xà-lê, khi thực hiện phép Quán
này, bỗng tạm đạt được tương ứng, sanh lòng kiêu căng, khoe với các đồng học
khác. Thầy liền bảo: “Nếu thấy pháp tức là thành tựu cái quả. Cái quả của Chân
Ngôn chính là trọn đủ hết thảy các loại huệ. Chiều hôm qua ta soạn kệ tụng,
ngươi có biết hay chăng? Nếu đối với chuyện gần như thế mà ngươi còn chưa thể
thấu đạt, hãy nên biết là ngươi chưa thể thông đạt cảnh giới của chư Phật!” Vì
thế, nói đến chuyện này! Nếu người khi thấy chữ, hiểu rõ, do tương ứng với
pháp, ắt thân tâm sẽ khác. Kẻ trước kia ngu độn, nếu đắc Tổng Trì, sẽ do nghe một
câu mà thông đạt vô lượng nghĩa thú, nói chẳng thể cùng tận! Huống hồ [kẻ tạm
được tương ứng], nhưng bị các lỗi quấy như ngã mạn v.v… dấy động, [há có nên]
sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, chấp trước ư? Do vậy, hành giả hãy nên lìa pháp
ái như thế, chớ nên tự lui sụt!
Lại nữa, khi hành giả quán
Bổn Tôn, thoạt đầu bỗng thấy [hình tượng Bổn Tôn] diệt mất, chớ nên yêu đắm, chấp
trước, hoặc sanh tâm sầu, hối, chỉ nên nhất tâm hành trì. Lâu dần, sẽ tự hiểu
chân thật, rõ ràng. Nếu lúc thấy Bổn Tôn, các việc suy tưởng sẽ tự nhiên thành
tựu; viên quang, nguyệt luân, và các chữ [trong chân ngôn] v.v… sẽ thuận theo ý
niệm mà hiện ra rành rẽ, thấu suốt. Nếu thấy chữ thì phía ngoài chữ đều có
quang minh chói ngời, ví như ngọn lửa sáng sạch khôn sánh. Hoặc quán tự luân
như trong phần trước đã nói, trên luân cũng có quang minh, tùy tâm thành tựu.
Cho đến quán sự viên minh ấy, muốn nhỏ liền hiện nhỏ, muốn lớn bèn hiện lớn,
cho đến trọn khắp mười phương cõi Phật, thảy đều trọn khắp! Hoặc muốn trông thấy
vô lượng vô số sắc tướng, ngôn ngữ diễn nói bí tạng, các chuyện thần thông của
mười phương chư Phật, đều được thấy rõ. Ví như người thợ vàng tài khéo, có được
vàng ròng tốt đẹp, tinh luyện trăm lần, [vàng sẽ] thanh tịnh nhu nhuyễn, vô cấu,
tùy ý tạo tác, tùy tâm mà thành, hết thảy vô ngại. Đó gọi là cái quả của trì tụng.
Lại nữa, nói “xuất nhập tức” chính là như hơi thở
của người đời, lọt vào thân rồi lại thoát ra, thoát ra rồi lại trở vào, chẳng
có đoạn tuyệt, gián đoạn chút nào. Người ấy quán thấy tự luân viên minh cũng giống
như thế, từ tâm của Bổn Tôn trong mỗi niệm đều tuôn nhập vào thân hành giả như
hít vào. Lại từ thân tâm của người ấy, trong mỗi niệm mà thoát ra, nhập vào tâm
của Bổn Tôn. Tâm trong mỗi niệm đều chẳng gián đoạn giống như thở ra. Mỗi niệm
đều giáp vòng như thế vô cùng; đó chính là hành nhân Chân Ngôn thở ra hít vào vậy.
Thở ra hít vào như thế, tưới rót thân tâm, tịnh trừ các cấu uế, dần dần đạt được
các căn thanh tịnh. Lại tùy theo từng sự mà quán màu sắc của các chủng tử trong
tự luân, như Tức Tai là sắc trắng, Hàng Phục thì có các màu như xanh hoặc đen
v.v… Có thể suy ra mà biết! Làm như thế thì cũng có thể tùy tâm hoàn thành các
sự. Trong kinh lại nói: “Mạng giả sở vị
phong” (Mạng được gọi là phong). “Phong”
tức là tưởng, là niệm. Tưởng mạng căn hít vào, thở ra như thế, tuy tịnh diệu, vẫn
là do tưởng gió mà thành, cũng phải nên tịnh hóa.
(Kinh) Bỉ đẳng tịnh trừ dĩ, tác tiên trì tụng pháp. Thiện trụ chân ngôn
giả, thứ nhất nguyệt niệm tụng. Hành giả tiền phương tiện, nhất nhất cú thông đạt.
(經)彼等淨除已,作先持誦法,善住真言者,次一月念誦,行者前方便,一一句通達。
(Kinh: Trừ sạch các thứ ấy, trước làm pháp trì tụng. Người khéo
trụ Chân Ngôn, tụng niệm một tháng nữa. Mỗi câu tiền phương tiện, hành giả đều
thông đạt).
Nói đến chuyện đã tịnh trừ
các thứ ấy xong, trước hết, hãy nên nói
đến chữ A trong pháp trì tụng, vì hết thảy các chủng tử đều sanh từ chữ A.
Nếu quán tướng chủng tử, thì tức là chẳng quán chữ A. Nếu cùng quán, sẽ chính
là có hai tướng. Do vậy, chỉ quán chữ A, sẽ là hết thảy các chủng tử, vì hết thảy
các pháp chẳng ra ngoài môn chữ A. Ở đây có nghĩa là: Trước hết, quán biệt tướng
của chủng tử. Kế đó đến đây, mỗi mỗi đều cần phải nhập vào môn chữ A. Nếu nhập
môn chữ A, sẽ thấy “lý thể vốn bất
sanh”. Đã thấy như thế rồi, tức là ba nghiệp đều thông. Do thân thông,
thấy trọn khắp các sắc thân, tùy loại thấy trọn khắp các thân ưa thấy. Do ngữ
thông, có thể dùng một âm thanh mà thấu tới trọn khắp mười phương cõi Phật,
cũng có thể ứng trọn khắp ngôn ngữ sai biệt của hết thảy chúng sanh. Do tâm
thông, cho đến hết thảy động niệm, hý luận dấy lên trong tâm của hết thảy chúng
sanh, không gì chẳng biết rõ, mà cũng có thể biết chuyện bí mật của các Như
Lai, tức là sáu căn rốt ráo thanh tịnh, thành tựu Chủng Trí. Hành giả tu Chân
Ngôn trước hết vâng làm một tháng niệm tụng, tức là trong vòng một tháng, trước
hết hãy nên quán như trên đây.
Lại giải thích theo ý nghĩa
bí mật, thì một năm do mười hai tháng mà thành, trở lại Bổn Tế để thấu đạt cái
cội nguồn. Cũng như mười hai địa vị Bồ Tát, tức là sự giác ngộ của Thập Trụ, Đẳng
Giác, Diệu Giác, ví như mười hai tháng. Do vậy, ở đây [kinh văn nói] “trong một tháng” chính là “nhập địa vị Sơ Trụ”. Đối với mỗi một
câu, chữ, hoặc Bổn Tôn, đều hiểu chắc thật, thành tựu chẳng có chướng cấu. Vì
thế nói là “mỗi câu đều tương ứng”.
“Hành giả tiền phương tiện”: Khi quán hạnh như thế, nếu dùng một
bông hoa dâng Phật, chí tâm hồi hướng, nguyện hiểu thông đạt mỗi câu, và câu “hoa hiến thập phương nhất thiết Phật sát độ,
phổ tác Phật sự” (hoa dâng lên hết thảy các cõi Phật trong mười phương,
làm Phật sự trọn khắp) trong kinh văn thuộc phần sau, lúc bấy giờ, vừa niệm liền
thành. Cho tới các chuyện như hương, thức ăn v.v… mỗi mỗi đều nói rộng như thế.
Giả sử trời hạn hán nặng, hoặc có đủ loại tai ương, hoạn nạn, lúc bấy giờ, hành
nhân dùng một đóa hoa để cúng dường, nguyện trừ nạn hạn hán ấy, xối cơn mưa to,
hoặc nguyện các tai ương tự dứt, không gì chẳng ngay lập tức thành tựu. Lại đem
mỗi một công đức ấy hồi hướng Bồ Đề, thí trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đại
nguyện Bồ Đề như thế cũng sẽ thành tựu, huống hồ các chuyện khác! Trong phần
trước nói “một tháng” tức là
tâm tương ứng với một cảnh.
“Nhất nhất cú thông đạt” (Mỗi câu đều thông đạt), tức là quán
tự luân, quán thanh luân (âm thanh của câu chân ngôn liên tiếp xoay vần không
gián đoạn), chủng tử của Bổn Tôn, mỗi mỗi đều hiện tiền rành rẽ, chẳng có sai lầm,
thì gọi là “nhất nhất cú thông đạt”.
Trước hết, quán Phật thành tựu, liền thấy viên minh. Hễ thành tựu một thứ, các
thứ khác đều thành tựu. Tức là khi quán Bổn Tôn rành rẽ, các tướng như tự luân
viên minh v.v… sẽ tự nhiên thành tựu. “Nguyệt”
ở đây chính là Nguyệt Dụ tam-muội, pháp tánh thanh lương có thể hiện trọn khắp
trong tâm thủy của chúng sanh, chẳng phải như vầng trăng thế gian, chỉ là mượn
nó (vầng trăng trong thế gian) để sánh ví cái tâm đó thôi. Chỉ cần thành một sự,
những chuyện khác đều thành, nhưng sở dĩ nói trọn hết là vì mỗi điều sẽ đều có
tác dụng trong kinh văn thuộc phần sau. Vì thế, nói trọn vẹn tác dụng của pháp
quán mặt trăng.
(Kinh) Chư Phật đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ trì. Thứ đương tùy sở
hữu, phụng đồ hương, hoa đẳng, vị thành Chánh Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề. Như
thị ư lưỡng nguyệt, chân ngôn đương vô úy. Thứ mãn thử nguyệt dĩ, hành giả nhập trì tụng.
(經)諸佛大名稱,說此先受持。次當隨所有,奉塗香花等,為成正覺故,迴向自菩提。如是於兩月,真言當無畏。次滿此月已,行者入持誦。
(Kinh: Chư Phật danh xưng lớn, bèn nói thọ trì
trước. Kế đó, tùy sức có, dâng hương bôi, hoa thảy. Vì để thành Chánh Giác, hồi
hướng tự Bồ Đề. Như thế trong hai tháng, chân ngôn sẽ vô úy. Mãn tháng kế tiếp
rồi, hành giả liền trì tụng).
“Chư Phật
đại danh xưng, thuyết thử tiên thọ trì” (Nói danh
xưng to lớn của chư Phật là điều nên thọ trì trước hết), tức là chủng tử thành
tựu tối sơ. “Thứ đương tùy sở hữu, phụng
đồ hương, hoa đẳng” (Kế đó, tùy theo những gì mình có mà
dâng hiến hương bôi, hoa v.v…) tức là có thể dùng một hoa để [dâng cúng] trọn
khắp pháp giới, cho đến do nhân duyên nguyện lực, có thể trừ các thứ khổ não của
chúng sanh như phẩm Phổ Môn đã nói. Há có phải là do một hoa mà có thể thành tựu
nguyện lực như thế ư? “Vị thành Chánh
Giác cố, hồi hướng tự Bồ Đề” (Vì để thành Chánh Giác mà hồi hướng Bồ Đề
của chính mình): Hãy nên biết đấy chính là chủng tử của Bồ Đề trong tự tâm sáng
sạch, hiển hiện lực dụng tự tại. Kế đó là giải thích ý nghĩa sâu xa trong hai
chữ ấy. “Như thị ư lưỡng nguyệt, chân
ngôn đương vô úy” (Hãy nên trong hai tháng, mà hành chân ngôn vô úy như
thế đó) tức là nói đến ý nghĩa Tất Địa. Đây chính là tác dụng to lớn trong
tháng thứ hai. Tháng thứ nhất là thành tựu chủng tử. Tháng thứ hai là thành tựu
địa vị. Kế đó, trọn hết tháng ấy rồi, sẽ hoặc là thành tựu hạnh thế gian, tiến
nhập trì tụng. Nếu nói theo thành tựu thế gian thì chính là tháng thứ nhất trì
tụng; tháng kế đó, đạt được thành tựu trong pháp thế gian, tức là được thành tựu
các pháp nơi dược vật, có thể đạt được Văn Trì “hễ nghe bèn chẳng quên”, cho đến lực, thần thông, minh hạnh đều
được khéo thành tựu, được tự tại nơi Đại Không. Nếu nói theo nghĩa xuất thế, tức
là khi thành tựu pháp ấy, sẽ có thể mãn hết thảy các nguyện.
(Kinh) Sơn phong hoặc ngưu lan, cập chư hà than đẳng, tứ cù đạo, nhất
thất, thần thất, đại thiên thất, bỉ mạn-đồ-la xứ, tất như kim cang cung. Thị xứ
nhi kết hộ, hành giả tác thành tựu.
(經)山峯或牛欄,及諸河潬等,四衢道一室,神室大天室彼漫荼羅處,悉如金剛宮。是處而結護,行者作成 就。
(Kinh: Đỉnh núi hoặc chuồng bò, và các bến sông thảy, đường ngã
tư, một thất, miếu thần, miếu đại thiên, nơi mạn-đồ-la ấy, đều như cung kim
cang. Kết hộ các nơi ấy, hành giả làm thành tựu).
Nói “sơn phong, ngưu lan” (đỉnh núi, chuồng bò) có nghĩa là Quán.
Khi thực hiện thành tựu, sẽ như ở trên núi, chính là tương ứng với núi Trung Đạo.
Mỗi mỗi sự đều tương ứng với Lý. Nói “bất
động danh sơn” (bất động gọi là núi) tức là [nói về] đại Bồ Đề tâm. Do
là chỗ cùng tột trong Bồ Đề tâm ấy, nên gọi là “sơn phong” (đỉnh núi). Như người lên núi, nhìn xuống vạn vật,
không gì chẳng thấy rõ ràng. Núi pháp tánh ấy cũng thế, [từ trên núi ấy] nhìn
xuống pháp giới, sẽ chiếu trọn khắp vô ngại! “Ngưu lan” (Chuồng bò): Bò sanh ra năm thứ tịnh[1],
có thể khử uế, trừ chướng, thành tựu chuyện thanh tịnh. Do được trưởng dưỡng bởi
chất tịnh của bò, cỏ mịn tươi tốt, tự nhiên sum suê. Chuồng bò trong Bồ Đề tâm
cũng thế, có thể ngăn ngừa các lỗi phân biệt, vọng tưởng, tịnh hóa các tâm địa,
dùng nước đại bi rưới đất bình đẳng, sanh khởi công đức tùy ý trưởng thành. Ý
nghĩa của hai con sông như đã nói trong phần trước. “Hai con sông” nghĩa là tuôn chảy chẳng dứt; đó là dòng sanh tử.
Lại còn là tâm tâm tịch diệt, đổ vào biển cả pháp tánh; tức dòng xuất thế. Ở giữa
đó, chính là cảnh Trung Đạo diệu trụ, kham tạo ra sự thành tựu nhiệm mầu. Nói “tứ đạo trung” (tức “tứ cù đạo” trong chánh kinh) chính
là Tứ Thánh Đế Trung Đạo. “Nhất thất”
tức là trừ phân biệt đối với các cảnh, thuộc về hạnh Như Như, coi đó là “thất”. “Đại thiên thất” (Miếu thờ đại thiên) chính là Niết
Bàn thất, được thành tựu bởi sức tự tại của Bồ Đề. Nếu chẳng nhập “đại thiên thất” như thế, sao có thể
thành tựu sức tự tại cho được? Ý nghĩa của Mạn-đồ-la như đã nói trong phần trước.
“Tứ giác” là làm hình tượng của
chày kim cang ba nhánh, [xếp đặt sao cho các chày ấy] tiếp giáp nhau vây quanh,
[thì khoảng không gian trong vòng chày kim cang ấy được] gọi là “kim cang cung”.
Nếu nói theo ý nghĩa bí mật,
đấy chính là đại trí không ai có thể phá hoại. Do dùng kim cang diệu trí ấy để
kết thành kim cang giới, thủ hộ Bồ Đề tâm, các việc làm đều hoàn thành. “Tác hộ” (Thực hiện sự thủ hộ) chính là dùng minh chú Hàng Phục Tam Thế và minh chú Bất
Động để thủ hộ các sự. Nếu nói theo Lý, Hàng Phục Tam Thế và Bất Động Minh
Vương tức là đại Bồ Đề tâm, kham có thể thủ hộ hết thảy chúng sanh, khiến cho
thiện căn của họ tự tại thành tựu.
“Sức dược vật thành tựu” tức là không thanh[2],
dầu tô, ngưu hoàng v.v… tùy theo việc mà thực hiện [pháp thành tựu] như các chỗ
khác (các kinh luận khác) đã nói. Nói theo Lý thì chính là thân khẩu ý thành tựu.
Đó gọi là “tạng tam nghiệp vô tận
trang nghiêm phấn tấn thị hiện”, thành tựu pháp giới chúng sanh. Phật
pháp vốn dĩ trước là thành tựu nơi Sự; sau đấy mới dùng tịnh huệ Đại Không để
quán sát, tức là thành tựu xuất thế.
(Kinh) Tức dĩ trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất thời, trí giả ưng đương
tri, hữu như thị tướng hiện, Hồng thanh hoặc cổ âm. Nhược phục địa chấn động, cập
văn hư không trung, hữu duyệt ý ngôn từ. Ưng tri như thị tướng, Tất Địa tổng
như ý. Chư Phật lưỡng túc tôn, tuyên thuyết ư bỉ quả, trụ thị Chân Ngôn hạnh, tất
định đương thành Phật. Ưng nhất thiết chủng loại, thường niệm trì Chân Ngôn, cổ
Phật đại tiên thuyết, cố ưng đương ức niệm.
(經)即以中夜分,或於日出時,智者應當知,有如是相現,吽聲或鼓音,若復地震動,及聞虛空中,有悅意言辭,應知如是相,悉地總如意。諸佛兩足尊,宣說於彼果,住是真言行,必定當成佛,應一切種類,常念持真言,古佛大仙說,故應當憶念。
(Kinh: Liền vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời
mọc. Bậc trí hãy nên biết, có tướng như sau hiện: Tiếng Hồng, hoặc tiếng trống.
Hoặc đất lại chấn động, và nghe trong hư không, có ngôn từ đẹp ý. Nên biết tướng
như thế, Tất Địa được như ý. Chư Phật Lưỡng Túc Tôn, tuyên nói cái quả ấy. Trụ
hạnh Chân Ngôn này, nhất định sẽ thành Phật. Hết thảy các chủng loại, nên thường
trì chân ngôn, cổ Phật đại tiên nói. Vì thế nên nghĩ nhớ).
Khi dược vật và tâm thành tựu, sẽ có tướng thượng, trung, hạ. Khi mặt trời
mọc là thượng, nửa đêm là trung, đầu đêm là hạ. Trong lúc ấy nếu có tướng, hãy
nên biết tùy theo từng sự mà biết là thành tựu thượng, trung, hay hạ. “Đầu đêm”
có nghĩa là “mới nhập, chưa chứng”. Nửa đêm có nghĩa là Bồ Đề tâm, tức từ nay
do trái nghịch sự tối tăm, hướng theo sáng suốt, nhưng vẫn chưa là đại minh. Tới
khi mặt trời mọc là tướng thành tựu, ví như vầng mặt trời to lớn chiếu trọn khắp
thế gian. Trong lúc đó, hoặc có âm thanh chữ Hồng, hoặc đủ loại tiếng trống, hoặc
đất chấn động mạnh mẽ, hoặc nghe các thứ âm thanh mầu nhiệm, [thấy] đủ loại tướng
mầu nhiệm mà mọi người thích nghe, tâm ý vui sướng, hoặc trên không trung, hoặc
ở trong đàn tràng. Nếu có các tướng ấy, hãy nên biết đó là Tất Địa thế gian
thành tựu. Nếu nói theo Lý, chỗ mỗi một pháp kết hợp đạt được cái quả, tức là
cái quả tam thừa. Hoặc chuyển pháp luân, đạt được thế lực to lớn, cho đến trường
thọ, thọ lượng vô số, tiến cao hơn là du hành trên hư không, tịnh nhãn soi
sáng. Đã thanh tịnh thì vô ngại tịnh tâm là trí huệ trọn khắp. Tới đây là xong
phẩm Thành Tựu Thế Gian.
[1] Theo
truyền thống của Bà La Môn giáo, bò được coi là sứ giả của Phạm Thiên, được tôn
xưng là thánh ngưu. Nhất là con bò Nandi (còn gọi là Nandikeshavara hay
Nandideva) là tọa kỵ của thần Thấp Bà (Śiva), được coi là thần thủ hộ của núi
thánh Kailash (nơi có cung điện chính của thần Shiva). Họ cho rằng bò sanh ra
năm thứ thanh tịnh là sữa, lạc, tô, nước tiểu, và phân.
[2] Không
Thanh (Chesylite, Azurite) là chất hydroxide bicarbonate đồng, tức
Cu3(CO3)2(OH)2, có màu xanh nước biển đậm (gần như màu Navy, nhưng sáng hơn một
chút). Khi để lâu ngoài không khí, nó sẽ bị biến thành khổng tước thạch
(malachite, tức hydroxide monocarbonate đồng, Cu3CO3(OH)2, có màu xanh ngọc thạch).
Không Thanh được dùng trong Đông Y để chữa bệnh mắt, mắt cườm, trúng phong, tai
điếc v.v… Âu Tây chỉ dùng chất này để làm màu nhuộm, hoặc làm hạt trang sức.
Trong Mật giáo, thường dùng các thứ thuốc đem trì chú để mong đạt được tác dụng
chữa bệnh, hoặc dùng vào các phương tiện hòng đạt được các thứ thần thông khác.
Thậm chí, các vật như đao, kiếm, vỏ ốc, gương… dùng làm pháp thành tựu cũng được
gọi chung là “dược vật”.
Comments
Post a Comment