Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
24. Phẩm thứ hai mươi bốn: Nói
về tánh Bồ Đề
Thuyết Bồ Đề Tánh Phẩm Đệ Nhị Thập Tứ
說菩提性品第二十四
(Kinh) Thí như thập phương hư không tướng, thường biến nhất thiết vô sở
y. Như thị chân ngôn cứu thế giả, ư nhất thiết pháp vô sở y. Hựu như không
trung chư sắc tượng, tuy khả hiện kiến vô y xứ, chân ngôn cứu thế giả diệc
nhiên, phi bỉ chư pháp sở y xứ. Thế gian thành lập hư không lượng, viễn ly khứ
lai hiện tại thế. Nhược kiến chân ngôn cứu thế giả, diệc phục xuất quá tam thế
pháp.
(經)譬如十方虛空相,常遍一切無所依,如是真言救世者,於一切法無所依。又如空中諸色像,雖可現見無依處,真言救世者亦然,非彼諸法所依處。世間成立虛空量,遠離去來現在世,若見真言救世者,亦復出過三世法。
(Kinh:
Ví như tướng hư không mười phương, thường trọn hết thảy không nương tựa. Pháp
chân ngôn cứu đời cũng thế, trong hết thảy pháp chẳng nương tựa. Lại như không
trung các sắc tượng, tuy hiện thấy được, không chỗ nương. Chân ngôn cứu thế
cũng giống vậy, chẳng phải chỗ nương của các pháp. Thế gian thành lập hư không
lượng, xa lìa đời xưa, nay, vị lai. Nếu thấy bậc chân ngôn cứu đời, cũng lại vượt
ngoài pháp ba đời).
Kế đó nói phẩm Bồ Đề Tánh, tức là dựa
theo nghĩa lý trong phẩm Bách Tự Pháp (tức phẩm Bách Tự Chân Ngôn Pháp) để nói
thí dụ. Vì thế, kinh nói “như hư không
trong mười phương”. Giống như hư không, hết thảy các phương thường trọn
khắp chẳng nương tựa. Hết thảy các pháp chân ngôn cứu đời [cũng giống như thế],
thường trọn khắp hết thảy, không nương tựa. Chân ngôn cứu đời trong hết thảy
các pháp không nương tựa, giống như vật trong hư không (tức là khói, mây v.v…),
tuy thấy chẳng nương tựa (tức là như hư không, tuy thấy hết thảy mặt trời, mặt
trăng, khói, mây v.v… nhưng hư không chẳng nương vào đâu!), các vật chẳng nương
vào hư không. Chân ngôn cứu thế cũng vậy, chẳng phải là chỗ nương tựa cho các
thứ đó, như giáo pháp đã nói về cái thành tựu tột bậc trong cõi đời vậy. Hư
không xa lìa ba đời, chân ngôn cứu đời cũng lìa ba đời. Chân ngôn cứu đời giống
như hư không, đều bình đẳng lìa khỏi ba đời. Đó là các ý chánh trong kinh văn.
Giống như hư không trọn khắp hết thảy các nơi chốn, hết thảy vạn hữu đều nương
vào đó mà được thành lập, nhưng hư không chẳng nương vào đâu! Hết thảy chân
ngôn như thế đều nương vào chân ngôn cứu thế này. Cái Thấy ấy chính là hiện kiến,
hiện lượng. Thấy khói v.v… chẳng nhuốm bẩn hư không cũng thế.
(Kinh) Duy trụ ư danh thú, viễn ly tác giả đẳng, hư không chúng giả
danh, đạo sư sở tuyên thuyết. Danh tự vô sở y, diệc phục như hư không. Chân
ngôn tự tại nhiên, hiện kiến ly ngôn thuyết. Phi hỏa, thủy, phong đẳng, phi địa,
phi nhật quang, phi nguyệt đẳng chúng diệu, phi trú diệc phi dạ, phi sanh, phi
lão bệnh, phi tử, phi tổn thương, phi sát-na, thời phần, diệc phi niên tuế đẳng,
diệc phi hữu thành hoại, kiếp số bất khả đắc, phi tịnh nhiễm thọ sanh, hoặc quả
diệc bất sanh. Nhược vô như thị đẳng, chủng chủng thế phân biệt. Ư bỉ thường cần
tu, cầu Nhất Thiết Trí cú.
(經)唯住於名趣,遠離作者等,虛空眾假名,導師所宣說。名字無所依,亦復如虛空,真言自在然,現見離言說。非火水風等,非地非日光,非月等眾曜,非晝亦非夜,非生非老病,非死非損傷,非剎那時分,亦非年歲等,亦非有成壞,劫數不可得,非淨染受生,或果亦不生。若無如是等,種種世分別,於彼常勤修,求一切智句。
(Kinh:
Chỉ trụ trong danh nghĩa, xa lìa người tạo tác, hư không, các giả danh, do đạo
sư tuyên nói. Danh tự không nương cậy, cũng lại như hư không. Chân ngôn vốn tự
tại, hiện hữu, lìa ngôn thuyết. Chẳng phải lửa, nước, gió, chẳng đất, chẳng ánh
nắng, chẳng mặt trăng, tinh tú. Chẳng ngày, cũng chẳng đêm. Chẳng sanh, chẳng
già, bệnh. Chẳng chết, chẳng tổn thương, chẳng sát-na, thời phần, cũng chẳng phải
năm tháng. Cũng chẳng có thành, hoại, kiếp số chẳng thể được. Chẳng tịnh, nhiễm,
thọ sanh, hoặc quả cũng chẳng sanh. Nếu chẳng có như thế, các thứ đời phân biệt,
thường siêng tu nơi đó, cầu câu Nhất Thiết Trí).
Trụ
nơi “duy” gọi là hạnh, xa lìa
tác giả (chủ thể tạo tác) v.v… “Hư
không giả danh đẳng” (Các thứ giả danh như hư không v.v…): “Đẳng”
tức là có đủ loại giả danh, nghĩa là người đời nói là “hư không”, đó chỉ là giả danh! “Đạo sư sở tuyên thuyết” (Được đấng đạo sư tuyên nói): Cái Thể của chân ngôn ấy vốn bất
sanh, Giáo không có chỗ để nương vào, giống như hư không trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Lại như thế gian nhìn vào hư không, cho là có cái để trông thấy, nhưng thật
sự quán hư không thì hết thảy các phép Quán đều chẳng đối ứng với mắt. Xét theo
phương diện “hư không trọn đủ hết thảy
các tướng”, cái hư không “trọn
đủ hết thảy các tướng” ấy cũng chẳng nhập vào các tướng đó, tự và tha đều
lìa. Hãy nên biết chân ngôn cứu đời này cũng giống như thế, chẳng khác hư
không. Tuy không gì chẳng có, nhưng cái Thể rốt ráo thanh tịnh giống như hư
không. Tuy giống như hư không rốt ráo thanh tịnh, không có pháp nào để có thể đạt
được, nhưng không gì chẳng có, không gì chẳng thành. Lại như hư không lìa khỏi
ba đời, tức là [lìa khỏi] quá khứ, vị lai, hiện tại. Chân ngôn cũng thế, do tùy
thuận thế gian mà nói có ba đời, tức là sẽ tu, đã tu, và đang tu, sẽ chứng, đã
chứng, và đang chứng. Nhưng cái Thể của chân ngôn vượt ngoài ba đời, giống như
hư không, lại còn tùy thuận người đời mà nói là “ba đời” đó thôi! “Cứu
thế” tức các loại pháp phân biệt Không kiến. Pháp ấy đã sanh từ cái “vốn chẳng sanh”, hãy nên biết cái Thể
của nó cũng giống như căn bản, cũng chỉ gọi là hạnh, các tác giả, bình đẳng lìa
khỏi danh từ giả danh của hư không v.v… “Tuyên
thuyết đạo sư phi danh y sở hữu” (tức là câu chánh kinh “đạo sư sở tuyên thuyết. Danh tự vô sở y” nghĩa
là “do đấng đạo sư tuyên nói, danh tự
không nương cậy vào đâu”): Như hư không, chân ngôn cũng thế. Như hư
không chỉ trụ nơi danh và hạnh, hạnh ấy cũng có thể hướng về, tức là “hữu danh thú” (有名趣) nghĩa là “con đường
chỉ có tên gọi”, chỉ gọi là Thú (đường nẻo). “Con đường chỉ có tên gọi ấy” cũng đáng nên nói theo ý nghĩa
ngôn ngữ.
“Hư
không giả danh đẳng” (Các thứ giả danh như hư không v.v…): “Đẳng”
ở đây là thuận theo thế gian mà lập ra danh xưng ấy, tức giả đặt bày. Bài kệ
trước nói “hư không chỉ có tên gọi”,
bài kệ sau ý nói: Cái tên gọi ấy cũng giống như hư không, đều là chẳng thể được!
Chỉ có danh tự mà chẳng thể được, lìa tác giả! Như người thế gian do tướng phân
biệt, hý luận, chấp lấy tướng Không ấy, cho nó là có thật, sanh ra đủ loại so
đo hư vọng. Hoặc nói “hư không là thường”;
hoặc nói nó bị vây hãm trong các sắc, hoặc nói “ở trong lỗ huyệt là hư không” v.v… Hoặc nói “cái Không ấy nương vào chỗ của tác giả mà
sanh”. Các kiến chấp ấy vô lượng, vô biên, như kinh luận đã rộng nói.
Nói tóm lại, đều chẳng lìa khỏi Đoạn Kiến và Thường Kiến. Thậm chí các vị thầy
Tiểu Thừa trong thế gian cũng coi pháp Không là thật sự có! Do nhân duyên ấy mà
có vô lượng lầm lỗi. Danh cũng là vô sở hữu, cũng giống như hư không. Chân ngôn
chủ cũng thế, trụ vào giả danh, tức là vô lượng giả lập vậy. Các điều “chẳng phải” [được nói trong chánh
kinh như “phi hỏa, thủy, phong”
v.v…] chẳng phải là tịnh, uế, thọ sanh, hoặc quả cũng chẳng thể sanh. Đấy hoặc
là có nhiều loại nghĩa, các quả cũng chẳng sanh. Nếu không có các thứ phân biệt
thuộc thế gian như vậy; đối với đó mà thường siêng tu, cầu câu Nhất Thiết Trí,
tức là dốc chí cầu điều ấy. Nay “hư
không” được nói ở đây chính là Bất Khả Đắc Không, tức là Đại Không
Không. Lại còn là cái Không chỉ có danh tự, nhưng thật thể chính là Bất Không,
lìa tướng Không và Bất Không! Ðạo sư do phương tiện mà giả dùng ngôn thuyết để
khai ngộ chúng sanh, nhưng danh xưng Không cũng là chẳng thể được. Nếu có danh
tồn tại thì tức là hữu tướng. Hữu tướng chính là tâm sanh diệt, chẳng nhập Thật
Trí, sao có thể gọi là “trí Thật Tướng
thuộc huệ tự nhiên trong chữ A” cho được? Như hư không chẳng nương tựa,
hãy nên biết chân ngôn cũng như thế, rốt ráo chẳng nương vào đâu! Đức Phật dùng
phương tiện, muốn khiến cho trọn khắp chúng sanh nhập Phật huệ, từ Không lập Giả,
khiến cho họ nương vào cái Giả ấy mà đạt tới lý. Bản thể của Không đã là vô
sanh, vậy thì cái Giả vốn nương vào Không lại do đâu mà có? Hãy nên biết là
sanh thật kiến. Tri kiến như thế chính là tánh Bồ Đề, tánh Bồ Đề chẳng lìa chân
ngôn. Ý nghĩa của chân ngôn ấy chính là Bồ Đề. Lìa ngoài điều đó
mà riêng có Bồ Đề,
chẳng có lẽ ấy!
Chẳng phải lửa, nước, gió, đất, chẳng
phải mặt trời, mặt trăng các ngôi sao, chẳng phải ngày đêm, chẳng phải sanh tử,
chẳng phải tổn thương, chẳng phải sát-na, mâu-hô-lật-đa (muhūrta), chẳng phải năm
tháng, chẳng phải kiếp số thành hoại, chẳng tịnh, chẳng phải bất tịnh, [chẳng
phải] thọ sanh quả, hoặc cũng chẳng sanh. Nếu chẳng có các thứ phân biệt trong
thế gian như thế, siêng tu nơi đó, sẽ là sự vui sướng nơi câu Nhất Thiết Trí.
Đó là chánh ý của kinh văn. Nói về tánh của chân ngôn thì chẳng phải là đất, nước,
lửa, gió, như hư không trọn khắp trong đất, nước, lửa, gió. Tứ Đại nương vào hư
không mà thành tựu hết thảy các sự, nhưng hư không chẳng nương tựa. Trong chân
ngôn này, tác dụng của đất, nước, lửa, gió chẳng nghĩ bàn, nương vào môn chữ A,
nhưng chữ A ấy chẳng phải là các câu “đất,
nước, lửa, gió”.
“Chẳng
phải mặt trời, chẳng phải mặt trăng”, tức là chín tinh tú chấp diệu, đều
do người đời lập ra, chẳng chân thật. Nay tánh Bồ Đề này, chẳng có sự sai biệt
sáng và không sáng, sao có ngày đêm khác biệt cho được? Lìa nhân duyên Thật Tướng
thường trụ, tức là cái Thể của Đại Nhật Như Lai, lẽ nào chẳng lìa sanh tử ử? “Hại” có nghĩa là tổn thương, cũng có
nghĩa là “suy hao”. Nhưng tánh của chân ngôn là thường hằng, chẳng biến đổi,
lìa rời các chuyện suy não, biến đổi, hư hao, chẳng có các tướng “thời phần, kiếp số thành hoại”. Hãy
nên chánh quán tánh chân ngôn như thế, chẳng nương vào vọng chấp. Cho đến lúc
kiếp sơ chẳng thành, lúc kiếp tận chẳng hoại, cái gốc không khởi đầu, cái ngọn
không kết thúc. Do lìa kiếp số, thời phần v.v…, do không gì chẳng có, cho nên
chẳng phải là tịnh, rốt ráo không. Vì thế, chẳng phải là chẳng tịnh. Hết thảy
chúng sanh do chữ A này mà trọn đủ hết thảy các pháp cấu uế. Như Lai do dùng
pháp này mà thành tựu hết thảy các công đức. Do vậy, chẳng tịnh, chẳng phải là
bất tịnh. Nếu nói “từ quán mà sanh”,
do có cái được quán, cái được thành, theo hành mà thọ sanh, chân ngôn đều lìa
khỏi các điều ấy. Cho đến từ công đức của tịnh quán, từ vô lượng công đức mà
lãnh nhận Ý Sanh Thân, cũng lại đều là không. Vì thế, chẳng có cái quả thọ
sanh. Do những điều này đều là các pháp có sở đắc, Thật Trí tự nhiên nơi tánh của
chân ngôn trong hết thảy các pháp đều là vô sở đắc. Hãy nên biết các thứ phân
biệt như trên đây chẳng phải là chân thật kiến, số tới vô lượng. Nói tóm lại,
tánh của chân ngôn đều lìa các kiến giải phân biệt của thế gian như vậy. Nếu biết
rõ điều này, tu hạnh Chân Ngôn như thế, tức là câu Nhất Thiết Trí. “Lạc dục” là tùy ý liền thành. “Câu” có nghĩa là trụ xứ, tức trụ xứ
của Nhất Thiết Trí, tức là Phật trụ. Hãy nên biết: Tánh Bồ Đề bằng với hư
không, hư không bằng với tánh Bồ Đề. Tánh của Bồ Đề chính là câu Nhất Thiết Trí
trong môn chữ A!
Comments
Post a Comment