Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

8. Phẩm thứ tám: Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh

Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh Phẩm ĐBát

轉字輪漫荼羅行品第八

 

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát nhất thiết đại hội, dĩ tu tập đại từ bi nhãn, quán sát chúng sanh giới, trụ Cam Lộ Vương tam-muội.

          ()爾時毘盧遮那世尊觀察一切大會 以修習大慈

悲眼觀察眾生界住甘露王三昧

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát hết thảy đại hội, dùng mắt đại từ bi do tu tập để quán sát chúng sanh giới, trụ trong Cam Lộ Vương tam-muội).

         

          “Đại chúng” chính là các vị như Kim Cang v.v… nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật tụ hội. Từ vô lượng kiếp lâu xa, Như Lai đã tu tập mắt đại từ bi, quán thế giới là cũng có hàm ý. Đó chính là do Ngài lại sắp tuyên nói phương tiện vi diệu, khiến cho hết thảy thế gian đều đạt được lợi ích to lớn. Quán như thế xong, Ngài bèn nhập Cam Lộ Vương tam-muội. Như người đời uống chất độc, lập tức bị yểu mạng. Nếu gặp được cam lộ cõi trời để uống, ngay lập tức sẽ chẳng già, chẳng chết, hết thảy các bệnh ngặt khổ sở, không gì chẳng chữa lành, thân tâm thanh lương, vui sướng, đạt được điều chưa từng có. Nay tam-muội này cũng giống như thế. Nếu được nghe, suy nghĩ, tu hành, sẽ đạt được niềm vui xuất thế gian bậc nhất, thọ lượng thường trụ, thành tựu hiện pháp lạc của Như Lai. Từ môn Định ấy khởi, lại nói sức ba đời hết thảy vô ngại, ba đời chẳng ai có thể phá hoại, sức của minh chú này là như thế đó.

          Phá trừ hết thảy tối tăm vô minh phiền não thì gọi là Minh; nhưng ý nghĩa của Minh (Vidyā) và chân ngôn (Mantra, Dhāraṇī) có sai khác. Nếu từ tâm và miệng phát ra thì gọi là Chân Ngôn. Từ hết thảy các thân phần tùy ý sanh khởi thì gọi là Minh. Do ý nghĩa “tăng trưởng” mà gọi bằng danh từ giống cái (tức “minh phi”). Như vua là địa vị tôn quý, vợ của vua (phi) cũng đáng tôn trọng. Vì thế, gọi là Minh Phi (Vidyārājñī). Như trong phần trên, thoạt đầu ngài Kim Cang Thủ hỏi Phật, đức Phật từ đầu đến cuối đều giải đáp theo lời hỏi. Trong chặng giữa, có những lời khác gây gián đoạn. Nay đức Phật lại dựa theo ý trong phần trước mà đáp. Như trong phần trên, ý nghĩa của môn chữ Lãm đã được nói đại lược xong. Nay dựa theo [các nghi vấn] trước đó, đức Phật vì muốn cho hành giả tu Chân Ngôn trọn đủ các duyên, mau chóng đạt được đạo vô thượng, nên lại từ Cam Lộ Vương tam-muội mà khởi, nói ra minh phi sau đây.

 

          (Kinh) Thời, Phật do thị Định cố, phục thuyết Nhất Thiết Tam Thế Vô Ngại Lực Minh Phi viết: - Đát điệt tha: Già già na tam mê, a bát-ra để tam mê, tát bà đát tha nghiệt đa tam ma đá nỗ nghiệt đế. Già già na tam ma. Phạ ra lạc cật-sái nãi, sa ha.

          ()佛由是定故復說一切三世無礙力明妃曰怛姪他伽伽娜三迷 阿鉢囉底三迷 薩婆怛他蘗多三麼哆

弩蘗帝伽伽那三摩嚩囉落吃灑嬭莎訶

          (Kinh: Khi đó, đức Phật do môn Định ấy, lại nói Nhất Thiết Tam Thế Vô Ngại Lực Minh Phi rằng: “Đát điệt tha: Già già na tam mê, a bát-ra để tam mê, tát bà đát tha nghiệt đa tam ma đá nỗ nghiệt đế. Già già na tam ma. Phạ ra lạc cật-sái lệ nãi, sa ha - Tadyathā, gaganasame pratisame sarvatathāgata samatānugate gagana samavara-lakṣaṇe svāhā”).

 

          “Già già na tam mê” (Gaganasame, như hư không). “A bát-ra để tam mê” (Apratisame, thưa hỏi). “Tát phạ đát tha nghiệt đa” (Sarvatathāgata, hết thảy Như Lai). “Tam ma đá nỗ nghiệt đế” (Samatānugate, cùng với Như Lai đến chỗ trụ). “Già già na tam ma” (Gagana-sama, nhắc lại ý “bằng với hư không”). “Phạ ra lạc cật-sái” (Varalakṣaṇe, “phạ-la” (vara) là nguyện thù thắng, “lạc cật-sái” (lakṣa) là tướng).

          [Trong câu] “già già na tam mê”, “già già” nghĩa là hạnh. Nhắc lại chữ Hạnh, nhằm chỉ rõ hạnh ấy chính là vô sở hữu, tức là hành vô hạnh. Chữ thứ nhất nhằm chỉ ra, chữ sau là phá hoại, tức là pháp vô tướng, vô ngại này trong hư không vô lượng vô ngại, không đâu chẳng trọn khắp; nhưng lại có ý nghĩa khác, vì lẽ nào vậy? Nếu hết thảy các pháp thẳng thừng như hư không; đó chính là công đức không có lầm lỗi. Nay trong ấy tuy vô tướng, vô ngại giống như hư không, nhưng trọn đủ hết thảy các công đức chân thật của Như Lai, không gì chẳng trọn. Vì thế, kế đó nói về ý nghĩa của câu thứ hai. Tuy nêu ra hư không để sánh ví, nhưng [trong hạnh này] có vô lượng vô biên các đức lìa tướng, hư không chẳng thể sánh ví được! Công đức ấy bằng với Như Lai, là chỗ đạt đến của hết thảy Như Lai (tức là câu thứ ba). Lại nữa, nói “già già na tam mê” tuy trọn đủ vạn đức, nhưng chẳng biểu thị, giống như Đại Không; do vậy lặp lại. Ở đây nói “vô ngại lực” nghĩa là “chẳng thể phá hoại”, cũng có nghĩa là “vô tướng”. Do vô tướng, vô ngại, nên chẳng thể phá hoại.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Dĩ thử minh phi, Như Lai thân vô nhị cảnh giới, nhi thuyết kệ ngôn: - Do thị Phật gia trì, Bồ Tát đại danh xưng. Ư pháp vô quái ngại, năng diệt chúng sanh khổ.

          ()善男子以此明妃如來身無二境界而偈言由是佛加持菩薩大名稱於法無罣礙能滅除眾苦

          (Kinh: Thiện nam tử! Do minh phi này và thân Như Lai là cảnh giới vô nhị, bèn nói kệ rằng: - Do được Phật gia trì, Bồ Tát danh xưng lớn, chẳng vướng mắc nơi pháp, hay diệt khổ chúng sanh).

 

          Trong tam-muội, đức Phật hiện minh phi này. Miệng nói thì gọi là “chân ngôn đà la ni” (danh từ giống đực), do thân hiện ra thì gọi là Minh. Do minh phi và thân Như Lai là cảnh giới vô nhị, do bởi sức ấy, Phật, Bồ Tát có tiếng tăm to lớn, đắc pháp vô ngại, có thể trừ diệt khổ, nên nói “minh phi này giống như thân Như Lai”. Nếu chẳng ngộ lý này, sẽ không do đâu mà thành Phật được! Nếu chứng lý “vô tướng, vô ngại”, tức là được tự tại nơi pháp, thành tựu Bồ Đề. Vô tướng như thế chính là cảnh giới rất sâu của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Vì thế nói là “cảnh giới của Phật”. Mười phương ba đời chư Phật và Bồ Tát do nhập môn này, phổ môn thị hiện trong khắp pháp giới, thành tựu chúng sanh chẳng có cùng tận. Vì thế, có thanh danh to lớn, rền khắp mười phương, cho nên nói là “đại danh xưng”. “Đắc vô ngại pháp” (Đạt được pháp vô ngại): Do vô chướng, vô tướng, chẳng vướng mắc, nên có thể trừ nỗi khổ nơi thân và miệng của hết thảy chúng sanh, chân thật chẳng dối, đều khiến cho họ đạt được niềm vui rốt ráo nơi Vô Thượng Đại Bồ Đề. Do vẫn còn chưa hiểu rõ Chân Đế, nên nói là “vô minh”. Do vô minh, bèn có các hành, sanh ra đủ mọi nỗi khổ. Tuy Bồ Tát nhập vào địa vị, nhưng do chưa hiểu rõ cảnh bí mật rất sâu của Như Lai, cho nên vi tế vô minh cũng lại là khổ. Nay Phật khiến cho các chúng sanh ấy đều đạt đến cảnh giới Phật rốt ráo, nên nói là “trừ hết thảy các khổ”. Trừ nỗi khổ vô minh, tức là ban cho pháp lạc vô lượng vô biên công đức giải thoát chẳng nghĩ bàn trong hiện tại của chư Phật. “Phi” () là như người nữ trong cõi đời có thể sanh ra con cái, khiến cho dòng dõi chẳng dứt. Minh này có thể sanh ra tất cả công đức của hết thảy Như Lai; do nghĩa ấy mà nói là Phi. Khi hành giả tu hạnh Chân Ngôn, tuy có đủ loại phương tiện như trên, cần phải trì minh phi này. Nếu chẳng như thế, các đức sẽ chẳng trọn đủ vậy!

 

          (Kinh) Thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn tầm niệm chư Phật bổn sơ bất sanh, gia trì tự thân, cập dữ Trì Kim Cang giả, cáo Kim Cang Thủ đẳng thượng thủ Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Đế thính Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh phẩm, Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát năng tác Phật sự, phổ hiện kỳ thân.  

          ()毘盧遮那世尊尋念諸佛本初不生 加持自身及與持金剛者告金剛手等上首執金剛言善男子諦聽轉字輪漫荼羅行品真言門修行諸菩薩能作佛事普現其身

          (Kinh: Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn liền nghĩ tới chư Phật ban sơ bất sanh, gia trì thân mình và các vị Trì Kim Cang, bảo các vị thượng thủ Chấp Kim Cang như ngài Kim Cang Thủ v.v… rằng: - Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe phẩm Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh. Các Bồ Tát tu hành Chân Ngôn môn có thể làm Phật sự, hiện trọn khắp các thân).

 

          Như Lai từ Cam Lộ Vương tam-muội khởi, liền nghĩ “ta ban sơ vốn chẳng sanh hết thảy Phật thân”. Do bất sanh, liền cùng chư Phật chẳng hai Thể. Do vậy, giữ lấy chữ A vốn bất sanh, gia trì thân mình và các vị Chấp Kim Cang để bảo ban. Dùng “bất sanh” để gia trì, suy niệm như thế xong, phương tiện bảo các vị thượng thủ Kim Cang. “Thượng thủ” không chỉ là Bí Mật Chủ, mà là hết thảy các vị nhập môn chữ A đều là cái Thể bất nhị. Các vị Chấp Kim Cang trong mười cõi Phật đều là thượng thủ. “Các thiện nam tử lắng nghe”: Tự luân xoay chuyển gọi là Mạn-đồ-la, như trong hạnh phẩm đã nói cặn kẽ. Đối với các Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn làm Phật sự, sẽ có thể [hiện thân] ở trước mặt họ, “luân” chính là môn chữ A. Trong một chữ ấy, nhập hết thảy các chữ. Nhập một chữ ấy, sẽ xoay vần vô ngại trong hết thảy các pháp. Như bánh xe của người đời chẳng xoay chuyển thì thôi, hễ xoay chuyển sẽ chẳng có cùng tận, tìm đầu đuôi cũng đều chẳng thể biết rõ! Vì thế, gọi là Luân. Lại như bánh xe trong thế gian, nếu lúc xoay chuyển, sẽ có thể nghiến đứt hết thảy các loài cây cỏ. Dù là rễ, thân, cành, lá của chúng, hễ gặp bánh xe ấy, không gì chẳng bị nghiền nát. Vì cớ sao? Do vành bánh xe bén nhọn.

          Luân chữ A này cũng lại như thế, có thể trừ hết thảy vô minh phiền não; hễ ai được nghe, không gì chẳng bị dẹp tan! Mạn-đồ-la cũng có nghĩa là “thanh tịnh”, sẽ giải thích trong phần sau. “Phẩm quảng” tức là các ý nghĩa trong ấy có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Phẩm” là từ ngữ để gọi một phần [của một bộ kinh]. Nghĩa rộng là như bánh xe chẳng có đoạn dứt. Nhưng một phần kinh này cũng chẳng lìa khỏi luân này; do vậy, dùng đó để đặt tên. Các phẩm đều nói là Quảng do chuẩn theo nghĩa này (tức là do nói đại lược nên là “một phần”, do ý nghĩa rộng rãi nên là “vô tận”). “Vốn bất sanh” chính là A tự luân. Nhập luân này chính là đồng Thể bất nhị với chư Phật. Đức Phật vì thành tựu các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh, muốn nói A tự luân này, bèn trước hết tán thán công đức của luân ấy. Nếu thấu đạt cái luân này, sẽ có thể khiến cho các Bồ Tát phổ môn thị hiện, dùng thân mà hết thảy chúng sanh thích thấy, trụ khắp trước họ để hóa độ, do đại nhân duyên mà làm Phật sự. Vì thế nói là “trụ bỉ tiền” (trụ trước họ).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang tùng kim cang liên hoa tòa, toàn chuyển nhi hạ, đảnh lễ Thế Tôn, nhi tán thán ngôn.

          ()爾時執金剛從金剛蓮華座旋轉而下頂禮世尊而讚歎言

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang từ tòa kim cang liên hoa xoay chuyển rồi hạ xuống, đảnh lễ Thế Tôn, tán thán rằng).

 

          Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang đảnh lễ Phật, tương ứng với chày kim cang xoay chuyển rồi hạ xuống, bước xuống khỏi đài kim cang liên hoa xong bèn tán thán đức Phật. Vị Bồ Tát này do trên chày kim cang có đài hoa sen, bèn dùng đó để ngồi. Kim cang chính là trí ấn của chư Phật. Phật trí ấy in vào đài đại Mạn-đồ-la; do vậy, có sự biểu thị như thế. Như ném kim cang huệ lên hư không, nó xoay chuyển mà hạ xuống đất. Vị Bồ Tát này cũng thế, do nghe đức Phật nói A tự luân, hoan hỷ, hớn hở, lập tức ở nơi đài ấy, trên chày kim cang xoay chuyển vô lượng, từ tòa bước xuống, làm lễ đức Phật. Trong khi bước xuống, tương tự như ném chày kim cang lên hư không, nó sẽ xoay tròn rồi hạ xuống. Vì thế nói là “tương ứng với nó”. Điều này cũng nhằm biểu thị Phật trí vô ngại. Vì tỏ lòng cung kính nghe pháp, bèn bước xuống đất, dốc lòng tôn kính.

 

          (Kinh) Quy mạng Bồ Đề tâm! Quy mạng phát Bồ Đề! Khể thủ ư hạnh thể, Địa Ba La Mật đẳng, cung lễ tiên tạo tác, quy mạng chứng Không giả.              

()歸命菩提心!歸命發菩提!稽首於行體,地波羅蜜等,恭禮先造作,歸命證空者。

             (Kinh: Quy mạng Bồ Đề tâm, quy mạng phát Bồ Đề, đảnh lễ với Hạnh Thể, Địa Ba La  Mật  thảy, kính  lễ  tiên  tạo  tác, quy  mạng  đấng

chứng Không).

 

          “Quy mạng Bồ Đề tâm” tức quy mạng cái tâm của hết thảy chúng sanh (như trong phần trên đã nói về Bồ Đề trong cái tâm này). “Quy mạng phát Bồ Đề” tức là lại còn đảnh lễ người có thể phát sanh cái tâm ấy (tức là Bồ Đề tâm thanh tịnh nhập minh môn). “Khể thủ Hạnh Thể, Địa Ba La Mật”: Kế đó, quy kính cái Thể của hạnh Chân Ngôn. Hạnh Thể chính là mỗi địa vị và Ba La Mật. “Cung lễ tiên tạo tác” (Cung kính lễ bái bậc đã tạo tác trước đó): Hết thảy chúng sanh tuy có tâm Bồ Đề này, nhưng chẳng thể tự hiểu rõ. Vì thế, quy mạng bậc đã phát tâm thành tựu cái quả xưa kia và dạy lại chúng sanh; do nghĩ tới đại ân lại lễ bái. Nhắc lại chuyện quy mạng đảnh lễ, có ý nghĩa đại đồng tiểu dị. Nhắc lại, [hòng biểu đạt] sự cung kính sâu xa tột bậc như thế.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ như thị thán dĩ, nhi bạch Phật ngôn: - Duy nguyện pháp vương ai mẫn, hộ niệm ngã đẳng, nhi diễn thuyết chi, vị lợi ích chúng sanh cố, như sở thuyết chân ngôn tu viên mãn cố.

          ()祕密主如是歎已而白佛言惟願法王哀愍護念我等而演為利益眾生故如所真言修圓滿故

          (Kinh: Ngài Bí Mật Chủ tán thán như thế xong, bạch cùng đức Phật rằng: - Kính mong đấng pháp vương thương xót, hộ niệm chúng con mà diễn nói để tạo lợi ích cho chúng sanh tu viên mãn chân ngôn như đã nói).

 

          Tán thán đức Phật như thế xong, lại thỉnh cầu. Như người đời nuôi tằm để kiếm lợi, nên nuôi nấng cẩn thận. Ở đây cũng giống như thế, vì thỉnh đức Phật lại nói nghĩa sâu, tự lợi, lợi tha, nên trước hết tán thán đức Phật. “Không chứng” tức là chứng pháp vô tướng, vô ngại, bình đẳng. Bạch với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong đấng pháp vương tuyên nói do thương xót chúng con và hết thảy chúng sanh”. “Pháp vương”: Tự tại trong pháp, nên gọi là “pháp vương”.  

Nguyện thương xót, hộ niệm con, và vì lợi lạc chúng sanh. Do đấng pháp vương thương xót con, hộ niệm con, và vì lợi lạc chúng sanh, vì khiến cho hành giả Chân Ngôn sẽ đúng theo lời đức Phật dạy mà tu viên mãn, nguyện Phật lại nói về A tự luân. “Viên mãn”: Thuận theo các hạnh thượng, trung, hạ, tùy theo tánh phận mà được lợi ích, đều thành tựu diệu quả.

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Ngã nhất thiết bổn sơ, hiệu danh Thế Sở Y, thuyết pháp vô đẳng tỷ, bổn tịch vô hữu thượng.

          ()如是已,毘盧遮那世尊告執金剛祕密主言:我一切本初,號名世所依,說法無等比,本寂無有上。

          (Kinh: Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Ta hết thảy ban đầu, hiệu là Thế Sở Y, thuyết pháp khôn sánh bằng, vốn tịch, không gì hơn).

 

          Kế đó, đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ rằng: Thoạt đầu, trong các vị Phật tối thắng, ta được xưng tụng là Thế Sở Y (đấng để cõi đời nương tựa), sắp nói bí tạng. Trước hết là tự tán thán đức, do pháp này khó tin, giống như khi sắp nói kinh Pháp Hoa, [đức Phật] cũng tán thán tương đồng. “Bổn sơ” có nghĩa là thọ lượng. “Thế Sở Y”: Như hết thảy cỏ cây đều nương vào đất mà được tăng trưởng. Lại như thương nhân nương theo người hướng dẫn, vào trong biển bèn nương cậy thuyền trưởng, người bệnh khổ nương cậy bậc đại y, ở đây có nhiều môn đều nên nói. Nay đức Phật cũng thế, là nơi nương tựa cho hết thảy. Nhưng lại còn có thâm ý: Tuy nói là “tự thán” (tự khen ngợi công đức của chính mình), nhưng hàm ý là thuyết pháp. Như trong bản tiếng Phạn nói về Ngã (Ātman) thì trong ấy có âm A, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. Cái Thể thường trụ bất sanh ấy chính là cái để hết thảy nương vào. “Xưng hiệu”: Ta đã giác ngộ sự bất sanh ấy, hết thảy người đời gọi ta là Phật, chẳng phải là pháp giới bình đẳng có danh xưng như thế. “Thuyết pháp vô đẳng tỷ” (Thuyết pháp không có ai sánh bằng): Trong sự khôn sánh ấy, đối với những điều ngoại đạo đã nói, đều có pháp cao hơn. Vì thế nói là “hữu tỷ” (có cái so sánh được). Phàm hết thảy các kẻ chẳng hiểu rõ pháp bí mật nội chứng thì đều là ngoại đạo. Do đức Phật nói pháp “chẳng thể so sánh, sánh ví” này, thuyết pháp cũng là khôn sánh. Lại nữa, chữ Ma () trong Ngã (chính là nghĩa “bất sanh”, cũng là pháp được hỏi trong lời tán thán).

“Bổn tịch vô hữu thượng” (Vốn vắng lặng, chẳng có gì cao hơn được): Trong chữ Bổn có âm A, tức là ý nghĩa “bất sanh”. Do bất sanh nên bất diệt. Vì thế, vốn sẵn vắng lặng. Pháp này vi diệu bậc nhất, không chi hơn được. Do có thể tịch tĩnh các căn, sáu căn thường thanh tịnh, các ác vĩnh viễn diệt mất, cho nên nói là Tịch. Chữ A ấy chính là tâm của hết thảy chư Phật.

          Nay trong bài kệ của đức Phật nói đến chữ A, tức là nói tới pháp tự chứng của đức Phật, tuy trong hết thảy ngữ ý có nói, nhưng trọn chẳng thể biết rõ cảnh nội chứng ấy! Do pháp tự chứng chẳng thể nói, tuy đức Phật tự khen ngợi, tức là ca ngợi chữ A này, vì chữ ấy vốn sẵn là cái nương tựa cho cõi đời từ thuở ban sơ. Nay nói pháp tự chứng này, chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa hay ngoại đạo. Do pháp ấy chẳng thể sánh ví, nên nói là “vô tỷ”. Như người uống nước, nóng lạnh tự biết, còn chẳng thể nói cho người không uống biết. Huống hồ cảnh giới của Như Lai ư? (Hãy nên dẫn kinh Giải Thâm Mật). Nhưng do đức Phật dùng sức gia trì, nói pháp chẳng thể nói, chẳng thể diễn tả này, khiến cho các vị như Kim Cang Tạng v.v… đều cùng được biết. Chuyện này chính là hy hữu (nói “bổn tịch” thì hãy nên biết: Trong hết thảy Nhị Thừa và ngoại đạo, chẳng có pháp vốn sẵn tịch diệt này, do tâm cảnh của họ chẳng thể thấu đạt được).

 

          (Kinh) Thời, Phật thuyết thử già-tha, như thị nhi tác gia trì. Dĩ gia trì cố, Chấp Kim Cang giả cập chư Bồ Tát năng kiến thắng nguyện Phật Bồ Đề tòa. Thế Tôn do như hư không vô hý luận, vô nhị, hành Du Già tướng. Thị nghiệp thành thục. Tức thời, Thế Tôn thân chư chi phần, giai tất xuất hiện thị tự, ư nhất thiết thế, xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác Tĩnh Lự, tư duy cần tu, thành tựu Tất Địa, giai đồng thọ mạng, đồng chủng tử, đồng y xứ, đồng cứu thế giả: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a.  

          ()說此伽如是而作加持以加持故執金剛者及諸菩薩能見勝願佛菩提座世尊猶如虛空無戲論無二行瑜伽相是業成熟即時世尊身諸支分皆悉出現是字於一切世出世間聲聞緣覺靜慮思惟勤修成就悉地皆同壽命同種子同依處同救世者南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Khi đó, đức Phật nói kệ tụng này, thực hiện gia trì như thế. Do được gia trì, ngài Chấp Kim Cang và các Bồ Tát có thể thấy tòa Bồ Đề thắng nguyện của đức Phật. Đức Thế Tôn ví như hư không chẳng có hý luận, chẳng hai, hành tướng Du Già. Nghiệp ấy đã chín muồi, ngay lập tức, từ các chi phần nơi thân đức Thế Tôn thảy đều xuất hiện chữ ấy, trong hết thảy Tĩnh Lự thế gian, xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác, tư duy, siêng tu thành tựu Tất Địa, đều có cùng thọ mạng, cùng chủng tử, cùng chỗ nương vào, cùng là bậc cứu đời: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a - Namaḥ samantabuddhānāṃ, a”).

 

          Do được gia trì, ngài Chấp Kim Cang và các vị Bồ Tát có thể hiện

tòa Bồ Đề nguyện thù thắng của đức Phật, tức là khi đức Phật nói bài kệ ấy xong, do được thần lực của đức Phật gia trì, lúc bấy giờ, các vị Kim Cang Bồ Tát liền có thể hiện Bồ Đề tòa. Tòa ấy chỉ nói theo ý nghĩa thế gian; nhưng phương Tây gọi tòa này là Mãn-đồ (Manda). Mãn-đồ nghĩa là kiên cố, là bất động, là không còn gì sánh bằng, là trọn khắp pháp giới. Nay hiện tòa Bồ Đề này cũng như trong lạc hiện ra tô, các vị cùng tụ hội một chỗ mà chẳng tách lìa. Do gia trì nên có thể hiện ra. Tòa này được trang nghiêm bởi công đức của Như Lai, được vô lượng đại nguyện thành tựu, tức là giống như thân Phật hiện trọn khắp hết thảy chúng sanh giới để làm Phật sự. Vì thế nói là “thắng nguyện” (nguyện thù thắng). Hư không Như của Phật vô hý luận, do hành “vô nhị” tương ứng với lý mà thành tựu nghiệp ấy, tức là cái tòa này giống như hư không, lìa hết thảy phân biệt. Tuy các Bồ Tát tu hành đủ loại phương tiện như thế, nhưng cũng chẳng hai, chẳng khác, chẳng lìa diệu lý như thế. Vì thế nói là “tương ứng với lý”. Như người hành hạnh thì cũng đắc quả như thế, tức là chẳng hai, chẳng khác với cái tòa ấy. “Thành tựu” là Tất Địa được thành tựu bởi người tu hành. Trong khi đó, nơi các phần thân thể của đức Phật, thảy đều xuất hiện chữ ấy, trong hết thảy thế gian và xuất thế gian, Thanh Văn, Duyên Giác, Tĩnh Lự và quán, người siêng tu thành tựu Tất Địa [cũng như thế].

          Nói “trọn khắp thân Phật” tức là trong các thân phần của đức Phật, đều xuất hiện chân ngôn chữ A này. Môn chữ A này chính là huệ mạng của các thứ như Định quán v.v… thuộc thế gian, xuất thế gian và Nhị Thừa (nhiếp tâm chẳng tán là Định. Kế đó, sẽ quán chiếu, như lúc hành giả mới nhiếp tâm, thì các cách quán viên minh v.v… là Quán. Trong các phần sau, ý nghĩa thường liên quan). Như đối với một chữ Thọ, các Thọ có cùng một chủng tử, cùng mạng, cùng y xứ, cùng cứu độ, cùng hiện. Trong hết thảy các diệu nghiệp thuộc thế gian và xuất thế gian đã được thực hiện như trên, chữ A chính là mạng của chúng. Như người nếu chẳng có mạng căn, hết thảy các việc làm thảy đều bỏ phế. Hết thảy công đức, định huệ v.v… thuộc thế gian và xuất thế gian cũng thế, nếu lìa môn chữ A, sẽ chẳng thể tăng ích, thành tựu, như người chết chẳng thể làm gì được nữa!

          Lại nữa, chữ A là âm thanh phát ra khi mở  miệng. Nếu  chẳng  

âm A, sẽ không thể mở miệng. Nếu chẳng mở miệng, hết thảy các chữ đều không có. Do vậy, chữ A là chủng tử của hết thảy các chữ. Hãy nên biết: Hết thảy vạn hạnh cũng giống như thế, lấy môn chữ A làm chủng tử. Nếu lìa chữ A, cũng chẳng thành. “Đồng y xứ”: Như các chúng sanh nếu chẳng có đại địa, sẽ chẳng có trụ xứ. Môn chữ A này cũng giống như thế, nếu lìa chữ A, sẽ không có chỗ để nương vào. Cứu độ cũng giống như thế! Hãy nên biết môn chữ A chính là sự cứu hộ (cứu vớt, thủ hộ) to lớn trong hết thảy thế gian. Cuối cùng nói “hiện” là như trong phần trên, đức Phật vì các Bồ Tát và đại chúng mà hiện tòa kim cang, hết thảy các nghĩa thù thắng thảy đều có thể hiện. Kế đó liền nói môn chân ngôn này, tức là “nam ma tam mạn đa bột đà nẫm” (kính lễ trọn khắp chư Phật), “A” (đây chính là môn chân ngôn chữ A).

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thử A tự, nhất thiết Như Lai chi sở gia trì. Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát năng tác Phật sự, phổ hiện sắc thân, ư A tự môn, nhất thiết pháp chuyển.

          ()善男子此阿字一切如來之所加持真言門修菩薩行諸菩薩能作佛事普現色身於阿字門一切法轉      (Kinh: Thiện nam tử! Chữ A này được hết thảy Như Lai gia trì. Các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn có thể làm Phật sự, hiện trọn khắp sắc thân, chuyển hết thảy các pháp trong môn chữ A).

 

          Thiện nam tử! Do chân ngôn này được mười phương chư Phật dùng Pháp Thân cùng gia trì, những người tu hành do dùng chân ngôn này, có thể làm các Phật sự, cho đến hiện trọn khắp các sắc thân, vì hết thảy chúng sanh giới khai thị trí huệ của Phật. Như Phật có thể làm chuyện ấy, môn chữ A này cũng có thể làm như thế. Cái Thể của chữ này giống như thân của hết thảy các vị Phật. “A tự môn nhất thiết pháp chuyển” (Chuyển hết thảy các pháp trong môn chữ A): Do chuyển chữ A này, sẽ thành tựu đủ loại công đức. Từ môn chữ A này tu hành để chuyển.

 

          (Kinh) Thị cố, Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, nhược dục kiến Phật, nhược dục cúng dường, dục chứng phát Bồ Đề tâm, dục dữ chư Bồ Tát đồng hội, dục lợi ích chúng sanh, dục cầu Tất Địa, dục cầu Nhất Thiết Trí trí giả, ư thử nhất thiết Phật tâm, đương cần tu tập.  

          ()是故祕密主真言門修菩薩行諸菩薩若欲見佛若欲供養欲證發菩提心欲與諸菩薩同會欲利益眾生欲求悉地欲求一切智智者 於此一切佛心當勤修

          (Kinh: Do đó, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn nếu muốn thấy Phật, nếu muốn cúng dường, nếu muốn chứng phát Bồ Đề tâm, muốn cùng tụ hội với các Bồ Tát, muốn lợi ích chúng sanh, muốn cầu Tất Địa, muốn cầu trí Nhất Thiết Trí, hãy nên siêng tu tập nơi tâm này của hết thảy chư Phật).

 

          Các hàng Bồ Tát trong Chân Ngôn môn “muốn thấy chư Phật” tức là muốn thấy Pháp Thân thanh tịnh của hết thảy chư Phật, “muốn cúng dường” là dạo hết thảy các cõi Phật để cúng dường, thừa sự, nghe pháp, tu hành, “muốn chứng phát Bồ Đề tâm” chính là chứng Bồ Đề khiến cho cái tâm thanh tịnh, “muốn tụ hội cùng với các Bồ Tát” tức là cùng với các vị như Na La Diên Bồ Tát v.v… cùng tụ hội một chỗ để lãnh nhận hiện pháp lạc, “muốn lợi ích chúng sanh” tức là như Tỳ Lô Giá Na Phật thường vì hết thảy chúng sanh làm Phật sự to lớn, đủ loại thành tựu, “muốn cầu Tất Địa” là sự thành tựu tối thượng trong ấy, ngay như thân Phật mà còn có thể nhanh chóng đạt được, huống hồ các thành tựu khác ư, “muốn cầu trí Nhất Thiết Trí”: Môn chữ A này hết thảy nghĩa lợi không gì chẳng hoàn thành. Nói tóm lại, muốn cầu tìm trí Nhất Thiết Trí, quyết định sẽ đạt được! “Hãy siêng tu tập nơi tâm này của chư Phật”: Đức Phật bảo nếu quý vị muốn cầu những chuyện trên đây, chẳng có thuật nào khác, chỉ nên siêng tu môn chữ A này!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quyết định thuyết Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương, phu trí thánh thiên chi vị, tam-muội thần thông, Chân Ngôn hạnh bất tư nghị pháp. Bỉ A-xà-lê tiên trụ A tự nhất thiết trí môn, trì Tu Đa La, khể thủ nhất thiết chư Phật. Đông phương thân chi, toàn chuyển nhi Nam dĩ cập Tây phương, châu ư Bắc phương. Thứ tác Kim Cang Tát Đỏa, dĩ Chấp Kim Cang gia trì tự thân, hoặc dĩ bỉ ấn, hoặc dĩ Phạ tự, nhập ư nội tâm, trí Mạn-đồ-la. Như thị đệ nhị Mạn-đồ-la, diệc bổn tịch gia trì tự thân cố, vô nhị Du Già hình, Như Lai hình, Không tánh hình. Thứ xả sở hành đạo nhị phần thánh thiên xứ, viễn ly tam phần, trụ Như Lai vị. Đông phương thân Tu Đa La, châu táp toàn chuyển.

          ()爾時毘盧遮那世尊復決定說大悲藏生漫荼羅王敷置聖天之位三昧神通真言行不思議法彼阿闍梨先住阿字一切智門持修多羅稽首一切諸佛東方申之旋轉而南以及西方周於北方次作金剛薩埵以執金剛加持自身或以彼印或以嚩字入於置漫荼羅如是第二漫荼羅亦本寂加持自身故無二瑜伽形如來形空性形次捨所行道二分聖天處遠離三分住如來位東方申修多羅周匝旋轉

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quyết định nói cách sắp xếp tọa vị của chư thánh và chư thiên trong Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương, tam-muội thần thông, là pháp chẳng thể nghĩ bàn trong Chân Ngôn hạnh. Vị A-xà-lê ấy trước hết trụ trong hết thảy trí môn của chữ A, cầm dây Tu Đa La (chỉ ngũ sắc đã được gia trì), đảnh lễ hết thảy chư Phật, căng dây từ phương Đông, xoay sang phương Nam cho đến phương Tây, [kết thúc] trọn một vòng tại phương Bắc. Kế đó, [A-xà-lê] tưởng chính mình là Kim Cang Tát Đỏa, dùng Chấp Kim Cang gia trì tự thân, hoặc dùng ấn của Ngài, hoặc dùng chữ Phạ nhập vào nội tâm, sắp đặt Mạn-đồ-la. Đối với Mạn-đồ-la thứ hai cũng thế, cũng dùng sự vắng lặng vốn sẵn có [nơi Pháp Thân Phật] để gia trì bản thân, [khiến cho thân mình thành] hình tướng Du Già bất nhị, hình tướng Như Lai, hình tướng không tánh. Kế đó, chừa lại hai phần để làm đường đi lại [trong Mạn-đồ-la] và chỗ để đặt tọa vị của các tôn thánh và chư thiên, bỏ qua ba phần, trụ trong vị trí của Như Lai. Từ phương Đông, căng dây Tu Đa La, xoay chuyển để căng trọn một vòng).

 

          Như trong phần trước đã rộng nói cách xếp đặt các tọa vị trong Mạn-đồ-la, nay vì sao lại nói? Điều này có nhiều nghĩa, [tức là] do lại muốn khơi gợi, kích phát một loại chúng sanh, muốn khiến cho người đã được nghe nói trong phần trước càng hiểu rõ bội phần. Trong phần trước, tuy đã nói nơi chốn của các tọa vị, nhưng chưa trọn khắp, nay lại nói thêm, hòng chẳng bị khuyết thiếu. Hơn nữa, trong phần trước chỉ nhắc đến danh xưng, phần nhiều chưa nói hình dạng. Nay lại nói cho đầy đủ! Vì sao chẳng cùng nói luôn [ngay trong phần trước], mà lại tách ra để nói ở chỗ này? Điều này cũng có ý nghĩa. Thậm chí đối với người ưa thích pháp sâu xa, vẫn chẳng vì họ nói ngay, vì muốn cho họ phát khởi cái tâm trân trọng mà hướng dẫn dần dần. Lại nữa, nếu chỉ coi vẽ vời tôn dung là chân thật thì những người thợ vẽ cũng có thể thành tựu công đức của bậc A-xà-lê! Do không chỉ dùng đồ họa mà được thành tựu hạnh Chân Ngôn, mà còn phải tu sao cho mỗi mỗi đều tương ứng với thần thông, tam-muội, thì mới gọi là “hạnh chẳng nghĩ bàn”. Nay đức Phật do muốn khai thị điều đó, bèn nói các pháp như tam-muội v.v…, tức là nói tương ứng với thần thông và tam-muội.

          Vị A-xà-lê ấy trụ trong chữ A là hết thảy trí môn, cầm dây [do chỉ ngũ sắc xe lại], lễ hết thảy chư Phật như đã nói trong phần trước. Tưởng chữ A nơi tâm và tưởng chữ Ra nơi mắt v.v… như đã nói cặn kẽ trong phẩm trước. Nay muốn làm đàn, trước hết cần phải trụ trong tam-muội này, sao cho tương ứng với lý, dùng trí tương ứng với lý để sắp xếp, tính toán. Hễ thắt dây lại, phải sao cho [dây căng] vừa phải, chớ nên quá lỏng lẻo. Nếu chẳng vừa đúng, sẽ khiến cho thầy và đệ tử nhiều bệnh, bị chướng nạn quấy nhiễu. Nếu khi dùng, [dây căng quanh đàn] bị đứt thì cũng sẽ gây nên hao tổn. Kế đó, hãy nên biết phương hướng, nơi chốn. Do vậy, trước đó phải thẩm định các phương hướng. Nếu khi căng dây mà đệ tử lầm lẫn, chẳng hạn như ngỡ Đông là Tây v.v… sẽ khiến cho kẻ gây chướng có cơ hội [quấy nhiễu, phá hoại]. Kế đó, lễ hết thảy chư Phật, tức là lễ bản thể của chân ngôn chữ A.

          Thầy lễ xong, ở phương Tốn (góc Đông Nam) của đàn tràng đi về phương Bắc, đệ tử từ phương Cấn (góc Đông Bắc) hướng về Nam, kéo dây sao cho đối diện nhau. Kế đó, thầy kéo dây chuyển từ phương Càn (Tây Bắc) hướng sang Đông, đệ tử xoay mình hướng về Tây. Kế đó, đệ tử xoay theo chiều phải trở về góc Khôn (Tây Nam) hướng về phía Bắc, thầy xoay mình hướng về Nam. Kế đó, thầy xoay sang phải trở về phương Tốn hướng về Tây, đệ tử xoay mình hướng về phương Đông, tức là bốn phương vị đã xong. Kế đó đệ tử lại từ phương Càn hướng về phương Tốn, đối diện với thầy, tức là đã định xong góc Càn và Tốn v.v… Phàm ấn định bốn phương, ắt cần phải thẩm định chắc chắn như trên, chẳng được dời đổi. Nếu ấn định bốn góc và đường chữ thập ở chính giữa, chỉ cốt sao tùy tiện xoay theo chiều phải chẳng trở ngại là được rồi.

          Làm như thế xong, A-xà-lê lại từ trong Du Già, chuyển chữ A nơi tâm thành chữ Phạ, đúng như trước mà sắp đặt. Các phương tiện nơi chữ Ra v.v… chẳng khác phần trước. Chỉ đổi chữ A trong tâm thành thân Kim Cang Tát Đỏa. Cũng lại quán tưởng thân chính mình giống như thân Ngài, chấp trì Như Lai trí ấn. Tuy đổi chữ A thành Phạ, nhưng chẳng hề tách lìa. Vì lẽ nào vậy? Do bất sanh, tức là vốn chẳng có trói buộc, do Thể là một, chỉ có môn khác biệt. Căng dây như trên, vẫn chưa chạm đất, liền thắt lại. Đã quán điều này, [thầy] liền cùng đệ tử vào trong Trung Đài, vẫn giống như trên mà căng dây, chuẩn theo thứ tự trên đây để định ra phương hướng trong Trung Đài, làm giống như trên. “Vô nhị tương ứng hình, Như Lai hình, không tánh hình” là câu nhằm nhằm giải thích lẫn nhau. Tán thán vô nhị hình chính là Như Lai hình, Như Lai hình chính là Không tánh hình.

          Dây căng như vừa nói trên đây, hãy nên đặt ngang tim [của người cầm], thầy và đệ tử đối diện, hoạch định bốn phương, bốn góc, và đường chữ thập, chỉ dùng dây căng để ấn định, chưa đặt xuống (trước hết, dùng vật đánh dấu bốn góc, đã đánh dấu xong mới căng dây). Hãy nên biết khi ấn định như thế, tưởng trên đỉnh đầu có chữ A trọn khắp thân (đều như trong phần trên đã nói). Nhưng Đại Nhật Như Lai nhập Đại Bi Thai Tạng Sanh tam-muội, Đại Bi Thai Tạng tam-muội này có khác với Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la được nói trong phẩm trước hay không? Chính là vì đàn được nói trong phần trước các phương chưa trọn vẹn, màu sắc, hình tượng của [chư tôn] cũng chưa đầy đủ, nên lại nói thêm.

          Kế đó, ấn định các phương đã xong, thầy (A-xà-lê) tưởng chữ Phạ giống như trên đã nói “trọn khắp toàn thể thân phần, tưởng thân mình giống như hình tướng Chấp Kim Cang”, vào trong Trung Thai, căng dây ấn định phương vị trọn khắp rồi liền cột lại (Đã ấn định phương vị xong rồi mới cột lại, tức là cột lại ngay khi đó). Giả sử Trung Đài có hình vuông, mỗi bề rộng sáu thước, hãy ước định một nửa là ba thước. Đấy chính là kích thước rộng hẹp của viện thứ nhất ở ngoài Trung Đài. Chia khoảng rộng ba thước ấy thành ba lớp (tức là có ba lằn ranh). Phần thứ nhất là lối đi, phần thứ hai là chỗ để đặt các vật cúng dường, phần thứ ba là chỗ ngồi của chư tôn, [ở ngoài ba lớp ấy là] phần thứ tư, tức là ngoại duyên. Ba lớp ấy đều bằng nhau, còn phần ngoại duyên thì hẹp. Tính toán trong vòng ba thước ấy sao cho [ngoại trừ phần ngoại duyên, ba lớp ấy đều được chia] đều đặn thích đáng. Khi cúng dường, thầy nên vận tâm tưởng hết thảy [chư tôn] đều ứng hiện đến tụ hội tại đấy. Nhưng đối với các vị không vẽ tọa vị, đều cúng dường ở phần ngoại duyên. Kế đó, tách ra viện thứ hai rộng bằng một nửa của ba thước, tức là rộng một thước năm tấc. Trong viện ấy, cũng chia thành ba tầng và sắp bốn đường ranh giống như trong phần trên. Kế đó, tách ra một nửa của một thước năm tấc, tức là bảy tấc năm phân để làm phần viện ngoài. Ở trong khoảng bảy tấc rưỡi ấy, cũng đều đặt bốn đường sao cho thích đáng. Cửa thông ra ngoài trong phần đàn thứ nhất nên nối tiếp với chỗ đi lại trong đàn tràng. Hãy nên chừa ra một chút để dùng làm vị trí của cửa, thông với những chỗ đi lại khác (đặt các vị trời trong thế gian ở cửa này). Cửa thông ra ngoài nơi tầng thứ ba nếu đất rộng, tùy ý làm lớn hơn, chiếm nhiều chỗ hơn cũng chẳng trở ngại gì.

 

          (Kinh) “Sở dư nhị Mạn-đồ-la, diệc đương dĩ thị phương tiện, tác chư sự nghiệp. Phục dĩ Đại Nhật gia trì tự thân, niệm quảng pháp giới, nhi bố chúng sắc. Chân ngôn giả ưng dĩ khiết bạch vi tiên”, thuyết già-đà viết: - Dĩ thử tịnh pháp giới, tịnh trừ chư chúng sanh, tự thể như Như Lai, viễn ly nhất thiết quá. Như thị nhi quán tưởng, tư duy Ra tự môn, tịch nhiên quang diễm man. Tịnh nguyệt, thương-khư sắc. Đệ nhị bố xích sắc, hành giả đương ức trì, tư duy tự minh chiếu, bổn vô Đại Không điểm. Hoán bỉnh sơ nhật huy, tối thắng vô năng hoại.     

          ()所餘二漫荼羅亦當以是方便作諸事業復以大日加持自身念廣法界而布眾色真言者應以潔白為先說伽陀曰以此淨法界,淨除諸眾生,自體如如來,遠離一切過。如是而觀想,思惟囉字門,寂然光焰鬘,淨月商佉色。第二布赤色,行者當憶持,思惟字明照,本無大空點,煥炳初日輝,最勝無能壞。

          (Kinh: “Đối với hai Mạn-đồ-la kia, cũng dùng phương tiện như thế để làm các sự nghiệp. Lại dùng Đại Nhật Phật để gia trì tự thân, nghĩ tới pháp giới rộng khắp để sắp đặt các màu sắc. Người trì Chân Ngôn hãy nên dùng sắc trắng sạch trước hết”. [Đức Phật] nói già-đà rằng: - Dùng pháp giới thanh tịnh, tịnh hóa các chúng sanh, tự thể như Như Lai, xa lìa hết thảy lỗi. Hãy quán tưởng như thế, tư duy môn chữ Ra, vắng lặng, vòng lửa rực. Màu trăng sạch, thương-khư. Thứ hai, đặt màu đỏ, hành giả nên nghĩ nhớ. Tư duy chữ chiếu sáng, vốn không, chấm Đại Không, rạng ngời mặt trời mọc, tối thắng, chẳng thể hoại).

 

          Trong phần trước nói về Mạn-đồ-la, đã bảo: “Viện thứ hai đặt Thích Ca, viện thứ ba đặt Văn Thù Sư Lợi”, tương ứng với đoạn kinh văn này. Do trước đó, ấn định Trung Thai đã xong, trực tiếp hoạch định đến viện thứ ba, nên nói là “đệ nhị”, nhưng chẳng phải là đệ nhị, mà là tầng thứ ba. Nay ở đây tự có kinh văn để làm chứng: Văn Thù ở tầng thứ hai, Thích Ca ở tầng thứ ba. Tưởng chữ A định ra ngoại viện; kế đó, tưởng chữ Phạ làm Trung Đài[1]. Kế đó, ở tầng thứ hai, tưởng ngài Văn Thù, hoặc tưởng chữ Phạ, cũng giống như trước, trọn khắp các thân phần. Nơi viện thứ ba, tưởng Phật Thích Ca, hoặc tưởng chữ Bà (chữ Bà đọc nặng giọng, tức Bha). Chánh kinh nói về việc ấn định tọa vị bằng cách căng dây xong, kể từ phần ấn định màu sắc trở đi, do chưa hiểu rõ lời giảng giải, nên tôi không ghi lại (cần phải tìm hiểu thêm).

          Kinh nói: “Phục thứ Tỳ Lô Giá Na, ngã gia trì bỉ ấn, quảng pháp giới tầm niệm thái sắc” (Lại nữa, Tỳ Lô Giá Na, ta gia trì ấn ấy, nghĩ nhớ màu sắc trong pháp giới rộng lớn), ý nói: Từ đây trở đi là nói tới lúc tô màu, A-xà-lê hãy nên tưởng Tỳ Lô Giá Na Như Lai, hoặc ấn của Ngài. Ấn ấy chính là Quảng Đại Pháp Giới Ấn (lúc bấy giờ, hãy nên tưởng thân chính mình là Đại Nhật Như Lai). Tưởng như thế xong, đặt màu trắng[2] trước. Khi ấy, A-xà-lê tự tưởng thân mình chính là pháp giới. Thể của pháp giới là sáng suốt, trắng ngần vô nhiễm. Khi tưởng niệm như thế, không riêng gì thân ta là như thế, mà hết thảy hữu tình cũng lại như thế, tức là trừ sạch [phiền não] giống Như Lai, cũng lìa hết thảy các lỗi, thân chính mình bằng với Như Lai, thì gọi là “sắc trắng”. Trắng là pháp thể, lìa hết thảy các lỗi. Nhưng nói “hết thảy hữu tình đều cùng là diệu pháp giới”, hãy nên dùng pháp nào để đạt được? Đấy chẳng phải là không có phương tiện, [phương tiện] tức là môn chữ Ra. Khi nhập chữ này, sẽ có thể khiến cho bản thân và đệ tử cho đến hết thảy chúng sanh, rốt ráo đều bằng với thân pháp giới của Như Lai, vĩnh viễn lìa các lỗi. Vì thế, kế đó nói tưởng chữ Ra. Chữ ấy sắc trắng như xa cừ (hoặc nói là thương-khư, tức là vỏ ốc biển, sắc nó trắng sạch bậc nhất).

          Thầy nói: “Trong ấy bèn có chữ A và chữ Phạ. Vì thế, chữ Ra có màu trắng. Tưởng chữ sáng ngời như ánh lửa, vắng lặng, quang minh tuôn ra như sữa. Do sự thanh tịnh ấy mà thành sắc vô cấu, lìa hết thảy các lỗi. Và hoa Quân Đà (đây là hoa ở phương Tây, cũng trắng sạch khôn sánh), hoặc như vầng trăng sáng ngời. Ánh lửa tỏa từ chữ này cũng là màu trắng, vắng lặng, điềm tĩnh, an định, nhưng chói ngời quang minh. Khi tưởng như thế, lại tụng chữ Ra đến một trăm lượt, hoặc một ngàn lượt rồi mới tô màu. Pháp gia trì màu là trước hết ở trong màu tưởng chữ. Chữ đã tưởng thành, liền chuyển nó thành Phật. Ở đây có hai loại A Lợi Đồ, tức là tay trái đặt trên ngực, nắm thành quyền, duỗi ngón Phong (ngón trỏ) dựng thẳng, tay phải như đang nâng vật đưa thẳng lên. Chân trái hướng ra trước, cách chân phải khoảng ba thước đổ lại, xoạc chân là đúng. Trắng, đỏ, vàng, xanh đều dùng. Hãy nên tưởng hình Phật mà kết ấn này. Phàm kết ấn, có hai loại oai nghi, nếu đứng kết ấn thì cần phải luôn giữ oai nghi ấy. Bốn vị Phật có dáng vẻ tĩnh lặng, dùng ấn này. Màu thứ hai là màu đỏ, hãy nên ghi nhớ. Tức là A-xà-lê hãy nên suy nghĩ kỹ càng. Khi sắp tô màu đỏ, hãy nên tưởng chữ Raṃ (रं). Chữ ấy chiếu sáng, có màu như mặt trời mới mọc, hoặc đỏ, hoặc vàng, tức là sắc đỏ pha vàng, quang minh chiếu rạng ngời. Chữ này chính là chủng tử của Bảo Tràng Phật. Đấy chính là vị Phật không ai có thể hàng phục, tối thắng khôn sánh. Kiêm tưởng tự thân liền giống như chư Phật. Chữ Ra màu đỏ được thêm cái chấm (chẳng phù hợp thì dùng chữ A. Nếu ý nghĩa phù hợp thì dùng chữ Ra thêm chấm, [tức Raṃ]). Các phương diện khác chuẩn theo [những điều đã nói trong các phẩm trước!”

 

          (Kinh) Thứ vận bố hoàng sắc, định ý Ca tự môn, đương tùy ư pháp giáo, thân tướng do chân kim, chánh thọ hại chư độc, quang minh biến nhất thiết, kim sắc đồng Mâu Ni.

          ()次運布黃色,定意迦字門,當隨於法教。身相猶真金,正受害諸毒,光明遍一切,金色同牟尼。

          (Kinh: Kế, sắp đặt màu vàng, định ý môn chữ Ca, nên tùy thuận pháp giáo, thân tướng như vàng ròng, chánh thọ trừ các độc, quang minh trọn hết thảy, sắc vàng như Mâu Ni).

 

          Kế đó, khi tô màu vàng, hãy nên tưởng chữ Ca (, Ka) có màu vàng ròng, quang minh như ánh lửa cũng thế. Đấy là Mâu Ni Phật sắc vàng (Mâu Ni là danh hiệu chung của Phật). Ca có nghĩa là “tác nghiệp”, do vô tác nên vĩnh viễn lìa các lỗi. Trụ trong tam-muội này trừ các độc, quang minh chiếu trọn khắp hết thảy. Hãy nên nhập Định nương theo giáo (dụng ý là quán chắc thật, chẳng tán loạn).

 

          (Kinh) Thứ đương bố thanh sắc, siêu độ ư sanh tử, tư duy Ma tự môn, đại tịch Bồ Đề tòa, thân sắc như hồng nghê, trừ nhất thiết bố úy.

          ()次當布青色,超度於生死,思惟麼字門,大寂菩提座,身色如虹霓,除一切怖畏。

          (Kinh: Kế nên đặt sắc xanh, siêu độ khỏi sanh tử, tư duy môn chữ Ma, tòa Bồ Đề đại tịch, thân sắc như cầu vồng, trừ hết thảy sợ hãi).

 

          Kế đó, khi dùng màu xanh, tư duy trên đó có chữ Ma (, Ba), tức là tưởng [chữ ấy] ở trên màu xanh. Tức là ý nghĩa “vượt khỏi sanh tử”; đó chính là Thích Ca Mâu Ni Phật vậy. Vị Phật ấy ngồi trên tòa đại Bồ Đề. Hết thảy chư Phật dùng chữ này để trừ nỗi kinh sợ của chúng sanh, hàng phục lũ ma quân. Chữ ấy [có màu sắc] như rìa ngoài của cầu vồng, có màu như hoa sen xanh. Phương Tây gọi cầu vồng là “cung Đế Thích”. Quang minh này cũng thế. Các phương tiện khác cũng giống như trước.

 

          (Kinh) Tối hậu bố hắc sắc, kỳ thái thậm huyền diệu, tư duy Ha tự môn, châu biến sanh viên quang, như kiếp tai mãnh diễm, bảo quan cử thủ ấn, năng bố nhất thiết ác, hàng phục chư ma quân.

          ()最後布黑色,其彩甚玄妙,思惟訶字門,周遍生圓光,如劫災猛焰,寶冠舉手印,能怖一切惡,降伏諸魔軍。

          (Kinh: Cuối cùng đặt màu đen, màu ấy cực huyền diệu. Tư duy môn chữ Ha. Viên quang sanh trọn khắp, như Kiếp hỏa hừng hực, mão báu, nâng thủ ấn, hay dọa hết thảy ác, hàng phục các ma quân).

         

          Kế đó, khi tô màu đen, bèn tưởng chữ Ha (), như lúc kiếp tai, đại hỏa tột bậc cực thịnh, nên có ánh sáng đen tía. Quang minh của chữ này cũng lại giống như thế. Đấy là A Súc (Akṣobhya) Như Lai, vị Phật ấy do lòng đại từ bi, vì thủ hộ hết thảy, hàng phục các chướng, hiện hình Tỳ Câu Chi (Bhrukuṭī, nhíu mày) phẫn nộ, kiêm kết ấn để hàng phục những kẻ gây chướng. Tỳ Câu Chi là “nhăn mày” như trong phần trước đã nói. Các phương tiện khác giống như trên. Đoạn này nên đặt ra trước. Vị tôn thánh này tên Bát La Để Rị Đồ, đó là tiếng Phạn. Ấn của Ngài là tay trái giơ lên, duỗi chân trái, gập chân phải. Đó là tư thế hàng phục thông dụng. Ngài hiện hình Kim Cang Phẫn Nộ, chẳng cần thị hiện hình tướng Phật. Hai vị tôn thánh này dùng chung cho hết thảy các thân ấn. Kế đó, kim cang hữu tình kim cang chấp ngã gia trì, ấn của Ngài hoặc là chữ Phạ, hoặc đặt trong Trung Đài Mạn-đồ-la. Muốn thực hiện, thầy trước hết đã dùng dây căng để hoạch định ranh giới xong, khi muốn vào Trung Đài, liền tự dùng Kim Cang Thủ để gia trì. Thầy tưởng chữ A là thân chính mình, liền giống như Tỳ Lô Giá Na Phật, chớ nên nghĩ chính mình đang tác pháp. Vì thế, chuyển thành thân Chấp Kim Cang Bồ Tát, do chữ A “vốn bất sanh” và chữ Phạ chẳng tách lìa, cho nên có thể dùng lẫn cho nhau. Mạn-đồ-la thứ hai cũng được sức gia trì vốn vắng lặng của ta như thế, là hình thể tương ứng với vô nhị, là hình thể tánh Không của Phật.

          Kế đó, lại tán thán công đức của chữ Phạ. Do nghĩa của chữ A nhập vào trong ấy, cũng lại vốn vắng lặng, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. “Vô nhị tương ứng”: Chữ Phạ chính là chữ A, chẳng hai, chẳng tách rời, lý thường tương ứng. Do vốn vắng lặng, hình thể của Như Lai cũng là không, vô tự tánh. Hai phần kế đó là vị trí của chư thiên. [Trong phần trước nói] “bỏ ba phần ở ngoài mạn-đồ-la, cách xa chỗ đường ranh, đối mặt với phương Đông căng dây” v.v… tức là mỗi viện đều có ba tầng, bỏ qua hai tầng thứ nhất và thứ hai, nơi viện thứ ba đặt thần vị (tòa vị của chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la). Kế đó, bỏ đệ nhị viện, chỉ tô màu nơi viện thứ ba. Do phần nói về năm màu trong các phẩm trước, ý nghĩa vẫn chưa trọn, nên lại thưa hỏi.

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na tùng tam-muội khởi, trụ ư Vô Lượng Thắng Định, Phật ư Định trung, hiển thị Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực minh phi, ư nhất thiết Như Lai cảnh giới trung sanh. Kỳ minh viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, tát bà mục khế tệ, a sa mê, bát ra mê, a giả lệ, già già nê tát ma ra nãi, tát bà đát la nỗ nghiệt đế, sa ha.

          ()爾時世尊毘盧遮那從三昧起住於無量勝定佛於定中顯示遍一切無能害力明妃於一切如來境界中生其明曰南麼薩婆怛他蘖帝弊薩婆目契弊阿娑迷鉢囉迷阿者麗伽伽泥薩麼囉嬭薩婆怛羅弩蘖帝  

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na từ tam-muội khởi, trụ trong Vô Lượng Thắng Định, từ trong Định, đức Phật hiển thị Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực minh phi, sanh trong cảnh giới của hết thảy Như Lai. Minh chú là: “Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, tát bà mục khế tệ, a sa mê, bát ra mê, a giả lệ, già già nê tát ma ra nãi, tát bà đát la nỗ nghiệt đế, sa ha - Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ sarva-mukhebhyaḥ,   asame   parame   acale   gagane    smaraṇe    sarvatrānu-gate svāhā”).

 

          Trước đó, Như Lai đã trụ trong Cam Lộ Vương tam-muội để nói pháp môn trên đây xong, vì muốn thỏa mãn các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn, khiến cho các phương tiện của họ đều được trọn đủ, lại từ Định khởi, nhập Vô Lượng Thắng tam-muội. “Vô Lượng Thắng tam-muội”: “Vô lượng thắng” có nghĩa là chẳng thể hại. Do trụ trong Vô Lượng Thắng tam-muội, cảm phát mà sanh khởi minh phi này. Minh phi này được gọi là Nhất Thiết Như Lai Cảnh Giới Sanh, tức là cảnh giới của Phật. Các vị Bồ Tát tu hạnh Chân Ngôn do Minh này, liền có cùng cảnh giới với Như Lai, cũng sanh ra cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế. Do nhập cảnh giới của Phật, các công đức đã làm cũng lại giống như Như Lai. Biến Nhất Thiết Vô Năng Hại Lực (Sức trọn khắp, hết thảy chẳng thể hại được): Vô Năng Hại có nghĩa là vô chướng ngại. Chẳng phải chỉ trọn khắp các cảnh giới của Như Lai, mà còn trọn khắp hết thảy cảnh giới của Thanh Văn và Duyên Giác. Thậm chí người thoạt đầu mới phát tâm chỉ cần tu hạnh Minh Phi này, cũng liền nhập cảnh giới của Như Lai.

          “Nam mô tát bà đát tha nghiệt đế tệ” (Namaḥ sarva-tathāgatebhyaḥ): Quy mạng hết thảy các đức Như Lai. Do được sanh bởi các Như Lai, nên chẳng phải là một. Do chẳng phải là một, nên nói là Đẳng. “Tát bà mục khế tệ” (Sarva-mukhebhyaḥ): Hết thảy các đức Như Lai là chỗ mong mỏi bậc nhất. “A sa mê” (Asame): Vô đẳng. Do sanh từ hết thảy cảnh giới của Như Lai, cho nên là vô đẳng (không gì bằng). Lại giải thích theo ý nghĩa bí mật, chữ A trong ấy chính là bản thân Phật, Tam Mê là Đẳng. Bằng với chư Phật, tức là bằng với cái Thể của chữ A. “Bát ra mê” (Parame) được dịch là đệ nhất. Do vô đẳng nên là đệ nhất, tức không có gì hơn được! Giải thích theo ý nghĩa bí mật, chữ Bát này chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do chữ A ở trên có cùng cái Thể với hết thảy Như Lai, tức là Đệ Nhất Nghĩa Đế, bằng với Như Lai. “A giả lệ” (Acale) là bất động. Do sanh từ chữ A nên cùng là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Đệ Nhất Nghĩa chính là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh vắng lặng, cho nên chẳng thể phá, chẳng thể chuyển. “Già già nê” (Gagane) là Không. Do bất động nên bằng với hư không, tánh rộng lớn chẳng thể phân biệt, hạn lượng. “Tát-ma ra nãi” (Smaraṇe) là suy nghĩ, tức là nghĩ tới ý nghĩa của chữ A, tức là luôn thường hằng, luôn nghĩ nhớ ý nghĩa ấy chẳng gián đoạn. “Tát bà đát-ra nỗ nghiệt đế” (Sarvatrānugate) là “biến chí” (遍至, tới trọn khắp). Do thường nghĩ tưởng ý nghĩa như thế, có thể tới trọn khắp hết thảy các xứ. Không chỉ tới trọn khắp hết thảy chư Phật, mà còn tới trọn khắp Thanh Văn, Duyên Giác, cho tới chỗ những người vừa mới phát tâm). “Sa-phạ ha” (Svāhā): Chữ Sa-phạ nghĩa là Tự, Ha là bổn.

          [Minh chú này nhằm] nhắc nhở chư Phật hãy nhớ tới bổn thệ nguyện. Xưa kia, Như Lai đã lập thệ nguyện quyết định như thế, người tu hạnh Chân Ngôn này đều sẽ nên trì và kiến lập như thế, khiến cho sở nguyện mau chóng được thỏa mãn. Ta nay do tu hành như thế, nhắc nhở, kích phát chư Phật hãy nghĩ tới thệ nguyện của các Ngài.

 

          (Kinh) Thứ, điều thái sắc, đảnh lễ Thế Tôn, cập Bát Nhã Ba La Mật, trì thử minh phi bát biến. Tùng tòa nhi khởi, toàn nhiễu Mạn-đồ-la, nhập ư nội tâm, dĩ đại từ đại bi lực niệm chư đệ tử.

          ()調彩色頂禮世尊及般若波羅蜜持此明妃八遍從座而起旋繞漫荼羅入於以大慈大悲力念諸弟子          

(Kinh: Kế đó, điều hòa màu sắc, đảnh lễ đức Thế Tôn và Bát Nhã Ba La Mật, trì minh phi này tám lần. Từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Mạn-đồ-la, vào trong giữa đàn, do sức đại từ đại bi nghĩ tới các đệ tử).

 

          Kế đó là cách điều hòa màu sắc. Kính lễ Phật và Bát Nhã Ba La Mật Đa, tụng minh phi này tám lần, tức là điều hòa màu sắc để vẽ hình tượng bổn chân của Như Lai. Trước hết, hãy đọc tụng kinh Đại Bát Nhã, cung kính cúng dường; đó là ý nghĩa của “lễ Phật”. Phàm điều hòa màu sắc, cần phải làm như thế. Lại tưởng chữ thuộc loại màu sắc ấy. Tụng chữ ấy một trăm lần hoặc ngàn lần. Lại tụng minh phi tám lần. Thầy điều hòa màu sắc xong, từ Định khởi, nhiễu quanh [mạn-đồ-la] xong, vào bên trong ấy, nghĩ tới các đệ tử. “Đại từ bi lực” chính là thầy tự làm kim cang, chữ và ấn, [nghĩa là] thầy từ Định khởi, nhiễu quanh Mạn-đồ-la, phát tâm đại từ, liền dùng sức đại từ bi ấy để gia trì đệ tử.

 

          (Kinh) A-xà-lê phục dĩ Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa gia trì tự thân, dĩ Phạ tự môn cập Thí Nguyện Kim Cang dĩ, đương họa Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la. Bỉ an tường tại ư nội tâm, nhi tạo Đại Nhật Thế Tôn, tọa bạch liên hoa, thủ đới phát kế, bát trá vi quần, thượng bị tiêu hộc. Thân tướng kim sắc, châu thân diễm man, hoặc dĩ Như Lai đảnh ấn, hoặc dĩ tự cú, vị A tự môn. Đông phương nhất thiết chư Phật, dĩ A tự môn cập Đại Không điểm. Y Xá Nê phương, nhất thiết Như Lai Mẫu Hư Không Nhãn, ưng thư Già tự. Hỏa thiên phương nhất thiết chư Bồ Tát, họa Chân Đà Ma Ni bảo, hoặc trí Ca tự. Dạ Xoa phương Quán Thế Tự Tại, liên hoa ấn, tịnh họa Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát quyến thuộc, hoặc tác Sa tự. Diễm Ma phương, việt tam phần vị, trí Kim Cang Huệ ấn, Trì Kim Cang Bí Mật Chủ tịnh quyến thuộc, hoặc thư Phạ tự. Bỉ phục khí tam phần vị, họa Nhất Thiết Chư Chấp Kim Cang ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Hồng tự.

          ()阿闍梨復以羯磨金剛薩埵加持自身以嚩字門及施願金剛已當畫大悲藏生大漫荼羅彼安祥在於內心而造大日世坐白蓮華首戴髮髻鉢吒為裙上被綃縠身相金色周身焰鬘或以如來頂印或以字句謂阿字門東方一切諸佛以阿字門及大空點伊舍尼方一切如來母虛空眼應書伽字火天方一切諸菩薩畫真陀摩尼寶或置迦字夜叉方觀世自在蓮華印并畫一生補處菩薩眷屬或作娑字焰摩方越三分位置金剛慧印持金剛祕密主并眷屬或書嚩字彼復棄三分位畫一切諸執金剛印或書字句所謂

          (Kinh: A-xà-lê lại dùng Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa để gia trì bản thân, dùng môn chữ Phạ và Thí Nguyện Kim Cang xong, hãy nên vẽ Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la. Ở chính giữa đàn, A-xà-lê an tường tạo hình Đại Nhật Thế Tôn, ngồi trên hoa sen trắng, tóc búi trên đầu, bát-trá (Paṭa, lụa cực mịn) làm xiêm, phía trên khoác lụa là, thân tướng sắc vàng, quanh thân có tràng [quang minh] hình ngọn lửa. Hoặc [nếu không vẽ hình Ngài] thì dùng Như Lai đảnh ấn [để thay thế], hoặc dùng câu chữ, tức là môn chữ A. Hết thảy chư Phật ở phương Đông, dùng môn chữ A và chấm Đại Không. Nơi phương Y Xá Nê (Đông Bắc), đặt Nhất Thiết Như Lai Mẫu Hư Không Nhãn (Gaganalocanā), hãy nên viết chữ Già. Đối với hết thảy các vị Bồ Tát ở phương Hỏa Thiên (phương Đông Nam), vẽ báu Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi), hoặc đặt chữ Ca. Quán Thế Tự Tại Bồ Tát ở phương Dạ Xoa (Bắc), vẽ ấn hoa sen, và vẽ các vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát làm quyến thuộc, hoặc vẽ chữ Sa. Nơi phương Diễm Ma (Nam), bỏ qua ba phần vị, đặt Kim Cang Huệ ấn, Trì Kim Cang Bí Mật Chủ và quyến thuộc, hoặc viết chữ Phạ. Vị ấy lại bỏ qua ba phần vị, vẽ Nhất Thiết Chư Chấp Kim Cang ấn, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Hồng).

 

          A-xà-lê thực hiện Thành Sự Kim Cang Tát Đỏa (tức là Yết Ma Kim Cang Tát Đỏa) để gia trì. “Chữ Phạ, thí nguyện kim cang” v.v… là nói vị A-xà-lê ấy do được Như Lai gia trì và do chữ A, nên [bản thân vị ấy] chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. [Nói đến] chữ Phạ và Thí Nguyện Cát Tường Kim Cang là nói đến Văn Thù. Kế đó, chủng tử là chữ Ma, tức là cái chấm Đại Không (), thêm chữ Phạ (, Va) vào đó, thành chữ Vãm (वं). Lại dùng chữ Phạ để gia trì làm thân Kim Cang Tát Đỏa hòng vẽ các hình tượng. Trong khi làm, hãy tưởng [thân Bồ Tát] giống như thân chính mình như trong phần trên đã nói. Lại tụng chữ Phạ này một trăm lần, hoặc một ngàn lần.

          Vẽ Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la, “an tường trong Mạn-đồ-la”: Thầy tự gia trì như thế xong, an tường đứng lên vào trong Trung Đài, thong thả sắp xếp các màu để vẽ hình tượng đức Tỳ Lô Giá Na. Hình tượng ấy ngồi trên tòa hoa sen trắng, dùng tóc kết thành mão, không kèm thêm trang sức, dùng lụa cực mịn làm xiêm[3], lại dùng lượt là cực mịn và sa nhẹ để làm áo phía trên, khiến cho sắc tướng có màu thịt bên trong hiện bóng ra ngoài. Thân Ngài có màu vàng Diêm Phù Đàn, màu vàng cực đậm tươi tắn. Quanh thân đức Phật đều sanh ra ánh sáng như ngọn lửa, kết thành tràng bao quanh khắp thân chẳng gián đoạn. Sở dĩ cần phải tạo hình tượng vị Phật này trong Mạn-đồ-la là vì muốn cho các đệ tử mau sanh nguyện thù thắng, và do sức gia trì, sẽ thành tựu viên mãn thân Nhất Thiết Trí. Vì thế, cần phải tạo lập [hình tượng Ngài] trước  hết.

          Lại nữa, tạo đàn có pháp thượng, trung và hạ. Nếu đệ tử tài lực dư dật, kham có thể rộng thực hiện, thầy sẽ làm đàn có vẽ hình tượng, hòng chỉ bày hình tướng thân và ấn của Bổn Tôn. Nếu sức làm nổi, mà làm tự đàn (Mạn-đồ-la không vẽ hình Bổn Tôn, chỉ vẽ chủng tử tương ứng ở mỗi phương vị), tức là phạm tội ẩn tàng bí pháp. Nếu quán thấy tâm đệ tử tột bậc ân cần, trân trọng, cho đến chẳng tiếc thân mạng còn có thể xả thân để có thể phụng sự thầy, huống hồ có điều keo tiếc ư? Nhưng khi tài lực chẳng lo nổi, cho phép làm Tự Mạn-đồ-la, tức là ở nơi đáng lẽ đặt hình tượng Phật thì chỉ vẽ chữ A. Đấy chính là cái Thể của Như Lai. Đặt chữ A xong, ở ngoại viện của Trung Đài, đối diện thẳng với phía Đông, vẽ chữ A thêm chấm Đại Không (tức chữ Aṃ, अं). Lại ở phương Đông Bắc, tức phương Tự Tại Thiên (Y Xá Na) đặt chữ Già (, Ga). Chữ Già ấy chính là Hư Không Nhãn (Gagana-Locanī), tức là mẹ của hết thảy Phật và Bồ Tát. Kế đến, ở phương Hỏa (phương Đông Nam), đặt ấn Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo Châu) của hết thảy Phật, Bồ Tát, hoặc viết chữ (chữ Ka, ). [Vẽ hai vị tôn thánh ở] phương Bắc là Quán Tự Tại và Di Lặc, các vị Nhất Sanh Bổ Xứ trong Hiền Kiếp làm quyến thuộc, hoặc đặt chữ Sa (). Phía Nam thì đặt các vị như Kim Cang Thủ v.v… Hoặc vẽ hình tượng, hoặc vẽ ấn (tức là bạt-chiết-la (chày kim cang) ba nhánh), hoặc vẽ chữ Phạ (Va, ). Lại nữa, chữ đặt trong đàn ở đây có phương vị khác với đàn tràng trong phần trước, hãy tra duyệt. Lại nữa có ba phần vị bỏ qua, tức là có ba chỗ không vẽ các ấn hoặc chữ chủng tử của hết thảy các vị Chấp Kim Cang, cũng như trong phần trước đã giải thích. Nếu chữ và ấn của [các vị tôn thánh mà trong chánh kinh chẳng nói rõ] khác nhau thì vẽ chữ Hồng.

 

          (Kinh) Thứ, Niết Rị Để phương, ư Đại Nhật Như Lai hạ, tác Bất Động Tôn, tọa ư thạch thượng, thủ trì quyến sách, huệ đao, châu táp diễm man, nghĩ tác chướng giả, hoặc trí bỉ ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Hám tự. Phong Thiên phương, Hàng Tam Thế Tôn, tồi đại chướng giả, thượng hữu quang diễm, đại thế oai nộ do như Diễm Ma. Kỳ hình hắc sắc, ư khả bố trung, cực linh bố úy, thủ chuyển kim cang, hoặc tác bỉ ấn, hoặc thư tự cú, sở vị Ha tự.  

          ()涅哩底方於大日如來下作不動尊坐於石上手持羂索慧刀周匝焰鬘擬作障者或置彼印或書字句所謂唅字風天方降三世尊摧大障者上有光焰大勢威怒猶如焰摩其形黑色於可怖中極令怖畏手轉金剛或作彼印或書字句所謂訶字

          (Kinh: Kế đó, ở phương Niết Rị Để, phía dưới Đại Nhật Như Lai, vẽ ngài Bất Động ngồi trên tảng đá, tay cầm dây trói và huệ đao, chung quanh có các ngọn lửa kết thành tràng, hàng phục kẻ gây chướng. Hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Hám. Ở phương Phong Thiên (Tây Bắc), vẽ ngài Hàng Tam Thế Tôn là bậc dẹp trừ chướng ngại to lớn, phía trên có quang minh như ngọn lửa, thế lực to lớn, oai mãnh, phẫn nộ như vua Diễm Ma. Thân hình Ngài màu đen, vẽ sao cho tột bậc đáng sợ trong các sự sợ hãi, tay Ngài xoay chày kim cang, hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức là chữ Ha).

 

          Kế đó, ở phương La Sát (Niết Rị Để là một vị chúa tể của loài La Sát, tức phương Tây Nam), phía dưới đức Tỳ Lô Giá Na, vẽ ngài Bất Động (Acalanātha) ngồi trên tảng đá, tay cầm đao và dây trói. Toàn thân Ngài được bao bọc trong tràng ngọn lửa, hàng phục hết thảy những kẻ gây chướng. Hoặc chỉ vẽ ấn của Ngài (“ấn” là nói tới đao và dây trói), hoặc chỉ vẽ chữ Hám (हां, Hāṃ). Kế đó, ở phương Phong (Tây Bắc), vẽ ngài Hàng Tam Thế chiến thắng, trừ diệt hết thảy kẻ gây chướng ngại. Đầu Ngài có quang minh chói rực, hiện vẻ đại phẫn nộ giống như hình dạng Diêm Ma La (Diêm Vương), màu đen, tột bậc khủng bố trong các dáng vẻ khủng bố đáng sợ. Hãy nên vẽ hình dạng Ngài tột bậc đáng sợ. Tay Ngài xoay bạt-chiết-la (tức là chày kim cang ba nhánh; đó là Định), hoặc chỉ vẽ chữ để biểu thị (tức là chữ Hā, हा).

 

          (Kinh) Thứ, ư tứ phương, họa tứ đại hộ. Đế Thích phương, danh Vô Úy Kết Hộ Giả, kim sắc, bạch y, diện hiện thiểu phẫn nộ tướng, thủ trì Đàn Đồ, hoặc tác bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị tác Phạ tự. Dạ Xoa phương, danh Hoại Chư Bố Kết Hộ Giả, bạch sắc, tố y, thủ trì Khiết-già, tịnh bố quang diễm, năng hoại chư bố. Hoặc họa bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Phạ tự. Long phương, danh Nan Hàng Phục Kết Hộ Giả, diệc như Vô Ưu hoa sắc, bị châu y, diện tượng vi tiếu, tại quang diễm trung, nhi quán nhất thiết chúng hội, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Sách tự. Diễm Ma phương, danh Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ Giả, hắc sắc, huyền y, tỳ câu chi hình, mi gian lãng văn, thượng đới phát quan, tự thân oai quang chiếu chúng sanh giới, thủ trì Đàn Đồ, năng hoại đại vi chướng giả, hoặc tác bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Cật-sấm tự, cập nhất thiết quyến thuộc, sứ giả, giai tọa bạch liên hoa thượng.  

          ()於四方畫四大護帝釋方名無畏結護者金色白衣面現少忿怒相手持檀荼或作彼印或置字句所謂作嚩字夜叉方名壞諸怖結護者白色素衣手持朅伽并布光焰能壞諸怖或畫彼印或置字句所謂嚩字龍方名難降伏結護者亦如無憂華色被朱衣面像微笑在光焰中而觀一切眾會或置彼印或置字句所謂索字焰摩方名金剛無勝結護者黑色玄衣毘俱胝形眉間浪文上戴髮冠自身威光照眾生界手持檀荼能壞大為障者或作彼印或置字句所謂吃讖字及一切眷屬使者皆坐白蓮華上   

(Kinh: Kế đó, ở bốn phương, vẽ bốn vị đại hộ. Ở phương Đế Thích (phương Đông), tên là Vô Úy Kết Hộ, sắc vàng, áo trắng, vẻ mặt hiện chút tướng phẫn nộ, tay cầm Đàn Đồ (Daṇḍa: Gậy), hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là vẽ chữ Phạ. Ở phương Dạ Xoa (phương Bắc), tên là Hoại Chư Bố Kết Hộ, màu trắng, áo trắng, tay cầm gươm Khiết-già (Khaḍga), và xếp đặt quang minh chói ngời, có thể dẹp tan các sợ hãi. Hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Phạ. Ở phương Rồng (phương Tây), tên là Nan Hàng Phục Kết Hộ, cũng có màu như hoa Vô Ưu, mặc áo đỏ, vẻ mặt mỉm cười, ở trong quang minh rực lửa, quán hết thảy chúng hội, hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Sách (Saḥ). Ở phương Diễm Ma (phương Nam), tên là Kim Cang Vô Thắng Kết Hộ, màu đen, áo đen, có hình dạng nhíu mày, giữa hai mày có vết nhăn như sóng, đầu đội mão che tóc, oai quang nơi thân Ngài chiếu chúng sanh giới, tay cầm Đàn Đồ, hoặc vẽ ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Cật-sấm (Kṣaṃ), và hết thảy quyến thuộc, sứ giả của Ngài đều ngồi trên hoa sen trắng).

 

          Kế đó, ở bốn phương, vẽ bốn vị đại kết hộ. Phương Đông, vẽ Vô Úy Kết Hộ (Abhaya), thân kim sắc, áo trắng, mặt hơi giận dữ, tay cầm gậy. Hoặc là chỉ vẽ ấn (chỉ vẽ ấn hình gậy), hoặc chỉ đặt chữ (chữ Phạ). Phương Bắc, vẽ Hoại Chư Bố Đại Hộ (Sarvabhayavināśin), màu trắng, tay phải cầm đao, mặc áo trắng, có quang minh như ngọn lửa. Nếu vẽ ấn thì chỉ vẽ hình đao. Nếu vẽ chữ thì vẽ chữ Phạ. Phương Tây là Nan Hàng Đại Hộ (Durdharṣa), chẳng ai có thể chế phục Ngài được, do vậy đặt tên như thế. Thân Ngài có màu hoa Vô Ưu (như màu hoa Thục Quỳ[4] có màu tía đậm ở phương này), áo Ngài mặc cũng là màu đỏ, nhưng nhạt hơn màu thân. Vẻ mặt mỉm cười, ở trong viên quang. Hãy vẽ Ngài trong dáng vẻ quán sát đại hội chúng, tức là các đại hội ở bốn phương. Ấn thì chỉ vẽ đao ấn, vẽ chữ thì là chữ Sách (सः, saḥ). Phía Nam là Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ (Vajrāparājita), ví như kim cang chẳng có ai hơn được, nên gọi tên như thế. Lại nữa, Kim Cang là biệt danh của Thiên Đế Thích, nhưng thế lực của vị đại hộ này lại vượt trội ông ta, cho nên có tên như thế. Thân Ngài màu đen, hình dạng phẫn nộ, nhíu mày, áo cũng màu đen, nhưng hơi nhạt hơn màu thân và diện mạo. Trên đầu chỉ có búi tóc, thân Ngài có quang minh như lửa rực, tay cầm gậy. Nếu chỉ vẽ ấn thì cũng chỉ vẽ hình gậy đó. Chữ thì dùng chữ Sám (क्षं, kṣaṃ)[5]. Bốn vị đại hộ trên đây đều nên vẽ cùng quyến thuộc. Quyến thuộc tức là sứ giả, đều ngồi trên hoa sen trắng. Người trì chân ngôn hãy nên xếp đặt như thế.

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả như thị phu trí dĩ, thứ đương xuất ngoại, ư đệ nhị phần, họa Thích Ca Chủng Mâu Ni Vương, bị ca-sa y, tam thập nhị đạo sư tướng, vị thuyết tối thắng giáo, thí nhất thiết chúng sanh vô úy cố, hoặc ca-sa bát ấn, hoặc dĩ tự cú, sở vị Bà tự. Thứ ư ngoại Mạn-đồ-la, dĩ pháp giới tánh gia trì tự thân, phát Bồ Đề tâm, bỉ xả tam phần vị, đương tam tác lễ, tâm niệm Đại Nhật Thế Tôn, như tiền điều sắc. Ư đệ tam phần, Đế Thích phương, tác Thí Nguyện Kim Cang đồng tử hình, tam-muội thủ trì thanh liên hoa, thượng trí kim cang huệ chử, dĩ chư anh lạc, nhi tự trang nghiêm, thượng diệu tiêu hộc vi quần, cực khinh tế giả dụng vi thượng phục, thân uất kim sắc, đảnh hữu ngũ kế, hoặc trí mật ấn, hoặc trí tự cú. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vãm”.

          ()真言者如是敷置已次當出外於第二分畫釋迦種牟尼王被袈裟衣三十二導師相說最勝施一切眾生無畏故或袈裟鉢印或以字句所謂婆字次於外漫荼羅以法界性加持自身發菩提心彼捨三分位當三作禮心念大日世尊如前調色於第三分帝釋方作施願金剛童子形三昧手持青蓮華上置金剛慧杵以諸瓔珞而自莊嚴上妙綃縠為裙極輕細者用為上服身欝金色頂有五髻或置密印或置字句真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Người trì Chân Ngôn xếp đặt như thế xong, kế đó, ra bên ngoài, trong phần thứ hai, vẽ đấng Mâu Ni Vương thuộc dòng họ Thích Ca. Ngài mặc y ca-sa, ba mươi hai tướng đạo sư, vì hết thảy chúng sanh nói giáo pháp tối thắng, ban vô úy. Hoặc vẽ ca-sa, hoặc bát ấn, hoặc dùng câu chữ, tức là chữ Bà (Bhaḥ). Kế đó, ở phía ngoài Mạn-đồ-la, dùng pháp giới tánh gia trì tự thân, phát Bồ Đề tâm, bỏ qua ba phần vị, hãy làm lễ ba lượt, tâm niệm Đại Nhật Thế Tôn, điều hòa màu sắc như trên. Trong phần thứ ba, nơi phương Đế Thích (phương Đông), vẽ hình Thí Nguyện Kim Cang (Varadavajra) đồng tử, tay tam-muội (tay trái) cầm hoa sen xanh, trên đó đặt chày kim cang huệ, dùng các chuỗi anh lạc để tự trang nghiêm, the lượt thượng diệu làm xiêm, chất vải cực nhẹ mịn dùng làm áo trên, thân màu uất kim, đỉnh đầu có năm búi tóc, hoặc đặt mật ấn, hoặc đặt câu chữ. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vãm - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, maṃ”).

 

          Kế đó, ra ngoài, đến viện thứ ba, vẽ đấng Mâu Ni Vương thuộc dòng họ Thích Ca, mặc y ca-sa, trọn đủ ba mươi hai tướng, là đấng Thí Vô Úy của hết thảy chúng sanh (dùng giáo pháp lợi ích hết thảy, khiến cho họ đều đạt được vô úy). Ấn của Ngài thì hãy nên vẽ bát, hoặc y ca-sa v.v… (Nói “vân vân” tức là những thứ như tích trượng). Nếu chỉ vẽ chữ thì dùng chữ Bà (भः, Bhaḥ). Đấy là tối thắng, tức là nghĩa bí mật thắng thượng. Kế đó, ở ngoài Mạn-đồ-la, pháp giới tự tánh gia trì Bồ Đề tâm “phát thú”, thực hiện Pháp Giới Tự Tánh Quán. “Pháp giới” chính là thân Như Lai, quán tự thân giống như thân pháp giới của hết thảy chư Phật. Dùng đó để gia trì cái tâm, hòng trụ trong Bồ Đề tâm (“phát thú”  (發趣) nghĩa là hướng đến, đạt tới, tu hành, phải tìm hiểu kỹ đoạn này). Nói “bỉ tam phần vị xả, tam tác lễ Phật Tỳ Lô Giá Na, tầm niệm, như tiền điều sắc” (bỏ qua ba phần vị, lễ Phật Tỳ Lô Giá Na ba lượt, suy nghĩ như trong phần nói về màu sắc trên đây), ý nói: Xếp đặt Phật Thích Ca xong; kế đó, nên ở viện thứ hai, lễ Tỳ Lô Giá Na Phật, đúng như phần phương tiện đã nói trong đoạn dạy về màu sắc trước đó mà vẽ vời. Ở phương Đông, vẽ Thí Nguyện Kim Cang (Varadavajra-kumāra), có hình dạng đồng tử (đây chính là biệt danh của ngài Văn Thù Sư Lợi), tay trái cầm hoa sen xanh, trên hoa đặt chày kim cang. Ngài dùng hết thảy các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân thể, dùng lụa thượng diệu là xiêm, the lượt cực vi tế làm áo ngoài. Lại vẽ sao cho cái xiêm vi tế ở phía dưới hiện bóng thân sắc. Thân Ngài màu vàng uất kim, trên đầu có năm búi tóc. Ấn của Ngài chỉ vẽ hoa  sen  xanh, trên  hoa  đặt  chày  kim

cang. Nếu vẽ chữ thì là chữ Vãm.

 

          (Kinh) Ư kỳ hữu biên, Quang Võng đồng tử, nhất thiết thân phần, giai tất viên mãn, tam-muội thủ chấp trì bảo võng, huệ thủ trì câu; hoặc trí bỉ ấn. Hoặc thư tự cú, sở vị Nhiễm tự. Y Diễm Ma phương, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, kim sắc phát quan, trì Như Ý bảo, hoặc họa bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Á tự. Dạ Xoa phương, Địa Tạng Bồ Tát sắc như Bát-dựng-ngộ hoa, thủ trì liên hoa, dĩ chư anh lạc trang nghiêm, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Y tự. Long phương, Hư Không Tạng, bạch sắc, bạch y, thân hữu quang diễm, dĩ chư anh lạc trang nghiêm, thủ trì Khiết-già, hoặc trí bỉ ấn, hoặc trí tự cú, sở vị Y tự.

          ()於其右邊光網童子一切身分皆悉圓滿三昧手執持寶網慧手持鉤或置彼印或書字句所謂染字依焰摩方除一切蓋障菩薩金色髮冠持如意寶或畫彼印或置字句所謂噁字夜叉方地藏菩薩色如鉢孕遇華手持蓮華以諸瓔珞莊嚴或置彼印或置字句所謂伊字龍方虛空藏白色白衣身有光焰以諸瓔珞莊嚴手持朅伽或置彼印或置字句所謂伊字

          (Kinh: Ở bên phải của Ngài (Văn Thù Bồ Tát) là Quang Võng đồng tử, hết thảy các thân phần thảy đều viên mãn, tay tam-muội (tay trái) cầm nắm lưới báu, tay huệ (tay phải) cầm móc câu. Hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc viết câu chữ, tức chữ Nhiễm (जां, Jāṃ). Nương vào phương Diễm Ma (phương Nam), Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, mão che tóc sắc vàng, cầm báu Như Ý, hoặc vẽ ấn ấy, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Á (आः Āḥ). Ở phương Dạ Xoa (phía Bắc), Địa Tạng Bồ Tát có màu như hoa Bát-dựng-ngộ (Priyaṅgu), tay cầm hoa sen, dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm, hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Y (, I). Ở phương Rồng (phương Tây) là ngài Hư Không Tạng, sắc trắng, áo trắng, thân có quang minh chói rực như lửa, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm, tay cầm gươm Khiết-già (Khaḍga), hoặc đặt ấn của Ngài, hoặc đặt câu chữ, tức là chữ Y (, Ī).

 

          Ở bên phải của đức Văn Thù (phương Bắc), đặt Võng Quang Bồ Tát (Jālinīprabha), hết thảy các thân phần viên mãn, tay trái cầm lưới báu, tay phải cầm móc câu. Nếu chỉ vẽ ấn thì hoặc là vẽ ấn (tức lưới báu), hoặc móc câu. Chữ chủng tử là chữ Nhiễm (chỉ đặt ấn này thôi cũng được).

          Ở phía Nam, vẽ Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát (Sarvanīvaraṇa-viṣkambhin), mão che tóc kim sắc (không nói tới chuỗi anh lạc), tay trái cầm châu Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu) ở trên hoa sen. Nếu chỉ vẽ ấn, thì vẽ trên hoa sen có châu Ma Ni. Hoặc chỉ vẽ chữ, thì dùng chữ Á.

          Ở phương Bắc, vẽ Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha), sắc như màu hoa Bát-dựng-cù[6] (tức hoa Bát-dựng-ngộ). Loại hoa này mọc ở phương Tây, giống như màu hạt kê ở phương này, búp hoa cũng giống như gié lúa rất thơm. Vị Bồ Tát này tay cầm hoa sen, dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân thể. Nếu vẽ chữ, hãy vẽ chữ Y.

          Phương Tây là Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha), cũng dùng các chuỗi anh lạc để trang nghiêm thân mình, thân màu trắng, mặc áo trắng (áo trắng in sắc thịt hồng nơi thân người, hơi khác chút ít với màu thân). Thân Ngài có quang minh như lửa rực, cầm đao to. Vẽ ấn của Ngài thì chỉ vẽ đao lớn. Nếu chỉ vẽ chữ, hãy vẽ chữ Y âm dài. Nhưng trong đàn này, các tọa vị còn thiếu khá nhiều! Nói “đã tạo” thì cũng là phần trước và phần sau làm rõ nghĩa cho lẫn nhau.

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả yến tọa, an trụ ư pháp giới, ngã tức pháp giới tánh, nhi trụ Bồ Đề tâm, hướng ư Đế Thích phương, kết kim cang huệ ấn.

          ()真言者宴坐,安住於法界,我即法界性,而住菩提心。向於帝釋方,結金剛慧印。

          (Kinh: Bậc Chân Ngôn ngồi yên, an trụ trong pháp giới, ta là pháp giới tánh, trụ trong Bồ Đề tâm, hướng tới phương Đế Thích (phương Đông), kết kim cang huệ ấn).

 

          Khi tạo xong, trước tiên, A-xà-lê ngồi ở ngoài cửa, trụ trong pháp giới kiêm Bồ Đề tâm. Phạm bổn nói: “Kế đó, người trì tụng trụ trong pháp giới, ta chính là pháp giới tánh. Trụ Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm ấy chính là pháp giới tánh”. Hướng về phương Đông mà kết kim cang ấn (cửa đàn mở về hướng Tây, cho nên thầy hướng mặt về Đông).

 

          (Kinh) Thứ, tác kim cang sự, ân cần tu cúng dường, hiện chư Phật cứu thế, tam-muội-da ấn đẳng. Niệm nhất thiết phương sở, tam chuyển trì chân ngôn.  

      ()次,作金剛事,慇懃修供養。現諸佛救世,三昧耶印等,念一切方所,三轉持真言。

          (Kinh: Kế, tác sự kim cang, ân cần tu cúng dường, hiện chư Phật cứu thế, các ấn tam-muội-da. Niệm hết thảy phương sở, ba lượt trì chân ngôn).

 

          Tạo đàn xong, nên ngồi hướng về phương Đông của đàn, tưởng giống như Phật. Phật chính là cái Thể của pháp giới. Đã giống như chư Phật, sau đó làm sự nghiệp độ người. “Tác sự kim cang” tức là Chư Sự Kim Cang, chính là ấn bạt-chiết-la (chày kim cang) ba nhánh. Hễ nói “tác kim cang”[7] thì chữ và thân ấn đều thực hiện, “tác Phật” (quán tưởng Phật) cũng thế. Sợ rườm rà, nên chẳng nói cặn kẽ từng môn. Kế đó, ân cần cúng dường, lại răn hành nhân hãy nên cẩn thận mà làm, đừng quên mất thứ tự. Bản tiếng Phạn nói: “Hãy nên kết kim cang ấn, kế đó làm kim cang sự nghiệp, ân cần mà cúng dường”. Hiện tam-muội-da của hết thảy chư Phật là các đấng cứu thế. Lại hiện ấn tam-muội-da v.v... Ấn tam-muội-da khá nhiều, cho nên nói là “đẳng”. Cúng dường và “tác Phật” đều làm tam-muội-da, tụng ba lượt. Do khi tác pháp, [thứ tự cúng dường, kết ấn, tán thán, sám hối, hồi hướng v.v…] được sử dụng ở nhiều chỗ nên gọi là “đẳng”. Do làm pháp này, tức là thuận theo việc được thực hiện mà cái tâm có thể trọn khắp hết thảy các phương vị, nơi chốn, nhắc nhở hết thảy Như Lai. Do bổn nguyện của Phật, thảy đều nhắc nhở để các Ngài gia trì. Trước là niệm trọn khắp hết thảy các chỗ, tức là trong Mạn-đồ-la, tùy theo từng phía mà vận tâm suy tưởng trọn khắp hết thảy chư tôn. Nếu bậc hành giả tu tập sâu xa, chư tôn trong Mạn-đồ-la sẽ từ trong Tất Địa mà nêu bày tam-muội-da.

 

          (Kinh) Y pháp triệu đệ tử, hướng đàn nhi tác tịnh, thọ bỉ Tam Quy Y, trụ thắng Bồ Đề tâm. Đương vị chư đệ tử, kết Pháp Giới Tánh ấn. Thứ kết Pháp Luân Ấn, nhất tâm đồng bỉ Thể, tăng bạch phú diện môn, nhi khởi bi mẫn tâm. Linh tác bất không thủ, viên mãn Bồ Đề cố. Nhĩ ngữ nhi cáo bỉ, vô thượng Chánh Đẳng giới. Thứ đương vị bỉ kết, Chánh Đẳng Tam-muội Ấn, thọ bỉ khai phu hoa, linh phát Bồ Đề ý, tùy kỳ sở chí xứ, nhi giáo ư học nhân. Tác như thị yếu thệ, nhất thiết ưng truyền thọ.

      ()依法召弟子,向壇而作淨,授彼三自歸,住勝菩提心。當為諸弟子,結法界性印,次結法輪印,一心同彼體。繒帛覆面門,而起悲愍心。令作不空手,圓滿菩提故。耳語而告彼,無上正等戒,次當為彼結,正等三昧印。授彼開敷花,令發菩提意,隨其所至處,而教於學人。作如是要誓,一切應傳授。

          (Kinh: Theo pháp, vời đệ tử, vào đàn để tác tịnh. Truyền dạy Tam Quy Y, trụ thắng Bồ Đề tâm. Hãy vì các đệ tử, kết Pháp Giới Tánh Ấn. Rồi kết Pháp Luân Ấn, nhất tâm cùng một Thể. Dùng lụa màu phủ mặt, mà khởi tâm thương xót, bảo làm tay bất không, do viên mãn Bồ Đề. Kề tai mà bảo ban, giới vô thượng Chánh Đẳng. Rồi thầy vì trò kết, ấn Chánh Đẳng Tam-muội, trao cho hoa nở xòe, dạy phát Bồ Đề ý. Tùy hoa rơi chỗ nào, dạy trò học pháp ấy. Phát yếu thệ như thế, hết thảy nên truyền dạy).

 

          Kế đó, thầy ra ngoài gọi đệ tử, hộ tịnh cho họ, [tức là] trước đó, đệ tử ở bên ngoài cửa, gọi họ vào. Theo đúng pháp thỉnh chư tôn, dùng chân ngôn Chư Sự Thành Biện của hai loại sứ giả là được. Nếu là kẻ trí huệ mẫn tiệp nhất, nhất nhất dùng chân ngôn và ấn của từng vị tôn thánh để thỉnh riêng cũng được. Cho họ (các đệ tử) đứng gần cửa, hướng vào đàn. Trước hết, lại nên dạy họ đúng pháp khiết tịnh. Đấy chính là thỉnh tôn thánh vậy. Kế đó, từ kết giới cho đến tống tiễn, đều theo đúng như [các chỉ dạy trong] pháp cúng dường. Chuẩn theo đó mà dùng là được! Đã kết giới, thủ hộ rồi, bèn truyền Tam Quy cho họ. Tam Quy ở đây chính là ấn pháp. Đầu tiên là ấn hộ thân, kế đó là Pháp Luân Ấn để thủ hộ các thân phần. Kế đó có một ấn sẽ được nói trong phần sau. Ấn thứ nhất ấn vào đỉnh đầu, ấn kế đó ấn vào các chi phần, trong phần trước đã nói là “kim cang hữu tình”. Do ba ấn ấy, bèn là “trụ trong Bồ Đề tâm”. Khi kết Pháp Giới Luân Ấn, người ấy nên nhất tâm coi đó là tự thể, tức là khi hành giả vận tâm tưởng pháp giới ấy, liền quán tự thân giống như pháp giới. Khi kết ấn, giống như dùng ấn ấy ấn lên tự thể. Đã kết Pháp Giới Tự Tánh Ấn trên đây rồi; kế đó, kết Pháp Luân Ấn. Trước hết, tưởng trong búi tóc của đệ tử có chữ A; sau đấy, dùng Pháp Giới Tánh Ấn để in vào. Dùng ấn đè lên [búi tóc hay đỉnh đầu], tự tụng chân ngôn ba lượt, hoặc bảy lượt. Kế đó, hãy nên dùng khăn lụa che mặt đệ tử. Thầy hãy nên phát tâm đại bi, nghĩ thương xót, khiến cho trò vĩnh viễn vượt khỏi sanh tử, mở mang tri kiến Phật. Đệ tử trong khi đó, cũng nên tự phát nguyện thù thắng vô thượng.

          “Bất Không thủ tác Bồ Đề viên mãn” (Tay Bất Không làm Bồ Đề viên mãn), ý nói: Do các đệ tử ấy muốn mau được viên mãn Vô Thượng Bồ Đề, hãy tùy theo sức thượng, trung, hạ mà thực hiện, tùy thuộc tất cả những gì mình có để cúng dường chư Phật, Bổn Tôn v.v… Hoặc cầm hoa báu v.v… để hiến dâng. Khi ấy, thầy muốn cho đệ tử kết hộ (kết giới hộ thân), kề tai dạy bảo, đó gọi là “khiến cho trụ trong Bồ Đề tâm”, còn có cách nói khác. Người đã phát Bồ Đề tâm, nhất tâm chân thành, ngưỡng mộ mà đứng, thầy tự kết ấn, rải lên đỉnh đầu của người ấy. Sau đấy, mới bảo trò ném hoa. Ghi nhớ hoa rơi vào chỗ của vị tôn thánh nào. [Kể cả khi hoa rơi] ngay trên thân của Bổn Tôn, lại có thượng, trung, hạ, trái, phải sai khác. Tùy thuộc hoa rơi vào chỗ nào, thầy liền truyền trao cho trò chân ngôn và ấn tương ứng [của vị tôn thánh ở nơi đó]. Đệ tử vâng theo pháp giáo, làm tam-muội-da như thế, hết thảy tương ứng [với lời thầy đã dạy].

 

          (Kinh) Cụ đức Trì Kim Cang, hựu thỉnh bạch Thế Tôn: “Duy nguyện Nhân Trung Thắng, diễn thuyết quán đảnh pháp”. Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, an trụ ư pháp giới, nhi cáo Kim Cang Thủ: - Nhất tâm ưng đế thính, ngã thuyết chư pháp giáo, thắng tự tại nhiếp trì. Sư dĩ Như Lai tánh, gia trì ư tự thể, hoặc phục dĩ mật ấn. Thứ ưng triệu đệ tử, linh trụ pháp giới tánh, đại liên hoa vương trung. Dĩ tứ đại Bồ Tát, sở gia trì bảo bình, kết Chi Phần Sanh Ấn, nhi dụng quán kỳ đảnh. Kế trung, ưng thọ dữ, Đại Không Ám tự môn, tâm trí vô sanh cú, hung biểu vô cấu tự, hoặc nhất thiết A tự, phát kế kim sắc quang, trụ bạch liên hoa đài, đẳng đồng ư Nhân Giả.

      ()具德持金剛。又請白世尊:唯願仁中勝,演說灌頂法。爾時,薄伽梵,安住於法界,而告金剛手:一心應諦聽,我說諸法教,勝自在攝持。師以如來性,加持於自體,或復以密印,次應召弟子,令住法界性,大蓮華王中。以四大菩薩,所加持寶瓶,結支分生印,而用灌其頂。髻中應授與,大空暗字門,心置無生句,胸表無垢字,或一切阿字,髮髻金色光,住白蓮華臺,等同於仁者。

          (Kinh: Trì Kim Cang trọn đức, lại thỉnh bạch Thế Tôn: “Nguyện đấng Nhân Trung Thắng, diễn nói pháp quán đảnh”. Lúc ấy, Bạc Già Phạm, an trụ trong pháp giới, bảo cùng Kim Cang Thủ: - Nhất tâm nên lắng nghe. Ta nói các pháp giáo, nhiếp trì thắng tự tại. Thầy dùng Như Lai tánh, để gia trì bản thân, hoặc lại dùng mật ấn. Kế đó, gọi đệ tử, bảo trụ pháp giới tánh, trong đại liên hoa vương. Dùng bình báu gia trì, bởi tứ đại Bồ Tát, kết Chi Phần Sanh Ấn, dùng rưới đỉnh đầu trò. Búi tóc, hãy truyền trao, môn chữ Ám Đại Không, câu vô sanh nơi tâm, chữ vô cấu nơi ngực, hoặc hết thảy chữ A, búi tóc kim sắc quang, trụ trong đài sen trắng, bằng với bậc Nhân Giả).

 

          Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang là bậc trọn đủ công đức, lại thưa hỏi đức Phật về pháp quán đảnh, nguyện Phật tự nói, thỉnh Phật tự nói. Khi đó, đức Phật trụ trong pháp giới tánh, bảo ngài Kim Cang Thủ: - Hãy nhất tâm lắng nghe. Ta nói pháp này, khiến cho người tu hành được tự tại trong pháp này. Đó gọi là “khiến cho đạt được giáo pháp thắng thượng”. Ở đây, “tự tại” có nghĩa là “mau chóng đạt được”, lại còn là ý nghĩa “tự tại”, có ý nghĩa khác với “nhiều tài vật thì được gọi là tự tại” như đã nói trong các phần trước. “Ta nói hết thảy các pháp giáo”, đó gọi là “tối thượng tự tại nhiếp”. Nghĩa là tâm có điều nguyện cầu, sẽ đều có thể nhiếp thủ tự tại mãn nguyện. Như được tự tại trong một nước, việc làm ắt đều thành. A-xà-lê dùng hình tượng và tâm ý của Như Lai để gia trì, kết ấn của Ngài, tức là tùy theo pháp thượng, trung, hạ mà tác pháp thuộc Như Lai Bộ, Liên Hoa Bộ, hay Kim Cang Bộ v.v… Tùy theo vị chủ của đàn ấy mà dùng hình tượng của vị tôn thánh ấy để quán đảnh. [Nói] “dùng bổn hình của Như Lai để gia trì” tức là A-xà-lê dùng Như Lai tánh để gia trì tự thân, Như Lai tánh tức là bản thể. Hoặc dùng ấn của Ngài, tức là dùng ấn để gia trì. Tưởng nơi tự thân, dùng chữ A đặt trọn khắp các chi phần. Chữ A ấy chính là thể tánh của pháp giới. Do sự trang nghiêm ấy, liền được giống như thân Phật, [thầy làm như thế xong] mới gọi đệ tử [vào đàn]. Nếu là bậc A-xà-lê đắc định, hoặc đã đạt được sự hiệu nghiệm nơi pháp, việc làm sẽ tùy ý thành tựu. Nếu chẳng thể như thế, hãy nên dùng ấn và quán tưởng để làm.

          Kế đó, thầy dẫn đệ tử hướng về Đại Hoa Vương Mạn-đồ-la (tức là ở ngoài đàn, ở chỗ trước đó đã làm đàn quán đảnh). “Dùng bốn báu làm cái bình lớn được bậc đại Bồ Tát gia trì” tức là cái bình được gia trì bởi bốn vị đại Bồ Tát thuộc Trung Đài (Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc), dùng Bồ Tát bảo để trang nghiêm. Kế đó, hãy nên kết Sanh Nhất Thiết Chi Phần Ấn (Aṅgodbhava), xối [nước từ bình báu ấy] lên đỉnh đầu đệ tử. Phàm khi quán đảnh bèn kết ấn này; kết xong, dùng bình để xối. Nếu chẳng dùng ấn này, tức là pháp thức chẳng đầy đủ, khiến cho đệ tử chẳng thể trụ Bồ Đề tâm, ắt sẽ có thoái chuyển, chẳng khác nào rảy nước thơm suông! Lại nữa, trước khi quán đảnh, nơi chỗ các mí xương giáp thành hình chữ thập trên đỉnh đầu đệ tử, hãy tưởng chữ Ám. Nơi tim, tận lực tưởng chữ A, lại tưởng chữ A ở trên ngực, cũng có thể chỉ tưởng chữ A trọn khắp hết thảy mọi nơi. “Mão che tóc sắc vàng, ngồi trên hoa sen trắng” tức là tưởng hoa sen trắng nở xòe viên mãn trong tâm đệ tử, Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngồi trên tòa ấy rồi mới quán đảnh. Kinh nói “nhân giả” tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Nếu dùng pháp này để quán đảnh, tức là giống như mười phương chư Phật dùng pháp thủy để rưới, trao truyền ngôi vị pháp vương vậy. Nếu chẳng phải như vậy, chỉ xối nước suông mà thôi, sẽ chẳng có tác dụng gì!



[1] Trong lời Sớ, pháp sư Nhất Hạnh dùng lẫn lộn hai cách gọi này, khi nói là Trung Thai thì hàm nghĩa chính là ở trung tâm của Thai Tạng Mạn-đồ-la, nói Trung Đài (đôi khi gọi rõ là Trung Đài Bát Diệp) thì tức là đài sen ở chính giữa Mạn-đồ-la. Cả hai từ ngữ đều nhằm nói đến hoa sen tám cánh ở chính giữa Mạn-đồ-la.

 

[2] Tức là dùng bột màu trắng để phủ lên đường ranh giới giữa các viện.

 

[3] Tức cái xà-rông mặc thay quần như các vị Tăng Nam tông hoặc Tây Tạng thường mặc.

 

[4] Thục Quỳ (Alcea Rosa, Hollyhock), còn gọi là Nhất Trượng Hồng, Thục Quý, Ma Can, Nhung Quỳ, Ngô Quỳ, Vệ Túc Quỳ, Hồ Quỳ v.v… Loại hoa này bắt nguồn từ Trung Hoa, có nhiều màu từ đỏ đậm, hồng, vàng và cam. Loại hoa đỏ tía thường mọc nơi có nhiều cát, hoa có thể to khoảng 13 cm, cánh đơn, thường là tám cánh tròn. Lá cây khá lớn và có hình trái tim.

 

Vô Ưu (Saraca asoca) là một loại cây thuộc họ Đậu, mọc nhiều nhất ở Trung Ấn Độ và phía Tây rặng núi Ghats. Cây cao trung bình, lá xanh đậm. Hoa nở từ tháng Hai đến tháng Tư, bốn cánh, mọc thành chùm rất to như một quả cầu, có các tua nhị rất dài. Hoa màu cam ánh sắc vàng, sẽ chuyển thành màu đỏ khi sắp tàn, có mùi rất thơm, nở chi chít, khiến cây đầy sắc đỏ.

 

[5] Lời Sớ phiên âm chữ này là Sám, còn chánh kinh thì phiên âm là Cật-sấm.

 

[6] Đây là một loại cây nhiệt đới (tên tiếng Anh là Droopy Leaf, người Việt gọi là Gội Nhót, Ngâu Nhót, hay Gội Núi), mọc chủ yếu ở Đông Nam Á và Nam Á, thân gỗ, cao đến 10m, sắc gỗ có màu đỏ, vỏ nâu xám. Lá kép, mọc bất đối xứng.

 

[7] “Tác kim cang” ở đây chính là làm các pháp sự thuộc về Kim Cang Bộ, “tác Phật” là làm các pháp sự thuộc về Phật Bộ.

 


Comments

Popular posts from this blog