Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
20. Phẩm thứ hai mươi: Cái quả
tương ứng của trăm chữ
Bách Tự Quả Tương Ứng Phẩm Đệ Nhị Thập
百字果相應品第二十
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhược nhập Đại Giác Thế Tôn đại trí quán đảnh địa, tự kiến
trụ ư tam tam-muội-da cú. Bí Mật Chủ! Nhập Bạc Già Phạm đại trí quán đảnh, tức
dĩ đà la ni hình thị hiện Phật sự”. Nhĩ thời, Đại Giác Thế Tôn tùy trụ nhất thiết
chư chúng sanh tiền, thi tác Phật sự, diễn thuyết tam tam-muội-da cú.
(經)爾時,毘盧遮那世尊告執金剛祕密主言:祕密主!若入大覺世尊大智灌頂地,自見住於三三昧耶句。祕密主!入薄伽梵大智灌頂,即以陀羅尼形示現佛事。爾時,大覺世尊隨住一切諸眾生前施作佛事,演說三三昧耶句。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Nếu nhập địa vị đại trí quán đảnh của Đại
Giác Thế Tôn, sẽ tự thấy trụ trong câu ‘ba môn tam-muội-da’. Bí Mật Chủ! Nhập đại
trí quán đảnh của Bạc Già Phạm, liền dùng thân đà la ni để thị hiện Phật sự”.
Khi đó, đức Đại Giác Thế Tôn tùy ý ở trước hết thảy các chúng sanh, thực hiện
Phật sự, diễn nói câu “ba môn tam-muội-da”).
Địa vị đại trí quán đảnh chính là địa
vị Như Lai đệ thập nhất. Do trụ trong địa vị đệ thập nhất này, nhập đại trí
quán đảnh, bèn có thể thực hiện Như Lai sự. Vì thế, dịch đại trí địa này là “đà la ni hình thi tác Phật sự” (dùng
thân đà la ni để làm Phật sự). Do vậy, có thể vì hết thảy chúng sanh mà làm Phật
sự. “Đà la ni hình” tức là gom
chung các chân ngôn luân để làm thân, liền thành thân phổ môn. Do trụ nơi thân
tổng trì ấy, đối trước hết thảy chúng sanh mà thị hiện thân họ thích thấy, thuyết
pháp tương ứng căn cơ, chẳng hề sai lầm, [khiến cho họ] cùng nhập Phật trí. Lúc
bấy giờ, Thế Tôn, chúng sanh, các Phật sự, ba câu tam-muội-da đều tuyên nói,
tùy trụ.
(Kinh) Phật ngôn: - Bí
Mật Chủ! Quán ngã ngữ luân cảnh giới quảng trường, biến chí vô lượng thế giới
thanh tịnh môn, như kỳ bổn tánh biểu thị, tùy loại pháp giới môn, linh nhất thiết
chúng sanh, giai đắc hoan hỷ. Diệc như kim giả Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, lưu biến
vô tận hư không giới, ư chư sát độ, cần tác Phật sự. Bí Mật Chủ! Phi chư hữu
tình năng tri Thế Tôn thị ngữ luân tướng lưu xuất Chánh Giác diệu âm trang
nghiêm anh lạc, tùng thai tạng sanh Phật chi ảnh tượng, tùy chúng sanh tánh dục,
linh phát hoan hỷ.
(經)佛言:祕密主!觀我語輪境界廣長遍至無量世界清淨門,如其本性表示,隨類法界門令一切眾生皆得歡喜。亦如今者釋迦牟尼世尊,流遍無盡虛空界,於諸剎土勤作佛事。祕密主!非諸有情能知世尊是語輪相流出正覺妙音莊嚴瓔珞,從胎藏生佛之影像,隨眾生性欲令發歡喜。
(Kinh:
Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Quán môn cảnh giới ngữ luân thanh tịnh rộng dài của
ta đến trọn khắp vô lượng thế giới, đúng như bổn tánh mà biểu thị, tùy theo từng
loại pháp giới môn, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được hoan hỷ. Cũng như
ngày nay, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hiển hiện trọn khắp trong vô tận hư không giới,
ở trong các cõi nước, siêng năng làm Phật sự. Bí Mật Chủ! Các hữu tình chẳng thể
biết tướng ngữ luân này của đức Thế Tôn, tuôn ra diệu âm Chánh Giác như các chuỗi
anh lạc trang nghiêm, từ thai tạng sanh ra hình bóng của Phật, thuận theo tánh
ưa muốn của chúng sanh mà khiến cho họ sanh khởi lòng hoan hỷ).
Đức Phật tuyên nói như thế xong; kế
đó, bảo ngài Kim Cang Thủ: “Ông có thể
quán ngữ luân của ta, tức là quán cảnh giới tự luân nơi thân đà la ni của Phật”.
Đức Phật dùng thần lực gia trì đại hội. Không chỉ nay Bí Mật Chủ quán cảnh giới
rộng lớn nơi ngữ luân của ta, mà là đến trọn khắp các môn thanh tịnh trong vô
lượng thế giới. Đúng như bổn tánh của hết thảy chúng sanh mà biểu thị pháp giới
môn tùy từng loại, khiến cho họ sanh lòng hoan hỷ. Cũng như hiện thời, Thích Ca
Mâu Ni lưu xuất trọn khắp vô tận pháp giới, trong các cõi nước, siêng năng làm
Phật sự. Ngài Kim Cang Thủ quán hết thảy các đại hội ấy, cũng được cùng quán cảnh
thần diệu chẳng thể nghĩ bàn ấy. Vì cớ sao vậy? Thân đại trí ấy thường trụ tịch
diệt, lìa các nhân duyên, chẳng phải là cảnh hữu tâm. Lìa khỏi sự gia trì của
Phật thần lực, hết thảy các Bồ Tát sẽ chẳng thuộc vào cảnh giới ấy.
Đức Phật đã chỉ bày xong, bảo rằng: “Các ông hãy nên quán cảnh giới rộng dài vô
lượng nơi tự luân của ta”.
“Dài” tức là người khác chẳng sánh bằng. Tôi cho rằng đây chính là nói
[cảnh giới ấy] “như thế nào”. “Rộng” là theo chiều ngang, trọn khắp
hết thảy các chúng sanh giới, còn “dài”
là theo chiều dọc, tột cùng Phật giới. Vì thế nói là “rộng dài”. Thân rộng dài như thế, ứng hiện trọn khắp hết thảy,
từ đâu mà có? Chính là từ một chữ Chân Ngôn Vương mà hiện chuyện ấy. Do một
chân ngôn in vào thân mà thị hiện hết thảy các thân. Do âm thanh của một chữ
chân ngôn mà phát ra âm thanh mầu nhiệm trọn khắp pháp giới. Do tâm của Bổn Tôn
trong một chân ngôn mà phô bày trọn khắp hết thảy các cảnh trí huệ. Thích Ca
Mâu Ni Phật chính là thân bất không ấy vào khắp các thế gian mà làm Phật sự. Do
vậy, điều được phô bày chính là thân Mâu Ni. Đức Phật làm Phật sự, tức là Phật
Thích Ca từ tự luân của đức Tỳ Lô Giá Na mà xuất hiện, nhưng [hai vị Phật ấy]
chẳng hai, chẳng khác, đều trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do một chữ này giống như
Đại Không, vì vốn bất sanh. Hãy nên biết: Thân trăm chữ cũng giống như thế. Điểm
khác biệt là thân ba môn tam-muội-da của Như Lai lưu xuất khắp thế giới, và mười
phương hư không đều trọn khắp, chẳng có hư không nào mà chẳng trọn khắp. Hãy
nên biết hư không chẳng thể lường, thân cũng như thế! Bí Mật Chủ! Các hữu tình
chẳng thể biết Thế Tôn. Đó là sự lưu xuất của ngữ luân, cũng nên kiểm phần nói
về tâm ngã trong kinh Hoa Nghiêm. Diệu âm sanh ra diệu âm Đẳng Chánh Giác của
chư Phật, các thứ anh lạc trang nghiêm đều từ ảnh tượng (hình tướng) trang
nghiêm của Phật sanh từ Thai Tạng, tức là dùng ngôn ngữ để trang nghiêm tướng ấy.
Từ thai tạng nơi tâm mà sanh ra hình tướng Phật rộng dài không ngằn mé để làm
Phật sự. Điều chúng sanh chẳng biết chính là tự luân này của đức Phật; đó cũng
chẳng phải là cảnh giới của Bồ Tát. Nếu lìa thần lực, sẽ chẳng thể quán, có
chúng sanh nào biết đến sự lợi ích ấy ư? Trong các ngôn âm, Phật là tối thượng,
các thứ trang nghiêm suất lãnh các thứ. Nói tóm lại, dùng vô tướng để trang
nghiêm. Từ tâm mà hiện ra thân chúng sanh hay thân Phật theo từng loại. Do trụ
trong Diệu Âm tam-muội, hiện trọn khắp trước họ, thuận theo bản tánh của họ,
khiến cho họ được hoan hỷ tín giải.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn ư vô lượng thế giới hải môn biến pháp giới, ân
cần khuyến phát thành tựu Bồ Đề, xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện. Ư thử
diệu hoa bố địa Thai Tạng trang nghiêm thế giới chủng tánh hải trung thọ sanh,
dĩ chủng chủng tánh thanh tịnh môn tịnh trừ Phật sát, hiện Bồ Đề tràng nhi trụ
Phật sự. Thứ phục chí cầu Tam Miệu Tam Bồ Đề cú, dĩ tri tâm vô lượng cố, tri
thân vô lượng. Tri thân vô lượng cố, tri trí vô lượng. Tri trí vô lượng cố, tức
tri chúng sanh vô lượng. Tri chúng sanh vô lượng cố, tức tri hư không giới vô
lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng cố, đắc tứ chủng vô lượng. Đắc dĩ, thành tối
Chánh Giác, cụ thập trí lực, hàng phục tứ ma, dĩ vô sở úy nhi sư tử hống. Phật
thuyết kệ ngôn: - Cần Dũng thử nhất thiết, vô thượng giác giả cú, ư bách môn Học
Xứ, chư Phật sở thuyết tâm.
(經)爾時,世尊於無量世界海門遍法界慇懃勸發成就菩提,出生普賢菩薩行願。於此妙華布地胎藏莊嚴世界種性海中受生,以種種性清淨門淨除佛剎、現菩提場而住佛事。次復志求三藐三菩提句,以知心無量故,知身無量。知身無量故,知智無量。知智無量故,即知眾生無量。知眾生無量故,即知虛空界無量。祕密主!由心無量故,得四種無量。得已,成最正覺,具十智力,降伏四魔,以無所畏而師子吼。佛說偈言:勤勇此一切,無上覺者句,於百門學處,諸佛所說心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trong vô lượng môn thế giới hải, trọn khắp pháp giới,
ân cần khuyên lơn, phát khởi [chúng sanh] thành tựu Bồ Đề, xuất sanh hạnh nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát, thọ sanh trong tánh hải nơi thế giới chủng trang nghiêm
Thai Tạng hoa mầu nhiệm rải đất, dùng đủ loại môn thuộc tánh thanh tịnh để tịnh
hóa các cõi Phật, hiện Bồ Đề tràng để trụ trong Phật sự. Kế đó, lại dốc chí cầu
câu Chánh Đẳng Chánh Giác, do biết tâm là vô lượng mà biết thân vô lượng. Do biết
thân vô lượng mà biết trí vô lượng. Do biết trí vô lượng, liền biết chúng sanh
vô lượng. Do biết chúng sanh vô lượng, liền biết hư không giới vô lượng. Bí Mật
Chủ! Do tâm vô lượng, đạt được bốn loại vô lượng. Đã đạt được rồi, thành Tối
Chánh Giác, trọn đủ mười trí lực, hàng phục tứ ma, do chẳng sợ hãi mà sư tử hống.
Đức Phật nói kệ rằng: - Cần Dũng! Hết thảy câu, vô thượng giác ngộ này, trong
trăm môn Học Xứ, tâm do chư Phật nói).
“Chỗ
sanh” chính là cảnh đạt đến hay cảnh để trụ? Sau đó, “vi diệu âm trang nghiêm thai tạng” tức
là từ một chữ mà sanh ra thì gọi là Thai Tạng. Từ một chữ mà sanh ra là Thai. Từ
đó sanh ra thì là ảnh tượng (hình ảnh, bóng dáng, sắc tướng), như một tấm gương
tròn sạch đối diện các sắc [sẽ chiếu soi hình bóng]. Cảnh đã chẳng vào trong
gương, gương cũng chẳng tới cảnh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, hình bóng sẽ rành
rành, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi, chẳng
thường, chẳng đoạn, tức là đồng thể chẳng thể nghĩ bàn! Hình bóng của Như Lai
cũng lại như thế, chẳng suy tưởng, chẳng tạo tác mà ứng hiện hết thảy, đều thuận
theo cái tâm của chúng sanh mà khiến cho họ hoan hỷ, hiện làm Phật sự cho chúng
sanh. Tức là dùng một ngôn âm của Phật mà có thể sanh ra hết thảy các Phật sự.
Như trong phẩm Lục Căn Tịnh, [Bồ Tát] còn có thể dùng một diệu âm [vang vọng]
trọn khắp cõi tam thiên, huống hồ đức Như Lai là đấng sáu căn thanh tịnh viên
mãn tột cùng ư? Khi đó, Ngài thành Bồ Đề trong các pháp giới thuộc vô lượng thế
gian hải môn ([“môn”] cũng có
nghĩa là “miệng”), siêng tu hạnh
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Bồ Tát dùng hoa trải đất, sanh từ biển chủng tánh
trong thế giới Thai Tạng, thọ các thứ môn thanh tịnh nơi tánh, tịnh hóa cõi Phật,
hiện tòa Bồ Đề, trụ trong Phật sự. Trên đây là [tóm lược nội dung] kinh văn. Do
đại trí quán đảnh vô lượng thế giới hải môn ấy, “môn” có nghĩa là “chỗ
để tiến nhập”. Vô lượng thế giới hải khẩu ấn, tức là nói đến cửa ngõ để
các dòng nước xuôi đến, đổ vào [biển cả][1].
Do biết vô lượng thế giới hải môn ấy, bèn siêng tu Bồ Đề, nhưng Bồ Đề này chẳng
phải là Bồ Đề kia, cho đến Bồ Đề trọn khắp pháp giới. Do chúng sanh vô lượng,
nên pháp giới vô lượng; nay đều khiến cho họ được thành tựu trọn khắp.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự trong các
pháp giới thuộc vô lượng thế giới hải môn, ân cần khuyên lơn, phát khởi thành tựu
Bồ Đề, trọn đủ viên mãn hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát (Phổ Hiền tức là công đức
của Như Lai), xuất sanh hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Do gia trì nên hiện tướng
như sau: Ở trong thế giới Thai Tạng này, hoa mầu nhiệm phủ kín mặt đất. Nói “này” tức là thế giới Tố Ha (Saha, Sa
Bà) này. Thọ sanh trong chủng tánh hải (“chủng
tánh” là nói chỗ thọ sanh, “hải”
(biển) hàm nghĩa “rộng nhiều chẳng gián đoạn”), dùng các thứ tánh thanh tịnh để
tịnh trừ cõi Phật (tức là gia trì, thực hiện Phật sự, không gì chẳng trọn khắp).
Lại nữa, Bồ Đề chẳng khác như trên, cùng nhập pháp giới. Đấy chính là hạnh đại
Bồ Đề. Nếu phát khởi hạnh như thế, sẽ chính là hạnh Phổ Hiền. Khởi nguyện như
thế, sẽ chính là nguyện Phổ Hiền. Bồ Tát vì chuyện như thế; do vậy, sơ phát
tâm. “Hoa địa” (Đất phủ hoa) là như tịnh trị cho đất phẳng
phiu, quét tước thanh tịnh, rải rắc đủ thứ hoa có sắc, hương, vị, xúc đáng yêu,
đoan nghiêm trọn khắp rồi ngồi lên đó. Nay tâm địa Đại Bi Thai Tạng này cũng giống
như thế. “Thai” là sơ khởi, tức
là chỗ phát khởi Như Lai. Do sanh từ Như Lai tánh, mà Như Lai tánh sanh khởi là
do chữ [trong chân ngôn] sanh ra. Phát tâm như thế tức là địa vị sơ khởi. “Hải” là biển chủng tánh của Như Lai.
Từ Thật Tánh ấy mà sanh ra hết thảy công đức của Như Lai.
“Thai”
là dùng điều đó để làm căn bản. Do ngài Phổ Hiền hành Như Lai hạnh, từ trong
Thai Tạng nơi tánh hải của Như Lai, dần dần trọn đủ các chi phần thuộc lục căn
của hết thảy các Như Lai. Thân phổ môn ấy tùy thuộc các thứ tâm hạnh sai biệt của
chúng sanh, tánh ưa muốn mỗi người mỗi khác, tức là dùng diệu môn thanh tịnh để
thanh tịnh cái tâm, không gì chẳng được rốt ráo. Thanh tịnh cái tâm như thế
chính là trang nghiêm hết thảy các cõi. Khi hành giả trụ trong Bồ Tát địa như
thế, liền có thể thấy trọn khắp thế giới, hiện thân Như Lai ngồi nơi đạo tràng
mà tịnh hóa pháp giới luân. Tức là có thể biết trọn khắp hết thảy các câu,
nghĩa là thành Phật. Cũng có thể thuận theo lòng ưa thích [của chúng sanh] mà
mãn nguyện cho họ, chẳng để luống qua! Vì thế, kế đó kinh nói: “Phục thứ, Chánh Biến Tri cú cầu giả, nhạo dục
tâm vô lượng, tri thân vô lượng, chứng thân vô lượng, tri trí vô lượng chứng.
Phục thứ nhạo cầu giả, hoàn tu Bồ Tát đạo dã” (Lại nữa, cầu câu Chánh Biến Tri, tâm ưa
thích vô lượng, biết thân vô lượng, chứng thân vô lượng, chứng biết trí vô lượng,
Lại nữa, đã yêu thích mong cầu, lại còn tu đạo Bồ Tát). Đấy chính là Phật sự.
Chúng sanh do thấy đạo ấy, liền khuyên họ phát tâm học đạo. Lại còn yêu thích,
siêng cầu câu Chánh Biến Tri, biết tâm vô lượng tức là biết thân vô lượng, biết
thân vô lượng liền thành trí vô lượng, biết trí vô lượng, biết chúng sanh vô lượng
chứng, do chúng sanh vô lượng mà chứng biết hư không vô lượng, đạt được những
điều ấy.
Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng mà đạt được
bốn thứ vô lượng, [tức là] đã thành Chánh Đẳng Giác, liền biết chúng sanh vô lượng,
biết chúng sanh vô lượng tức là biết hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm
vô lượng mà đắc bốn loại vô lượng, tức là trừ tâm ra, các thứ khác là thân,
trí, chúng sanh, và hư không. Đã được thành Tối Chánh Giác, trọn đủ mười loại lực,
hàng phục tứ ma, thực hiện sư tử hống v.v… Đấy là trăm môn Học Xứ tối thượng
nơi “trí cú” (câu trí huệ) của
hết thảy bậc Dũng Sĩ được nói nơi tâm của chư Phật. Trên đây là [tóm lược nội
dung của] kinh văn, có ý nói: Do nhập đại trí quán đảnh môn này, trụ trong chủng
tánh Bồ Tát, liền biết tâm là vô lượng. Do biết tâm là vô lượng, liền biết hết
thảy thân là vô lượng. Do biết thân là vô lượng, liền biết trí là vô lượng. Do
biết trí là vô lượng, liền biết hư không vô lượng. Vì lẽ nào vậy? Hết thảy các
pháp do tâm mà có. Liễu đạt điều này thì chính là pháp vô lượng, liền biết thân
vô lượng. Cái thân do duyên sanh mà thấy bèn tương ứng với căn cơ, trí thuộc Độ
môn tương ứng với điều đó liền khởi, cũng lại là vô lượng, mỗi mỗi đều bằng với
hư không. Do thân, trí, chúng sanh, và hư không vô lượng, nên gọi là “tứ vô lượng”. Do các thứ vô lượng ấy
từ tâm mà sanh, nên gọi là “tứ vô lượng
tâm”.
Nếu đắc tứ vô lượng tâm ấy, sẽ chính
là thành Chánh Giác, tức là trọn đủ mười lực, [có thể] hàng phục tứ ma, có thể
vô úy sư tử hống. Các chuyện như thế đều do trụ trong tứ vô lượng tâm ấy, trụ
trong câu “hết thảy các pháp tối thượng”
mà được thành tựu, nên gọi chữ Aṃ (अं) là cái quả của Tất Địa. Trăm môn này
không chỉ do ta tự nói, mà hết thảy chư Phật cũng đều nói như thế. Đấy là nói về
các công đức như Thập Lực v.v… trên đây. Dũng Sĩ chính là Bí Mật Chủ. Bậc Dũng
Sĩ siêng học câu tối thượng giác như thế, tức là điều cốt lõi trong trăm môn Học
Xứ do chư Phật đã nói (ý nói: Sở dĩ thành Phật là do học “tâm” (tức điều cốt lõi) của trăm môn
này). Trên đây là phẩm Bách Tự Quả Thọ Dụng, tức là tùy theo mỗi môn mà có sự
thọ dụng tương ứng [với cái quả của mỗi môn trong môn Trăm Chữ này].
[1] Do chỗ
này hơi khó hiểu, ngu ý cho rằng: Các thế gian nhiều đến vô lượng, nên gọi là
“thế giới hải” (biển thế giới) để hình dung. Do thế giới vô lượng, chúng sanh
giới vô lượng, nói đại lược thì là mười pháp giới. Do vậy, pháp giới cũng là vô
lượng. Các pháp môn để tiến nhập, chứng đạt các pháp giới bình đẳng được hình
dung như cửa biển tức chỗ để các con sông đổ vào biển, nên gọi theo lối tỷ dụ
là “hải khẩu” hoặc “hải môn”.
Comments
Post a Comment