Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
30. Phẩm thứ ba mươi: Trì tụng
thế gian và xuất thế gian
Thế Xuất Thế Trì Tụng Phẩm Đệ Tam Thập
世出世持誦品第三十
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Kim thuyết bí mật trì chân ngôn pháp. Nhất
nhất chư chân ngôn, tác tâm ý niệm tụng, xuất nhập tức vi nhị, thường đệ nhất
tương ứng. Dị thử nhi thọ trì, chân ngôn khuyết chi phần. Nội dữ ngoại tương ứng,
ngã thuyết hữu tứ chủng. Bỉ thế gian niệm tụng, hữu sở duyên tương tục, trụ chủng
tử tự cú, hoặc tâm tùy Bổn Tôn. Cố thuyết hữu phan duyên, xuất nhập tức vi thượng.
Đương tri xuất thế tâm, viễn ly ư chư tự, tự tôn vi nhất tướng, vô nhị, vô thủ
trước, bất hoại ý sắc tượng, vật dị ư pháp tắc. Sở thuyết tam lạc-xoa, đa chủng
trì chân ngôn, nãi chí chúng tội trừ, chân ngôn giả thanh tịnh, như niệm tụng số
lượng, vật dị như thị giáo.
(經)復次,祕密主!今說祕密持真言法。一一諸真言,作心意念誦,出入息為二,常第一相應,異此而受持,真言闕支分。內與外相應,我說有四種,彼世間念誦,有所緣相續,住種子字句,或心隨本尊,故說有攀緣,出入息為上。當知出世心,遠離於諸字,自尊為一相,無二無取著,不壞意色像,勿異於法則。所說三落叉,多種持真言,乃至眾罪除,真言者清淨,如念誦數量,勿異如是 教。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Nay nói cách trì chân ngôn
bí mật: - Đối với mỗi chân ngôn, khởi tâm ý niệm tụng. [Đó là cách thứ nhất],
theo hơi thở niệm tụng. Đó là cách thứ hai. Thường đệ nhất tương ứng. Thọ trì
khác cách ấy, chân ngôn thiếu chi phần. Trong và ngoài tương ứng, ta nói có bốn
loại. Cách niệm tụng thế gian, có duyên theo liên tục, trụ chủng tử, câu, chữ,
hoặc tâm nương Bổn Tôn, nên nói “có phan duyên”. Theo hơi thở bậc thượng. Nên
biết tâm xuất thế, xa lìa ngoài các chữ. Chữ, tôn thánh một tướng, chẳng hai,
chẳng chấp lấy. Chẳng hoại ý sắc tượng, chẳng khác với pháp tắc. Nói là ba lạc-xoa,
nhiều loại trì chân ngôn, cho đến trừ các tội. Bậc chân ngôn thanh tịnh, niệm tụng
đúng số lượng, đừng khác với lời dạy).
Lại này, Bí Mật Chủ! Nói pháp niệm tụng
bí mật, cũng khiến cho đối với mỗi chân ngôn được tụng, Phật, Bồ Tát riêng nói.
Ý nói: Trong các chân ngôn ấy, chọn lấy một thứ nào đó, bèn nói là “mỗi mỗi”. Trong các chân ngôn, hễ chọn
một thứ nào đó, đều riêng niệm tụng trong tâm. [Đó là cách thứ nhất]. Cách thứ
hai là niệm tụng theo hơi thở ra vào. Hai cách [niệm tụng] ấy tương ứng bậc nhất.
Hãy nên thực hiện hai pháp ấy như thế; đó gọi là cách niệm tụng bậc nhất. Nếu
khác với cách này, việc niệm tụng sẽ có thiếu khuyết, do chi phần chẳng đầy đủ.
Nhưng do tương ứng với nội và ngoại, [từ hai pháp nói trên đây] chia ra thành bốn,
ta trước đó đã nói, nay tiếp đây lại nói. “Thế gian” là có cái để phan duyên, tức là trong ba thứ, chỉ
quán một thứ trong chữ, ấn, hoặc thân. Quán xong bèn biết bản tánh của chúng,
như ấn chính là chữ, chữ chính là thân, tâm vô ngại, lặng trong; đó là niệm tụng.
Nếu dùng chữ [trong chân ngôn] để làm hơi thở ra vào, biết chữ chính là cái Thể
của chân ngôn. Do sức giúp đỡ của [hơi thở] ra vào, nên gọi là “xuất nhập tức” (thở ra, hít vào).
Trong hai cách này, do hơi thở ra vào còn có chút phan duyên, cho nên biết “ý niệm tụng” (niệm tụng bằng tâm tưởng)
chính là tối thượng. Chữ, ấn, và bổn tôn chẳng phân biệt, thở hít cũng thế. Phẩm
Thế Xuất Thế Gian Trì Tụng này chính là đại ý của cả bộ kinh, chỉ là phương
pháp nhập đạo để các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh thực hiện sự trì tụng. Do phẩm
này được chuyên gọi như thế, liền biết yếu chỉ của cả bộ kinh.
Đầu bộ kinh, ngài Kim Cang Thủ đã từng
hỏi đức Phật cách thức trì tụng, trong các phần trước cũng có chỗ giải đáp đại
lược, nhưng chưa tường tận. Nay vì quyết trạch, lại phân biệt cặn kẽ hạnh tông
yếu ấy. “Bí mật”: Những điều được
nói trong các phẩm trước chẳng phải là không bí mật, nhưng điều tông yếu ở đây
chính là bí mật nhất trong các bí mật. Mỗi một cách niệm tụng, hoặc là dùng ý
thanh[1]
để niệm tụng, hoặc niệm tụng theo hơi thở ra vào, đều là nêu rõ hành pháp sai
biệt khác nhau! Mỗi một cách niệm tụng, tức là chuyên tâm hay miệng tụng chân
ngôn, khi âm thanh chân ngôn phát ra, âm thanh của mỗi chữ đều chắc thật, chẳng
gián đoạn. Hễ đoạn tức là phan duyên! “Tác
ý” tức là thẳng thừng dùng tâm để trì, chỉ dùng tâm tưởng để niệm tụng,
không phát ra tiếng. “Niệm tụng theo
hơi thở ra vào” tức là như trong phần trên đã nói “nuốt gió” vậy. “Hai tương ứng” là trong ba loại niệm
tụng, thì tác ý và hơi thở ra vào là [cách niệm tụng] tương ứng bậc nhất.
“Đương
vật dị” (Đừng nên khác đi): Hãy thường nên dựa theo đó để làm, đừng dị
duyên, dị tưởng. Nếu chẳng phải vậy, chỉ là dụng công vô ích! Người trì chân
ngôn dụng công thiếu khuyết chi phần, tức là đối với chữ có chấm, nhưng chẳng
nói (phát âm đúng theo chữ đó), hoặc là thiếu chữ, hoặc đáng lẽ đọc âm dài mà lại
đọc thành âm ngắn. Các trường hợp [sai sót] như thế rất nhiều, đều gọi là “khuyết chi phần niệm tụng”. Đối với
hai cách trên đây, hễ có nội ngoại tương ứng, sẽ hợp thành bốn loại niệm tụng
(tức bốn màu). Nói “thế gian hữu duyên
tương tục” là nói tới tự cú (chữ và câu chân ngôn). “Cú” (câu) [hàm nghĩa] “giở chân, cất
bước”, tức là quán chữ ấy như từng bước chân, “chữ” chính là chữ chủng tử.
Kế đó, trong phần Thế Xuất Thế Niệm Tụng
trên đây, thân, chữ, và ấn hợp thành một là được! Nay cách niệm tụng trong thế
gian có khác, hoặc quán chữ, hoặc quán Bổn Tôn, hoặc quán ấn. Có nghĩa là: Câu
chính là Bổn Tôn; đó là cách niệm tụng theo thế gian. [Trong cách niệm tụng
theo thế gian], niệm theo hơi thở ra vào là tối thượng. Pháp dùng hơi thở ra
vào [để niệm tụng] trong phần trước [được coi] là tối thượng, tức là đối với
hơi thở ra vào, biến chữ thành hơi thở ra vào. Nay trong cách niệm tụng thế
gian, [hành nhân] thấy trong hơi thở ra vào có chữ rành rẽ, phân minh; đó là có
phân biệt, còn trong pháp xuất thế gian trên đây, chẳng dấy lên phân biệt như
thế! Trong chân ngôn, hễ phân biệt thì là hai, chính là cách trì tụng thế gian.
Cách ấy có duyên theo tướng, duyên theo chữ, hoặc câu chữ. Đối với câu chữ, từ
trong đó, chọn lấy một chữ để duyên theo, hoặc lấy một câu, tưởng [câu ấy] ở
nơi tâm của Bổn Tôn, như trong phần trước đã nói cặn kẽ. Đó là ngoại niệm tụng.
“Lấy
một chữ” tức là chữ chủng tử, hoặc chữ đầu tiên của chân ngôn. Nếu chân
ngôn ngắn, có thể tưởng trọn cả câu. Như trong phần trước đã nói, [xếp các chữ ấy]
liên hoàn, đặt trong vầng tròn sáng nơi tâm Bổn Tôn. Hai loại ấy, hoặc chữ hay
câu, thuận theo hơi thở ra vào chẳng dứt, chẳng gián đoạn. Khi sắp tụng bèn nhiễu
quanh. Kinh có nói rõ nghĩa này, như nhìn vào hình bóng trong gương, bèn thấy
phân minh. Nay quán chữ, thấy chữ, quán ấn và Bổn Tôn liền thấy [ấn và Bổn
Tôn]. Đó tức là hữu tướng. Nếu lúc hành giả thấy tướng chân thật ấy, liền chẳng
trụ vào hữu tướng, nhưng còn chưa nhập vô tướng. Nếu quán Bồ Đề tâm, tức là một
mực vô tướng. Tâm ấy chính là Phật, Phật chính là tự thân. Tự thân liền thành
Phật; do thành Phật nên một tướng chẳng khác. Vì vậy, gọi là vô tướng. “Tùy” nghĩa là đến hoặc đi tùy tâm.
Trong cách niệm tụng thế gian, coi [niệm tụng theo] hơi thở ra vào là cao. Hãy
nên biết trong cách niệm tụng xuất thế gian, niệm tụng bằng ý xa lìa các chữ,
chữ và Bổn Tôn là nhất hiệp tướng. “Bất
hoại” tức là chẳng tách thành hai đằng để chấp giữ, [hai đằng] tức là
phân biệt và chấp trước đối với tướng. “Nhất
hiệp tướng” tức là hợp thành một để khỏi chấp trước, nhưng chẳng hoại tướng
ấy. Chẳng hoại ý sắc tướng, hình tượng và tâm chẳng khác nhau. Vì thế nói là “bất hoại”. “Vật dị pháp tắc” (Đừng khác pháp tắc) tức là giáo pháp như thế, [hãy vâng
theo đó, đừng làm khác đi].
Trụ trong pháp như vậy, bèn tụng ba lạc-xoa.
Như trong phần trước, ta đã nói nhiều loại niệm tụng, tức là số lượt, thời tiết,
hiện tướng, tăng ích v.v… “Ba lạc-xoa”
là con số, “số” là thế gian (tức hiểu lạc-xoa theo ý nghĩa số lượng thì là cách
hiểu chấp trước của thế gian). Lạc-xoa trong xuất thế gian là thấy tam tướng, tức
là đối với “chữ, ấn, Bổn Tôn”,
tùy chọn mỗi tướng thích hợp. “Chữ, ấn,
Bổn Tôn, thân, ngữ, tâm” gọi là Kiến, cho đến có thể khiến cho người trì
tụng thanh tịnh, khiến cho hết thảy các tội trừ diệt. Nếu chẳng tịnh, lại [tu tập]
thêm một tháng, một năm v.v…. như trong phần trước đã nói. Nay nói con số niệm
tụng nhằm nhắc lại kinh văn trong phần trước: “Chẳng nên khác với pháp tắc ấy!” Do vậy, nay tai
nghe thở ra thì chữ phát ra, khi hít vào thì chữ sẽ theo hơi thở mà ra vào. Nay
nói “cách tụng kinh của tông Thiên
Thai là pháp Sổ Tức của tông viên đốn” chính do ý này. Nay do dùng chữ ấy
để duyên theo hơi thở ra vào, tự nhiên cái tâm niệm niệm liên tục, chẳng tán loạn,
điềm nhiên, dễ nhập tam-muội. Đấy là cách niệm tụng tối thượng trong thế gian vậy!
Lại nữa, trong phần trên nói về tôn thần,
có nói pháp niệm tụng theo câu, chữ này, chư tôn đều như thế. Trên là từ Phật Bộ
cho đến dưới là tám bộ, hễ có niệm tụng, đều nên làm như thế. Cách niệm tụng
theo hơi thở ra vào này, cũng tùy theo pháp của Bổn Tôn mà mỗi mỗi có hành pháp
này. Hãy nên biết: [Cách niệm tụng thù thắng trong] xuất thế gian là pháp niệm
tụng theo ý, lìa khỏi văn tự, há có phải là bác bỏ các chữ chân ngôn trên đây
thì mới gọi là “lìa văn tự” ư?
Chẳng phải vậy, mà là có thể thông đạt bản tánh của chữ chính là viên minh. Hãy
nên trụ trong cái “bất sanh sẵn có”
tức là cái tâm. Thể tánh của cái tâm viên minh thanh tịnh, trọn đủ các đức mà
chẳng phân biệt. Hãy nên quán chữ như thế. “Chữ” ấy lại chính là chữ chân ngôn và câu của Bổn Tôn trong phần
trước. Chỉ biết rõ chữ ấy từ tâm mà sanh. Tâm đã viên minh, trạm tịch, tánh của
chữ sanh từ tâm cũng như thế. Nói “lìa
chữ, thanh” v.v… tức là lìa cái tâm phân biệt duyên niệm và thanh tưởng v.v…
Nhưng trì tụng thì có tụng và quán, hoặc có thể quán hạnh, hoặc có thể kiêm
hành, hoặc chỉ tu Quán Chiếu. “Tụng” là
như trên duyên theo âm thanh, chữ, hoặc hơi thở ra vào. “Chiếu” là quán thể tánh của chữ ấy. Nhưng lúc mới quán, sẽ thường
có tướng. Nếu quán sự viên minh của một chữ chủng tử thì thoạt đầu quán nhỏ. Nếu
quán trọn cả câu, sẽ tưởng vầng tròn sáng to lớn, có hình dạng như mắt xích.
Dùng tâm quán chiếu, khiến cho rõ ràng, phân minh; sau đấy, từ đó mà quán tánh
của nó. Đối với tướng của Bổn Tôn, chẳng hoại mà cũng chẳng lấy, ý chẳng hoại
hình.
“Vật
dị pháp tắc” (Đừng khác pháp tắc):
[Để quán tưởng] Bổn Tôn chính là thoạt đầu quán chữ trong vầng tròn sáng. Kế đó
là quán Bổn Tôn, như trên đã nói. “Nhất
tướng” chính là thân, khẩu, ý. Quán vầng tròn sáng trên tâm Bổn Tôn
chính là tâm, thân ấn của Ngài chính là thân. Các chữ chân ngôn chính là ngữ.
Nay đã thấy rõ Bổn Tôn, quán ba sự của Bổn Tôn là một tướng bình đẳng giống như
Thật Tướng. Lại quán Bổn Tôn, ba sự bình đẳng một tướng, liền giống như ta. Ba
tướng của ta cũng lại là một tướng bình đẳng, chẳng khác Bổn Tôn. Tánh viên
minh ấy chẳng khác Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm chẳng khác Bổn Tôn, tự và tha bình đẳng.
Lại nữa, tuy chữ được quán khác nhau,
nhưng đều là tam-muội môn. Nếu hiểu tánh và tướng của một chữ, liền hiểu tánh
và tướng của hết thảy các chữ. Chữ tức là Bổn Tôn, Bổn Tôn tức là tâm, tâm tức
là thể tánh của pháp giới. Vì thế, chữ A này chính là chữ chẳng thể nghĩ bàn.
Như chữ A, hết thảy cũng như thế. Giống như chữ, ấn và Bổn Tôn cũng như thế.
Trong ba tướng chẳng nghĩ bàn ấy, tức là tướng chữ chân ngôn, tướng thân ấn, và
tâm tướng của Bổn Tôn, chẳng trừ bỏ, chẳng lập, chẳng tăng thêm, chẳng giảm bớt.
Hãy nên quán là tướng hết thảy bình đẳng, thấu đạt hết thảy các pháp, thành Nhất
Thiết Trí. Hãy nên nương theo pháp tắc ấy để thực hiện, đừng khác với điều đó.
Đấy chính là ý nghĩa của “tam lạc-xoa”.
Lạc-xoa là tiếng Phạn, nghĩa là “tướng”,
mà cũng có nghĩa là “thấy”.
Trong các thứ kinh giáo, hễ có chỗ
tương ứng với trì tụng, ta phần nhiều nói “tụng một lạc-xoa”, hay “ba
lạc-xoa” v.v… Hoặc nói “vì trừ
tội chướng nên tụng một lạc-xoa. Kẻ tội chướng cực trọng chẳng vượt quá ba lạc-xoa
liền được tội nghiệp thanh tịnh”. Nhưng nghĩa này có dư thừa, nay hãy
nên quyết trạch. Nói “lạc-xoa”
là nói đến tướng. Nếu đạt được ba tướng, sẽ là tội được trừ:
- Trước là nói về thân tướng, tức thân
thể trước kia thô nặng, nay được khinh an, thậm chí đi trăm dặm, ngàn dặm, sẽ
nhanh chóng vượt qua, chẳng cảm thấy mỏi mệt, nhanh lẹ dị thường! Trước kia
tĩnh tọa chú tâm vào một duyên, phần nhiều bị tiểu trùng, muỗi mòng quấy rối,
nay [các chướng não ấy] đều chẳng sanh, chẳng còn tướng bẩn thỉu đáng ghét, rộng
như trong Đại Phẩm đã nói. Đấy là thân tướng.
- Khẩu tướng là hễ có tụng niệm, khi vừa
tạm phát ra âm thanh, Bổn Tôn liền đến. Lại như Đại Phẩm đã nói cặn kẽ: Miệng
thốt ra lời chân thành, phi nhân chẳng quấy nhiễu người ấy. Đó đều là tướng ngữ
nghiệp thanh tịnh.
- Ý cũng có tướng lạ thù thắng, tức là
phát sanh vô lượng huệ giải. Như trải qua một tháng, bốn tháng phân biệt chẳng
hết. Hoặc khi trước ham thích vị thức ăn như thế này, như thế nọ, nếu chẳng được,
thân liền bất an. Nay thì vắng lặng, chẳng còn nghĩ tới nữa. Thậm chí nhiều
ngày chẳng ăn, vẫn điềm nhiên, đạt được vị ngon hỷ duyệt, chẳng còn nghĩ muốn
ăn chi khác, thân cũng chẳng đói khát. Hoặc trước kia lắm thứ phiền não, nay đều
dứt sạch. Đó đều là tướng ý thanh tịnh.
Do có đủ ba thứ tịnh tướng ấy, gọi là “ba lạc-xoa”. Nếu chẳng phải vậy, miệng
chỉ tụng số lượt trì niệm suông, chẳng có ích gì! Đã đạt được ba tướng ấy, hãy
nên càng tu thêm hạnh thù thắng. Hoặc có lúc chư thiên bát bộ phi hành trong
không trung, chẳng dám dẫm đạp lên bóng người ấy, hoặc sẽ đến kính lễ, hỏi han.
Các đồng tử cõi trời làm người hầu hạ, hỏi han những thứ [người ấy] cần dùng.
Những điều như thế ai biết? Chỉ người tụng trì tự biết đó thôi! Đấy cũng là tướng
trừ sạch tội.
Trong phần trên thì nói “lìa hết thảy các tướng”, nay nói ba
tướng, làm thế nào tương ứng với điều này? Nay đáp: Do ba tướng ấy dùng chữ A.
Ba chữ ấy chính là một tướng, cũng chẳng phải là một, mà cũng chẳng phải là
khác, như tông Thiên Thai đã giải thích, đại lược tương đồng với điều này, tức
là một tướng là hết thảy các tướng, chẳng phải một, chẳng phải hết thảy, từ
ngay nơi tướng mà chính là vô tướng, từ ngay phi tướng mà chẳng phải là vô tướng;
đấy đều là ý này! Ba tướng như thế bình đẳng trụ trong Thật Tướng, đó là ý
nghĩa của “ba lạc-xoa”. Thật Tướng
của thân là một lạc-xoa, trừ hết thảy thân cấu. Tướng của ngữ chân ngôn là hai
lạc-xoa, trừ hết thảy ngữ cấu. Thật Tướng của ý là lạc-xoa thứ ba, trừ hết thảy
tâm cấu. Tam cấu đã trừ, ba công đức sanh, tức là phần chứng công đức của Như
Lai.
Lại nữa, lạc-xoa có nghĩa là “đích ngắm”, tức là ý nghĩa “mục tiêu”. Như trong kinh Văn Thù
nói về chuyện học bắn, thoạt đầu bắn vào đích ở xa, sau dần dần tới gần, cho đến
tùy ý đều trúng đích. Thủ Lăng Nghiêm tam-muội cũng thế, do nhân duyên ấy mà gọi
là lạc-xoa. Lại nữa, thân kết ấn, miệng tụng chân ngôn, ý quán Bổn Tôn, tức là
ba hạnh sai biệt bất đồng, tức là tam tướng. Do ba tướng ấy, nhập môn chữ A,
lìa khỏi tam tướng, nhất tướng bình đẳng. Chiếu kiến như thế chính là ý nghĩa của
ba “lạc-xoa”.
Lạc-xoa nghĩa là “thấy”; vì thế nói “vật dị” (đừng khác), tức chớ quán
chi khác! Lại nữa, trước đó đã nói ba cú nghĩa, tức “Bồ Đề làm tâm chủng tử” chính là nhân, “đại bi làm căn, phương tiện làm rốt ráo”. Từ đầu tới cuối đều
nói về ba sự ấy, hoặc tự hiển lộ ba đức ấy, hoặc nhằm thành tựu ba hạnh ấy. Nói
“ba lạc-xoa” chính là nhằm
tương ứng với điều ấy. Tức là hành giả thoạt đầu cần phải tương ứng với Bồ Đề
tâm; đó là cái nhân của hết thảy Phật pháp. Nếu chẳng phát tâm, liền lìa diệu
nhân, há có thể tiến hành ư? Tuy đã có tâm, nếu chỉ ngóng nhìn đường mà chẳng cất
bước, có nguyện mà chẳng hành, há có thành tựu hết thảy các thân công đức sanh
bởi Đại Bi Thai Tạng được ư? Hoặc tuy có thể tiến hành, nhưng vì lìa phương tiện,
nên có nghi tâm. Do nghi tâm nên hết thảy chẳng thể thành, cũng chẳng thể nhập
Thật Tướng. Vì thế, đức Phật răn dạy các hành nhân: - Ắt cần phải nương theo thầy
mà học, chẳng được tự chuyên. Đừng cậy vào sức phân biệt lợi căn của chính
mình, tự tiện nương theo kinh văn để tự hành, vừa nghe liền áp dụng, chẳng vào
Mạn-đồ-la, chẳng thọ giới tam bình đẳng, chẳng thể thông hiểu trọn vẹn phương
quỹ. Do chẳng hiểu biết, dẫu phát tâm tu hành dũng mãnh tinh tấn, nhưng do
phương tiện sai lầm, việc làm sẽ chẳng thành. Bởi đó, nẩy sanh tâm nghi. Do tâm
nghi nên hủy báng tạng bí mật của Như Lai, là cái nhân của ngũ vô gián, hướng
vào đường ngũ vô gián. Do nhân duyên ấy, cần phải trọn đủ ba cú nghĩa, chẳng được
khuyết thiếu. Đó là ý nghĩa của “ba lạc-xoa”.
Do chuyện này đã xong, trong phẩm Phó Chúc tiếp theo, lại nói rõ về tướng trạng
chọn lựa đệ tử, văn tướng hô ứng nhau. Phẩm tiếp theo là quán sát, căn dặn, tuy kinh chẳng
nói, nhưng ý nghĩa
là như thế đó.
[1] Tuy thầm
tưởng để niệm tụng, trong tâm vẫn nghe từng âm thanh rõ ràng, nên gọi là “ý thanh”.
Comments
Post a Comment