Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
9. Phẩm
thứ chín: Mật Ấn
Mật Ấn Phẩm Đệ Cửu
密印品第九
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát chư đại chúng hội,
cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Hữu đồng Như Lai trang nghiêm cụ,
đồng pháp giới thú tiêu xí, Bồ Tát do thị nghiêm thân cố, xử sanh tử trung, tuần
lịch chư thú, ư nhất thiết Như Lai đại hội, dĩ thử đại Bồ Đề tràng nhi tiêu xí
chi. Chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà, A Tô La, Yết Rô Đồ, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, nhân phi nhân đẳng, kính nhi nhiễu chi, thọ giáo nhi hành. Nhữ kim đế
thính, cực thiện tư niệm, ngô đương diễn thuyết”. Như thị thuyết dĩ, Kim Cang
Thủ bạch ngôn: “Thế Tôn! Kim chánh thị thời, Thế Tôn! Kim chánh thị thời”.
(經)爾時,薄伽梵毘盧遮那觀察諸大眾會,告執金剛祕密主言:祕密主!有同如來莊嚴具、同法界趣幖幟,菩薩由是嚴身故,處生死中巡歷諸趣,於一切如來大會以此大菩提幢而幖幟之,諸天、龍、夜叉、乾達婆、阿蘇囉、揭嚕荼、緊那囉、摩睺羅伽、人非人等敬而遶之受教而行。汝今諦聽,極善思念,吾當演說。如是說已 ,金剛手白
言:世尊!今正是時。世尊!今正是時。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na
quán sát các đại chúng hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Có
một ấn giống như vật trang nghiêm của Như Lai, có cùng biểu trưng với các đường
trong pháp giới. Bồ Tát dùng ấn đó để trang nghiêm thân, ở trong sanh tử, trải
khắp các đường, ở trong các đại hội của hết thảy Như Lai, dùng đại Bồ Đề tràng
này để làm vật tiêu biểu. Các trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà (Càn Thát Bà), A
Tô La (A Tu La), Yết Rô Đồ (Ca Lâu La), Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi
nhân v.v… kính trọng, nhiễu quanh, vâng theo lời dạy mà hành. Ông nay hãy lắng
nghe, cực khéo suy nghĩ, ta sẽ diễn nói”. Nói như thế xong, ngài Kim Cang Thủ bạch
rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chính là phải lúc. Bạch Thế Tôn! Nay chính là đúng
lúc”).
Đức Phật đã nói đại lược nghi thức và pháp tắc quán đảnh, Ngài lại còn có
điều muốn nói, bèn quán sát đại hội nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật,
chẳng phải là không có nhân duyên, tức là Ngài sẽ nói về các ấn nơi thân mật của
Như Lai. Kế đó, Ngài liền bảo Kim Cang Thủ, có ấn tên là “Như Lai trang nghiêm cụ đồng, pháp giới thú
tiêu xí đồng” (giống như vật trang nghiêm của Như Lai, giống như vật biểu
trưng của các đường trong pháp giới), ý nói: Hết thảy chư Phật do dùng ấn ấy để
trang nghiêm mà được thành tựu thân pháp giới của Như Lai. Nếu có chúng sanh
hành pháp này, do được ấn ấy gia trì, cũng sẽ giống như thân pháp giới của Như
Lai. Ấn ấy chính là vật tiêu biểu cho pháp giới. Dùng ấn ấy để nêu bày cái Thể
của pháp giới, bèn gọi nó là “pháp giới
tràng”. Chư Phật dùng nó để trang nghiêm thân. Trong hết thảy các đại hội,
hễ kiến lập vật biểu trưng cho Vô Thượng Đại Bồ Đề này, sẽ có thể khiến cho kẻ
ác tà kiến trong tám bộ đại chúng lánh xa, người có căn tánh tốt lành sẽ thân cận,
tu hành đúng theo lời dạy. Các vị hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ tột bậc, ta
nay sẽ tuyên nói.
“Thế Tôn! Kim chánh thị thời. Thế Tôn! Kim chánh thị thời” (Bạch
Thế Tôn! Nay là đúng lúc. Bạch Thế Tôn! Nay là phải lúc): Nhắc lại hai lần đều
có ý nghĩa. Thời điểm nói lần thứ nhất là Ca La thời, hàm ý: Trong đại chúng
này chẳng có cành lá, thuần là chân thật, kham tiếp nhận đại pháp, Như Lai ứng
cơ mà nói, nay chính là đúng lúc. Kế đó là Tam-ma-da thời, tức là “thời” trong thời phần, nay chính là
đúng dịp để thuyết pháp vậy.
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm tức tiện trụ ư Thân Vô Hại Lực tam-muội,
trụ tư Định cố, thuyết Nhất Thiết Như Lai Nhập Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô
Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh Phi viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa ha.
(經)爾時,薄伽梵即便住於身無害力三昧。住斯定故,說一切如來入三昧耶遍一切無能障礙力無等三昧力明妃曰:南麼三曼多勃馱喃。阿三迷。呾哩三迷。三麼曳。莎訶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm liền trụ
trong Thân Vô Hại Lực tam-muội. Do trụ trong Định ấy, nói Nhất Thiết Như Lai Nhập
Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh
Phi rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa
ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, asame trisame samaye svāhā”).
Vì mãn nguyện ấy, đức Phật
lại nhập tam-muội. Đấy chính là sức tự tại nơi vô lượng thân của Như Lai, cho
nên không ai có thể hại được! Trụ trong tam-muội này mà nói chân ngôn Tam Minh.
Minh ấy có tên là sức Vô Ngại Vô Hại Vô Đẳng. Do tam-muội-da ấy, các người học
được nghe, được nhập chánh pháp. Nếu chẳng hành pháp này, sẽ chẳng thích hợp nhập
đàn, cũng chẳng thích hợp nghe bí giáo. Nếu tu Minh này, sẽ có thể đạt được
thân tịnh, ngữ tịnh, sở nguyện được thỏa mãn, trọn đủ ba thân. Vì thế, gọi là
Tam Minh. Tam Lực tức là tam thế lực (sức trong ba đời), hoặc là tam bình đẳng
lực. “Vô đẳng lực” chính là ba
sức ấy. Kế đó, nói ra Minh ấy: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm (Namaḥ samantabuddhānāṃ). A sa mê (Asame, vô đẳng), đát-rị tam mê (trisame,
tam đẳng), tam ma duệ (samaye, tức là tam-muội-da), sa ha (svāhā,
cảnh tỉnh, phát khởi)”.
“A sa mê”: Minh này lấy chữ A làm đầu, tức là giống như Pháp
Thân của chư Phật vô tướng, ly tướng. Hãy nên biết Pháp Thân ấy chẳng thể sánh
bằng. “Tam-mê” tức là ba thân của
Phật, tức Pháp, Báo, Hóa, hợp thành một thân, giáo hóa chúng sanh, cũng là bản
thể tương đồng với môn chữ A: Vô tướng, ly tướng! Vì thế nói là Đẳng. Tam-muội-da
có nghĩa là “chẳng thể vượt qua”.
Đó là “vô đẳng, tam đẳng” mà
các đức Như Lai cùng nói. Đức Phật trụ trong tam-muội, nói ra sức vô hại vô đẳng
của Minh này. Do Minh này mà có thể nhập tam-muội-da. Tam-muội-da này chính là
thệ nguyện, giống như sắc truyền, là thệ nguyện trọng yếu căn bản của tam thế
chư Phật. Pháp môn này khó tin, khó nhập, khó thể được nghe, do pháp chẳng thể
gặp vậy! Vì đó, tam thế chư Phật cùng nói chân ngôn này. Do tam-muội-da chân
ngôn này gia bị, [người học] sẽ được nhập, lắng nghe, tu hành pháp này. Giống
như lời dạy của bậc tôn quý, chẳng thể trái vượt. Nếu chẳng nghe, tức là chẳng
được nhập, mà cũng chẳng được nghe. Sa-ha (Svāhā) có nghĩa là “cảnh phát”
(nhắc nhở), tức là dùng chân ngôn này để nhắc nhở chư Phật. Khi nói Minh này,
chư Phật liền được nhắc nhở mà khởi tâm gia trì hành nhân. Do sức của Minh này,
có thể thỏa mãn các địa vị, có thể khiến cho người tu đạt được ba pháp trong hiện
tại, tức là thành tựu bao gồm ba pháp, chính là sức của Bổn Tôn, chân ngôn, và ấn.
Ba pháp giới ấy liền được thành tựu!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị Minh Phi thị hiện nhất thiết Như Lai địa, bất
việt tam pháp đạo giới viên mãn địa Ba La Mật. Thị mật ấn tướng, đương dụng Định
Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, dĩ Định Huệ nhị hư không luân tịnh hiệp nhi
kiến lập chi. Tụng viết: - Thử nhất thiết chư Phật, cứu thế chi đại ấn, Chánh
Giác tam-muội-da, ư thử ấn nhi trụ.
(經)祕密主!如是明妃示現一切如來地,不越三法道界圓滿地波羅蜜。是密印相,當用定慧手作空心合掌,以定慧二虛空輪並合而建立之。頌曰:此一切諸佛,救世之大印,正覺三昧耶,於此印而住。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Minh Phi như vậy thị hiện hết
thảy các Địa của Như Lai, chẳng vượt qua giới hạn của tam pháp đạo, viên mãn Thập
Địa và Ba La Mật. Tướng của mật ấn này là hãy dùng tay Định (trái) và Huệ (phải)
kết không tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón hư không (ngón cái) của hai tay đặt
sát lại để kết thành ấn. Tụng rằng: - Đại ấn cứu thế này, của hết thảy chư Phật,
Chánh Giác tam-muội-da, trụ ở trong ấn này).
Kế đó, nói đến tướng thủ ấn.
“Bất việt tam pháp đạo giới”:
Giới hạn ấy chính là cái quả do [A-xà-lê tác pháp] kết đại giới, chẳng phải là
Đà Đô (Dhatu) [trong “pháp giới”]. [Khi tác pháp, A-xà-lê hoặc hành nhân] đi
[trên lối đi] giữa các đường ranh trong đàn nên nói là “chẳng trái vượt”. Nay trong phẩm này nói mười hai loại danh tướng
của “hiệp chưởng” (pranāma, chắp tay). Phàm trong các ấn pháp, mười hai loại [hiệp chưởng] này tột bậc
trọng yếu, phải nên nhớ rõ:
- Thứ nhất, chắp tay sao
cho lòng bàn tay áp chặt vào nhau, mười đầu ngón tay hơi tách rời nhau đôi
chút. Cách này gọi là Ninh Vĩ Noa (Nevina, Nivida) hiệp chưởng (đó gọi là “kiên thật hiệp chưởng”).
- Thứ hai, kế đó, đặt mười
đầu ngón tay ngang nhau, các đầu ngón tay áp vào nhau, lòng bàn tay hơi tách ra
[nhưng rìa bàn tay vẫn chạm nhau] thì gọi là Tam Bổ Trá (Saṃpuṭa) hiệp chưởng (phương này (Trung Hoa) gọi là “hư tâm hiệp chưởng”).
- Thứ ba, kế đó, mười đầu
ngón tay áp vào nhau, các ngón tay cũng đặt ngang nhau, nhưng giữ cho khoảng trống
giữa hai lòng bàn tay rộng hơn [khiến cho hai lưng bàn tay hơi khum khum] thì gọi
là Khuất Mãn La (Kuḍmala) hiệp chưởng (phương này nói
là “như búp sen”).
- Thứ tư, kế đó, hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (ngón út) chạm vào nhau, các
ngón khác đều hơi tách ra, gọi là Bộc Noa (Pūṇa, Bhagna) hiệp chưởng (phương này gọi là “sen vừa mới chớm nở”).
- Thứ năm, kế đó, lại ngửa
hai bàn tay đặt sát nhau, sao cho [hai ngón út đặt kế nhau, các đầu ngón tay] đều
hướng lên trên cùng phô lòng bàn tay ra [lòng bàn tay hướng về phía người lễ
bái], thì gọi là Ốt Đa Na Nhã (Uttānaja) hiệp chưởng (phương này gọi là Lộ).
- Thứ sáu, kế đó, lại cùng
ngửa lòng bàn tay [sao cho đầu ngón tay] hướng lên trên giống như trong loại
trên, nhưng đầu các ngón chụm lại, sao cho hơi cong giống như dáng vẻ đang vốc
nước (chớ quá cong ngón tay), thì gọi là A Đà Ra (Ādhāra) hiệp chưởng (phương này dịch là Trì Thủy).
- Thứ bảy, kế đó, mười đầu
ngón tay xen kẽ, đều là các ngón tay phải gác lên đầu các ngón trái, giống như
kim cang hiệp chưởng (cách này gọi là “quy
mạng hiệp chưởng”), tiếng Phạn là Bát Ra Noa Ma (Praṇāma) hiệp chưởng.
- Thứ tám, kế đó, lại dùng
tay phải đặt trên tay trái sao cho lòng bàn tay xoay ngược ra ngoài, mười đầu
ngón tay đan vào nhau, cũng là sao cho ngón phải gác lên ngón trái, gọi là Vi
Bát Rị Đá (Viparīta) hiệp chưởng (phương này nói là “phản xoa hiệp chưởng”).
- Thứ chín, kế đó, lại dùng
tay phải ngửa lên, đặt trên tay trái, tay trái che dưới lưng bàn tay phải, hơi
giống như khi người tọa Thiền chồng tay lên nhau. Cách này gọi là Tỳ Bát Ra Rị
Duệ Tát Đá (Vīparyasta) hiệp chưởng (phương này gọi là Phản Bối Tương Trước hiệp chưởng).
- Thứ mười, ngửa hai lòng
bàn tay [giống như trong cách thứ năm, lòng bàn tay hướng về thân người lễ bái]
sao cho đầu của hai ngón giữa chạm nhau hướng lên trên, gọi là Đế Rị Duệ
(Tiryak) hiệp chưởng (phương này gọi là Hoành Trụ Chỉ hiệp chưởng).
- Thứ mười một, kế đó, cùng
úp hai bàn tay, cũng dùng hai ngón giữa chạm vào nhau, gọi là A Đà Ra (Adhara)
hiệp chưởng (phương này nói là “chắp tay bằng cách úp lòng bàn tay xuống dưới”).
- Thứ mười hai, hai bàn tay
cùng úp xuống, hai ngón cái đặt ngang nhau, chạm vào nhau, mười đầu ngón tay hướng
ra phía ngoài, cũng có cùng tên gọi với cách trên đây (tức cũng gọi là “chắp
tay bằng cách úp lòng bàn tay xuống”).
Đối với tam-muội-da ấn đang
nói ở đây, trước là chắp tay theo kiểu Tam Bổ Trá (tức hư tâm hiệp chưởng, trước
là để lòng bàn tay cách xa, dần dần ép lại gần, [sao cho] giữa hai lòng bàn tay
có khoảng trống là được). Dùng hai ngón Không (ngón cái) đặt ngang nhau, dựng
thẳng lên, đừng quá thấp, mà cũng đừng quá khum, cốt sao hai ngón cái dựng thẳng
lên là được (trong năm ngón tay, ngón út gọi là Địa, ngón áp út (ngón vô danh,
ngón đeo nhẫn) là Thủy, ngón giữa là Hỏa, ngón trỏ là Phong, ngón cái là Địa.
Tay trái là Định, tay phải là Huệ[1]).
Cũng có thể hiểu ngón út trong tay trái là Đàn (bố thí), theo thứ tự tính về
trước thì ngón trỏ là Định. Ngón út trong tay phải là Huệ Độ, tính theo thứ tự
hướng về phía trước thì ngón trỏ là Trí Độ[2].
Nếu lúc mới tu hành, làm các thiện phẩm, mà nếu trước đó không kết tam-muội-da ấn
này, sẽ chẳng thích hợp để thực hiện các pháp. Không chỉ là kết ấn này, mà còn
phải tụng chân ngôn nói trên. Tác pháp thì trước hết dùng tam-ma-da ấn để đặt
lên đỉnh đầu, tụng chân ngôn trên đây một lượt. [Kế đó], đặt ấn này nơi vai phải.
Kế đó, đặt trên vai trái, rồi đặt nơi tim, kế đó đặt nơi họng. Cứ mỗi lần đặt,
đều tụng minh chú một lần. Phàm tụng năm lần thì ấn năm chỗ. Nhưng chân ngôn
này có công đức gì vậy? Do chân ngôn này có thể trừ túc chướng, tịnh hóa tự
thân, khiến cho thân đã thanh tịnh thì ngoại chướng cũng tịnh trừ. Do chướng
bên ngoài đã tịnh trừ, các chướng đều chẳng nhập được. Đấy chính là đại hộ (sự
thủ hộ to lớn). Do có thể hộ trì chẳng thể nghĩ bàn như vậy, phước tùy ý tăng
trưởng, tội tự nhiên trừ, chư Phật được nhắc nhở, thỏa mãn sở nguyện.
(Kinh) Hựu dĩ Định Huệ thủ vi quyền, hư không luân nhập ư chưởng trung,
nhi thư phong luân, thị vi Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám.
(經)又以定慧手為拳,虛空輪入於掌中,而舒風輪,是為淨法界印。真言曰:南麼三曼多勃陀喃。達摩馱睹。薩嚩婆嚩俱唅。
(Kinh:
Lại dùng tay Định và Huệ (tay trái và tay phải) nắm thành quyền, hư không luân
(ngón cái) gập vào lòng bàn tay, [các ngón khác ôm lấy ngón cái], duỗi phong
luân (ngón trỏ ra). Đó là Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
dharmadhātu-svabhāvako haṃ”).
Lại nữa, kế đó là Pháp Giới
Sanh chân ngôn: - “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Đạt ma đà đổ” (dharmadhātu: Pháp giới), “tát phạ bà phạ” (svabhāva: Tánh), “câu hám” (ko haṃ: ta). Đạt Ma Đà Đổ
là pháp giới, pháp giới chính là thân Phật. Câu cuối cùng là Ngã, ý nói: “Ta chính là pháp giới”. Lại nữa,
hành giả tuy chưa thể thấu hiểu chân tánh, nhưng kết ấn này, tụng chân ngôn,
cũng chính là “Thể đồng pháp giới”.
Ấn ấy dùng hai ngón Không (ngón cái) gập vào lòng
bàn tay, dùng ba ngón Địa, Thủy, Hỏa (ngón út, vô danh, giữa) ôm lấy ngón cái
thành quyền, dựng thẳng hai ngón Phong (ngón trỏ). Hai bàn tay đều nắm thành
quyền riêng biệt, dựng thẳng ngón trỏ. Trước là dựng hai ngón trỏ ấy cho chúng
chạm đầu nhau, đặt ngang ngực, hướng vào trong mà chuyển, khiến cho các ngón
tay từ hai bên đỉnh đầu tới gần hai bên má, hướng vào trong hơi kéo xuống dưới,
tức là trước hết dựng thẳng ngón trỏ, khiến cho đầu ngón tay hơi hướng xuống dưới,
lưng ngón tay hướng vào trong, đặt gần đầu và má, dần dần hướng xuống dưới, tới
nơi tim thì xả ấn. Phàm tụng chân ngôn, kết ấn, ví như dùng trâu cày đôi, hai
con trâu cùng tiến, chẳng được trước sau!
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân giai đẳng, điệt phiên tương câu,
nhị hư không luân, thủ câu tương hướng. Tụng viết: “Thị danh vi thắng nguyện,
cát tường pháp luân ấn, thế y cứu thế giả, tất giai chuyển thử luân”. Chân ngôn
viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám.
(經)復以定慧手,五輪皆等,迭翻相鉤,二虛空輪,首俱相向。頌曰:是名為勝願,吉祥法輪印,世依救世者,悉皆轉此輪。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伐折囉呾麼俱唅。
(Kinh: Lại dùng tay Định, Huệ (trái và phải)
năm ngón đều đặt ngang nhau, các ngón đâu lưng móc vào nhau, đầu hai ngón hư
không (ngón cái) hướng vào nhau. Tụng rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp
luân cát tường, đấng đời nương cứu thế, thảy đều chuyển ấn này”. Chân ngôn rằng:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vajrātmako
haṃ’).
Kế đó, lại kết ấn. Trước hết,
chắp tay sao cho lưng hai bàn tay áp vào nhau. Dùng hai ngón Địa (ngón út) móc
vào nhau (sao cho ngón phải ở trên ngón trái). Các ngón Thủy, Hỏa, Phong theo
thứ tự móc vào nhau. Cuối cùng, hai ngón Không (ngón cái) chống vào nhau hướng
vào lòng bàn tay. Đấy là Chuyển Pháp Luân Ấn. Do kết ấn này, khiến cho thân tâm
người ấy (người trì chú) thân tâm thanh tịnh, có thể thấy mười phương Phật chuyển
pháp luân. Chân ngôn đã được giải thích trong phần trước.
(Kinh) Phục thư Định Huệ nhị thủ, tác quy mạng hiệp chưởng, Phong luân
tương niệp. Dĩ nhị Không luân gia ư thượng, hình như Khiết-già, tụng viết: “Thử
đại huệ đao ấn, nhất thiết Phật sở thuyết, năng đoạn ư chư kiến, vị câu sanh
Thân Kiến”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi
ra xà, đạt ma san nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại lật sắt trí xế nặc ca,
đát tha nghiệt đa địa mục cật để nễ xã đa. Vi ra già đạt ma nễ xã đa hồng.
(經)復舒定慧二手作歸命合掌,風輪相捻,以二空輪加於上,形如朅伽。頌曰:此大慧刀印,一切佛所說,能斷於諸見,謂俱生身見。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩訶朅伽微囉闍。達麼珊捺囉奢迦娑訶闍。薩迦耶捺㗚瑟致掣諾迦。怛他蘖多地目訖底儞社多。微囉伽達摩儞社多 吽。
(Kinh: Lại duỗi tay Định và Huệ để quy mạng hiệp
chưởng, ngón Phong luân (ngón trỏ) bấm vào nhau, dùng hai ngón Không luân (ngón
cái) đặt lên đó, có hình dạng như gươm Khiết-già, tụng rằng: “Đại huệ đao ấn
này, do hết thảy Phật nói, hay đoạn trừ các kiến, tức câu sanh Thân Kiến”. Chân
ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi ra xà, đạt ma san
nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại-lật sắt-trí xế nặc ca, đát tha nghiệt đa địa
mục cật để nễ xã đa. Vi ra già đạt ma nễ xã đa hồng - Namaḥ samanta buddhānāṃ,
mahākhaḍga viraja-dharmasaṃdarśaka sahajasatkāya-dṛṣṭicchedaka tathāgatā-dhimukti-nirjāta virāga dharmanirjāta hūṃ”).
Kế đó, kết Đao Ấn. Đao ví
như trí huệ sắc bén, do có ý nghĩa “có thể đoạn trừ”, tức là trừ ngọn núi ác kiến.
Như quả núi lớn có rất nhiều ngọn lô nhô. Phiền não cũng thế. Nay kết đao ấn
này, do ấn này [có công năng] như trên đã nói. Liền gập hai ngón Phong (ngón trỏ)
sao cho hai đầu ngón chống vào nhau. Lấy hai ngón Không (ngón cái) áp sát, đè
lên, giống như hình đại đao là được! Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm” (như đã giải thích trong phần
trên). Đại đao vô cấu pháp hiện, cắt phăng Câu Sanh Thân Kiến (kiến chấp về cái
thân từ lúc mới sanh ra đã có), sanh khởi tín giải của Như Lai, sanh khởi pháp
vô tham. Tụng chân ngôn này bằng tiếng Phạn. Trong kinh đã giải thích ý nghĩa
như đã nói trong phần trên. Chân ngôn này lấy chữ Ma đầu tiên làm tâm, có nghĩa
là Ngã. Lại là chữ Ngũ Không điểm, có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Ý
nghĩa ở đây là muốn trừ Ngã Kiến. Hãy nên biết Đao Ấn này chính là đại trí của
chư Phật, do có thể đoạn dứt các kiến. Dùng đao cắt đứt gốc rễ phiền não, tức
là đạt được pháp vô cấu hiện ra.
Các thứ như Thân Kiến câu
sanh chính là cấu. Nay đoạn các cấu ấy, chúng liền ngưng dứt. “Tà” là chưa ngưng dứt. Lại có pháp
thù thắng, tức là đã trừ cấu rồi, sẽ sanh khởi tín giải của Như Lai (ý nghĩa
này như đã giải thích lúc thoạt đầu). Tín giải của Như Lai là pháp như thế nào?
Tức là các thiện căn như vô tham v.v… Do vậy, kế đó sanh ra chữ Ha (ह). Trong đó, chữ Ha là nhân. Vì trừ
cái nhân ấy, bên cạnh có vạch thể hiện chữ A (हा) đọc âm dài, tức là hết thảy các
pháp vốn bất sanh. Phía dưới có chữ Ổ (ु), nên là tam-muội. Trên đó, có chấm Đại Không (thành Huṃ, हुं). Tụng minh chú này có thể khiến
cho hành giả trọn vẹn ba loại thân; do trong chữ [Hồng] này có ba nghĩa, tức là
Pháp Thân hiện. Ngài Tam Tạng nói: “Phương
Tây có pháp ấn rất bí mật, khi tác pháp lại tột bậc cung kính, phải ở trong căn
phòng tôn quý, và là chỗ thanh vắng, thanh khiết. Phải nên tắm gội, trang
nghiêm thân thể. Nếu không thể nhất nhất tắm gội, ắt phải rửa tay sạch, súc miệng,
dùng hương bôi xoa lên tay v.v… rồi mới được tác pháp. Khi tác pháp, lại còn phải
oai nghi chánh đáng, ngồi xếp bằng v.v… Nếu không như thế, sẽ mắc tội, khiến
cho pháp chẳng thể nhanh chóng thành tựu”.
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ nhị thủ, tác hư tâm hiệp chưởng, khuất nhị
Phong luân, dĩ nhị Không luân giảo chi, hình như thương-khư. Tụng viết: “Thử
danh vi thắng nguyện, cát tường pháp loa ấn, chư Phật thế chi sư, Bồ Tát cứu thế
giả, giai thuyết vô cấu pháp, chí tịch tĩnh Niết Bàn”. Chân ngôn viết: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, ám.
(經)復以定慧二手作虛心合掌,屈二風輪,以二空輪絞之,形如商佉。頌曰:此名為勝願,吉祥法螺印,諸佛世之師,菩薩救世者,皆說無垢法,至寂靜涅槃。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗。
(Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ kết hư tâm
hiệp chưởng, gập hai ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng hai ngón Không (ngón cái)
quấn lấy [như hai cái khuyên], hình dạng như thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Tụng
rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp loa cát tường. Chư Phật: Thầy cõi đời,
Bồ Tát: Đấng cứu thế. Đều nói pháp vô cấu, đạt Niết Bàn tịch tĩnh”. Chân ngôn rằng:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, aṃ”).
Kế đó, kết Cát Tường Thương
Khư Ấn. Trước hết, kết hư tâm hiệp chưởng (như trong phần trên), gập hai ngón
Không (ngón cái), dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) đè lên, sao cho giống như hình
thương-khư. Kết ấn xong, để gần miệng để thổi giống như cách thổi tù và. Đây là
Mãn Nhất Thiết Nguyện Cát Tường Pháp Loa Ấn. Do kết ấn này, sẽ được mãn hết thảy
các thiện nguyện, có thể tuyên nói đại pháp khiến cho mười phương đều cùng được
nghe biết. Đấy chính là Tịch Tĩnh Niết Bàn Ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống
như trên. “Tát phạ đá” (sarvathā, trọn khắp hết thảy), “ám”.
Đấy là chân ngôn tâm; hết thảy các pháp vốn bất sanh. Trên đó, lại có một chấm,
tức là Đại Không trọn hết thảy các chốn. Đây chính là thể tánh của Niết Bàn đại
tịch, vạn đức vắng lặng, trọn khắp hết thảy mọi nơi!
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ tương hợp, phổ thư tán chi, do như Kiện
Trá, nhị Địa luân, nhị Không luân tương trì, linh Hỏa, Phong luân hòa hợp, tụng
viết: “Cát tường nguyện liên hoa, chư Phật cứu thế giả, bất hoại kim cang tòa,
giác ngộ danh vi Phật. Bồ Đề dữ Phật tử, tất giai tùng thị sanh”. Chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.
(經)復以定慧手相合普舒散之,猶如健吒,二地輪二空輪相持,令火風輪和合。頌曰:吉祥願蓮華,諸佛救世者,不壞金剛座,覺悟名為佛,菩提與佛子,悉皆從是生。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿。
(Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ hợp lại,
tách trọn các ngón tay ra, giống như hình Kiện Trá (Ghaṇṭā,
cái chuông lắc, cái linh). Hai ngón Địa luân (út) và Không luân (ngón cái) chống
đỡ lẫn nhau, đầu các ngón Hỏa và Phong luân (ngón giữa và ngón trỏ) hòa hợp (tức là chụm vào nhau). Tụng rằng: “Hoa sen
nguyện cát tường, chư Phật: Đấng cứu đời, tòa kim cang bất hoại, giác ngộ gọi
là Phật. Bồ Đề và Phật tử, thảy đều từ đây sanh”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm. A - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ”).
Kế đó là tòa kim cang bất
hoại. Ấn pháp thì trước hết dùng hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (út)
đều đặt song song nhau. Các ngón khác đều duỗi ra như [các cánh của] đóa sen nở.
Kinh nói là hình dạng như cái linh. Kế đó, đổi thành ngón Địa (ngón út) và ngón
Không chụm đầu với nhau. Sáu ngón giữa đó đều như tách ra như cũ. Trong đó, ngón
Hỏa (ngón giữa) và Phong (ngón trỏ) [hơi khum khum], chỉ có ngón Thủy (ngón vô
danh, ngón áp út) dựng thẳng là được. Đây là liên hoa tọa, cũng gọi là kim cang
tọa. Do ngồi tòa này, có thể sanh ra chư Phật. Chư Phật đều do ngồi nơi đó, nên
gọi là “ngồi cát tường”. Vì thế,
gọi là “kim cang bất hoại tòa”.
Phần quy mạng trong chân ngôn giống như phần trên. A (आः, Aḥ) là chân ngôn tâm. Chữ A âm
dài là “hành”, hai chấm bên cạnh
là tam-muội. Vì khiến cho pháp này kiên cố, cho nên sau đó có chấm vậy. Quyền
pháp (cách nắm tay thành nắm đấm) có bốn loại:
- Thứ nhất, giống như cách
nắm tay thường làm, ngón cái dựng thẳng; đó là cách thứ nhất.
- Kế đó, là ngón Không
(ngón cái) gập vào lòng bàn tay, [các ngón kia ôm lấy], gọi là Kim Cang Quyền,
là cách thứ hai.
- Các ngón tay đan chéo vào
nhau, hợp thành quyền, sao cho mười ngón tay nằm bên ngoài. Đây gọi là Chỉ Tại
Ngoại Quyền (ngón tay ở bên ngoài nắm đấm), tức là cách thứ ba (đều là ngón phải
đè lên ngón trái).
- Kế đó, mười ngón đan vào
nhau sao cho mười ngón đều nằm trong lòng bàn tay, gọi là Nhị Thủ Quyền, tức là
cách thứ tư (cũng là ngón phải đè lên ngón trái).
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân ngoại hướng vi quyền, kiến lập Hỏa
luân. Thư nhị Phong luân, khuất vi câu hình, tại bàng trì chi. Hư không, Địa
luân tịnh nhi trực thượng, Thủy luân giao hợp như bạt-chiết-la. Tụng viết: “Kim
cang đại huệ ấn, năng hoại vô trí thành, hiểu ngụ thụy miên giả, thiên nhân bất
năng hoại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng.
(經)復以定慧手,五輪外向為拳,建立火輪。舒二風輪屈為鉤形,在傍持之。虛空地輪並而直上,水輪交合如拔折囉。頌曰:金剛大慧印,能壞無智城,曉寤睡眠者,天人不能壞。真言曰:南麼三曼多伐折羅𧹞。吽。
(Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ [đan vào nhau],
năm ngón hướng ra ngoài, tạo thành quyền, dựng thẳng ngón giữa. Duỗi hai ngón
trỏ, khum hình thành móc câu. Các ngón cái và út đều dựng thẳng lên, đặt sát
nhau. Hai ngón áp út móc chéo như hình chày kim cang. Tụng rằng: “Kim cang đại
huệ ấn, phá nát thành vô trí, giác ngộ kẻ ngủ say, trời, người chẳng thể hoại”.
Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hūṃ”).
Kế đó, kết Kim Cang Ấn. Hai
tay đều gập ngón Thủy (ngón áp út)
vào lòng bàn tay, dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) [cong lại], dựa vào lưng
ngón Hỏa (ngón trỏ), nhưng đừng chạm vào. Đây chính Kim Cang Ấn (hai ngón
Không, tức ngón cái, đặt sát nhau, dựng thẳng). Do Kim Cang Ấn này có thể phá
hoại tòa thành vô trí, hết thảy đều chẳng thể phá hoại. Chân ngôn quy mạng như
trước, bản thể của chú này chỉ có chữ Hồng (ý nghĩa chuẩn theo những điều đã
nói trong các phần trước).
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, kiến lập Hỏa
luân. Dĩ nhị Phong luân trí bàng, khuất nhị Hư Không tương tịnh. Tụng viết: “Thử
ấn Ma Ha Ấn, sở vị Như Lai đảnh, thích tài kết tác chi, tức đồng ư Thế Tôn”.
Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng.
(經)復以定慧手,五輪內向為拳,建立火輪。以二風輪置傍,屈二虛空相並。頌曰:此印摩訶印,所謂如來頂,適纔結作之,即同於世尊。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽吽。
(Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ, năm ngón gập
vào trong lòng bàn tay tạo thành quyền, dựng thẳng Hỏa luân (ngón giữa). Đặt
hai ngón Phong luân (ngón trỏ) bên cạnh, gập hai ngón Hư Không (ngón cái), đặt
sát nhau. Tụng rằng: “Ấn này Ma Ha Ấn, gọi là Như Lai đảnh, hễ vừa mới kết ấn,
liền giống như Thế Tôn”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng
- Namaḥ
samantabuddhānāṃ, hūṃ hūṃ”).
Kế đó là Phật Đảnh Ấn. Trước hết Chỉ Hướng Nội Quyền (các
ngón tay đan vào nhau, gập vào trong lòng bàn tay thành quyền), duỗi hai
ngón giữa đặt sát nhau. Kế đó, dùng hai ngón trỏ để dựa vào lưng ngón giữa, gập
hai ngón cái, sao cho chúng đặt sát nhau là thành ấn. (Chỉ Hướng Nội Quyền ở
đây tức là các đầu ngón tay hướng vào trong [lòng bàn tay]). Đại ấn này được gọi
là Phật Đảnh. Khi kết pháp ấn này, sẽ giống như Nhân Giả. Nhân Giả tức là Như
Lai; ý nói: Kết ấn này bèn giống như thân chư Phật. Chân ngôn của ấn này cũng
có nghĩa là trọn đủ tam-muội giải thoát. Trước là nhân, sau là quả. Nhân là hạnh
Như Lai, quả chính là Phật (nên kết ấn gia trì đỉnh đầu).
(Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, trí ư mi gian. Tụng viết: “Thử
danh Hào Tướng Tạng, Phật thường mãn nguyện ấn. Dĩ tài tác thử cố, tức đồng Nhân
Trung Thắng”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A hám xà.
(經)復以智慧手為拳,置於眉間。頌曰:此名毫相藏,佛常滿願印,以纔作此故,即同仁中勝。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿唅闍。
(Kinh: Lại dùng tay trí huệ nắm thành quyền, đặt ở giữa hai mày.
Tụng rằng: “Đây gọi Hào Tướng Tạng, ấn Phật thường mãn nguyện. Vừa mới kết ấn
này, liền như Nhân Trung Thắng”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
A hám xà - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, āḥ haṃ jaḥ”).
Kế đó là Hào Tướng Ấn của Như Lai. Dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành
quyền, để ngón cái ra ngoài quyền, đặt ở giữa hai mày là thành ấn. Kết ấn này tức
giống như Hào Tướng trọn đủ của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn như
trong phần trên. A (Aḥ: Biết), Hám (Haṃ: cái nhân), Xà (Jaḥ, sanh). Do hạnh bất sanh này tịnh hóa hết thảy các nhân. Xà là “sanh bất khả đắc”.
(Kinh) Trụ Du Già tòa, trì bát tương ứng, dĩ Định Huệ thủ câu tại tề
gian, thị danh Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, bà.
(經)住瑜伽座,持鉢相應,以定慧手俱在臍間,是名釋迦牟尼大鉢印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。婆。
(Kinh: Ngồi theo thế Du Già (tức ngồi xếp bằng), cầm bát tương
ứng, hai tay Định và Huệ đều đặt ngang rốn. Đó gọi là
Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà -
Namaḥ
samantabuddhānāṃ, bhaḥ”).
Kế đó, kết Như Lai Bát Ấn.
Tay trái nắm hai góc y (cách thức là nắm lấy góc y ca-sa (phần không che vai) gần
cánh tay và chỗ góc y che vai rủ xuống quấn quanh tay, cuộn vào trong lòng bàn
tay, khiến cho hai góc y giống như hai cái tai). Vẫn chồng hai tay lên nhau,
sao cho tay phải đè lên tay trái như tư thế đặt tay khi tọa Thiền, nâng lên
ngang rốn, hơi co tay như tư thế vòng tay ôm bát là được. Kết ấn này sẽ giống
như Như Lai nắm áo ca-sa, là oai nghi đặc trưng của chư Phật, cũng có thể khiến
cho hết thảy chúng sanh chẳng phải căn khí đều có thể kham làm pháp khí. Phần
quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Bà”
(Bhaḥ) có nghĩa là Hữu, tức là tam hữu (ba cõi). Do vốn bất sanh bèn lìa tam hữu,
tam hữu vốn chẳng thể được! Ngoài tam hữu ấy, bèn có cái Hữu chân thật của Như
Lai, tức là Pháp Thân của chư Phật vậy!
(Kinh) Phục thứ dĩ trí huệ thủ, thượng hướng nhi tác Thí Vô Úy hình. Tụng
viết: “Năng thí dữ nhất thiết, chúng sanh loại vô úy. Nhược kết thử đại ấn,
danh Thí Vô Úy giả”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà
tha, thệ na thệ na, bà dã na xa na. Sa ha.
(經)復次以智慧手,上向而作施無畏形。頌曰:能施與一切,眾生類無畏,若結此大印,名施無畏者。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆他。誓娜誓娜。婆也那奢娜。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ (tay phải) hướng
lên trên làm tư thế Thí Vô Úy. Tụng rằng: “Có thể thí vô úy, cho hết thảy chúng
sanh. Nếu kết đại ấn này, là bậc Thí Vô Úy”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, tát bà tha, thệ na thệ na, bà dã na xa na. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
sarvathā jina jina bhayanāśana svāhā”).
Kế đó, kết thủ ấn Thí Vô Úy
(Abhaya). Tay trái giống như trên nắm hai chéo y, duỗi tay đặt ngang rốn, tay phải
hướng về phía trước, duỗi tay [sao cho lòng bàn tay] hướng ra ngoài, giống như
nâng đồ vật (như ấn Thích Ca trong Du Già vậy). Nếu kết ấn này, có thể trừ các
loại kinh sợ của hết thảy chúng sanh, yêu và giận lập tức đều dứt, cũng trừ các
thứ đáng kinh sợ to lớn nhất của họ trong đời tương lai. Phần quy mạng của chân
ngôn giống như trong phần trước. “Tát
phạ tha” (Sarvathā, trọn khắp), “thệ na thệ na”
(jina jina, thắng), “bà dã na xa na” (bhayanāśana, trừ kinh sợ). “Trọn khắp” chính là “phổ biến”, tức là “trọn khắp hết thảy
các chốn”. Đối với phương tiện thù thắng nhất trong hết thảy các xứ phương tiện,
[thủ ấn và chân ngôn này] đều có thể vượt trội. Thứ nhất là lìa các thứ phiền
não của dị sanh (prthag-jana, chúng sanh chưa đạt được thánh quả),
kế đó là lìa phiền não của Nhị Thừa, tức là lại càng thù thắng hơn những điều
thù thắng. Do bởi lẽ này, Như Lai có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, trừ khắp hết
thảy khổ não vì kinh sợ.
(Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ, hạ thùy tác Thí Nguyện hình. Tụng viết: “Như
thị Dữ Nguyện Ấn, thế y chỉ sở thuyết, thích tài kết thử giả, chư Phật mãn kỳ
nguyện”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết
ra đát ma ca, sa ha.
(經)復次以智慧手,下垂作施願形。頌曰:如是與願印,世依之所說,適纔結此者,諸佛滿其願。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚩囉馱伐折囉怛麼迦。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ, duỗi xuống dưới
làm tư thế Thí Nguyện (ban cho điều nguyện). Tụng rằng: “Dữ Nguyện Ấn như thế,
bậc đời nương nói ra. Vừa mới kết ấn này, chư Phật mãn sở nguyện”. Chân ngôn rằng:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết ra đát ma ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, varada
vajrātmaka svāhā”).
Kế đó là thủ ấn Như Lai Mãn
Nguyện. Tay trái cũng nắm góc y theo tư thế giống như trước, tay phải hướng ra
ngoài, duỗi xuống dưới, như ấn của Bảo Sanh Phật trong Du Già[3].
Khi kết ấn này, liền do sức của Như Lai, hết thảy chư Phật thỏa mãn nguyện ấy
cho đều được thành tựu. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Phạ ra đà” (varada, ban cho), “phạt chiết la” (vajra, kim cang), “đát ma ca” (atmaka, ta, cũng có
nghĩa là thân). Ý nói: Nguyện chư Phật ban cho con thân kim cang, cũng ban cho
con đại nguyện thân. Đấy tức là “mãn sở
nguyện”.
(Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Phong luân, dĩ tỳ-câu-chi
hình trụ ư Đẳng Dẫn, tụng viết: “Dĩ như thị đại ấn, chư Phật cứu thế tôn, khủng
bố chư chướng giả, tùy ý thành Tất Địa. Do kết thị ấn cố, đại ác ma quân chúng,
cập dư chư chướng giả, trì tán vô sở ngại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dã tỳ
dữu ốt nghiệt để, sa ha.
(經)復以智慧手為拳,而舒風輪,以毘俱胝形住於等引。頌曰:以如是大印,諸佛救世尊,恐怖諸障者,隨意成悉地。由結是印故,大惡魔軍眾,及餘諸障者,馳散無所礙。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。麼訶嚩梨伐底。駞奢嚩梨嗢婆吠。摩訶彌底哩也毘庾嗢蘗底。莎訶。
(Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm
thành quyền, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng dáng vẻ nhíu mày, trụ trong
Đẳng Dẫn. Tụng rằng: “Dùng đại ấn như thế, chư Phật đấng cứu đời, đe đọa kẻ gây
chướng, tùy ý thành Tất Địa. Do bởi kết ấn này, lũ ma quân đại ác, và kẻ gây
chướng khác, tan chạy không ngăn ngại”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dã tỳ dữu ốt
nghiệt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ mahābala vatidaśabalodbhave mahāmaitryabhyud-gate, svāhā).
Kế đó là Bố Nhất Thiết Vi
Chướng Ấn (ấn đe đọa hết thảy kẻ gây chướng). Dùng tay phải làm thành quyền (để
ngón cái ra ngoài nắm đấm ấy), duỗi ngón trỏ, dựng thẳng lên, đặt giữa hai mày,
dùng đầu ngón ấy chống vào giữa hai mày. Nói Đẳng Dẫn tức là hình dạng Tỳ Câu
Tri, tức vẻ mặt như đang phẫn nộ, tâm trụ trong một cảnh, bất động. Đại ấn này
của hết thảy chư Phật có thể hiện ra đại thế lực oai mãnh của Như Lai, đe dọa hết
thảy kẻ gây chướng nạn, khiến cho họ hàng phục, cũng có thể thỏa mãn sở nguyện
của hết thảy chúng sanh. Khi hành giả kết ấn này, kẻ gây chướng ai nấy rảo chạy
tan tác tứ phía, cho đến quân đội của đại lực thiên ma cũng tự nhiên lui tan.
Khi Như Lai chứng Bồ Đề đạo, dùng ấn này liền có thể hàng phục các ma. Phần quy
mạng trong chân ngôn giống như trước. “Ma
ha phạ lê” (mahābala, đại lực) “phạt để đà
xa phạ lê” (vati daśabalo, Thập Lực) “ốt bà phệ” (odbhave, đạt được), “ma ha di để rị dã” (mahāmaitrya, đại từ) phát khởi. Chân ngôn này
là đại lực của chư Phật. Đại lực ấy là những gì? Chính là mười lực của Như Lai,
tối đại tự tại trong hết thảy các lực. Vì sao Như Lai đạt được thập lực ấy?
Chính là do đại từ mà đạt được thập lực ấy, vì thế nói là các lực ấy “sanh từ lòng đại từ”.
(Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Hỏa luân, Thủy luân,
dĩ Hư Không luân nhi tại kỳ hạ. Tụng viết: “Thử danh nhất thiết Phật, thế y bi
sanh nhãn, tưởng trí ư nhãn giới, trí giả thành Phật nhãn”. Chân ngôn viết: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật sái nĩnh, ca rô noa ma
dã, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha
(經)復次以智慧手為拳,而舒火輪水輪,以虛空輪而在其下。頌曰:此名一切佛,世依悲生眼,想置於眼界,智者成佛眼。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伽伽那嚩囉洛吃灑儜。迦嚕拏麼也。怛他揭多斫吃芻。莎訶。
(Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm
thành quyền, duỗi ngón Hỏa luân (ngón giữa) và Thủy luân (ngón áp út), đặt Hư
Không luân (ngón cái) dưới đó. Tụng rằng: “Đó gọi hết thảy Phật, mắt sanh bởi
lòng bi, của đấng đời nương tựa, tưởng đặt ngay nơi mắt, bậc trí thành Phật
nhãn”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật
sái nĩnh, ca rô noa ma dã, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
gaganavaralakṣaṇe karuṇā-mayatathāgatacakṣu svāhā”).
Kế đó là Phật Nhãn Ấn. Trước
hết, nắm tay thành quyền, dùng ngón Không (ngón cái) đè lên hai ngón Phong
(ngón trỏ) và Địa (ngón út), tức là gập ngón cái đè lên móng của hai ngón trỏ
và út), duỗi ngón Thủy (áp út) và Hỏa (ngón giữa). Dùng tay phải để kết ấn này.
Kết xong, dùng ấn đó đặt trên mắt, trước là đặt trên mắt phải, kế đó trên mắt
trái. Dùng phương tiện bí mật này có thể tịnh hóa nhãn căn, thành tựu Phật
nhãn, được thấy cảnh giới thâm mật của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn
giống như trên. “Già già na”
(Gagana, hư không), “phạ ra”
(vara, nguyện) “ca rô noa” (karuṇā, bi), “ma dã” (maya, lễ), “đát tha yết đa” (tathāgata, Như Lai) “chước cật-sô” (cakṣu, mắt). Hư không tuy vô tướng, vô ngại, nhưng không thể hoàn thành đại sự.
Nay Không của Như Lai tuy chẳng nương tựa vào đâu mà có thể thành tựu hết thảy
các chuyện thù thắng, hơn hẳn hư không, hư không chẳng thể sánh bằng! Cái Thể của
đại bi chính là mắt của Như Lai. Mắt ấy sanh từ đại bi, có thể sanh ra đại bi.
(Kinh) Phục thứ, dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, nhi thư
Phong luân, viên khuất tương hợp. Tụng viết: “Thử Thắng Nguyện Sách Ấn, hoại
chư tạo ác giả, Chân Ngôn giả kết chi, năng phược chư bất thiện”. Chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lý da, tát
đỏa đà đổ, vi mô ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xã đa, sa ha.
(經)復次,以定慧手,五輪內向為拳,而舒風輪,圓屈相合。頌曰:此勝願索印,壞諸造惡者,真言者結之,能縛諸不善。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係係摩訶播奢。鉢羅娑嘮馱理耶。薩埵馱睹。微模訶迦。怛他蘖多提目吃底儞社多。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, dùng tay Định Huệ, năm ngón gập
vào trong [lòng bàn tay] tạo thành quyền, duỗi ngón trỏ, gập cong [cho hai ngón
ấy] chạm đầu nhau. Tụng rằng: “Thắng Nguyện Sách Ấn này, hoại những kẻ tạo ác.
Bậc Chân Ngôn kết ấn, trói được các bất thiện”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lý da, tát đỏa đà đổ, vi mô
ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xã đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he
mahāpāśa prasaraudārya sattvadhātuvimohaka tathāgatādhimuktinirjāta svāhā”).
Kế đó là Như Lai Quyến Sách
Ấn. Trước hết, dùng mười ngón tay gập vào lòng bàn tay, nắm thành quyền. Duỗi
hai ngón trỏ, đầu hai ngón ấy tựa vào nhau, cong ngón trỏ sao cho chúng tiếp
giáp thành hình như khuyên tròn. Hai ngón cái cũng là phải đè lên trái, cùng gập
vào lòng bàn tay là thành ấn. Ấn này có thể trói hết thảy kẻ làm ác, cũng có thể
phá hoại họ, khiến cho họ dứt trừ các điều ác. Phần quy mạng trong chân ngôn giống
như trước. “Hệ hệ” (Hehe):
Trong ấy, có âm Ha tức là cái nhân, kiêm thêm nghĩa tam-muội[4].
Chữ Hệ này là âm thanh triệu tập, tức là gọi to cái nhân thành Phật. Cái nhân ấy
vốn bất sanh, nên lìa nhân quả, khiến cho cái nhân ấy lại được thanh tịnh. “Ma ha bá xa” (mahāpāśa, dây trói to lớn. Ý nói cái nhân ly tướng ấy do vốn bất sanh, nên lìa tướng
nhân quả, khiến cho cái nhân ấy thanh tịnh. Tịnh hóa cái nhân được gọi là “dây trói to lớn”), “bát-ra” (pra, trọn khắp), “sa lao đà lý da” (saraudārya, như hư không, ý nói: Sợi dây trói to lớn ấy rộng rãi trọn khắp như hư
không, không đâu chẳng trọn khắp). “Tát
đỏa đà đô” (Sattvadhātu, ý nói: Sợi dây trói ấy rộng làm
chuyện gì? Chính là duy trì hữu tình, trừ si cho họ). “Vi mô ha ca” (vimohaka, si, hàm nghĩa trừ phá si). “Đát tha nghiệt đa” (Tathāgatā, Như Lai), “đề mục” (dhimu, sanh tín giải, cũng là phát khởi bổn nguyện của chư Phật. Chư Phật khi
hành Bồ Tát đạo, sẽ ở trong thời đại ác mà độ tận hết thảy chúng sanh. Nay dùng
cái nhân này để thành tựu cái quả, trừ sự si mê ấy, khiến cho họ đạt đến Phật
quả rốt ráo, luôn làm Phật sự). Lại nữa, dây trói ấy do đâu mà sanh? Sanh từ
tín giải của Như Lai. Ý nghĩa của tín giải như đã nói trong quyển đầu của kinh.
Như Lai do sức tín giải ấy, phổ môn thị hiện đủ thứ hình tướng, hoặc hiện chuyện
phẫn nộ to lớn, hoặc làm Trì Minh Tiên, có thế lực to lớn, chiết phục, nhiếp thọ
vô lượng chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được diệu quả của Như Lai, tức là ý
nghĩa “dây trói to lớn rộng khắp, giống
như hữu tình giới”.
(Kinh) Phục thứ, dĩ Định Hệ thủ nhất hợp vi quyền, thư trí huệ thủ,
Phong luân khuất đệ tam tiết, do như hoàn tướng. Tụng viết: “Như thị danh Câu Ấn,
chư Phật cứu thế giả, chiêu tập ư nhất thiết, trụ ư Thập Địa vị, Bồ Đề đại tâm
giả, cập ác tư chúng sanh”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a
tát bà đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da,
bát rị bố la ca, sa ha.
(經)復次,以定慧手一合為拳,舒智慧手,風輪屈第三節,猶如環相。頌曰:如是名鉤印,諸佛救世者,招集於一切,住於十地位,菩提大心者,及惡思眾生。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿薩婆怛囉鉢囉底訶諦。怛他蘖黨矩奢。菩提浙哩耶鉢哩布邏迦。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, dùng tay Định và Huệ hợp nhất nắm thành quyền,
duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ) của tay trí huệ (tay phải), gập đốt thứ ba của
nó, giống như hình dạng cái vòng. Tụng rằng: “Như thế gọi Câu Ấn, chư Phật đấng
cứu đời, chiêu tập khắp hết thảy, trụ địa vị Thập Địa, bậc Bồ Đề đại tâm, và
chúng sanh nghĩ ác”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát bà
đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da, bát rị bố
la ca, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, āḥ sarva-trāpratihate tathāgatāṅkuśa bodhicaryāpari-pūraka svāhā”).
Kế đó, kết Như Lai Câu Ấn.
Trước hết, dùng ngón cái trong tay trái đè lên đầu bốn ngón kia, sao cho như
hình cái vòng. Kế đó, dùng ba ngón (tức các ngón út, áp út, và ngón giữa) trong
tay phải đặt trong cái vòng ấy, ngón cái của tay phải đè lên phía ngoài ngón
cái trong tay trái, gập vào lòng bàn tay, bấm đè lên ba ngón trong tay phải
cũng sao cho giống như hình cái vòng, hơi cong đốt thứ ba của ngón trỏ bên tay
phải như hình cái móc tức là ấn thành. Kết Câu Ấn này có thể triệu vời mười
phương hết thảy chư Phật, Bồ Tát, khiến cho các Ngài đều tụ hội trong đạo
tràng, cũng có thể trọn vẹn địa vị Thập Địa, huống hồ những kẻ chưa sanh thiện
tâm trong tám bộ v.v… mà chẳng tới ư?
“A” (āḥ, hành), “tát bà
đát-ra bát-ra để ha đế” (sarvatrāpratihate, nghĩa là vô
ngại, hết thảy làm hại), “đát tha nghiệt
đa” (tathāgata,
Như Lai), “ương củ xa”
(aṅkuśa, cái móc)[5], “bồ đề chiết rị da” (bodhicaryā, Bồ Đề hạnh), “bát rị bố la ca sa ha” (paripūraka svāhā, nghĩa là Niết Bàn, tức là viên mãn). Hành giả ở trong ấy, tức là do ấn
này, hành giả có thể chuốc vời biển đại công đức của chư Phật, như cái móc
trong thế gian có xứ sở, phần vị, chẳng thể triệu vời trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Nay Như Lai Câu chẳng phải như vậy, trọn khắp hết thảy, không đâu chẳng đến,
cho đến có thể triệu vời quả đại Bồ Đề. Nói tóm lại, đều viên mãn hết thảy công
đức của Như Lai, triệu tập trọn khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đắc đạo
này. Vì thế, câu kế tiếp nói “biến nhất
thiết hại” (“hại” tức là
móc lấy, phá hoại nó), hại trọn khắp hết thảy kẻ chẳng điều phục, đều khiến cho
họ theo Bồ Đề hạnh, tiến nhập diệu quả, đạt được viên mãn.
(Kinh) Tức thử Câu Ấn, thư kỳ Hỏa luân, nhi thiểu khuất chi, thị vị Như
Lai Tâm Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhưỡng nộ ốt bà
phạ, sa ha.
(經)即此鉤印,舒其火輪而少屈之,是謂如來心印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。壤怒嗢婆嚩。莎訶。
(Kinh: Từ ngay Câu Ấn đó, duỗi ngón Hỏa luân
(ngón giữa), hơi cong, đó là Như Lai Tâm Ấn, chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm. Nhưỡng nộ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
jñānodbhava svāhā”).
Kế đó là Như Lai Tâm Ấn,
cách kết ấn chuẩn theo phần trước, chỉ thêm duỗi ngón giữa. Hai ngón duỗi ra ấy
đều cong đốt thứ ba là được. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Nhưỡng nộ” (jñāno, trí), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh). Tức là trí của chư Phật, trí ấy chẳng do điều gì khác mà đạt được,
vẫn là sanh từ tâm Phật.
(Kinh) Phục dĩ thử ấn, thư kỳ Thủy luân, nhi thụ lập chi, danh Như Lai
Tề Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A một lật đổ ốt bà phạ,
sa ha.
(經)復以此印舒其水輪而竪立之,名如來臍印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿沒㗚覩嗢婆嚩。莎訶。
(Kinh: Lại dùng ấn ấy, duỗi ngón Thủy (ngón áp út) dựng thẳng, gọi
là Như Lai Tề Ấn, chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A một
lật đổ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, amṛtodbhava svāhā”).
Kế đó là Như Lai Tề Ấn (ấn
rốn của Như Lai), cũng chuẩn theo ấn trên đây, duỗi thêm ngón áp út. Ba ngón duỗi
ra cũng đều cong đốt thứ ba. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “A một-lật đổ” (Amṛto, cam lộ), “ốt bà phạ”
(odbhava, sanh). Cam lộ là tên gọi khác của Trí, có thể trừ nhiệt não nơi thân
tâm. Đạt được [cam lộ] để uống, sẽ chẳng già, chẳng chết, cho nên sánh ví với
trí của Như Lai. Nay do trí này đã trừ hết thảy nhiệt não của chúng sanh, khiến
cho họ đạt được thân “thường thọ”
(常壽, thọ mạng thường hằng). Vị cam lộ này cũng sanh từ tâm Phật.
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, trực thư Thủy luân, dư diệc thụ chi, danh Như Lai
Yêu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa
tam bà phạ, sa ha.
(經)即以此印直舒水輪,餘亦竪之,名如來腰印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他蘗多三婆嚩。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, duỗi ngón áp út, các
ngón kia cũng dựng lên, gọi là Như Lai Yêu Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
tathāgatasaṃbhava svāhā”).
Kế đó là Như Lai Yêu Ấn (ấn
thắt lưng của Như Lai). Cũng chuẩn theo ấn Như Lai Câu trên đây để kết, trong ấy,
duỗi ngón trỏ khác với ngón áp út. Ngón áp út không cần cong đốt thứ ba [như
hai ngón trỏ và giữa]. Đó là nói về ngón áp út trong tay phải. Phần quy mạng
trong chân ngôn giống như trước. “Đát
tha nghiệt đa” (tathāgata, Như Lai), “tam bà phạ” (saṃbhava, sanh). Hãy nên biết trí ấn này
sanh từ Như Lai. Phàm ấn và chân ngôn đều tự nêu ra ý nghĩa, các điều khác đều
phỏng theo đây.
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, tác không tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong
luân khuất nhập ư nội, nhị Thủy luân diệc nhiên. Kỳ nhị Địa luân linh thiểu khuất,
nhi thân Hỏa luân, thử thị Như Lai Tạng Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tát bà
đát tha nghiệt đế tệ, lam lam lạc lạc, sa phạ ha.
(經)復以定慧手作空心合掌,以二風輪屈入於內,二水輪亦然,其二地輪令少屈,而伸火輪,此是如來藏印。彼真言曰:南麼薩婆怛他蘗帝弊。㘕㘕𡀩𡀩。莎嚩訶。
(Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ để làm không
tâm hiệp chưởng, dùng hai Phong luân (ngón trỏ) gập vào lòng bàn tay, hai ngón
Thủy luân (ngón áp út) cũng thế. Hai ngón Địa luân (ngón út) hơi cong, duỗi
ngón Hỏa luân (ngón giữa), đó là Như Lai Tạng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam
ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, lam lam lạc lạc, sa phạ ha - Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ, raṃ
raṃ raḥ raḥ svāhā”).
Kế đó là Như Lai Tạng Ấn. Trước hết, kết Tam Bổ Trá hiệp chưởng (hư tâm), hai ngón áp út và trỏ đều gập vào lòng bàn
tay (đặt các ngón tương ứng sát nhau), hai ngón giữa duỗi thẳng sao cho đầu hai
ngón chạm nhau, hai ngón cái đặt sát nhau, đè lên ngón trỏ, hai ngón út cũng duỗi
ra, đừng cho đầu ngón chạm nhau mà hơi gập cho đều cong, tức là ấn thành. “Lam lam lạc lạc” (raṃ raṃ raḥ raḥ): Chữ Ra (र) nghĩa là vô cấu. Cái chấm trên
đó [trong chữ Raṃ (रं) là Đại Không tam-muội. Thứ nhất
là trừ chướng của Nhị Thừa và phàm phu, thứ hai là trụ trong cái Không cam lộ của
Như Lai. Kế đó, hai chấm bên cạnh [chữ Ra (र) trong chữ Raḥ (रः)] chính là ý nghĩa tịnh trừ, thứ nhất là trừ phàm phu cấu, thứ hai là trừ
Nhị Thừa cấu.
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, tán kỳ Thủy luân hướng thượng trí chi, danh Đại
Giới Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lệ lỗ bổ rị vi củ lệ,
sa ha.
(經)即以此印散其水輪向上置之,名大界印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。麗魯補哩微矩麗。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, duỗi ngón thủy luân (áp út) hướng lên trên, gọi là Đại Giới Ấn. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lệ lỗ bổ rị vi củ lệ, sa ha -
Namaḥ
samantabuddhānāṃ, le lu puri vikule svāhā”).
Kế đó, kết Đại Giới Ấn. Chuẩn
theo cách kết Như Lai Câu Ấn trong phần trên, nhưng hai tay đều dựng thẳng ngón
áp út lên là thành ấn. “Đại giới”
ở đây có nghĩa là từ lúc phát đại Bồ Đề tâm cho tới khi thành Phật, trong khoảng
đó, chẳng để gián đoạn, chẳng còn sanh tử, chẳng lui sụt Bồ Đề, tức là ý nghĩa “đại giới”. Phần quy mạng trong chân
ngôn giống như trong phần trước. “Lệ lỗ
bổ rị vi củ lệ” (Le lu puri vikule): Lệ (ly tướng tam-muội), lỗ (tướng
của các thừa), “bổ” (Đệ Nhất
Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa bất khả đắc), “rị”
(ly cấu), “vi” (lìa trói buộc),
“củ” (làm), “lệ” (lìa tướng). Những thứ ấy đều là
tam-muội. Như Lai dùng các tam-muội làm trang nghiêm, không chi hơn được. Đấy
chính là đại giới của chư Phật.
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, kỳ nhị Hỏa luân câu khuất, tương hợp, tán thư
Phong luân, danh Vô Kham Nhẫn Đại Hộ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tát phạ
đát tha nghiệt đế tệ. Tát phạ bà dã vi nghiệt đế tệ. Vi thấp phạ mục khế tệ,
tát phạ tha hám khiếm, ra cật xoa ma ha ma lệ. Tát phạ đát tha nghiệt đa bôn nật
dã nĩnh ra xã đế. Hồng hồng, đát ra trá, đát ra trá. A bát ra để ha đế, sa ha.
(經)即以此印,其二火輪鉤屈相合,散舒風輪,名無堪忍大護印。彼真言曰:南麼薩嚩怛他蘗帝弊。薩嚩婆也微蘗帝弊。微濕嚩目契弊。薩嚩他。唅欠。囉訖叉麼訶麼麗。薩嚩怛他蘗多奔抳也儜囉社帝。吽吽。怛囉吒怛囉吒。阿鉢囉底訶諦。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấy, hai ngón hỏa luân (ngón giữa)
đều cong lại, chạm đầu nhau, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ), thì gọi là Vô
Kham Nhẫn Đại Hộ Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tát phạ đát tha nghiệt đế
tệ. Tát phạ bà dã vi nghiệt đế tệ. Vi thấp phạ mục khế tệ, tát phạ tha hám khiếm,
ra cật xoa ma ha ma lệ. Tát phạ đát tha nghiệt đa bôn nật dã nĩnh ra xã đế. Hồng
hồng, đát ra trá, đát ra trá. A bát ra để ha đế, sa ha - Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ
sarvabhaya-vigatebhyo viśvamukhebhyaḥ, sarvathā haṃ khaṃ rakṣa mahābale
sarvatathāgata-puṇyanirjāte hūṃ hūṃ trāṭ trāṭ
apratihate svāhā).
Kế đó, kết Đại Hộ Ấn. Chuẩn
theo Như Lai Tạng Ấn trong phần trên, duỗi hai ngón áp út, khiến cho đầu của
chúng chụm vào nhau như đỉnh núi. Hai ngón giữa cũng chạm đầu nhau, nhưng hơi
cong, giống như hình mắt xích. Lại tách hai ngón cái ra, sao cho cách nhau hai
tấc trở lại là thành ấn! Chân ngôn rằng: “Tát
phạ đát tha nghiệt đế tệ” (sarvatathāgatebhyaḥ, quy mạng hết
thảy các đức Như Lai), “tát phạ bà dã
vi nghiệt đế tệ” (sarvabhayavigatebhyo, có thể trừ hết
thảy các chướng nạn sợ hãi, cũng là tán thán Phật và quy mạng). “Vi thấp-phạ mục khế tệ” (viśvamukhebhyaḥ, các loại môn, cũng có nghĩa là “xảo
diệu”. Tức chư Phật khéo hiện đủ loại môn công đức). “Tát phạ tha” (sarvathā, trọn khắp, nghĩa là hết thảy các thời, hết thảy các chỗ, hết thảy phương sở).
“Hám khiếm” (haṃ khaṃ, Ha có nghĩa là cái nhân. Khư (ख, Kha) có nghĩa là Không. Thêm chấm vào (thành Khiếm, खं, tức Khaṃ) lại là Không. Dùng cái Không đó để tịnh hóa hết thảy các nhân. Lại nữa,
đối với Không thì cái Không ấy cũng là không). “Ra cật-xoa” (rakṣa, ủng hộ. Không chỉ thủ hộ Nhị Thừa,
mà còn thủ hộ hết thảy chư Phật. Do vì lẽ này, chư Phật chẳng xả hữu tình, thường
làm Phật sự chẳng hề ngưng dứt, chẳng trụ trong tịch diệt). “Ma ha ma lệ” (mahābale, đại lực, tức là mười loại trí lực của Như Lai), “tát phạ đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [hết thảy] Như Lai), “bôn nật-dã ninh ra xã
đế” (puṇyanirjāte,
sanh, ý nói: Sức ấy sanh từ công đức của Như Lai). “Hồng hồng” (hūṃ hūṃ, chữ thứ nhất là khủng bố các chướng, chữ thứ hai nghĩa là khiến cho trọn vẹn
tam đức của Phật. Vì thế, nói lặp lại, hàm ý tột bậc sợ hãi). “Đát ra trá, đát ra trá” (trāṭ trāṭ, nhiếp phục. Chế phục nội ngoại chướng. Lại vì thành tựu Pháp Thân của Phật,
cho nên cũng nói lặp lại). A bát-ra để
ha đế (apratihate, vô hại, vô chướng). Đây gọi là Vô Kham Nhẫn Đại Hộ. Do oai quang của ấn
chú này mạnh mẽ, hừng hực, như trẻ nhỏ mới sanh chẳng kham nhìn vào ánh sáng mặt
trời rực rỡ. Ở đây cũng giống như vậy, hết thảy đều chẳng thể kham nhẫn để
tranh sáng được! Vì thế, gọi là Vô Năng Kham Nhẫn Đại Hộ. Dùng ấn chú này để thủ
hộ hành giả Chân Ngôn.
(Kinh) Phục dĩ Phong luân nhi tán thư chi, Không luân tịnh nhập kỳ
trung, danh Phổ Quang Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, xà
phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha.
(經)復以風輪而散舒之,空輪並入其中,名普光印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃 。闍嚩囉摩履儞 。怛他蘗多㗚旨。莎訶。
(Kinh: Lại duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ) ra,
ngón Không luân (ngón cái) cùng nhập vào đó, gọi là Phổ Quang Ấn. Chân ngôn ấy
như sau: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, xà phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật
chỉ, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, jvālāmālini tathāgatārci svāhā”).
Kế đó là Như Lai Phổ Quang Ấn.
Hai ngón cái cùng gập vào lòng bàn tay, hai ngón trỏ dựng thẳng (đều chẳng chạm
nhau, đều dựng thẳng lên). Đầu hai ngón giữa chụm vào nhau, hơi cong lóng ngón
tay như hình linh, chuông nhỏ, các ngón khác giống như trong phần trên là thành
ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trong phần trên. Xét theo chân
ngôn, “xà phạ la” (jvālā (ज्वाला), Xà là sanh, Phạ là trói buộc, La (ला) là tướng. Bên cạnh đó, có cái chấm A (tức vạch đứng bên cạnh chữ La (ल) có cùng nghĩa với bất sanh, tức “vô tướng bất sanh”). “Ma lý nễ” (Mālini, Ma là Ngã, có âm A dài (ā), Lý là tưởng. “Tưởng” có nghĩa là quán, lìa hữu
quán lẫn vô quán). “Đát tha nghiệt đa”
(Tathāgata, đấy là Như Lai quang. Như Lai quang sanh từ các nghĩa vô tướng, vô quán
v.v…)
(Kinh) Hựu dĩ Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong luân
trì Hỏa luân trắc, danh Như Lai Giáp ấn.
(經)又以定慧手作空心合掌, 以二風輪持火輪側,名如來甲印。
(Kinh:
Lại dùng tay Định và Huệ (tay trái và tay phải) để kết không tâm hiệp chưởng,
dùng hai ngón trỏ đặt bên cạnh ngón giữa, gọi là ấn Như Lai Giáp).
Kế đó là ấn Như Lai Giáp. Kết
Tam-bổ-trá hiệp chưởng (hư tâm hiệp chưởng), dùng hai ngón trỏ đặt bên cạnh
lưng hai ngón giữa, sao cho hai đầu ngón ngang nhau là thành ấn. Ấn này khuyết
phần chân ngôn, cần phải tra cứu.
(Kinh) Khuất nhị Thủy luân, nhị Không luân hợp nhập chưởng trung, áp nhị
Thủy luân giáp thượng, thị Như Lai Thiệt Tướng ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, đá tha nghiệt đa thệ ha phạ tát để dã. Đạt ma bát ra để sắt
sỉ đa, sa ha.
(經)屈二水輪,二空輪合入掌中押二水輪甲上,是如來舌相印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他蘗多誓訶嚩薩底也。達摩鉢囉底瑟恥多。莎訶。
(Kinh: Gập hai ngón giữa và hai ngón cái vào lòng bàn tay, [ngón
cái] đè lên móng hai ngón giữa. Đó là ấn Như Lai Thiệt Tướng. Chân ngôn là:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa thệ ha phạ tát để dã. Đạt ma
bát ra để sắt sỉ đa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, tathāgatajihva
satya. Dharma-pratiṣṭhita, svāhā).
Phần quy mạng trong chân
ngôn của Như Lai Thiệt (lưỡi) giống như trên. “Đát tha nghiệt đa thệ ha-phạ” (tathāgatajihva, lưỡi [của Như Lai]), tát để dã
(satya, chân thật), “đạt ma”
(dharma, pháp), “bát-ra để sắt-sỉ đa”
(pratiṣṭhita, tánh). Ví như lưỡi của Như Lai thường nói lời đúng như thật, chẳng nói dối,
chẳng nói khác lạ; do chân thật như thế, nên thường trụ.
(Kinh) Dĩ thử ấn, linh Phong, Thủy luân khuất nhi tương niệp, Không
luân hướng thượng, nhi thiểu khuất chi, Hỏa luân chánh trực tương hợp, Địa luân
diệc như thị, danh Như Lai Ngữ Môn ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đát tha nghiệt đa ma ha phạ ca đát ra, vi thấp phạ nhã na, ma ha đà da,
sa ha.
(經)以此印,令風水輪屈而相捻,空輪向上而少屈之,火輪正直相合,地輪亦如是,名如來語門印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他蘗多摩訶嚩迦怛囉。微濕嚩若那摩訶駄耶。莎訶。
(Kinh: Dùng ấn này, sao cho các ngón trỏ và ngón áp út gập lại,
bấm vào nhau, ngón cái hướng lên trên, hơi cong, ngón giữa dựng thẳng chạm
nhau. Ngón út cũng như thế, gọi là ấn Như Lai Ngữ Môn. Chân ngôn của ấn ấy là:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa, ma ha phạ ca đát ra, vi thấp
phạ nhã na, ma ha đà da, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ tathāgata-mahāvaktra viśvajñāna mahodaya svāhā”).
Kế đó là ấn Như Lai Ngữ
Môn. Chuẩn theo ấn trước đó, tức là kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp
chưởng), các ngón áp út và ngón trỏ chạm đầu nhau, gập vào lòng bàn tay, dùng
hai ngón cái cùng đè lên. Kế đó, hai ngón út và ngón giữa dựng thẳng lên, đặt
cho đầu ngón ngang nhau nhọn như hình ngọn núi là thành ấn. Phần quy mạng trong
chân ngôn giống như trên. “Ma ha phạ
ca đát-ra” (mahāvaktra, đây chính là Ngữ), “vi
thấp-phạ nhã na” (viśvajñāna, các thứ trí khéo), “ma ha đà da” (mahodaya, rộng lớn). Ý nói ngôn ngữ từ vô lượng môn xảo huệ của Như Lai mà thành,
trí ấy rộng lớn vô lượng.
(Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Phong luân khuất nhập chưởng trung, hướng
thượng, danh Như Lai Nha Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
đát tha nghiệt đa năng sắt trá la. Ra sa ra sa cật ra, tam bát ra bác ca, tát
bà đát tha nghiệt đa, vi xa dã tam bà phạ, sa ha.
(經)如前印,以二風輪屈入掌中向上,名如來牙印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他蘗多能瑟吒羅。囉娑囉娑釳囉。三鉢囉博迦。薩婆怛他蘗多。微奢也三婆嚩。莎訶。
(Kinh:
Giống như ấn trước, dùng hai ngón trỏ gập vào lòng bàn tay, hướng lên trên, gọi
là ấn Như Lai Nha (răng của Như Lai). Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa năng sắt trá la. Ra sa ra sa cật ra, tam bát
ra bác ca, tát bà đát tha nghiệt đa, vi xa dã tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
tathāgatadaṃṣṭra rasarasāgrasaṃprāpaka sarva-tathāgata viṣayasaṃ-bhava svāhā”).
Kế đó là ấn Như Lai Nha: Kết
Tam-bổ-trá hiệp chưởng, gập hai ngón trỏ vào lòng bàn tay, sao cho lưng hai ngón
ấy đâu nhau là thành ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Đát tha nghiệt đa năng sắt trá la” (Tathāgata-daṃṣṭra, răng [của Như Lai]). “Ra sa ra
sa” (Rasarasa là vị. [Do là] vị tốt đẹp nhất trong các vị, cho nên lặp lại, tức pháp vị của
Như Lai). “Cật-ra” (agra, chữ
này nối với câu trước, câu trước không có âm A. Có nghĩa là thắng thượng, tức vị
thắng thượng). “Tam bát-ra bác ca”
(saṃprāpaka, đạt được), “[tát bà] đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [tất cả] Như Lai), “vi xa dã” (viṣaya, cảnh giới), “tam bà phạ” (saṃbhava, sanh, Ý nói: Vị thắng thượng sanh từ cảnh giới của Như Lai).
(Kinh) Hựu như tiền ấn tướng, dĩ nhị Phong luân hướng thượng trí chi,
khuất đệ tam tiết, danh Như Lai Biện Thuyết Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, a chấn để dã na bộ đa, hạt lỗ bà phạ ca tam mạn đá bát ra
bát đa, vi thâu đà tát phạ ra, sa ha.
(經)又如前印相,以二風輪向上置之,屈第三節,名如來辯說印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿振底也娜部多。曷魯婆嚩迦三曼哆鉢囉鉢多。微輸馱薩嚩囉。莎 訶。
(Kinh: Lại như ấn trên đây, dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) hướng
lên trên, gập đốt thứ ba, gọi là ấn Như Lai Biện Thuyết. Chân ngôn của ấn ấy
là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a chấn để dã na bộ đa, hạt lỗ bà phạ ca tam
mạn đá bát ra bát đa, vi thâu đà tát phạ ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
acintyādbhutarūpavācaṃ saman-tāprāpta viśuddhasvara svāhā”).
Kế đó là ấn Như Lai Tứ Biện.
Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, hai ngón trỏ cùng cong lại, đặt trên lưng hai ngón
giữa, đừng cho chạm đầu nhau thì ấn thành. Do bởi ấn này, Như Lai ở trong đại chúng
vô úy, vì người khác diễn nói chánh pháp, thậm chí trong một chữ chứa đựng ý
nghĩa vô cùng. Biện tài ấy chẳng thể cùng tận. Phần quy mạng trong chân ngôn giống
như trên. “A chấn để-dã” (Acintyā, chẳng nghĩ bàn), “na-bộ đa” (dbhuta, đặc biệt, lạ lùng), “hạt-lỗ bà”
(rūpa, phân đoạn của lời nói. Có ý nghĩa là [lời nói ấy] đặc biệt, lạ lùng), “phạ ca tam mạn đá bát-ra bát-đa” (vācaṃ samantaprāpta, tới trọn khắp. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, [âm thanh ấy] tới
trọn khắp trước hết thảy chúng sanh. [Khi âm thanh ấy thấu] tới nơi đó, ai nấy
đều cho rằng đức Phật dùng cùng âm thanh [giống như ngôn ngữ của tôi] để thuyết
pháp cho tôi). “Vi thâu đà” (Viśuddha, thanh tịnh), “tát-phạ ra”
(svara, ngôn âm. Do ngôn âm đã phát ra lìa các khuyết điểm như thô ác v.v… mà
vi diệu thanh tịnh, khiến cho kẻ khác thích nghe. Vì thế nói là “ngôn âm thanh tịnh”).
(Kinh) Phục thứ, dĩ Định Huệ thủ hòa hợp nhất tướng, tác không tâm hiệp
chưởng, nhị Địa luân, Không luân khuất nhập tương hợp. Thử thị Như Lai Trì Thập
Lực Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đà xá phạ lan già đà la, hồng sâm nhiêm, sa
ha.
(經)復次,以定慧手和合一相作空心合掌,二地輪空輪屈入相合, 此是如來持十力印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。馱舍嚩蘭伽陀羅。吽參髯。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, dùng tay Định và Huệ hòa hợp
thành một tướng, để kết không tâm hiệp chưởng, hai ngón Địa (út) và ngón Không
(ngón cái) gập vào trong [lòng bàn tay], chụm vào nhau. Đó là ấn Như Lai Trì Thập
Lực. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đà xá phạ lan già
đà la, hồng sâm nhiêm, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
daśabalāṅgadhara hūṃ saṃ jaṃ, svāhā”).
Kế đó là ấn Như Lai Thập Lực. Gập các ngón út và cái vào lòng bàn tay, khiến
cho chúng chụm đầu lại, chống vào nhau. Các ngón khác kết thành Tam-bổ-trá hiệp
chưởng (không tâm hiệp chưởng) là ấn thành. Phần quy mạng của chân ngôn giống như
trước. “Hồng” (ba đức. Ma là
Không, cái chấm là tam-muội, “Xà”
(Ja) có nghĩa là “sanh”, lại còn là “triệu vời”. Ấn này có thể trì thập lực của
Như Lai. Ba chữ này ghép lại ở cuối câu, tức là Hồng Sâm Nhiêm (hūṃ saṃ jaṃ), như trong Đại Bổn có chép), “đà
xá phạ lan già” (daśabalāṅga, thân phần Thập Lực. Từ chữ Lan trở
về trước là Thập Lực, tức là âm A dài trong chữ Lan nối với chữ Ca thành thân
phần), “đà la” (dhara, trì). Tức
là do sức của trí ấn này, có thể nắm giữ chi phần Thập Lực của Như Lai.
(Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị Không luân, Phong luân khuất thượng tiết
tương hợp, thị Như Lai Niệm Xứ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đát tha nghiệt đa tất mật lật để, tát đỏa hệ đá, tệ dữu đà yết đa. Già
già na tam ma a tam ma, sa ha.
(經)又如前印,以二空輪風輪屈上節相合,是如來念處印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他蘗多悉密㗚底。薩埵係哆弊庾馱揭多。伽伽那三麼阿三麼。莎訶。
(Kinh: Lại như ấn trên, cong hai ngón Không
luân (cái) và Phong luân (trỏ) sao cho lóng trên áp vào nhau, đó là ấn Như Lai
Niệm Xứ. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt
đa tất mật lật để, tát đỏa hệ đá, tệ dữu đà yết đa. Già già na tam ma a tam ma,
sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, tathāgatasmṛti sattvahitābhyudgata gaganasamāsama svāhā”).
Kế đó là ấn Như Lai Niệm Xứ.
Kết Tam-bổ-trá (cách chắp tay này giống như hoa sen chưa nở, chắp tay sao cho
giữa hai lòng bàn tay có khoảng trống, hãy kiểm phần kinh văn trước để khỏi làm
sai). Dùng hai ngón cái và ngón trỏ chụm lại, bấm vào nhau là ấn thành. Trong
cách bấm này, hãy nên sao cho [phần đầu của] móng tay nơi bốn ngón kia đều chạm
vào nhau. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Đát tha nghiệt đa tất mật-lật-để” (Tathāgatasmṛti, Như Lai niệm), tát đỏa hệ đá
(sattvahitā, lợi ích chúng sanh), “tệ-dữu đà yết
đa” (bhyudgata, sanh, khởi), “già già na tam ma”
(gaganasama, hư không sanh), “a tam ma”
(asama, vô đẳng). Ý nói: Niệm ấy bằng với hư không, chẳng có hạn lượng. Lại nữa,
hư không chẳng thể sánh ví. Do vậy, lại nói là “vô đẳng”. Vì lẽ nào vậy? Hư không tánh vô sở hữu, chẳng thể tạo
lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị Không luân tại Thủy luân thượng, danh Nhất
Thiết Pháp Bình Đẳng Khai Ngộ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, tát phạ đạt ma tam mạn đa, bát ra bổ đa, đát tha nghiệt đá nô nghiệt đa,
sa ha.
(經)又如前印,以二空輪在水輪上,名一切法平等開悟印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩達摩三曼多鉢囉補多。怛他蘗哆奴蘗多。莎訶。
(Kinh: Lại như ấn trước, dùng hai ngón Không luân (cái) đặt trên
ngón Thủy luân (áp út), gọi là ấn Hết Thảy Các Pháp Bình Đẳng Khai Ngộ. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đạt ma tam mạn đa,
bát ra bổ đa, đát tha nghiệt đá nô nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
sarvadharmasamatāprāpta tathāgatānu-gata, svāhā”).
Kế đó là ấn Nhất Thiết Pháp
Bình Đẳng Khai Ngộ. Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, dùng hai ngón áp út và ngón cái
chụm lại, bấm vào nhau là thành ấn. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước.
“Tát phạ đạt ma tam mạn đa” (sarvadharmasamatā, hết thảy các pháp bình đẳng), “bát-ra
bổ đa” (prāpta, tới, đạt được, [hàm nghĩa] đạt được hết thảy bình đẳng), “đát tha nghiệt đa” (tathāgatā, Như Lai, nghĩa chủ yếu là Như Khứ). “Nô
nghiệt đa” (Nugata, tùy thuộc, như. Ý nói: Tùy thuận chư Như Lai, cùng
được khai ngộ giống như các Ngài).
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ hợp vi nhất, dĩ nhị Phong luân gia Hỏa luân
thượng, dư như tiền, thị Phổ Hiền Như Ý Châu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, tam mạn đa nô nghiệt đa, phệ ra xà, đạt ma niết xà đa,
ma ha ma ha, sa ha.
(經)復以定慧手合為一,以二風輪加火輪上,餘如前,是普賢如意珠印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。三曼多奴蘗多。吠囉闍達摩涅闍多。摩訶摩訶。莎訶。
(Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ hợp nhất, dùng hai ngón Phong
luân (trỏ) đặt trên hai ngón Hỏa luân (giữa), các ngón khác như trên; đó là ấn
Phổ Hiền Như Ý Châu. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam
mạn đa nô nghiệt đa, phệ ra xà, đạt ma niết xà đa, ma ha ma ha, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
samatānugata virajadharmanirjāta mahāmaha svāhā”).
Kế đó là ấn Như Ý Ma Ni Phổ
Hiền (chánh kinh gọi ấn này là Phổ Hiền Như Ý Châu). Sở dĩ gọi là Phổ Hiền, vì
tất cả tam nghiệp của vị Bồ Tát này đều tốt lành, nên được chư Phật, Bồ Tát tán
thán. Để kết ấn này thì kết Tam-bổ-trá (không tâm hiệp chưởng), dùng hai ngón
trỏ gác lên sau lưng của hai ngón giữa thành hình khuyên thì thành ấn. Các ngón
khác như thường lệ. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Tam mạn đa nô nghiệt đa” (samatānugata, đạt tới bình đẳng),
“phệ ra xà” (viraja, vô cấu, vô trần). “Đạt ma niết xà
đa” (dharmanirjāta,
pháp sanh. Ý nói vô cấu từ pháp mà sanh), “ma ha ma ha” (mahāmaha): Nghĩa này được lặp lại,
giống như nói “thiên trung chi thiên”
(trời của các vị trời). Các vị Bồ Tát cúng dường đức Phật, đức Phật chuyển sự
cúng dường ấy sang ngài Phổ Hiền, do thân ngài Phổ Hiền bình đẳng với tam thế
Phật. Đây chính là sự to lớn nhất trong các điều to lớn, là cúng dường tối thắng
trong các sự cúng dường, cho nên lặp lại [chữ “ma-ha”]).
(Kinh) Tức thử hư tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong luân khuất tại nhị Hỏa
luân hạ, dư như tiền, thị Từ Thị Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, a thệ đảm xã da, tát phạ tát đỏa a thế da, nô nghiệt đa, sa ha.
(經)即此虛心合掌,以二風輪屈在二火輪下,餘如前,是慈氏印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿誓擔社耶。薩嚩薩埵阿世耶奴蘗多。莎訶。
(Kinh: Liền đối với hư không hiệp chưởng ấy,
dùng hai ngón Phong luân (ngón trỏ) đặt dưới ngón Hỏa luân (ngón giữa), các
ngón khác như trên. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a thệ
đảm xã da, tát phạ tát đỏa a thế da, nô nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ ajitaṃjaya
sarva-sattvāśayānugata svāhā”).
Kế đó là Từ Thị Ấn (ấn của
ngài Di Lặc). Kết Tam-bổ-trá, gập hai ngón trỏ, sao cho đầu ngón trỏ đặt dưới gốc
ngón giữa, hai ngón cái đặt ngang đè lên, các ngón khác như thường. Ấn này hình
dạng như Tốt-đổ-ba (stupa, tháp), do trì tháp Pháp Thân của hết thảy các đức
Như Lai, giống như ngài Quán Âm trì Phật thân. Phần quy mạng của chân ngôn giống
như trước. “A thệ đảm” (Ajitaṃ, nói theo lối cổ là A Dật Đa, tức là gọi tên Ngài. [Danh hiệu ấy] có
nghĩa là “không ai thắng được”,
hết thảy ái kiến phiền não cho tới Nhị Thừa v.v… không ai hơn được!) “Xã da” (Jaya, đắc thắng, [tức là]
trong vô thắng mà đạt được sự toàn thắng). “Tát phạ tát đóa” (Sarvasattva, hết thảy chúng sanh). “A thế da” (Aśayā, tánh). “Nô nghiệt đa” (Nugata, biết tâm khởi lên). “Khởi”
có nghĩa là biết, tức là biết tánh của hết thảy chúng sanh. [Thiện Vô Úy]
A-xà-lê nói: “Chữ ấy chính là chữ chủng
tử của ngài Di Lặc”).
(Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị hư không luân nhập trung, danh Hư Không
Tạng Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam mạn đa nô
nghiệt đa. Bễ chất đa lam ma phạ ra
đà ra, sa ha.
(經)又如前印,以二虛空輪入中,名虛空藏印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿迦奢三曼多奴蘗多。髀質哆㘕麼嚩囉馱囉。莎訶。
(Kinh: Kế đó, giống như ấn trước, dùng hai ngón Hư Không (ngón
cái) gập vào lòng bàn tay, gọi là Hư Không Tạng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam mạn đa nô nghiệt đế. Bễ chất đá lam
ma phạ ra đà ra, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, ākāśasamatānugata
vicitrāmbaradhara svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Hư
Không Tạng (Ākāśagarbha). Hư tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón cái cùng gập vào lòng bàn tay là
thành ấn. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “A ca xa” (ākāśa, hư không), “tam mạn đa” (samatā (bằng), tức là bằng với hư không), “nô nghiệt đa” (nugata, đạt được.
Trong phần trước nói [từ ngữ này] có nghĩa là “biết”, là “dấy lên”, ở đây nói
là “đạt được”, cũng dung hội), “bễ chất
đá-lam ma-phạ” (vicitrāmba, chữ Ma ở đây chính là cái chấm đặt trên chữ Ra, tức là thành
chữ Lam), Ra (Bệ Chất Đa nghĩa là đủ loại, Ma Phạ Ra tức là nghĩa “nương cậy”). “Đà ra” (dhara, mặc, nghĩa là mặc các loại áo. Như hư không vô sắc
mà có thể hiện đủ loại hình. Vị Bồ Tát này cũng thế, giống như hư không mà có
thể thỏa mãn đủ loại nguyện, hiện đủ loại hình tướng lợi ích chúng sanh).
(Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Thủy luân, nhị Địa luân khuất nhập chưởng
trung, nhị Phong luân, Hỏa luân tương hợp, thị Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dã ốt
nghiệt đa. Đát lãm đát lãm, lãm lãm. Sa ha.
(經)如前印,以二水輪二地輪屈入掌中,二風輪火輪相合,是除一切蓋障印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿薩埵係哆驃也嗢蘗多。怛囕怛囕囕囕。莎訶。
(Kinh: Như ấn trước, dùng hai ngón áp út và hai ngón út gập vào
lòng bàn tay, hai ngón trỏ và giữa áp vào nhau, đó là Trừ Nhất Thiết Cái Chướng
Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa,
phiêu dã ốt nghiệt đa. Đát lãm đát lãm, lãm lãm. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ sattvahitābhyudgata traṃ traṃ
raṃ raṃ svāhā).
Kế đó là ấn của Trừ Cái Chướng
Bồ Tát (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin). Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp chưởng), các ngón út và áp út đều
gập vào lòng bàn tay, các ngón khác như thường (đây là ngón út và áp út chạm
móng, chống vào nhau). Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “A tát đỏa hệ đa” (āḥ sattvahitā: A nghĩa là “có thể trừ”. “Hệ đa” nghĩa là
lợi ích, tức là lợi ích chúng sanh), “phiêu-dã
ốt nghiệt-đa đát-lãm đát-lãm lãm lãm” (bhyudgata traṃ traṃ raṃ raṃ,
nghĩa là Trừ, mà cũng là khai phát thiện tánh ấy, khiến cho
nó hiển hiện. Như trong phần trên đã nói là “trừ sự chấp trước”, [ở đây] là trừ chuyện gì? Chính là trừ bốn
cấu. Phàm phu ái kiến là một loại cấu, Thanh Văn cấu là hai, Duyên Giác cấu là
ba, Bồ Tát cấu là bốn. Do trừ chúng sanh cấu, nhập địa vị Thanh Văn. Do trừ
Thanh Văn cấu, nhập địa vị Duyên Giác. Cho đến do trừ Bồ Tát cấu, nhập địa vị
thanh tịnh).
(Kinh) Như tiền dĩ Định Huệ thủ tương hợp, tán thư ngũ luân do như linh
đạc, dĩ Hư Không, Địa luân hòa hợp, tương trì, tác liên hoa hình. Thị Quán Tự Tại
Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa a
phạ lô yết đa, ca lô noa mạt da, ra ra ra, hồng xà, sa ha.
(經)如前以定慧手相合,散舒五輪猶如鈴鐸,以虛空地輪和合相持作蓮華形,是觀自在印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩怛他蘗哆阿嚩盧羯多。迦盧拏末耶。囉囉囉吽闍。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, tay Định và Huệ chắp lại, xòe các ngón
như linh, khánh, các ngón Hư Không (cái) và Địa (út) hòa hợp, chống vào nhau,
thành hình hoa sen. Đó là Quán Tự Tại Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa a phạ lô yết đa, ca lô noa mạt da, ra ra ra,
hồng xà, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvatathāgatāvalokita karuṇāmaya ra
ra ra hūṃ jaḥ svāhā”).
Kế đó là Quán Âm (Avalokiteśvara) Ấn. Trước hết, “khai phẫu hiệp
chưởng” (cách chắp tay như búp sen chớm nở). Dùng các ngón cái và ngón
út bấm vào nhau, sáu ngón khác xòe ra. Ngón giữa và ngón trỏ đều cùng chụm vào
nhau tương ứng. Ngón áp út đứng đơn lẻ tức là ấn thành. “Tát phạ đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [hết thảy] Như Lai), “a phạ lô yết đa”
(avalokita, quán, tức là phép Quán của Như Lai), “ca lô noa” (karuṇā, bi), “mạt da” (maya, Thể. Ý nói dùng đại bi làm Thể, thân tâm trong
ngoài thuần dùng Bi làm thân). “Ra ra
ra” (tam cấu). “Hồng xà”
(hūṃ jaḥ, chữ Hồng này là ba món hành, giải thoát, và Đại Không. Xà (jaḥ) có nghĩa là sanh, tức là “pháp
sanh từ duyên khởi”). Phép Quán của Như Lai ở đây có nghĩa là Bồ Tát tuy
chưa thành Phật, nhưng đã thấy giống như Phật. Do thấy tánh của Uẩn, nên đạt được
tên gọi của phép Quán như thế. Chỉ lấy Bi làm Thể, tức là lòng Bi ấy do lìa ba
độc, mà đạt được ba thiện căn như vô tham v.v…, sanh ra ba món giải
thoát. Vì thế, có ba chữ Ra.
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, do như vị
khai phu liên, thị Đắc Đại Thế Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, chiêm chiêm sa, sa ha.
(經)如前以定慧手作空心合掌,猶如未開敷蓮,是得大勢印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。瞻瞻娑。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ để
làm không tâm hiệp chưởng, giống như hoa sen chưa nở; đó là Đắc Đại Thế Ấn.
Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chiêm chiêm sa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, jaṃ jaṃ
saḥ svāhā”).
Kế đó là Đại Thế Chí Ấn (Mahāsthāmaprāpta). Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, cong mười ngón tay chụm vào nhau cho tròn trặn,
như búp sen chưa nở. Búp sen chưa nở ấy chính là tráp báu của Như Lai, do đã nở
rồi khép lại. Xét theo các chữ trong chân ngôn, Chiêm (jaṃ, sanh), Sa (saḥ, trí bình đẳng). Đấng lìa thế gian, lại vượt khỏi Bồ Tát sanh, trụ trong
trí bình đẳng.
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, cử nhị
Phong luân do như châm phong, nhị Hư Không luân gia chi, thị Đa La Tôn Ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đá lệ, đá rị ni, ca rô noa ốt
bà phệ, sa ha.
(經)如前以定慧手,五輪內向為拳,舉二風輪猶如針鋒,二虛空輪加之,是多羅尊印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。哆囇哆哩抳。迦嚧拏嗢婆吠。莎訶。
(Kinh:
Như trên, dùng tay Định và Huệ, năm ngón hướng vào trong, nắm thành quyền, giơ
hai ngón Phong luân (ngón trỏ) ví như đầu kim, hai ngón Hư Không luân (ngón
cái) đè lên; đó là Đa La Tôn Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đá lệ, đá rị ni, ca rô noa ốt bà phệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tāre
tāriṇi karuṇodbhave svāhā”).
Kế đó, kết Đa La Bồ Tát (Tārā) ấn. Trước kết kết Chỉ Hướng Nội Tương Xoa Quyền Hiệp Chưởng (tức là các
ngón tay đan vào nhau, gập các ngón tay trong lòng bàn tay), dựng hai ngón trỏ,
chụm vào nhau như cái kim, hai ngón cái dựng thẳng đè lên [hai ngón trỏ] thì ấn
thành. Chân ngôn: “Đa lệ” (Tāre, gọi tên vị Bồ Tát ấy, tức
Tārā Bồ Tát), “đá rị ni” (tāriṇi, độ thoát. Giống như
giúp người khác vượt qua sông lớn, đặt họ nơi bờ kia). “Ca rô noa” (karuṇo, bi). “Ốt
bà phệ” (odbhave, sanh. Do vị Bồ Tát này sanh từ lòng Bi, cũng độ chúng sanh đạt đến chỗ
Bi).
(Kinh) Như tiền ấn, cử nhị Phong luân sâm si tương áp, thị Tỳ Câu Chi Ấn,
bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ bà dã, đát ra tát nễ,
hồng sa phán trá dã, sa ha.
(經)如前印,舉二風輪參差相押,是毘俱胝印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩婆也怛囉薩儞。吽娑泮吒也。莎訶。
(Kinh: Giống như ấn trên, dựng
hai ngón Phong luân (ngón trỏ) so le đè lên nhau. Đó là Tỳ Câu Chi ấn. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ bà dã, đát ra tát nễ,
hồng sa phán trá dã, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvabhayatrāsani hūṃ sphoṭaya svāhā”).
Kế đó là Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī) Ấn. Giống như trên, làm Hướng Nội Chỉ Quyền hiệp chưởng. Hai ngón trỏ
cũng dựng lên, nhưng so le áp vào nhau, khiến cho ngón phải đè lên ngón trái là
đúng. Hình thế của ấn này đại để giống ấn Đa La, chỉ có [hai ngón trỏ đè lên
nhau] so le là khác biệt. Chân ngôn: “Tát
phạ bà dã” (sarvabhaya, hết thảy kinh sợ), “đát-ra tát nễ” (trāsani, cũng có nghĩa là khủng bố. Trong hết
thảy các nỗi sợ hãi, lại dùng sự khủng bố để đe dọa khiến cho lui tan. Như thấy
kẻ chẳng điều phục, lại dùng oai thế cứng cỏi, hung tàn để hàng phục, khiến cho
kẻ đó chẳng thể làm quấy). “Hồng”
(hūṃ, có ba ý nghĩa như trong phần trước [đã nói]). “Sa-phán trá dã” (sphoṭaya, nghĩa là phá hoại, khiến cho các sự
kinh sợ ấy lui tan). Chân ngôn này là Tỳ Câu Chi Trì Tụng Mẫu, giống như mẹ của
những kẻ trì tụng, công năng tôn quý nhất.
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ không tâm hiệp chưởng, Thủy luân,
Không luân giai nhập ư trung, thị Bạch Xứ Tôn Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa phì xá da tam bà phệ, bát đàm ma ma lý
nễ, sa ha.
(經)如前,以定慧手空心合掌,水輪空輪皆入於中,是白處尊印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃 。怛他蘗多肥
舍耶三婆吠。鉢曇摩摩哩儞。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ làm không tâm hiệp
chưởng, các ngón Thủy luân (áp út) và Không luân (cái) đều gập vào trong lòng
bàn tay; đó là Bạch Xứ Tôn Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đát tha nghiệt đa phì xá da tam bà phệ, bát đàm ma ma lý nễ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
tathāgataviṣayasaṃbhave padmamālini svāhā”).
Kế đến là Bạch Xứ Bồ Tát (Pāṇḍaravāsinī) Ấn. Cùng gập hai ngón áp út vào lòng bàn tay, hai ngón cái cũng đặt sát
nhau, gập vào cho chạm [hai ngón áp út]. Các ngón khác kết thành Tam-bổ-trá hiệp
chưởng (không tâm hiệp chưởng). Chân ngôn: “Đát tha nghiệt đa phì xá da” (tathāgataviṣaya, cảnh giới của Như Lai), “tam bà
phệ” (saṃbhave, sanh. Ý nói: Sanh từ cảnh giới của Như Lai), “bát đàm ma ma lý nễ” (padmamālini, tràng hoa, tức
vật để trang nghiêm thân. Đấy là coi cái có thể sanh ra công đức của chư Phật
làm trang nghiêm, tức là trang nghiêm Pháp Thân vậy).
(Kinh) Như tiền ấn, khuất nhị Phong luân trí Hư Không luân hạ, tương khứ
do như khoáng mạch, thị Hà Da Yết Rị Phạ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, khư đà da, bạn xà tát phá trá dã, sa ha.
(經)如前印,屈二風輪置虛空輪下,相去猶如穬麥,是何耶揭哩嚩印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。佉馱耶畔闍薩破吒也。莎訶。
(Kinh: Như ấn trước, gập hai ngón Phong luân (ngón trỏ), đặt
dưới ngón Hư Không luân (ngón cái), nhưng cách ngón Hư
Không luân chừng bằng hạt lúa mạch. Đó là Hà Da Yết Rị Phạ Ấn. Chân ngôn của ấn
ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, khư đà da, bạn xà tát phá trá dã, sa ha -
Namaḥ
samantabuddhānāṃ, khādaya bhañja sphoṭaya svāhā”).
Kế đó là Mã Đầu (Hayagrīva, Hà Da Yết Rị Phạ) Ấn: Kết Tam-bổ-trá, gập hai ngón trỏ cho móng chạm nhau, đặt dưới gốc
ngón cái, nhưng [hai đầu ngón trỏ cách ngón cái một khoảng bằng hạt lúa mạch, đừng
để chạm nhau. Hai ngón cái dựng thẳng sát nhau, hơi ngửa phần đầu ngón chỗ có
móng tay là được. Chân ngôn: “Khư đà
da” (khādaya, ăn. Ý nói “ăn nuốt các chướng”), “bạn
xà” (bhañja, đánh nát), “tát-phá trá dã sa ha”
(sphoṭaya
svāhā, đánh gõ chướng ấy khiến cho nó vỡ nát tứ tán).
(Kinh) Đồng tiền ấn, thân nhị Thủy luân, Phong luân, dư như quyền. Thị
Địa Tạng Bồ Tát Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha
ha. Tô đá nỗ, sa ha.
(經)同前印,申二水輪風輪,餘如拳,是地藏菩薩印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶訶訶。蘇哆弩。莎 訶。
(Kinh: Giống như ấn trên, duỗi hai ngón Thủy luân (áp út) và
Phong luân (trỏ), các ngón khác nắm thành quyền. Đó là ấn của Địa Tạng Bồ Tát.
Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha. Tô đá nỗ, sa
ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, ha ha ha sutanu svāhā”).
Kế đó là Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha) Ấn. Chắp tay bằng cách đan ngón tay vào tay, nắm thành quyền, duỗi ngón
út và áp út[6]
sao cho đầu chúng chạm nhau (như hình ngọn núi), hai ngón cái đặt sát nhau, dựng
thẳng. Chân ngôn: “Ha ha ha”
(lìa ba cái nhân, tức là cái nhân của Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát. Các
chân ngôn ở đây đều là tự nói hạnh đức của Bổn Tôn. [Chân ngôn này] là tổng trì
công đức của Địa Tạng Bồ Tát vậy). “Tô
đá nỗ” (Sutanu, diệu thân. Do nội thân cực tịnh, nên gọi là Diệu Thân, tức
Pháp Thân). “Sa ha”. “Hành giả Du Già trụ” tức là hành giả
kết ấn như thế.
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ tác không trung
hiệp chưởng, Hỏa luân, Thủy luân giao kết tương trì, dĩ nhị Phong luân trí nhị
Hư Không luân thượng do như câu hình, dư như tiền, thị thánh giả Văn Thù Sư Lợi
Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu ma ra, tỳ mục
để bát tha tất-thể đa, sa-mạt ra sa-mạt ra, bát-ra để nhiên, sa ha.
(經)復以定慧手作空中合掌,火輪水輪交結相持,以二風輪置二虛空輪上猶如鉤形,餘如前,是聖者文殊師利印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係係俱摩囉。毘目底鉢他悉體多。娑末囉娑末囉。鉢囉底然。莎訶。
(Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ để làm không trung hiệp chưởng,
các ngón Hỏa (giữa) và Thủy (áp út) đan chéo, vịn nhau, dùng hai ngón Phong (trỏ)
đặt trên ngón Hư Không (ngón cái) như hình cái móc. Các ngón khác như trước. Đó
là ấn của thánh giả Văn Thù Sư Lợi. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, hệ hệ câu ma ra, tỳ mục để bát tha tất-thể đa, sa-mạt ra sa-mạt ra,
bát-ra để nhiên, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he kumāra vimuktipathasthita smara
smara pratijñāṃ svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Văn
Thù (Mañjuśrī). Trước hết, kết Tam-bổ-trá, dùng hai ngón giữa đè ngược lên hai ngón áp
út, cong hai ngón trỏ để bấm lấy đầu ngón cái là thành ấn. Chân ngôn: “Hệ hệ” (chữ Ha trong ấy là cái nhân,
[nói hai chữ Hệ] hàm ý “lìa hai cái nhân”, tức là vượt thoát cảnh giới Nhị Thừa.
Đó cũng là âm thanh triệu tập). “Câu
ma ra” (kumāra, đồng tử. Phá hoại các ma thì cũng gọi là Câu Ma Ra). “Tỳ mục để” (vimukti, giải thoát).
“Bát tha tất-thể đa” (pathasthita, đạo. Ý nói: Trụ nơi nào? Chính là trụ trong đạo giải thoát). “Tát-mạt ra” (smara, niệm), “tát-mạt ra”
(smara, niệm). “Bát-ra để nhiên”
(pratijñāṃ, sở nguyện xưa kia. Nay nghĩ đến sở nguyện xưa kia. Sở nguyện xưa kia của
tôn giả là đều độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ chẳng khác gì ta. Vì thế,
nay hãy nên nghĩ nhớ lời thề xưa kia).
(Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, nhi cử Phong luân do như câu hình. Thị
Quang Võng Câu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu
mạt ra, ma da yết đa sa phạ bà phạ tất thể đa. Sa ha.
(經)以三昧手為拳,而舉風輪猶如鉤形,是光網鉤印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係係俱末羅。摩耶揭多娑嚩婆嚩悉體多。莎訶。
(Kinh: Dùng tay tam-muội nắm thành quyền, giơ
ngón Phong luân (trỏ) lên ví như hình cái móc câu. Đó là Quang Võng Câu Ấn.
Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu mạt ra, ma da
yết đa sa phạ bà phạ tất thể đa. Sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, he he kumāra
māyagata svabhāva-sthita svāhā”).
Kế đó là ấn của Quang Võng
Bồ Tát (Jālinīprabha). Dùng tay trái nắm thành quyền, duỗi ngón trỏ, hơi cong đốt thứ ba, sao
cho giống như hình cái móc câu, ngón cái dựng lên, đè lên ngón giữa là thành ấn.
“Hệ hệ câu mạt la” (he he kumāra, giải thích như
trên), “ma da yết đa” (māyagata.
Ma-da là huyễn, yết-đa là biết, tức “biết hết thảy các pháp
như huyễn”). “Sa phạ” (sva, tánh). “Bà phạ tất-thể đa”
(bhāvasthita, trụ, tức là “biết rõ các pháp đều như huyễn, liền trụ trong bổn tánh, thật
tánh của các pháp”).
(Kinh) Tức như tiền ấn, nhất thiết luân tướng giai thiểu khuất chi. Thị
Vô Cấu Quang Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ câu ma
la, phì chất đa ra nghiệt để câu ma ra, ma nỗ sa mạt ra, sa ha.
(經)即如前印,一切輪相皆少屈之,是無垢光印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係俱摩羅。肥質多囉蘗底俱摩囉。麼弩娑末囉。莎訶。
(Kinh: Giống như ấn trước, hết thảy các ngón tay đều hơi cong.
Đó là Vô Cấu Quang Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ
câu ma la, phì chất đa ra nghiệt để câu ma ra, ma nỗ sa mạt ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he
kumāra vicitra-gatikumāra [pratijñā]m anusmara
svāhā”).
Kế đến là ấn của ngài Vô Cấu Quang (Vimalaprabha). Duỗi hết
thảy các ngón trong tay trái, đều hơi cong đốt thứ ba thì thành ấn (ngón
cái cũng dựng lên, tợ hồ hơi cong mà thôi! Chân ngôn: “Hệ câu ma la” (he kumāra, giống như trước). “Phì chất đa-la” (vicitra, các thứ), “nghiệt để” (gati, hạnh. Ý nói các thứ hạnh) “câu ma ra” (kumāra, tức là do bổn thệ
nguyện sẽ phổ môn thị hiện đủ loại thân. Dùng đủ thứ hạnh để lợi ích hết thảy,
hoặc hiện thân đồng tử, hoặc hiện thân tráng niên, hoặc thân người già cả). “Ma nỗ sa-mạt ra” ([pratijñā]m anusmara, nhớ lại
nguyện xưa kia. Thánh giả xưa kia đã đối trước đức Phật lập nguyện ấy. Đã nguyện
như thế, hãy nên nghĩ nhớ).
(Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ vi quyền, kỳ Phong, Hỏa luân tương hợp vi nhất thư chi, thị
Kế Thất Ni Đao Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu
ma lê kê, na da nhã na tát mạt ra, bổ la để nhiên, sa ha.
(經)如前,以智慧手為拳,其風火輪相合為一舒之,是繼室尼刀印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係係俱摩梨鷄。娜耶若那薩末羅。補羅底然。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay phải nắm thành
quyền. Các ngón Phong (trỏ) và Hỏa (ngón giữa) hợp với nhau thành một, duỗi ra.
Đó là Kế Thất Ni Đao Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hệ hệ câu ma lê kê, na da nhã na tát mạt ra, bổ la để nhiên, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he
kumārike dayājñānaṃ smara pratijñāṃ svāhā”).
Kế đó là Kế Thất Ni (Keśinī) Ấn. Trước hết, dùng tay phải nắm
thành quyền, duỗi ngón giữa và ngón trỏ sao nó đứng thẳng, ngón cái cũng dựng
lên, đặt ngang [các ngón kia]. Chân ngôn: “Hệ hệ” (He he, như trên), “câu ma lê kê” (kumārike, đồng tử gọi theo giống cái, đây
cũng là tam-muội của ngài Văn Thù). “Na
da nhã na” (dayājñānaṃ, ban cho ước nguyện), “tát-mạt ra” (smara, nhớ khi xưa), “bổ-la để nhiên” (pratijñāṃ, bổn nguyện. Ý nói: Vị tôn giả này đạt được nguyện thù thắng nơi đức Văn Thù.
Diệu nguyện vốn có ấy, nay cũng trao cho tôi).
(Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thân Hỏa luân do như kích
hình. Thị Ưu Ba Kế Thất Ni Kích Ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, tần đà da nhã na. Hệ câu ma rị kê, sa ha.
(經)如前,以智慧手為拳,而申火輪猶如戟形,是優波髻室尼戟印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。頻馱耶若那。係俱摩哩鷄。莎訶。
(Kinh: Như trên, dùng tay trí huệ nắm thành quyền,
duỗi ngón Hỏa (giữa) như hình cái kích. Đó là Ưu Ba Kế Thất Ni Kích Ấn. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tần đà da nhã na. Hệ câu ma rị
kê, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, bhindayājñānaṃ he kumārike svāhā”).
Kế đó là Ưu Ba Kế Thất Ni (Upakeśinī) Ấn. Trước hết, dùng tay
phải nắm thành quyền. Duỗi thẳng ngón giữa ra, ngón cái cũng dựng lên.
Theo lệ thường, ngón cái đặt nằm ngoài nắm đấm, nhưng duỗi thêm ngón giữa. Chân
ngôn: “Tần đà da” (Bhindayā, mặc), “nhã na” (jñānaṃ, trí. Cuối câu trước có âm A, nối liền với câu này, tức là Vô Trí. Ý nói:
Dùng diệu huệ để thấu suốt vô trí, đạt tới Thật Tướng). “Hệ” (tiếng gọi), “câu
ma rị kê” (kumārike, trẻ gái, cũng là tam-muội, dùng âm thanh giống cái mà gọi
tên).
(Kinh) Như tiền, dĩ tam-muội thủ vi quyền, nhi thư Thủy luân, Địa luân,
thị Địa Huệ Tràng Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ tát
mạt ra nhã na kế đổ, sa ha.
(經)如前,以三昧手為拳,而舒水輪地輪,是地慧幢印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係薩末囉若那計覩。莎訶。
(Kinh: Như trong phần trên, dùng tay tam-muội
(tay trái) nắm thành quyền, duỗi các ngón Thủy (áp út) và Địa (út), đó là Địa
Huệ Tràng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ tát mạt
ra nhã na kế đổ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he smara jñānaketu svāhā”).
Kế đó là Địa Huệ (Vasumatī) Tràng Ấn. Trước hết, dùng tay trái nắm thành quyền (cũng là ngón cái nằm
nên ngoài quyền), duỗi hai ngón út và áp út thì thành ấn. “Hệ” (he, từ ngữ tán thán), “tát-mạt ra” (smara, ức niệm), “nhã na” (jñāna, trí. Ý nói: “Hãy nên nhớ trí ấy”). “Kế
đổ” (ketu, tràng. Do vậy, Diệu Huệ Tràng dẹp tan các ma, nay hãy nên
nghĩ nhớ, khiến cho ta cũng giống như thế).
(Kinh) Dĩ Huệ thủ vi quyền, nhi thư Phong luân do như câu hình, thị Thỉnh
Triệu Đồng Tử Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca rị
sái dã tát vãm câu rô, a nhiên củ mang ra tả, sa ha.
(經)以慧手為拳,而舒風輪猶如鉤形,是請召童子印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿迦哩灑也薩鑁俱嚕。阿然矩忙囉寫。莎訶。
(Kinh: Dùng tay Huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Phong
(trỏ) như hình móc câu. Đó là Thỉnh Triệu Đồng Tử Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, a ca rị sái dã tát vãm câu rô, a nhiên củ mang ra tả, sa
ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
ākarṣaya sarvān kuru ājñāṃ kumārasya svāhā”).
Kế đó là Triệu Thỉnh Ấn (Ākarṣaṇī). Năm vị Bồ Tát trên đây đều là sứ giả của đức Văn Thù. Tay phải nắm thành
quyền (cũng để ngón cái ra ngoài), gập ngón trỏ như hình móc câu, đặt gần đầu
ngón cái, nhưng không chạm nhau là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “a ca rị-sái dã” (ākarṣaya, chiêu vời, triệu thỉnh, nhiếp triệu, đều có nghĩa là “móc đến nơi đây”), “tát vãm câu rô” (sarvān kuru, làm hết thảy, trao cho hết thảy, tức là như chuyện do tôn giả Văn Thù triệu
vời, sẽ đều thực hiện), “a nhiên củ
mang ra tả” (ājñāṃ kumārasya, chỉ thân của vị thánh giả ấy).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, thư nhị Phong luân, khuất tiết tương hợp, thị Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vi tam-muội-da nễ duệ, sa
ha.
(經)如前,以定慧手為拳,舒二風輪屈節相合,是諸奉教者印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿微三昧耶儞曳。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, duỗi
hai ngón Phong (trỏ), co đốt ngón tay cho [hai ngón trỏ] châu đầu vào nhau. Đó
là ấn của các vị Phụng Giáo. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, a vi tam-muội-da nễ duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ
vismayanīye svāhā”).
Kế đó là các vị Phụng Giáo
(cũng là người tuân phụng giáo pháp của đức Văn Thù, hơi khác với sứ giả). Trước
hết, kết nội tương xoa hiệp chưởng quyền (đan các ngón tay vào nhau, hợp thành
quyền, các ngón nằm trong lòng bàn tay). Duỗi hai ngón trỏ cho chụm đầu ngón,
cong lóng thứ ba, hai ngón cái cũng dựng lên đặt ngang nhau. Xét theo chân ngôn,
“a” (āḥ, hành. Bên cạnh có cái chấm, thể hiện
hình dáng phẫn nộ). “Vi tam-muội-da nễ
duệ” (vismayanīye, mãn nguyện, có thể khiến cho hết thảy các việc hy hữu không gì chẳng
thành, có thể khiến cho chuyện hy hữu lạ lùng đều được viên mãn. Âm Duệ nhằm chỉ
vị tôn giả ấy).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền,
nhi thư Hỏa luân, khuất đệ tam tiết, thị Trừ Nghi Quái Kim Cang Ấn. Bỉ chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phì mạt để chế đà ca, sa ha.
(經)如前,以定慧手為拳而舒火輪,屈第三節,是除疑怪金剛印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。肥末底製馱迦。莎訶。
(Kinh:
Như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa, cong đốt thứ ba,
đó là Trừ Nghi Quái Kim Cang Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, phì mạt để chế đà ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vimaticchedaka svāhā”).
Kế đó là Kiêu Đô Hạt La Bồ
Tát (Kautūhala, phương này dịch nghĩa thành Trừ Nghi, hoặc Trừ Cấu. Như mọi người đều có
những nỗi ngờ vực chẳng thể giải quyết, vị Bồ Tát này liền có thể đến chỗ họ để
đoạn lưới nghi cho họ. Do có thể làm bạn chẳng thỉnh, thường đoạn nghi hoặc cho
hết thảy chúng sanh, cho nên Ngài có tên như thế). Ấn này kết bằng cách nội
tương xoa quyền hiệp chưởng (các ngón tay đan vào nhau, nắm thành quyền, sao
cho các ngón đều nằm trong lòng bàn tay), duỗi hai đầu ngón giữa sao cho chạm
nhau, cong lóng thứ ba thì thành ấn (hai ngón cái theo lệ thường, dựng thẳng ở
bên ngoài quyền). “Phì mạt để”
(Vimati, vô huệ, tức là “không gì chẳng biết”), “chế đà ca” (chedaka, cắt đứt. Cắt đứt vô tri, khiến cho trí huệ
sanh khởi. Đó cũng là ý nghĩa “cắt đứt”, lại còn có nghĩa là “đoạn hoại”, ví
như ý nghĩa “Kim Cang Bát Nhã có thể đoạn” vậy).
(Kinh) Cử Tỳ Bát Xá Na tý, tác Thí Vô Úy thủ, thị Thí Vô Úy
Giả Ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, a bà diễn đà đà, sa ha.
(經)舉毘鉢舍那臂,作施無畏手,是施無畏者印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿婆演馱馱。莎訶。
(Kinh: Nâng cánh tay Tỳ Bát Xá Na (tay trái) để làm tay thí vô
úy. Đó là ấn của bậc Thí Vô Úy. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
a bà diễn đà đà, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ abha-yaṃdada svāhā”).
Kế đến là Thí Vô Úy Bồ Tát
(Abhayaṃdada) Ấn. Kết Thí Vô Úy Thủ, trong Du Già (giống như ấn của Phật Thích Ca), [tức
là] duỗi cánh tay hướng lên trên, sao cho lòng bàn tay hướng ra ngoài là thành ấn.
Ấn này nêu bày hành năm pháp, ngón út là Tín, ngón áp út là Tấn, ngón giữa là
Niệm, ngón trỏ là Định, ngón cái là Huệ. Chư Phật, Bồ Tát dùng thân và miệng để
thuyết pháp, nay ấn này biểu thị ngũ căn lực vậy. Xét theo chân ngôn, “a bà diễn đà đà” (abhayaṃdada) chính là vô úy thí. Dùng pháp gì để bố thí sự không sợ hãi [cho chúng
sanh]? Chính là trụ trong môn chữ A, lìa hết thảy sanh. Tôn giả đã mãn sở nguyện,
chúng con chưa đạt được, nguyện hãy thí cho con và hết thảy chúng sanh.
(Kinh) Như tiền, thư trí thủ nhi thượng cử chi, thị Trừ Ác Thú Ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a phiếu đà ra noa, tát đỏa đà
đôn, sa ha.
(經)如前,舒智手而上舉之,是除惡趣印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿驃馱囉拏薩埵馱敦。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, duỗi tay trí (tay phải)
nhưng nâng lên, đó là Trừ Ác Thú Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, a phiếu đà ra noa, tát đỏa đà đôn, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
abhyuddharaṇi sattvadhātuṃ, svāhā”).
Kế đến là Trừ Ác Thú (Apāyaṃjaha) Ấn. Giống như trên, duỗi tay phải, sao cho bàn tay hướng lên phía trên,
nhưng giơ cánh tay lên phía trên thì thành ấn. Xét theo chân ngôn, “a phiếu đà ra noa” (abhyuddharaṇi, nâng lên), “tát đỏa đà đôn” (sattvadhātuṃ, chúng sanh giới). Điều này có nghĩa là do hết thảy chúng sanh giới từ vô
thỉ đến nay, vì vô minh mà thường ở trong tam ác đạo. Nay bậc thánh đã đắc ngũ
lực như thế, nguyện nâng đỡ khiến cho họ đạt lên thanh tịnh. Vì cớ sao vậy? Tôn
giả đã tự có thể dẹp trừ, thoát ra, cũng nên nâng nhắc hết thảy chúng sanh giới.
(Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ yểm tâm, thị Cứu Hộ Huệ Ấn. Bỉ chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ma ra bát ra để nhiên, sa
ha.
(經)如前,以慧手掩心,是救護慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係摩訶摩訶。娑麼囉鉢囉底然。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải) che tim; đó là Cứu
Hộ Huệ Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ma
ra bát ra để nhiên, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, he mahāmaha smara
pratijñāṃ svāhā”).
Kế đến là ấn của Cứu Hộ Huệ
Bồ Tát (Paritrāṇāśayamati).
Giống như trên, duỗi tay đặt nơi tim, nên dùng lòng bàn tay
hướng về thân mình để che tim, ngón cái hơi dựng lên hướng về phía trước. Xét đến
chân ngôn, “hệ” (lìa nhân, cũng
có nghĩa là “kêu gọi triệu tập, răn nhắc”). “Ma ha ma ha” (mahāmaha, lớn nhất trong các thứ lớn, tôn trọng
nhất trong các thứ tôn trọng). “Sa-ma
ra bát-ra để nhiên” (smara pratijñāṃ, bổn nguyện. Bổn nguyện trừ hết thảy
khổ. Do trừ khổ, nên nói là “cứu giúp,
bảo vệ”. Nay gọi tên Ngài, khiến cho Ngài nhớ tới bổn nguyện mà cứu vớt,
thủ hộ hết thảy).
(Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ tác trì hoa trạng, thị Đại Từ Sanh Ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ chế đố ốt nghiệt đa, sa
ha.
(經)如前,以慧手作持華狀,是大慈生印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩制妬嗢蘗多。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải)
làm ra vẻ như đang cầm hoa. Đó là Đại Từ Sanh Ấn. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, tát phạ chế đố ốt nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, svacittodgata svāhā”).
Kế đó là Đại Từ Sanh Bồ Tát
(Mahāmaitryabhyudgata)
Ấn. Giống như trên, làm Vô Úy Thí Thủ, dùng ngón cái và ngón
trỏ bấm vào nhau, như dáng vẻ người cầm hoa, ba ngón kia dựng lên hướng về phía
trước là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “tát
phạ” (sva, chính mình), “chế đố”
(citto, tâm), “ốt nghiệt đá”
(odgata, sanh. Ý nói: Điều này sanh từ tự tâm, chẳng do điều gì khác mà đạt được,
nên gọi là Đại Từ. Nghĩa là sanh từ cái tâm tự tánh thanh tịnh, chẳng sanh từ
cái tâm đại chủng[7],
nên gọi là Tự Tâm Sanh).
(Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ phú tâm, sảo khuất Hỏa luân, thị Bi Niệm giả
ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa mạt lô nật đa,
sa ha.
(經)如前,以慧手覆心,稍屈火輪,是悲念者印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迦盧拏末盧眤多。莎訶。
(Kinh:
Như trên, dùng tay Huệ (tay phải) che tim, hơi cong ngón Hỏa luân (ngón trỏ),
đó là ấn của đấng Bi Niệm. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
ca lô noa mạt lô nật đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, karuṇāmṛḍita svāhā”).
Kế đó là ấn của Bi Niệm Bồ
Tát (Karuṇāmṛḍita). Giống như trước, duỗi tay che tim, gập ngón giữa chống vào tim là thành
ấn. Xét theo chân ngôn thì “ca lô noa”
(karuṇā, bi) “mạt lô” (mṛ, giới), “nật đa” (ḍita, thượng niệm). Ý nói: Bổn nguyện của vị này là trừ hết thảy các khổ, nay
hãy nên nghĩ nhớ. Nhưng danh xưng của vị Bồ Tát này [được dịch] là Bi Niệm, vẫn
chưa trọn hết ý. Ý nghĩa nơi tên của Ngài là vị Bồ Tát này thuộc vào lòng Bi.
Như người bị kẻ khác nắm giữ chẳng được tự tại, vị Bồ Tát này thân tâm đều thuộc
về Bi, do được lòng Bi duy trì, nên chẳng được tự tại. Lại như kẻ làm lao dịch
cho nhà vua, chẳng được tự tại, vị Bồ Tát này cũng thế, thường bị lòng Bi lôi
kéo, chẳng được tự tại. Do ý nghĩa này, hãy nên nghĩ tới bổn nguyện cứu hết thảy
chúng sanh.
(Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ tác Thí Nguyện tướng, thị Trừ Nhất Thiết
Nhiệt Não ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ phạ ra đà,
phạ ra bổ ra bổ đa, sa ha.
(經)如前,以慧手作施願相,是除一切熱惱印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係嚩囉馱。嚩囉補囉補多。莎訶。
(Kinh:
Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải) kết Thí Nguyện ấn, đó là ấn của ngài Trừ
Nhất Thiết Nhiệt Não. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ
phạ ra đà, phạ ra bổ ra bổ đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he varada varaprāpta svāhā”).
Kế đó là ấn của Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ Tát (Sarvadāhapraśāmin). Kết Dữ Nguyện
Thủ (tay kết ấn Dữ Nguyện) chính là ấn này, tức là duỗi tay phải ngửa lên, rủ
tay xuống, như ấn của Bảo Sanh Phật trong Du Già. Xét theo chân ngôn, “hệ” (he, ý nghĩa như trong phần trên),
“phạ ra đà” (varada, ban cho ước
nguyện. Do là pháp lìa nhân nên có thể thỏa nguyện của hết thảy chúng sanh). “Phạ ra bổ-ra bổ-đa” (varaprāpta, trước đó đã đạt được.
Nếu chẳng trước đó đã đạt được sở nguyện, sao có thể ban cho người khác ư? Do
trước đó điều mong nguyện đã đều vẹn thỏa, nay nhớ tới bổn nguyện, bèn ban cho hết thảy chúng sanh, hòng trừ hết thảy nhiệt não. Vì cớ sao vậy? Bổn thệ
nguyện của tôn giả là dốc chí cầu Phật đạo, nay Ngài đã đạt được. Vì thế, phải
nên nhớ tới bổn nguyện, rộng độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đều nhập Phật
đạo).
(Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ như chấp trì Chân Đà Ma Ni bảo hình, thị Bất
Tư Nghị Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ a xa
bả lê bổ ra ca, sa ha.
(經)如前,以智慧手如執持真多摩尼寶形,是不思議慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩阿奢跛梨補囉迦。莎訶。
(Kinh: Như trên, dùng tay Huệ (tay phải) làm ra
vẻ như đang cầm nắm báu Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu). Đó là ấn của ngài Bất
Tư Nghị Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ a xa
bả lê bổ ra ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvāśāparipūraka svāhā”).
Kế đó là ấn của Bất Tư Nghị
Huệ Bồ Tát (Acintyamati). Dùng tay Thí Vô Úy, các ngón cái và trỏ bấm vào nhau như dáng vẻ đang cầm
châu (bàn tay nên nghiêng như người khép các ngón tay để nắm lấy châu. Châu hướng
về phía trên. Ngón giữa lại hơi xòe ra hướng vào trong, hai ngón kia đều dựng
lên). “Tát phạ a xa” (sarvāśā, hết thảy các nguyện), “bả lê bổ
ra ca” (paripūraka,
thỏa mãn, ý nói: Khiến cho thỏa mãn các nguyện thù thắng của hết thảy chúng
sanh, giống như Như Ý Châu).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, linh nhị Hỏa luân khai phu,
thị Địa Tạng kỳ ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha
ha, vi sa ma duệ, sa ha.
(經)如前,以定慧手為拳,令二火輪開敷,是地藏旗印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶訶訶微娑麼曳。莎訶。
(Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành
quyền, duỗi xòe hai ngón Hỏa luân (ngón giữa); đó là ấn cờ của đức Địa Tạng.
Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, vi sa ma duệ,
sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
ha ha ha vismaye svāhā”).
Kế đó là ấn cờ của Địa Tạng
Bồ Tát (Kṣitigarbha). Trước hết, các ngón tay đan vào nhau để tạo thành quyền, các ngón gập
vào lòng bàn tay, duỗi hai ngón giữa dựng lên, khiến cho đầu hai ngón cách nhau
khoảng một tấc là ấn thành (hai ngón cái cũng dựng sát nhau như thường lệ). Kế
Đổ (Ketu) nghĩa là “cờ”, ấn này
giống như lá cờ vậy. Xét theo chân ngôn, “ha
ha ha” (lìa ba cái nhân, ý nghĩa như trong phần trên), “vi sa-ma duệ” (vismaye, hy hữu. Hết
thảy hữu tình thường khổ não vì ngã tưởng. Cắt đứt sạch ý niệm ấy, ngã tưởng liền
trừ. Đó là điều hy hữu, cũng có nghĩa là hiếm lạ).
(Kinh) Huệ thủ vi quyền, nhi thư tam luân, thị Bảo Xứ ấn. Bỉ chân ngôn
viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ha.
(經)慧手為拳而舒三輪,是寶處印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係摩訶摩訶。莎訶。
(Kinh: Tay Huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi
ba ngón, đó là ấn của ngài Bảo Xứ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he mahāmaha svāhā”).
Kế đó là ấn của Bảo Xứ Bồ Tát (Ratnākara). Tay phải nắm thành
quyền (để ngón cái ra ngoài),
liền duỗi các ngón út, áp út, và ngón giữa dựng lên là thành ấn. “Hệ” (he, ý nghĩa như trong phần trên
như trên), “ma ha ma ha” (mahāmaha, lớn nhất trong các thứ to lớn). Sở dĩ Ngài có tên là Bảo Xứ, giống như chất
báu sanh trong biển, nên gọi là Bảo Xứ. Như báu ở trong biển, do biển mà có,
cho nên gọi tên như thế.
(Kinh) Dĩ thử Huệ thủ thư kỳ Thủy luân, thị Bảo Thủ Bồ Tát ấn. Bỉ chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát nộ ốt bà phạ, sa ha.
(經)以此慧手舒其水輪,是寶手菩薩印 。彼真言曰:
南麼三曼多勃馱喃。囉怛怒嗢婆嚩。莎訶。
(Kinh: Dùng tay Huệ (tay phải) duỗi ngón Thủy
(ngón áp út); đó là ấn của Bảo Thủ Bồ Tát. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, ra đát nộ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, ratnodbhava svāhā”).
Kế đó là ấn của Bảo Thủ Bồ
Tát (Ratnapāṇi). Tay phải nắm thành quyền, dùng ngón cái đè lên các ngón khác, duỗi thẳng
ngón áp út là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “ra đát nộ” (ratno, chất báu), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh ra, [hàm ý] “chất báu phát xuất từ tay”. Ý nói: Thánh giả sanh từ chất báu,
từ chất báu gì mà sanh? Chính là từ báu Bồ Đề tâm mà sanh).
(Kinh) Dĩ Định Huệ thủ tác phản tương xoa hiệp chưởng, Định thủ Không
luân, Huệ thủ Địa luân tương giao, Bát Nhã ư tam-muội diệc phục như thị. Dư như
bạt-chiết-la trạng, thị Trì Địa ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, đạt ra ni đạt ra, sa ha.
(經)以定慧手作返相叉合掌,定手空輪、慧手地輪相交,般若於三昧亦復如是,餘如跋折羅狀,是持地印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。達囉尼達囉。莎訶。
(Kinh: Chắp hai tay Định và Huệ đâu lưng, các ngón chéo nhau,
ngón Không (ngón cái) của tay Định (tay trái) và ngón Địa (ngón út) của tay Huệ
(tay phải) giao nhau, tay Bát Nhã (tay phải) đối với tay tam-muội (tay trái)
cũng giống như thế. Các ngón khác như hình chày kim cang. Đó là ấn của ngài Trì
Địa. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ra ni đạt ra, sa
ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ,
dharaṇiṃdhara svāhā).
Kế đó là ấn của ngài Trì Địa
(Dharaṇiṃdhara).
Đâu hai lưng bàn tay, các ngón chéo nhau, tay phải ngửa, tay trái úp, đầu các
ngón đè lên nhau, tức là ngón cái và ngón út áp vào nhau (tức là ngón cái và
ngón út của tay trái hướng lên trên, ngón cái và ngón út của tay phải hướng xuống
dưới, đè lên tương ứng, tức là ngón cái của tay phải đè lên ngón út của tay trái,
ngón út của tay phải đè lên ngón cái của tay trái). Xét theo chân ngôn, “đạt ra ni” (dharaṇiṃ là đất.
Do đất có thể gìn giữ hết thảy các vật, nên gọi tên như thế), “đạt ra” (dhara là “trì’ (nắm giữ,
duy trì). Trì địa vị của chư Phật, gánh vác chúng sanh, nên coi như là đất, cũng khiến cho chúng sanh đều đạt được địa vị ấy
mà gọi tên như thế).
(Kinh) Như tiền, tác ngũ cổ kim cang kích hình, thị Bảo Ấn Thủ ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát na niết thệ đa, sa ha.
(經)如前,作五股金剛戟形,是寶印手印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉怛娜涅誓多。莎訶。
(Kinh: Như trên, tạo thành hình kim cang kích năm nhánh, đó là ấn
của ngài Bảo Ấn Thủ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra
đát na niết thệ đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ratnanirjāta svāhā”).
Kế đó là ấn của Bảo Ấn Thủ
Bồ Tát (Ratnamudrāhasta). Trước hết, hai tay đan vào nhau tạo thành quyền, các ngón hướng ra
ngoài. Duỗi hai ngón giữa sao cho đầu ngón đều dựng lên. Kế đó, duỗi ngón trỏ
và ngón cái, cong hai ngón trỏ hướng về lưng hai ngón giữa, nhưng đừng cho chạm
vào lưng ngón giữa, tạo thành hình dạng như chày kim cang năm nhánh thì ấn
thành. Xét theo chân ngôn, “ra đát
na” (ratna, báu), “niết thệ đa” (nirjāta, sanh. [Ý nói]: Từ chất báu của chư Như Lai mà sanh).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, linh nhất thiết luân tướng hợp. Thị Phát Kiên Cố
Ý ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bạt chiết ra tam bà phạ,
sa ha.
(經)即以此印令一切輪相合,是發堅固意印 。彼真言
曰:南麼三曼多勃馱喃。伐折囉三婆嚩。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, sao cho hết thảy các ngón đều hợp lại.
Đó là ấn của ngài Phát Kiên Cố Ý. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, bạt chiết ra tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vajrasaṃbhava
svāhā”).
Kế đó là ấn của Kiên Cố Ý Bồ
Tát (Dṛḍhādhyāśaya).
[Kết ấn] như hình [chày kim cang] năm nhánh trong phần trước, khiến cho các đầu
ngón tay đều chạm nhau thì ấn thành. Xét theo chân ngôn, “bạt chiết ra tam bà phạ”
(vajra-saṃbhava,
sanh từ kim cang, cũng từ trí ấn kim cang bất khả phá hoại mà sanh,
cho nên gọi tên như thế).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ nhị thủ tác Đao, thị Hư Không Vô Cấu Bồ
Tát ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na a nan đa,
ngu giả ra, sa ha.
(經)如前,以定慧二手作刀,是虛空無垢菩薩印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伽伽娜阿難多愚者囉。莎 訶。
(Kinh: Giống như trên, dùng hai tay Định và Huệ làm Đao, đó là ấn
của Hư Không Vô Cấu Bồ Tát. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
già già na a nan đa, ngu giả ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
gaganānantagocara svāhā”).
Kế đó là ấn của Hư Không Vô
Cấu Bồ Tát (Gaganāmala). Làm Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp chưởng), dùng đầu hai ngón trỏ bấm vào nhau,
khiến cho chụm lại là được (giống như Như Lai Đao Ấn). Xét theo chân ngôn, “già già na” (gagana, hư không), “a nan đa” (ananta, vô lượng), “ngu giả ra” (gocara, hạnh. [Ý nói]:
Vô lượng hạnh giống như hư không, nên [Bồ Tát] có tên gọi như thế).
(Kinh) Như tiền Chuyển ấn, thị Hư Không Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chước cật ra phạ lạt để, sa ha.
(經)如前,輪印,是虛空慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。斫吃囉嚩喇底。莎訶。
(Kinh: Giống như ấn Chuyển [Pháp Luân] trong phần trước,
đó
là ấn của ngài Hư Không Huệ. Chân ngôn của Ngài là:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chước cật ra phạ lạt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
cakravarti svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Hư
Không Huệ (Gaganamati),
giống như ấn Chuyển Pháp Luân trong phần trước. Xét theo chân ngôn, “chước cật-ra” (cakra, luân), “phạ lạt-để” (varti, chuyển). Ý nói:
Thánh giả do trước đó đã đắc pháp luân này, nguyện vì hết thảy chúng sanh nên
chuyển pháp luân này.
(Kinh) Như tiền, Thương Khư Ấn, thị Thanh Tịnh Huệ ấn, bỉ chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma tam bà phạ, sa ha.
(經)如前,商佉印,是清淨慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。達磨三婆嚩。莎訶。
(Kinh: Giống như ấn Thương Khư (ấn của ngài Kim
Cang Tỏa) trong phần trước, đó là ấn của ngài Thanh Tịnh Huệ. Chân ngôn của
Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
dharmasaṃbhava svāhā”).
Kế đó là ấn của Thanh Tịnh
Huệ Bồ Tát (Viśuddhamati).
Kết Tam-bổ-trá, cùng gập hai ngón cái vào lòng bàn tay, dùng hai
ngón trỏ đè trên lưng [hai ngón cái] (ngón trỏ cong thành hình khuyên, sao cho
móng tay hướng về nhau là được). “Đạt
ma” (dharma, pháp), “tam bà phạ”
(saṃbhava, sanh). Ý nói: Bồ Tát đạt được tự tại giống như cảnh giới Phật, từ pháp mà
sanh, nên gọi là Pháp Sanh, tức là sanh từ pháp thanh tịnh trong tự tánh vậy.
(Kinh) Như tiền, Liên Hoa ấn, thị Hạnh Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát đàm ma a lại da, sa ha.
(經)如前,蓮華印,是行慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鉢曇摩阿賴耶。莎訶。
(Kinh: Như Liên Hoa ấn trong phần trước; đó là ấn
của ngài Hạnh Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát
đàm ma a lại da, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, padmālaya svāhā”).
Kế đó là ấn của Hạnh Huệ Bồ
Tát (Cāritramati),
giống như Liên Hoa ấn của đức Quán Âm (ngón út và ngón cái bấm vào nhau, sáu
ngón kia [như cánh sen xòe nở]). Xét theo chân ngôn, “bát đàm ma” (padma, hoa sen), “a lại da”
(alaya, tạng. Tức là Bồ Đề tâm. Từ thai tạng mà sanh ra).
(Kinh) Đồng tiền, thanh liên hoa ấn nhi sảo khai phu, thị An Trụ Huệ ấn.
Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhã na ốt bà phạ, sa ha.
(經)同前,青蓮華印而稍開敷,是安住慧印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。若那嗢婆嚩。莎訶。
(Kinh: Giống ấn hoa sen xanh trong phần trước,
nhưng hơi nở to hơn. Đó là ấn của ngài An Trụ
Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhã na ốt bà phạ, sa
ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, jñānodbhava svāhā”).
Kế đó là An Huệ Bồ Tát
(Sthiramati, hoặc còn dịch là Trụ Huệ, cần phải tra cứu thêm). Hai tay đan các
ngón vào nhau, tạo thành quyền, sao cho các ngón đều gập vào lòng bàn tay. Duỗi
hai ngón trỏ dựng lên, sao cho đầu ngón cách nhau đôi chút, đừng chạm nhau là
thành ấn (hai ngón cái cũng dựng sát nhau). Ấn này tương tự ấn của Đa La Bồ
Tát, nhưng tách ra ít hơn (đó là chỗ khác với ấn trước). Xét theo chân ngôn, “nhã na” (jñāno, trí), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh. [Hàm ý]: Từ trí
mà sanh).
(Kinh) Như tiền, dĩ nhị thủ tương hợp, nhi khuất Thủy luân tương giao,
nhập ư chưởng trung, nhị Hỏa luân, Địa luân hướng thượng, tương trì, nhi thư
Phong luân khuất đệ tam tiết, linh bất tương trước, do như khoáng mạch. Thị Chấp
Kim Cang ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ,
ma ha lô sắt noa, hồng.
(經)如前,以二手相合,而屈水輪相交入於掌中,二火輪地輪向上相持,而舒風輪屈第三節令不相著猶如穬麥,是執金剛印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。戰荼摩訶盧瑟拏吽。
(Kinh: Như trên, hai tay hợp lại, cong ngón Thủy
(áp út) chéo
nhau, gập vào lòng bàn tay, hai ngón Địa (út) và Hỏa
(giữa) hướng lên trên, chạm nhau, duỗi hai ngón Phong (trỏ), cong đốt thứ ba,
nhưng đầu chúng chẳng chạm nhau, mà cách nhau chừng một hạt lúa mạch. Đó là ấn
của ngài Chấp Kim Cang. Chân ngôn của Ngài là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết
ra nạn, chiến đồ, ma ha lô sắt noa, hồng - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, caṇḍamahāroṣaṇa
hūṃ).
Kế đó là Chấp Kim Cang (Vajradhara). Giống như ấn Ngũ Cổ trong phần trước, hai ngón trỏ cách đốt trên của
ngón giữa chừng một hạt lúa mạch là được. Xét theo chân ngôn, “chiến đồ” (caṇḍa. Chữ Chiến có âm Giá (Ca)
có nghĩa là sanh tử, ý nói “lìa sanh tử”.
Trên đó, có một cái chấm Đại Không, ngụ ý: Sanh tử giống như Đại Không. “Đồ” có nghĩa
là kẻ đối địch. Ví như lìa sanh tử, bằng với Đại Không; do vậy, chẳng ai có thể
đối địch. Hiểu theo ý nghĩa của cả câu thì Chiến Đồ là “bạo ác”). “Ma ha lô sắt
noa” (mahāroṣaṇa, đại
phẫn nộ. Như trên đã nói, không ai có thể đối địch, cho nên phẫn nộ). “Hồng” (hūṃ, đọc âm dài, có cùng ý
nghĩa với ba món giải thoát trong phần trên). Dùng pháp như trên để khiến cho
chúng sanh sợ hãi, lìa sanh tử, đạt được ba môn giải thoát.
(Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Không luân, Địa luân khuất nhập chưởng trung.
Thị Mang Mãng Kê ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
đát lật trá, đát lật trá, nhã diễn để, sa ha.
(經)如前印,以二空輪地輪屈入掌中,是忙莽雞印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。怛㗚吒怛㗚吒。若衍底。莎訶。
(Kinh: Như ấn trước, dùng hai ngón Không (cái)
và Địa (út) gập vào lòng bàn tay. Đó là ấn của ngài Mang Mãng Kê. Chân ngôn của
Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, đát lật trá, đát lật trá, nhã diễn để, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, triṭ triṭ
jayanti svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Mang
Mãng Kê (Māmakī). Giống
như Ngũ Cổ Kim Cang (chày kim cang năm nhánh) trong phần trước, hai ngón cái và
hai ngón út đều gập vào lòng bàn tay, cũng là phải đè lên trái. Các ngón đan
nhau gập vào lòng bàn tay giống như trước, nhưng các ngón giữa và trỏ tạo thành
hình kim cang (vị này là Kim Cang Mẫu). “Đát lật trá đát lật trá” (triṭ triṭ,
trong ấy có nhiều âm, tức là bình đẳng giống như lý Như Như. Đó là tam-muội, là
lìa ngã mạn. Trụ trong Như Như ấy, tất cả ngã mạn tự nhiên chẳng
có. Lại nói thêm, từ ngữ này hàm nghĩa “tối
cực”). “Nhã diễn để” (Jayanti, thù thắng, ý nói: Dùng
pháp Như Như vô ngã để hàng phục hết thảy các chướng nạn,
khiến cho chúng kinh hoảng mà hàng phục, tức là ý nghĩa “chiến thắng” vậy).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ chư luân phản xoa, tương củ hướng ư tự
thể nhi toàn chuyển chi, Bát Nhã không luân gia tam-muội Hư luân, thị Kim Cang
Tỏa ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng bạn đà bạn
đà, mẫu trá dã, mẫu đà dã, phạt chiết rô đà phệ. Tát phạ đát ra bát ra đê ha
đê, sa ha.
(經)如前,以定慧手諸輪返叉,相糺向於自體而旋轉之,般若空輪加三昧虛輪,是金剛鎖印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。吽畔陀畔陀。母吒也母陀也。伐折嚕馱吠。薩嚩怛囉鉢囉低訶低。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, đan chéo các ngón
của tay Định và Huệ ngược lưng nhau, hướng vào thân mình mà xoay chuyển, [sao
cho] ngón Không (ngón cái) của tay Bát Nhã (tay phải) đè lên ngón Hư Không
(ngón cái) của tay tam-muội (tay trái). Đấy là ấn của ngài Kim Cang Tỏa. Chân
ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng bạn đà bạn đà, mẫu
trá dã, mẫu đà dã, phạt chiết rô đà phệ. Tát phạ đát ra bát ra đê ha đê, sa ha
- Namaḥ
samantavajrāṇāṃ, hūṃ bandha bandha moṭaya moṭaya vajrodbhave sarvatrāpratihate
svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Kim
Cang Thương Khư La (Vajraśṛṅkhalā), tức là Kim Cang Liên Tỏa (dây xích kim cang, tức dây xích
trí huệ). Giống như trên, kết Chuyển Pháp Luân ấn, dùng các ngón út, áp út, giữa
và trỏ móc vào nhau, rồi hướng xuống dưới xoay tròn, hướng vào trong mà chuyển.
Kế đó, đặt trước ngực, khiến cho hai ngón trỏ hướng ra ngoài, hai ngón cái cũng
là phải đè lên trái, móc vào nhau. Xét theo chân ngôn, “Hồng” (hūṃ, đọc ba lần, ý nghĩa như trên), “bạn đà bạn đà” (bandha
bandha là trói. Ý nói: Hai thứ trói buộc, tức là phiền não phược và sở tri phược).
“Mẫu trá dã mẫu đà dã” (moṭaya moṭaya, như tráng sĩ bắt trói kẻ không có sức, thít chặt tới cổ, khiến cho thân phần
[kẻ đó] bị phá hoại. [Chân ngôn này] khiến cho hai thứ chướng vỡ nát cũng giống
như thế. Do vậy, dùng đó làm ý nghĩa). “Phạt
chiết-rô” (vajro, kim cang). “Đà phệ”
(dbhave, sanh.
Từ trí huệ mà sanh ra). “Tát phạ
đát-ra” (sarvatrā, hết thảy các xứ), “bát-ra đê ha đê” (pratihate, chẳng ai có thể hại
được).
(Kinh) Dĩ thử Kim Cang Tỏa ấn, thiểu khuất Hư Không luân dĩ trì Phong
luân, nhi bất tương chí, thị Phẫn Nộ Nguyệt Yển ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma
tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phán trá, sa ha.
(經)以此金剛鎖印,少屈虛空輪以持風輪而不相至,是忿怒月黶印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。頡唎。吽泮吒。莎訶。
(Kinh: Dùng ấn Kim Cang Tỏa ấy, hơi gập ngón hư không (ngón cái)
để nắm lấy ngón phong luân (ngón trỏ) nhưng không chạm vào nhau; đó là ấn của
ngài Phẫn Nộ Nguyệt Yển. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết
ra nạn, hiệt rị, hồng phán trá, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hrīḥ hūṃ
phaṭ svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Kim
Cang Nguyệt Yển Phẫn Nộ (Krodhacandratilaka). Vị Kim Cang
này sanh từ tướng bạch hào trên trán đức Phật; do vậy, có tên như thế. Hào tướng
sáng sạch, ví như trăng tròn. Vì thế, hiệu là Nguyệt Yển. [Ấn của Nguyệt Yển Phẫn
Nộ Kim Cang] giống như ấn “chày kim
cang năm nhánh” trong phần trước: Cong hai ngón trỏ như cái móc, bấm lấy
hai ngón cái, khiến cho hơi cong, nhưng chẳng chạm vào nhau là được (hơi khác với
ấn trước đó). “Hiệt-rị” (hrīḥ, lìa cái nhân vô cấu, bên cạnh
có chấm, nghĩa là “cực phẫn nộ”). “Hồng”
(hūṃ, tương xứng với ba ý nghĩa), “phán
trá” (phaṭ, trừ khử tột bậc).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, kiến lập nhị Phong luân nhi
dĩ tương trì, thị Kim Cang Châm ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt
chiết ra nạn, tát bà đạt ma, niết bệ đạt nễ, phạt chiết ra tố chỉ, phạ ra đề,
sa ha.
(經)如前,以定慧手為拳,建立二風輪而以相持,是金剛針印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。薩婆達磨涅鞞達儞。伐折囉素旨嚩囉提。莎訶。
(Kinh: Giống như trên, tay Định và Huệ nắm thành quyền, dựng hai
ngón Phong (trỏ) chống vào nhau; đó là ấn của ngài Kim Cang Châm. Chân ngôn của
Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, tát bà đạt ma, niết bệ đạt nễ,
phạt chiết ra tố chỉ, phạ ra đề, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ,
sarva-dharmanirvedhani vajrasūci varade svāhā”).
Kế đến là ấn của ngài Kim
Cang Châm (Vajrasūcī),
hai tay đan chéo vào nhau, các ngón gập vào lòng bàn tay. Dựng hai ngón trỏ sao
cho đầu của chúng chạm nhau như hình cái kim. Hai ngón cái cùng gập vào lòng
bàn tay. Xét theo chân ngôn, “tát bà đạt ma” (sarvadharma, hết thảy các pháp). “Niết bệ đạt nễ” (nirvedhani, xuyên qua. [Hàm ý]: Dùng
kim cang huệ châm xuyên suốt hết thảy các pháp), “phạt chiết-ra tố chỉ” (vajrasūci,
Kim Cang Châm. Dùng vật gì để xuyên thấu? Tức là dùng kim cang trí châm). “Phạ la đề” (varade, ban cho ước nguyện. Do
nguyện lực trước kia, nên nay đạt được nguyện này, cũng sẽ khiến cho hết thảy
chúng sanh đều thấu đạt các nguồn pháp).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, nhi trí ư tâm. Thị Kim Cang
Quyền ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Tát phổ trá
dã, phạt chiết ra tam bà phệ, sa ha.
(經)如前,以定慧手為拳而置於心,是金剛拳印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。薩普吒也伐折囉三婆吠。莎訶。
(Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ làm thành quyền, đặt nơi
tim. Đó là ấn Kim Cang Quyền. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra
nạn. Tát phổ trá dã, phạt chiết ra tam bà phệ, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, sphoṭaya
vajrasaṃbhave svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Kim
Cang Địa Phủng (Vajramuṣṭi).
Hai tay đan ngón vào nhau, nắm thành quyền, sao cho các ngón gập vào lòng bàn
tay. Hai ngón cái đều dựng lên phía ngoài quyền, nâng hai khủy tay hơi cao như
hình cái chùy (nâng hướng về bên phải, như dáng vẻ giận dữ muốn đánh). Xét
trong chân ngôn, “tát-phổ trá dã”
(sphoṭaya, tan tác. Dùng kim cang huệ chùy đập vỡ tam độc, khiến cho nó tan
nát, phá hoại). “Tam bà phệ”
(saṃbhave, sanh. Ai có thể làm chuyện này? Chính là người từ kim cang mà sanh,
sẽ có thể làm chuyện này).
(Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, cử dực khai phu, trí huệ thủ diệc tác
quyền, nhi thư Phong luân như phẫn nộ tướng nghĩ hình. Thị Vô Năng Thắng ấn. Bỉ
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Đỗ đạt lý sa, ma ha rô sắt
noa, khư đà da, tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ nhiên câu lô, sa ha.
(經)以三昧手為拳,舉翼開敷,智慧手亦作拳,而舒風輪如忿怒相擬形,是無能勝印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。杜達里沙摩訶嚧瑟拏。佉陀耶薩鑁怛他蘗多阿曳然俱盧。莎訶。
(Kinh: Dùng tay tam-muội (tay trái) nắm thành
quyền, nâng cánh tay. Tay trí huệ (tay phải) cũng nắm thành quyền, duỗi ngón
Phong (ngón trỏ) như dáng vẻ phẫn nộ. Đó là ấn của ngài Vô Năng Thắng. Chân
ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Đỗ đạt lý sa, ma ha rô
sắt noa, khư đà da, tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ nhiên câu lô, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, durdharṣa
mahāroṣaṇa khādaya sarvāṃ tathāgatājñāṃ kuru svāhā”).
Kế đó là ấn của ngài Nan Thắng Kim Cang (tức Vô Năng Thắng
- Aparājita). Tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ đặt nơi tim, tay
trái kết thành quyền (đều là ngón cái nắm ngoài quyền), duỗi thẳng cánh tay,
khiến cho quyền hơi cao ngang với đầu. Do hết thảy các ma chẳng thể nhiễu loạn,
chẳng thể thắng được, nên gọi tên như thế. Xét theo chân ngôn, “đỗ đạt lý sa” (durdharṣa, trừ nạn, hàng phục),
“ma ha rô sắt noa” (mahāroṣaṇa, đại
phẫn nộ. Dùng pháp gì để hàng phục lũ ma? Do có đại phẫn nộ). “Khư đà da”
(khādaya, ăn,
[ý nói] nuốt hết thảy các chướng kết phiền não), “tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ-nhiên” (sarvāṃ-tathāgatājñāṃ, giáo pháp
của hết thảy Như Lai), “câu lô”
(kuru, vâng theo. Tức là vâng theo lời dạy của hết thảy các đức
Như Lai, sẽ thuận theo lời giáo sắc mà làm).
(Kinh) Dĩ Định Huệ thủ vi quyền, tác tương kích thế trì chi. Thị A Tỳ Mục
Khư ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Hệ a tỳ mục
khư, ma ha bát ra chiến đồ. Khư đà dã, khẩn chỉ ra duệ tế. Tam-muội da ma nô
tát mạt ra, sa ha.
(經)以定慧手為拳,作相擊勢持之,是阿毘目佉印。彼真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞 。係阿毘目佉摩訶鉢囉戰
荼。佉馱也緊旨囉拽細。三昧耶摩奴薩末囉。莎訶。
(Kinh: Dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, giơ lên như vẻ sắp
đánh. Đó là ấn của ngài A Tỳ Mục Khư. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa
phạt chiết ra nạn. Hệ a tỳ mục khư, ma ha bát ra chiến đồ. Khư đà dã, khẩn chỉ
ra duệ tế. Tam-muội da ma nô tát mạt ra, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, he
abhimukha mahāpracaṇḍa khā-daya kiṃ cirāyasi samayam
anusmara svāhā”).
Kế đó là Tương Hướng Kim
Cang (A Tỳ Mục Khư, Abhimukha). Do vị này đối diện với Nan Thắng và cùng canh cửa, nên gọi
tên như vậy. Ấn này giống như trước (chỉ đổi phải thành trái mà thôi!) “Hệ” (He, ý nghĩa như trong phần trước),
“a tỳ mục khư” (abhimukha, đối diện nhau), “ma ha bát ra chiến đồ” (mahāpracaṇḍa,
cực đại bạo ác), “khư
đà da” (khādaya, ăn),
“khẩn chỉ ra duệ tế” (kiṃ
cirāyasi, sao không nhanh chóng?), “tam-muội
da” (samayam, bản thệ), “ma
nô tát-mạt ra” (anusmara, nghĩ nhớ. Vốn đối trước hết thảy Như Lai, lập
tam-muội-da thệ, ăn hết thảy phiền não, nay sao chẳng nhớ bổn nguyện để nhanh
chóng thực hiện?)
(Kinh) Như tiền, trì bát tướng, thị Thích Ca bát ấn. Bỉ chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cát lệ thước niết tô đạt nễ, tát phạ đạt
ma phạ thỉ đa bát ra bát để, già già na tam mê, sa ha.
(經)如前,持鉢相,是釋迦鉢印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩吉隷鑠涅蘇達儞。薩嚩達摩嚩始多鉢囉鉢底。伽伽那三迷。莎訶。
(Kinh: Tướng cầm bát như trong phần trước, đó
là ấn bát của Phật Thích Ca. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
tát phạ cát lệ thước niết tô đạt nễ, tát phạ đạt ma phạ thỉ đa bát ra bát để,
già già na tam mê, sa ha. Namaḥ samantabuddhānāṃ sarvakleśa-niṣūdana sarvadharmavaśitāprāpta gaganasame, svāhā”).
Kế đó, ấn bát của Phật giống
như trong phần trước, tức là ấn bát của Phật Thích Ca. Xét theo chân ngôn, “tát phạ cát-lệ thước” (sarvakleśa, hết thảy phiền
não), “niết tô đạt nễ” (niṣūdana, đào
bới, giống như cuốc bén bổ thẳng xuống đào bới triệt để), “tát phạ đạt ma” (sarvadharma, hết thảy các
pháp), “phạ thỉ đa bát-ra bát-để” (vaśitāprāpta, đạt được, tức là
được tự tại trong các pháp), “già già na tam mê” (gaganasame, bằng
với hư không. Do được tự tại trong các pháp nên bằng với hư không, dùng pháp ấy
để đào bỏ phiền não).
(Kinh) Thích Ca hào tướng ấn, như thượng, hựu dĩ Huệ thủ chỉ phong tụ
trí đảnh thượng. Thị Nhất Thiết Phật Đảnh ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, vãm vãm, hồng hồng hồng, phát trá, sa ha.
(經)釋迦毫相印。如上,又以慧手指峯聚置頂上。是一切佛頂印。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鑁鑁。吽吽吽。發吒。莎訶。
(Kinh: Ấn tướng bạch hào của Phật Thích Ca, như trong phần trước,
chụm đầu các ngón của tay Huệ (tay phải), đặt trên đỉnh đầu. Đó là ấn Nhất Thiết
Phật Đảnh. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vãm vãm, hồng hồng hồng,
phát trá, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, vaṃ vaṃ hūṃ hūṃ hūṃ
phaṭ svāhā”).
Kế đó, giống như ấn Hào Tướng
trong phần trước; đấy chính là ấn hào tướng của Phật Thích Ca. Kế đó, dùng năm
ngón tay bên phải chụm lại, đặt trên đỉnh đầu, đấy chính là ấn Nhất Thiết Phật
Đảnh. Xét trong chân ngôn, “vãm vãm”
(vaṃ vaṃ, chữ Vãm đọc âm Phạ, nghĩa là “khiến cho các trói buộc do Phiền Não Chướng
và Sở Tri Chướng đều như hư không”). “Hồng
hồng hồng” (lìa ba cái nhân, đắc Tam Không, chứng tam-muội).
(Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, thư Hỏa, Phong luân, nhi dĩ Hư Không
gia Địa, Thủy luân thượng. Kỳ trí huệ thủ thân Phong, Hỏa luân nhập tam-muội
chưởng trung, diệc dĩ Hư Không gia Địa, Thủy, Hỏa luân thượng như tại đao tiêu,
thị Bất Động Tôn ấn. Như tiền, Kim Cang huệ ấn, thị Hàng Tam Thế ấn.
(經)以三昧手為拳舒火風輪,而以虛空加地水輪上。其智慧手申風火輪入三昧掌中,亦以虛空加地水輪上如在刀鞘,是不動尊印。如前,金剛慧印,是降三世印。
(Kinh: Dùng tay tam-muội (tay trái) nắm thành
quyền, duỗi ngón Hỏa (giữa) và Phong (trỏ), dùng ngón Hư Không (ngón cái) đè
lên ngón Địa (út) và Thủy (áp út). Tay trí huệ (tay phải) thì duỗi ngón Phong
và Hỏa gập vào lòng bàn tay tam-muội, cũng dùng ngón Hư Không đè lên các ngón Địa,
Thủy, Hỏa như ở trong vỏ đao. Đó là ấn của ngài Bất Động. Giống như Kim Cang huệ
ấn trong phần trên thì là ấn của ngài Hàng Tam Thế).
Kế đó, tay trái nắm thành
quyền, duỗi các ngón trỏ và giữa, dùng ngón cái đè lên móng của các ngón út và
áp út. Tay phải cũng làm như thế để tạo thành đao, nhét vào trong vỏ đao. Đấy
chính là ấn của ngài Bất Động. Ấn của ngài Hàng Tam Thế thì giống như ngũ cổ
kim cang ấn (ấn thành hình chày kim cang năm nhánh).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ hợp vi nhất tướng, kỳ Địa, Thủy luân
giai hướng hạ, nhi thân Hỏa luân nhị phong tương liên, khuất nhị Phong luân trí
ư đệ tam tiết thượng, tịnh Hư Không luân như tam mục hình. Thị vi Như Lai Đảnh ấn,
Phật Bồ Tát mẫu.
(經)如前,以定慧手合為一相,其地水輪皆向下,而申火輪二峯相連,屈二風輪置於第三節上,並虛空輪如三目形。是為如來頂印佛菩薩母。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ hợp
thành một tướng (tức là chắp hai tay lại), các ngón Địa (út) và Thủy (áp út) đều
hướng xuống dưới, duỗi cho đầu hai ngón Hỏa (giữa) nối nhau, gập đốt thứ ba của
ngón Phong (trỏ) cho chạm ngón Hư Không như hình ba con mắt. Đó là Như Lai đảnh
ấn, [hoặc còn gọi là] Phật Bồ Tát Mẫu Ấn).
Kế đó là Phật Nhãn Ấn. Kết
Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp chưởng), cùng gập hai ngón út và áp út vào lòng bàn
tay, dựng hai ngón giữa như cái kim, hai ngón trỏ gập xuống bấm vào đốt thứ ba
của ngón giữa, giống như hình con mắt. Hai ngón cái hơi cong, sao cho chúng ở
phía dưới ngón giữa, khiến cho đầu ngón khum khum giống như hình con mắt. Đấy
là tam-muội. Các ngón út và áp út xếp giống như kiểu “hướng nội hiệp chưởng” (chắp tay sao cho các ngón gập vào lòng
bàn tay) như trong phần trước [đã nói]. Trên đây là Phật Đảnh Ấn, cũng gọi là
Phật Bồ Tát Mẫu Ấn.
(Kinh) Phục dĩ tam-muội thủ phú nhi thư chi, huệ thủ vi quyền, nhi cử
Phong luân do như cái hình. Thị Bạch Tán Phật Đảnh Ấn.
(經)復以三昧手覆而舒之 ,慧手為拳而舉風輪猶如蓋
形。是白傘佛頂印。
(Kinh: Lại dùng tay tam-muội (tay trái) che lên
trên mà duỗi ra. Tay huệ (tay phải) nắm thành quyền, ngón Phong (trỏ) dựng lên,
tạo thành [hình dạng] như cái dù. Đó là ấn của ngài Bạch Tán Phật Đảnh).
Kế đó là ấn của ngài Bạch
Tán Phật Đảnh (Sitātapatroṣṇīṣa). Duỗi tay trái, khiến cho các ngón cách nhau khoảng một tấc, coi đó là phần
dù. Tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ làm cán dù. Dùng cán chống vào lòng
bàn tay trái là thành ấn (hễ nói “nắm
thành quyền” đều là ngón cái ở ngoài các ngón kia, các ấn khác đều phỏng
theo lệ này). Chân ngôn giống như trong phần trên.
(Kinh) Như tiền Đao Ấn, thị Thắng Phật Đảnh ấn.
(經)如前刀印,是勝佛頂印。
(Kinh: Giống như Đao Ấn trong phần trước, đó là
ấn của ngài Thắng Phật Đảnh).
Kế đó, kết ấn của ngài Thắng
Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa), giống như Đao Ấn trong phần trước. Tức là kết Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp
chưởng), ngón giữa dựng lên, chụm vào nhau, ngón trỏ và cái bấm vào nhau là
thành ấn.
(Kinh) Như tiền Luân Ấn, thị Tối Thắng Phật Đảnh ấn.
(經)如前輪印,是最勝佛頂印。
(Kinh: Giống như Luân Ấn trong phần trên, đó là ấn của ngài Tối
Thắng Phật Đảnh).
Kế đó là ấn của Tối Thắng
Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa), giống như ấn Chuyển Pháp Luân trong phần trước.
(Kinh) Như tiền Câu Ấn, Huệ thủ vi quyền, cử kỳ Phong luân nhi thiểu
khuất chi. Thị Trừ Nghiệp Phật Đảnh ấn.
(經)如前鉤印,慧手為拳,舉其風輪而少屈之。是除業佛頂印。
(Kinh: Giống như Câu Ấn trong phần trước, tay Huệ nắm thành
quyền, dựng ngón Phong lên, nhưng hơi cong. Đó là ấn của
Trừ Nghiệp Phật Đảnh).
Kế đó là ấn của Trừ Nghiệp Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa), giống như Câu Ấn trong phần trước. Tức là chắp hai tay, sao cho các ngón
đan vào nhau trong lòng bàn tay, cong ngón trỏ trong tay phải như hình cái móc
câu. Hai ngón cái chéo nhau, sao cho phải đè lên trái. Nay chỉ có một tay, tức
là tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ, hơi cong đốt trên cùng của ngón trỏ.
(Kinh) Như tiền Phật Đảnh ấn, thị Hỏa Tụ Phật Đảnh ấn.
(經)如前佛頂印,是火聚佛頂印。
(Kinh: Giống
như ấn Phật Đảnh trong phần trước thì là ấn của ngài Hỏa Tụ Phật Đảnh).
Kế đến là ấn của ngài Hỏa Tụ
Phật Đảnh (Tejorāśyuṣṇīṣa), giống như ấn Phật Đảnh trong phần trước.
(Kinh) Như tiền Liên Hoa ấn, thị Phát Sanh Phật Đảnh ấn.
(經)如前蓮華印,是發生佛頂印。
(Kinh: Giống như ấn Liên Hoa trong phần trước
thì là ấn của ngài Phát Sanh Phật Đảnh).
Ấn của ngài Quảng Sanh Phật
Đảnh (Abhyudgatosnīsa, chánh kinh không đề cập vị này) giống như ấn ngũ cổ kim cang trong phần trước.
Kế đó là ấn của ngài Phát Sanh Phật Đảnh (Abhyudgatoṣṇīṣa): Kết ấn Liên Hoa (tức Quán Âm Ấn trong phần trước).
(Kinh) Như tiền thương-khư ấn, thị Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh ấn.
(經)如前商佉印,是無量音聲佛頂印。
(Kinh: Như ấn thương-khư trong phần trước là ấn của ngài Vô Lượng
Âm Thanh Phật Đảnh).
Ấn của ngài Vô Lượng Âm
Thanh Phật Đảnh (Anantasvara-ghoṣoṣṇīṣa) thì kết Thương Khư ấn như đã nói
trong phần trước (tức là kết Tam-bổ-trá, cùng gập hai ngón cái, dùng hai ngón trỏ
cùng đè lên).
(Kinh) Dĩ trí huệ thủ vi quyền, trí ư mi gian, thị Chân Đà Ma Ni Hào Tướng
ấn.
(經)以智慧手為拳,置在眉間,是真多摩尼毫相印。
(Kinh: Dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành
quyền, đặt giữa hai mày. Đó là ấn Chân Đà Ma Ni Hào Tướng).
Kế đó là ấn Hào Tướng (Ūrṇā). Tay phải nắm thành quyền rồi chống ngón trỏ vào giữa hai mày, gọi là
Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi,
Như Ý Bảo Châu). Đấy chính là ấn Hào Tướng.
(Kinh) Như tiền Phật Đảnh ấn, thị Phật Nhãn ấn. Phục hữu thiểu dị, sở vị
kim cang tiêu tướng.
(經)如前佛頂印,是佛眼印。復有少異,所謂金剛標相。
(Kinh: Ấn Phật Nhãn giống ấn Phật Đảnh trong phần
trước. Lại có chút khác biệt, tức là thể hiện hình tướng biểu trưng của chày
kim cang).
Ấn Phật Nhãn (Buddhalocanā) giống như ấn Phật Mẫu trong phần trước. Trong ấy có chút khác biệt là để
ngón cái và ngón giữa cách nhau chừng bằng một hạt lúa mạch, đừng cho chúng chạm
nhau, giống như hình [chày kim cang] năm nhánh là được!
(Kinh) Trí huệ thủ tại tâm, như chấp liên hoa tượng, trực thân
Xa-ma-tha tý, ngũ luân thượng thư, nhi ngoại hướng cự chi, thị Vô Năng Thắng ấn.
(經)智慧手在心,如執蓮華像,直申奢摩他臂,五輪上舒,而外向距之,是無能勝印。
(Kinh: Đặt tay trí huệ (tay phải) nơi tim, giống
như cầm hoa sen, duỗi tay Xa-ma-tha (tay trái), năm ngón hướng lên trên, duỗi
ra phía ngoài cách nhau. Đó là ấn của ngài Vô Năng Thắng).
Kế đó là ấn của Vô Năng Thắng
(Aparājita) Minh Vương. Tay phải như ấn Chấp Liên Hoa (tức đầu ngón trỏ và ngón cái bấm
vào nhau, ngón giữa cong gập đặt vào giữa, hai ngón út và áp út dựng thẳng là
được). Duỗi thẳng tay trái, năm ngón hướng lên trên nhưng ngả ra phía ngoài
(các đầu ngón tay tách nhau). Tay ấy hơi cao hơn đầu là thành ấn. Ấn này kết
khi đứng thì giống như Bát Lật Để Rị trong phần trước!
(Kinh) Định Huệ thủ hướng nội vi quyền, nhị Hư Không luân thượng hướng,
khuất chi như khẩu, thị Vô Năng Thắng Minh Phi ấn.
(經)定慧手向內為拳,二虛空輪上向,屈之如口,是無能勝明妃印。
(Kinh: Hai tay Định và Huệ hướng vào trong nắm thành quyền, hai
ngón Hư Không (ngón cái) hướng lên trên, cong như cái miệng. Đó là ấn của Vô
Năng Thắng Minh Phi).
Kế đó các ngón đan vào
nhau, gập trong lòng bàn tay, nắm thành quyền. Hai ngón cái đặt sát nhau ở
ngoài quyền, cong lóng ngón tay như cái móc câu. Đó gọi là “khẩu trạng” (hình dạng cái miệng),
chính là ấn của Vô Năng Thắng Minh Phi.
(Kinh) Dĩ trí huệ thủ thừa giáp, thị Tự Tại Thiên ấn.
(經)以智慧手承頰,是自在天印。
(Kinh: Dùng
tay trí huệ đỡ má, đó là ấn của Tự Tại Thiên).
Kế đó, duỗi tay phải đỡ má phải, hơi nghiêng đầu tựa lên tay, má hơi cách
tay một chút. Đó là ấn của Tịnh Cư Thiên (đó là tay tư duy, còn có tên là Tự Tại
Thiên).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn linh Phong, Hỏa luân sai lệ thân chi, thị Phổ Hoa
Thiên Tử ấn.
(經)即以此印令風火輪差戾申之,是普華天子印。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy sao các ngón Phong (trỏ)
và Hỏa (giữa) chéo nhau, duỗi ra. Đó là ấn của Phổ Hoa Thiên Tử).
Kế đó, giống như ấn của Tự Tại Thiên trên đây, duỗi tay phải, sao cho ngón
giữa hơi nghiêng đầu hướng vào trong, hơi tách biệt với ngón trỏ; đấy chính là ấn
của Phổ Hoa Thiên Tử (Samantakusuma). Tay nên đặt nghiêng trước ngực. Đoạn
kế [trong lời sớ] bỏ sót một vị thiên tử, tức Quang Man Thiên Tử.
(Kinh) Đồng tiền ấn, dĩ Hư Không luân tại ư chưởng trung. Thị Quang Man
Thiên Tử ấn. Đồng tiền ấn, dĩ Hư Không, Phong luân tác trì hoa tướng, thị Mãn Ý
Thiên Tử ấn. Dĩ trí huệ thủ Hư Không, Thủy luân tương gia, kỳ Phong, Hỏa luân,
Địa luân giai tán thư chi, dĩ yểm kỳ nhĩ, thị Biến Âm Thanh Thiên ấn.
(經)同前印,以虛空輪在於掌中,是光鬘天子印。同前印,以虛空風輪作持華相,是滿意天子印。以智慧手虛空水輪相加,其風火輪地輪皆散舒之以掩其耳,是遍音聲天印。
(Kinh: Giống như ấn trên đây, gập ngón Hư Không
(ngón cái) vào lòng bàn tay. Đó là ấn của Quang Man Thiên Tử (Raśmimālin). Giống như ấn trên đây, dùng ngón Hư Không (ngón cái)
và Phong (ngón trỏ) làm như tư thế cầm hoa. Đó là ấn của Mãn Ý Thiên Tử (Manojava). Trong tay phải, dùng ngón cái và ngón áp út chạm đầu
nhau, các ngón Phong (trỏ), Hỏa (ngón giữa) và Địa (út) thảy đều xòe ra để che
tai. Đó là ấn của Biến Âm Thanh Thiên - Svaraviśruti.).
Kế đó, cũng giống như trên duỗi
tay phải, ngón trỏ và ngón cái bấm vào nhau như dáng vẻ cầm hoa. Đó là ấn của
Mãn Ý Thiên Tử (ba ngón kia cùng đặt khít ngang nhau). [Lời sớ khuyết phần giải
thích ấn của Biến Âm Thanh Thiên ở đây, lại dời ra sau mấy vị, có lẽ là lỗi khắc
ván hay sao chép]. Trên đây đều là các vị Tịnh Cư Thiên Tử.
(Kinh) Định Huệ tương hợp, nhị Hư Không luân viên khuất, kỳ dư tứ luân
diệc như thị, thị danh Địa Thần ấn.
(經)定慧相合,二虛空輪圓屈,其餘四輪亦如是,是名地神印。
(Kinh: Tay Định và Huệ chắp lại, hai ngón Hư
Không (cái) cong gập, bốn ngón kia cũng như thế. Đó gọi là ấn của Địa Thần).
Kế đó là ấn của Địa Thiên (Pṛthivī). Trước hết, chắp tay sao cho mười
đầu ngón tay sát vào nhau, cùng gập lại sao cho bấm lấy nhau, cùng ôm lấy ngón
cái gập vào lòng bàn tay, hình như cái bình là thành ấn.
(Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ tác Thí Vô Úy tướng, dĩ Không
luân tại ư chưởng trung, thị Thỉnh Triệu Hỏa Thiên ấn.
(經)如前,以智慧手作施無畏相,以空輪在於掌中,是請召火天印。
(Kinh: Giống như trên, dùng tay trí huệ (tay phải)
để kết ấn Thí Vô Úy, đặt ngón Không (ngón cái) trong lòng bàn tay. Đó là ấn thỉnh
vời Hỏa Thiên).
Kế đó, giống như trên kết ấn Thí Vô Úy, nhưng cong gập ngón cái vào lòng
bàn tay, đấy chính là ấn thỉnh vời Hỏa Thiên (Agni).
(Kinh) Tức dĩ Thí Vô Úy hình, dĩ Hư Không luân trì Thủy luân đệ nhị tiết,
thị Nhất
Thiết Chư Tiên ấn. Tùy kỳ thứ đệ, tương ứng dụng chi.
(經)即以施無畏形,以虛空輪持水輪第二節,是一切諸仙印。隨其次第,相應用之。
(Kinh: Liền dùng ấn Thí Vô Úy, dùng ngón Hư
Không (ngón cái) bấm vào lóng thứ hai của ngón Thủy (ngón áp út); đó là ấn của
hết thảy các vị tiên. Tùy theo thứ tự mà dùng tương ứng).
Kế đó, hai tay đều dùng ngón cái bấm đầu ngón áp út. Các ngón khác dựng
lên cùng che hai tai. Đó là ấn của Biến Thanh Âm Thiên. Dùng đầu hai ngón áp út
và trỏ để che tai (Phần lời Sớ này đáng lẽ phải đặt trước phần nói về Địa
Thiên). Đó là âm thanh ấy khiến cho mọi người đều trọn biết. Vị này (tức Biến
Âm Thiên) cũng là Tịnh Cư Thiên. Cùng với [các vị được liệt kê trong phần nói về]
ấn của Tịnh Cư Thiên trong phần trước, hợp thành Ngũ Thiên.
[Ở đây], kết ấn Thí Vô Úy.
Dùng ngón cái bấm lấy lóng thứ hai của ngón út[8],
sẽ thành ấn của hết thảy các vị tiên. Từ chỗ này trở đi, kinh lại liệt kê [ấn của
hết thảy chư tiên] lần thứ hai, đó chính là [ấn chung của] trọn khắp hết thảy
các vị tiên. Trước hết, dùng ngón cái bấm vào lóng thứ hai của ngón út. Ba ngón
kia đều dựng lên. Theo thứ tự, trước hết tách ngón trỏ ra, kế đến là ngón giữa,
rồi ngón áp út, hơi cách biệt ngón áp út. Kế đó, tách biệt năm ngón. Đấy chính
là năm vị Đại Địa Tiên, vâng theo thứ tự nói trong kinh.
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tương hợp, Phong luân, Địa luân nhập ư
chưởng trung, dư giai thượng hướng, thị Diễm Ma Đản Trà ấn.
(經)如前,以定慧手相合,風輪地輪入於掌中,餘皆上向,是焰摩但茶印。
(Kinh: Giống như trên, dùng hai tay Định và Huệ
chắp lại, ngón Phong (trỏ) và Địa (út) gập vào lòng bàn tay, các ngón kia đều
hướng lên trên. Đó là ấn Diễm Ma Đản Trà).
Kế đó là ấn Diêm La. Kết Tam-bổ-trá, hai ngón trỏ và út gập vào lòng bàn
tay, khiến cho đầu chúng áp vào nhau, dùng hai ngón cái bấm vào lưng ngón trỏ
(Nên bấm vào khoảng giữa lóng thứ hai và lóng thứ ba), đầu ngón cái hơi cong lại
sao cho chạm nhau, hai ngón cái đè lên ngón giữa là được (Đó là Đàn Trà (Daṇḍa) ấn).
(Kinh) Huệ thủ hướng hạ do như Kiện Trá, thị Diễm Ma Phi Đạc ấn.
(經)慧手向下猶如健吒,是焰摩妃鐸印。
(Kinh: Tay Huệ hướng xuống dưới ví như Kiện Trá
(ghaṇṭā: cái
chuông). Đó là đạc ấn của Diễm Ma Phi).
Kế đó, tay phải duỗi các ngón
tay sao cho như hình cái chuông, rủ tay hướng xuống dưới. Đó là ấn của Diêm La
Phi (Yamī, vợ của Diêm Vương).
(Kinh) Dĩ
tam-muội thủ vi quyền, thư Phong, Hỏa luân, thị Ám Dạ Thiên ấn.
(經)以三昧手為拳,舒風火輪,是暗夜天印。
(Kinh:
Nắm tay tam-muội thành quyền, duỗi các ngón Phong và Hỏa; đó là ấn của Ám Dạ
Thiên).
Kế đó, tay trái nắm lại, các
ngón út và áp út gập vào lòng tay, ngón giữa và trỏ cùng duỗi ra. Ngón cái theo
lệ thường khi nắm tay (tức là đặt ra ngoài hai ngón bị gập lại). Đây là ấn của
Hắc Dạ Thiên (Kālarātri, chánh kinh gọi vị này là Ám Dạ Thiên), cũng là vợ của
vua Diêm La.
(Kinh) Tức dĩ
thử ấn, hựu khuất Phong luân, thị Rô Đạt Ra Kích ấn.
(經)即以此印,又屈風輪,是嚕達羅戟印。
(Kinh:
Liền dùng ấn ấy, lại gập ngón Phong (ngón trỏ); đó là Kích ấn của Rô Đạt Ra).
Kế đó, ấn tướng giống như trước,
nhưng gập ngón trỏ. Dùng đầu ngón cái bấm vào lóng thứ hai của ngón trỏ. Đó là ấn
của Rô Nại Ra (Rudra, chánh kinh phiên âm là Rô Đạt Ra, tức Ma Hê Thủ La) và là ấn của Tự Tại Thiên Hậu (Rudrāṇī).
(Kinh) Như tiền
ấn, tác trì liên hoa hình, thị Phạm Thiên Minh Phi ấn.
(經)如前印,作持蓮華形,是梵天明妃印。
(Kinh:
Như ấn trước, làm như vẻ cầm hoa sen; đó là ấn của Phạm Thiên Minh Phi).
Kế đó, dùng tay trái làm giống
như đang cầm hoa sen. Đấy là ấn của Phạm Thiên Hậu (tức là xòe bàn tay, dùng
ngón cái và trỏ bấm vào nhau, gập ngón giữa vào lòng bàn tay. Trong hình vẽ thì
vẽ ngón ấy duỗi thẳng). Phạm Thiên vô dục, há giống như thân người, sao lại nói
là Hậu vậy? Đây là ấn tướng của Phạm Vương Minh Phi (Brahmāṇī), hàm nghĩa Minh
Phi vậy.
(Kinh) Như tiền
ấn, khuất kỳ Phong luân gia Hỏa luân bối đệ tam tiết, thị Kiều Mạt Ly Thước Để ấn.
(經)如前印,屈其風輪加火輪背第三節,是嬌末離爍底印。
(Kinh:
Như ấn trước, gập ngón Phong (trỏ) gác lên lưng lóng thứ ba của ngón Hỏa (ngón
giữa); đó là ấn Thước Để của Kiều Mạt Ly).
Kế đó, duỗi bàn tay trái ra, gập
hai ngón út và áp út vào lòng bàn tay, co ngón trỏ bấm lấy lưng ngón giữa. Ngón
cái cũng hơi cong. Đó chính là ấn Thước Để của Kiều Mạt Ly (Kaumārīśakti). Thước
Để (Śakti) là ấn thuộc về đồ vật, giống như trong hình vẽ. Vị này là con của Tự
Tại Thiên, tên là Yết Để Ca (Kārttika),
Kiều Mạt Ly là tên của vợ ông ta.
(Kinh) Tức dĩ
thử ấn, linh Phong luân gia Hư Không thượng, thị Na La Diên Hậu Luân ấn.
(經)即以此印,令風輪加虛空上,是那羅延后輪印。
(Kinh:
Liền dùng ấn ấy, sao cho ngón Phong đè trên ngón Hư Không; đó là Luân ấn của Na
La Diên Hậu).
Kế đó, duỗi ba ngón út, áp út, và giữa của tay trái, sao cho chúng đều xòe
ra, dùng ngón trỏ bấm lấy đầu ngón cái. Đó là ấn của Na La Diên Hậu (Nārāyaṇī). Ấn Trì Hoa thì che trước ngực, nay ấn này hướng ra ngoài, gập lại.
(Kinh) Tam-muội
thủ vi quyền, linh Hư Không luân trực thượng, thị Diễm Ma Thất Mẫu Chùy ấn.
(經)三昧手為拳,令虛空輪直上,是焰魔七母鎚印。
(Kinh:
Tay tam-muội (tay trái) nắm thành quyền, sao cho ngón Hư Không (ngón cái) duỗi
thẳng lên trên. Đó là Chùy ấn của Diễm Ma Thất Mẫu).
Kế đó, dùng tay trái nắm thành
quyền, duỗi thẳng ngón cái hướng về lên trên. Đó là ấn của Diêm Vương Thất Mẫu
(cả bảy vị đều dùng chung).
(Kinh) Ngưỡng kỳ
Định thủ như trì Kiếp-bát-la tướng, thị Giá Văn Trà ấn.
(經)仰其定手如持劫鉢羅相,是遮文茶印。
(Kinh: Ngửa tay Định (tay trái)
như dáng vẻ cầm Kiếp-bát-la[9].
Đó là ấn của Giá Văn Trà).
Kế đó, duỗi tay trái, cong [các
ngón] như cầm đầu lâu, hãy nên đặt ngửa trước ngực. Đó là ấn của Giá Văn Trà
(Cāmuṇḍā)[10].
(Kinh) Như tiền Khiết-già ấn, thị
Niết Rị Để Đao ấn.
(經)如前朅伽印,是涅哩底刀印。
(Kinh: Giống
như ấn Khiết-già trong phần trước thì là Đao Ấn của Niết Rị Để).
Tay trái dùng ngón cái bấm vào móng của ngón út và áp út,
duỗi ngón giữa và trỏ để cùng dựng lên, tức là Đao Ấn của Niết Rị Để (Nairṛti).
(Kinh) Như tiền
Luân ấn, dĩ tam-muội thủ vi chi, thị Na La Diên Luân ấn.
(經)如前輪印,以三昧手為之,是那羅延輪印。
(Kinh:
Giống như Luân ấn trong phần trước, nhưng dùng tay tam-muội (tay trái) để kết
thì là Luân ấn của Na La Diên).
Kế đó, chỉ duỗi tay trái xòe ra để kết Chuyển Pháp Luân Ấn
trong phần trước, nhưng có điểm khác là chỉ dùng một tay, không móc hai tay vào
nhau. Đó là ấn của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa).
(Kinh) Dĩ chuyển
Định Huệ thủ, tả hữu tương gia, thị Nan Đồ Bạt Nan Đà Nhị Vân ấn.
(經)以轉定慧手,左右相加,是難徒拔難陀二雲印。
(Kinh:
Chuyển tay Định và Huệ sao cho trái và phải đè lên nhau. Đó là ấn Nhị Vân của
Nan Đồ Bạt Nan Đà).
Kế đó, xòe mười ngón để che
lên, dùng hai ngón cái đặt chéo nhau, tức là ấn của hết thảy các rồng. Nếu dùng
tay phải đè lên tay trái thì là ấn của rồng Nan Đà. Xoay tay trái đè lên tay phải
thì là rồng Tiểu Nan Đà (Ưu Bạt Nan Đà). Giống như ấn rồng chín đầu trong phần
trước, duỗi thẳng bốn ngón, tách ra làm cánh. Đó là Kim Xí Ấn. Phàm là địa cư
thiên thì phần nhiều dùng một tay để kết ấn.
(Kinh) Như tiền,
thân tam-muội thủ, Hư Không, Địa luân tương gia, thị Thương Yết La Tam Kích ấn.
Như tiền, thân tam-muội thủ, Hư Không, Địa luân tương trì, thị Thương Yết La Hậu
ấn. Tức dĩ thử ấn, trực thư tam luân, thị Thương Yết La Phi ấn.
(經)如前,申三昧手,虛空地輪相加,是商羯羅三戟印。如前,伸三昧手,虛空地輪相持,是商羯羅后印。即以此印直舒三輪,是商羯羅妃印。
(Kinh:
Giống như trên, duỗi tay tam-muội, các ngón Hư Không (cái) và Địa (út) đè lên
nhau; đó là ấn kích ba nhánh của Thương Yết La. Giống như trên, duỗi tay tam-muội,
ngón Hư Không và Địa chống vào nhau, đó là ấn của Thương Yết La Hậu. Liền dùng ấn
này, duỗi thẳng ba ngón thì là ấn của Thương Yết La Phi).
Kế đó, duỗi tay trái nâng lên, chớ để đầu các ngón tay chạm
vào nhau, liền dùng ngón cái và út bấm vào nhau, [đầu ngón cái] bấm trên móng
ngón út. Đó là ấn Thương Yết La (Śaṃkara, tức Cốt Tỏa Thiên, danh xưng khác của
thần Śiva). Giống như ấn trên, nhưng
cùng khép ba ngón lại. Đấy chính là ấn của Ô Mang Na (Umā). Đó là Thương Yết La
Hậu (Śaṃkarī). Hai ấn tương tự, ấn trước thì ngón trỏ hơi cong, ấn này thì
[ngón trỏ] để thẳng, nhưng [đầu hai ngón] tõe ra.
(Kinh) Dĩ
tam-muội thủ tác Liên Hoa tướng, thị Phạm Thiên ấn.
(經)以三昧手作蓮華相,是梵天印。
(Kinh:
Dùng tay tam-muội (tay trái) tạo hình hoa sen, đó là ấn của Phạm Thiên).
Tay trái kết ấn Bán Liên Hoa, cách kết ấn giống như ấn Quán
Âm. Chỗ khác biệt ở đây là chỉ dùng một tay để làm. Đó là ấn của Phạm Thiên
(Brahmā).
(Kinh) Nhân tác
khiết bạch quán, thị Nguyệt Thiên ấn. Dĩ Định Huệ thủ hiển hiện hiệp chưởng,
khuất Hư Không luân trí Thủy luân
trắc,
thị Nhật Thiên Dư Lộ ấn.
(經)因作潔白觀,是月天印。以定慧手顯現合掌,屈虛空輪置水輪側,是日天輿輅印。
(Kinh:
Nhân đó, quán [ấn trên đây] trắng sạch, sẽ là ấn của Nguyệt Thiên. Dùng tay Định
và Huệ để hiển hiện hiệp chưởng, cong ngón Hư Không (ngón cái) đặt bên cạnh
ngón Thủy (áp út). Đó là ấn cỗ xe của Nhật Thiên).
Kế đó là Hiển Lộ hiệp chưởng
(chánh kinh ghi là “hiển hiện hiệp chưởng”,
tức là mở hai lòng bàn tay, đặt sát nhau, sao cho ngón út sát nhau, lòng bàn
tay ngửa lên hướng về thân người kết ấn). Co hai ngón trỏ bấm lấy lưng đốt thứ
ba của ngón giữa, sao cho đầu hai ngón áp út chạm nhau. Hai ngón áp út cũng đặt
trên lưng lóng thứ ba của ngón giữa. Đấy là ấn Nguyệt Thiên (Candra), giống như
ấn Phạm Vương chẳng khác, chỉ quán tưởng ấn ấy trắng sạch là khác biệt (Sớ
không giải thích ấn của Nhật Thiên).
(Kinh) Hợp Bát
Nhã tam-muội thủ, Địa luân, Phong luân nội hướng, kỳ Thủy Hỏa luân tương trì
như cung, thị Xã Da Tỳ Xã Da ấn.
(經)合般若三昧手,地輪風輪內向,其水火輪相持如弓,是社耶毘社耶印。
(Kinh:
Chắp hai tay Bát Nhã và tam-muội lại, ngón Địa (út) và ngón Phong (trỏ) hướng
vào trong, ngón Thủy (áp út) và Hỏa (giữa) vịn vào nhau như cái cung. Đó là ấn
của Xã Da (Jayā) và Tỳ Xã Da - Vijayā).
Kế đó, chắp tay, gập ngón trỏ
và út vào lòng bàn tay, cong các ngón giữa và áp út như cánh cung. Đó là ấn Nhật
Hậu (vợ của Nhật Thiên) là Xã Da [và Tỳ Xã Da].
(Kinh) Như tiền
Tràng ấn, thị Phong Thiên ấn.
(經)如前幢印,是風天印。
(Kinh:
Giống như Tràng Ấn trong phần trước, đó là ấn của Phong Thiên).
Ấn của Phong Thiên (Vāyu) giống như trong phần trên, cần phải
duỗi tay trái, nghiêng bàn tay,
co hai ngón út và áp út là được. Đấy là Phong Tràng Ấn.
(Kinh) Ngưỡng
tam-muội thủ tại ư tề luân, trí huệ thủ Không, Phong tương trì, hướng thân vận
động như tấu âm nhạc, thị Diệu Âm Thiên Phí Noa ấn.
(經)仰三昧手在於臍輪,智慧手空風相持,向身運動如奏音樂,是妙音天費拏印。
(Kinh: Ngửa
tay tam-muội đặt tại rốn. Các ngón Không (cái) và Phong (trỏ) trong tay trí huệ
(tay phải) hướng về thân di chuyển như đang tấu âm nhạc. Đó là ấn Phí Noa (Vīṇā)[11]
của Diệu Âm Thiên).
Trước hết, ngửa tay trái đặt ngang rốn, giống như dáng vẻ
ôm đàn sắt[12].
Tay phải thì ngón trỏ bấm vào ngón cái, các ngón khác xòe ra, hướng vào thân
như dáng vẻ đang gảy đàn. Đó là ấn của Diệu Âm Thiên (Sarasvatī). Vị này thâu
nhiếp loài Càn Thát Bà, Ngài là thiên hậu, cũng có thể nói là thuộc loài Càn
Thát Bà.
(Kinh) Như tiền
Quyến Sách ấn, thị chư long ấn.
(經)如前羂索印,是諸龍印。
(Kinh:
Giống như ấn Quyến Sách trong phần trước chính là ấn của các rồng).
Giống như ấn Quyến Sách trong
phần trước (tức là hai bàn tay đan ngón vào nhau, sao cho các ngón gập vào lòng
bàn tay, duỗi ngón trỏ sao cho đều cùng cong, bấm vào nhau là thành ấn), nhưng
chỉ làm bằng tay trái, đó chính là ấn của long vương Phạ Rô Noa (Varuna).
(Kinh) Như tiền Diệu Âm Thiên ấn, nhi khuất Phong luân giao Không luân
thượng, thị nhất thiết A Tu La ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
già ra la diễn, sa ha.
(經)如前妙音天印,而屈風輪交空輪上,是一切阿脩羅印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伽囉邏演。莎訶。
(Kinh: Giống như ấn của Diệu Âm Thiên trong phần
trên, nhưng gập ngón Phong (ngón trỏ) gác chéo lên ngón Không (ngón cái). Đó là
ấn của hết thảy các A Tu La. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già
ra la diễn, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, garalayaṃ svāhā”).
Kế đó, dùng tay trái kết ấn Âm Nhạc Thiên (Diệu Âm Thiên). Theo đồ hình
thì cong ngón trỏ trong tay phải đè lên móng của ngón cái, các ngón khác duỗi
ra che trên tay trái. Đó là ấn của A Tu La. Xét đến chân ngôn, “già ra la diễn” (garalayaṃ): Già là “hành”, do hành bất khả đắc. Ra là vô cấu. La là ly tướng. Diễn
là vô sở đắc. Trên đó có cái chấm, tức là Đại Không.
(Kinh) Nội hướng vi quyền, nhi thư Thủy luân, thị Càn Thát Bà ấn. Chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà, tát phạ ra, phạ hệ nễ.
Sa ha.
(經)內向為拳,而舒水輪,是乾闥婆印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。微輸馱薩嚩囉嚩係儞。莎訶。
(Kinh: Nắm tay thành quyền, sao cho các ngón gập vào lòng bàn
tay, duỗi ngón Thủy (áp út); đó là ấn Càn Thát Bà. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà, tát phạ ra, phạ hệ nễ. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
viśuddhasvaravāhini svāhā”).
Đối với Càn Thát Bà thì
[hai tay] kết nội chưởng quyền (nắm thành quyền, sao cho các ngón nằm trong
lòng bàn tay), duỗi ngón áp út sao cho đầu của chúng chạm nhau. Đó là Bổn Bộ
tam-muội-da. Nếu là sự nghiệp ấn thì kết ấn bằng một tay, tức là ngón cái đè
lên móng của ba ngón kia, duỗi thẳng ngón áp út. Đó là ấn Càn Thát Bà. Xét theo
chân ngôn, “vi thâu đà” (viśuddha, thanh tịnh), “tát-phạ ra”
(svara, âm thanh), “phạ hệ nễ” (vāhini, vang ra, có nghĩa là “phát ra âm thanh thanh tịnh”, đều là thế gian tam-muội).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn nhi khuất Phong luân, thị nhất thiết Dược Xoa ấn,
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất thoa thấp phạ ra, sa
ha.
(經)即以此印而屈風輪,是一切藥叉印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。藥乞釵濕嚩囉。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, cong ngón Phong (trỏ),
đó là ấn của hết thảy Dược Xoa. Chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
dược khất thoa thấp phạ ra, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ,
yakṣeśvara svāhā”).
Kế đó, tay trái nắm thành quyền, cong ngón trỏ như cái móc, cách đầu ngón
cái đôi chút, đừng cho chạm nhau. Đó là ấn của hết thảy Dạ Xoa. Xét theo chân
ngôn, “dược khất-thoa” (yakṣe, “dược” là thừa, ý nghĩa của câu này là “ăn nuốt”), “thấp-phạ ra” (śvara, tự tại. Do ăn nuốt hết thảy phiền
não mà được tự tại; do vậy, dùng [chuyện ấy] làm tên).
(Kinh) Hựu dĩ thử ấn, Hư Không luân, Địa luân tương trì, nhi thân Hỏa,
Phong. Thị Dược Xoa Nữ ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược
khất xoa vĩ nễ da đạt rị, sa ha.
(經)又以此印,虛空輪地輪相持而申火風。是藥叉女印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。藥乞叉尾儞耶達唎。莎訶。
(Kinh: Lại dùng ấn này, ngón Hư Không
(cái) và ngón Địa (út) tựa đầu nhau, duỗi ngón Hỏa (giữa) và Phong (trỏ). Đó là
ấn của Dược Xoa Nữ. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất
xoa vĩ nễ da đạt rị, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, yakṣavidyādhari svāhā”).
Kế đó, trong tay trái, dùng ngón cái bấm lấy đầu móng ngón út, duỗi ngón
áp út và giữa, dùng ngón trỏ bấm lấy đốt đầu của ngón cái. Đó là ấn của hết thảy
Dược Xoa Nữ (Yakṣiṇī). Xét đến chân ngôn, “dược khất-xoa”
(yakṣa, ăn), “vĩ nễ-da đạt rị” (vidyādhari, sáng suốt. Câu này nói đến Dược Xoa Trì Minh, cũng có nghĩa là “trói buộc”,
tức là “ăn nuốt các trói buộc”).
(Kinh) Nội hướng vi quyền, nhi thư Hỏa luân. Thị chư Tỳ Xá Giá ấn. Chân
ngôn viết: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ xá giá nghiệt để, sa ha”. Cải khuất
Hỏa luân, thị chư Tỳ Xá Chi ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
tỷ chỉ, tỷ chỉ, sa ha.
(經)內向為拳而舒火輪,是諸毘舍遮印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。毘舍遮蘖底。莎訶。改屈火輪,是諸毘舍支印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。比旨比旨。莎訶。
(Kinh: Nắm tay thành quyền, sao cho các ngón hướng vào trong, duỗi
ngón Hỏa (ngón giữa). Đó là ấn của Tỳ Xá Giá. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, tỳ xá giá nghiệt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
piśācagati svāhā”. Đổi thành cong ngón giữa. Đó là
ấn của các Tỳ Xá Chi. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ chỉ, tỷ
chỉ, sa ha - Namaḥ
samanta-buddhānāṃ, pici pici svāhā”).
Kế đó, trong tay trái, dùng
ngón cái bấm lấy móng ba ngón kia, chỉ duỗi ngón giữa ra, đó là ấn của hết thảy
Tỳ Xá Xà (Piśācas, Tỳ Xá
Giá). Cũng có thể chỉ nắm tay thành quyền, nhưng duỗi ngón giữa là
thành ấn). Xét tới chân ngôn, “tỳ xá
giá nghiệt để” (piśācagati, “nghiệt để” là tiến nhập, [hàm ý] tiến nhập Đệ
Nhất Nghĩa chẳng thể được). Kế đó, cũng giống như thế, nhưng hơi cong ngón giữa,
đó là ấn của Tỳ Xá Xà nữ (Piśācī, Tỳ Xá Chi). Xét theo chân ngôn, “tỷ chỉ, tỷ chỉ” (Pici, pici, Tỳ là Đệ
Nhất Nghĩa, Giá nghĩa là lìa sanh tử. Lặp lại [hai chữ Tỷ Chỉ], ý nói: Tột bậc
lìa khỏi sanh tử).
(Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tương hợp, tịnh Hư Không luân nhi kiến
lập chi, thị nhất thiết chấp diệu ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, nghiệt ra hê thấp phạ rị dã, bát ra bổ đa, nhụ để ma dã, sa ha.
(經)如前,以定慧手相合,並虛空輪而建立之,是一切執曜印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。蘖囉醯濕嚩唎也。鉢囉補多。孺底麼也。莎訶。
(Kinh: Như trên, chắp hai tay Định và Huệ lại, cùng dựng ngón
Hư Không (ngón cái) lên, đặt sát nhau; đó là ấn của hết
thảy các chấp diệu. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt ra hê
thấp phạ rị dã, bát ra bổ đa, nhụ để ma dã, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
grahaiśvaryaprāpta jyotirmaya, svāhā”).
Kế đó, hai tay chắp lại,
hai ngón cái cũng đặt ngang nhau, nhưng tách biệt nhau, giữ cho các ngón khác
tách rời nhau. Đó là ấn của Ngật Lật Hà (Graha[13].
Loại này được xếp riêng thành một đường, chẳng phải người, chẳng phải quỷ.
Chúng có thể dọa dẫm con người, khiến cho họ bị phi nhân nắm giữ. Nay chẳng nói
đến loài ấy, mà là nói các tinh tú). Nếu nói về các ngôi sao gần gũi, thì gom
chung chín ngôi sao để nói. Xét theo chân ngôn, “nghiệt-ra hệ” (grahai, hành, cấu, nhân), “thấp-phạ rị dã” (śvarya, tự tại), “bát-ra bổ-đa” (prāpta, đạt được), “nhụ để” (jyotir, sáng suốt. Do là các ngôi sao nên sáng sủa), “ma dã” (maya, nghĩa là tánh. Đạt được tự tại trong tánh. Do gọi
tên của chúng mà được tự tại trong ấy).
(Kinh) Phục dĩ thử ấn, Hư Không, Hỏa luân tương giao, thị nhất thiết tú
ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, na khất xoa đá ra, niết na
đạt nễ duệ, sa ha.
(經)復以此印,虛空火輪相交,是一切宿印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。娜乞叉哆囉。涅那達儞曳。莎訶。
(Kinh: Lại dùng ấn này, ngón Hư Không (cái) và
ngón Hỏa (giữa) chéo nhau. Đó là ấn của hết thảy các tinh tú. Chân ngôn rằng:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, na khất xoa đá ra, niết na đạt nễ duệ, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, nakṣatranirnādaniye
svāhā”).
Kế đó, trước hết kết Tam-bổ-trá,
hai ngón giữa và hai ngón cái chéo nhau, phải đè lên trái. Đó là ấn của hết thảy
các tinh tú. Xét theo chân ngôn, “na
khất-xoa đá-ra” (nakṣatra, các tinh tú), “niết na” (nirnā, nghĩa là âm thanh), “đạt nễ duệ”
(daniye, ăn, tức là “nuốt các âm thanh”). “Na”
nghĩa là Không, “khất-xoa duệ”
nghĩa là “hết”, tức là hết thảy đều trừ sạch. “Đá-ra” nghĩa là cấu v.v… Chuẩn theo đó để nói, tức là “ăn nuốt các chướng cấu”. Tức là dùng
tiếng thanh tịnh để truyền bá trọn khắp, đó gọi là “vô cấu thanh”. Phàm các chân ngôn như đã nói trên đều dùng ngôn
từ ý nghĩa để xưng tán Thật đức của họ, cảnh tỉnh họ, khiến cho họ hoan hỷ.
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, khuất nhị Thủy luân nhập ư chưởng trung. Thị chư
La Sát Sa ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, la ngật sát sa địa
bát đa duệ, sa ha.
(經)即以此印,屈二水輪入於掌中,是諸羅剎娑印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。羅吃剎娑地鉢多曳。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, gập hai ngón Thủy vào lòng bàn tay. Đó
là ấn La Sát Sa. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, la ngật sát sa địa bát đa duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,
rākṣasādhipataye svāhā”).
Kế đó, kết Tam-bổ-trá, cùng
gập hai ngón áp út vào lòng bàn tay, các ngón khác như thường, đấy chính là ấn
La Sát Sa (Rākṣasas). Phàm các ấn của các loài Địa Cư Thiên vừa nói trên đây, dùng hai tay hay
một tay để kết ấn đều được. Nếu trì tụng, do nhân duyên phải làm này nọ, không
rảnh cả hai tay để kết ấn, chỉ dùng tay trái để kết ấn cũng thành (trên đây,
kinh chỉ nói tay trái, nhưng đồ hình vẽ cả hai tay, hãy nên dùng theo cách ở
đây). Xét theo chân ngôn, “la ngật sát
sa” (rākṣasā, La là cấu, bên cạnh có chấm diễn tả âm A, tức là “hành”. “Ngật-sát-sa” là đi trên hư không), “địa bát đa duệ” (dhipataye, vua, chỉ đức của họ. Khiến cho họ nghe xong hoan hỷ, thỏa nguyện của chúng
sanh).
(Kinh) Thân tam-muội thủ dĩ phú diện môn, nhĩ hạ phạ xúc chi, thị chư Đồ
Cát Ni ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hiệt rị, sa ha.
(經)申三昧手以覆面門,爾賀嚩觸之,是諸荼吉尼印。真言曰:南麼三曼多勃馱喃。頡唎。莎訶。
(Kinh: Duỗi tay tam-muội che mặt, dùng lưỡi
(nhĩ-phạ-hạ (jihva) là lưỡi) chạm
tay, tức là ấn của các Đồ Cát Ni. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hiệt rị, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, hrīḥ haḥ[14]).
Kế đó, dùng tay trái che miệng,
dùng lưỡi chạm tay, tức là ấn của Đồ Cát Ni (ḍākinī). Chữ Hiệt-rị (hrīḥ, ह्रीः) nghĩa là “lìa nhân
vô cấu”. Trên đó, có vạch tam-muội, bên cạnh có chấm biểu thị phẫn nộ.
Ha (haḥ) có nghĩa là cái nhân, bên trên có chấm cũng là phẫn nộ. Những vị ấy (những
vị được nói đến mật ấn trong phẩm này) là những vị đứng đầu. Các ấn như đã nói
trên đây, cho đến ấn Đồ Cát Ni cuối cùng, nếu nói cặn kẽ bộ loại, quyến thuộc,
sẽ là vô biên chủng loại, như Đại Bổn có đến mười vạn kệ để diễn tả. Nay điều
được nói trong phẩm này chính là nêu ra đại lược các vị thượng thủ, như nắm cái
lưới, mắt lưới căng ra, nêu đại lược một số mắt lưới trong các mắt lưới đó
thôi!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị thượng thủ chư Như Lai ấn, tùng Như Lai tín
giải sanh, tức đồng Bồ Tát chi tiêu xí, kỳ số vô lượng. Hựu Bí Mật Chủ! Nãi chí
thân phần cử động, trụ chỉ, ưng tri giai thị mật ấn, thiệt tướng sở chuyển
chúng đa ngôn thuyết, ưng tri giai thị chân ngôn. Thị cố, Bí Mật Chủ! Chân ngôn
môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát dĩ phát Bồ Đề tâm, ưng đương trụ Như Lai địa, họa
Mạn-đồ-la. Nhược dị thử giả, đồng báng chư Phật, Bồ Tát, việt tam-muội-da, quyết
định đọa ư ác thú.
(經)祕密主!如是上首諸如來印,從如來信解生,即同菩薩之幖幟,其數無量。又祕密主!乃至身分舉動住止,應知皆是密印;舌相所轉眾多言說,應知皆是真言。是故祕密主!真言門修菩薩行諸菩薩已發菩提心,應當住如來地,畫漫荼羅。若異此者,同謗諸佛菩薩,越三昧耶,決定墮於惡趣。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Các ấn thượng thủ của Như
Lai như thế đều sanh từ tín giải của Như Lai, giống như các biểu trưng của Bồ
Tát, số nhiều vô lượng. Lại này Bí Mật Chủ! Hãy nên biết: Cho đến cử động, hành
xử nơi thân phần [của Như Lai] đều là mật ấn. Rất nhiều ngôn thuyết do tướng lưỡi
phát ra, hãy nên biết đều là chân ngôn. Do vậy, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hạnh
Bồ Tát trong Chân Ngôn môn đã phát Bồ Đề tâm, hãy nên trụ nơi Như Lai địa, vẽ Mạn-đồ-la.
Nếu khác với điều này, sẽ giống như là báng bổ chư Phật, Bồ Tát, trái vượt
tam-muội-da, quyết định đọa vào đường ác).
Như Lai đã chứng pháp giới bình đẳng, do sức đại bi nơi bổn
nguyện, dùng thần lực gia trì mà hiện ra môn phương tiện Thân Mật này, vì
khiến cho hết thảy chúng sanh đều được tin hiểu, cùng nhập hết thảy các trí địa.
Do đó, hãy nên biết các ấn như thế đều sanh từ sự tín giải của Phật. Hãy nên biết
các ấn như thế là biểu trưng của các vị Bồ Tát, tức là dùng phương tiện này để
chỉ bày các đức nội chứng của Như Lai. Vì thế nói “tiêu biểu”. Các ấn rất nhiều, thậm chí các cử động, hành vi nơi
thân thể đều là ấn. Nếu A-xà-lê hiểu rõ Du Già, thấu đạt sâu xa đường lối bí mật,
có thể tịnh hóa cái tâm Bồ Đề, do tâm tịnh bèn thông đạt pháp bí mật. Phàm làm
gì cũng đều nhằm tạo lợi ích điều phục chúng sanh; hễ làm bất cứ điều gì, không
gì chẳng tùy thuận oai nghi của Phật. Vì thế, hết thảy tất cả cử động, tạo tác
nơi thân, không gì chẳng phải là ấn, há chỉ thân nghiệp mà thôi ư? Cho đến hết
thảy tất cả ngôn ngữ cũng lại đều là chân ngôn.
“Thị cố, Bí Mật Chủ! Chân
ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát dĩ phát Bồ Đề tâm, ưng đương trụ Như Lai địa,
họa Mạn-đồ-la” (Vì thế, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân
Ngôn môn, hãy nên trụ nơi địa vị Như Lai, vẽ Mạn-đồ-la): Nếu nói “các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh trong đời
hiện tại và vị lai mà cùng phạm tội vượt tam-muội-da, quyết định đọa vào đường
ác”, thì có nghĩa là nói: “Các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh trong đời hiện
tại và vị lai đã phát đại tâm, hãy nên trụ trong Phật địa; sau đấy, tạo lập Mạn-đồ-la.
Nếu chẳng làm đàn tràng như thế, sẽ chính là báng Phật!” Vì thế, đối với những
điều đã nói trên đây, bậc A-xà-lê phải nên biết các pháp thuộc về ấn khế và
chân ngôn v.v… Đối với mỗi điều, đều khéo thông đạt quy cách, pháp tắc. Lại còn
nên tu hạnh Du Già lâu ngày, tịnh hóa thân khẩu, ý, nghiệp, thấu hiểu hạnh thuộc
pháp môn tam nghiệp bình đẳng, do được gia trì bởi phép Du Già, chân ngôn, và
thân ấn v.v…, sẽ liền có thân giống như chư Phật, Bồ Tát, cùng thuộc vào địa vị
Phật. Do tương ứng với tam-muội, chẳng trái nghịch sự lý, kiến lập cái đàn hình
tròn, cho đến nơi chốn, phương vị, màu sắc, hình tượng v.v… mỗi mỗi đều xứng
lý, lại chẳng sai sót, khéo biết thứ tự; hãy nên biết người ấy ắt sẽ đạt được lợi
ích to lớn, chẳng hư dối. Nếu chẳng như vậy, sẽ mắc tội “vượt tam-muội-da”. Tam-muội-da là tự thệ. Thệ nguyện vốn có của
hết thảy Như Lai chính là “vì khắp hết
thảy chúng sanh mà khai tri kiến Phật, khiến cho họ đều giống như ta”.
Do phương tiện mà lập ra pháp này. Vì thế, giống như mạng lệnh, sắc chỉ của đại
vương trong thế gian chẳng thể vượt qua. Kẻ trái vượt ắt sẽ mắc tội nặng nề! Vì
thế, phải nên tương ứng với Bồ Đề tâm, trụ trong Phật địa mà làm. Kẻ nào chẳng
thuận theo lời dạy, sẽ phí uổng công phu, bỏ lỡ hoàn cảnh thuận tiện, trọn chẳng
thành tựu, chỉ chuốc lấy tội vạ, chẳng có lợi ích gì! Vì thế, hành giả ắt phải
nên suy xét, tìm cầu kinh pháp, lại còn thưa hỏi bậc thầy sáng suốt khai thị để
đừng tự sai lầm. Phẩm nói rộng về các ấn đã xong!
[1] Ngoài
cách hiểu này, còn có nhiều cách hiểu khác như: Tay trái là Chỉ, tay phải là
Quán. Tay trái là Phước, tay phải là Trí. Tay trái là Lý, tay phải là Trí. Tay
trái là Quyền, tay phải là Thật. Tay trái là tam-muội, tay phải là Bát Nhã. Tay
trái là Thai Tạng Giới, tay phải là Kim Cang Giới v.v…
[2] Đối với
năm ngón tay, nếu phối hợp với Ngũ Uẩn thì ngón út là Sắc, ngón áp út là Thọ,
ngón giữa là Tưởng, ngón trỏ là Hành, ngón cái là Thức. Nếu ứng với Ngũ Căn thì
ngón út là Tín, ngón áp út là Tấn, ngón giữa là Niệm, ngón trỏ là Định, ngón
cái là Huệ. Ứng với Thập Độ (Thập Ba La Mật) thì tay trái (tính từ ngón út trở
ngược lại) sẽ là Đàn, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền (lời Sớ gọi là Định). Tay phải
(cũng tính từ ngón út trở ngược lại) sẽ là Tuệ (Bát Nhã), Phương Tiện, Nguyện,
Lực, Trí. Đôi khi nói đảo lại, nhưng vẫn theo thứ tự trên đây (tức ngón út
trong tay phải sẽ là Đàn v.v...). Nếu tương ứng với ngũ tự thì ngón út là A,
ngón áp út là Vi, ngón giữa là Ra, ngón trỏ là Hum, và ngón cái là Khaṃ (Đó là
cách hiểu theo các nghi quỹ trong Nhiếp Đại Quỹ, Liên Hoa Bộ Tâm Quỹ). Nếu hiểu
theo Thai Tạng Phạm Tự Thứ Đệ và Thai Tạng Bị Tại Thứ Đệ thì năm chữ tương ứng
sẽ là A, Vaṃ, Raṃ, Haṃ, Khaṃ.
[3] Ấn này
và ấn Thí Vô Úy giống nhau, điểm khác biệt là ấn Thí Vô Úy thì đầu ngón tay hướng
lên trên, còn ấn Dữ Nguyện thì các đầu ngón tay hướng xuống dưới.
[4] Chữ He (हे)
gồm có chữ Ha (ह) và âm E (ए) ghép lại,
do âm E được viết phía trên chữ Ha nên gọi là “vạch tam-muội”.
[5] Sở dĩ
chánh kinh phiên âm thành “đát tha nghiệt đảng củ xa” là do âm A cuối chữ
tathāgata và âm A khởi đầu của chữ aṅkuśa sẽ ghép lại thành một âm A dài, tức
ā, nên đọc thành tathāgatāṅkuśa.
[6] Ở đây lời
chú giải nói duỗi hai ngón út và áp út, dựng thẳng ngón cái, tức là cả ba ngón
duỗi ra, trong khi chánh kinh chỉ nói duỗi hai ngón út và trỏ, các ngón khác gập
vào lòng bàn tay. Không biết đây là có phải là lỗi sai sót do khắc ván hay
không?
[7] Tâm đại
chủng tức là tâm sanh từ Tứ Đại, tức cái tâm vật chất.
[8] Chánh
kinh nói “dĩ Hư Không luân trì Thủy luân đệ nhị tiết” (dùng ngón cái bấm vào
lóng thứ hai của ngón áp út), lời Sớ lại nói: “Dĩ Không niếp Địa chỉ đệ nhị tiết”
(Bấm ngón cái vào lóng thứ hai của ngón út). Đây có lẽ là sai sót trong khi sao
chép hay khắc ván, không rõ ngón nào mới là đúng, nhưng lời Sớ nhiều lượt nhắc
tới ngón út trong khi giải thích ấn này, có lẽ ngón út mới là đúng.
[9] Kiếp Bát
La (Kapāla) có nghĩa là cái chén làm bằng nửa trên của xương sọ. Các vị tôn
thánh phẫn nộ trong Mật giáo thường được miêu tả cầm cái chén này, đựng đầy máu
tươi. Hiện thời, chén Kiếp Bát La được dùng như vật phẩm để đựng các thứ cúng
dường trong Mật giáo Tây Tạng, nhưng thường làm bằng đồng.
[10] Giá Văn
Trà còn được ghi là Chamundi, Charchika, hoặc Chamundeshwari, là một trong bảy
vị Matrika (Thất Mẫu). Theo truyền thống Mật Giáo Tây Tạng, vị này là thủ lãnh
của sáu mươi bốn (có thuyết nói là tám mươi mốt) Du Già Nữ (Yoginis). Họ là tùy
tùng của Tuyết Sơn Thần Nữ (Parvati, tức Ô Ma Thiên Phi, vợ của Đại Tự Tại
Thiên). Ấn Độ giáo coi vị này là thân hóa hiện của Parvati, hoặc Hắc Thiên Nữ
(Kali), hoặc Nan Cận Mẫu (Durga) tùy thuộc quan niệm của từng bộ phái.
[11] Vīṇā là
một loại đàn của Ấn Độ (thường được viết là Veena, Vina, Bina, hay Beena, tùy
theo khẩu âm của từng vùng). Đây là một loại nhạc khí rất lâu đời, hiện thời vẫn
sử dụng rất phổ biến tại Ấn Độ (nhất là trong các đền thờ Ấn giáo). Thần thoại Ấn
Độ nói loại đàn này do thần Shiva sáng chế. Loại đàn này khá cồng kềnh, cán dài
từ 1 đến 2 m, chia thành hai mươi bốn phím đàn. Đầu cán đàn uốn cong, có trục để
lên dây, đầu cán đàn và bầu đàn thường là hai quả bầu rất to, thân đàn có hình
thuôn thuôn như quả lê. Đàn có bốn dây chính và ba dây phụ. Người chơi đàn đeo
vuốt bằng kim loại ở hai ngón cái và ngón trỏ để khảy, vuốt dây đàn. Các dây phụ
có âm trầm thấp, rền rĩ, thường được búng bằng ngón út. Loại đàn này có rất nhiều
biến thể như Rudra veena, Sarawasti veena, Vichitra veena, sitar, surbahar v.v…
tùy thuộc cách cấu tạo bầu cộng hưởng, số dây, có phím, hay không phím v.v…
[12] Đàn sắt
(瑟) là một loại đàn thời cổ, có hình chữ nhật
dài (to thô hơn đàn cầm, đàn cầm mảnh mai hơn nhiều), gồm hai mươi lăm dây. Dưới
các dây đàn có các con nhạn (tức các khối gỗ đỡ hình tam giác tù có thể di chuyển
để điều chỉnh độ căng của dây đàn). Loại đàn này phải đánh hai tay bằng cách
búng dây, phổ biến nhất vào đời Hàn và thường dùng để hòa tấu với đàn Cổ Cầm.
Sang đời Tần, loại đàn này bị không được sử dụng nữa, và bị thay thế bởi đàn
Tranh.
[13] Graha vừa
có nghĩa là chấp diệu (chín ngôi sao, tức mặt trời, mặt trăng, Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ, La Hầu, Kế Đô), vừa là tên một loại quỷ chuyên bám vào con người khiến
cho họ khủng hoảng.
[14] Trong bản dịch của Rolf W. Giebel, chữ cuối trong tiếng Phạn của chú này chỉ ghi là Ha, trong khi bản Hán ghi là Sa Ha.
Comments
Post a Comment