Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

9. Phẩm thứ chín: Mật Ấn

Mật n Phẩm ĐCửu

密印品第九

 

 

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát chư đại chúng hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Hữu đồng Như Lai trang nghiêm cụ, đồng pháp giới thú tiêu xí, Bồ Tát do thị nghiêm thân cố, xử sanh tử trung, tuần lịch chư thú, ư nhất thiết Như Lai đại hội, dĩ thử đại Bồ Đề tràng nhi tiêu xí chi. Chư thiên, long, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà, A Tô La, Yết Rô Đồ, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân đẳng, kính nhi nhiễu chi, thọ giáo nhi hành. Nhữ kim đế thính, cực thiện tư niệm, ngô đương diễn thuyết”. Như thị thuyết dĩ, Kim Cang Thủ bạch ngôn: “Thế Tôn! Kim chánh thị thời, Thế Tôn! Kim chánh thị thời”.  

          ()爾時薄伽梵毘盧遮那觀察諸大眾會告執金剛祕密主言祕密主有同如來莊嚴具同法界趣幖幟菩薩由是嚴身故處生死中巡歷諸趣於一切如來大會以此大菩提幢而幖幟之諸天夜叉乾達婆阿蘇囉揭嚕荼緊那囉摩睺羅伽人非人等敬而遶之受教而行汝今諦聽極善思念吾當演如是 金剛手白

世尊今正是時世尊今正是時

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát các đại chúng hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Có một ấn giống như vật trang nghiêm của Như Lai, có cùng biểu trưng với các đường trong pháp giới. Bồ Tát dùng ấn đó để trang nghiêm thân, ở trong sanh tử, trải khắp các đường, ở trong các đại hội của hết thảy Như Lai, dùng đại Bồ Đề tràng này để làm vật tiêu biểu. Các trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà (Càn Thát Bà), A Tô La (A Tu La), Yết Rô Đồ (Ca Lâu La), Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… kính trọng, nhiễu quanh, vâng theo lời dạy mà hành. Ông nay hãy lắng nghe, cực khéo suy nghĩ, ta sẽ diễn nói”. Nói như thế xong, ngài Kim Cang Thủ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chính là phải lúc. Bạch Thế Tôn! Nay chính là đúng lúc”).

 

          Đức Phật đã nói đại lược nghi thức và pháp tắc quán đảnh, Ngài lại còn có điều muốn nói, bèn quán sát đại hội nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật, chẳng phải là không có nhân duyên, tức là Ngài sẽ nói về các ấn nơi thân mật của Như Lai. Kế đó, Ngài liền bảo Kim Cang Thủ, có ấn tên là “Như Lai trang nghiêm cụ đồng, pháp giới thú tiêu xí đồng” (giống như vật trang nghiêm của Như Lai, giống như vật biểu trưng của các đường trong pháp giới), ý nói: Hết thảy chư Phật do dùng ấn ấy để trang nghiêm mà được thành tựu thân pháp giới của Như Lai. Nếu có chúng sanh hành pháp này, do được ấn ấy gia trì, cũng sẽ giống như thân pháp giới của Như Lai. Ấn ấy chính là vật tiêu biểu cho pháp giới. Dùng ấn ấy để nêu bày cái Thể của pháp giới, bèn gọi nó là “pháp giới tràng”. Chư Phật dùng nó để trang nghiêm thân. Trong hết thảy các đại hội, hễ kiến lập vật biểu trưng cho Vô Thượng Đại Bồ Đề này, sẽ có thể khiến cho kẻ ác tà kiến trong tám bộ đại chúng lánh xa, người có căn tánh tốt lành sẽ thân cận, tu hành đúng theo lời dạy. Các vị hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ tột bậc, ta nay sẽ tuyên nói.

          “Thế Tôn! Kim chánh thị thời. Thế Tôn! Kim chánh thị thời” (Bạch Thế Tôn! Nay là đúng lúc. Bạch Thế Tôn! Nay là phải lúc): Nhắc lại hai lần đều có ý nghĩa. Thời điểm nói lần thứ nhất là Ca La thời, hàm ý: Trong đại chúng này chẳng có cành lá, thuần là chân thật, kham tiếp nhận đại pháp, Như Lai ứng cơ mà nói, nay chính là đúng lúc. Kế đó là Tam-ma-da thời, tức là “thời” trong thời phần, nay chính là đúng dịp để thuyết pháp vậy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm tức tiện trụ ư Thân Vô Hại Lực tam-muội, trụ tư Định cố, thuyết Nhất Thiết Như Lai Nhập Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh Phi viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa ha.

          ()爾時薄伽梵即便住於身無害力三昧住斯定故說一切如來入三昧耶遍一切無能障礙力無等三昧力明妃曰南麼三曼多勃馱喃阿三迷三迷三麼曳莎訶

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm liền trụ trong Thân Vô Hại Lực tam-muội. Do trụ trong Định ấy, nói Nhất Thiết Như Lai Nhập Tam-muội-da Biến Nhất Thiết Vô Năng Chướng Ngại Lực Vô Đẳng Tam-muội Lực Minh Phi rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tam mê, đát rị tam mê, tam ma duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, asame trisame samaye svāhā”).

 

          Vì mãn nguyện ấy, đức Phật lại nhập tam-muội. Đấy chính là sức tự tại nơi vô lượng thân của Như Lai, cho nên không ai có thể hại được! Trụ trong tam-muội này mà nói chân ngôn Tam Minh. Minh ấy có tên là sức Vô Ngại Vô Hại Vô Đẳng. Do tam-muội-da ấy, các người học được nghe, được nhập chánh pháp. Nếu chẳng hành pháp này, sẽ chẳng thích hợp nhập đàn, cũng chẳng thích hợp nghe bí giáo. Nếu tu Minh này, sẽ có thể đạt được thân tịnh, ngữ tịnh, sở nguyện được thỏa mãn, trọn đủ ba thân. Vì thế, gọi là Tam Minh. Tam Lực tức là tam thế lực (sức trong ba đời), hoặc là tam bình đẳng lực. “Vô đẳng lực” chính là ba sức ấy. Kế đó, nói ra Minh ấy: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm (Namaḥ samantabuddhānāṃ). A sa mê (Asame, vô đẳng), đát-rị tam mê (trisame, tam đẳng), tam ma duệ (samaye, tức là tam-muội-da), sa ha (svāhā, cảnh tỉnh, phát khởi)”.

          “A sa mê”: Minh này lấy chữ A làm đầu, tức là giống như Pháp Thân của chư Phật vô tướng, ly tướng. Hãy nên biết Pháp Thân ấy chẳng thể sánh bằng. “Tam-mê” tức là ba thân của Phật, tức Pháp, Báo, Hóa, hợp thành một thân, giáo hóa chúng sanh, cũng là bản thể tương đồng với môn chữ A: Vô tướng, ly tướng! Vì thế nói là Đẳng. Tam-muội-da có nghĩa là “chẳng thể vượt qua”. Đó là “vô đẳng, tam đẳng” mà các đức Như Lai cùng nói. Đức Phật trụ trong tam-muội, nói ra sức vô hại vô đẳng của Minh này. Do Minh này mà có thể nhập tam-muội-da. Tam-muội-da này chính là thệ nguyện, giống như sắc truyền, là thệ nguyện trọng yếu căn bản của tam thế chư Phật. Pháp môn này khó tin, khó nhập, khó thể được nghe, do pháp chẳng thể gặp vậy! Vì đó, tam thế chư Phật cùng nói chân ngôn này. Do tam-muội-da chân ngôn này gia bị, [người học] sẽ được nhập, lắng nghe, tu hành pháp này. Giống như lời dạy của bậc tôn quý, chẳng thể trái vượt. Nếu chẳng nghe, tức là chẳng được nhập, mà cũng chẳng được nghe. Sa-ha (Svāhā) có nghĩa là “cảnh phát” (nhắc nhở), tức là dùng chân ngôn này để nhắc nhở chư Phật. Khi nói Minh này, chư Phật liền được nhắc nhở mà khởi tâm gia trì hành nhân. Do sức của Minh này, có thể thỏa mãn các địa vị, có thể khiến cho người tu đạt được ba pháp trong hiện tại, tức là thành tựu bao gồm ba pháp, chính là sức của Bổn Tôn, chân ngôn, và ấn. Ba pháp giới ấy liền được thành tựu!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị Minh Phi thị hiện nhất thiết Như Lai địa, bất việt tam pháp đạo giới viên mãn địa Ba La Mật. Thị mật ấn tướng, đương dụng Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, dĩ Định Huệ nhị hư không luân tịnh hiệp nhi kiến lập chi. Tụng viết: - Thử nhất thiết chư Phật, cứu thế chi đại ấn, Chánh Giác tam-muội-da, ư thử ấn nhi trụ.             

()祕密主如是明妃示現一切如來地不越三法道界圓滿地波羅蜜是密印相當用定慧手作空心合掌以定慧二虛空輪並合而建立之頌曰此一切諸佛,救世之大印,正覺三昧耶,於此印而住。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Minh Phi như vậy thị hiện hết thảy các Địa của Như Lai, chẳng vượt qua giới hạn của tam pháp đạo, viên mãn Thập Địa và Ba La Mật. Tướng của mật ấn này là hãy dùng tay Định (trái) và Huệ (phải) kết không tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón hư không (ngón cái) của hai tay đặt sát lại để kết thành ấn. Tụng rằng: - Đại ấn cứu thế này, của hết thảy chư Phật, Chánh Giác tam-muội-da, trụ ở trong ấn này).     

         

          Kế đó, nói đến tướng thủ ấn. “Bất việt tam pháp đạo giới”: Giới hạn ấy chính là cái quả do [A-xà-lê tác pháp] kết đại giới, chẳng phải là Đà Đô (Dhatu) [trong “pháp giới”]. [Khi tác pháp, A-xà-lê hoặc hành nhân] đi [trên lối đi] giữa các đường ranh trong đàn nên nói là “chẳng trái vượt”. Nay trong phẩm này nói mười hai loại danh tướng của “hiệp chưởng” (pranāma, chắp tay). Phàm trong các ấn pháp, mười hai loại [hiệp chưởng] này tột bậc trọng yếu, phải nên nhớ rõ:

          - Thứ nhất, chắp tay sao cho lòng bàn tay áp chặt vào nhau, mười đầu ngón tay hơi tách rời nhau đôi chút. Cách này gọi là Ninh Vĩ Noa (Nevina, Nivida) hiệp chưởng (đó gọi là “kiên thật hiệp chưởng”).

          - Thứ hai, kế đó, đặt mười đầu ngón tay ngang nhau, các đầu ngón tay áp vào nhau, lòng bàn tay hơi tách ra [nhưng rìa bàn tay vẫn chạm nhau] thì gọi là Tam Bổ Trá (Saṃpuṭa) hiệp chưởng (phương này (Trung Hoa) gọi là “hư tâm hiệp chưởng”).

          - Thứ ba, kế đó, mười đầu ngón tay áp vào nhau, các ngón tay cũng đặt ngang nhau, nhưng giữ cho khoảng trống giữa hai lòng bàn tay rộng hơn [khiến cho hai lưng bàn tay hơi khum khum] thì gọi là Khuất Mãn La (Kumala) hiệp chưởng (phương này nói là “như búp sen”).

          - Thứ tư, kế đó, hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (ngón út) chạm vào nhau, các ngón khác đều hơi tách ra, gọi là Bộc Noa (Pūṇa, Bhagna) hiệp chưởng (phương này gọi là “sen vừa mới chớm nở”).

          - Thứ năm, kế đó, lại ngửa hai bàn tay đặt sát nhau, sao cho [hai ngón út đặt kế nhau, các đầu ngón tay] đều hướng lên trên cùng phô lòng bàn tay ra [lòng bàn tay hướng về phía người lễ bái], thì gọi là Ốt Đa Na Nhã (Uttānaja) hiệp chưởng (phương này gọi là Lộ).

          - Thứ sáu, kế đó, lại cùng ngửa lòng bàn tay [sao cho đầu ngón tay] hướng lên trên giống như trong loại trên, nhưng đầu các ngón chụm lại, sao cho hơi cong giống như dáng vẻ đang vốc nước (chớ quá cong ngón tay), thì gọi là A Đà Ra (Ādhāra) hiệp chưởng (phương này dịch là Trì Thủy).

          - Thứ bảy, kế đó, mười đầu ngón tay xen kẽ, đều là các ngón tay phải gác lên đầu các ngón trái, giống như kim cang hiệp chưởng (cách này gọi là “quy mạng hiệp chưởng”), tiếng Phạn là Bát Ra Noa Ma (Praṇāma) hiệp chưởng.

          - Thứ tám, kế đó, lại dùng tay phải đặt trên tay trái sao cho lòng bàn tay xoay ngược ra ngoài, mười đầu ngón tay đan vào nhau, cũng là sao cho ngón phải gác lên ngón trái, gọi là Vi Bát Rị Đá (Viparīta) hiệp chưởng (phương này nói là “phản xoa hiệp chưởng”).

          - Thứ chín, kế đó, lại dùng tay phải ngửa lên, đặt trên tay trái, tay trái che dưới lưng bàn tay phải, hơi giống như khi người tọa Thiền chồng tay lên nhau. Cách này gọi là Tỳ Bát Ra Rị Duệ Tát Đá (Vīparyasta) hiệp chưởng (phương này gọi là Phản Bối Tương Trước hiệp chưởng).

          - Thứ mười, ngửa hai lòng bàn tay [giống như trong cách thứ năm, lòng bàn tay hướng về thân người lễ bái] sao cho đầu của hai ngón giữa chạm nhau hướng lên trên, gọi là Đế Rị Duệ (Tiryak) hiệp chưởng (phương này gọi là Hoành Trụ Chỉ hiệp chưởng).

          - Thứ mười một, kế đó, cùng úp hai bàn tay, cũng dùng hai ngón giữa chạm vào nhau, gọi là A Đà Ra (Adhara) hiệp chưởng (phương này nói là “chắp tay bằng cách úp lòng bàn tay xuống dưới”).

          - Thứ mười hai, hai bàn tay cùng úp xuống, hai ngón cái đặt ngang nhau, chạm vào nhau, mười đầu ngón tay hướng ra phía ngoài, cũng có cùng tên gọi với cách trên đây (tức cũng gọi là “chắp tay bằng cách úp lòng bàn tay xuống”).

          Đối với tam-muội-da ấn đang nói ở đây, trước là chắp tay theo kiểu Tam Bổ Trá (tức hư tâm hiệp chưởng, trước là để lòng bàn tay cách xa, dần dần ép lại gần, [sao cho] giữa hai lòng bàn tay có khoảng trống là được). Dùng hai ngón Không (ngón cái) đặt ngang nhau, dựng thẳng lên, đừng quá thấp, mà cũng đừng quá khum, cốt sao hai ngón cái dựng thẳng lên là được (trong năm ngón tay, ngón út gọi là Địa, ngón áp út (ngón vô danh, ngón đeo nhẫn) là Thủy, ngón giữa là Hỏa, ngón trỏ là Phong, ngón cái là Địa. Tay trái là Định, tay phải là Huệ[1]). Cũng có thể hiểu ngón út trong tay trái là Đàn (bố thí), theo thứ tự tính về trước thì ngón trỏ là Định. Ngón út trong tay phải là Huệ Độ, tính theo thứ tự hướng về phía trước thì ngón trỏ là Trí Độ[2]. Nếu lúc mới tu hành, làm các thiện phẩm, mà nếu trước đó không kết tam-muội-da ấn này, sẽ chẳng thích hợp để thực hiện các pháp. Không chỉ là kết ấn này, mà còn phải tụng chân ngôn nói trên. Tác pháp thì trước hết dùng tam-ma-da ấn để đặt lên đỉnh đầu, tụng chân ngôn trên đây một lượt. [Kế đó], đặt ấn này nơi vai phải. Kế đó, đặt trên vai trái, rồi đặt nơi tim, kế đó đặt nơi họng. Cứ mỗi lần đặt, đều tụng minh chú một lần. Phàm tụng năm lần thì ấn năm chỗ. Nhưng chân ngôn này có công đức gì vậy? Do chân ngôn này có thể trừ túc chướng, tịnh hóa tự thân, khiến cho thân đã thanh tịnh thì ngoại chướng cũng tịnh trừ. Do chướng bên ngoài đã tịnh trừ, các chướng đều chẳng nhập được. Đấy chính là đại hộ (sự thủ hộ to lớn). Do có thể hộ trì chẳng thể nghĩ bàn như vậy, phước tùy ý tăng trưởng, tội tự nhiên trừ, chư Phật được nhắc nhở, thỏa mãn sở nguyện.

 

          (Kinh) Hựu dĩ Định Huệ thủ vi quyền, hư không luân nhập ư chưởng trung, nhi thư phong luân, thị vi Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám.

          ()又以定慧手為拳虛空輪入於掌中而舒風輪是為淨法界印真言曰南麼三曼多勃陀喃達摩馱睹薩嚩婆嚩俱唅

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ (tay trái và tay phải) nắm thành quyền, hư không luân (ngón cái) gập vào lòng bàn tay, [các ngón khác ôm lấy ngón cái], duỗi phong luân (ngón trỏ ra). Đó là Tịnh Pháp Giới Ấn. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma đà đổ, tát phạ bà phạ câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, dharmadhātu-svabhāvako haṃ”).

 

          Lại nữa, kế đó là Pháp Giới Sanh chân ngôn: - “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đạt ma đà đổ” (dharmadhātu: Pháp giới), “tát phạ bà phạ” (svabhāva: Tánh), “câu hám” (ko haṃ: ta). Đạt Ma Đà Đổ là pháp giới, pháp giới chính là thân Phật. Câu cuối cùng là Ngã, ý nói: “Ta chính là pháp giới”. Lại nữa, hành giả tuy chưa thể thấu hiểu chân tánh, nhưng kết ấn này, tụng chân ngôn, cũng chính là “Thể đồng pháp giới”. Ấn ấy dùng hai ngón Không (ngón cái) gập vào lòng bàn tay, dùng ba ngón Địa, Thủy, Hỏa (ngón út, vô danh, giữa) ôm lấy ngón cái thành quyền, dựng thẳng hai ngón Phong (ngón trỏ). Hai bàn tay đều nắm thành quyền riêng biệt, dựng thẳng ngón trỏ. Trước là dựng hai ngón trỏ ấy cho chúng chạm đầu nhau, đặt ngang ngực, hướng vào trong mà chuyển, khiến cho các ngón tay từ hai bên đỉnh đầu tới gần hai bên má, hướng vào trong hơi kéo xuống dưới, tức là trước hết dựng thẳng ngón trỏ, khiến cho đầu ngón tay hơi hướng xuống dưới, lưng ngón tay hướng vào trong, đặt gần đầu và má, dần dần hướng xuống dưới, tới nơi tim thì xả ấn. Phàm tụng chân ngôn, kết ấn, ví như dùng trâu cày đôi, hai con trâu cùng tiến, chẳng được trước sau!

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân giai đẳng, điệt phiên tương câu, nhị hư không luân, thủ câu tương hướng. Tụng viết: “Thị danh vi thắng nguyện, cát tường pháp luân ấn, thế y cứu thế giả, tất giai chuyển thử luân”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám.         

()復以定慧手五輪皆等迭翻相鉤二虛空輪首俱相向頌曰是名為勝願,吉祥法輪印,世依救世者,悉皆轉此輪。真言曰南麼三曼多勃馱喃伐折囉俱唅

          (Kinh: Lại dùng tay Định, Huệ (trái và phải) năm ngón đều đặt ngang nhau, các ngón đâu lưng móc vào nhau, đầu hai ngón hư không (ngón cái) hướng vào nhau. Tụng rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp luân cát tường, đấng đời nương cứu thế, thảy đều chuyển ấn này”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạt chiết ra đát ma câu hám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vajrātmako haṃ’).        

 

          Kế đó, lại kết ấn. Trước hết, chắp tay sao cho lưng hai bàn tay áp vào nhau. Dùng hai ngón Địa (ngón út) móc vào nhau (sao cho ngón phải ở trên ngón trái). Các ngón Thủy, Hỏa, Phong theo thứ tự móc vào nhau. Cuối cùng, hai ngón Không (ngón cái) chống vào nhau hướng vào lòng bàn tay. Đấy là Chuyển Pháp Luân Ấn. Do kết ấn này, khiến cho thân tâm người ấy (người trì chú) thân tâm thanh tịnh, có thể thấy mười phương Phật chuyển pháp luân. Chân ngôn đã được giải thích trong phần trước.

 

          (Kinh) Phục thư Định Huệ nhị thủ, tác quy mạng hiệp chưởng, Phong luân tương niệp. Dĩ nhị Không luân gia ư thượng, hình như Khiết-già, tụng viết: “Thử đại huệ đao ấn, nhất thiết Phật sở thuyết, năng đoạn ư chư kiến, vị câu sanh Thân Kiến”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi ra xà, đạt ma san nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại lật sắt trí xế nặc ca, đát tha nghiệt đa địa mục cật để nễ xã đa. Vi ra già đạt ma nễ xã đa hồng.

          ()復舒定慧二手作歸命合掌風輪相捻以二空輪加於上形如朅伽頌曰此大慧刀印,一切佛所,能斷於諸見,謂俱生身見。真言曰南麼三曼多勃馱喃摩訶朅伽微囉闍達麼珊捺囉奢迦娑訶闍薩迦耶捺瑟致掣諾迦怛他蘖多地目訖底儞社多微囉伽達摩儞社多   

          (Kinh: Lại duỗi tay Định và Huệ để quy mạng hiệp chưởng, ngón Phong luân (ngón trỏ) bấm vào nhau, dùng hai ngón Không luân (ngón cái) đặt lên đó, có hình dạng như gươm Khiết-già, tụng rằng: “Đại huệ đao ấn này, do hết thảy Phật nói, hay đoạn trừ các kiến, tức câu sanh Thân Kiến”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha khiết già vi ra xà, đạt ma san nại ra xa ca sa ha xà, tát ca da nại-lật sắt-trí xế nặc ca, đát tha nghiệt đa địa mục cật để nễ xã đa. Vi ra già đạt ma nễ xã đa hồng - Namaḥ samanta buddhānāṃ, mahākhaḍga viraja-dharmasaṃdarśaka sahajasatkāya-dṛṣṭicchedaka tathāgatā-dhimukti-nirjāta virāga dharmanirjāta hūṃ”).

 

          Kế đó, kết Đao Ấn. Đao ví như trí huệ sắc bén, do có ý nghĩa “có thể đoạn trừ”, tức là trừ ngọn núi ác kiến. Như quả núi lớn có rất nhiều ngọn lô nhô. Phiền não cũng thế. Nay kết đao ấn này, do ấn này [có công năng] như trên đã nói. Liền gập hai ngón Phong (ngón trỏ) sao cho hai đầu ngón chống vào nhau. Lấy hai ngón Không (ngón cái) áp sát, đè lên, giống như hình đại đao là được! Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm” (như đã giải thích trong phần trên). Đại đao vô cấu pháp hiện, cắt phăng Câu Sanh Thân Kiến (kiến chấp về cái thân từ lúc mới sanh ra đã có), sanh khởi tín giải của Như Lai, sanh khởi pháp vô tham. Tụng chân ngôn này bằng tiếng Phạn. Trong kinh đã giải thích ý nghĩa như đã nói trong phần trên. Chân ngôn này lấy chữ Ma đầu tiên làm tâm, có nghĩa là Ngã. Lại là chữ Ngũ Không điểm, có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Ý nghĩa ở đây là muốn trừ Ngã Kiến. Hãy nên biết Đao Ấn này chính là đại trí của chư Phật, do có thể đoạn dứt các kiến. Dùng đao cắt đứt gốc rễ phiền não, tức là đạt được pháp vô cấu hiện ra.

          Các thứ như Thân Kiến câu sanh chính là cấu. Nay đoạn các cấu ấy, chúng liền ngưng dứt. “Tà” là chưa ngưng dứt. Lại có pháp thù thắng, tức là đã trừ cấu rồi, sẽ sanh khởi tín giải của Như Lai (ý nghĩa này như đã giải thích lúc thoạt đầu). Tín giải của Như Lai là pháp như thế nào? Tức là các thiện căn như vô tham v.v… Do vậy, kế đó sanh ra chữ Ha (). Trong đó, chữ Ha là nhân. Vì trừ cái nhân ấy, bên cạnh có vạch thể hiện chữ A (हा) đọc âm dài, tức là hết thảy các pháp vốn bất sanh. Phía dưới có chữ Ổ (), nên là tam-muội. Trên đó, có chấm Đại Không (thành Huṃ, हुं). Tụng minh chú này có thể khiến cho hành giả trọn vẹn ba loại thân; do trong chữ [Hồng] này có ba nghĩa, tức là Pháp Thân hiện. Ngài Tam Tạng nói: “Phương Tây có pháp ấn rất bí mật, khi tác pháp lại tột bậc cung kính, phải ở trong căn phòng tôn quý, và là chỗ thanh vắng, thanh khiết. Phải nên tắm gội, trang nghiêm thân thể. Nếu không thể nhất nhất tắm gội, ắt phải rửa tay sạch, súc miệng, dùng hương bôi xoa lên tay v.v… rồi mới được tác pháp. Khi tác pháp, lại còn phải oai nghi chánh đáng, ngồi xếp bằng v.v… Nếu không như thế, sẽ mắc tội, khiến cho pháp chẳng thể nhanh chóng thành tựu”.

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ nhị thủ, tác hư tâm hiệp chưởng, khuất nhị Phong luân, dĩ nhị Không luân giảo chi, hình như thương-khư. Tụng viết: “Thử danh vi thắng nguyện, cát tường pháp loa ấn, chư Phật thế chi sư, Bồ Tát cứu thế giả, giai thuyết vô cấu pháp, chí tịch tĩnh Niết Bàn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám.

          ()復以定慧二手作虛心合掌屈二風輪以二空輪絞之形如商佉頌曰此名為勝願,吉祥法螺印,諸佛世之師,菩薩救世者,皆說無垢法,至寂靜涅槃。真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ kết hư tâm hiệp chưởng, gập hai ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng hai ngón Không (ngón cái) quấn lấy [như hai cái khuyên], hình dạng như thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Tụng rằng: “Đó gọi nguyện thù thắng, ấn pháp loa cát tường. Chư Phật: Thầy cõi đời, Bồ Tát: Đấng cứu thế. Đều nói pháp vô cấu, đạt Niết Bàn tịch tĩnh”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ samantabuddhānāṃ, aṃ”).

 

          Kế đó, kết Cát Tường Thương Khư Ấn. Trước hết, kết hư tâm hiệp chưởng (như trong phần trên), gập hai ngón Không (ngón cái), dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) đè lên, sao cho giống như hình thương-khư. Kết ấn xong, để gần miệng để thổi giống như cách thổi tù và. Đây là Mãn Nhất Thiết Nguyện Cát Tường Pháp Loa Ấn. Do kết ấn này, sẽ được mãn hết thảy các thiện nguyện, có thể tuyên nói đại pháp khiến cho mười phương đều cùng được nghe biết. Đấy chính là Tịch Tĩnh Niết Bàn Ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Tát phạ đá” (sarvathā, trọn khắp hết thảy), “ám”. Đấy là chân ngôn tâm; hết thảy các pháp vốn bất sanh. Trên đó, lại có một chấm, tức là Đại Không trọn hết thảy các chốn. Đây chính là thể tánh của Niết Bàn đại tịch, vạn đức vắng lặng, trọn khắp hết thảy mọi nơi!

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ tương hợp, phổ thư tán chi, do như Kiện Trá, nhị Địa luân, nhị Không luân tương trì, linh Hỏa, Phong luân hòa hợp, tụng viết: “Cát tường nguyện liên hoa, chư Phật cứu thế giả, bất hoại kim cang tòa, giác ngộ danh vi Phật. Bồ Đề dữ Phật tử, tất giai tùng thị sanh”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.

          ()復以定慧手相合普舒散之猶如健吒二地輪二空輪相持令火風輪和合頌曰吉祥願蓮華,諸佛救世者,不壞金剛座,覺悟名為佛,菩提與佛子,悉皆從是生。真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Lại dùng hai tay Định và Huệ hợp lại, tách trọn các ngón tay ra, giống như hình Kiện Trá (Ghaṇṭā, cái chuông lắc, cái linh). Hai ngón Địa luân (út) và Không luân (ngón cái) chống đỡ lẫn nhau, đầu các ngón Hỏa và Phong luân (ngón giữa và ngón trỏ) hòa hợp (tức là chụm vào nhau). Tụng rằng: “Hoa sen nguyện cát tường, chư Phật: Đấng cứu đời, tòa kim cang bất hoại, giác ngộ gọi là Phật. Bồ Đề và Phật tử, thảy đều từ đây sanh”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ”).

 

          Kế đó là tòa kim cang bất hoại. Ấn pháp thì trước hết dùng hai ngón Không (ngón cái) và hai ngón Địa (út) đều đặt song song nhau. Các ngón khác đều duỗi ra như [các cánh của] đóa sen nở. Kinh nói là hình dạng như cái linh. Kế đó, đổi thành ngón Địa (ngón út) và ngón Không chụm đầu với nhau. Sáu ngón giữa đó đều như tách ra như cũ. Trong đó, ngón Hỏa (ngón giữa) và Phong (ngón trỏ) [hơi khum khum], chỉ có ngón Thủy (ngón vô danh, ngón áp út) dựng thẳng là được. Đây là liên hoa tọa, cũng gọi là kim cang tọa. Do ngồi tòa này, có thể sanh ra chư Phật. Chư Phật đều do ngồi nơi đó, nên gọi là “ngồi cát tường”. Vì thế, gọi là “kim cang bất hoại tòa”. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như phần trên. A (आः, Aḥ) là chân ngôn tâm. Chữ A âm dài là “hành”, hai chấm bên cạnh là tam-muội. Vì khiến cho pháp này kiên cố, cho nên sau đó có chấm vậy. Quyền pháp (cách nắm tay thành nắm đấm) có bốn loại:

          - Thứ nhất, giống như cách nắm tay thường làm, ngón cái dựng thẳng; đó là cách thứ nhất.

          - Kế đó, là ngón Không (ngón cái) gập vào lòng bàn tay, [các ngón kia ôm lấy], gọi là Kim Cang Quyền, là cách thứ hai.

          - Các ngón tay đan chéo vào nhau, hợp thành quyền, sao cho mười ngón tay nằm bên ngoài. Đây gọi là Chỉ Tại Ngoại Quyền (ngón tay ở bên ngoài nắm đấm), tức là cách thứ ba (đều là ngón phải đè lên ngón trái).

          - Kế đó, mười ngón đan vào nhau sao cho mười ngón đều nằm trong lòng bàn tay, gọi là Nhị Thủ Quyền, tức là cách thứ tư (cũng là ngón phải đè lên ngón trái).

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân ngoại hướng vi quyền, kiến lập Hỏa luân. Thư nhị Phong luân, khuất vi câu hình, tại bàng trì chi. Hư không, Địa luân tịnh nhi trực thượng, Thủy luân giao hợp như bạt-chiết-la. Tụng viết: “Kim cang đại huệ ấn, năng hoại vô trí thành, hiểu ngụ thụy miên giả, thiên nhân bất năng hoại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng.                  

()復以定慧手五輪外向為拳建立火輪舒二風輪屈為鉤形在傍持之虛空地輪並而直上水輪交合如拔折囉頌曰金剛大慧印,能壞無智城,曉寤睡眠者,天人不能壞。真言曰南麼三曼多伐折羅𧹞。吽。

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ [đan vào nhau], năm ngón hướng ra ngoài, tạo thành quyền, dựng thẳng ngón giữa. Duỗi hai ngón trỏ, khum hình thành móc câu. Các ngón cái và út đều dựng thẳng lên, đặt sát nhau. Hai ngón áp út móc chéo như hình chày kim cang. Tụng rằng: “Kim cang đại huệ ấn, phá nát thành vô trí, giác ngộ kẻ ngủ say, trời, người chẳng thể hoại”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bạt chiết la nạn, hồng - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hūṃ”).        

 

          Kế đó, kết Kim Cang Ấn. Hai tay đều gập ngón Thủy (ngón áp út)

vào lòng bàn tay, dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) [cong lại], dựa vào lưng ngón Hỏa (ngón trỏ), nhưng đừng chạm vào. Đây chính Kim Cang Ấn (hai ngón Không, tức ngón cái, đặt sát nhau, dựng thẳng). Do Kim Cang Ấn này có thể phá hoại tòa thành vô trí, hết thảy đều chẳng thể phá hoại. Chân ngôn quy mạng như trước, bản thể của chú này chỉ có chữ Hồng (ý nghĩa chuẩn theo những điều đã nói trong các phần trước).

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, kiến lập Hỏa luân. Dĩ nhị Phong luân trí bàng, khuất nhị Hư Không tương tịnh. Tụng viết: “Thử ấn Ma Ha Ấn, sở vị Như Lai đảnh, thích tài kết tác chi, tức đồng ư Thế Tôn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng.

          ()復以定慧手五輪內向為拳建立火輪以二風輪置傍屈二虛空相並頌曰此印摩訶印,所謂如來頂,適纔結作之,即同於世尊。真言曰南麼三曼多勃馱喃。吽吽。

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ, năm ngón gập vào trong lòng bàn tay tạo thành quyền, dựng thẳng Hỏa luân (ngón giữa). Đặt hai ngón Phong luân (ngón trỏ) bên cạnh, gập hai ngón Hư Không (ngón cái), đặt sát nhau. Tụng rằng: “Ấn này Ma Ha Ấn, gọi là Như Lai đảnh, hễ vừa mới kết ấn, liền giống như Thế Tôn”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng hồng - Namaḥ samantabuddhānāṃ, hūṃ hūṃ”).

 

          Kế đó là Phật Đảnh  Ấn. Trước  hết  Chỉ  Hướng  Nội  Quyền (các

ngón tay đan vào nhau, gập vào trong lòng bàn tay thành quyền), duỗi hai ngón giữa đặt sát nhau. Kế đó, dùng hai ngón trỏ để dựa vào lưng ngón giữa, gập hai ngón cái, sao cho chúng đặt sát nhau là thành ấn. (Chỉ Hướng Nội Quyền ở đây tức là các đầu ngón tay hướng vào trong [lòng bàn tay]). Đại ấn này được gọi là Phật Đảnh. Khi kết pháp ấn này, sẽ giống như Nhân Giả. Nhân Giả tức là Như Lai; ý nói: Kết ấn này bèn giống như thân chư Phật. Chân ngôn của ấn này cũng có nghĩa là trọn đủ tam-muội giải thoát. Trước là nhân, sau là quả. Nhân là hạnh Như Lai, quả chính là Phật (nên kết ấn gia trì đỉnh đầu).

 

          (Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, trí ư mi gian. Tụng viết: “Thử danh Hào Tướng Tạng, Phật thường mãn nguyện ấn. Dĩ tài tác thử cố, tức đồng Nhân Trung Thắng”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A hám xà.          

()復以智慧手為拳置於眉間頌曰此名毫相藏,佛常滿願印,以纔作此故,即同仁中勝。真言曰南麼三曼多勃馱喃唅闍

          (Kinh: Lại dùng tay trí huệ nắm thành quyền, đặt ở giữa hai mày. Tụng rằng: “Đây gọi Hào Tướng Tạng, ấn Phật thường mãn nguyện. Vừa mới kết ấn này, liền như Nhân Trung Thắng”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A hám xà - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, āḥ haṃ jaḥ”).

 

          Kế đó là Hào Tướng Ấn của Như Lai. Dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, để ngón cái ra ngoài quyền, đặt ở giữa hai mày là thành ấn. Kết ấn này tức giống như Hào Tướng trọn đủ của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn như trong phần trên. A (Aḥ: Biết), Hám (Haṃ: cái nhân), Xà (Jaḥ, sanh). Do hạnh bất sanh này tịnh hóa hết thảy các nhân. Xà là “sanh bất khả đắc”.

 

          (Kinh) Trụ Du Già tòa, trì bát tương ứng, dĩ Định Huệ thủ câu tại tề gian, thị danh Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà.

          ()住瑜伽座持鉢相應以定慧手俱在臍間是名釋迦牟尼大鉢印真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Ngồi theo thế Du Già (tức ngồi xếp  bằng), cầm  bát  tương

ứng, hai tay Định và Huệ đều đặt ngang rốn. Đó gọi là Thích Ca Mâu Ni Đại Bát Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà - Namaḥ samantabuddhānāṃ, bhaḥ”).

 

          Kế đó, kết Như Lai Bát Ấn. Tay trái nắm hai góc y (cách thức là nắm lấy góc y ca-sa (phần không che vai) gần cánh tay và chỗ góc y che vai rủ xuống quấn quanh tay, cuộn vào trong lòng bàn tay, khiến cho hai góc y giống như hai cái tai). Vẫn chồng hai tay lên nhau, sao cho tay phải đè lên tay trái như tư thế đặt tay khi tọa Thiền, nâng lên ngang rốn, hơi co tay như tư thế vòng tay ôm bát là được. Kết ấn này sẽ giống như Như Lai nắm áo ca-sa, là oai nghi đặc trưng của chư Phật, cũng có thể khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng phải căn khí đều có thể kham làm pháp khí. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Bà” (Bhaḥ) có nghĩa là Hữu, tức là tam hữu (ba cõi). Do vốn bất sanh bèn lìa tam hữu, tam hữu vốn chẳng thể được! Ngoài tam hữu ấy, bèn có cái Hữu chân thật của Như Lai, tức là Pháp Thân của chư Phật vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ dĩ trí huệ thủ, thượng hướng nhi tác Thí Vô Úy hình. Tụng viết: “Năng thí dữ nhất thiết, chúng sanh loại vô úy. Nhược kết thử đại ấn, danh Thí Vô Úy giả”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà tha, thệ na thệ na, bà dã na xa na. Sa ha.            

()復次以智慧手上向而作施無畏形頌曰能施與一切,眾生類無畏,若結此大印,名施無畏者。真言曰南麼三曼多勃馱喃薩婆他也那奢娜莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ (tay phải) hướng lên trên làm tư thế Thí Vô Úy. Tụng rằng: “Có thể thí vô úy, cho hết thảy chúng sanh. Nếu kết đại ấn này, là bậc Thí Vô Úy”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà tha, thệ na thệ na, bà dã na xa na. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvathā jina jina bhayanāśana svāhā”).

 

          Kế đó, kết thủ ấn Thí Vô Úy (Abhaya). Tay trái giống như trên nắm hai chéo y, duỗi tay đặt ngang rốn, tay phải hướng về phía trước, duỗi tay [sao cho lòng bàn tay] hướng ra ngoài, giống như nâng đồ vật (như ấn Thích Ca trong Du Già vậy). Nếu kết ấn này, có thể trừ các loại kinh sợ của hết thảy chúng sanh, yêu và giận lập tức đều dứt, cũng trừ các thứ đáng kinh sợ to lớn nhất của họ trong đời tương lai. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trong phần trước. “Tát phạ tha” (Sarvathā, trọn khắp), “thệ na thệ na” (jina jina, thắng), “bà dã na xa na” (bhayanāśana, trừ kinh sợ). “Trọn khắp” chính là “phổ biến”, tức là “trọn khắp hết thảy các chốn”. Đối với phương tiện thù thắng nhất trong hết thảy các xứ phương tiện, [thủ ấn và chân ngôn này] đều có thể vượt trội. Thứ nhất là lìa các thứ phiền não của dị sanh (prthag-jana, chúng sanh chưa đạt được thánh quả), kế đó là lìa phiền não của Nhị Thừa, tức là lại càng thù thắng hơn những điều thù thắng. Do bởi lẽ này, Như Lai có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, trừ khắp hết thảy khổ não vì kinh sợ.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ, hạ thùy tác Thí Nguyện hình. Tụng viết: “Như thị Dữ Nguyện Ấn, thế y chỉ sở thuyết, thích tài kết thử giả, chư Phật mãn kỳ nguyện”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết ra đát ma ca, sa ha.             

()復次以智慧手下垂作施願形頌曰如是與願印,世依之所,適纔結此者,諸佛滿其願。真言曰南麼三曼多勃馱喃嚩囉伐折囉怛麼迦莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay trí huệ, duỗi xuống dưới làm tư thế Thí Nguyện (ban cho điều nguyện). Tụng rằng: “Dữ Nguyện Ấn như thế, bậc đời nương nói ra. Vừa mới kết ấn này, chư Phật mãn sở nguyện”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phạ ra đà phạt chiết ra đát ma ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, varada vajrātmaka svāhā”).

 

          Kế đó là thủ ấn Như Lai Mãn Nguyện. Tay trái cũng nắm góc y theo tư thế giống như trước, tay phải hướng ra ngoài, duỗi xuống dưới, như ấn của Bảo Sanh Phật trong Du Già[3]. Khi kết ấn này, liền do sức của Như Lai, hết thảy chư Phật thỏa mãn nguyện ấy cho đều được thành tựu. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Phạ ra đà” (varada, ban cho), “phạt chiết la” (vajra, kim cang), “đát ma ca” (atmaka, ta, cũng có nghĩa là thân). Ý nói: Nguyện chư Phật ban cho con thân kim cang, cũng ban cho con đại nguyện thân. Đấy tức là “mãn sở nguyện”.

          (Kinh) Phục dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Phong luân, dĩ tỳ-câu-chi hình trụ ư Đẳng Dẫn, tụng viết: “Dĩ như thị đại ấn, chư Phật cứu thế tôn, khủng bố chư chướng giả, tùy ý thành Tất Địa. Do kết thị ấn cố, đại ác ma quân chúng, cập dư chư chướng giả, trì tán vô sở ngại”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dã tỳ dữu ốt nghiệt để, sa ha.                  

()復以智慧手為拳而舒風輪以毘俱胝形住於等引頌曰以如是大印,諸佛救世尊,恐怖諸障者,隨意成悉地。由結是印故,大惡魔軍眾,及餘諸障者,馳散無所礙。真言曰南麼三曼多勃馱喃麼訶嚩梨伐駞奢嚩梨嗢婆吠摩訶彌底哩也毘庾嗢蘗底莎訶

          (Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ), dùng dáng vẻ nhíu mày, trụ trong Đẳng Dẫn. Tụng rằng: “Dùng đại ấn như thế, chư Phật đấng cứu đời, đe đọa kẻ gây chướng, tùy ý thành Tất Địa. Do bởi kết ấn này, lũ ma quân đại ác, và kẻ gây chướng khác, tan chạy không ngăn ngại”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ma ha phạ lê phạt để, đà xa phạ lê ốt bà phệ. Ma ha di để rị dã tỳ dữu ốt nghiệt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ mahābala vatidaśabalodbhave mahāmaitryabhyud-gate, svāhā).

         

          Kế đó là Bố Nhất Thiết Vi Chướng Ấn (ấn đe đọa hết thảy kẻ gây chướng). Dùng tay phải làm thành quyền (để ngón cái ra ngoài nắm đấm ấy), duỗi ngón trỏ, dựng thẳng lên, đặt giữa hai mày, dùng đầu ngón ấy chống vào giữa hai mày. Nói Đẳng Dẫn tức là hình dạng Tỳ Câu Tri, tức vẻ mặt như đang phẫn nộ, tâm trụ trong một cảnh, bất động. Đại ấn này của hết thảy chư Phật có thể hiện ra đại thế lực oai mãnh của Như Lai, đe dọa hết thảy kẻ gây chướng nạn, khiến cho họ hàng phục, cũng có thể thỏa mãn sở nguyện của hết thảy chúng sanh. Khi hành giả kết ấn này, kẻ gây chướng ai nấy rảo chạy tan tác tứ phía, cho đến quân đội của đại lực thiên ma cũng tự nhiên lui tan. Khi Như Lai chứng Bồ Đề đạo, dùng ấn này liền có thể hàng phục các ma. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Ma ha phạ lê” (mahābala, đại lực) “phạt để đà xa phạ lê” (vati daśabalo, Thập Lực) “ốt bà phệ” (odbhave, đạt được), “ma ha di để rị dã” (mahāmaitrya, đại từ) phát khởi. Chân ngôn này là đại lực của chư Phật. Đại lực ấy là những gì? Chính là mười lực của Như Lai, tối đại tự tại trong hết thảy các lực. Vì sao Như Lai đạt được thập lực ấy? Chính là do đại từ mà đạt được thập lực ấy, vì thế nói là các lực ấy “sanh từ lòng đại từ”.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thư Hỏa luân, Thủy luân, dĩ Hư Không luân nhi tại kỳ hạ. Tụng viết: “Thử danh nhất thiết Phật, thế y bi sanh nhãn, tưởng trí ư nhãn giới, trí giả thành Phật nhãn”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật sái nĩnh, ca rô noa ma dã, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha

          ()復次以智慧手為拳而舒火輪水輪以虛空輪而在其下頌曰此名一切佛,世依悲生眼,想置於眼界,智者成佛眼。真言曰南麼三曼多勃馱喃伽伽那嚩囉洛吃灑儜迦嚕怛他多斫吃芻莎訶

          (Kinh: Lại dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa luân (ngón giữa) và Thủy luân (ngón áp út), đặt Hư Không luân (ngón cái) dưới đó. Tụng rằng: “Đó gọi hết thảy Phật, mắt sanh bởi lòng bi, của đấng đời nương tựa, tưởng đặt ngay nơi mắt, bậc trí thành Phật nhãn”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na phạ ra lạc cật sái nĩnh, ca rô noa ma dã, đát tha yết đa chước cật sô, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, gaganavaralakṣaṇe karuṇā-mayatathāgatacakṣu svāhā”).      

 

          Kế đó là Phật Nhãn Ấn. Trước hết, nắm tay thành quyền, dùng ngón Không (ngón cái) đè lên hai ngón Phong (ngón trỏ) và Địa (ngón út), tức là gập ngón cái đè lên móng của hai ngón trỏ và út), duỗi ngón Thủy (áp út) và Hỏa (ngón giữa). Dùng tay phải để kết ấn này. Kết xong, dùng ấn đó đặt trên mắt, trước là đặt trên mắt phải, kế đó trên mắt trái. Dùng phương tiện bí mật này có thể tịnh hóa nhãn căn, thành tựu Phật nhãn, được thấy cảnh giới thâm mật của Như Lai. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Già già na” (Gagana, hư không), “phạ ra” (vara, nguyện) “ca rô noa” (karuṇā, bi), “ma dã” (maya, lễ), “đát tha yết đa” (tathāgata, Như Lai) “chước cật-sô” (cakṣu, mắt). Hư không tuy vô tướng, vô ngại, nhưng không thể hoàn thành đại sự. Nay Không của Như Lai tuy chẳng nương tựa vào đâu mà có thể thành tựu hết thảy các chuyện thù thắng, hơn hẳn hư không, hư không chẳng thể sánh bằng! Cái Thể của đại bi chính là mắt của Như Lai. Mắt ấy sanh từ đại bi, có thể sanh ra đại bi.

     

          (Kinh) Phục thứ, dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, nhi thư Phong luân, viên khuất tương hợp. Tụng viết: “Thử Thắng Nguyện Sách Ấn, hoại chư tạo ác giả, Chân Ngôn giả kết chi, năng phược chư bất thiện”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lý da, tát đỏa đà đổ, vi mô ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xã đa, sa ha.               

()復次以定慧手五輪內向為拳而舒風輪圓屈相合頌曰此勝願索印,壞諸造惡者,真言者結之,能縛諸不善。真言曰南麼三曼多勃馱喃係係摩訶播奢鉢羅嘮馱理耶薩埵馱睹微模訶迦怛他蘖多提目吃底儞社多莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay Định Huệ, năm ngón gập vào trong [lòng bàn tay] tạo thành quyền, duỗi ngón trỏ, gập cong [cho hai ngón ấy] chạm đầu nhau. Tụng rằng: “Thắng Nguyện Sách Ấn này, hoại những kẻ tạo ác. Bậc Chân Ngôn kết ấn, trói được các bất thiện”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ ma ha bá xa, bát ra sa lao đà lý da, tát đỏa đà đổ, vi mô ha ca, đát tha nghiệt đa, đề mục cật để nễ xã đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he mahāpāśa prasaraudārya sattvadhātuvimohaka tathāgatādhimuktinirjāta svāhā”).         

          Kế đó là Như Lai Quyến Sách Ấn. Trước hết, dùng mười ngón tay gập vào lòng bàn tay, nắm thành quyền. Duỗi hai ngón trỏ, đầu hai ngón ấy tựa vào nhau, cong ngón trỏ sao cho chúng tiếp giáp thành hình như khuyên tròn. Hai ngón cái cũng là phải đè lên trái, cùng gập vào lòng bàn tay là thành ấn. Ấn này có thể trói hết thảy kẻ làm ác, cũng có thể phá hoại họ, khiến cho họ dứt trừ các điều ác. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Hệ hệ” (Hehe): Trong ấy, có âm Ha tức là cái nhân, kiêm thêm nghĩa tam-muội[4]. Chữ Hệ này là âm thanh triệu tập, tức là gọi to cái nhân thành Phật. Cái nhân ấy vốn bất sanh, nên lìa nhân quả, khiến cho cái nhân ấy lại được thanh tịnh. “Ma ha bá xa” (mahāpāśa, dây trói to lớn. Ý nói cái nhân ly tướng ấy do vốn bất sanh, nên lìa tướng nhân quả, khiến cho cái nhân ấy thanh tịnh. Tịnh hóa cái nhân được gọi là “dây trói to lớn”), “bát-ra” (pra, trọn khắp), “sa lao đà lý da” (saraudārya, như hư không, ý nói: Sợi dây trói to lớn ấy rộng rãi trọn khắp như hư không, không đâu chẳng trọn khắp). “Tát đỏa đà đô” (Sattvadhātu, ý nói: Sợi dây trói ấy rộng làm chuyện gì? Chính là duy trì hữu tình, trừ si cho họ). “Vi mô ha ca” (vimohaka, si, hàm nghĩa trừ phá si). “Đát tha nghiệt đa” (Tathāgatā, Như Lai), “đề mục” (dhimu, sanh tín giải, cũng là phát khởi bổn nguyện của chư Phật. Chư Phật khi hành Bồ Tát đạo, sẽ ở trong thời đại ác mà độ tận hết thảy chúng sanh. Nay dùng cái nhân này để thành tựu cái quả, trừ sự si mê ấy, khiến cho họ đạt đến Phật quả rốt ráo, luôn làm Phật sự). Lại nữa, dây trói ấy do đâu mà sanh? Sanh từ tín giải của Như Lai. Ý nghĩa của tín giải như đã nói trong quyển đầu của kinh. Như Lai do sức tín giải ấy, phổ môn thị hiện đủ thứ hình tướng, hoặc hiện chuyện phẫn nộ to lớn, hoặc làm Trì Minh Tiên, có thế lực to lớn, chiết phục, nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được diệu quả của Như Lai, tức là ý nghĩa “dây trói to lớn rộng khắp, giống như hữu tình giới”.

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ Định Hệ thủ nhất hợp vi quyền, thư trí huệ thủ, Phong luân khuất đệ tam tiết, do như hoàn tướng. Tụng viết: “Như thị danh Câu Ấn, chư Phật cứu thế giả, chiêu tập ư nhất thiết, trụ ư Thập Địa vị, Bồ Đề đại tâm giả, cập ác tư chúng sanh”. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát bà đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da, bát rị bố la ca, sa ha.            

()復次以定慧手一合為拳舒智慧手風輪屈第三節猶如環相頌曰如是名鉤印,諸佛救世者,招集於一切,住於十地位,菩提大心者,及惡思眾生。真言曰南麼三曼多勃馱喃阿薩婆怛囉鉢囉底訶諦怛他蘖黨矩奢菩提浙哩耶鉢哩布邏迦莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay Định và Huệ hợp nhất nắm thành quyền, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ) của tay trí huệ (tay phải), gập đốt thứ ba của nó, giống như hình dạng cái vòng. Tụng rằng: “Như thế gọi Câu Ấn, chư Phật đấng cứu đời, chiêu tập khắp hết thảy, trụ địa vị Thập Địa, bậc Bồ Đề đại tâm, và chúng sanh nghĩ ác”. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát bà đát ra bát ra để ha đế, đát tha nghiệt đảng củ xa, bồ đề chiết rị da, bát rị bố la ca, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, āḥ sarva-trāpratihate tathāgatāṅkuśa bodhicaryāpari-pūraka svāhā”).

         

          Kế đó, kết Như Lai Câu Ấn. Trước hết, dùng ngón cái trong tay trái đè lên đầu bốn ngón kia, sao cho như hình cái vòng. Kế đó, dùng ba ngón (tức các ngón út, áp út, và ngón giữa) trong tay phải đặt trong cái vòng ấy, ngón cái của tay phải đè lên phía ngoài ngón cái trong tay trái, gập vào lòng bàn tay, bấm đè lên ba ngón trong tay phải cũng sao cho giống như hình cái vòng, hơi cong đốt thứ ba của ngón trỏ bên tay phải như hình cái móc tức là ấn thành. Kết Câu Ấn này có thể triệu vời mười phương hết thảy chư Phật, Bồ Tát, khiến cho các Ngài đều tụ hội trong đạo tràng, cũng có thể trọn vẹn địa vị Thập Địa, huống hồ những kẻ chưa sanh thiện tâm trong tám bộ v.v… mà chẳng tới ư?

          “A” (āḥ, hành), “tát bà đát-ra bát-ra để ha đế” (sarvatrāpratihate, nghĩa là vô ngại, hết thảy làm hại), “đát tha nghiệt đa” (tathāgata, Như Lai), “ương củ xa” (aṅkuśa, cái móc)[5], “bồ đề chiết rị da” (bodhicaryā, Bồ Đề hạnh), “bát rị bố la ca sa ha” (paripūraka svāhā, nghĩa là Niết Bàn, tức là viên mãn). Hành giả ở trong ấy, tức là do ấn này, hành giả có thể chuốc vời biển đại công đức của chư Phật, như cái móc trong thế gian có xứ sở, phần vị, chẳng thể triệu vời trọn khắp hết thảy mọi nơi. Nay Như Lai Câu chẳng phải như vậy, trọn khắp hết thảy, không đâu chẳng đến, cho đến có thể triệu vời quả đại Bồ Đề. Nói tóm lại, đều viên mãn hết thảy công đức của Như Lai, triệu tập trọn khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đắc đạo này. Vì thế, câu kế tiếp nói “biến nhất thiết hại” (“hại” tức là móc lấy, phá hoại nó), hại trọn khắp hết thảy kẻ chẳng điều phục, đều khiến cho họ theo Bồ Đề hạnh, tiến nhập diệu quả, đạt được viên mãn.

 

          (Kinh) Tức thử Câu Ấn, thư kỳ Hỏa luân, nhi thiểu khuất chi, thị vị Như Lai Tâm Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhưỡng nộ ốt bà phạ, sa ha.

          ()即此鉤印舒其火輪而少屈之是謂如來心印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃壤怒嗢婆嚩莎訶

          (Kinh: Từ ngay Câu Ấn đó, duỗi ngón Hỏa luân (ngón giữa), hơi cong, đó là Như Lai Tâm Ấn, chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhưỡng nộ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, jñānodbhava svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Tâm Ấn, cách kết ấn chuẩn theo phần trước, chỉ thêm duỗi ngón giữa. Hai ngón duỗi ra ấy đều cong đốt thứ ba là được. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Nhưỡng nộ” (jñāno, trí), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh). Tức là trí của chư Phật, trí ấy chẳng do điều gì khác mà đạt được, vẫn là sanh từ tâm Phật.

 

          (Kinh) Phục dĩ thử ấn, thư kỳ Thủy luân, nhi thụ lập chi, danh Như Lai Tề Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A một lật đổ ốt bà phạ, sa ha.

          ()復以此印舒其水輪而竪立之名如來臍印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃阿沒覩嗢婆嚩莎訶

          (Kinh: Lại dùng ấn ấy, duỗi ngón Thủy (ngón áp út) dựng thẳng, gọi là Như Lai Tề Ấn, chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A một lật đổ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, amṛtodbhava svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Tề Ấn (ấn rốn của Như Lai), cũng chuẩn theo ấn trên đây, duỗi thêm ngón áp út. Ba ngón duỗi ra cũng đều cong đốt thứ ba. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “A một-lật đổ” (Amṛto, cam lộ), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh). Cam lộ là tên gọi khác của Trí, có thể trừ nhiệt não nơi thân tâm. Đạt được [cam lộ] để uống, sẽ chẳng già, chẳng chết, cho nên sánh ví với trí của Như Lai. Nay do trí này đã trừ hết thảy nhiệt não của chúng sanh, khiến cho họ đạt được thân “thường thọ” (常壽, thọ mạng thường hằng). Vị cam lộ này cũng sanh từ tâm Phật.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, trực thư Thủy luân, dư diệc thụ chi, danh Như Lai Yêu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa tam bà phạ, sa ha.

          ()即以此印直舒水輪餘亦竪之名如來腰印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗多三婆嚩莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, duỗi ngón áp út, các ngón kia cũng dựng lên, gọi là Như Lai Yêu Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tathāgatasaṃbhava svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Yêu Ấn (ấn thắt lưng của Như Lai). Cũng chuẩn theo ấn Như Lai Câu trên đây để kết, trong ấy, duỗi ngón trỏ khác với ngón áp út. Ngón áp út không cần cong đốt thứ ba [như hai ngón trỏ và giữa]. Đó là nói về ngón áp út trong tay phải. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Đát tha nghiệt đa” (tathāgata, Như Lai), “tam bà phạ” (saṃbhava, sanh). Hãy nên biết trí ấn này sanh từ Như Lai. Phàm ấn và chân ngôn đều tự nêu ra ý nghĩa, các điều khác đều phỏng theo đây.

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, tác không tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong luân khuất nhập ư nội, nhị Thủy luân diệc nhiên. Kỳ nhị Địa luân linh thiểu khuất, nhi thân Hỏa luân, thử thị Như Lai Tạng Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, lam lam lạc lạc, sa phạ ha.

          ()復以定慧手作空心合掌以二風輪屈入於二水輪亦然其二地輪令少屈而伸火輪此是如來藏印彼真言曰南麼薩婆怛他蘗帝弊㘕㘕𡀩𡀩莎嚩訶

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ để làm không tâm hiệp chưởng, dùng hai Phong luân (ngón trỏ) gập vào lòng bàn tay, hai ngón Thủy luân (ngón áp út) cũng thế. Hai ngón Địa luân (ngón út) hơi cong, duỗi ngón Hỏa luân (ngón giữa), đó là Như Lai Tạng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế tệ, lam lam lạc lạc, sa phạ ha - Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ, raṃ raṃ raḥ raḥ svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Tạng Ấn. Trước hết, kết Tam Bổ Trá hiệp chưởng (hư tâm), hai ngón áp út và trỏ đều gập vào lòng bàn tay (đặt các ngón tương ứng sát nhau), hai ngón giữa duỗi thẳng sao cho đầu hai ngón chạm nhau, hai ngón cái đặt sát nhau, đè lên ngón trỏ, hai ngón út cũng duỗi ra, đừng cho đầu ngón chạm nhau mà hơi gập cho đều cong, tức là ấn thành. “Lam lam lạc lạc” (raṃ raṃ raḥ raḥ): Chữ Ra () nghĩa là vô cấu. Cái chấm trên đó [trong chữ Ra(रं) là Đại Không tam-muội. Thứ nhất là trừ chướng của Nhị Thừa và phàm phu, thứ hai là trụ trong cái Không cam lộ của Như Lai. Kế đó, hai chấm bên cạnh [chữ Ra () trong chữ Raḥ (रः)] chính là ý nghĩa tịnh trừ, thứ nhất là trừ phàm phu cấu, thứ hai là trừ Nhị Thừa cấu.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, tán kỳ Thủy luân hướng thượng trí chi, danh Đại Giới Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lệ lỗ bổ rị vi củ lệ, sa ha.

          ()即以此印散其水輪向上置之名大界印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃麗魯補微矩麗莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, duỗi ngón thủy luân (áp út) hướng lên trên, gọi là Đại Giới Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lệ lỗ bổ rị vi củ lệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, le lu puri vikule svāhā”).

 

          Kế đó, kết Đại Giới Ấn. Chuẩn theo cách kết Như Lai Câu Ấn trong phần trên, nhưng hai tay đều dựng thẳng ngón áp út lên là thành ấn. “Đại giới” ở đây có nghĩa là từ lúc phát đại Bồ Đề tâm cho tới khi thành Phật, trong khoảng đó, chẳng để gián đoạn, chẳng còn sanh tử, chẳng lui sụt Bồ Đề, tức là ý nghĩa “đại giới”. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trong phần trước. “Lệ lỗ bổ rị vi củ lệ” (Le lu puri vikule): Lệ (ly tướng tam-muội), lỗ (tướng của các thừa), “bổ” (Đệ Nhất Nghĩa, Đệ Nhất Nghĩa bất khả đắc), “rị” (ly cấu), “vi” (lìa trói buộc), “củ” (làm), “lệ” (lìa tướng). Những thứ ấy đều là tam-muội. Như Lai dùng các tam-muội làm trang nghiêm, không chi hơn được. Đấy chính là đại giới của chư Phật.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, kỳ nhị Hỏa luân câu khuất, tương hợp, tán thư Phong luân, danh Vô Kham Nhẫn Đại Hộ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tát phạ đát tha nghiệt đế tệ. Tát phạ bà dã vi nghiệt đế tệ. Vi thấp phạ mục khế tệ, tát phạ tha hám khiếm, ra cật xoa ma ha ma lệ. Tát phạ đát tha nghiệt đa bôn nật dã nĩnh ra xã đế. Hồng hồng, đát ra trá, đát ra trá. A bát ra để ha đế, sa ha.

          ()即以此印其二火輪鉤屈相合散舒風輪名無堪忍大護印彼真言曰南麼薩怛他蘗帝弊嚩婆也微蘗帝弊微濕嚩目契弊唅欠囉訖叉麼訶麼麗怛他蘗多奔抳也囉社。吽吽。怛囉吒怛囉吒阿鉢囉底訶諦莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấy, hai ngón hỏa luân (ngón giữa) đều cong lại, chạm đầu nhau, duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ), thì gọi là Vô Kham Nhẫn Đại Hộ Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tát phạ đát tha nghiệt đế tệ. Tát phạ bà dã vi nghiệt đế tệ. Vi thấp phạ mục khế tệ, tát phạ tha hám khiếm, ra cật xoa ma ha ma lệ. Tát phạ đát tha nghiệt đa bôn nật dã nĩnh ra xã đế. Hồng hồng, đát ra trá, đát ra trá. A bát ra để ha đế, sa ha - Namaḥ sarvatathāgatebhyaḥ sarvabhaya-vigatebhyo viśvamukhebhyaḥ, sarvathā haṃ khaṃ rakṣa mahābale sarvatathāgata-puṇyanirjāte hūṃ hūṃ trāṭ trāṭ apratihate svāhā).

 

          Kế đó, kết Đại Hộ Ấn. Chuẩn theo Như Lai Tạng Ấn trong phần trên, duỗi hai ngón áp út, khiến cho đầu của chúng chụm vào nhau như đỉnh núi. Hai ngón giữa cũng chạm đầu nhau, nhưng hơi cong, giống như hình mắt xích. Lại tách hai ngón cái ra, sao cho cách nhau hai tấc trở lại là thành ấn! Chân ngôn rằng: “Tát phạ đát tha nghiệt đế tệ” (sarvatathāgatebhyaḥ, quy mạng hết thảy các đức Như Lai), “tát phạ bà dã vi nghiệt đế tệ” (sarvabhayavigatebhyo, có thể trừ hết thảy các chướng nạn sợ hãi, cũng là tán thán Phật và quy mạng). “Vi thấp-phạ mục khế tệ” (viśvamukhebhyaḥ, các loại môn, cũng có nghĩa là “xảo diệu”. Tức chư Phật khéo hiện đủ loại môn công đức). “Tát phạ tha” (sarvathā, trọn khắp, nghĩa là hết thảy các thời, hết thảy các chỗ, hết thảy phương sở). “Hám khiếm” (haṃ khaṃ, Ha có nghĩa là cái nhân. Khư (, Kha) có nghĩa là Không. Thêm chấm vào (thành Khiếm, खं, tức Kha) lại là Không. Dùng cái Không đó để tịnh hóa hết thảy các nhân. Lại nữa, đối với Không thì cái Không ấy cũng là không). “Ra cật-xoa” (rakṣa, ủng hộ. Không chỉ thủ hộ Nhị Thừa, mà còn thủ hộ hết thảy chư Phật. Do vì lẽ này, chư Phật chẳng xả hữu tình, thường làm Phật sự chẳng hề ngưng dứt, chẳng trụ trong tịch diệt). “Ma ha ma lệ” (mahābale, đại lực, tức là mười loại trí lực của Như Lai), “tát phạ đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [hết thảy] Như Lai), “bôn nật-dã ninh ra xã đế” (puṇyanirjāte, sanh, ý nói: Sức ấy sanh từ công đức của Như Lai). “Hồng hồng” (hūṃ hūṃ, chữ thứ nhất là khủng bố các chướng, chữ thứ hai nghĩa là khiến cho trọn vẹn tam đức của Phật. Vì thế, nói lặp lại, hàm ý tột bậc sợ hãi). “Đát ra trá, đát ra trá” (trāṭ trāṭ, nhiếp phục. Chế phục nội ngoại chướng. Lại vì thành tựu Pháp Thân của Phật, cho nên cũng nói lặp lại). A bát-ra để ha đế (apratihate, vô hại, vô chướng). Đây gọi là Vô Kham Nhẫn Đại Hộ. Do oai quang của ấn chú này mạnh mẽ, hừng hực, như trẻ nhỏ mới sanh chẳng kham nhìn vào ánh sáng mặt trời rực rỡ. Ở đây cũng giống như vậy, hết thảy đều chẳng thể kham nhẫn để tranh sáng được! Vì thế, gọi là Vô Năng Kham Nhẫn Đại Hộ. Dùng ấn chú này để thủ hộ hành giả Chân Ngôn.

 

          (Kinh) Phục dĩ Phong luân nhi tán thư chi, Không luân tịnh nhập kỳ trung, danh Phổ Quang Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, xà phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha.

          ()復以風輪而散舒之空輪並入其中名普光印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃 嚩囉摩履儞 怛他蘗多莎訶

          (Kinh: Lại duỗi ngón Phong luân (ngón trỏ) ra, ngón Không luân (ngón cái) cùng nhập vào đó, gọi là Phổ Quang Ấn. Chân ngôn ấy như sau: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, xà phạ la ma lý nễ, đát tha nghiệt đa lật chỉ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, jvālāmālini tathāgatārci svāhā”).

 

          Kế đó là Như Lai Phổ Quang Ấn. Hai ngón cái cùng gập vào lòng bàn tay, hai ngón trỏ dựng thẳng (đều chẳng chạm nhau, đều dựng thẳng lên). Đầu hai ngón giữa chụm vào nhau, hơi cong lóng ngón tay như hình linh, chuông nhỏ, các ngón khác giống như trong phần trên là thành ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trong phần trên. Xét theo chân ngôn, “xà phạ la” (jvālā (ज्वाला), Xà là sanh, Phạ là trói buộc, La (ला) là tướng. Bên cạnh đó, có cái chấm A (tức vạch đứng bên cạnh chữ La () có cùng nghĩa với bất sanh, tức “vô tướng bất sanh”). “Ma lý nễ” (Mālini, Ma là Ngã, có âm A dài (ā), Lý là tưởng. “Tưởng” có nghĩa là quán, lìa hữu quán lẫn vô quán). “Đát tha nghiệt đa” (Tathāgata, đấy là Như Lai quang. Như Lai quang sanh từ các nghĩa vô tướng, vô quán v.v…)

 

          (Kinh) Hựu dĩ Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong luân trì Hỏa luân trắc, danh Như Lai Giáp ấn.

          ()又以定慧手作空心合掌 以二風輪持火輪側名如來甲印

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ (tay trái và tay phải) để kết không tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón trỏ đặt bên cạnh ngón giữa, gọi là ấn Như Lai Giáp).

 

          Kế đó là ấn Như Lai Giáp. Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng (hư tâm hiệp chưởng), dùng hai ngón trỏ đặt bên cạnh lưng hai ngón giữa, sao cho hai đầu ngón ngang nhau là thành ấn. Ấn này khuyết phần chân ngôn, cần phải tra cứu.

 

          (Kinh) Khuất nhị Thủy luân, nhị Không luân hợp nhập chưởng trung, áp nhị Thủy luân giáp thượng, thị Như Lai Thiệt Tướng ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đá tha nghiệt đa thệ ha phạ tát để dã. Đạt ma bát ra để sắt sỉ đa, sa ha.

          ()屈二水輪二空輪合入掌中押二水輪甲上是如來舌相印真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗多訶嚩薩底也達摩鉢囉瑟恥多莎訶

          (Kinh: Gập hai ngón giữa và hai ngón cái vào lòng bàn tay, [ngón cái] đè lên móng hai ngón giữa. Đó là ấn Như Lai Thiệt Tướng. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa thệ ha phạ tát để dã. Đạt ma bát ra để sắt sỉ đa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, tathāgatajihva satya. Dharma-pratiṣṭhita,  svāhā).

 

          Phần quy mạng trong chân ngôn của Như Lai Thiệt (lưỡi) giống như trên. “Đát tha nghiệt đa thệ ha-phạ” (tathāgatajihva, lưỡi [của Như Lai]), tát để dã (satya, chân thật), “đạt ma” (dharma, pháp), “bát-ra để sắt-sỉ đa” (pratiṣṭhita, tánh). Ví như lưỡi của Như Lai thường nói lời đúng như thật, chẳng nói dối, chẳng nói khác lạ; do chân thật như thế, nên thường trụ.

 

          (Kinh) Dĩ thử ấn, linh Phong, Thủy luân khuất nhi tương niệp, Không luân hướng thượng, nhi thiểu khuất chi, Hỏa luân chánh trực tương hợp, Địa luân diệc như thị, danh Như Lai Ngữ Môn ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa ma ha phạ ca đát ra, vi thấp phạ nhã na, ma ha đà da, sa ha.

          ()以此印令風水輪屈而相捻空輪向上而少屈之火輪正直相合地輪亦如是名如來語門印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗多摩訶嚩怛囉微濕嚩若那訶駄耶莎訶

          (Kinh: Dùng ấn này, sao cho các ngón trỏ và ngón áp út gập lại, bấm vào nhau, ngón cái hướng lên trên, hơi cong, ngón giữa dựng thẳng chạm nhau. Ngón út cũng như thế, gọi là ấn Như Lai Ngữ Môn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa, ma ha phạ ca đát ra, vi thấp phạ nhã na, ma ha đà da, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ tathāgata-mahāvaktra viśvajñāna mahodaya svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Như Lai Ngữ Môn. Chuẩn theo ấn trước đó, tức là kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp chưởng), các ngón áp út và ngón trỏ chạm đầu nhau, gập vào lòng bàn tay, dùng hai ngón cái cùng đè lên. Kế đó, hai ngón út và ngón giữa dựng thẳng lên, đặt cho đầu ngón ngang nhau nhọn như hình ngọn núi là thành ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “Ma ha phạ ca đát-ra” (mahāvaktra, đây chính là Ngữ), “vi thấp-phạ nhã na” (viśvajñāna, các thứ trí khéo), “ma ha đà da” (mahodaya, rộng lớn). Ý nói ngôn ngữ từ vô lượng môn xảo huệ của Như Lai mà thành, trí ấy rộng lớn vô lượng.

 

          (Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Phong luân khuất nhập chưởng trung, hướng thượng, danh Như Lai Nha Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa năng sắt trá la. Ra sa ra sa cật ra, tam bát ra bác ca, tát bà đát tha nghiệt đa, vi xa dã tam bà phạ, sa ha.

          ()如前印以二風輪屈入掌中向上名如來牙印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗多能瑟吒羅囉娑囉娑釳囉鉢囉博迦薩婆怛他蘗多婆嚩莎訶

          (Kinh: Giống như ấn trước, dùng hai ngón trỏ gập vào lòng bàn tay, hướng lên trên, gọi là ấn Như Lai Nha (răng của Như Lai). Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa năng sắt trá la. Ra sa ra sa cật ra, tam bát ra bác ca, tát bà đát tha nghiệt đa, vi xa dã tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tathāgatadaṃṣṭra rasarasāgrasaṃprāpaka sarva-tathāgata viṣayasaṃ-bhava svāhā”).

          Kế đó là ấn Như Lai Nha: Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, gập hai ngón trỏ vào lòng bàn tay, sao cho lưng hai ngón ấy đâu nhau là thành ấn. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trước. “Đát tha nghiệt đa năng sắt trá la” (Tathāgata-daṃṣṭra, răng [của Như Lai]). “Ra sa ra sa” (Rasarasa là vị. [Do là] vị tốt đẹp nhất trong các vị, cho nên lặp lại, tức pháp vị của Như Lai). “Cật-ra” (agra, chữ này nối với câu trước, câu trước không có âm A. Có nghĩa là thắng thượng, tức vị thắng thượng). “Tam bát-ra bác ca” (saṃprāpaka, đạt được), “[tát bà] đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [tất cả] Như Lai), “vi xa dã” (viṣaya, cảnh giới), “tam bà phạ” (saṃbhava, sanh, Ý nói: Vị thắng thượng sanh từ cảnh giới của Như Lai).

 

          (Kinh) Hựu như tiền ấn tướng, dĩ nhị Phong luân hướng thượng trí chi, khuất đệ tam tiết, danh Như Lai Biện Thuyết Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a chấn để dã na bộ đa, hạt lỗ bà phạ ca tam mạn đá bát ra bát đa, vi thâu đà tát phạ ra, sa ha.

          ()又如前印相以二風輪向上置之屈第三節名如來辯說印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃阿振底也娜部多曷魯婆曼哆鉢囉鉢多微輸馱嚩囉   

          (Kinh: Lại như ấn trên đây, dùng hai ngón Phong (ngón trỏ) hướng lên trên, gập đốt thứ ba, gọi là ấn Như Lai Biện Thuyết. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a chấn để dã na bộ đa, hạt lỗ bà phạ ca tam mạn đá bát ra bát đa, vi thâu đà tát phạ ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, acintyādbhutarūpavācaṃ saman-tāprāpta viśuddhasvara svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Như Lai Tứ Biện. Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, hai ngón trỏ cùng cong lại, đặt trên lưng hai ngón giữa, đừng cho chạm đầu nhau thì ấn thành. Do bởi ấn này, Như Lai ở trong đại chúng vô úy, vì người khác diễn nói chánh pháp, thậm chí trong một chữ chứa đựng ý nghĩa vô cùng. Biện tài ấy chẳng thể cùng tận. Phần quy mạng trong chân ngôn giống như trên. “A chấn để-dã” (Acintyā, chẳng nghĩ bàn), “na-bộ đa” (dbhuta, đặc biệt, lạ lùng), “hạt-lỗ bà” (rūpa, phân đoạn của lời nói. Có ý nghĩa là [lời nói ấy] đặc biệt, lạ lùng), “phạ ca tam mạn đá bát-ra bát-đa” (vācaṃ samantaprāpta, tới trọn khắp. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, [âm thanh ấy] tới trọn khắp trước hết thảy chúng sanh. [Khi âm thanh ấy thấu] tới nơi đó, ai nấy đều cho rằng đức Phật dùng cùng âm thanh [giống như ngôn ngữ của tôi] để thuyết pháp cho tôi). “Vi thâu đà” (Viśuddha, thanh tịnh), “tát-phạ ra” (svara, ngôn âm. Do ngôn âm đã phát ra lìa các khuyết điểm như thô ác v.v… mà vi diệu thanh tịnh, khiến cho kẻ khác thích nghe. Vì thế nói là “ngôn âm thanh tịnh”).

 

          (Kinh) Phục thứ, dĩ Định Huệ thủ hòa hợp nhất tướng, tác không tâm hiệp chưởng, nhị Địa luân, Không luân khuất nhập tương hợp. Thử thị Như Lai Trì Thập Lực Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đà xá phạ lan già đà  la, hồng  sâm  nhiêm, sa

ha.  

          ()復次以定慧手和合一相作空心合掌二地輪空輪屈入相合 此是如來持十力印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃馱舍嚩蘭伽陀羅。吽參髯莎訶

          (Kinh: Lại nữa, dùng tay Định và Huệ hòa hợp thành một tướng, để kết không tâm hiệp chưởng, hai ngón Địa (út) và ngón Không (ngón cái) gập vào trong [lòng bàn tay], chụm vào nhau. Đó là ấn Như Lai Trì Thập Lực. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đà xá phạ lan già đà la, hồng sâm nhiêm, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, daśabalāṅgadhara hūṃ saṃ jaṃ, svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Như Lai Thập Lực. Gập các ngón út và cái vào lòng bàn tay, khiến cho chúng chụm đầu lại, chống vào nhau. Các ngón khác kết thành Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp chưởng) là ấn thành. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Hồng” (ba đức. Ma là Không, cái chấm là tam-muội, “Xà” (Ja) có nghĩa là “sanh”, lại còn là “triệu vời”. Ấn này có thể trì thập lực của Như Lai. Ba chữ này ghép lại ở cuối câu, tức là Hồng Sâm Nhiêm (hūṃ saṃ jaṃ), như trong Đại Bổn có chép), “đà xá phạ lan già” (daśabalāṅga, thân phần Thập Lực. Từ chữ Lan trở về trước là Thập Lực, tức là âm A dài trong chữ Lan nối với chữ Ca thành thân phần), “đà la” (dhara, trì). Tức là do sức của trí ấn này, có thể nắm giữ chi phần Thập Lực của Như Lai.

 

          (Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị Không luân, Phong luân khuất thượng tiết tương hợp, thị Như Lai Niệm Xứ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa tất mật lật để, tát đỏa hệ đá, tệ dữu đà yết đa. Già già na tam ma a tam ma, sa ha.

          ()又如前印以二空輪風輪屈上節相合是如來念處印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗多悉密薩埵係哆弊庾馱揭多伽伽那三麼阿三麼莎訶

          (Kinh: Lại như ấn trên, cong hai ngón Không luân (cái) và Phong luân (trỏ) sao cho lóng trên áp vào nhau, đó là ấn Như Lai Niệm Xứ. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa tất mật lật để, tát đỏa hệ đá, tệ dữu đà yết đa. Già già na tam ma a tam ma, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tathāgatasmṛti sattvahitābhyudgata gaganasamāsama svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Như Lai Niệm Xứ. Kết Tam-bổ-trá (cách chắp tay này giống như hoa sen chưa nở, chắp tay sao cho giữa hai lòng bàn tay có khoảng trống, hãy kiểm phần kinh văn trước để khỏi làm sai). Dùng hai ngón cái và ngón trỏ chụm lại, bấm vào nhau là ấn thành. Trong cách bấm này, hãy nên sao cho [phần đầu của] móng tay nơi bốn ngón kia đều chạm vào nhau. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Đát tha nghiệt đa tất mật-lật-để” (Tathāgatasmṛti, Như Lai niệm), tát đỏa hệ đá (sattvahitā, lợi ích chúng sanh), “tệ-dữu đà yết đa” (bhyudgata, sanh, khởi), “già già na tam ma” (gaganasama, hư không sanh), “a tam ma” (asama, vô đẳng). Ý nói: Niệm ấy bằng với hư không, chẳng có hạn lượng. Lại nữa, hư không chẳng thể sánh ví. Do vậy, lại nói là “vô đẳng”. Vì lẽ nào vậy? Hư không tánh vô sở hữu, chẳng thể tạo lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị Không luân tại Thủy luân thượng, danh Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Khai Ngộ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đạt ma tam mạn đa, bát ra bổ đa, đát tha nghiệt đá nô nghiệt đa, sa ha.

          ()又如前印以二空輪在水輪上名一切法平等開悟印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃達摩三曼多鉢囉怛他蘗哆蘗多莎訶

          (Kinh: Lại như ấn trước, dùng hai ngón Không luân (cái) đặt trên ngón Thủy luân (áp út), gọi là ấn Hết Thảy Các Pháp Bình Đẳng Khai Ngộ. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đạt ma tam mạn đa, bát ra bổ đa, đát tha nghiệt đá nô nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvadharmasamatāprāpta tathāgatānu-gata, svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Khai Ngộ. Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, dùng hai ngón áp út và ngón cái chụm lại, bấm vào nhau là thành ấn. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Tát phạ đạt ma tam mạn đa” (sarvadharmasamatā, hết thảy các pháp bình đẳng), “bát-ra bổ đa” (prāpta, tới, đạt được, [hàm nghĩa] đạt được hết thảy bình đẳng), “đát tha nghiệt đa” (tathāgatā, Như Lai, nghĩa chủ yếu là Như Khứ). “Nô nghiệt đa” (Nugata, tùy thuộc, như. Ý nói: Tùy thuận chư Như Lai, cùng được khai ngộ giống như các Ngài).

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ hợp vi nhất, dĩ nhị Phong luân gia Hỏa luân thượng, dư như tiền, thị Phổ Hiền Như Ý Châu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam mạn đa nô nghiệt đa, phệ ra xà, đạt ma niết xà đa, ma ha ma ha, sa ha.

          ()復以定慧手合為一以二風輪加火輪上餘如前是普賢如意珠印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃三曼多奴蘗多吠囉闍達摩涅闍多摩訶摩訶莎訶

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ hợp nhất, dùng hai ngón Phong luân (trỏ) đặt trên hai ngón Hỏa luân (giữa), các ngón khác như trên; đó là ấn Phổ Hiền Như Ý Châu. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam mạn đa nô nghiệt đa, phệ ra xà, đạt ma niết xà đa, ma ha ma ha, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, samatānugata virajadharmanirjāta mahāmaha svāhā”).

 

          Kế đó là ấn Như Ý Ma Ni Phổ Hiền (chánh kinh gọi ấn này là Phổ Hiền Như Ý Châu). Sở dĩ gọi là Phổ Hiền, vì tất cả tam nghiệp của vị Bồ Tát này đều tốt lành, nên được chư Phật, Bồ Tát tán thán. Để kết ấn này thì kết Tam-bổ-trá (không tâm hiệp chưởng), dùng hai ngón trỏ gác lên sau lưng của hai ngón giữa thành hình khuyên thì thành ấn. Các ngón khác như thường lệ. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “Tam mạn đa nô nghiệt đa” (samatānugata, đạt tới bình đẳng), “phệ ra xà” (viraja, vô cấu, vô trần). “Đạt ma niết xà đa” (dharmanirjāta, pháp sanh. Ý nói vô cấu từ pháp mà sanh), “ma ha ma ha” (mahāmaha): Nghĩa này được lặp lại, giống như nói “thiên trung chi thiên” (trời của các vị trời). Các vị Bồ Tát cúng dường đức Phật, đức Phật chuyển sự cúng dường ấy sang ngài Phổ Hiền, do thân ngài Phổ Hiền bình đẳng với tam thế Phật. Đây chính là sự to lớn nhất trong các điều to lớn, là cúng dường tối thắng trong các sự cúng dường, cho nên lặp lại [chữ “ma-ha”]).

 

          (Kinh) Tức thử hư tâm hiệp chưởng, dĩ nhị Phong luân khuất tại nhị Hỏa luân hạ, dư như tiền, thị Từ Thị Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a thệ đảm xã da, tát phạ tát đỏa a thế da, nô nghiệt đa, sa ha.

          ()即此虛心合掌以二風輪屈在二火輪下餘如前是慈氏印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃阿誓擔社耶薩埵阿世耶奴蘗多莎訶

          (Kinh: Liền đối với hư không hiệp chưởng ấy, dùng hai ngón Phong luân (ngón trỏ) đặt dưới ngón Hỏa luân (ngón giữa), các ngón khác như trên. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a thệ đảm xã da, tát phạ tát đỏa a thế da, nô nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ ajitaṃjaya sarva-sattvāśayānugata svāhā”).

 

          Kế đó là Từ Thị Ấn (ấn của ngài Di Lặc). Kết Tam-bổ-trá, gập hai ngón trỏ, sao cho đầu ngón trỏ đặt dưới gốc ngón giữa, hai ngón cái đặt ngang đè lên, các ngón khác như thường. Ấn này hình dạng như Tốt-đổ-ba (stupa, tháp), do trì tháp Pháp Thân của hết thảy các đức Như Lai, giống như ngài Quán Âm trì Phật thân. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “A thệ đm” (Ajitaṃ, nói theo lối cổ là A Dật Đa, tức là gọi tên Ngài. [Danh hiệu ấy] có nghĩa là “không ai thắng được”, hết thảy ái kiến phiền não cho tới Nhị Thừa v.v… không ai hơn được!) “Xã da” (Jaya, đắc thắng, [tức là] trong vô thắng mà đạt được sự toàn thắng). “Tát phạ tát đóa” (Sarvasattva, hết thảy chúng sanh). “A thế da” (Aśayā, tánh). “Nô nghiệt đa” (Nugata, biết tâm khởi lên). “Khởi” có nghĩa là biết, tức là biết tánh của hết thảy chúng sanh. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Chữ ấy chính là chữ chủng tử của ngài Di Lặc”).

 

          (Kinh) Hựu như tiền ấn, dĩ nhị hư không luân nhập trung, danh Hư Không Tạng Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam mạn đa nô nghiệt đa. Bễ chất đa  lam  ma  phạ  ra

đà ra, sa ha.

          ()又如前印以二虛空輪入中名虛空藏印真言曰南麼三曼多勃馱喃阿迦奢三曼多奴蘗多髀質哆麼嚩囉莎訶

          (Kinh: Kế đó, giống như ấn trước, dùng hai ngón Hư Không (ngón cái) gập vào lòng bàn tay, gọi là Hư Không Tạng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam mạn đa nô nghiệt đế. Bễ chất đá lam ma phạ ra đà ra, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, ākāśasamatānugata vicitrāmbaradhara svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Hư Không Tạng (Ākāśagarbha). Hư tâm hiệp chưởng, dùng hai ngón cái cùng gập vào lòng bàn tay là thành ấn. Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “A ca xa” (ākāśa, hư không), “tam mạn đa” (samatā (bằng), tức là bằng với hư không), “nô nghiệt đa” (nugata, đạt được. Trong phần trước nói [từ ngữ này] có nghĩa là “biết”, là “dấy lên”, ở đây nói là “đạt được”, cũng dung hội), “bễ chất đá-lam ma-phạ” (vicitrāmba, chữ Ma ở đây chính là cái chấm đặt trên chữ Ra, tức là thành chữ Lam), Ra (Bệ Chất Đa nghĩa là đủ loại, Ma Phạ Ra tức là nghĩa “nương cậy”). “Đà ra” (dhara, mặc, nghĩa là mặc các loại áo. Như hư không vô sắc mà có thể hiện đủ loại hình. Vị Bồ Tát này cũng thế, giống như hư không mà có thể thỏa mãn đủ loại nguyện, hiện đủ loại hình tướng lợi ích chúng sanh).

 

          (Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Thủy luân, nhị Địa luân khuất nhập chưởng trung, nhị Phong luân, Hỏa luân tương hợp, thị Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dã ốt nghiệt đa. Đát lãm đát lãm, lãm lãm. Sa ha.

          ()如前印以二水輪二地輪屈入掌中二風輪火輪相合是除一切蓋障印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃阿薩埵係哆驃也嗢蘗多怛囕怛囕囕囕莎訶

          (Kinh: Như ấn trước, dùng hai ngón áp út và hai ngón út gập vào lòng bàn tay, hai ngón trỏ và giữa áp vào nhau, đó là Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dã ốt nghiệt đa. Đát lãm đát lãm, lãm lãm. Sa  ha -  Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ sattvahitābhyudgata traṃ traṃ

raṃ raṃ svāhā).

 

          Kế đó là ấn của Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin). Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp chưởng), các ngón út và áp út đều gập vào lòng bàn tay, các ngón khác như thường (đây là ngón út và áp út chạm móng, chống vào nhau). Phần quy mạng của chân ngôn giống như trước. “A tát đỏa hệ đa” (āḥ sattvahitā: A nghĩa là “có thể trừ”. “Hệ đa” nghĩa là lợi ích, tức là lợi ích chúng sanh), “phiêu-dã ốt nghiệt-đa đát-lãm đát-lãm lãm lãm” (bhyudgata traṃ traṃ raṃ raṃ, nghĩa là Trừ, mà cũng là khai phát thiện tánh ấy, khiến cho nó hiển hiện. Như trong phần trên đã nói là “trừ sự chấp trước”, [ở đây] là trừ chuyện gì? Chính là trừ bốn cấu. Phàm phu ái kiến là một loại cấu, Thanh Văn cấu là hai, Duyên Giác cấu là ba, Bồ Tát cấu là bốn. Do trừ chúng sanh cấu, nhập địa vị Thanh Văn. Do trừ Thanh Văn cấu, nhập địa vị Duyên Giác. Cho đến do trừ Bồ Tát cấu, nhập địa vị thanh tịnh).

 

          (Kinh) Như tiền dĩ Định Huệ thủ tương hợp, tán thư ngũ luân do như linh đạc, dĩ Hư Không, Địa luân hòa hợp, tương trì, tác liên hoa hình. Thị Quán Tự Tại Ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa a phạ lô yết đa, ca lô noa mạt da, ra ra ra, hồng xà, sa ha.

          ()如前以定慧手相合散舒五輪猶如鈴鐸以虛空地輪和合相持作蓮華形是觀自在印真言曰南麼三曼多勃馱喃怛他蘗哆阿嚩盧羯多迦盧拏囉囉囉莎訶

          (Kinh: Giống như trên, tay Định và Huệ chắp lại, xòe các ngón như linh, khánh, các ngón Hư Không (cái) và Địa (út) hòa hợp, chống vào nhau, thành hình hoa sen. Đó là Quán Tự Tại Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa a phạ lô yết đa, ca lô noa mạt da, ra ra ra, hồng xà, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvatathāgatāvalokita karuṇāmaya ra ra ra hūṃ jaḥ svāhā”).

 

          Kế đó là Quán Âm (Avalokiteśvara) Ấn. Trước hết, “khai phẫu hiệp chưởng” (cách chắp tay như búp sen chớm nở). Dùng các ngón cái và ngón út bấm vào nhau, sáu ngón khác xòe ra. Ngón giữa và ngón trỏ đều cùng chụm vào nhau tương ứng. Ngón áp út đứng đơn lẻ tức là ấn thành. “Tát phạ đát tha nghiệt đa” (sarvatathāgata, [hết thảy] Như Lai), “a phạ lô yết đa” (avalokita, quán, tức là phép Quán của Như Lai), “ca lô noa” (karuṇā, bi), “mạt da” (maya, Thể. Ý nói dùng đại bi làm Thể, thân tâm trong ngoài thuần dùng Bi làm thân). “Ra ra ra” (tam cấu). “Hồng xà” (hūṃ jaḥ, chữ Hồng này là ba món hành, giải thoát, và Đại Không. Xà (jaḥ) có nghĩa là sanh, tức là “pháp sanh từ duyên khởi”). Phép Quán của Như Lai ở đây có nghĩa là Bồ Tát tuy chưa thành Phật, nhưng đã thấy giống như Phật. Do thấy tánh của Uẩn, nên đạt được tên gọi của phép Quán như thế. Chỉ lấy Bi làm Thể, tức là lòng Bi ấy do lìa ba độc, mà đạt được ba thiện căn như vô tham v.v…, sanh ra ba món giải

thoát. Vì thế, có ba chữ Ra.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tác không tâm hiệp chưởng, do như vị khai phu liên, thị Đắc Đại Thế Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chiêm chiêm sa, sa ha.

          ()如前以定慧手作空心合掌猶如未開敷蓮是得大勢印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃瞻瞻莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ để làm không tâm hiệp chưởng, giống như hoa sen chưa nở; đó là Đắc Đại Thế Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chiêm chiêm sa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, jaṃ jaṃ saḥ svāhā”).

 

          Kế đó là Đại Thế Chí Ấn (Mahāsthāmaprāpta). Kết Tam-bổ-trá hiệp chưởng, cong mười ngón tay chụm vào nhau cho tròn trặn, như búp sen chưa nở. Búp sen chưa nở ấy chính là tráp báu của Như Lai, do đã nở rồi khép lại. Xét theo các chữ trong chân ngôn, Chiêm (jaṃ, sanh), Sa (saḥ, trí bình đẳng). Đấng lìa thế gian, lại vượt khỏi Bồ Tát sanh, trụ trong trí bình đẳng.

         

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ, ngũ luân nội hướng vi quyền, cử nhị Phong luân do như châm phong, nhị Hư Không luân gia chi, thị Đa La Tôn Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đá lệ, đá rị ni, ca rô noa ốt bà phệ, sa ha.

          ()如前以定慧手五輪內向為拳舉二風輪猶如針鋒二虛空輪加之是多羅尊印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃哆囇哆迦嚧拏嗢婆吠莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ, năm ngón hướng vào trong, nắm thành quyền, giơ hai ngón Phong luân (ngón trỏ) ví như đầu kim, hai ngón Hư Không luân (ngón cái) đè lên; đó là Đa La Tôn Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đá lệ, đá rị ni, ca rô noa ốt bà phệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tāre tāriṇi karuṇodbhave svāhā”).

 

          Kế đó, kết Đa La Bồ Tát (Tārā) ấn. Trước kết kết Chỉ Hướng Nội Tương Xoa Quyền Hiệp Chưởng (tức là các ngón tay đan vào nhau, gập các ngón tay trong lòng bàn tay), dựng hai ngón trỏ, chụm vào nhau như cái kim, hai ngón cái dựng thẳng đè lên [hai ngón trỏ] thì ấn thành. Chân ngôn: “Đa lệ” (Tāre, gọi tên vị Bồ Tát ấy, tức Tārā Bồ Tát), đá rị ni” (tāriṇi, độ thoát. Giống như giúp người khác vượt qua sông lớn, đặt họ nơi bờ kia). “Ca rô noa” (karuṇo, bi). “Ốt bà phệ” (odbhave, sanh. Do vị Bồ Tát này sanh từ lòng Bi, cũng độ chúng sanh đạt đến chỗ Bi).

 

          (Kinh) Như tiền ấn, cử nhị Phong luân sâm si tương áp, thị Tỳ Câu Chi Ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ bà dã, đát ra tát nễ, hồng sa phán trá dã, sa ha.

          ()如前印舉二風輪參差相押是毘俱胝印彼真言曰麼三曼多勃馱喃嚩婆也怛囉。吽娑泮吒也莎訶        

(Kinh: Giống như ấn trên, dựng hai ngón Phong luân (ngón trỏ) so le đè lên nhau. Đó là Tỳ Câu Chi ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ bà dã, đát ra tát nễ, hồng sa phán trá dã, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvabhayatrāsani hūṃ sphoṭaya svāhā”).

 

          Kế đó là Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī) Ấn. Giống như trên, làm Hướng Nội Chỉ Quyền hiệp chưởng. Hai ngón trỏ cũng dựng lên, nhưng so le áp vào nhau, khiến cho ngón phải đè lên ngón trái là đúng. Hình thế của ấn này đại để giống ấn Đa La, chỉ có [hai ngón trỏ đè lên nhau] so le là khác biệt. Chân ngôn: “Tát phạ bà dã” (sarvabhaya, hết thảy kinh sợ), “đát-ra tát nễ” (trāsani, cũng có nghĩa là khủng bố. Trong hết thảy các nỗi sợ hãi, lại dùng sự khủng bố để đe dọa khiến cho lui tan. Như thấy kẻ chẳng điều phục, lại dùng oai thế cứng cỏi, hung tàn để hàng phục, khiến cho kẻ đó chẳng thể làm quấy). “Hồng” (hūṃ, có ba ý nghĩa như trong phần trước [đã nói]). “Sa-phán trá dã” (sphoṭaya, nghĩa là phá hoại, khiến cho các sự kinh sợ ấy lui tan). Chân ngôn này là Tỳ Câu Chi Trì Tụng Mẫu, giống như mẹ của những kẻ trì tụng, công năng tôn quý nhất.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ không tâm hiệp chưởng, Thủy luân, Không luân giai nhập ư trung, thị Bạch Xứ Tôn Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa phì xá da tam bà phệ, bát đàm ma ma lý nễ, sa ha.

          ()如前以定慧手空心合掌水輪空輪皆入於中是白處尊印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃 怛他蘗多肥

舍耶三婆吠鉢曇摩摩莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ làm không tâm hiệp chưởng, các ngón Thủy luân (áp út) và Không luân (cái) đều gập vào trong lòng bàn tay; đó là Bạch Xứ Tôn Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha nghiệt đa phì xá da tam bà phệ, bát đàm ma ma lý nễ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, tathāgataviṣayasaṃbhave padmamālini svāhā”).

 

          Kế đến là Bạch Xứ Bồ Tát (Pāṇḍaravāsinī) Ấn. Cùng gập hai ngón áp út vào lòng bàn tay, hai ngón cái cũng đặt sát nhau, gập vào cho chạm [hai ngón áp út]. Các ngón khác kết thành Tam-bổ-trá hiệp chưởng (không tâm hiệp chưởng). Chân ngôn: “Đát tha nghiệt đa phì xá da” (tathāgataviṣaya, cảnh giới của Như Lai), “tam bà phệ” (saṃbhave, sanh. Ý nói: Sanh từ cảnh giới của Như Lai), “bát đàm ma ma lý nễ” (padmamālini, tràng hoa, tức vật để trang nghiêm thân. Đấy là coi cái có thể sanh ra công đức của chư Phật làm trang nghiêm, tức là trang nghiêm Pháp Thân vậy).

 

          (Kinh) Như tiền ấn, khuất nhị Phong luân trí Hư Không luân hạ, tương khứ do như khoáng mạch, thị Hà Da Yết Rị Phạ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, khư đà da, bạn xà tát phá trá dã, sa ha.

          ()如前印屈二風輪置虛空輪下相去猶如穬麥是何耶揭哩嚩印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃馱耶闍薩破吒也莎訶    

          (Kinh: Như ấn  trước, gập  hai  ngón  Phong  luân (ngón  trỏ), đặt

dưới ngón Hư Không luân (ngón cái), nhưng cách ngón Hư Không luân chừng bằng hạt lúa mạch. Đó là Hà Da Yết Rị Phạ Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, khư đà da, bạn xà tát phá trá dã, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, khādaya bhañja sphoṭaya svāhā”).

 

          Kế đó là Mã Đầu (Hayagrīva, Hà Da Yết Rị Phạ) Ấn: Kết Tam-bổ-trá, gập hai ngón trỏ cho móng chạm nhau, đặt dưới gốc ngón cái, nhưng [hai đầu ngón trỏ cách ngón cái một khoảng bằng hạt lúa mạch, đừng để chạm nhau. Hai ngón cái dựng thẳng sát nhau, hơi ngửa phần đầu ngón chỗ có móng tay là được. Chân ngôn: “Khư đà da” (khādaya, ăn. Ý nói “ăn nuốt các chướng”), “bạn xà” (bhañja, đánh nát), “tát-phá trá dã sa ha” (sphoṭaya svāhā, đánh gõ chướng ấy khiến cho nó vỡ nát tứ tán).

 

          (Kinh) Đồng tiền ấn, thân nhị Thủy luân, Phong luân, dư như quyền. Thị Địa Tạng Bồ Tát Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha. Tô đá nỗ, sa ha.

          ()同前印申二水輪風輪餘如拳是地藏菩薩印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃訶訶訶   

          (Kinh: Giống như ấn trên, duỗi hai ngón Thủy luân (áp út) và Phong luân (trỏ), các ngón khác nắm thành quyền. Đó là ấn của Địa Tạng Bồ Tát. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha. Tô đá nỗ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ha ha ha sutanu svāhā”).

 

          Kế đó là Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha) Ấn. Chắp tay bằng cách đan ngón tay vào tay, nắm thành quyền, duỗi ngón út và áp út[6] sao cho đầu chúng chạm nhau (như hình ngọn núi), hai ngón cái đặt sát nhau, dựng thẳng. Chân ngôn: “Ha ha ha” (lìa ba cái nhân, tức là cái nhân của Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát. Các chân ngôn ở đây đều là tự nói hạnh đức của Bổn Tôn. [Chân ngôn này] là tổng trì công đức của Địa Tạng Bồ Tát vậy). “Tô đá nỗ” (Sutanu, diệu thân. Do nội thân cực tịnh, nên gọi là Diệu Thân, tức Pháp Thân). “Sa ha”. “Hành giả Du Già trụ” tức là hành giả kết ấn như thế.     

 

          (Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ tác không trung hiệp chưởng, Hỏa luân, Thủy luân giao kết tương trì, dĩ nhị Phong luân trí nhị Hư Không luân thượng do như câu hình, dư như tiền, thị thánh giả Văn Thù Sư Lợi Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu ma ra, tỳ mục để bát tha tất-thể đa, sa-mạt ra sa-mạt ra, bát-ra để nhiên, sa ha.

          ()復以定慧手作空中合掌火輪水輪交結相持以二風輪置二虛空輪上猶如鉤形餘如前是聖者文殊師利印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃係係俱摩囉毘目底鉢他悉體多囉娑鉢囉底然莎訶

          (Kinh: Lại dùng tay Định và Huệ để làm không trung hiệp chưởng, các ngón Hỏa (giữa) và Thủy (áp út) đan chéo, vịn nhau, dùng hai ngón Phong (trỏ) đặt trên ngón Hư Không (ngón cái) như hình cái móc. Các ngón khác như trước. Đó là ấn của thánh giả Văn Thù Sư Lợi. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu ma ra, tỳ mục để bát tha tất-thể đa, sa-mạt ra sa-mạt ra, bát-ra để nhiên, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he kumāra vimuktipathasthita smara smara pratijñāṃ svāhā”).

         

          Kế đó là ấn của ngài Văn Thù (Mañjuśrī). Trước hết, kết Tam-bổ-trá, dùng hai ngón giữa đè ngược lên hai ngón áp út, cong hai ngón trỏ để bấm lấy đầu ngón cái là thành ấn. Chân ngôn: “Hệ hệ” (chữ Ha trong ấy là cái nhân, [nói hai chữ Hệ] hàm ý “lìa hai cái nhân”, tức là vượt thoát cảnh giới Nhị Thừa. Đó cũng là âm thanh triệu tập). “Câu ma ra” (kumāra, đồng tử. Phá hoại các ma thì cũng gọi là Câu Ma Ra). “Tỳ mục để” (vimukti, giải thoát).  

“Bát tha tất-thể đa” (pathasthita, đạo. Ý nói: Trụ nơi nào? Chính là trụ trong đạo giải thoát). “Tát-mạt ra” (smara, niệm), “tát-mạt ra” (smara, niệm). “Bát-ra để nhiên” (pratijñāṃ, sở nguyện xưa kia. Nay nghĩ đến sở nguyện xưa kia. Sở nguyện xưa kia của tôn giả là đều độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ chẳng khác gì ta. Vì thế, nay hãy nên nghĩ nhớ lời thề xưa kia).

 

          (Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, nhi cử Phong luân do như câu hình. Thị Quang Võng Câu Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu mạt ra, ma da yết đa sa phạ bà phạ tất thể đa. Sa ha.

          ()以三昧手為拳而舉風輪猶如鉤形是光網鉤印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃係係俱末羅摩耶揭多娑嚩婆嚩悉體多莎訶

          (Kinh: Dùng tay tam-muội nắm thành quyền, giơ ngón Phong luân (trỏ) lên ví như hình cái móc câu. Đó là Quang Võng Câu Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu mạt ra, ma da yết đa sa phạ bà phạ tất thể đa. Sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, he he kumāra māyagata svabhāva-sthita svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Quang Võng Bồ Tát (Jālinīprabha). Dùng tay trái nắm thành quyền, duỗi ngón trỏ, hơi cong đốt thứ ba, sao cho giống như hình cái móc câu, ngón cái dựng lên, đè lên ngón giữa là thành ấn. “Hệ hệ câu mạt la” (he he kumāra, giải thích như trên), “ma da yết đa” (māyagata. Ma-da là huyễn, yết-đa là biết, tức “biết hết thảy các pháp như huyễn”). “Sa phạ” (sva, tánh). “Bà phạ tất-thể đa” (bhāvasthita, trụ, tức là “biết rõ các pháp đều như huyễn, liền trụ trong bổn tánh, thật tánh của các pháp”).

 

          (Kinh) Tức như tiền ấn, nhất thiết luân tướng giai thiểu khuất chi. Thị Vô Cấu Quang Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ câu ma la, phì chất đa ra nghiệt để câu ma ra, ma nỗ sa mạt ra, sa ha.

          ()即如前印一切輪相皆少屈之是無垢光印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃俱摩羅肥質多囉蘗底俱摩囉麼弩娑莎訶

          (Kinh: Giống như ấn trước, hết thảy các ngón tay đều hơi cong. Đó là Vô Cấu Quang Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ câu ma la, phì chất đa ra nghiệt để câu ma ra, ma nỗ sa mạt ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he kumāra vicitra-gatikumāra [pratijñā]m anusmara svāhā”).

 

          Kế đến là ấn của  ngài    Cấu  Quang (Vimalaprabha). Duỗi  hết

thảy các ngón trong tay trái, đều hơi cong đốt thứ ba thì thành ấn (ngón cái cũng dựng lên, tợ hồ hơi cong mà thôi! Chân ngôn: “Hệ câu ma la” (he kumāra, giống như trước). “Phì chất đa-la” (vicitra, các thứ), “nghiệt để” (gati, hạnh. Ý nói các thứ hạnh) “câu ma ra” (kumāra, tức là do bổn thệ nguyện sẽ phổ môn thị hiện đủ loại thân. Dùng đủ thứ hạnh để lợi ích hết thảy, hoặc hiện thân đồng tử, hoặc hiện thân tráng niên, hoặc thân người già cả). “Ma nỗ sa-mạt ra” ([pratijñā]m anusmara, nhớ lại nguyện xưa kia. Thánh giả xưa kia đã đối trước đức Phật lập nguyện ấy. Đã nguyện như thế, hãy nên nghĩ nhớ).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ vi quyền, kỳ Phong, Hỏa luân tương hợp vi nhất thư chi, thị Kế Thất Ni Đao Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu ma lê kê, na da nhã na tát mạt ra, bổ la để nhiên, sa ha.

          ()如前以智慧手為拳其風火輪相合為一舒之是繼室尼刀印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃係係俱摩梨鷄娜耶若那薩末羅補羅底然莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay phải nắm thành quyền. Các ngón Phong (trỏ) và Hỏa (ngón giữa) hợp với nhau thành một, duỗi ra. Đó là Kế Thất Ni Đao Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ hệ câu ma lê kê, na da nhã na tát mạt ra, bổ la để nhiên, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he he kumārike dayājñānaṃ smara pratijñāṃ svāhā”).

 

          Kế đó là Kế Thất Ni (Keśinī) Ấn. Trước hết, dùng tay phải nắm thành quyền, duỗi ngón giữa và ngón trỏ sao nó đứng thẳng, ngón cái cũng dựng lên, đặt ngang [các ngón kia]. Chân ngôn: “Hệ hệ” (He he, như trên), “câu ma lê kê” (kumārike, đồng tử gọi theo giống cái, đây cũng là tam-muội của ngài Văn Thù). “Na da nhã na” (dayājñānaṃ, ban cho ước nguyện), “tát-mạt ra” (smara, nhớ khi xưa), “bổ-la để nhiên” (pratijñāṃ, bổn nguyện. Ý nói: Vị tôn giả này đạt được nguyện thù thắng nơi đức Văn Thù. Diệu nguyện vốn có ấy, nay cũng trao cho tôi).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ vi quyền, nhi thân Hỏa luân do như kích hình. Thị Ưu Ba Kế Thất Ni Kích Ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tần đà da nhã na. Hệ câu ma rị kê, sa ha.

          ()如前以智慧手為拳而申火輪猶如戟形是優波髻室尼戟印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃頻馱耶若那係俱摩哩鷄莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay trí huệ nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa (giữa) như hình cái kích. Đó là Ưu Ba Kế Thất Ni Kích Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tần đà da nhã na. Hệ câu ma rị kê, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, bhindayājñānaṃ he kumārike svāhā”).

 

          Kế đó là Ưu Ba Kế Thất  Ni (Upakeśinī) Ấn. Trước  hết, dùng  tay

phải nắm thành quyền. Duỗi thẳng ngón giữa ra, ngón cái cũng dựng lên. Theo lệ thường, ngón cái đặt nằm ngoài nắm đấm, nhưng duỗi thêm ngón giữa. Chân ngôn: “Tần đà da” (Bhindayā, mặc), “nhã na” (jñānaṃ, trí. Cuối câu trước có âm A, nối liền với câu này, tức là Vô Trí. Ý nói: Dùng diệu huệ để thấu suốt vô trí, đạt tới Thật Tướng). “Hệ” (tiếng gọi), “câu ma rị kê” (kumārike, trẻ gái, cũng là tam-muội, dùng âm thanh giống cái mà gọi tên).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ tam-muội thủ vi quyền, nhi thư Thủy luân, Địa luân, thị Địa Huệ Tràng Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ tát mạt ra nhã na kế đổ, sa ha.

          ()如前以三昧手為拳而舒水輪地輪是地慧幢印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃薩末囉若那計覩莎訶

          (Kinh: Như trong phần trên, dùng tay tam-muội (tay trái) nắm thành quyền, duỗi các ngón Thủy (áp út) và Địa (út), đó là Địa Huệ Tràng Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ tát mạt ra nhã na kế đổ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he smara jñānaketu svāhā”).

 

          Kế đó là Địa Huệ (Vasumatī) Tràng Ấn. Trước hết, dùng tay trái nắm thành quyền (cũng là ngón cái nằm nên ngoài quyền), duỗi hai ngón út và áp út thì thành ấn. “Hệ” (he, từ ngữ tán thán), “tát-mạt ra” (smara, ức niệm), “nhã na” (jñāna, trí. Ý nói: “Hãy nên nhớ trí ấy”). “Kế đổ” (ketu, tràng. Do vậy, Diệu Huệ Tràng dẹp tan các ma, nay hãy nên nghĩ nhớ, khiến cho ta cũng giống như thế).

          (Kinh) Dĩ Huệ thủ vi quyền, nhi thư Phong luân do như câu hình, thị Thỉnh Triệu Đồng Tử Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca rị sái dã tát vãm câu rô, a nhiên củ mang ra tả, sa ha.

          ()以慧手為拳而舒風輪猶如鉤形是請召童子印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃迦哩灑也薩鑁阿然矩忙囉寫莎訶

          (Kinh: Dùng tay Huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ngón Phong (trỏ) như hình móc câu. Đó là Thỉnh Triệu Đồng Tử Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca rị sái dã tát vãm câu rô, a nhiên củ mang ra tả, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ākarṣaya sarvān kuru ājñāṃ kumārasya svāhā”).

 

          Kế đó là Triệu Thỉnh Ấn (Ākarṣaṇī). Năm vị Bồ Tát trên đây đều là sứ giả của đức Văn Thù. Tay phải nắm thành quyền (cũng để ngón cái ra ngoài), gập ngón trỏ như hình móc câu, đặt gần đầu ngón cái, nhưng không chạm nhau là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “a ca rị-sái dã” (ākarṣaya, chiêu vời, triệu thỉnh, nhiếp triệu, đều có nghĩa là “móc đến nơi đây”), “tát vãm câu rô” (sarvān kuru, làm hết thảy, trao cho hết thảy, tức là như chuyện do tôn giả Văn Thù triệu vời, sẽ đều thực hiện), “a nhiên củ mang ra tả” (ājñāṃ kumārasya, chỉ thân của vị thánh giả ấy).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, thư nhị Phong  luân, khuất tiết tương hợp, thị Chư Phụng Giáo Giả Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vi tam-muội-da nễ duệ, sa ha.

          ()如前以定慧手為拳舒二風輪屈節相合是諸奉教者印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃阿微三昧耶儞曳莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, duỗi hai ngón Phong (trỏ), co đốt ngón tay cho [hai ngón trỏ] châu đầu vào nhau. Đó là ấn của các vị Phụng Giáo. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vi tam-muội-da nễ duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, āḥ vismayanīye svāhā”).

 

          Kế đó là các vị Phụng Giáo (cũng là người tuân phụng giáo pháp của đức Văn Thù, hơi khác với sứ giả). Trước hết, kết nội tương xoa hiệp chưởng quyền (đan các ngón tay vào nhau, hợp thành quyền, các ngón nằm trong lòng bàn tay). Duỗi hai ngón trỏ cho chụm đầu ngón, cong lóng thứ ba, hai ngón cái cũng dựng lên đặt ngang nhau. Xét theo chân ngôn, “a” (āḥ, hành. Bên cạnh có cái chấm, thể hiện hình dáng phẫn nộ). “Vi tam-muội-da nễ duệ” (vismayanīye, mãn nguyện, có thể khiến cho hết thảy các việc hy hữu không gì chẳng thành, có thể khiến cho chuyện hy hữu lạ lùng đều được viên mãn. Âm Duệ nhằm chỉ vị tôn giả ấy).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, nhi thư Hỏa luân, khuất đệ tam tiết, thị Trừ Nghi Quái Kim Cang Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phì mạt để chế đà ca, sa ha.

          ()如前以定慧手為拳而舒火輪屈第三節是除疑怪金剛印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃肥末底製馱迦莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa, cong đốt thứ ba, đó là Trừ Nghi Quái Kim Cang Ấn. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phì mạt để chế đà ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vimaticchedaka svāhā”).

 

          Kế đó là Kiêu Đô Hạt La Bồ Tát (Kautūhala, phương này dịch nghĩa thành Trừ Nghi, hoặc Trừ Cấu. Như mọi người đều có những nỗi ngờ vực chẳng thể giải quyết, vị Bồ Tát này liền có thể đến chỗ họ để đoạn lưới nghi cho họ. Do có thể làm bạn chẳng thỉnh, thường đoạn nghi hoặc cho hết thảy chúng sanh, cho nên Ngài có tên như thế). Ấn này kết bằng cách nội tương xoa quyền hiệp chưởng (các ngón tay đan vào nhau, nắm thành quyền, sao cho các ngón đều nằm trong lòng bàn tay), duỗi hai đầu ngón giữa sao cho chạm nhau, cong lóng thứ ba thì thành ấn (hai ngón cái theo lệ thường, dựng thẳng ở bên ngoài quyền). “Phì mạt để” (Vimati, vô huệ, tức là “không gì chẳng biết”), “chế đà ca” (chedaka, cắt đứt. Cắt đứt vô tri, khiến cho trí huệ sanh khởi. Đó cũng là ý nghĩa “cắt đứt”, lại còn có nghĩa là “đoạn hoại”, ví như ý nghĩa “Kim Cang Bát Nhã có thể đoạn” vậy).

 

          (Kinh) Cử Tỳ Bát Xá Na tý, tác Thí    Úy  thủ, thị  Thí   Úy

Giả Ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bà diễn đà đà, sa ha.

          ()舉毘鉢舍那臂作施無畏手是施無畏者印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃婆演馱馱莎訶

          (Kinh: Nâng cánh tay Tỳ Bát Xá Na (tay trái) để làm tay thí vô úy. Đó là ấn của bậc Thí Vô Úy. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a bà diễn đà đà, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ abha-yaṃdada svāhā”).

 

          Kế đến là Thí Vô Úy Bồ Tát (Abhayaṃdada) Ấn. Kết Thí Vô Úy Thủ, trong Du Già (giống như ấn của Phật Thích Ca), [tức là] duỗi cánh tay hướng lên trên, sao cho lòng bàn tay hướng ra ngoài là thành ấn. Ấn này nêu bày hành năm pháp, ngón út là Tín, ngón áp út là Tấn, ngón giữa là Niệm, ngón trỏ là Định, ngón cái là Huệ. Chư Phật, Bồ Tát dùng thân và miệng để thuyết pháp, nay ấn này biểu thị ngũ căn lực vậy. Xét theo chân ngôn, “a bà diễn đà đà” (abhayaṃdada) chính là vô úy thí. Dùng pháp gì để bố thí sự không sợ hãi [cho chúng sanh]? Chính là trụ trong môn chữ A, lìa hết thảy sanh. Tôn giả đã mãn sở nguyện, chúng con chưa đạt được, nguyện hãy thí cho con và hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Như tiền, thư trí thủ nhi thượng cử chi, thị Trừ Ác Thú Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a phiếu đà ra noa, tát đỏa đà đôn, sa ha.

          ()如前舒智手而上舉之是除惡趣印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃驃馱薩埵馱敦莎訶

          (Kinh: Giống như trên, duỗi tay trí (tay phải) nhưng nâng lên, đó là Trừ Ác Thú Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a phiếu đà ra noa, tát đỏa đà đôn, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, abhyuddharaṇi sattvadhātuṃ, svāhā”).

 

          Kế đến là Trừ Ác Thú (Apāyaṃjaha) Ấn. Giống như trên, duỗi tay phải, sao cho bàn tay hướng lên phía trên, nhưng giơ cánh tay lên phía trên thì thành ấn. Xét theo chân ngôn, “a phiếu đà ra noa” (abhyuddharaṇi, nâng lên), “tát đỏa đà đôn” (sattvadhātuṃ, chúng sanh giới). Điều này có nghĩa là do hết thảy chúng sanh giới từ vô thỉ đến nay, vì vô minh mà thường ở trong tam ác đạo. Nay bậc thánh đã đắc ngũ lực như thế, nguyện nâng đỡ khiến cho họ đạt lên thanh tịnh. Vì cớ sao vậy? Tôn giả đã tự có thể dẹp trừ, thoát ra, cũng nên nâng nhắc hết thảy chúng sanh giới.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ yểm tâm, thị Cứu Hộ Huệ Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ma ra bát ra để nhiên, sa ha.

          ()如前以慧手掩心是救護慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃係摩訶摩訶娑麼囉鉢囉底然莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải) che tim; đó là Cứu Hộ Huệ Ấn. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ma ra bát ra để nhiên, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, he mahāmaha smara pratijñāṃ svāhā”).

 

          Kế đến là ấn của Cứu Hộ Huệ Bồ Tát (Paritrāṇāśayamati). Giống như trên, duỗi tay đặt nơi tim, nên dùng lòng bàn tay hướng về thân mình để che tim, ngón cái hơi dựng lên hướng về phía trước. Xét đến chân ngôn, “hệ” (lìa nhân, cũng có nghĩa là “kêu gọi triệu tập, răn nhắc”). “Ma ha ma ha” (mahāmaha, lớn nhất trong các thứ lớn, tôn trọng nhất trong các thứ tôn trọng). “Sa-ma ra bát-ra để nhiên” (smara pratijñāṃ, bổn nguyện. Bổn nguyện trừ hết thảy khổ. Do trừ khổ, nên nói là “cứu giúp, bảo vệ”. Nay gọi tên Ngài, khiến cho Ngài nhớ tới bổn nguyện mà cứu vớt, thủ hộ hết thảy).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ tác trì hoa trạng, thị Đại Từ Sanh Ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ chế đố ốt nghiệt đa, sa ha.

          ()如前以慧手作持華狀是大慈生印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃嚩制妬嗢蘗多莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải) làm ra vẻ như đang cầm hoa. Đó là Đại Từ Sanh Ấn. Chân ngôn là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ chế đố ốt nghiệt đa, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, svacittodgata svāhā”).

 

          Kế đó là Đại Từ Sanh Bồ Tát (Mahāmaitryabhyudgata) Ấn. Giống như trên, làm Vô Úy Thí Thủ, dùng ngón cái và ngón trỏ bấm vào nhau, như dáng vẻ người cầm hoa, ba ngón kia dựng lên hướng về phía trước là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “tát phạ” (sva, chính mình), “chế đố” (citto, tâm), “ốt nghiệt đá” (odgata, sanh. Ý nói: Điều này sanh từ tự tâm, chẳng do điều gì khác mà đạt được, nên gọi là Đại Từ. Nghĩa là sanh từ cái tâm tự tánh thanh tịnh, chẳng sanh từ cái tâm đại chủng[7], nên gọi là Tự Tâm Sanh).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ phú tâm, sảo khuất Hỏa luân, thị Bi Niệm giả ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa mạt lô nật đa, sa ha.

          ()如前以慧手覆心稍屈火輪是悲念者印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃迦盧拏末盧眤多莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Huệ (tay phải) che tim, hơi cong ngón Hỏa luân (ngón trỏ), đó là ấn của đấng Bi Niệm. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa mạt lô nật đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, karuṇāmṛḍita svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Bi Niệm Bồ Tát (Karuṇāmṛḍita). Giống như trước, duỗi tay che tim, gập ngón giữa chống vào tim là thành ấn. Xét theo chân ngôn thì “ca lô noa” (karuṇā, bi) “mạt lô” (mṛ, giới), “nật đa” (ḍita, thượng niệm). Ý nói: Bổn nguyện của vị này là trừ hết thảy các khổ, nay hãy nên nghĩ nhớ. Nhưng danh xưng của vị Bồ Tát này [được dịch] là Bi Niệm, vẫn chưa trọn hết ý. Ý nghĩa nơi tên của Ngài là vị Bồ Tát này thuộc vào lòng Bi. Như người bị kẻ khác nắm giữ chẳng được tự tại, vị Bồ Tát này thân tâm đều thuộc về Bi, do được lòng Bi duy trì, nên chẳng được tự tại. Lại như kẻ làm lao dịch cho nhà vua, chẳng được tự tại, vị Bồ Tát này cũng thế, thường bị lòng Bi lôi kéo, chẳng được tự tại. Do ý nghĩa này, hãy nên nghĩ tới bổn nguyện cứu hết thảy chúng sanh.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ tác Thí Nguyện tướng, thị Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ phạ ra đà, phạ ra bổ ra bổ đa, sa ha.

          ()如前以慧手作施願相是除一切熱惱印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃嚩囉馱嚩囉補囉補多莎訶

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Huệ (tay phải) kết Thí Nguyện ấn, đó là ấn của ngài Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ phạ ra đà, phạ ra bổ ra bổ đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he varada varaprāpta svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ Tát (Sarvadāhapraśāmin). Kết Dữ Nguyện Thủ (tay kết ấn Dữ Nguyện) chính là ấn này, tức là duỗi tay phải ngửa lên, rủ tay xuống, như ấn của Bảo Sanh Phật trong Du Già. Xét theo chân ngôn, “hệ” (he, ý nghĩa như trong phần trên), “phạ ra đà” (varada, ban cho ước nguyện. Do là pháp lìa nhân nên có thể thỏa nguyện của hết thảy chúng sanh). “Phạ ra bổ-ra bổ-đa” (varaprāpta, trước đó đã đạt được. Nếu chẳng trước đó đã đạt được sở nguyện, sao có thể ban cho người khác ư? Do trước đó điều mong nguyện đã đều vẹn thỏa, nay nhớ tới bổn nguyện, bèn ban cho hết thảy chúng sanh, hòng trừ hết thảy nhiệt não. Vì cớ sao vậy? Bổn thệ nguyện của tôn giả là dốc chí cầu Phật đạo, nay Ngài đã đạt được. Vì thế, phải nên nhớ tới bổn nguyện, rộng độ hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đều nhập Phật đạo).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Huệ thủ như chấp trì Chân Đà Ma Ni bảo hình, thị Bất Tư Nghị Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ a xa bả lê bổ ra ca, sa ha.

          ()如前以智慧手如執持真多摩尼寶形是不思議慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃薩嚩阿奢跛梨補囉迦莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Huệ (tay phải) làm ra vẻ như đang cầm nắm báu Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu). Đó là ấn của ngài Bất Tư Nghị Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ a xa bả lê bổ ra ca, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, sarvāśāparipūraka svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Bất Tư Nghị Huệ Bồ Tát (Acintyamati). Dùng tay Thí Vô Úy, các ngón cái và trỏ bấm vào nhau như dáng vẻ đang cầm châu (bàn tay nên nghiêng như người khép các ngón tay để nắm lấy châu. Châu hướng về phía trên. Ngón giữa lại hơi xòe ra hướng vào trong, hai ngón kia đều dựng lên). “Tát phạ a xa” (sarvāśā, hết thảy các nguyện), “bả lê bổ ra ca” (paripūraka, thỏa mãn, ý nói: Khiến cho thỏa mãn các nguyện thù thắng của hết thảy chúng sanh, giống như Như Ý Châu).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, linh nhị Hỏa luân khai phu, thị Địa Tạng kỳ ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, vi sa ma duệ, sa ha.

          ()如前以定慧手為拳令二火輪開敷是地藏旗印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃訶訶訶微娑麼曳莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, duỗi xòe hai ngón Hỏa luân (ngón giữa); đó là ấn cờ của đức Địa Tạng. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, vi sa ma duệ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ha ha ha vismaye svāhā”).

 

          Kế đó là ấn cờ của Địa Tạng Bồ Tát (Kṣitigarbha). Trước hết, các ngón tay đan vào nhau để tạo thành quyền, các ngón gập vào lòng bàn tay, duỗi hai ngón giữa dựng lên, khiến cho đầu hai ngón cách nhau khoảng một tấc là ấn thành (hai ngón cái cũng dựng sát nhau như thường lệ). Kế Đổ (Ketu) nghĩa là “cờ”, ấn này giống như lá cờ vậy. Xét theo chân ngôn, “ha ha ha” (lìa ba cái nhân, ý nghĩa như trong phần trên), “vi sa-ma duệ” (vismaye, hy hữu. Hết thảy hữu tình thường khổ não vì ngã tưởng. Cắt đứt sạch ý niệm ấy, ngã tưởng liền trừ. Đó là điều hy hữu, cũng có nghĩa là hiếm lạ).

 

          (Kinh) Huệ thủ vi quyền, nhi thư tam luân, thị Bảo Xứ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ha.

          ()慧手為拳而舒三輪是寶處印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃係摩訶摩訶莎訶

          (Kinh: Tay Huệ (tay phải) nắm thành quyền, duỗi ba ngón, đó là ấn của ngài Bảo Xứ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hệ ma ha ma ha, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, he mahāmaha svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Bảo Xứ Bồ Tát (Ratnākara). Tay phải  nắm  thành

quyền (để ngón cái ra ngoài), liền duỗi các ngón út, áp út, và ngón giữa dựng lên là thành ấn. “Hệ” (he, ý nghĩa như trong phần trên như trên), “ma ha ma ha” (mahāmaha, lớn nhất trong các thứ to lớn). Sở dĩ Ngài có tên là Bảo Xứ, giống như chất báu sanh trong biển, nên gọi là Bảo Xứ. Như báu ở trong biển, do biển mà có, cho nên gọi tên như thế.

 

          (Kinh) Dĩ thử Huệ thủ thư kỳ Thủy luân, thị Bảo Thủ Bồ Tát ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát nộ ốt bà phạ, sa ha.

          ()以此慧手舒其水輪是寶手菩薩印 彼真言曰

南麼三曼多勃馱喃囉怛怒嗢婆嚩莎訶

          (Kinh: Dùng tay Huệ (tay phải) duỗi ngón Thủy (ngón áp út); đó là ấn của Bảo Thủ Bồ Tát. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát nộ ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ratnodbhava svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapāṇi). Tay phải nắm thành quyền, dùng ngón cái đè lên các ngón khác, duỗi thẳng ngón áp út là thành ấn. Xét theo chân ngôn, “ra đát nộ” (ratno, chất báu), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh ra, [hàm ý] “chất báu phát xuất từ tay”. Ý nói: Thánh giả sanh từ chất báu, từ chất báu gì mà sanh? Chính là từ báu Bồ Đề tâm mà sanh).

 

          (Kinh) Dĩ Định Huệ thủ tác phản tương xoa hiệp chưởng, Định thủ Không luân, Huệ thủ Địa luân tương giao, Bát Nhã ư tam-muội diệc phục như thị. Dư như bạt-chiết-la trạng, thị Trì Địa ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ra ni đạt ra, sa ha.

          ()以定慧手作返相叉合掌定手空輪慧手地輪相交般若於三昧亦復如是餘如跋折羅狀是持地印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃達囉尼達囉莎訶

          (Kinh: Chắp hai tay Định và Huệ đâu lưng, các ngón chéo nhau, ngón Không (ngón cái) của tay Định (tay trái) và ngón Địa (ngón út) của tay Huệ (tay phải) giao nhau, tay Bát Nhã (tay phải) đối với tay tam-muội (tay trái) cũng giống như thế. Các ngón khác như hình chày kim cang. Đó là ấn của ngài Trì Địa. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ra ni đạt ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ,

dharaṇiṃdhara svāhā).

 

          Kế đó là ấn của ngài Trì Địa (Dharaṇiṃdhara). Đâu hai lưng bàn tay, các ngón chéo nhau, tay phải ngửa, tay trái úp, đầu các ngón đè lên nhau, tức là ngón cái và ngón út áp vào nhau (tức là ngón cái và ngón út của tay trái hướng lên trên, ngón cái và ngón út của tay phải hướng xuống dưới, đè lên tương ứng, tức là ngón cái của tay phải đè lên ngón út của tay trái, ngón út của tay phải đè lên ngón cái của tay trái). Xét theo chân ngôn, “đạt ra ni” (dharaṇiṃ là đất. Do đất có thể gìn giữ hết thảy các vật, nên gọi tên như thế), “đạt ra” (dhara là “trì’ (nắm giữ, duy trì). Trì địa vị của chư Phật, gánh vác chúng sanh, nên coi như là đất, cũng khiến cho chúng sanh đều đạt được địa vị ấy mà gọi tên như     thế).

 

          (Kinh) Như tiền, tác ngũ cổ kim cang kích hình, thị Bảo Ấn Thủ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát na niết thệ đa, sa ha.

          ()如前作五股金剛戟形是寶印手印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃囉怛娜涅誓多莎訶

          (Kinh: Như trên, tạo thành hình kim cang kích năm nhánh, đó là ấn của ngài Bảo Ấn Thủ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra đát na niết thệ đa, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ratnanirjāta svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratnamudrāhasta). Trước hết, hai tay đan vào nhau tạo thành quyền, các ngón hướng ra ngoài. Duỗi hai ngón giữa sao cho đầu ngón đều dựng lên. Kế đó, duỗi ngón trỏ và ngón cái, cong hai ngón trỏ hướng về lưng hai ngón giữa, nhưng đừng cho chạm vào lưng ngón giữa, tạo thành hình dạng như chày kim cang năm nhánh thì ấn thành. Xét theo chân ngôn, “ra đát na” (ratna, báu), “niết thệ đa” (nirjāta, sanh. [Ý nói]: Từ chất báu của chư Như Lai mà sanh).

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, linh nhất thiết luân tướng hợp. Thị Phát Kiên Cố Ý ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bạt chiết ra tam bà phạ, sa ha.

          ()即以此印令一切輪相合是發堅固意印 彼真言

南麼三曼多勃馱喃伐折囉三婆嚩莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, sao cho hết thảy các ngón đều hợp lại. Đó là ấn của ngài Phát Kiên Cố Ý. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bạt chiết ra tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, vajrasaṃbhava svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Kiên Cố Ý Bồ Tát (Dṛḍhādhyāśaya). [Kết ấn] như hình [chày kim cang] năm nhánh trong phần trước, khiến cho các đầu ngón tay đều chạm nhau thì ấn thành. Xét theo chân ngôn, “bạt chiết ra tam bà phạ” (vajra-saṃbhava, sanh từ kim cang, cũng từ trí ấn kim cang bất khả phá hoại mà sanh, cho nên gọi tên như thế).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ nhị thủ tác Đao, thị Hư Không Vô Cấu Bồ Tát ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na a nan đa, ngu giả ra, sa ha.

          ()如前以定慧二手作刀是虛空無垢菩薩印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃伽伽娜難多愚者  

          (Kinh: Giống như trên, dùng hai tay Định và Huệ làm Đao, đó là ấn của Hư Không Vô Cấu Bồ Tát. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na a nan đa, ngu giả ra, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, gaganānantagocara svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Hư Không Vô Cấu Bồ Tát (Gaganāmala). Làm Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp chưởng), dùng đầu hai ngón trỏ bấm vào nhau, khiến cho chụm lại là được (giống như Như Lai Đao Ấn). Xét theo chân ngôn, “già già na” (gagana, hư không), “a nan đa” (ananta, vô lượng), “ngu giả ra” (gocara, hạnh. [Ý nói]: Vô lượng hạnh giống như hư không, nên [Bồ Tát] có tên gọi như thế).

         

          (Kinh) Như tiền Chuyển ấn, thị Hư Không Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chước cật ra phạ lạt để, sa ha.

          ()如前輪印是虛空慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃斫吃囉嚩喇底莎訶

          (Kinh: Giống như ấn Chuyển [Pháp  Luân] trong  phần  trước, đó

là ấn của ngài Hư Không Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, chước cật ra phạ lạt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, cakravarti svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Hư Không Huệ (Gaganamati), giống như ấn Chuyển Pháp Luân trong phần trước. Xét theo chân ngôn, “chước cật-ra” (cakra, luân), “phạ lạt-để” (varti, chuyển). Ý nói: Thánh giả do trước đó đã đắc pháp luân này, nguyện vì hết thảy chúng sanh nên chuyển pháp luân này.

         

          (Kinh) Như tiền, Thương Khư Ấn, thị Thanh Tịnh Huệ ấn, bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma tam bà phạ, sa ha.

          ()如前商佉印是清淨慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃達磨三婆嚩莎訶

          (Kinh: Giống như ấn Thương Khư (ấn của ngài Kim Cang Tỏa) trong phần trước, đó là ấn của ngài Thanh Tịnh Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đạt ma tam bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, dharmasaṃbhava svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddhamati). Kết Tam-bổ-trá, cùng gập hai ngón cái vào lòng bàn tay, dùng hai ngón trỏ đè trên lưng [hai ngón cái] (ngón trỏ cong thành hình khuyên, sao cho móng tay hướng về nhau là được). “Đạt ma” (dharma, pháp), “tam bà phạ” (saṃbhava, sanh). Ý nói: Bồ Tát đạt được tự tại giống như cảnh giới Phật, từ pháp mà sanh, nên gọi là Pháp Sanh, tức là sanh từ pháp thanh tịnh trong tự tánh vậy.

 

          (Kinh) Như tiền, Liên Hoa ấn, thị Hạnh Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát đàm ma a lại da, sa ha.

          ()如前蓮華印是行慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃鉢曇摩阿賴莎訶

          (Kinh: Như Liên Hoa ấn trong phần trước; đó là ấn của ngài Hạnh Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát đàm ma a lại da, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, padmālaya svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của Hạnh Huệ Bồ Tát (Cāritramati), giống như Liên Hoa ấn của đức Quán Âm (ngón út và ngón cái bấm vào nhau, sáu ngón kia [như cánh sen xòe nở]). Xét theo chân ngôn, “bát đàm ma” (padma, hoa sen), “a lại da” (alaya, tạng. Tức là Bồ Đề tâm. Từ thai tạng mà sanh ra).

 

          (Kinh) Đồng tiền, thanh liên hoa ấn nhi sảo khai phu, thị An Trụ Huệ ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhã na ốt bà phạ, sa ha.

          ()同前青蓮華印而稍開敷是安住慧印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃若那嗢婆嚩莎訶

          (Kinh: Giống ấn hoa sen xanh trong phần trước, nhưng hơi nở to hơn. Đó là ấn của ngài An Trụ Huệ. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhã na ốt bà phạ, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, jñānodbhava svāhā”).

 

          Kế đó là An Huệ Bồ Tát (Sthiramati, hoặc còn dịch là Trụ Huệ, cần phải tra cứu thêm). Hai tay đan các ngón vào nhau, tạo thành quyền, sao cho các ngón đều gập vào lòng bàn tay. Duỗi hai ngón trỏ dựng lên, sao cho đầu ngón cách nhau đôi chút, đừng chạm nhau là thành ấn (hai ngón cái cũng dựng sát nhau). Ấn này tương tự ấn của Đa La Bồ Tát, nhưng tách ra ít hơn (đó là chỗ khác với ấn trước). Xét theo chân ngôn, “nhã na” (jñāno, trí), “ốt bà phạ” (odbhava, sanh. [Hàm ý]: Từ trí mà sanh).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ nhị thủ tương hợp, nhi khuất Thủy luân tương giao, nhập ư chưởng trung, nhị Hỏa luân, Địa luân hướng thượng, tương trì, nhi thư Phong luân khuất đệ tam tiết, linh bất tương trước, do như khoáng mạch. Thị Chấp Kim Cang ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha lô sắt noa, hồng.

          ()如前以二手相合而屈水輪相交入於掌中二火輪地輪向上相持而舒風輪屈第三節令不相著猶如是執金剛印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞摩訶盧瑟拏

          (Kinh: Như  trên, hai  tay  hợp  lại, cong  ngón  Thủy (áp  út) chéo

nhau, gập vào lòng bàn tay, hai ngón Địa (út) và Hỏa (giữa) hướng lên trên, chạm nhau, duỗi hai ngón Phong (trỏ), cong đốt thứ ba, nhưng đầu chúng chẳng chạm nhau, mà cách nhau chừng một hạt lúa mạch. Đó là ấn của ngài Chấp Kim Cang. Chân ngôn của Ngài là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha lô sắt noa, hồng - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, caṇḍamahāroṣaṇa hūṃ).

 

          Kế đó là Chấp Kim Cang (Vajradhara). Giống như ấn Ngũ Cổ trong phần trước, hai ngón trỏ cách đốt trên của ngón giữa chừng một hạt lúa mạch là được. Xét theo chân ngôn, “chiến đồ” (caṇḍa. Chữ Chiến có âm Giá (Ca) có nghĩa là sanh tử, ý nói “lìa sanh tử”. Trên đó, có một cái chấm Đại Không, ngụ ý: Sanh tử giống như Đại Không. “Đồ” có nghĩa là kẻ đối địch. Ví như lìa sanh tử, bằng với Đại Không; do vậy, chẳng ai có thể đối địch. Hiểu theo ý nghĩa của cả câu thì Chiến Đồ là “bạo ác”). “Ma ha lô sắt noa” (mahāroṣaṇa, đại phẫn nộ. Như trên đã nói, không ai có thể đối địch, cho nên phẫn nộ). “Hồng” (hūṃ, đọc âm dài, có cùng ý nghĩa với ba món giải thoát trong phần trên). Dùng pháp như trên để khiến cho chúng sanh sợ hãi, lìa sanh tử, đạt được ba môn giải thoát.

 

          (Kinh) Như tiền ấn, dĩ nhị Không luân, Địa luân khuất nhập chưởng trung. Thị Mang Mãng Kê ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, đát lật trá, đát lật trá, nhã diễn để, sa ha.

          ()如前印以二空輪地輪屈入掌中是忙莽雞印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吒怛若衍底莎訶

          (Kinh: Như ấn trước, dùng hai ngón Không (cái) và Địa (út) gập vào lòng bàn tay. Đó là ấn của ngài Mang Mãng Kê. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, đát lật trá, đát lật    trá, nhã diễn để, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, triṭ triṭ jayanti svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Mang Mãng Kê (Māmakī). Giống như Ngũ Cổ Kim Cang (chày kim cang năm nhánh) trong phần trước, hai ngón cái và hai ngón út đều gập vào lòng bàn tay, cũng là phải đè lên trái. Các ngón đan nhau gập vào lòng bàn tay giống như trước, nhưng các ngón giữa và trỏ tạo thành hình kim cang (vị này là Kim Cang Mẫu). “Đát lật trá đát lật trá” (triṭ triṭ, trong ấy có nhiều âm, tức là bình đẳng giống như lý Như Như. Đó là tam-muội, là lìa ngã mạn. Trụ trong Như Như ấy, tất cả ngã mạn tự nhiên chẳng có. Lại nói thêm, từ ngữ này hàm nghĩa “tối cực”). “Nhã diễn để” (Jayanti, thù thắng, ý nói: Dùng pháp Như Như vô ngã để hàng phục hết thảy các chướng nạn, khiến cho chúng kinh hoảng mà hàng phục, tức là ý nghĩa “chiến thắng” vậy).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ chư luân phản xoa, tương củ hướng ư tự thể nhi toàn chuyển chi, Bát Nhã không luân gia tam-muội Hư luân, thị Kim Cang Tỏa ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng bạn đà bạn đà, mẫu trá dã, mẫu đà dã, phạt chiết rô đà phệ. Tát phạ đát ra bát ra đê ha đê, sa ha.

          ()如前以定慧手諸輪返叉相糺向於自體而旋轉之般若空輪加三昧虛輪是金剛鎖印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吽畔陀畔陀母吒也母陀也伐折嚕馱吠薩嚩怛囉鉢囉莎訶

          (Kinh: Giống như trên, đan chéo các ngón của tay Định và Huệ ngược lưng nhau, hướng vào thân mình mà xoay chuyển, [sao cho] ngón Không (ngón cái) của tay Bát Nhã (tay phải) đè lên ngón Hư Không (ngón cái) của tay tam-muội (tay trái). Đấy là ấn của ngài Kim Cang Tỏa. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng bạn đà bạn đà, mẫu trá dã, mẫu đà dã, phạt chiết rô đà phệ. Tát phạ đát ra bát ra đê ha đê, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hūṃ bandha bandha moṭaya moṭaya vajrodbhave sarvatrāpratihate svāhā”).

         

          Kế đó là ấn của ngài Kim Cang Thương Khư La (Vajraśṛṅkhalā), tức là Kim Cang Liên Tỏa (dây xích kim cang, tức dây xích trí huệ). Giống như trên, kết Chuyển Pháp Luân ấn, dùng các ngón út, áp út, giữa và trỏ móc vào nhau, rồi hướng xuống dưới xoay tròn, hướng vào trong mà chuyển. Kế đó, đặt trước ngực, khiến cho hai ngón trỏ hướng ra ngoài, hai ngón cái cũng là phải đè lên trái, móc vào nhau. Xét theo chân ngôn, “Hồng” (hūṃ, đọc ba lần, ý nghĩa như trên), “bạn đà bạn đà” (bandha bandha là trói. Ý nói: Hai thứ trói buộc, tức là phiền não phược và sở tri phược). “Mẫu trá dã mẫu đà dã” (moṭaya moṭaya, như tráng sĩ bắt trói kẻ không có sức, thít chặt tới cổ, khiến cho thân phần [kẻ đó] bị phá hoại. [Chân ngôn này] khiến cho hai thứ chướng vỡ nát cũng giống như thế. Do vậy, dùng đó làm ý nghĩa). “Phạt chiết-rô” (vajro, kim cang). “Đà phệ” (dbhave, sanh. Từ trí huệ mà sanh ra). “Tát phạ đát-ra” (sarvatrā, hết thảy các xứ), “bát-ra đê ha đê” (pratihate, chẳng ai có thể hại được).

 

          (Kinh) Dĩ thử Kim Cang Tỏa ấn, thiểu khuất Hư Không luân dĩ trì Phong luân, nhi bất tương chí, thị Phẫn Nộ Nguyệt Yển ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phán trá, sa ha.

          ()以此金剛鎖印少屈虛空輪以持風輪而不相至是忿怒月黶印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吽泮莎訶

          (Kinh: Dùng ấn Kim Cang Tỏa ấy, hơi gập ngón hư không (ngón cái) để nắm lấy ngón phong luân (ngón trỏ) nhưng không chạm vào nhau; đó là ấn của ngài Phẫn Nộ Nguyệt Yển. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phán trá, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, hrīḥ hūṃ phaṭ svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Kim Cang Nguyệt Yển Phẫn Nộ (Krodhacandratilaka). Vị Kim Cang này sanh từ tướng bạch hào trên trán đức Phật; do vậy, có tên như thế. Hào tướng sáng sạch, ví như trăng tròn. Vì thế, hiệu là Nguyệt Yển. [Ấn của Nguyệt Yển Phẫn Nộ Kim Cang] giống như ấn “chày kim cang năm nhánh” trong phần trước: Cong hai ngón trỏ như cái móc, bấm lấy hai ngón cái, khiến cho hơi cong, nhưng chẳng chạm vào nhau là được (hơi khác với ấn trước đó). “Hiệt-rị” (hrīḥ, lìa cái nhân vô cấu, bên cạnh có chấm, nghĩa là “cực phẫn nộ”). “Hồng” (hūṃ, tương xứng với ba ý nghĩa), “phán trá” (phaṭ, trừ khử tột bậc).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, kiến lập nhị Phong luân nhi dĩ tương trì, thị Kim Cang Châm ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, tát bà đạt ma, niết bệ đạt nễ, phạt chiết ra tố chỉ, phạ ra đề, sa ha.

          ()如前以定慧手為拳建立二風輪而以相持是金剛針印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞薩婆達磨涅鞞達儞伐折囉素旨嚩囉莎訶

          (Kinh: Giống như trên, tay Định và Huệ nắm thành quyền, dựng hai ngón Phong (trỏ) chống vào nhau; đó là ấn của ngài Kim Cang Châm. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, tát bà đạt ma, niết bệ đạt nễ, phạt chiết ra tố chỉ, phạ ra đề, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, sarva-dharmanirvedhani vajrasūci varade svāhā”).

 

          Kế đến là ấn của ngài Kim Cang Châm (Vajrasūcī), hai tay đan chéo vào nhau, các ngón gập vào lòng bàn tay. Dựng hai ngón trỏ sao cho đầu của chúng chạm nhau như hình cái kim. Hai ngón cái cùng gập vào lòng bàn tay. Xét theo chân ngôn, “tát bà đạt ma” (sarvadharma, hết thảy các pháp). “Niết bệ đạt nễ” (nirvedhani, xuyên qua. [Hàm ý]: Dùng kim cang huệ châm xuyên suốt hết thảy các pháp), “phạt chiết-ra tố chỉ” (vajrasūci, Kim Cang Châm. Dùng vật gì để xuyên thấu? Tức là dùng kim cang trí châm). “Phạ la đề” (varade, ban cho ước nguyện. Do nguyện lực trước kia, nên nay đạt được nguyện này, cũng sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh đều thấu đạt các nguồn pháp).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ vi quyền, nhi trí ư tâm. Thị Kim Cang Quyền ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Tát phổ trá dã, phạt chiết ra tam bà phệ, sa ha.

          ()如前以定慧手為拳而置於心是金剛拳印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞吒也伐折囉三婆吠莎訶

          (Kinh: Như trên, dùng tay Định và Huệ làm thành quyền, đặt nơi tim. Đó là ấn Kim Cang Quyền. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Tát phổ trá dã, phạt chiết ra tam bà phệ, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, sphoṭaya vajrasaṃbhave svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Kim Cang Địa Phủng (Vajramuṣṭi). Hai tay đan ngón vào nhau, nắm thành quyền, sao cho các ngón gập vào lòng bàn tay. Hai ngón cái đều dựng lên phía ngoài quyền, nâng hai khủy tay hơi cao như hình cái chùy (nâng hướng về bên phải, như dáng vẻ giận dữ muốn đánh). Xét trong chân ngôn, “tát-phổ trá dã” (sphoṭaya, tan tác. Dùng kim cang huệ chùy đập vỡ tam độc, khiến cho nó tan nát, phá hoại). “Tam bà phệ” (saṃbhave, sanh. Ai có thể làm chuyện này? Chính là người từ kim cang mà sanh, sẽ có thể làm chuyện này).

          (Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, cử dực khai phu, trí huệ thủ diệc tác quyền, nhi thư Phong luân như phẫn nộ tướng nghĩ hình. Thị Vô Năng Thắng ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Đỗ đạt lý sa, ma ha rô sắt noa, khư đà da, tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ nhiên câu lô, sa ha.

          ()以三昧手為拳舉翼開敷智慧手亦作拳而舒風輪如忿怒相擬形是無能勝印彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞杜達里沙摩訶嚧瑟拏佉陀耶薩鑁怛他蘗多阿曳然俱盧莎訶

          (Kinh: Dùng tay tam-muội (tay trái) nắm thành quyền, nâng cánh tay. Tay trí huệ (tay phải) cũng nắm thành quyền, duỗi ngón Phong (ngón trỏ) như dáng vẻ phẫn nộ. Đó là ấn của ngài Vô Năng Thắng. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Đỗ đạt lý sa, ma ha rô sắt noa, khư đà da, tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ nhiên câu lô, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, durdharṣa mahāroṣaṇa khādaya sarvāṃ tathāgatājñāṃ kuru svāhā”).

 

          Kế đó là ấn của ngài Nan Thắng Kim Cang (tức Vô Năng Thắng - Aparājita). Tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ đặt nơi tim, tay trái kết thành quyền (đều là ngón cái nắm ngoài quyền), duỗi thẳng cánh tay, khiến cho quyền hơi cao ngang với đầu. Do hết thảy các ma chẳng thể nhiễu loạn, chẳng thể thắng được, nên gọi tên như thế. Xét theo chân ngôn, “đỗ đạt lý sa” (durdharṣa, trừ nạn, hàng phục), “ma ha rô sắt noa” (mahāroṣaṇa, đại phẫn nộ. Dùng pháp gì để hàng phục lũ ma? Do có đại phẫn nộ). “Khư đà da” (khādaya, ăn, [ý nói] nuốt hết thảy các chướng kết phiền não), “tát vãm đát tha nghiệt đa a duệ-nhiên” (sarvāṃ-tathāgatājñāṃ, giáo pháp của hết thảy Như Lai), “câu lô” (kuru, vâng theo. Tức là vâng theo lời dạy của hết thảy các đức Như Lai, sẽ thuận theo lời giáo sắc mà làm).

 

          (Kinh) Dĩ Định Huệ thủ vi quyền, tác tương kích thế trì chi. Thị A Tỳ Mục Khư ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Hệ a tỳ mục khư, ma ha bát ra chiến đồ. Khư đà dã, khẩn chỉ ra duệ tế. Tam-muội da ma nô tát mạt ra, sa ha.

          ()以定慧手為拳作相擊勢持之是阿毘目佉彼真言曰南麼三曼多伐折囉𧹞 係阿毘目佉摩訶鉢囉

也緊旨囉拽細三昧耶摩奴薩末莎訶

          (Kinh: Dùng tay Định và Huệ nắm thành quyền, giơ lên như vẻ sắp đánh. Đó là ấn của ngài A Tỳ Mục Khư. Chân ngôn của Ngài là: “Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Hệ a tỳ mục khư, ma ha bát ra chiến đồ. Khư đà dã, khẩn chỉ ra duệ tế. Tam-muội da ma nô tát mạt ra, sa ha - Namaḥ samantavajrāṇāṃ, he abhimukha mahāpracaṇḍa khā-daya kiṃ cirāyasi samayam anusmara svāhā”).

 

          Kế đó là Tương Hướng Kim Cang (A Tỳ Mục Khư, Abhimukha). Do vị này đối diện với Nan Thắng và cùng canh cửa, nên gọi tên như vậy. Ấn này giống như trước (chỉ đổi phải thành trái mà thôi!) “Hệ” (He, ý nghĩa như trong phần trước), “a tỳ mục khư” (abhimukha, đối diện nhau), “ma ha bát ra chiến đồ” (mahāpracaṇḍa, cực đại bạo ác), “khư đà da” (khādaya, ăn), “khẩn chỉ ra duệ tế” (kiṃ cirāyasi, sao không nhanh chóng?), “tam-muội da” (samayam, bản thệ), “ma nô tát-mạt ra” (anusmara, nghĩ nhớ. Vốn đối trước hết thảy Như Lai, lập tam-muội-da thệ, ăn hết thảy phiền não, nay sao chẳng nhớ bổn nguyện để nhanh chóng thực hiện?)

 

          (Kinh) Như tiền, trì bát tướng, thị Thích Ca bát ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cát lệ thước niết tô đạt nễ, tát phạ đạt ma phạ thỉ đa bát ra bát để, già già na tam mê, sa ha.

          ()如前持鉢相是釋迦鉢印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃薩嚩吉隷鑠涅蘇達儞薩嚩達摩嚩始多鉢囉鉢底伽伽那三迷莎訶

          (Kinh: Tướng cầm bát như trong phần trước, đó là ấn bát của Phật Thích Ca. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cát lệ thước niết tô đạt nễ, tát phạ đạt ma phạ thỉ đa bát ra bát để, già già na tam mê, sa ha. Namaḥ samantabuddhānāṃ sarvakleśa-niṣūdana sarvadharmavaśitāprāpta gaganasame, svāhā”).

 

          Kế đó, ấn bát của Phật giống như trong phần trước, tức là ấn bát của Phật Thích Ca. Xét theo chân ngôn, “tát phạ cát-lệ thước” (sarvakleśa, hết thảy phiền não), “niết tô đạt nễ” (niṣūdana, đào bới, giống như cuốc bén bổ thẳng xuống đào bới triệt để), “tát phạ đạt ma” (sarvadharma, hết thảy các pháp), “phạ thỉ đa bát-ra bát-để” (vaśitāprāpta, đạt được, tức là được tự tại trong các pháp), “già già na tam mê” (gaganasame, bằng với hư không. Do được tự tại trong các pháp nên bằng với hư không, dùng pháp ấy để đào bỏ phiền não).

 

          (Kinh) Thích Ca hào tướng ấn, như thượng, hựu dĩ Huệ thủ chỉ phong tụ trí đảnh thượng. Thị Nhất Thiết Phật Đảnh ấn. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vãm vãm, hồng hồng hồng, phát trá, sa ha.

          ()釋迦毫相印如上又以慧手指峯聚置頂上是一切佛頂印彼真言曰南麼三曼多勃馱喃鑁鑁吽吽吽發吒莎訶

          (Kinh: Ấn tướng bạch hào của Phật Thích Ca, như trong phần trước, chụm đầu các ngón của tay Huệ (tay phải), đặt trên đỉnh đầu. Đó là ấn Nhất Thiết Phật Đảnh. Chân ngôn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vãm vãm, hồng hồng hồng, phát trá, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, vaṃ vaṃ hūṃ hūṃ hūṃ phaṭ svāhā”).

 

          Kế đó, giống như ấn Hào Tướng trong phần trước; đấy chính là ấn hào tướng của Phật Thích Ca. Kế đó, dùng năm ngón tay bên phải chụm lại, đặt trên đỉnh đầu, đấy chính là ấn Nhất Thiết Phật Đảnh. Xét trong chân ngôn, “vãm vãm” (vaṃ vaṃ, chữ Vãm đọc âm Phạ, nghĩa là “khiến cho các trói buộc do Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng đều như hư không”). “Hồng hồng hồng” (lìa ba cái nhân, đắc Tam Không, chứng tam-muội).

 

          (Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, thư Hỏa, Phong luân, nhi dĩ Hư Không gia Địa, Thủy luân thượng. Kỳ trí huệ thủ thân Phong, Hỏa luân nhập tam-muội chưởng trung, diệc dĩ Hư Không gia Địa, Thủy, Hỏa luân thượng như tại đao tiêu, thị Bất Động Tôn ấn. Như tiền, Kim Cang huệ ấn, thị Hàng Tam Thế ấn.

          ()以三昧手為拳舒火風輪而以虛空加地水輪上其智慧手申風火輪入三昧掌中亦以虛空加地水輪上如在刀鞘是不動尊印如前金剛慧印是降三世印

          (Kinh: Dùng tay tam-muội (tay trái) nắm thành quyền, duỗi ngón Hỏa (giữa) và Phong (trỏ), dùng ngón Hư Không (ngón cái) đè lên ngón Địa (út) và Thủy (áp út). Tay trí huệ (tay phải) thì duỗi ngón Phong và Hỏa gập vào lòng bàn tay tam-muội, cũng dùng ngón Hư Không đè lên các ngón Địa, Thủy, Hỏa như ở trong vỏ đao. Đó là ấn của ngài Bất Động. Giống như Kim Cang huệ ấn trong phần trên thì là ấn của ngài Hàng Tam Thế).

 

          Kế đó, tay trái nắm thành quyền, duỗi các ngón trỏ và giữa, dùng ngón cái đè lên móng của các ngón út và áp út. Tay phải cũng làm như thế để tạo thành đao, nhét vào trong vỏ đao. Đấy chính là ấn của ngài Bất Động. Ấn của ngài Hàng Tam Thế thì giống như ngũ cổ kim cang ấn (ấn thành hình chày kim cang năm nhánh).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ hợp vi nhất tướng, kỳ Địa, Thủy luân giai hướng hạ, nhi thân Hỏa luân nhị phong tương liên, khuất nhị Phong luân trí ư đệ tam tiết thượng, tịnh Hư Không luân như tam mục hình. Thị vi Như Lai Đảnh ấn, Phật Bồ Tát mẫu.

          ()如前以定慧手合為一相其地水輪皆向下而申火輪二峯相連屈二風輪置於第三節上並虛空輪如三目形如來頂印佛菩薩母

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay Định và Huệ hợp thành một tướng (tức là chắp hai tay lại), các ngón Địa (út) và Thủy (áp út) đều hướng xuống dưới, duỗi cho đầu hai ngón Hỏa (giữa) nối nhau, gập đốt thứ ba của ngón Phong (trỏ) cho chạm ngón Hư Không như hình ba con mắt. Đó là Như Lai đảnh ấn, [hoặc còn gọi là] Phật Bồ Tát Mẫu Ấn).

 

          Kế đó là Phật Nhãn Ấn. Kết Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp chưởng), cùng gập hai ngón út và áp út vào lòng bàn tay, dựng hai ngón giữa như cái kim, hai ngón trỏ gập xuống bấm vào đốt thứ ba của ngón giữa, giống như hình con mắt. Hai ngón cái hơi cong, sao cho chúng ở phía dưới ngón giữa, khiến cho đầu ngón khum khum giống như hình con mắt. Đấy là tam-muội. Các ngón út và áp út xếp giống như kiểu “hướng nội hiệp chưởng” (chắp tay sao cho các ngón gập vào lòng bàn tay) như trong phần trước [đã nói]. Trên đây là Phật Đảnh Ấn, cũng gọi là Phật Bồ Tát Mẫu Ấn.

 

          (Kinh) Phục dĩ tam-muội thủ phú nhi thư chi, huệ thủ vi quyền, nhi cử Phong luân do như cái hình. Thị Bạch Tán Phật Đảnh Ấn.

          ()復以三昧手覆而舒之 慧手為拳而舉風輪猶如蓋

是白傘佛頂印

          (Kinh: Lại dùng tay tam-muội (tay trái) che lên trên mà duỗi ra. Tay huệ (tay phải) nắm thành quyền, ngón Phong (trỏ) dựng lên, tạo thành [hình dạng] như cái dù. Đó là ấn của ngài Bạch Tán Phật   Đảnh).

 

          Kế đó là ấn của ngài Bạch Tán Phật Đảnh (Sitātapatroṣṇīṣa). Duỗi tay trái, khiến cho các ngón cách nhau khoảng một tấc, coi đó là phần dù. Tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ làm cán dù. Dùng cán chống vào lòng bàn tay trái là thành ấn (hễ nói “nắm thành quyền” đều là ngón cái ở ngoài các ngón kia, các ấn khác đều phỏng theo lệ này). Chân ngôn giống như trong phần trên.

 

          (Kinh) Như tiền Đao Ấn, thị Thắng Phật Đảnh ấn.

          ()如前刀印是勝佛頂印

          (Kinh: Giống như Đao Ấn trong phần trước, đó là ấn của ngài Thắng Phật Đảnh).

 

          Kế đó, kết ấn của ngài Thắng Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa), giống như Đao Ấn trong phần trước. Tức là kết Tam-bổ-trá (hư tâm hiệp chưởng), ngón giữa dựng lên, chụm vào nhau, ngón trỏ và cái bấm vào nhau là thành ấn.

 

          (Kinh) Như tiền Luân Ấn, thị Tối Thắng Phật Đảnh ấn.

          ()如前輪印是最勝佛頂印

          (Kinh: Giống như Luân Ấn trong phần trên, đó là ấn của ngài Tối Thắng Phật Đảnh).

 

          Kế đó là ấn của Tối Thắng Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa), giống như ấn Chuyển Pháp Luân trong phần trước.

 

          (Kinh) Như tiền Câu Ấn, Huệ thủ vi quyền, cử kỳ Phong luân nhi thiểu khuất chi. Thị Trừ Nghiệp Phật Đảnh ấn.

          ()如前鉤印慧手為拳舉其風輪而少屈之是除業佛頂印

          (Kinh: Giống như Câu Ấn trong phần trước, tay  Huệ  nắm  thành

quyền, dựng ngón Phong lên, nhưng hơi cong. Đó là ấn của Trừ Nghiệp Phật Đảnh).

 

          Kế đó là ấn của Trừ Nghiệp Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa), giống như Câu Ấn trong phần trước. Tức là chắp hai tay, sao cho các ngón đan vào nhau trong lòng bàn tay, cong ngón trỏ trong tay phải như hình cái móc câu. Hai ngón cái chéo nhau, sao cho phải đè lên trái. Nay chỉ có một tay, tức là tay phải nắm thành quyền, dựng ngón trỏ, hơi cong đốt trên cùng của ngón trỏ.

 

          (Kinh) Như tiền Phật Đảnh ấn, thị Hỏa Tụ Phật Đảnh ấn.

          ()如前佛頂印是火聚佛頂印

          (Kinh: Giống như ấn Phật Đảnh trong phần trước thì là ấn của ngài Hỏa Tụ Phật Đảnh).

 

          Kế đến là ấn của ngài Hỏa Tụ Phật Đảnh (Tejorāśyuṣṇīṣa), giống như ấn Phật Đảnh trong phần trước.

         

          (Kinh) Như tiền Liên Hoa ấn, thị Phát Sanh Phật Đảnh ấn.

          ()如前蓮華印是發生佛頂印

          (Kinh: Giống như ấn Liên Hoa trong phần trước thì là ấn của ngài Phát Sanh Phật Đảnh).

 

          Ấn của ngài Quảng Sanh Phật Đảnh (Abhyudgatosnīsa, chánh kinh không đề cập vị này) giống như ấn ngũ cổ kim cang trong phần trước. Kế đó là ấn của ngài Phát Sanh Phật Đảnh (Abhyudgatoṣṇīṣa): Kết ấn Liên Hoa (tức Quán Âm Ấn trong phần trước).

 

          (Kinh) Như tiền thương-khư ấn, thị Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh ấn.

          ()如前商佉印是無量音聲佛頂印

          (Kinh: Như ấn thương-khư trong phần trước là ấn của ngài Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh).

 

          Ấn của ngài Vô Lượng Âm Thanh Phật Đảnh (Anantasvara-ghoṣoṣṇīṣa) thì kết Thương Khư ấn như đã nói trong phần trước (tức là kết Tam-bổ-trá, cùng gập hai ngón  cái, dùng  hai  ngón  trỏ

cùng đè lên).

 

          (Kinh) Dĩ trí huệ thủ vi quyền, trí ư mi gian, thị Chân Đà Ma Ni Hào Tướng ấn.

          ()以智慧手為拳置在眉間是真多摩尼毫相印

          (Kinh: Dùng tay trí huệ (tay phải) nắm thành quyền, đặt giữa hai mày. Đó là ấn Chân Đà Ma Ni Hào Tướng).

 

          Kế đó là ấn Hào Tướng (Ūrṇā). Tay phải nắm thành quyền rồi chống ngón trỏ vào giữa hai mày, gọi là Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo Châu). Đấy chính là ấn Hào Tướng.

 

          (Kinh) Như tiền Phật Đảnh ấn, thị Phật Nhãn ấn. Phục hữu thiểu dị, sở vị kim cang tiêu tướng.

          ()如前佛頂印是佛眼印復有少異所謂金剛標相

          (Kinh: Ấn Phật Nhãn giống ấn Phật Đảnh trong phần trước. Lại có chút khác biệt, tức là thể hiện hình tướng biểu trưng của chày kim cang).

 

          Ấn Phật Nhãn (Buddhalocanā) giống như ấn Phật Mẫu trong phần trước. Trong ấy có chút khác biệt là để ngón cái và ngón giữa cách nhau chừng bằng một hạt lúa mạch, đừng cho chúng chạm nhau, giống như hình [chày kim cang] năm nhánh là được!

 

          (Kinh) Trí huệ thủ tại tâm, như chấp liên hoa tượng, trực thân Xa-ma-tha tý, ngũ luân thượng thư, nhi ngoại hướng cự chi, thị Vô Năng Thắng ấn.    

          ()智慧手在心如執蓮華像直申奢摩他臂五輪上舒而外向距之是無能勝印

          (Kinh: Đặt tay trí huệ (tay phải) nơi tim, giống như cầm hoa sen, duỗi tay Xa-ma-tha (tay trái), năm ngón hướng lên trên, duỗi ra phía ngoài cách nhau. Đó là ấn của ngài Vô Năng Thắng).          

 

          Kế đó là ấn của Vô Năng Thắng (Aparājita) Minh Vương. Tay phải như ấn Chấp Liên Hoa (tức đầu ngón trỏ và ngón cái bấm vào nhau, ngón giữa cong gập đặt vào giữa, hai ngón út và áp út dựng thẳng là được). Duỗi thẳng tay trái, năm ngón hướng lên trên nhưng ngả ra phía ngoài (các đầu ngón tay tách nhau). Tay ấy hơi cao hơn đầu là thành ấn. Ấn này kết khi đứng thì giống như Bát Lật Để Rị trong phần trước!

 

          (Kinh) Định Huệ thủ hướng nội vi quyền, nhị Hư Không luân thượng hướng, khuất chi như khẩu, thị Vô Năng Thắng Minh Phi ấn.

          ()定慧手向為拳二虛空輪上向屈之如口是無能勝明妃印

          (Kinh: Hai tay Định và Huệ hướng vào trong nắm thành quyền, hai ngón Hư Không (ngón cái) hướng lên trên, cong như cái miệng. Đó là ấn của Vô Năng Thắng Minh Phi).

 

          Kế đó các ngón đan vào nhau, gập trong lòng bàn tay, nắm thành quyền. Hai ngón cái đặt sát nhau ở ngoài quyền, cong lóng ngón tay như cái móc câu. Đó gọi là “khẩu trạng” (hình dạng cái miệng), chính là ấn của Vô Năng Thắng Minh Phi.

 

          (Kinh) Dĩ trí huệ thủ thừa giáp, thị Tự Tại Thiên ấn.

          ()以智慧手承頰是自在天印

          (Kinh: Dùng tay trí huệ đỡ má, đó là ấn của Tự Tại Thiên).

 

          Kế đó, duỗi tay phải đỡ má phải, hơi nghiêng đầu tựa lên tay, má hơi cách tay một chút. Đó là ấn của Tịnh Cư Thiên (đó là tay tư duy, còn có tên là Tự Tại Thiên).

         

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn linh Phong, Hỏa luân sai lệ thân chi, thị Phổ Hoa Thiên Tử ấn.

          ()即以此印令風火輪差戾申之是普華天子印

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy sao các ngón Phong (trỏ) và Hỏa (giữa) chéo nhau, duỗi ra. Đó là ấn của Phổ Hoa Thiên Tử).

 

          Kế đó, giống như ấn của Tự Tại Thiên trên đây, duỗi tay phải, sao cho ngón giữa hơi nghiêng đầu hướng vào trong, hơi tách biệt với ngón trỏ; đấy chính là ấn của Phổ Hoa Thiên Tử (Samantakusuma). Tay nên đặt nghiêng trước ngực. Đoạn kế [trong lời sớ] bỏ sót một vị thiên tử, tức Quang Man Thiên Tử.

          (Kinh) Đồng tiền ấn, dĩ Hư Không luân tại ư chưởng trung. Thị Quang Man Thiên Tử ấn. Đồng tiền ấn, dĩ Hư Không, Phong luân tác trì hoa tướng, thị Mãn Ý Thiên Tử ấn. Dĩ trí huệ thủ Hư Không, Thủy luân tương gia, kỳ Phong, Hỏa luân, Địa luân giai tán thư chi, dĩ yểm kỳ nhĩ, thị Biến Âm Thanh Thiên ấn.

          ()同前印以虛空輪在於掌中是光鬘天子印同前印以虛空風輪作持華相是滿意天子印以智慧手虛空水輪相加其風火輪地輪皆散舒之以掩其耳是遍音聲天印

          (Kinh: Giống như ấn trên đây, gập ngón Hư Không (ngón cái) vào lòng bàn tay. Đó là ấn của Quang Man Thiên Tử (Raśmimālin). Giống như ấn trên đây, dùng ngón Hư Không (ngón cái) và Phong (ngón trỏ) làm như tư thế cầm hoa. Đó là ấn của Mãn Ý Thiên Tử (Manojava). Trong tay phải, dùng ngón cái và ngón áp út chạm đầu nhau, các ngón Phong (trỏ), Hỏa (ngón giữa) và Địa (út) thảy đều xòe ra để che tai. Đó là ấn của Biến Âm Thanh Thiên - Svaraviśruti.).

 

          Kế đó, cũng giống như trên duỗi tay phải, ngón trỏ và ngón cái bấm vào nhau như dáng vẻ cầm hoa. Đó là ấn của Mãn Ý Thiên Tử (ba ngón kia cùng đặt khít ngang nhau). [Lời sớ khuyết phần giải thích ấn của Biến Âm Thanh Thiên ở đây, lại dời ra sau mấy vị, có lẽ là lỗi khắc ván hay sao chép]. Trên đây đều là các vị Tịnh Cư Thiên Tử.

 

          (Kinh) Định Huệ tương hợp, nhị Hư Không luân viên khuất, kỳ dư tứ luân diệc như thị, thị danh Địa Thần ấn.

          ()定慧相合,二虛空輪圓屈其餘四輪亦如是是名地神印

          (Kinh: Tay Định và Huệ chắp lại, hai ngón Hư Không (cái) cong gập, bốn ngón kia cũng như thế. Đó gọi là ấn của Địa Thần).

 

          Kế đó là ấn của Địa Thiên (Pṛthivī). Trước hết, chắp tay sao cho mười đầu ngón tay sát vào nhau, cùng gập lại sao cho bấm lấy nhau, cùng ôm lấy ngón cái gập vào lòng bàn tay, hình như cái bình là thành ấn.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ trí huệ thủ tác Thí    Úy  tướng, dĩ  Không

luân tại ư chưởng trung, thị Thỉnh Triệu Hỏa Thiên ấn.

          ()如前以智慧手作施無畏相以空輪在於掌中是請召火天印

          (Kinh: Giống như trên, dùng tay trí huệ (tay phải) để kết ấn Thí Vô Úy, đặt ngón Không (ngón cái) trong lòng bàn tay. Đó là ấn thỉnh vời Hỏa Thiên).

 

          Kế đó, giống như trên kết ấn Thí Vô Úy, nhưng cong gập ngón cái vào lòng bàn tay, đấy chính là ấn thỉnh vời Hỏa Thiên (Agni).

 

          (Kinh) Tức dĩ Thí Vô Úy hình, dĩ Hư Không luân trì Thủy luân đệ nhị tiết, thị Nhất Thiết Chư Tiên ấn. Tùy kỳ thứ đệ, tương ứng dụng chi.

          ()即以施無畏形以虛空輪持水輪第二節是一切諸仙印隨其次第,相應用之

          (Kinh: Liền dùng ấn Thí Vô Úy, dùng ngón Hư Không (ngón cái) bấm vào lóng thứ hai của ngón Thủy (ngón áp út); đó là ấn của hết thảy các vị tiên. Tùy theo thứ tự mà dùng tương ứng).

 

          Kế đó, hai tay đều dùng ngón cái bấm đầu ngón áp út. Các ngón khác dựng lên cùng che hai tai. Đó là ấn của Biến Thanh Âm Thiên. Dùng đầu hai ngón áp út và trỏ để che tai (Phần lời Sớ này đáng lẽ phải đặt trước phần nói về Địa Thiên). Đó là âm thanh ấy khiến cho mọi người đều trọn biết. Vị này (tức Biến Âm Thiên) cũng là Tịnh Cư Thiên. Cùng với [các vị được liệt kê trong phần nói về] ấn của Tịnh Cư Thiên trong phần trước, hợp thành Ngũ Thiên.

          [Ở đây], kết ấn Thí Vô Úy. Dùng ngón cái bấm lấy lóng thứ hai của ngón út[8], sẽ thành ấn của hết thảy các vị tiên. Từ chỗ này trở đi, kinh lại liệt kê [ấn của hết thảy chư tiên] lần thứ hai, đó chính là [ấn chung của] trọn khắp hết thảy các vị tiên. Trước hết, dùng ngón cái bấm vào lóng thứ hai của ngón út. Ba ngón kia đều dựng lên. Theo thứ tự, trước hết tách ngón trỏ ra, kế đến là ngón giữa, rồi ngón áp út, hơi cách biệt ngón áp út. Kế đó, tách biệt năm ngón. Đấy chính là năm vị Đại Địa Tiên, vâng theo thứ tự nói trong kinh.

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tương hợp, Phong luân, Địa luân nhập ư chưởng trung, dư giai thượng hướng, thị Diễm Ma Đản Trà ấn.

          ()如前以定慧手相合風輪地輪入於掌中餘皆上向是焰摩但茶印

          (Kinh: Giống như trên, dùng hai tay Định và Huệ chắp lại, ngón Phong (trỏ) và Địa (út) gập vào lòng bàn tay, các ngón kia đều hướng lên trên. Đó là ấn Diễm Ma Đản Trà).

 

          Kế đó là ấn Diêm La. Kết Tam-bổ-trá, hai ngón trỏ và út gập vào lòng bàn tay, khiến cho đầu chúng áp vào nhau, dùng hai ngón cái bấm vào lưng ngón trỏ (Nên bấm vào khoảng giữa lóng thứ hai và lóng thứ ba), đầu ngón cái hơi cong lại sao cho chạm nhau, hai ngón cái đè lên ngón giữa là được (Đó là Đàn Trà (Daṇḍa) ấn).

 

          (Kinh) Huệ thủ hướng hạ do như Kiện Trá, thị Diễm Ma Phi Đạc ấn.

          ()慧手向下猶如健吒是焰摩妃鐸印

          (Kinh: Tay Huệ hướng xuống dưới ví như Kiện Trá (ghaṇṭā: cái chuông). Đó là đạc ấn của Diễm Ma Phi).

 

          Kế đó, tay phải duỗi các ngón tay sao cho như hình cái chuông, rủ tay hướng xuống dưới. Đó là ấn của Diêm La Phi (Yamī, vợ của Diêm Vương).

 

          (Kinh) Dĩ tam-muội thủ vi quyền, thư Phong, Hỏa luân, thị Ám Dạ Thiên ấn.

          ()以三昧手為拳舒風火輪是暗夜天印

          (Kinh: Nắm tay tam-muội thành quyền, duỗi các ngón Phong và Hỏa; đó là ấn của Ám Dạ Thiên).

 

          Kế đó, tay trái nắm lại, các ngón út và áp út gập vào lòng tay, ngón giữa và trỏ cùng duỗi ra. Ngón cái theo lệ thường khi nắm tay (tức là đặt ra ngoài hai ngón bị gập lại). Đây là ấn của Hắc Dạ Thiên (Kālarātri, chánh kinh gọi vị này là Ám Dạ Thiên), cũng là vợ của vua Diêm La.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, hựu khuất Phong luân, thị Rô Đạt Ra Kích ấn.

          ()即以此印又屈風輪是嚕達羅戟印

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, lại gập ngón Phong (ngón trỏ); đó là Kích ấn của Rô Đạt Ra).

 

          Kế đó, ấn tướng giống như trước, nhưng gập ngón trỏ. Dùng đầu ngón cái bấm vào lóng thứ hai của ngón trỏ. Đó là ấn của Rô Nại Ra (Rudra, chánh kinh phiên âm là Rô Đạt Ra, tức Ma Hê Thủ La) và ấn của Tự Tại Thiên Hậu (Rudrāṇī).

         

          (Kinh) Như tiền ấn, tác trì liên hoa hình, thị Phạm Thiên Minh Phi ấn.

          ()如前印作持蓮華形是梵天明妃印

          (Kinh: Như ấn trước, làm như vẻ cầm hoa sen; đó là ấn của Phạm Thiên Minh Phi).

 

          Kế đó, dùng tay trái làm giống như đang cầm hoa sen. Đấy là ấn của Phạm Thiên Hậu (tức là xòe bàn tay, dùng ngón cái và trỏ bấm vào nhau, gập ngón giữa vào lòng bàn tay. Trong hình vẽ thì vẽ ngón ấy duỗi thẳng). Phạm Thiên vô dục, há giống như thân người, sao lại nói là Hậu vậy? Đây là ấn tướng của Phạm Vương Minh Phi (Brahmāṇī), hàm nghĩa Minh Phi vậy.

 

          (Kinh) Như tiền ấn, khuất kỳ Phong luân gia Hỏa luân bối đệ tam tiết, thị Kiều Mạt Ly Thước Để ấn.

          ()如前印屈其風輪加火輪背第三節是嬌末離爍底印

          (Kinh: Như ấn trước, gập ngón Phong (trỏ) gác lên lưng lóng thứ ba của ngón Hỏa (ngón giữa); đó là ấn Thước Để của Kiều Mạt Ly).

 

          Kế đó, duỗi bàn tay trái ra, gập hai ngón út và áp út vào lòng bàn tay, co ngón trỏ bấm lấy lưng ngón giữa. Ngón cái cũng hơi cong. Đó chính là ấn Thước Để của Kiều Mạt Ly (Kaumārīśakti). Thước Để (Śakti) là ấn thuộc về đồ vật, giống như trong hình vẽ. Vị này là con của Tự Tại Thiên, tên là Yết Để Ca (Kārttika), Kiều Mạt Ly là tên của vợ ông ta.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, linh Phong luân gia Hư Không thượng, thị Na La Diên Hậu Luân ấn.

          ()即以此印令風輪加虛空上是那羅延后輪印

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, sao cho ngón Phong đè trên ngón Hư Không; đó là Luân ấn của Na La Diên Hậu).

 

          Kế đó, duỗi ba ngón út, áp út, và giữa của tay trái, sao cho chúng đều xòe ra, dùng ngón trỏ bấm lấy đầu ngón cái. Đó là ấn của Na La Diên Hậu (Nārāyaṇī). Ấn Trì Hoa thì che trước ngực, nay ấn này hướng ra ngoài, gập lại.

 

          (Kinh) Tam-muội thủ vi quyền, linh Hư Không luân trực thượng, thị Diễm Ma Thất Mẫu Chùy ấn.

          ()三昧手為拳令虛空輪直上是焰魔七母鎚印

          (Kinh: Tay tam-muội (tay trái) nắm thành quyền, sao cho ngón Hư Không (ngón cái) duỗi thẳng lên trên. Đó là Chùy ấn của Diễm Ma Thất Mẫu).

 

          Kế đó, dùng tay trái nắm thành quyền, duỗi thẳng ngón cái hướng về lên trên. Đó là ấn của Diêm Vương Thất Mẫu (cả bảy vị đều dùng chung).

 

          (Kinh) Ngưỡng kỳ Định thủ như trì Kiếp-bát-la tướng, thị Giá Văn Trà ấn.

          ()仰其定手如持劫鉢羅相是遮文茶印

          (Kinh: Ngửa tay Định (tay trái) như dáng vẻ cầm Kiếp-bát-la[9]. Đó là ấn của Giá Văn Trà).

 

          Kế đó, duỗi tay trái, cong [các ngón] như cầm đầu lâu, hãy nên đặt ngửa trước ngực. Đó là ấn của Giá Văn Trà (Cāmuṇḍā)[10].

 

          (Kinh) Như tiền Khiết-già ấn, thị Niết Rị Để Đao ấn.

          ()如前朅伽印是涅哩底刀印

          (Kinh: Giống như ấn Khiết-già trong phần trước thì là Đao Ấn của Niết Rị Để).

 

          Tay trái dùng ngón cái bấm vào móng của ngón út và áp út, duỗi ngón giữa và trỏ để cùng dựng lên, tức là Đao Ấn của Niết Rị Để (Nairṛti).

 

          (Kinh) Như tiền Luân ấn, dĩ tam-muội thủ vi chi, thị Na La Diên Luân ấn.

          ()如前輪印以三昧手為之是那羅延輪印

          (Kinh: Giống như Luân ấn trong phần trước, nhưng dùng tay tam-muội (tay trái) để kết thì là Luân ấn của Na La Diên).

 

          Kế đó, chỉ duỗi tay trái xòe ra để kết Chuyển Pháp Luân Ấn trong phần trước, nhưng có điểm khác là chỉ dùng một tay, không móc hai tay vào nhau. Đó là ấn của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa).

 

          (Kinh) Dĩ chuyển Định Huệ thủ, tả hữu tương gia, thị Nan Đồ Bạt Nan Đà Nhị Vân ấn.

          ()以轉定慧手左右相加是難徒拔難陀二雲印

          (Kinh: Chuyển tay Định và Huệ sao cho trái và phải đè lên nhau. Đó là ấn Nhị Vân của Nan Đồ Bạt Nan Đà).

 

          Kế đó, xòe mười ngón để che lên, dùng hai ngón cái đặt chéo nhau, tức là ấn của hết thảy các rồng. Nếu dùng tay phải đè lên tay trái thì là ấn của rồng Nan Đà. Xoay tay trái đè lên tay phải thì là rồng Tiểu Nan Đà (Ưu Bạt Nan Đà). Giống như ấn rồng chín đầu trong phần trước, duỗi thẳng bốn ngón, tách ra làm cánh. Đó là Kim Xí Ấn. Phàm là địa cư thiên thì phần nhiều dùng một tay để kết ấn.

 

          (Kinh) Như tiền, thân tam-muội thủ, Hư Không, Địa luân tương gia, thị Thương Yết La Tam Kích ấn. Như tiền, thân tam-muội thủ, Hư Không, Địa luân tương trì, thị Thương Yết La Hậu ấn. Tức dĩ thử ấn, trực thư tam luân, thị Thương Yết La Phi ấn.

          ()如前申三昧手虛空地輪相加是商羯羅三戟印如前伸三昧手虛空地輪相持是商羯羅后印即以此印直舒三輪是商羯羅妃印

          (Kinh: Giống như trên, duỗi tay tam-muội, các ngón Hư Không (cái) và Địa (út) đè lên nhau; đó là ấn kích ba nhánh của Thương Yết La. Giống như trên, duỗi tay tam-muội, ngón Hư Không và Địa chống vào nhau, đó là ấn của Thương Yết La Hậu. Liền dùng ấn này, duỗi thẳng ba ngón thì là ấn của Thương Yết La Phi).

 

          Kế đó, duỗi tay trái nâng lên, chớ để đầu các ngón tay chạm vào nhau, liền dùng ngón cái và út bấm vào nhau, [đầu ngón cái] bấm trên móng ngón út. Đó là ấn Thương Yết La (Śaṃkara, tức Cốt Tỏa Thiên, danh xưng khác của thần Śiva). Giống như ấn trên, nhưng cùng khép ba ngón lại. Đấy chính là ấn của Ô Mang Na (Umā). Đó là Thương Yết La Hậu (Śaṃkarī). Hai ấn tương tự, ấn trước thì ngón trỏ hơi cong, ấn này thì [ngón trỏ] để thẳng, nhưng [đầu hai ngón] tõe ra.

 

          (Kinh) Dĩ tam-muội thủ tác Liên Hoa tướng, thị Phạm Thiên ấn.

          ()以三昧手作蓮華相是梵天印

          (Kinh: Dùng tay tam-muội (tay trái) tạo hình hoa sen, đó là ấn của Phạm Thiên).

 

          Tay trái kết ấn Bán Liên Hoa, cách kết ấn giống như ấn Quán Âm. Chỗ khác biệt ở đây là chỉ dùng một tay để làm. Đó là ấn của Phạm Thiên (Brahmā).

 

          (Kinh) Nhân tác khiết bạch quán, thị Nguyệt Thiên ấn. Dĩ Định Huệ thủ hiển hiện hiệp chưởng, khuất Hư Không luân  trí  Thủy  luân

trắc, thị Nhật Thiên Dư Lộ ấn.

          ()因作潔白觀是月天印以定慧手顯現合掌屈虛空輪置水輪側是日天輿輅印

          (Kinh: Nhân đó, quán [ấn trên đây] trắng sạch, sẽ là ấn của Nguyệt Thiên. Dùng tay Định và Huệ để hiển hiện hiệp chưởng, cong ngón Hư Không (ngón cái) đặt bên cạnh ngón Thủy (áp út). Đó là ấn cỗ xe của Nhật Thiên).

 

          Kế đó là Hiển Lộ hiệp chưởng (chánh kinh ghi là “hiển hiện hiệp chưởng”, tức là mở hai lòng bàn tay, đặt sát nhau, sao cho ngón út sát nhau, lòng bàn tay ngửa lên hướng về thân người kết ấn). Co hai ngón trỏ bấm lấy lưng đốt thứ ba của ngón giữa, sao cho đầu hai ngón áp út chạm nhau. Hai ngón áp út cũng đặt trên lưng lóng thứ ba của ngón giữa. Đấy là ấn Nguyệt Thiên (Candra), giống như ấn Phạm Vương chẳng khác, chỉ quán tưởng ấn ấy trắng sạch là khác biệt (Sớ không giải thích ấn của Nhật Thiên).

 

          (Kinh) Hợp Bát Nhã tam-muội thủ, Địa luân, Phong luân nội hướng, kỳ Thủy Hỏa luân tương trì như cung, thị Xã Da Tỳ Xã Da ấn.

          ()合般若三昧手地輪風輪其水火輪相持如弓是社耶毘社耶印

          (Kinh: Chắp hai tay Bát Nhã và tam-muội lại, ngón Địa (út) và ngón Phong (trỏ) hướng vào trong, ngón Thủy (áp út) và Hỏa (giữa) vịn vào nhau như cái cung. Đó là ấn của Xã Da (Jayā) và Tỳ Xã Da - Vijayā).

 

          Kế đó, chắp tay, gập ngón trỏ và út vào lòng bàn tay, cong các ngón giữa và áp út như cánh cung. Đó là ấn Nhật Hậu (vợ của Nhật Thiên) là Xã Da [và Tỳ Xã Da].

 

          (Kinh) Như tiền Tràng ấn, thị Phong Thiên ấn.

          ()如前幢印是風天印

          (Kinh: Giống như Tràng Ấn trong phần trước, đó là ấn của Phong Thiên).

         

          Ấn của Phong Thiên (Vāyu) giống như trong  phần  trên, cần  phải

duỗi tay trái, nghiêng bàn tay, co hai ngón út và áp út là được. Đấy là Phong Tràng Ấn.

 

          (Kinh) Ngưỡng tam-muội thủ tại ư tề luân, trí huệ thủ Không, Phong tương trì, hướng thân vận động như tấu âm nhạc, thị Diệu Âm Thiên Phí Noa ấn.

          ()仰三昧手在於臍輪智慧手空風相持向身運動如奏音樂是妙音天費拏印

          (Kinh: Ngửa tay tam-muội đặt tại rốn. Các ngón Không (cái) và Phong (trỏ) trong tay trí huệ (tay phải) hướng về thân di chuyển như đang tấu âm nhạc. Đó là ấn Phí Noa (Vīṇā)[11] của Diệu Âm Thiên).

 

          Trước hết, ngửa tay trái đặt ngang rốn, giống như dáng vẻ ôm đàn sắt[12]. Tay phải thì ngón trỏ bấm vào ngón cái, các ngón khác xòe ra, hướng vào thân như dáng vẻ đang gảy đàn. Đó là ấn của Diệu Âm Thiên (Sarasvatī). Vị này thâu nhiếp loài Càn Thát Bà, Ngài là thiên hậu, cũng có thể nói là thuộc loài Càn Thát Bà.

 

          (Kinh) Như tiền Quyến Sách ấn, thị chư long ấn.

          ()如前羂索印是諸龍印

          (Kinh: Giống như ấn Quyến Sách trong phần trước chính là ấn của các rồng).

          Giống như ấn Quyến Sách trong phần trước (tức là hai bàn tay đan ngón vào nhau, sao cho các ngón gập vào lòng bàn tay, duỗi ngón trỏ sao cho đều cùng cong, bấm vào nhau là thành ấn), nhưng chỉ làm bằng tay trái, đó chính là ấn của long vương Phạ Rô Noa (Varuna).

 

          (Kinh) Như tiền Diệu Âm Thiên ấn, nhi khuất Phong luân giao Không luân thượng, thị nhất thiết A Tu La ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già ra la diễn, sa ha.

          ()如前妙音天印而屈風輪交空輪上是一切阿脩羅印真言曰南麼三曼多勃馱喃伽囉邏演莎訶

          (Kinh: Giống như ấn của Diệu Âm Thiên trong phần trên, nhưng gập ngón Phong (ngón trỏ) gác chéo lên ngón Không (ngón cái). Đó là ấn của hết thảy các A Tu La. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già ra la diễn, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, garalayaṃ svāhā”).

 

          Kế đó, dùng tay trái kết ấn Âm Nhạc Thiên (Diệu Âm Thiên). Theo đồ hình thì cong ngón trỏ trong tay phải đè lên móng của ngón cái, các ngón khác duỗi ra che trên tay trái. Đó là ấn của A Tu La. Xét đến chân ngôn, “già ra la diễn” (garalayaṃ): Già là “hành”, do hành bất khả đắc. Ra là vô cấu. La là ly tướng. Diễn là vô sở đắc. Trên đó có cái chấm, tức là Đại Không.

 

          (Kinh) Nội hướng vi quyền, nhi thư Thủy luân, thị Càn Thát Bà ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà, tát phạ ra, phạ hệ nễ. Sa ha.

          ()內向為拳而舒水輪是乾闥婆印真言曰南麼三曼多勃馱喃微輸馱薩嚩囉嚩係儞莎訶

          (Kinh: Nắm tay thành quyền, sao cho các ngón gập vào lòng bàn tay, duỗi ngón Thủy (áp út); đó là ấn Càn Thát Bà. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi thâu đà, tát phạ ra, phạ hệ nễ. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, viśuddhasvaravāhini svāhā).

 

          Đối với Càn Thát Bà thì [hai tay] kết nội chưởng quyền (nắm thành quyền, sao cho các ngón nằm trong lòng bàn tay), duỗi ngón áp út sao cho đầu của chúng chạm nhau. Đó là Bổn Bộ tam-muội-da. Nếu là sự nghiệp ấn thì kết ấn bằng một tay, tức là ngón cái đè lên móng của ba ngón kia, duỗi thẳng ngón áp út. Đó là ấn Càn Thát Bà. Xét theo chân ngôn, “vi thâu đà” (viśuddha, thanh tịnh), “tát-phạ ra” (svara, âm thanh), “phạ hệ nễ” (vāhini, vang ra, có nghĩa là “phát ra âm thanh thanh tịnh”, đều là thế gian tam-muội).

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn nhi khuất Phong luân, thị nhất thiết Dược Xoa ấn, chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất thoa thấp phạ ra, sa ha.

          ()即以此印而屈風輪是一切藥叉印真言曰南麼三曼多勃馱喃藥乞釵濕嚩囉莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, cong ngón Phong (trỏ), đó là ấn của hết thảy Dược Xoa. Chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược  khất  thoa  thấp  phạ  ra, sa   ha   -   Namaḥ   samantabuddhānāṃ,

yakṣeśvara svāhā”).

 

          Kế đó, tay trái nắm thành quyền, cong ngón trỏ như cái móc, cách đầu ngón cái đôi chút, đừng cho chạm nhau. Đó là ấn của hết thảy Dạ Xoa. Xét theo chân ngôn, “dược khất-thoa” (yakṣe, dược” là thừa, ý nghĩa của câu này là “ăn nuốt”), “thấp-phạ ra” (śvara, tự tại. Do ăn nuốt hết thảy phiền não mà được tự tại; do vậy, dùng [chuyện ấy] làm tên).

         

          (Kinh) Hựu dĩ thử ấn, Hư Không luân, Địa luân tương trì, nhi thân Hỏa, Phong. Thị Dược Xoa Nữ ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất xoa vĩ nễ da đạt rị, sa ha.

          ()又以此印虛空輪地輪相持而申火風是藥叉女印真言曰南麼三曼多勃馱喃藥乞叉尾儞耶達莎訶

          (Kinh: Lại dùng ấn này, ngón Hư Không (cái) và ngón Địa (út) tựa đầu nhau, duỗi ngón Hỏa (giữa) và Phong (trỏ). Đó là ấn của Dược Xoa Nữ. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất xoa vĩ nễ da đạt rị, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, yakṣavidyādhari svāhā”).

 

          Kế đó, trong tay trái, dùng ngón cái bấm lấy đầu móng ngón út, duỗi ngón áp út và giữa, dùng ngón trỏ bấm lấy đốt đầu của ngón cái. Đó là ấn của hết thảy Dược Xoa Nữ (Yakṣiṇī). Xét đến chân ngôn, “dược khất-xoa” (yakṣa, ăn), “vĩ nễ-da đạt rị” (vidyādhari, sáng suốt. Câu này nói đến Dược Xoa Trì Minh, cũng có nghĩa là “trói buộc”, tức là “ăn nuốt các trói buộc”).

 

          (Kinh) Nội hướng vi quyền, nhi thư Hỏa luân. Thị chư Tỳ Xá Giá ấn. Chân ngôn viết: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ xá giá nghiệt để, sa ha”. Cải khuất Hỏa luân, thị chư Tỳ Xá Chi ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ chỉ, tỷ chỉ, sa ha.

          ()內向為拳而舒火輪是諸毘舍遮印真言曰南麼三曼多勃馱喃毘舍遮蘖底莎訶改屈火輪是諸毘舍支印真言曰麼三曼多勃馱喃比旨比旨莎訶

          (Kinh: Nắm tay thành quyền, sao cho các ngón hướng vào trong, duỗi ngón Hỏa (ngón giữa). Đó là ấn của Tỳ Xá Giá. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ xá giá nghiệt để, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, piśācagati svāhā”. Đổi thành cong ngón giữa. Đó là ấn của các Tỳ Xá Chi. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ chỉ, tỷ chỉ, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, pici pici svāhā”).        

 

          Kế đó, trong tay trái, dùng ngón cái bấm lấy móng ba ngón kia, chỉ duỗi ngón giữa ra, đó là ấn của hết thảy Tỳ Xá Xà (Piśācas, Tỳ Xá Giá). Cũng có thể chỉ nắm tay thành quyền, nhưng duỗi ngón giữa là thành ấn). Xét tới chân ngôn, “tỳ xá giá nghiệt để” (piśācagati, nghiệt để” là tiến nhập, [hàm ý] tiến nhập Đệ Nhất Nghĩa chẳng thể được). Kế đó, cũng giống như thế, nhưng hơi cong ngón giữa, đó là ấn của Tỳ Xá Xà nữ (Piśācī, Tỳ Xá Chi). Xét theo chân ngôn, “tỷ chỉ, tỷ chỉ” (Pici, pici, Tỳ là Đệ Nhất Nghĩa, Giá nghĩa là lìa sanh tử. Lặp lại [hai chữ Tỷ Chỉ], ý nói: Tột bậc lìa khỏi sanh tử).

 

          (Kinh) Như tiền, dĩ Định Huệ thủ tương hợp, tịnh Hư Không luân nhi kiến lập chi, thị nhất thiết chấp diệu ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt ra hê thấp phạ rị dã, bát ra bổ đa, nhụ để ma dã, sa ha.

          ()如前以定慧手相合並虛空輪而建立之是一切執曜印真言曰南麼三曼多勃馱喃蘖囉醯濕嚩鉢囉補多孺底麼也莎訶

          (Kinh: Như trên, chắp hai tay Định  Huệ  lại, cùng  dựng  ngón

Hư Không (ngón cái) lên, đặt sát nhau; đó là ấn của hết thảy các chấp diệu. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt ra hê thấp phạ rị dã, bát ra bổ đa, nhụ để ma dã, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, grahaiśvaryaprāpta jyotirmaya, svāhā”).

 

          Kế đó, hai tay chắp lại, hai ngón cái cũng đặt ngang nhau, nhưng tách biệt nhau, giữ cho các ngón khác tách rời nhau. Đó là ấn của Ngật Lật Hà (Graha[13]. Loại này được xếp riêng thành một đường, chẳng phải người, chẳng phải quỷ. Chúng có thể dọa dẫm con người, khiến cho họ bị phi nhân nắm giữ. Nay chẳng nói đến loài ấy, mà là nói các tinh tú). Nếu nói về các ngôi sao gần gũi, thì gom chung chín ngôi sao để nói. Xét theo chân ngôn, “nghiệt-ra hệ” (grahai, hành, cấu, nhân), “thấp-phạ rị dã” (śvarya, tự tại), “bát-ra bổ-đa” (prāpta, đạt được), “nhụ để” (jyotir, sáng suốt. Do là các ngôi sao nên sáng sủa), “ma dã” (maya, nghĩa là tánh. Đạt được tự tại trong tánh. Do gọi tên của chúng mà được tự tại trong ấy).

 

          (Kinh) Phục dĩ thử ấn, Hư Không, Hỏa luân tương giao, thị nhất thiết tú ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, na khất xoa đá ra, niết na đạt nễ duệ, sa ha.

          ()復以此印虛空火輪相交是一切宿印真言曰南麼三曼多勃馱喃乞叉哆囉涅那達儞曳莎訶

          (Kinh: Lại dùng ấn này, ngón Hư Không (cái) và ngón Hỏa (giữa) chéo nhau. Đó là ấn của hết thảy các tinh tú. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, na khất xoa đá ra, niết na đạt nễ duệ, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, nakṣatranirnādaniye svāhā”).

 

          Kế đó, trước hết kết Tam-bổ-trá, hai ngón giữa và hai ngón cái chéo nhau, phải đè lên trái. Đó là ấn của hết thảy các tinh tú. Xét theo chân ngôn, “na khất-xoa đá-ra” (nakṣatra, các tinh tú), “niết na” (nirnā, nghĩa là âm thanh), “đạt nễ duệ” (daniye, ăn, tức là “nuốt các âm thanh”). “Na” nghĩa là Không, “khất-xoa duệ” nghĩa là “hết”, tức là hết thảy đều trừ sạch. “Đá-ra” nghĩa là cấu v.v… Chuẩn theo đó để nói, tức là “ăn nuốt các chướng cấu”. Tức là dùng tiếng thanh tịnh để truyền bá trọn khắp, đó gọi là “vô cấu thanh”. Phàm các chân ngôn như đã nói trên đều dùng ngôn từ ý nghĩa để xưng tán Thật đức của họ, cảnh tỉnh họ, khiến cho họ hoan hỷ.

 

          (Kinh) Tức dĩ thử ấn, khuất nhị Thủy luân nhập ư chưởng trung. Thị chư La Sát Sa ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, la ngật sát sa địa bát đa duệ, sa ha.

          ()即以此印屈二水輪入於掌中是諸羅剎娑印真言曰南麼三曼多勃馱喃羅吃剎娑地鉢多曳莎訶

          (Kinh: Liền dùng ấn ấy, gập hai ngón Thủy vào lòng bàn tay. Đó là ấn La Sát Sa. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, la ngật   sát   sa   địa   bát   đa   duệ, sa   ha - Namaḥ   samantabuddhānāṃ,

rākṣasādhipataye svāhā”).

 

          Kế đó, kết Tam-bổ-trá, cùng gập hai ngón áp út vào lòng bàn tay, các ngón khác như thường, đấy chính là ấn La Sát Sa (Rākṣasas). Phàm các ấn của các loài Địa Cư Thiên vừa nói trên đây, dùng hai tay hay một tay để kết ấn đều được. Nếu trì tụng, do nhân duyên phải làm này nọ, không rảnh cả hai tay để kết ấn, chỉ dùng tay trái để kết ấn cũng thành (trên đây, kinh chỉ nói tay trái, nhưng đồ hình vẽ cả hai tay, hãy nên dùng theo cách ở đây). Xét theo chân ngôn, “la ngật sát sa” (rākṣasā, La là cấu, bên cạnh có chấm diễn tả âm A, tức là “hành”. “Ngật-sát-sa” là đi trên hư không), “địa bát đa duệ” (dhipataye, vua, chỉ đức của họ. Khiến cho họ nghe xong hoan hỷ, thỏa nguyện của chúng sanh).

 

          (Kinh) Thân tam-muội thủ dĩ phú diện môn, nhĩ hạ phạ xúc chi, thị chư Đồ Cát Ni ấn. Chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hiệt rị, sa ha.

          ()申三昧手以覆面門爾賀嚩觸之是諸荼吉尼印真言曰南麼三曼多勃馱喃莎訶

          (Kinh: Duỗi tay tam-muội che mặt, dùng lưỡi (nhĩ-phạ-hạ (jihva) là lưỡi) chạm tay, tức là ấn của các Đồ Cát Ni. Chân ngôn rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hiệt rị, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, hrīḥ ha[14]).

          Kế đó, dùng tay trái che miệng, dùng lưỡi chạm tay, tức là ấn của Đồ Cát Ni (ḍākinī). Chữ Hiệt-rị (hrīḥ, ह्रीः) nghĩa là “lìa nhân vô cấu”. Trên đó, có vạch tam-muội, bên cạnh có chấm biểu thị phẫn nộ. Ha (haḥ) có nghĩa là cái nhân, bên trên có chấm cũng là phẫn nộ. Những vị ấy (những vị được nói đến mật ấn trong phẩm này) là những vị đứng đầu. Các ấn như đã nói trên đây, cho đến ấn Đồ Cát Ni cuối cùng, nếu nói cặn kẽ bộ loại, quyến thuộc, sẽ là vô biên chủng loại, như Đại Bổn có đến mười vạn kệ để diễn tả. Nay điều được nói trong phẩm này chính là nêu ra đại lược các vị thượng thủ, như nắm cái lưới, mắt lưới căng ra, nêu đại lược một số mắt lưới trong các mắt lưới đó thôi!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị thượng thủ chư Như Lai ấn, tùng Như Lai tín giải sanh, tức đồng Bồ Tát chi tiêu xí, kỳ số vô lượng. Hựu Bí Mật Chủ! Nãi chí thân phần cử động, trụ chỉ, ưng tri giai thị mật ấn, thiệt tướng sở chuyển chúng đa ngôn thuyết, ưng tri giai thị chân ngôn. Thị cố, Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát dĩ phát Bồ Đề tâm, ưng đương trụ Như Lai địa, họa Mạn-đồ-la. Nhược dị thử giả, đồng báng chư Phật, Bồ Tát, việt tam-muội-da, quyết định đọa ư ác thú.

          ()祕密主如是上首諸如來印從如來信解生即同菩薩之幖幟其數無量又祕密主乃至身分舉動住止應知皆是密印舌相所轉眾多言應知皆是真言是故祕密主真言門修菩薩行諸菩薩已發菩提心應當住如來地畫漫荼羅若異此者同謗諸佛菩薩越三昧耶決定墮於惡趣

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Các ấn thượng thủ của Như Lai như thế đều sanh từ tín giải của Như Lai, giống như các biểu trưng của Bồ Tát, số nhiều vô lượng. Lại này Bí Mật Chủ! Hãy nên biết: Cho đến cử động, hành xử nơi thân phần [của Như Lai] đều là mật ấn. Rất nhiều ngôn thuyết do tướng lưỡi phát ra, hãy nên biết đều là chân ngôn. Do vậy, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn môn đã phát Bồ Đề tâm, hãy nên trụ nơi Như Lai địa, vẽ Mạn-đồ-la. Nếu khác với điều này, sẽ giống như là báng bổ chư Phật, Bồ Tát, trái vượt tam-muội-da, quyết định đọa vào đường ác).

 

          Như Lai đã chứng  pháp  giới  bình  đẳng, do  sức  đại  bi  nơi  bổn

nguyện, dùng thần lực gia trì mà hiện ra môn phương tiện Thân Mật này, vì khiến cho hết thảy chúng sanh đều được tin hiểu, cùng nhập hết thảy các trí địa. Do đó, hãy nên biết các ấn như thế đều sanh từ sự tín giải của Phật. Hãy nên biết các ấn như thế là biểu trưng của các vị Bồ Tát, tức là dùng phương tiện này để chỉ bày các đức nội chứng của Như Lai. Vì thế nói “tiêu biểu”. Các ấn rất nhiều, thậm chí các cử động, hành vi nơi thân thể đều là ấn. Nếu A-xà-lê hiểu rõ Du Già, thấu đạt sâu xa đường lối bí mật, có thể tịnh hóa cái tâm Bồ Đề, do tâm tịnh bèn thông đạt pháp bí mật. Phàm làm gì cũng đều nhằm tạo lợi ích điều phục chúng sanh; hễ làm bất cứ điều gì, không gì chẳng tùy thuận oai nghi của Phật. Vì thế, hết thảy tất cả cử động, tạo tác nơi thân, không gì chẳng phải là ấn, há chỉ thân nghiệp mà thôi ư? Cho đến hết thảy tất cả ngôn ngữ cũng lại đều là chân ngôn.

          “Thị cố, Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát dĩ phát Bồ Đề tâm, ưng đương trụ Như Lai địa, họa Mạn-đồ-la” (Vì thế, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, hãy nên trụ nơi địa vị Như Lai, vẽ Mạn-đồ-la): Nếu nói “các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh trong đời hiện tại và vị lai mà cùng phạm tội vượt tam-muội-da, quyết định đọa vào đường ác”, thì có nghĩa là nói: “Các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh trong đời hiện tại và vị lai đã phát đại tâm, hãy nên trụ trong Phật địa; sau đấy, tạo lập Mạn-đồ-la. Nếu chẳng làm đàn tràng như thế, sẽ chính là báng Phật!” Vì thế, đối với những điều đã nói trên đây, bậc A-xà-lê phải nên biết các pháp thuộc về ấn khế và chân ngôn v.v… Đối với mỗi điều, đều khéo thông đạt quy cách, pháp tắc. Lại còn nên tu hạnh Du Già lâu ngày, tịnh hóa thân khẩu, ý, nghiệp, thấu hiểu hạnh thuộc pháp môn tam nghiệp bình đẳng, do được gia trì bởi phép Du Già, chân ngôn, và thân ấn v.v…, sẽ liền có thân giống như chư Phật, Bồ Tát, cùng thuộc vào địa vị Phật. Do tương ứng với tam-muội, chẳng trái nghịch sự lý, kiến lập cái đàn hình tròn, cho đến nơi chốn, phương vị, màu sắc, hình tượng v.v… mỗi mỗi đều xứng lý, lại chẳng sai sót, khéo biết thứ tự; hãy nên biết người ấy ắt sẽ đạt được lợi ích to lớn, chẳng hư dối. Nếu chẳng như vậy, sẽ mắc tội “vượt tam-muội-da”. Tam-muội-da là tự thệ. Thệ nguyện vốn có của hết thảy Như Lai chính là “vì khắp hết thảy chúng sanh mà khai tri kiến Phật, khiến cho họ đều giống như ta”. Do phương tiện mà lập ra pháp này. Vì thế, giống như mạng lệnh, sắc chỉ của đại vương trong thế gian chẳng thể vượt qua. Kẻ trái vượt ắt sẽ mắc tội nặng nề! Vì thế, phải nên tương ứng với Bồ Đề tâm, trụ trong Phật địa mà làm. Kẻ nào chẳng thuận theo lời dạy, sẽ phí uổng công phu, bỏ lỡ hoàn cảnh thuận tiện, trọn chẳng thành tựu, chỉ chuốc lấy tội vạ, chẳng có lợi ích gì! Vì thế, hành giả ắt phải nên suy xét, tìm cầu kinh pháp, lại còn thưa hỏi bậc thầy sáng suốt khai thị để đừng tự sai lầm. Phẩm nói rộng về các ấn đã xong!



[1] Ngoài cách hiểu này, còn có nhiều cách hiểu khác như: Tay trái là Chỉ, tay phải là Quán. Tay trái là Phước, tay phải là Trí. Tay trái là Lý, tay phải là Trí. Tay trái là Quyền, tay phải là Thật. Tay trái là tam-muội, tay phải là Bát Nhã. Tay trái là Thai Tạng Giới, tay phải là Kim Cang Giới v.v…

 

[2] Đối với năm ngón tay, nếu phối hợp với Ngũ Uẩn thì ngón út là Sắc, ngón áp út là Thọ, ngón giữa là Tưởng, ngón trỏ là Hành, ngón cái là Thức. Nếu ứng với Ngũ Căn thì ngón út là Tín, ngón áp út là Tấn, ngón giữa là Niệm, ngón trỏ là Định, ngón cái là Huệ. Ứng với Thập Độ (Thập Ba La Mật) thì tay trái (tính từ ngón út trở ngược lại) sẽ là Đàn, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền (lời Sớ gọi là Định). Tay phải (cũng tính từ ngón út trở ngược lại) sẽ là Tuệ (Bát Nhã), Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí. Đôi khi nói đảo lại, nhưng vẫn theo thứ tự trên đây (tức ngón út trong tay phải sẽ là Đàn v.v...). Nếu tương ứng với ngũ tự thì ngón út là A, ngón áp út là Vi, ngón giữa là Ra, ngón trỏ là Hum, và ngón cái là Khaṃ (Đó là cách hiểu theo các nghi quỹ trong Nhiếp Đại Quỹ, Liên Hoa Bộ Tâm Quỹ). Nếu hiểu theo Thai Tạng Phạm Tự Thứ Đệ và Thai Tạng Bị Tại Thứ Đệ thì năm chữ tương ứng sẽ là A, Vaṃ, Raṃ, Haṃ, Khaṃ.

 

[3] Ấn này và ấn Thí Vô Úy giống nhau, điểm khác biệt là ấn Thí Vô Úy thì đầu ngón tay hướng lên trên, còn ấn Dữ Nguyện thì các đầu ngón tay hướng xuống dưới.

 

[4] Chữ He (हे) gồm có chữ Ha () và âm E () ghép lại, do âm E được viết phía trên chữ Ha nên gọi là “vạch tam-muội”.

 

[5] Sở dĩ chánh kinh phiên âm thành “đát tha nghiệt đảng củ xa” là do âm A cuối chữ tathāgata và âm A khởi đầu của chữ aṅkuśa sẽ ghép lại thành một âm A dài, tức ā, nên đọc thành tathāgatāṅkuśa.

 

[6] Ở đây lời chú giải nói duỗi hai ngón út và áp út, dựng thẳng ngón cái, tức là cả ba ngón duỗi ra, trong khi chánh kinh chỉ nói duỗi hai ngón út và trỏ, các ngón khác gập vào lòng bàn tay. Không biết đây là có phải là lỗi sai sót do khắc ván hay không?

 

[7] Tâm đại chủng tức là tâm sanh từ Tứ Đại, tức cái tâm vật chất.

 

[8] Chánh kinh nói “dĩ Hư Không luân trì Thủy luân đệ nhị tiết” (dùng ngón cái bấm vào lóng thứ hai của ngón áp út), lời Sớ lại nói: “Dĩ Không niếp Địa chỉ đệ nhị tiết” (Bấm ngón cái vào lóng thứ hai của ngón út). Đây có lẽ là sai sót trong khi sao chép hay khắc ván, không rõ ngón nào mới là đúng, nhưng lời Sớ nhiều lượt nhắc tới ngón út trong khi giải thích ấn này, có lẽ ngón út mới là đúng.

 

[9] Kiếp Bát La (Kapāla) có nghĩa là cái chén làm bằng nửa trên của xương sọ. Các vị tôn thánh phẫn nộ trong Mật giáo thường được miêu tả cầm cái chén này, đựng đầy máu tươi. Hiện thời, chén Kiếp Bát La được dùng như vật phẩm để đựng các thứ cúng dường trong Mật giáo Tây Tạng, nhưng thường làm bằng đồng.

 

[10] Giá Văn Trà còn được ghi là Chamundi, Charchika, hoặc Chamundeshwari, là một trong bảy vị Matrika (Thất Mẫu). Theo truyền thống Mật Giáo Tây Tạng, vị này là thủ lãnh của sáu mươi bốn (có thuyết nói là tám mươi mốt) Du Già Nữ (Yoginis). Họ là tùy tùng của Tuyết Sơn Thần Nữ (Parvati, tức Ô Ma Thiên Phi, vợ của Đại Tự Tại Thiên). Ấn Độ giáo coi vị này là thân hóa hiện của Parvati, hoặc Hắc Thiên Nữ (Kali), hoặc Nan Cận Mẫu (Durga) tùy thuộc quan niệm của từng bộ phái.

 

[11] Vīṇā là một loại đàn của Ấn Độ (thường được viết là Veena, Vina, Bina, hay Beena, tùy theo khẩu âm của từng vùng). Đây là một loại nhạc khí rất lâu đời, hiện thời vẫn sử dụng rất phổ biến tại Ấn Độ (nhất là trong các đền thờ Ấn giáo). Thần thoại Ấn Độ nói loại đàn này do thần Shiva sáng chế. Loại đàn này khá cồng kềnh, cán dài từ 1 đến 2 m, chia thành hai mươi bốn phím đàn. Đầu cán đàn uốn cong, có trục để lên dây, đầu cán đàn và bầu đàn thường là hai quả bầu rất to, thân đàn có hình thuôn thuôn như quả lê. Đàn có bốn dây chính và ba dây phụ. Người chơi đàn đeo vuốt bằng kim loại ở hai ngón cái và ngón trỏ để khảy, vuốt dây đàn. Các dây phụ có âm trầm thấp, rền rĩ, thường được búng bằng ngón út. Loại đàn này có rất nhiều biến thể như Rudra veena, Sarawasti veena, Vichitra veena, sitar, surbahar v.v… tùy thuộc cách cấu tạo bầu cộng hưởng, số dây, có phím, hay không phím v.v…

 

[12] Đàn sắt () là một loại đàn thời cổ, có hình chữ nhật dài (to thô hơn đàn cầm, đàn cầm mảnh mai hơn nhiều), gồm hai mươi lăm dây. Dưới các dây đàn có các con nhạn (tức các khối gỗ đỡ hình tam giác tù có thể di chuyển để điều chỉnh độ căng của dây đàn). Loại đàn này phải đánh hai tay bằng cách búng dây, phổ biến nhất vào đời Hàn và thường dùng để hòa tấu với đàn Cổ Cầm. Sang đời Tần, loại đàn này bị không được sử dụng nữa, và bị thay thế bởi đàn Tranh.

 

[13] Graha vừa có nghĩa là chấp diệu (chín ngôi sao, tức mặt trời, mặt trăng, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, La Hầu, Kế Đô), vừa là tên một loại quỷ chuyên bám vào con người khiến cho họ khủng hoảng.

 

[14] Trong bản dịch của Rolf W. Giebel, chữ cuối trong tiếng Phạn của chú này chỉ ghi là Ha, trong khi bản Hán ghi là Sa Ha. 


Comments

Popular posts from this blog