Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
14. Phẩm thứ mười bốn: Tám ấn bí mật
Bí Mật Bát Ấn Phẩm Đệ Thập Tứ
祕密八印品第十四
(Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán chư đại chúng hội, cáo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Phật tử! Hữu bí mật bát ấn, tối vi bí mật.
Thánh thiên chi vị, oai thần sở đồng, tự Chân Ngôn đạo dĩ vi tiêu xí, đồ cụ Mạn-đồ-la
như Bổn Tôn tương ứng. Nhược y pháp giáo, ư Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ
Tát ưng như thị tri, tự thân trụ Bổn Tôn hình, kiên cố bất động. Tri Bổn Tôn
dĩ, như Bổn Tôn trụ, nhi đắc Tất Địa.
(經)爾時,毘盧遮那世尊復觀諸大眾會,告執金剛祕密主言:佛子!有祕密八印,最為祕密。聖天之位威神所同,自真言道以為幖幟,圖具漫荼羅如本尊相應。若依法教,於真言門修菩薩行諸菩薩應如是知,自身住本尊形堅固不動。知本尊已,如本尊住而得悉地。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán các đại chúng hội, bảo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ rằng: - Phật tử! Có tám ấn bí mật là bí mật nhất. Các địa vị tôn
thánh, chư thiên sẽ có oai thần như nhau [nếu vận dụng tám ấn này], tự dùng đạo
Chân Ngôn để biểu lộ, vẽ Mạn-đồ-la trọn đủ tương ứng như Bổn Tôn [của các ấn ấy].
Nếu vâng theo pháp giáo, đối với các vị Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn
môn, hãy nên biết như thế, tự thân trụ trong hình tượng của Bổn Tôn, kiên cố bất
động. Đã biết Bổn Tôn rồi sẽ trụ như Bổn Tôn, đạt được Tất Địa).
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán
sát đại chúng hội, bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: “Này Bí Mật Chủ! Có tám ấn bí mật, tột bậc bí mật”. Trong phẩm
trước, đức Như Lai đã nói pháp tiến nhập, trụ trong Bí Mật Mạn-đồ-la xong. Lúc ấy,
các đại chúng trong hội lại nghĩ như thế này: “Pháp bí mật, cực khó hiểu như thế,
lại có phương tiện nào để trọn đủ các tướng, khiến cho hành giả Chân Ngôn được
thành tựu mau chóng hay không?” Khi đó, đức Như Lai biết tâm niệm của đại
chúng: “Trong pháp bí mật này cũng có pháp hết sức bí mật ư? Hay là bằng với
pháp này?” Do chẳng thể lường, nên họ chẳng thể thốt lời thưa hỏi. Vì thế, đức
Phật chẳng đợi họ hỏi, chỉ là không hỏi mà tự nói. Cái gọi là “có hiệu nghiệm thần diệu”, [tức là]
nếu lúc hành giả dù “trong”
(quán tưởng thực hiện Mạn-đồ-la trong tâm như trong hai phẩm trước đã dạy) hay “ngoài” (thật sự chọn lựa cuộc đất,
tô vẽ Mạn-đồ-la), xếp đặt tọa vị của các vị Bổn Tôn trong Mạn-đồ-la rồi dùng
tám ấn ấy và chân ngôn của chúng để gia trì, các vị tôn thánh ấy sẽ tự nhiên
giáng phó đạo tràng, thỏa mãn các nguyện sự thuộc về chánh hạnh của họ. Lại còn
xếp đặt tọa vị của Bổn Tôn, sẽ có cùng một hiệu nghiệm thần diệu. “Cùng” tức là bằng với oai thần của Bổn
Tôn vậy. Đấy chính là tánh cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, giống như mặt trời, mặt
trăng ứng hiện trong nước, lửa, gương còn chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ sự cảm ứng
trong pháp giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai! Đấy là ấn để A-xà-lê hành, chớ
nên tự tiện tu tập. Dẫu là người đã nhập Mạn-đồ-la, cũng chớ nên tự tiện mà kết,
huống hồ người khác ư?
Không chỉ lấy đường hướng tiến nhập bổn
chân ngôn làm đặc trưng, “đường hướng”
là như lục đạo v.v…; ở đây là “chân
ngôn thú” (真言趣, đường hướng để tiến nhập chân ngôn). Lại còn có Mạn-đồ-la
tương ứng với Bổn Tôn, như Bổn Tôn có pháp như thế, ta cũng có. Vì thế, trọn đủ
(“chuyện như thế” tức là giống
như Bổn Tôn trong phần trên, nghĩa là nói đến hình sắc, tọa vị, [dáng vẻ] hoan
hỷ cũng thế). Tự thân [hành giả] trụ trong hình tướng của Bổn Tôn, hãy nên biết
như thế này: Do hiểu biết giống như địa vị Bổn Tôn mà đạt được Tất Địa. Nếu
hành giả nương theo tám ấn, chân ngôn và Mạn-đồ-la tương ứng để phối ứng với trụ
vị (tọa vị an trụ của Bổn Tôn trong Mạn-đồ-la), nếu có thể biết điều ấy, sẽ gần
với Tất Địa, chẳng lâu sau sẽ đạt được.
“Như
Bổn Tôn trụ” (Trụ trong [Mạn-đồ-la]
giống như Bổn Tôn): Trong phần trước, tuy phối ứng với Bí Mật Mạn-đồ-la,
nhưng nếu thỉnh Bổn Tôn, cần phải thực hiện phương pháp này thì mới được. Nếu
chẳng làm pháp này, sẽ chưa viên mãn! Kinh này luôn là trước sau thành tựu lẫn
nhau, văn tự cùng vì một sự mà khéo léo liên kết lẫn nhau, hành giả cần phải hết
sức [chú tâm] đối chiếu và xem xét thì mới biết được! Nếu lúc hành giả trì tụng,
cũng cần phải làm pháp này, tức là thỉnh Bổn Tôn và mong nguyện v.v… thì [Tất Địa]
sẽ tự mau chóng kiến lập.
(Kinh) Vân hà bát ấn? Vị dĩ trí huệ tam-muội thủ tác không tâm hiệp chưởng,
nhi tán Phong luân, Địa luân như phóng quang diễm. Thị Thế Tôn bổn oai đức sanh
ấn. Kỳ Mạn-đồ-la tam giác, nhi cụ quang minh. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, lam lạc, sa ha.
(經)云何八印?謂以智慧三昧手作空心合掌,而散風輪地輪如放光焰,是世尊本威德生印。其漫荼羅三角而具光明,彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。㘕𡀩。莎訶。
(Kinh:
Thế nào là tám ấn? Chính là dùng tay trí huệ và tam-muội (tay phải và tay trái)
kết không tâm hiệp chưởng. Duỗi các ngón Phong (ngón trỏ) và Địa (ngón út) như
ngọn lửa quang minh túa ra. Đó là ấn Bổn Oai Đức Sanh của đức Thế Tôn. Mạn-đồ-la
của ấn ấy có hình tam giác, trọn đủ quang minh. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, lam lạc, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, raṃ raḥ
svāhā”).
Đây là ấn thứ nhất. Kết Tam Bổ Trá hiệp
chưởng (Saṁpuṭa:
Không tâm hiệp chưởng), hai ngón trỏ và ngón út dựng thẳng, tách nhau ra,
các ngón khác như cũ (vẫn áp vào nhau trong tư thế chắp tay) là thành ấn. Đấy
là ấn Đại Oai Đức Sanh của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Từ trong ấy, đại oai đức của
Như Lai sanh ra. Đó là quang minh của trí Nhất Thiết Trí. Mạn-đồ-la của ấn ấy
có hình tam giác. Bốn phía lại có bốn tam giác vây quanh, cho nên nói là “châu” (周, giáp vòng). Hãy nên quán Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ngự ở trong ấy.
Trong tam giác Mạn-đồ-la, hãy nên quán hoa tám cánh. Trên đài hoa là Mạn-đồ-la
tam giác, tức là tòa Du Già [được nói] trong phần trên. Tưởng đầu nhọn của hình
tam giác hướng xuống dưới, có màu đỏ. [Trong khi đó], phần trước nói đầu nhọn của
tam giác [trong Nhất Thiết Trí Ấn] hướng lên, nay [trong Mạn-đồ-la của ấn này,
đầu nhọn của hình tam giác] hướng xuống dưới, do nghĩa dụng khác biệt! Tưởng đức
Phật ngự trong đàn ấy để kết ấn Oai Quang. Chân ngôn là Lam Lạc (रंरः, raṃ raḥ).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, nhi khuất Phong luân tại Hư Không luân thượng,
như Phạ tự hình, thị Thế Tôn Kim Cang Bất Hoại ấn. Kỳ Mạn-đồ-la như Phạ tự tướng,
hữu kim cang quang. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vãm phạ,
sa ha.
(經)即以此印,而屈風輪在虛空輪上如嚩字形,是世尊金剛不壞印。其漫荼羅如嚩字相,有金剛光。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鑁嚩。莎訶。
(Kinh:
Liền dùng ấn ấy, gập ngón Phong (ngón trỏ) ở trên ngón Hư Không (ngón cái) như
hình chữ Phạ, chính là ấn Kim Cang Bất Hoại của đức Thế Tôn. Mạn-đồ-la như hình
chữ Phạ, có quang minh màu kim cang. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, vãm phạ, sa ha - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, vaṃ vaḥ svāhā”).
Ấn thứ hai thì kết ấn như trước, nhưng
cùng gập hai ngón trỏ chỉ vào đầu hai ngón cái, hợp lại như hình chữ Phạ (व, Va). Đấy là ấn Kim Cang Bất Hoại. Kim Cang là Như Lai trí, chẳng sanh từ
các duyên, nên chẳng thể phá hoại. Do vậy, gọi là
Kim Cang Bất Hoại. Mạn-đồ-la có hình tròn, giống như chữ Phạ, dùng chày kim
cang vây quanh (hãy nên là chày kim cang có quang minh như hình ngọn lửa). Các
chày kim cang ấy cũng xếp quanh bốn phía của Mạn-đồ-la, giống như trong phần
trước. Nói [Mạn-đồ-la có hình] chữ Phạ, nghĩa là Mạn-đồ-la ấy tròn trặn, sắc trắng,
cũng ở phía trên đài hoa. Trong ấy, có Đại Nhật Như Lai, những phần sau đều phỏng
theo lệ này. Nhưng tám ấn này, người trì tụng tùy ý chọn lấy một ấn để tùy theo
từng sự mà sử dụng. Chân ngôn là “vãm
phạ” (वं वः, vaṃ vaḥ).
(Kinh) Phục dĩ sơ ấn, nhi tán Thủy luân, Hỏa
luân. Thị danh Liên Hoa Tạng ấn. Kỳ Mạn-đồ-la như nguyệt luân tướng, dĩ Ba Đầu
Ma hoa nhi vi nhiễu chi. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tảm
sách, sa ha.
(經)復以初印,而散水輪火輪,是名蓮華藏印。其漫荼羅如月輪相,以波頭摩華而圍繞之。彼真言曰 。南麼三
曼多勃馱喃。糝索。莎訶。
(Kinh: Lại dùng ấn đầu
tiên, tách ngón Thủy (áp út) và Hỏa (giữa). Đó gọi là ấn Liên Hoa Tạng. Mạn-đồ-la
như hình vầng trăng, dùng hoa Ba Đầu Ma (padma) vây quanh. Chân ngôn của ấn ấy
là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tảm sách, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, saṃ saḥ
svāhā”).
Ấn thứ ba, làm
như trước, tức là Tam Bổ Trá hiệp chưởng. Hai ngón áp út và ngón giữa tách ra.
Hai ngón út và trỏ trước đó đã tách ra, giống như đóa hoa mới cắt. Đấy là ấn
Như Lai Tạng, cũng gọi là ấn Liên Hoa Tạng. Mạn-đồ-la làm thành hình trăng tròn
giống như trên, nhưng bốn phía được bao quanh bởi hoa sen, đó là điểm khác biệt.
Trong ấy, cũng quán Đại Nhật Như Lai. Chân ngôn là “tảm sách” (सं सः, saṃ saḥ).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, khuất nhị Địa luân nhập
ư chưởng trung, thị Như Lai vạn đức trang nghiêm ấn. Kỳ Mạn-đồ-la do như bán
nguyệt hình, dĩ Đại Không điểm vi chi. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, hàm hạc, sa ha.
(經)即以此印,屈二地輪入於掌中,是如來萬德莊嚴印。其漫荼羅猶如半月形,以大空點圍之。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。含鶴。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, gập
hai ngón Địa (út) vào lòng bàn tay, tức là ấn vạn đức trang nghiêm của Như Lai.
Mạn-đồ-la của ấn ấy giống như hình bán nguyệt, dùng chấm Đại Không vây quanh. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hàm hạc, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, haṃ haḥ svāhā”).
Ấn thứ tư giống
như ấn thứ ba trước đó, hai ngón út cùng gập vào lòng bàn tay. Đây là ấn Phật
Âm Trang Nghiêm, cũng là ấn Vạn Đức Trang Nghiêm, cũng nói là Nội Ngoại Trang
Nghiêm. Như người thế gian có đủ loại nhà cửa, y phục, sự việc, nơi chốn v.v…
Các thứ vật báu, không gì chẳng có để trang nghiêm, nên gọi là Vạn Đức Đều Đủ.
Nay ở đây, dù trong hay ngoài, các đức trang nghiêm của Như Lai đều trọn vẹn. Mạn-đồ-la
của ấn ấy có hình bán nguyệt, bên cạnh dùng các chấm để vây quanh. Các điều
khác đều tưởng giống như trên. Chân ngôn là “hàm hạc” (हं हः, haṃ haḥ).
(Kinh) Phục dĩ Định Huệ thủ, tác vị khai phu
hoa hiệp chưởng, kiến lập nhị Hư Không luân, nhi sảo khuất chi, thị Như Lai Nhất
Thiết Chi Phần Sanh ấn. Kỳ Mạn-đồ-la như Ca La Xả mãn nguyệt chi hình, kim cang
vi chi. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám á, sa ha.
(經)復以定慧手作未開敷華合掌,建立二虛空輪而稍屈之,是如來一切支分生印。其漫荼羅如迦羅捨滿月之形,金剛圍之。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗噁。莎 訶。
(Kinh: Lại dùng tay Định (trái) và Huệ
(phải), chắp lại như hình đóa hoa chưa nở. Dựng hai ngón cái lên, nhưng hơi
cong. Đấy là ấn Như Lai Nhất Thiết Chi Phần Sanh. Mạn-đồ-la của ấn ấy như hình
cái bình gốm [bụng căng phồng] như trăng tròn, chày kim cang vây quanh. Chân
ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám á, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, aṃ aḥ svāhā”).
[Ấn] thứ năm,
giống như trên, kết Tam Bổ Trá hiệp chưởng, nhưng [các ngón tay] hơi tách ra,
cong các ngón. Hai ngón cái tách rời ra (hơi cong, hướng vào trong), tách hai
lòng bàn tay ra như đang vốc nước. Ấn này được gọi là ấn Tùng Phật Chi Phần
Sanh, ý nói “sanh từ hết thảy các chi
phần của Như Lai”. Mạn-đồ-la của ấn này như hình cái bình, hàm ý phần bụng
của cái bình có hình tròn (tức là Mạn-đồ-la có hình tròn xoe). Bốn phía dùng
chày kim cang vây quanh. Những điều khác giống như trên. Chân ngôn là “ám á” (अं अः, aṃ aḥ).
(Kinh) Tức dĩ thử ấn, khuất kỳ Hỏa luân, dư
tướng như tiền. Thị Thế Tôn Đà La Ni ấn. Kỳ Mạn-đồ-la do như thái hồng, nhi biến
vi chi thùy kim cang phan. Bỉ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bột
đà đà la ni, sa một lật để mạt la đà na yết rị, đà ra dã tát vãm, bạc già phạ để,
a ca ra phạ để, tam ma duệ, sa ha.
(經)即以此印屈其火輪,餘相如前,是世尊陀羅尼印。其漫荼羅猶如彩虹,而遍圍之垂金剛幡。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。勃馱陀羅尼。娑沒㗚底沫羅馱那羯哩。馱囉也薩鑁。薄伽嚩底。阿迦囉嚩底。三麼曳。莎訶。
(Kinh: Liền dùng ấn ấy, gập hai ngón
Hỏa (ngón giữa), các ngón khác giống như trên. Đó là ấn Đà La Ni của đức Thế
Tôn. Mạn-đồ-la giống như cầu vồng, rủ kim cang phan trọn khắp. Chân ngôn của ấn
ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bột đà đà la ni, sa một lật để mạt la đà
na yết rị, đà ra dã tát vãm, bạc già phạ để, a ca ra phạ để, tam ma duệ, sa ha
- Namaḥ samantabuddhānāṃ, buddhadhāraṇi smṛtibala-dhānakari dharaya sarvaṃ bhagavaty ākāravati samaye
svāhā”).
Ấn thứ sáu giống
như trên, hai ngón giữa hơi cong, đều cùng cong gập vào lòng bàn tay. Cong ngón
sao cho lưng chúng chạm nhau, tức là ngón giữa tựa vào nhau, các ngón khác như
cũ, tức là giống như ấn thứ năm. Đấy chính là ấn Pháp Trụ. Mạn-đồ-la của ấn này
như hình cầu vồng, có các màu xen kẽ, giống như màu sắc nơi cầu vồng vậy. Hình
dạng [Mạn-đồ-la] như cầu vồng úp xuống, phía dưới phẳng. Phía trên có lá phan
kim cang. Các Mạn-đồ-la từ trên tới đây, có hoa sen, có chày kim cang, có chấm
v.v… [để bao quanh]. Nay Mạn-đồ-la này mỗi mỗi đều dùng sự trang nghiêm để vây
quanh, xen kẽ lẫn nhau. Chân ngôn thì chữ đầu tiên là chủng tử, tức chữ Phạ,
chính là “chẳng trói buộc”. “Bột đà đà
la ni” (Buddhadhāraṇi) là tổng trì của Phật. “Sa một lật để” (smṛti) là niệm.
“Mạt la đà na yết rị” (baladhānakari). “Yết
rị” (kari) là tạo lợi ích. “Đà ra da” (dharaya): Chữ trước là tự
trì, tức “trì ngã”. Kế đó là “trì tha” (giữ gìn kẻ khác), “trì nhất thiết” (“nhất thiết” (tát vãm, sarvaṃ) ở đây thuộc vào câu trên). “Bạc già phạ để” (Bhagavaty) là Thế Tôn, kêu gọi Bổn Tôn nhằm
tán thán pháp. “A ca ra phạ để” (ākāravati) là “trọn đủ
các hình tướng”. “Tam ma duệ”
(samaye) giải thích như trong phần trước), “sa ha” (svāhā). Ở đây sợ
chưa cặn kẽ, cần phải đối chiếu với bản tiếng Phạn.
(Kinh) Phục dĩ hư tâm hiệp chưởng, khai tán
Hỏa luân. Kỳ Địa luân, Không luân hòa hợp tương trì, thị vị Như Lai pháp trụ ấn.
Kỳ Mạn-đồ-la do như hư không, dĩ tạp sắc vi chi, hữu nhị Không điểm. Bỉ chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a phệ na vĩ nê, sa ha.
(經)復以虛心合掌,開散火輪,其地輪空輪和合相持,是謂如來法住印。其漫荼羅猶如虛空,以雜色圍之,有二空點。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿吠娜尾泥。莎訶。
(Kinh: Lại dùng hư tâm hiệp chưởng,
tách các ngón Hỏa
(ngón giữa). Các ngón Địa (út) và Không (cái) hòa hợp, chụm vào nhau. Đó là ấn
Pháp Trụ của Như Lai. Mạn-đồ-la của ấn ấy giống như hư không, dùng nhiều màu
vây quanh, có hai chấm Đại Không. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, a phệ na vĩ nê, sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ, ā vedavide svāhā”).
Ấn thứ bảy, kết
Tam Bổ Trá giống như trên. Dùng các ngón út và ngón cái của hai tay cùng bấm
vào nhau, gập vào lòng bàn tay, tách ngón giữa ra. Đầu các ngón áp út và ngón
trỏ chụm vào nhau. Hai ngón út đặt phía trên ngón giữa. Mạn-đồ-la có hình như
hư không (tức là làm thành hình vuông), nhiều màu xen kẽ. Đó là màu của hư
không; như không trung chứa đựng hết thảy các hình sắc. Đại Không Trí của Như
Lai chứa đựng hết thảy các pháp. Hai bên đều dùng một cái chấm kẹp sát bên.
Chân ngôn thì A (ā) là chủng tử. Chữ này là hạnh. A Phệ Na (ā veda) tức là trọn đủ Nhất Thiết Trí, tức trí do chính mình đã chứng.
Vĩ Nê (vide) chính là dùng trí huệ vốn sẵn đủ ấy để rộng trì người khác. Sa ha!
(Kinh) Đồng tiền hư tâm hiệp chưởng, dĩ trí
huệ tam-muội thủ hỗ tương gia trì, nhi tự toàn chuyển, thị vị Thế Tôn Tấn Tật
Trì ấn. Kỳ Mạn-đồ-la diệc như hư không, nhi dụng thanh điểm nghiêm chi. Bỉ chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma ha du già du nghĩ ninh, du nghệ
thuyết rị, khiếm xà lỵ kế, sa ha.
(經)同前虛心合掌,以智慧三昧手互相加持而自旋轉,是謂世尊迅疾持印。其漫荼羅亦如虛空,而用青點嚴之。彼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩訶瑜伽瑜擬寧。瑜詣說哩。欠闍唎計。莎訶。
(Kinh: Hư tâm hiệp chưởng
giống như trên, dùng tay trí huệ và tam-muội gia trì lẫn nhau để tự xoay vòng.
Đó là ấn Tấn Tật Trì của đức Thế Tôn. Mạn-đồ-la cũng như hư không, nhưng dùng
các chấm xanh để trang nghiêm. Chân ngôn của ấn ấy là: “Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, ma ha du già du nghĩ ninh, du nghệ thuyết rị, khiếm xà lỵ kế, sa ha - Namaḥ
samantabuddhānāṃ, mahāyoga-yogini yogeśvari khāñjalike, svāhā”).
Ấn thứ tám: Chắp
tay (lòng bàn tay áp vào nhau), trước là chuyển sang bên trái (khi chuyển thì
tay phải úp xuống, tay trái ngửa lên, áp sát nhau như cũ), kế đó chuyển sang phải
(khi chuyển thì tay trái úp xuống, tay phải ngửa lên, nhưng vẫn áp vào nhau chẳng
tách rời). Đấy là ấn Tấn Tật Trì của Như Lai, tức là sức thần thông bí mật của
Như Lai, có ý nghĩa “tận lực nhanh chóng
giữ gìn”. Mạn-đồ-la giống như hư không trong phần trên, chỉ đổi thành
màu xanh [thay vì nhiều màu như trong ấn thứ bảy], dùng nhiều chấm màu xanh vây
quanh. Chân ngôn: Chữ “Khi” (खि) [là chữ Kha
(ख)] thêm vạch
tam-muội [I (ि)] là chủng tử.
Đại Du Già (mahāyoga), tức là Du Già của chư Phật. “Ma ha du kỳ nễ” (mahāyogini) chính là
Chân Ngôn Chủ trụ trong Đại Du Già, khiến cho người chưa đắc Du Già sẽ đạt được,
tức là có thể thỏa nguyện cho người tu hành, được tự tại trong Du Già. “Du nghệ thuyết rị” (Yogeśvari) “khiếm” (khāñ) là không. “Xà lỵ”
(Jali) là sanh, tức là Không Sanh. “Ca”
(Ka) là làm, [biến âm thành Ke (tức là chữ Kế trong phần tiếng Hán), hàm nghĩa]
“khiến cho các thứ sanh ấy giống như
Không”.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Thị danh Như Lai bí mật ấn,
tối thắng bí mật, bất ưng triếp thọ dữ nhân, trừ dĩ quán đảnh, kỳ tánh điều
nhu, tinh cần kiên cố, phát thù thắng nguyện, cung kính sư trưởng, niệm ân đức
giả, nội ngoại thanh tịnh, xả tự thân mạng nhi cầu pháp giả.
(經)祕密主!是名如來祕密印,最勝祕密,不應輒授與人,除已灌頂,其性調柔、精勤堅固、發殊勝願、恭敬師長、念恩德者、內外清淨、捨自身命而求法者。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Đó gọi
là ấn bí mật của Như Lai, bí mật tối thắng, chớ nên tự tiện trao cho người
khác, trừ người đã được quán đảnh, tánh tình điều nhu, siêng ròng, kiên cố,
phát nguyện thù thắng, cung kính sư trưởng, nghĩ nhớ ân đức, trong ngoài thanh
tịnh, người bỏ thân mạng của chính mình để cầu pháp).
Lại nữa, thứ
nhất là phương Đông Bảo Tràng Phật, thứ hai là phương Nam Khai Phu Hoa Vương Phật,
thứ ba là phương Tây A Di Đà Phật, thứ tư là phương Bắc Cổ Âm Phật, thứ năm là
Đông Nam Phổ Hiền Bồ Tát, thứ sáu là Tây Nam Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, thứ bảy là
Tây Bắc Di Lặc Bồ Tát, thứ tám là Đông Bắc Quán Tự Tại Bồ Tát. Hãy nên biết tám
ấn ấy đều là ấn của đức Tỳ Lô Giá Na, nhưng ấn ở phương Đông là ấn của Bảo
Tràng Phật, mà cũng là ấn của Đại Nhật Như Lai. Những điều khác hãy phỏng theo
đó (tức là kế đó, hãy nương theo đó mà phối ứng tám ấn với bốn vị Phật và bốn vị
Bồ Tát).
Kế đó, chánh
kinh răn dạy A-xà-lê cách thức nên truyền trao [tám ấn bí mật này như thế nào].
Nếu là kẻ chưa quán đảnh, hết thảy đều không được chỉ dạy [các ấn này]. Kế đó,
nếu là người điều nhu (tức là người nhu hòa, thiện thuận, chẳng bộp chộp, hung
bạo v.v…). Kế đó là người siêng năng, tinh tấn, có ý nguyện kiên cố, thù thắng,
tức là có thể phát khởi tinh tấn, siêng năng, tự có thể phát ra vô lượng đại
nguyện hoằng thệ. Kế đó là người cung kính sư trưởng (tức là A-xà-lê), giống
như kinh Pháp Hoa nói “dùng thân [của
chính mình] làm giường, tòa [cho sư trưởng]”. Lại là người nghĩ nhớ ân đức
(mong báo ân Phật), người thanh tịnh (trong ngoài đều tịnh), người xả tự thân
(nếu cầu pháp, sẽ chẳng tiếc thân mạng, giống như Tuyết Sơn đại sĩ v.v…). Tuy
là [người đã] nhập Mạn-đồ-la, nhưng phải có đức như thế thì mới có thể nói! Chẳng
được dạy bảo người khác bừa bãi! Vì cớ sao vậy? Đấy là pháp trọng yếu trong bí
tạng của Như Lai, chẳng thể đi đến đâu cũng tuyên truyền bừa bãi. Đây cũng là đức
Phật dạy hàng A-xà-lê. Nếu thuộc địa vị đệ tử, sẽ chẳng được phép, cố nhiên chẳng
nói ngằn hạn, há có nên nói bừa bãi, khiến cho kẻ khác khinh báng, tự chuốc lấy
tội trong đại địa ngục Vô Gián ư? “Sáu
tháng” là nêu ra con số [hòng định ngằn hạn để sách tấn chính mình tinh
tấn]. Sáu tháng đầu chẳng thành, làm thêm sáu tháng nữa, lần lượt cho đến khi đạt
được thành tựu mới thôi. Nếu nói “ba tháng” thì cũng phỏng theo đó mà hiểu. Trước
là trì tụng suốt sáu tháng, nếu chẳng có tướng [thành tựu], lại trải qua sáu
tháng nữa. Nếu đã có tướng thì mới là thực hiện thành tựu. Nếu giải thích theo
cách bí mật, “sáu tháng” chính
là tịnh hóa sáu căn. Nói “ba tháng”
tức là tịnh hóa thân, miệng, ý.
Comments
Post a Comment