Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

6. Phẩm thứ sáu: Tất Địa xuất hiện

Tất Địa Xuất Hiện Phẩm ĐLục

悉地出現品第六

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục quán chư đại chúng hội, vị dục mãn túc nhất thiết nguyện cố, phục thuyết tam thế vô lượng môn quyết định trí viên mãn pháp cú.  

          ()爾時世尊復觀諸大眾會為欲滿足一切願故復說三世無量門決定智圓滿法句

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại quán các đại chúng hội, vì muốn thỏa mãn hết thảy các nguyện, lại nói pháp cú viên mãn “trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba đời”).

 

          Quán sát đại chúng chẳng phải là không có nhân duyên. Trước hết, dùng Phật tâm để quán chủng tử, tướng mạo, và thể tánh của các chúng sanh ấy kham tiếp nhận pháp nào, nên gieo như thế nào để họ đạt được lợi ích. Quán như thế xong, sẽ biết họ sẽ từ nơi pháp môn nào mà được ngộ nhập. Vì muốn nói điều này, cho nên trước hết [đức Phật] bèn quán cơ (xem xét căn cơ). Vô lượng trí môn quyết định trong ba đời, tức là trong một niệm, vô lượng trí môn vô ngại trọn ba đời. Đức Phật dùng đủ loại phương tiện để nói diệu pháp ấy, hết thảy chúng sanh ai nấy tùy theo trí môn tương ứng mà đạt được quyết định. Do các môn ấy vô lượng; cho nên nói là “vô lượng môn”. Đức Phật quán đại chúng hội, vì họ nói môn “tiến nhập phổ môn pháp giới” này, muốn cho ai nấy tùy theo cái duyên của chính họ mà đạt được quyết định, nên gọi là “quyết định trí môn”. “Pháp cú” là trước hết vận dụng Sự, từ Sự có thể sanh ra Lý. Vì thế, gọi là Cú (câu), tức Cú chính là cái để Kệ nương vào. Cách thành lập các câu kệ trong thế gian là dùng danh tự để nói. “Mãn túc”: Nhập pháp môn này, có thể sanh ra pháp môn, có thể sanh ra pháp giới vô tướng là pháp bí mật do Như Lai tự chứng; muốn dùng pháp như thế để thỏa mãn [ước nguyện của] hết thảy chúng sanh, khiến cho chẳng luống uổng. “Cú” ở đây chính là kệ[1], đừng hiểu là từng câu. Trong phần sau, sẽ coi “nghĩa” (tức ý nghĩa trong một bài kệ) là câu kệ.

 

          (Kinh) Hư không vô cấu, vô tự tánh, năng thọ chủng chủng chư xảo trí.

          ()虛空無垢無自性能授種種諸巧智

          (Kinh: Hư không vô cấu, vô tự tánh, hay trao các thứ trí thiện xảo).

 

          Tâm trí Nhất Thiết Trí giống như hư không, vô cấu, vô lượng, vô ngại, chẳng có phân biệt, tức là pháp hiện chứng Đại Không của Phật. “Vô tự tánh” tức là pháp giới thanh tịnh ấy vô cấu như hư không, cũng lại chẳng có tự tánh, chẳng thể chấp trước! Do như thế chính là Đại Không, vô vi cũng là vô tự tánh, có thể sanh ra trí Nhất Thiết Trí, tức là “xảo trí”; đó là tên gọi khác của trí. Nếu chẳng phải là xảo trí, sao có thể thuận theo đủ loại tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, hiện thân mà họ thích thấy, nói pháp họ đáng nên nghe, tương xứng với căn cơ lãnh ngộ của họ, thảy đều chẳng dối, vào trong hết thảy pháp giới bình đẳng, tức là tột bậc hay khéo trong các thứ khéo léo. Do bình đẳng Không cũng là vô tự tánh, hữu tướng sanh diệt cũng lại chẳng có tự tánh. Vì thế, trong pháp tự tại có thể sanh ra xảo trí, thỏa nguyện trọn khắp hết thảy chúng sanh, độ lượng chẳng thể nghĩ bàn.

         

          (Kinh) Do bổn tự tánh thường Không cố, duyên khởi thậm thâm nan khả kiến.

          ()由本自性常空故緣起甚深難可見

          (Kinh: Do bổn tự tánh thường là Không, duyên khởi rất sâu khó thể thấy).

 

          Đây chính là tự tánh của “bất khả đắc Không”, tức là thân đệ nhất thường trụ của Pháp Thân Phật, do lìa tám tướng điên đảo như không, phi không v.v… Đấy chính là pháp rất sâu khởi lên từ các duyên, vô vi, vô tác, mà có thể chẳng động pháp giới, ứng trọn khắp chúng sanh. Cơ và ứng tương quan như vầng trăng hiện nơi nước trong. Pháp duyên khởi như thế chẳng thể nghĩ bàn! (Tự tánh của Không là thường có, chẳng phải là trước không mà nay có. Đã có rồi lại không. Vì thế, nói là bản tánh của Không là như thế đó).

 

          (Kinh) Ư trường hằng thời thù thắng tấn, tùy niệm thí dữ vô thượng quả.

          ()於長恒時殊勝進隨念施與無上果

          (Kinh: Tinh tấn lâu dài hành thù thắng, tùy niệm ban cho quả vô thượng).

 

          “Hằng” tức là thường tu pháp hạnh như thế, cho đến Đại Không cũng chẳng thể được, vì vô tự tánh. Ví như Đại Không có thể sanh khởi vạn hạnh, đối với hạnh pháp giới bình đẳng rất sâu này, nếu hành giả có thể thường hành như thế, sẽ có thể tùy thuận thỏa mãn các điều mong nguyện của chúng sanh, cho đến vô thượng đại nguyện cũng có thể ban cho họ.

 

          (Kinh) Thí như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh. Thử thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô dư thanh tịnh sanh.

          ()譬如一切趣宮室皆依虛空無著行此清淨法亦如是三有無餘清淨生

          (Kinh: Ví như hết thảy các cung điện, đều nương hư không, hạnh chẳng chấp. Pháp thanh tịnh này cũng như thế, ba cõi chẳng còn, thanh tịnh sanh).

 

          “Thí như nhất thiết thú cung thất, giai y hư không vô trước hạnh” (Ví như cung điện, nhà cửa trong hết thảy các đường [thọ sanh], đều nương vào hư không [để tồn tại, nhưng hư không và các thứ nương vào nó để tồn tại] đều chẳng sanh chấp trước): Sợ người khác chẳng tin hiểu, bèn dẫn thí dụ để sánh ví. Như hết thảy thế gian đều nương vào hư không để an trụ, nhưng Đại Không chẳng nương vào đâu, chẳng nghĩ thế này: “Hết thảy thế gian do ta mà sanh, nương vào ta mà trụ”. Thế gian này ở trong hư không cũng chẳng nghĩ tới ân đức [của hư không] để cầu báo đáp, chẳng khởi ý niệm như thế này: “Do sức của hư không khiến cho ta được an ổn như thế”. Vì sao vậy? Do chẳng thấy hư không có hạnh tạo tác, nên chẳng nghĩ báo đáp. Kế đó nói: “Thử thanh tịnh pháp diệc như thị, tam hữu vô dư thanh tịnh sanh” (Pháp thanh tịnh này cũng như thế, do chướng ngại trong ba cõi chẳng còn thừa sót nên thanh tịnh sanh khởi): Nói gộp chung với cái hạnh đã nói trong đoạn trước “cũng giống như hư không” (tức hạnh “pháp giới bình đẳng”), trừ chướng trong ba cõi chẳng còn thừa sót, có thể sanh ra pháp thanh tịnh, sanh khởi thân mầu nhiệm thanh tịnh tương xứng với pháp tánh.

          (Kinh) Tích Thắng Sanh Nghiêm tu thử cố, đắc hữu nhất thiết Như Lai hạnh.

          ()昔勝生嚴修此故得有一切如來行

          (Kinh: Xưa Thắng Sanh Nghiêm tu hạnh này, đạt được hết thảy Như Lai hạnh).

 

          Lại dẫn chuyện xưa để làm chứng. Thắng Sanh tức là Tiên Sanh. Tiên Sanh tức là người giác ngộ pháp này trước. Nếu giác ngộ pháp này thì chính là vô tận trang nghiêm, tức tạng diệu nghiêm định huệ thần lực trang nghiêm vô tận. [Hai câu kệ trên đây có] ý nói: Trong quá khứ, có một vị Bồ Tát tên là Thắng Sanh Nghiêm. Đây chính là một vị Phật Tử, tức là người tu hành trước kia, như nói Tiên Sanh vậy. Tiếng Phạn là Tỵ Bộ. [Do vị ấy tu hành hạnh này], chẳng lâu sau bèn trọn đủ các thứ của cải, tức là pháp tài. Đấy chính là dùng đức để trang nghiêm cái thân. Vị tiên giác ấy đã từng đạt được pháp như thế, hết thảy chư Phật cũng đều đạt được pháp ấy.

 

          (Kinh) Phi tha cú hữu nan khả đắc, tác thế biến minh như Thế Tôn, thuyết cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt.

          ()非他句有難可得,作世遍明如世尊,說極清淨修行法深廣無盡離分別

          (Kinh: Chẳng do câu khác mà hiện hữu, cái quả pháp giới rất khó được, soi khắp cõi đời như Thế Tôn, nói pháp tu hành cực thanh tịnh, sâu rộng vô tận, lìa phân biệt).

 

          Ý nói: Nếu lìa pháp này mà có thể do pháp cú khác bèn được thành tựu cái quả pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, chẳng có lẽ ấy! Giả sử cầu trong ấy, cũng chẳng có lẽ nào đạt được! Như cầu dầu ở trong nước, chẳng thể được! Nếu ai có thể tự chứng điều này chẳng phải gì khác, chẳng do pháp nào khác mà ngộ, liền có thể chiếu sáng thế gian giống như mặt trời soi chiếu. Cũng như khi đức Phật xuất thế, đã tạo sự sáng suốt to lớn cho khắp hết thảy thế gian vô minh. “Thuyết cực thanh tịnh tu hành pháp, thâm quảng vô tận ly phân biệt” [nghĩa là] đức Phật nói pháp tự chứng cực thanh tịnh, vô phân biệt, lìa phân biệt rất sâu. Pháp ấy rộng sâu, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể phá hoại, chẳng có cùng tận. Đấy là ý nghĩa tán thán công đức của pháp vậy.

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn thuyết thử già-đà dĩ, quán sát Kim Cang Thủ đẳng nhất thiết đại chúng, cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện nam tử! Các các đương hiện pháp giới thần lực Tất Địa lưu xuất cú. Nhược chư chúng sanh kiến như thị pháp, hoan hỷ dũng dược, đắc an lạc trụ.  

          ()爾時毘盧遮那世尊說此伽陀已觀察金剛手等一切大眾告執金剛言善男子各各當現法界神力悉地流出句若諸眾生見如是法歡喜踊躍得安樂住

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nói già-đà ấy xong, quán sát hết thảy đại chúng như Kim Cang Thủ v.v… bảo Chấp Kim Cang rằng: - Thiện nam tử! Mỗi người hãy nên hiện câu pháp giới thần lực lưu xuất Tất Địa. Nếu các chúng sanh thấy pháp như thế, sẽ hoan hỷ, hớn hở, được trụ trong an lạc).

         

          “Thần lực” cũng là vận dụng thần biến. “Thần biến” ở đây hiểu theo nghĩa rộng: Từ một mà đạt được nhiều. Đức Phật quán đại chúng chẳng phải là không có nhân duyên, [Ngài quán sát đại chúng trong hội] vì muốn khiến cho họ ai nấy đều nói câu [diễn giải] Tất Địa được lưu xuất từ sức thần thông tự tại thuộc pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Sự lưu xuất ấy được gọi là Môn. Do [chữ Môn trong] tiếng Phạn bao hàm nhiều nghĩa, nay ý nghĩa ở đây là “lưu xuất”, tức là Phật tâm tự chứng pháp giới, lưu xuất vô lượng môn xảo trí. Có nghĩa là mỗi vị Bồ Tát hoặc Kim Cang đều là mỗi đức nội chứng của Như Lai. Từ đó hiện ra pháp môn, mỗi môn đều có truyền pháp, nhiếp thọ chúng sanh, dẫn dắt một loại chúng sanh ấy do môn ấy mà tiến nhập, đạt đến địa vị chứng trí Nhất Thiết Trí. Ý Phật muốn khiến cho các vị ấy ai nấy đều nói môn nhập Thật Tướng. Nếu có chúng sanh tương xứng căn tánh ấy, sẽ sanh lòng vui thích, phát khởi thiện căn; tức là từ môn này mà thành tựu hạnh thù thắng, trụ trong hạnh an lạc của Như Lai.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, chư Chấp Kim Cang vị Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn tác lễ: “Như thị, pháp chủ! Y sở giáo sắc”. Phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn ai mẫn ngã đẳng, thị hiện Tất Địa lưu xuất cú, hà dĩ cố? Ư tôn giả Bạc Già Phạm tiền, nhi tự tuyên thị sở thông đạt pháp, phi thị sở nghi. Thiện tai Thế Tôn! Duy nguyện lợi ích an lạc vị lai chúng sanh cố”.

          ()如是說已 諸執金剛為毘盧遮那世尊作禮  如是

法主依所教勅復請佛言惟願世尊哀愍我等示現悉地流出句何以故於尊者薄伽梵前而自宣示所通達法非是所宜善哉世尊惟願利益安樂未來眾生故

          (Kinh: Nói như thế xong, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn: “Thưa pháp chủ, đúng như thế! Chúng con kính vâng lời truyền dạy”. Lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính xin đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất Địa. Vì sao vậy? Đối trước đức Bạc Già Phạm tôn kính mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính mình thông đạt thì chẳng phải là điều hợp lẽ. Lành thay đức Thế Tôn! Kính mong hãy lợi ích, an lạc chúng sanh trong đời vị lai”).

 

          Khi đó, các vị Chấp Kim Cang đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, thưa: “Như thị pháp chủ! Y sở giáo sắc”, tức là tuân theo mệnh lệnh của đức Phật, chẳng dám trái nghịch. Nhưng Như Lai là pháp chủ, nếu ai nấy đối trước đức pháp chủ mà nói sai khác, thì là điều chẳng nên. Do vậy, thỉnh đức Phật tự nói để hết thảy mọi người được nghe. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn! Chúng con đối trước đức Thế Tôn nói pháp do chính mình thông đạt chẳng phải là điều đáng nên. Đó là lời đáp. Khi đó, các vị Kim Cang lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn thương xót chúng con, thị hiện câu lưu xuất từ Tất Địa. Vì lẽ nào? Đối trước đức Thế Tôn đáng tôn trọng mà tự tuyên nói, chỉ bày pháp do chính mình thông đạt, chẳng phải là điều đáng nên”. Điều này có ý nghĩa như thế nào? Như Lai pháp vương tôn quý, thù thắng vô thượng đã hiện tiền thông đạt pháp này, thấy thấu suốt rõ ràng chẳng thừa sót. Chúng con do ân lực của Phật, đều từ một môn, thuận theo tâm lượng của chính mình mà được thông đạt. Nếu chúng con đối trước bậc đại pháp chủ như thế mà tự xưng nói thì chẳng đúng lẽ! Đấy là ý hổ thẹn, khiêm nhượng vậy. [Các vị Kim Cang] trần thuật ý nghĩa như thế, nguyện Phật hãy tự nói. Vì lẽ nào vậy? Vì chúng sanh trong đời vị lai gặp được pháp này, sẽ đạt được lợi ích to lớn, khai tri kiến của Phật, mau chóng thực hiện hoàn thành hạnh an lạc của Như Lai.

 

          (Kinh) Thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo nhất thiết chư Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện tai, thiện tai, thiện nam tử! Như Lai sở thuyết pháp Tỳ Nại Da xưng tán nhất pháp, sở vị hữu tu. Nhược hữu tu thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến như thị pháp, tốc sanh nhị sự, vị bất tác sở bất ưng tác, chúng sở xưng tán.

          ()薄伽梵毘盧遮那告一切諸執金剛言善哉善哉善男子如來所說法毘柰耶稱讚一法所謂有羞若有羞善男子善女人見如是法速生二事謂不作所不應作眾所稱讚

          (Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo hết thảy các vị Chấp Kim Cang rằng: - Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Trong pháp Tỳ Nại Da do Như Lai nói, đã khen ngợi một pháp, chính là “có hổ thẹn”. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân có lòng hổ thẹn, thấy pháp như thế, sẽ nhanh chóng sanh khởi hai chuyện, tức là chẳng làm chuyện không nên làm, và được đại chúng khen ngợi).

 

          Ý đức Phật là ca ngợi: Các vị thiện sĩ ấy tuy đã khéo thông đạt pháp môn mà họ đã nhập, nhưng do kính ngưỡng Như Lai mà sanh lòng hổ thẹn, chẳng dám trần thuật [pháp môn ấy]. Hãy nên biết đấy là tướng trạng của bậc thiện sĩ, nên [đức Phật] bảo “Lành thay! Lành thay!” Kế đó, [đức Phật] liền dùng ngay điều các vị ấy đã làm để tiếp dẫn, cho nên nói “trong luật thuộc về pháp do đức Như Lai đã dạy, chỉ thường khen ngợi một pháp, tức là hổ thẹn”. Trong tiếng Phạn, [“hổ thẹn” (Lajja)] khác với “tàm quý” (Hrīapatrāpya). Giải thích tàm quý là như thế nào? Chính là có lòng hổ thẹn. Nếu người có lòng hổ thẹn, chính là có tàm quý. Như Lai thường khen ngợi pháp này. Nếu ai có tâm hổ thẹn, sẽ thành tựu hạnh bí mật. Hãy nên biết đó là chỗ phát khởi dấu tích (tức là hiện ra cách hành trì như thế để tiếp dẫn chúng sanh). Do có lòng hổ thẹn, sẽ trọn đủ hai pháp:

          - Một là đối với các sự nghiệp chẳng nên làm, sẽ đều chẳng làm. Thế nào là “chẳng nên làm”? Như người trong thế gian, ai nấy hãy nên quán sát chuyện chẳng nên làm trong chủng tánh của chính mình liền chẳng dám làm; thế gian gọi [người ấy] là người biết hổ thẹn. Nay thiện nam tử này cũng thế, tự quán sát chủng tánh của Như Lai, biết hết thảy các ác nghiệp trong pháp ấy thảy đều chẳng nên làm. Đấy chính là pháp thứ nhất.

          - Hai, do chẳng làm ác, sẽ được Như Lai khen ngợi. Không chỉ riêng Như Lai, mà còn được các hàng trời, người, A Tu La, sa-môn, Bà-la-môn và đại chúng thánh phàm trong mười phương đều thường khen ngợi, truyền nói. Đấy chính là quả báo do chẳng làm các điều ác. Lại nữa, điều được đại chúng khen ngợi chính là “đều hành hết thảy các điều thiện”. Do trọn đủ hết thảy các điều thiện, bèn được đại chúng khen

ngợi.

 

          (Kinh) Phục hữu nhị sự, vị sở vị chí linh chí, đắc dữ Phật, Bồ Tát đồng xử.

          ()復有二事謂所未至令至得與佛菩薩同處     

          (Kinh: Lại có hai chuyện, tức là: Khiến đạt được điều chưa đạt đến, và được ở cùng chỗ với Phật, Bồ Tát).

 

          Nói “khiến cho đạt được điều chưa đạt được” chính là đạt được bến bãi có vật báu trí Nhất Thiết Trí. Do có lòng hổ thẹn, nên có thể hành hai pháp. Do hai pháp trên đây mà có thể đạt tới chỗ đáng nên đạt tới, trước kia chưa ngộ mà nay đắc ngộ, trước kia chưa nghe mà nay được nghe. Đó là một pháp.

          Điều thứ hai là do đạt tới điều trước kia chưa đạt, bèn sanh trong chủng tánh của Như Lai, ở cùng một chỗ với hết thảy Phật, Bồ Tát, thường chẳng lìa bỏ sự thắng tấn vi diệu. Đấy chính là điều thứ hai.

 

          (Kinh) Phục hữu nhị sự, vị trụ Thi La, sanh ư nhân thiên.

          ()復有二事謂住尸羅生於人天

          (Kinh: Lại có hai chuyện là trụ trong Thi La và sanh trong trời người).

 

          “Trừ nóng bức, được mát mẻ” chính là ý nghĩa của Thi La. Như người nóng bức, nghĩ tưởng cái ao trong mát, hay căn nhà mát mẻ, kẻ khéo nhập liền lìa các ương hoạn nhiệt não. Lại như người bệnh nhiệt được trừ bệnh nhiệt độc, thân tâm liền mát mẻ, khéo được an vui, có ý nghĩa giống như thanh lương. Bậc Bồ Tát tánh giới thành tựu, chẳng do [vâng giữ] giới [do đức Phật] chế định mà tùy ý đều trọn đủ giới. Ví như biển cả, tánh nó vốn tự chẳng chứa đựng tử thi, chẳng có người hay vật nào có thể khiến cho nó như thế, chẳng giống như giới Thanh Văn.

          Pháp thứ hai là do trọn đủ giới, thường được sanh trong trời người. Đây là nói người chưa đạt đến địa vị đắc Pháp Thân, đời đời thường sanh trong nhân gian hay cõi trời, được lìa chướng, thấy Phật, nghe pháp. Đấy chính là lợi ích to lớn.

 

          (Kinh) Thiện tai, đế thính, thiện tư niệm chi, ngã đương tuyên thuyết chân ngôn thành tựu lưu xuất tương ứng cú. Chư lưu xuất tương ứng cú, Chân Ngôn môn tu Bồ Đề chư Bồ Tát, tốc ư thị trung, đương đắc Chân Ngôn Tất Địa.

          ()善哉諦聽善思念之我當宣說真言成就流出相應句諸流出相應句真言門修菩提諸菩薩速於是中當得真言悉地

          (Kinh: Lành thay, lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta sẽ tuyên nói câu tương ứng với sự lưu xuất bởi chân ngôn thành tựu. Do các câu lưu xuất tương ứng ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt được Chân Ngôn Tất Địa trong ấy).

 

          Trong từ ngữ “thiện tai” (lành thay) ở đây có hai nghĩa, tức là đức Phật tán thán phẩm đức hiền thiện của các vị ấy, hoặc là [nói “lành thay”] để bảo họ hãy khéo nghe. “Lưu xuất” là như đức Phật phóng quang, trước là có chỗ phát ra, tức là các chỗ như diện môn, hào tướng (tướng bạch hào giữa hai chân mày), đỉnh đầu v.v… Phóng ra làm Phật sự rộng khắp xong, lại trở vào [chỗ phát ra quang minh ấy]. Sự lưu xuất này của chân ngôn cũng giống như thế. Hãy nên biết từ chân ngôn lưu xuất chính là “lưu xuất cái quả Tất Địa”. Chân ngôn này vốn từ công đức tự chứng của Như Lai, từ tâm địa của đức Phật mà xuất hiện, tạo tác vô lượng pháp môn, thực hiện Phật sự to lớn. Thực hiện Phật sự xong, khiến cho chúng sanh đáng được độ sẽ do môn ấy mà nhập pháp giới của Phật, nên gọi là “lưu xuất”. Vì thế, kế đó nói “do câu tương ứng ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề trong Chân Ngôn môn sẽ nhanh chóng đạt được cái quả Chân Ngôn Tất Địa”. Cái quả trong ấy chính là cái quả trí Nhất Thiết Trí chẳng thể nghĩ bàn.

         

          (Kinh) Nhược hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả, thành tựu chân ngữ, phát Bồ Đề tâm, thâm tín từ bi, vô hữu xan lận, trụ ư điều phục, năng thiện phân biệt tùng duyên sở sanh, thọ trì cấm giới, thiện trụ chúng học, cụ xảo phương tiện dũng kiện, tri thời, phi thời, hiếu hành huệ xả, tâm vô bố úy, cần tu Chân Ngôn hành pháp, thông đạt Chân Ngôn thật nghĩa, thường nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành tựu.

          ()若行者見漫羅尊所印可成就真語發菩提心深信慈悲無有慳悋住於調伏能善分別從緣所生受持禁戒善住眾學具巧方便勇健知時非時好行惠捨心無怖畏勤修真言行法通達真言實義常樂坐禪樂作成就

          (Kinh: Nếu hành giả thấy lời chân thật được bậc tôn quý trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu, sẽ phát tâm Bồ Đề, tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc, trụ trong điều phục, có thể khéo phân biệt [các pháp] từ duyên sanh ra, thọ trì giới cấm, khéo trụ trong các điều học (các tướng thành tựu), trọn đủ phương tiện khéo léo, mạnh mẽ, biết đúng thời và chẳng đúng thời, thích hành xả thí rộng rãi, tâm chẳng sợ hãi, siêng tu hành pháp Chân Ngôn, thông đạt thật nghĩa Chân Ngôn, thường thích tọa Thiền, thích tạo thành tựu).

 

          Kế đến là điều đầu tiên [trong Chân Ngôn Tất Địa], từ “nhược hành giả kiến Mạn-đồ-la tôn sở ấn khả thành tựu chân ngữ” (nếu hành giả thấy bậc tôn quý trong Mạn-đồ-la ấn khả, thành tựu lời chân thật) trở đi là nói về thứ tự trong pháp cúng dường. Trước hết, được thấy Mạn-đồ-la. Không chỉ được trông thấy mà thôi, cần phải được thầy thực hiện pháp gia trì, dẫn vào [Mạn-đồ-la] như trong phần trước đã nói. Không chỉ được vào mà thôi, [lại còn phải] theo thứ tự tu hành. Do thuận theo pháp tu hành, được A-xà-lê ấn khả, truyền pháp. Do được ấn khả, quán đảnh; kế đó, nói tới chuyện thành tựu Chân Ngôn.

          Lại nữa, trong phẩm Thế Gian Trì Tụng, trước hết là nói về cách quán viên minh, có cách niệm tụng hoàn nhiễu chân ngôn tự luân (đầu đuôi tiếp nối)[2]. Khi đó, chữ thứ nhất từ trong miệng tuôn ra, nhập vào thân, giống như hơi thở hít vào trọn khắp thân phần. Đấy là do thần lực tự tại của Như Lai gia trì. Người niệm như thế có thể trừ hết thảy nghiệp cấu của chúng sanh. [Chữ ấy] trọn khắp thân thể như thế xong, lại từ miệng [của hành giả] thoát ra, nhập vào chân Bổn Tôn, tới trọn khắp bổn xứ (tức là tưởng chữ ấy tới trọn khắp các thân phần của Bổn Tôn). Khi mỗi chữ lưu xuất như thế, từng chữ kế tiếp liên tục theo thứ tự liên hoàn chẳng ngừng. Nếu như người sơ học sợ tâm tán loạn, chẳng thể thành tựu như thế, hãy nên chỉ quán chữ chủng tử [của chân ngôn] để làm như trên, cho đến khi tâm đã quen thuộc, sẽ dần dần [quán tưởng] thêm chữ khác. Dời đoạn này thêm vào phẩm trước, như trong phần trước nói đã được thấy Mạn-đồ-la, lại được nhập vào đó, thực hiện các pháp sự cho đến quán đảnh. Đã được thọ pháp, tu hành đúng như pháp, khéo hiểu rành rẽ vô ngại pháp dụng theo thứ tự của chân ngôn, sẽ kham có thể truyền pháp, được thầy ấn khả. Chữ “tôn giả” trong chánh kinh chính là thầy.

          Lại còn có thể “phát Bồ Đề tâm”; đó chính là vì cầu nghiệp tự tại của Như Lai, phổ môn lợi ích hết thảy chúng sanh mà làm chuyện này, chẳng phải vì chuyện nào khác. “Thâm tín từ bi, vô hữu xan lận” (Tin sâu từ bi, chẳng hề keo tiếc) tức là tin tưởng sâu xa pháp rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn, quyết định chánh tín, chẳng có lòng nghi ngờ. Lại còn đối với tài và pháp, đều chẳng có lòng keo tiếc. Do tâm đại từ bi mà xót thương hết thảy, thường hành hạnh lợi tha, chẳng cầu tự lợi. “Trụ ư điều phục” (Trụ trong điều phục) tức là điều phục các căn thuộc lục tình; đấy chính là tánh giới[3]. “Năng thiện phân biệt tùng duyên sở sanh pháp” (Khéo có thể phân biệt các pháp sanh bởi duyên): Ví như gương sáng, chiếu soi hiện bóng rành rẽ các vật đối trước nó. Các pháp như thế chẳng phải là có sẵn trong gương từ trước, chẳng phải do sắc đến từ bên ngoài. Hãy nên biết hai pháp hòa hợp cũng chẳng thể sanh, nhưng rành rành hiện rõ trong ấy, chẳng thể chấp giữ, chẳng thể cầu được, mà cũng chẳng phải là có, chẳng phải là không, chỉ do các duyên hòa hợp mà có thể trông thấy. Hãy nên biết hết thảy các pháp cũng giống như thế, cho đến mười thí dụ [về duyên sanh, tức như huyễn, như hóa, như thành Càn Thát Bà v.v…] đều có thể thông đạt. Quán như thế rồi, đối với cái quả Tất Địa của chân ngôn cũng quán như thế. Tướng Tất Địa ấy do nhân duyên thuộc người trì tụng và chân ngôn của Bổn Tôn hòa hợp mà có hết thảy chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Hình tượng trong tấm gương pháp giới chẳng thể chấp trước, nhưng có đủ loại thành tựu.

          “Thọ trì cấm giới” tức là [thọ trì] giới cụ túc của Trì Minh, mỗi pháp tắc trong ấy đều khéo thọ trì. Do nhân duyên ấy, chẳng phạm tam-muội-da giới, đạt được Tất Địa thành tựu. “Thiện trụ chúng học” tức là đối với tướng thành tựu thượng, trung, hạ của các pháp trong Chân Ngôn, mỗi chuyện đáng nên học đều khéo thông đạt, tức là khéo trụ trong các pháp thượng, trung, hạ. “Cụ xảo phương tiện” (Trọn đủ phương tiện khéo léo) tức là có thể thấu hiểu tác dụng quyền biến thiện xảo của Như Lai. Như khi tu Chân Ngôn hạnh, nếu đối với pháp xuất gia và Nhị Thừa có trái phạm, chớ nên sanh mê chấp như thế này: “Ta do chuyện này mà hủy phạm giới này”. Hãy nên biết bỏ đường ác và tâm ôm ấp chuyện làm ác sẽ trở ngại sự tu sửa chánh đáng. Vì sao? Tất cả các phương tiện của Như Lai chỉ vì đại sự nhân duyên như thế đó. Nếu bảo “do chẳng trì phương tiện thuộc các giới thanh tịnh trong các thừa, sẽ trở ngại hạnh viên mãn trong Chân Ngôn” thì chẳng có lẽ ấy! Do vậy, nếu có lúc hành giả lỡ hủy phạm, hãy nên nghĩ như thế này: “Ta nay do chí cầu Vô Thượng Đại Thừa, lợi ích trọn khắp hết thảy hữu tình, mọi chuyện đều chẳng thể ổn thỏa được. Do vậy, trong ấy có trái phạm. Đợi cho đến khi ta đã thành tựu cái quả, sẽ nên hối lỗi”. Do thiện tâm ấy, sẽ chẳng phải là nhân duyên phạm giới, chẳng gọi là “phạm giới”. Ý nghĩa của “dũng mãnh” như đã nói trong phần thầy trò thuộc phần trước.

          “Tri thời phi thời” (Biết đúng thời và chẳng phải thời): Đối với mỗi thứ tự pháp dụng trong Chân Ngôn Môn, chẳng được đem phần trước ra đằng sau, chuyển đằng sau ra đằng trước! Hãy nên phần trước thì làm trước, phần nên làm sau cũng như thế, đó gọi là “đúng thời”. Cho đến đủ loại các hạnh như ăn uống, ngủ nghê, mỗi mỗi đều có tướng thời và phi thời. Như hành giả Chân Ngôn mà nếu ban ngày ngủ vùi, suốt đêm chẳng ngủ, các chuyện như thế đều chẳng phải là tam-muội-da, do chẳng hợp thời vậy! “Hiếu hành huệ xả” (Chuộng hành bố thí rộng rãi): Chân Ngôn hạnh Bồ Tát thường dùng tài thí và pháp thí để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ nhập Phật đạo. Nếu chẳng thể tùy sức làm như thế, tức là phạm Trì Minh Giới.

          “Tâm vô bố úy” (Tâm chẳng sợ hãi): Nếu ở trong đại chúng, có các chúng sanh dị giải, dị kiến, sẽ hoặc là đoạn nghi cho họ, hoặc dùng cách thử hỏi sâu hay cạn để khiến cho họ thưa hỏi. Lúc bấy giờ, [hành giả Chân Ngôn] an trụ trong pháp, dùng tâm vô úy, tâm không chấp trước, thuận theo lời hỏi để nói, khiến cho người ấy (người thưa hỏi) nhập trong chánh kiến, tâm chẳng khiếp nhược. “Cần tu Chân Ngôn hạnh pháp” (Siêng tu hạnh pháp Chân Ngôn): Trong tu hành môn, trọn chẳng gián đoạn giữa chừng, chẳng đình trệ. Nếu bỏ phế giữa chừng, sẽ chẳng phải là tướng tinh tấn, chẳng đạt được cái đáng nên đắc, sẽ thoái thất cái đã đạt được, sẽ trở ngại trong đường đạo. Vì thế, hành giả nhất tâm tinh tấn như cứu đầu cháy. Do tinh tấn, chẳng buông lung, cho đến có thể đạt được tri kiến của Phật ngay trong đời này, huống hồ các pháp trợ đạo khác. Nếu chẳng phải như vậy, sẽ là phạm pháp tam-muội-da.

          “Thông đạt chân ngôn thật nghĩa” (Thông đạt ý nghĩa chân thật của chân ngôn): Biết lý thú rất sâu trong các thành tựu thượng, trung, hạ. Trong mỗi từ ngữ, âm thanh nam, nữ v.v… từ nhập môn cho tới khi thành Phật, đều khéo phân biệt, biết các tướng thông, tắc trong đó. Vì lẽ nào vậy? Các chân ngôn ấy chính là công đức tự chứng của Như Lai, dùng đó để trang nghiêm Pháp Thân, khiến cho các chúng sanh ai nấy đều từ môn hữu duyên mà thấy Thật Tướng. Nếu lúc nhập một chữ, sẽ trọn đủ vô lượng môn công đức, chẳng hai, chẳng khác! “Thường nhạo tọa Thiền, nhạo tác thành tựu” (Thường thích tọa Thiền, thích làm pháp thành tựu): Trong Chân Ngôn môn, tâm trụ trong một cảnh mà chẳng tán loạn. Như quán chữ, quán thanh, quán chủng tử của Bổn Tôn, tùy thuộc chuyện nào, tâm cũng đều chẳng duyên theo bên ngoài, sẽ có thể đạt được thành tựu to lớn. Nếu cái tâm tán loạn, dẫu trải qua vô lượng kiếp mong cầu thành tựu, vẫn chẳng thể được! Huống hồ là ngay trong một đời này mà đạt được pháp lợi ư?

          Kế đó, nói về tướng Chân Ngôn thành tựu. Chắc là có kẻ ngờ rằng: “Trong pháp vô vi thuộc về Thật Tướng của các pháp, cớ sao cũng có đủ loại sự tướng như thế vậy?” Nay muốn khiến cho họ ngộ, bèn đáp rằng: “Chuyện ấy thật sự có, chớ nên sanh nghi”. Lại còn dùng chuyện trong thế gian để làm thí dụ!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Thí như Dục Giới hữu Tự Tại Duyệt Mãn Ý minh, nãi chí nhất thiết Dục Xứ thiên tử ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại hý tiếu, cập hiện chủng chủng tạp loại thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ dụng chi.

          ()祕密主譬如欲界有自在悅滿意明乃至一切欲處天子於此迷醉出眾妙雜類戲笑及現種種雜類受用遍受用授與自所變化他化自在天等而亦自受用之

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Ví như Dục Giới có minh chú tên là Tự Tại Duyệt Mãn Ý, cho tới hết thảy các thiên tử thuộc Dục Xứ đều mê say trong đó, hiện ra các thứ vui cười mầu nhiệm đủ loại, và hiện các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính mình biến hóa. Các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ dụng).

 

          Như trong Đại Thừa nói, Dục Giới có ba mươi sáu chỗ, tức là [tám] hàn nhiệt địa ngục, mỗi nơi đều có hai chỗ, hợp thành mười sáu chỗ. Lại có bốn đại châu, mỗi đại châu lại đều có hai tùy châu (hợp thành mười hai châu[4], cộng với [các địa ngục] trên đây thành hai mươi tám chỗ), cùng với sáu tầng trời (Tứ Vương Thiên, Đao Lợi, Đâu Suất, Dạ Ma, Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại), bàng sanh (súc sanh) và quỷ đạo (hợp thành ba mươi sáu chỗ). Tự Tại Thiên Chúa do sức của Duyệt Mãn Ý Minh này, hiện ra đủ loại các vật lạc dục nhiều hình sắc, có thể cùng lúc trọn khắp ba mươi sáu chỗ. Lại còn nói “ư thử mê túy, xuất chúng diệu tạp loại thọ dụng biến thọ dụng, thọ dữ tự sở biến hóa, Tha Hóa Tự Tại Thiên đẳng nhi diệc tự thọ dụng chi” (đều mê say trong đó, hiện ra các thứ thọ dụng đủ loại để thọ dụng trọn khắp, hoặc trao cho nhau các [thứ thọ dụng] do chính mình biến hóa, các vị Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng tự thọ dụng), [tức là] hóa hiện ra các thiên tử, thiên nữ v.v… thị hiện cảnh hữu tình và vô tình trong lẫn ngoài. Như hiện ra các thức ăn ngon lành, âm nhạc v.v… mỗi mỗi đều có thể hiện tiền thọ dụng. Nếu thấy các thân nữ sắc v.v… [chư thiên] cũng có thể tự hưởng vui ngũ dục, mỗi mỗi đều thuận theo lòng ham muốn. Do gặp cảnh ngũ dục cực diệu, tâm đều say mê, [chú ngữ của Dục Giới mà còn có tác dụng to lớn như thế], huống hồ chân ngôn của Như Lai mà chẳng thể hiện trọn khắp các sắc thân thực hiện Phật sự ư?

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La thiên hữu Thắng Ý Sanh Minh, năng tác tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh lợi ích, hóa nhất thiết thọ dụng, biến thọ dụng, thọ dữ Tịnh Cư chư thiên, diệc phục tự thọ dụng chi.

          ()又善男子如摩醯首羅天有勝意生明能作三千大千世界眾生利益化一切受用遍受用授與淨居諸天亦復自受用之

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Như Ma Hê Thủ La Thiên có minh chú Thắng Ý Sanh, có thể làm lợi ích cho chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới, hóa hiện hết thảy các thọ dụng, thọ dụng trọn khắp, [lại còn] trao cho các Tịnh Cư Thiên để họ cũng được tự thọ dụng).

 

          Như Ma Hê Thủ La thiên vương có một minh chú tên là Thắng Ý Sanh Minh. Do sức của chân ngôn này, có thể đồng thời tạo sự biến hóa to lớn, hóa hiện trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới này, vì mỗi chúng sanh hiện ra các chuyện lợi ích đáng ưa thích, để họ đều thọ dụng chân thật, chẳng dối. Lại còn hóa hiện thân Tịnh Cư Thiên và các sự thọ dụng vi diệu như trong kinh đã nói, huống hồ sức chân ngôn của Như Lai [mà chẳng có tác dụng to lớn hơn vậy] ư?

 

          (Kinh) Hựu như huyễn thuật chân ngôn năng hiện chủng chủng viên lâm, nhân vật, như A Tu La chân ngôn hiện huyễn hóa sự. Như thế chú thuật nhiếp độc, cập hàn nhiệt đẳng. Ma Đát Rị thần chân ngôn năng tác chúng sanh tật dịch tai lệ, cập thế gian chú thuật nhiếp trừ chúng độc, cập hàn nhiệt đẳng, năng biến xí hỏa nhi sanh thanh lương.

          ()又如幻術真言能現種種園林人物如阿修羅真言現幻化事如世呪術攝毒及寒熱等摩怛哩神真言能作眾生疾疫災厲及世間呪術攝除眾毒及寒熱等能變熾火而生清涼

          (Kinh: Lại như huyễn thuật chân ngôn có thể hóa hiện đủ loại vườn rừng, người, vật. Như chân ngôn của A Tu La hiện ra chuyện huyễn hóa. Như chú thuật của thế gian nhiếp trừ chất độc, bệnh hàn nhiệt v.v… Chân ngôn của thần Ma Đát Rị có thể gây bệnh dịch, tai ương cho chúng sanh, và chú thuật thế gian có thể nhiếp trừ các chất độc và bệnh hàn, nhiệt v.v…, có thể biến lửa mạnh thành mát mẻ).

 

          Hãy gác chuyện ấy lại, như huyễn thuật sư trong cõi đời còn có thể dùng chân ngôn của họ để hiện ra các thứ vườn quả và xe cộ, người, súc vật v.v… Lại như A Tu La tự có chân ngôn, có thể hiện thân giống như Đế Thích, ngồi trong Thiện Pháp Đường trên Tam Thập Tam Thiên, khiến cho hết thảy chư thiên đều sanh lòng ngờ vực, quái lạ. Lại như người đời có chân ngôn, có thể nhiếp thọ các độc, và các bệnh hàn, nhiệt. Lại có chân ngôn của Ma Đát Rị Thiên (Mātṛ)[5] có thể gây ra tật dịch to lớn cho hết thảy mọi người, cho tới trong thế gian hiện thời có người do chân ngôn mà biến lửa thành lạnh, biến băng thành nóng, huống hồ chân ngôn được thần lực tự tại của Như Lai gia trì mà chẳng thực hiện Phật sự to lớn trọn khắp pháp giới ư?

 

          (Kinh) Thị cố, thiện nam tử! Đương tín như thị lưu xuất cú chân ngôn oai đức. Thử chân ngôn oai đức phi tùng chân ngôn trung xuất, diệc bất nhập chúng sanh, bất ư trì tụng giả xứ nhi hữu khả  đắc.

          ()是故善男子當信如是流出句真言威德此真言威德非從真言中出亦不入眾生不於持誦者處而有可   

          (Kinh: Vì thế, thiện nam tử! Hãy nên tin oai đức của câu chân ngôn lưu xuất như thế. Oai đức của chân ngôn ấy chẳng phát xuất từ trong chân ngôn, cũng chẳng vào trong chúng sanh, chẳng thể có đạt được từ nơi người trì tụng).

 

          Vì thế, hãy nên sanh tín tâm, tin tưởng lực dụng và oai đức ấy chân thật chẳng dối. Người trì tụng do chưa đạt được Tất Địa, sẽ sanh tâm nghi ngờ thật sự có chuyện ấy, hay là chắc chắn chẳng có! Cái quả chẳng thể nghĩ bàn như thế, nếu dùng tâm lượng để phân biệt, sẽ trọn chẳng thấu đạt lý. Vì trừ mối nghi này, [đức Thế Tôn] liền nói các thí dụ trên đây. Nhưng oai lực của chân ngôn chẳng từ chân ngôn phát ra, cũng chẳng từ chỗ người trì tụng, cũng chẳng nhập vào thân và miệng của người được gia trì đó. Tìm cầu tánh lẫn tướng đều trọn chẳng thể được, mà có thể thực hiện hết thảy các sự thuận theo lẽ đáng nên, khéo léo thành tựu. Đấy chính là duyên khởi rất sâu. Pháp tánh từ các duyên mà có, như trăng trong nước, như hình bóng trong gương, là duyên khởi chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Chân ngôn gia trì lực cố, pháp nhĩ nhi sanh, vô sở quá việt. Dĩ tam thời bất việt cố, thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lý cố. Thị cố, thiện nam tử! Đương tùy thuận thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo.

          ()善男子真言加持力故法爾而生無所過越以三時不越故甚深不思議緣生理故是故善男子當隨順通達不思議法性常不斷絕真言道

          (Kinh: Thiện nam tử! Do sức gia trì của chân ngôn, pháp vốn sẵn như vậy mà sanh, không vượt qua. Do chẳng vượt ngoài ba thời, do lý duyên sanh rất sâu chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, này thiện nam tử! Hãy nên tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng thể nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt).

 

          Đó là nói Chân Ngôn Tất Địa vốn sẵn thành tựu. Vì lẽ nào vậy? Như Lai hiện chứng pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, tức là tự thể của chữ A từ cái gốc vốn đã sẵn trọn đủ vô lượng sức tự tại chẳng thể nghĩ bàn. Thể của Tất Địa là thường trụ bất biến, chỉ do hành nhân chẳng tự biết rõ, nên chẳng đạt được cái quả như thế. Nay dùng hạnh này để tịnh hóa thân, khẩu, ý nghiệp, nếu có thể tương ứng với pháp, sẽ tự thành tựu. Các pháp vốn tự như thế, trọn chẳng hư dối. Cái quả chẳng nghĩ bàn ấy, khi các duyên tụ hội sẽ tự sanh khởi, giống như sóng trong biển cả trọn chẳng lỡ thời. Hơn nữa, chân ngôn này, tự không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Nếu có khởi đầu và kết thúc thì sẽ có cùng tận, tức là pháp vô thường, bại hoại, sao có thể gọi là “sức tự tại của Như Lai” cho được? Do pháp thể này vượt ngoài ba đời, thường ở trong ba đời; vì thế, trong ba đời tự nhiên thường làm Phật sự, chẳng phế bỏ, chẳng lỡ kỳ hạn. Như nước trong biển cả, nếu nhằm lúc trăng tròn, tự nhiên [sóng mòi] bủa trào, chẳng lỡ thời.

          “Thậm thâm bất tư nghị duyên sanh lý” (Lý duyên sanh chẳng nghĩ bàn rất sâu): Nếu bản thể của chân ngôn trước đó đã chẳng thành tựu, sẽ chẳng thể thuận theo cảm mà ứng chẳng lỡ kỳ hạn! Tuy chân ngôn có sức ấy, nhưng nếu tâm hạnh của hành nhân chưa tương ứng, cũng sẽ chẳng thể khiến cho sự gia trì đó hiển hiện được! Nhưng duyên tụ hội sẽ tự thành; vì thế biết là chẳng từ nơi kia mà tới, chẳng từ nơi này mà đi, cũng chẳng phải ở hai nơi ấy. Vô tánh mà có duyên tụ hội thì cũng thành cái quả Tất Địa, cũng chẳng phải là tự nhiên mà có. Hãy nên biết: Đấy là cái quả pháp giới chẳng thể nghĩ bàn rất sâu! Từ duyên mà khởi, thường tự vô tánh, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu hành nhân tu hành chẳng dứt, ắt sẽ là cực quả khế hợp chí lý. Chí lý (lý cùng tột) như thế, chẳng thể do suy lường mà có thể biết rõ được. Đó là [lý do đức Phật] nêu ra các thí dụ trên đây để khuyến tín. “Thị cố, thiện nam tử! Tùy thuận thông đạt bất tư nghị pháp tánh, thường bất đoạn tuyệt chân ngôn đạo” (Vì thế, thiện nam tử! Hãy tùy thuận thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn để thường tu đạo chân ngôn chẳng đoạn tuyệt): Cái quả chân ngôn chẳng thể nghĩ bàn ấy đã chẳng do phân biệt mà có thể biết được, chẳng do thuận theo sức chấp trước hành xứ, hoặc hạnh đối trị nhỏ nhoi mà có thể thủ chứng được! Do vậy, chỉ những ai có tín lực kiên cố thì mới có thể tiến nhập! Vì thế, trước hết nêu thí dụ; kế đó, nêu ra chí lý, khuyên [thính chúng] hãy nương vào môn này, quán chí lý duyên sanh chẳng thể nghĩ bàn, thường cầu thông đạt pháp tánh chẳng nghĩ bàn như thế, tùy thuận lý ấy để tu hạnh Chân Ngôn sao cho chẳng gián đoạn, sẽ tự nhiên thành Phật. Đạo chân ngôn này chính là chỗ sanh khởi của pháp chẳng thể nghĩ bàn. Do cái nhân chẳng thể nghĩ bàn mà đạt được cái quả chẳng thể nghĩ bàn!



[1] Sở dĩ nói “Cú ở đây là Kệ” vì chánh kinh ghi “pháp cú viên mãn trí quyết định trong vô lượng môn khắp ba đời”, nhưng “pháp cú” trong đoạn này là kệ tụng.

 

[2] Tức là quán các chữ trong chân ngôn được xếp thành một vòng tròn khép kín (nên nói là “đầu đuôi tiếp nối”). Chính giữa vòng tròn ấy thường là chữ chủng tử của chân ngôn. Chẳng hạn như khi quán Lục Tự Đại Minh của Quán Thế Âm Bồ Tát, sáu chữ Om mani padme hum được xếp thành vòng tròn, mỗi chữ một màu tương ứng với một đường trong lục đạo (Chữ Om màu trắng tương ứng với thiên đạo, chữ Ma màu xanh lá cây tương ứng với A Tu La, chữ Ni màu vàng tương ứng với nhân đạo, chữ Pad màu xanh dương tương ứng súc sanh đạo, chữ Me màu đỏ tương ứng với ngạ quỷ đạo, chữ Hum màu đen tương ứng với chúng sanh trong địa ngục đạo). Chính giữa là chủng tử của đức Quán Âm là chữ Hrih màu trắng, tương ứng với Pháp Thân thanh tịnh.

 

[3] Tánh giới là một trong hai loại giới (tức tánh giới và giá giới). Tánh giới có nghĩa là các giới bắt buộc phải tuân thủ vì đó là chuẩn mực đạo đức của người tu hành. Phạm các giới ấy, sẽ khiến cho chân tánh bị che lấp, tăng trưởng phiền não, tổn hại công đức. Người phạm các giới ấy bất luận có thọ giới hay không vẫn có tội, vì các giới ấy nhằm ngăn ngừa các phiền não nẩy sanh.

 

[4] Mỗi châu trong tứ đại châu có hai tùy châu (châu nhỏ hơn phụ thuộc), nên cứ mỗi một đại châu (như Diêm Phù Đề) chẳng hạn, tính gộp chung là ba châu. Do vậy, 3x4=12.

 

[5] Tức là Thất Ma Đát Rị Mẫu, họ là bảy chị em của Diêm Vương.



(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục trụ tam thế vô ngại lực, y Như Lai gia trì bất tư nghị lực, y Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội. 

          ()爾時,世尊復住三世無礙力,依如來加持不思議力,依莊嚴清淨藏三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại trụ trong sức ba đời vô ngại, nương vào sức gia trì chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, nương vào Trang Nghiêm Thanh Tịnh Tạng tam-muội).

 

          Nương vào sức tam thế vô ngại, nương vào sức chẳng thể nghĩ bàn của Phật; ở đây, có hai loại nương cậy ấy. Tam-muội ở đây chính là chỗ y chỉ của lực dụng gia trì ba đời không chướng ngại chẳng thể nghĩ bàn. Nương vào pháp thể ấy để có thể thành tựu nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, tức là trọn khắp mười phương ba đời, lợi ích trọn khắp hết thảy các chúng sanh, thảy đều khiến cho họ rốt ráo trụ trong địa vị của trí Nhất Thiết Trí. Đấy chính là Như Lai nương vào pháp tự chứng chẳng thể nghĩ bàn, dùng vô lượng các sức định trí để tự trang nghiêm thanh tịnh. Đó chính là cái Thể của chân ngôn vậy. Đấy cũng là tạng các công đức của Như Lai, vô tận trang nghiêm, chẳng có khuyết giảm, thành tựu trọn vẹn các tướng.

 

          (Kinh) Tức thời, Thế Tôn tùng Tam Ma Bát Để trung, xuất vô tận giới, vô tận ngữ biểu, y pháp giới lực, vô đẳng lực, chánh đẳng giác tín giải, dĩ nhất âm thanh tứ xứ lưu xuất, phổ biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng, vô sở bất chí. Chân ngôn viết: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế tệ, tát bà tha, a a ám á. 

          ()即時,世尊從三摩鉢底中,出無盡界無盡語表。依法界力、無等力、正等覺信解、以一音聲四處流出、普遍一切法界、與虛空等,無所不至。真言曰:南麼薩婆怛他蘖帝驃。微濕嚩目契弊。薩婆他。阿阿闇噁。

          (Kinh: Lập tức, đức Thế Tôn từ trong Tam Ma Bát Để (Samāpatti)[1], phát ra ngữ biểu[2] vô tận của vô tận giới, nương vào sức pháp giới, sức không sánh bằng, chánh đẳng giác tín giải, dùng một âm thanh lưu xuất bốn xứ, trọn khắp hết thảy các pháp giới, giống như hư không, không đâu chẳng thấu đến. Chân ngôn rằng: - Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ mục khế tệ, tát bà tha, a a ám á).

 

          Ý nói từ chữ A phát ra ba chữ (A (âm dài), Ám, Á), [cộng với chính chữ A] thành bốn chữ. Bốn chữ ấy hợp thành một, trọn khắp hết thảy các chốn. Âm thanh của các tự môn ấy cũng trọn khắp hết thảy. “Phổ biến nhất thiết pháp giới, dữ hư không đẳng vô sở bất chí” (Trọn khắp hết thảy pháp giới, bằng với hư không, không đâu chẳng đến): Khi đức Phật trụ trong tam-muội, sanh khởi biểu nghiệp này, “biểu” () tức là nêu ra. Âm thanh ấy có thể trọn khắp hết thảy, được gọi là “chư Phật ấn khả, thành tựu”. “Ấn” có nghĩa là “tiêu biểu”, tức là ngữ biểu của Như Lai, nghĩa là từ sức tín giải của Như Lai (trong phần Tự đã giải thích điều này). Chỗ âm thanh của Thanh Văn phát ra được gọi là Môn, Thanh Văn ở đây chính là bốn chữ như A, Ám, Á v.v… Do từ chữ A ấy mà phát ra âm thanh; do vậy gọi là Môn. Chữ A ấy chính là Phật khẩu, chính là Phật tâm, chính là người nói, chính là người nghe, là sức nương vào pháp giới, là sức không gì sánh bằng để sanh khởi ngữ biểu bình đẳng, vô ngại, phát ra vô lượng âm thanh, tức là tác dụng hướng dẫn, lợi lạc trọn khắp nơi ngữ nghiệp của Như Lai. Từ tâm Như Lai, lưu xuất diệu âm bình đẳng ấy, chia thành bốn chỗ, như từ ao lớn Vô Nhiệt[3] tuôn chảy bốn con sông lớn chẳng khô cạn. Chỗ nương vào của chân ngôn này cũng giống như thế: Do một diệu âm, có thể biểu thị vô tận pháp giới, xoay vần sanh khởi, chẳng có cùng tận. “Tứ xứ” ở đây chính là bốn chữ (A, Ā, Aṃ, Aḥ), Tứ Đức, bốn màu, bốn thỏa nguyện, từ Tứ Đức trong tâm Phật mà nở xòe. Trong ấy, dùng Sự để biểu thị lý nội chứng, tức là bốn chữ bất đồng, bốn màu có công dụng khác biệt, nguyện được thỏa cũng lại bất đồng. Tứ Đức ấy phổ biến hư không giới, như hư không vô lượng, chẳng có phân biệt, lìa chính giữa và bờ mé, chẳng có cùng tận. Chân ngôn này thị hiện cũng lại giống như thế.

          Kế đó, [chánh kinh] nói trong tâm Phật chia thành bốn chỗ. Trước hết, chân ngôn nói “quy mạng hết thảy các Như Lai” (tức câu “Nam ma tát bà đát tha nghiệt đế phiêu” - Namaḥ sarvatathāgatebhyo). Câu kế đó là các thứ môn. Vi Thấp Phạ (Viśva) là “các thứ nghĩa”, mà cũng là nghĩa “hay khéo”. Mục Khế Tệ (Mukhebhyaḥ) nghĩa là môn, tức là Phổ Môn thị hiện các loại trí nghiệp xảo độ môn. Tát Phạ Tha (Sarvathā) là hết thảy. Không chỉ là thân và miệng dốc lòng lễ kính, mà thậm chí ba nghiệp cũng đều quy mạng trọn khắp. Như thân biểu thị điều chất chứa trong tâm, mỗi chi phần của thân ở bên ngoài đều lễ khắp hết thảy các đức Như Lai.

 

          (Kinh) Chánh Đẳng Giác tâm tùng thị phổ biến, tức thời, nhất thiết pháp giới chư thanh môn tùng Chánh Đẳng Giác tiêu xí chi âm, nhi hỗ xuất thanh. Chư Bồ Tát văn thị dĩ, đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất Thiết Trí ly nhiệt giả tiền, nhi thuyết tụng viết.

          ()正等覺心從是普遍,即時一切法界諸聲門從正等覺幖幟之音而互出聲。諸菩薩聞是已,得未曾有開敷眼,發美妙言音,於一切智離熱者前而說頌曰:

          (Kinh: Từ đó (từ chân ngôn đó), tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp. Ngay lập tức, hết thảy các thanh môn trong pháp giới từ âm thanh tiêu biểu cho Chánh Đẳng Giác bèn lần lượt phát ra. Các Bồ Tát nghe các âm thanh ấy xong, được mở bừng mắt chưa từng có, thốt ra âm thanh đẹp đẽ, nhiệm mầu, đối trước đấng Nhất Thiết Trí lìa nhiệt não mà nói kệ tụng rằng).

 

          Kế đó, nói về cái Thể của chân ngôn, ý nghĩa của bốn chữ A, A, Ám, Á (A, Ā, Aṃ, Aḥ) như đã nói. “Tùng thị phổ biến, Chánh Đẳng Giác tâm” (Từ [chân ngôn] ấy mà tâm Chánh Đẳng Giác trọn khắp), “tùng” là phổ biến. Tức thời, các môn âm thanh trong pháp giới từ âm thanh biểu trưng của Chánh Đẳng Giác, tức là từ Tứ Đức của chân ngôn bèn trọn khắp tâm của hết thảy chư Như Lai. Như từ một chữ sanh ra hai chữ, hai chữ sanh ra bốn chữ, bốn chữ sanh ra tám, tám sanh ra mười sáu, xoay vần vô cùng như thế. Nhưng chữ ban đầu giống như chữ thứ hai. Chữ thứ hai cũng bình đẳng chẳng sai biệt với chữ thứ ba. Bốn chữ ấy chính là cái Thể được đề cao chánh yếu trong bộ kinh này, hết thảy bí tạng đều sanh từ đó, chính là tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật. Điều này biểu thị các âm thanh hỗ tương phát ra tiếng, như trong phần trên [vừa mới nói] từ một phát ra bốn, từ bốn phát ra vô lượng chữ và âm thanh trọn khắp pháp giới. Âm thanh của mỗi chữ đều phát ra lẫn nhau, [nghĩa là] trong âm thanh của một chữ, phát ra âm thanh của hết thảy các chữ khác. Các chữ khác cũng thế. Đấy chính là tác dụng tiêu biểu của Phật. Các âm thanh chẳng nghĩ bàn ấy thông đạt lẫn nhau, biểu thị hết thảy vô lượng tự đức và tha đức của hết thảy Như Lai. Trong một âm thanh, đều phát ra vô lượng các thứ âm thanh cú nghĩa. Vì thế nói là “nhi hỗ xuất thanh” (hỗ tương phát ra tiếng). “Chư Bồ Tát kiến văn thị dĩ, đắc vị tằng hữu” (Các Bồ Tát thấy, nghe âm thanh ấy rồi, đạt được điều chưa từng có) cho nên nói là “hy hữu”. “Khai phu nhãn” (Mắt mở bừng): Khi tâm đã định thì mắt chẳng mở, chẳng nhắm. Nay thấy chuyện ấy, kinh ngạc, cho là chưa từng có, cho nên mở bừng mắt. Nay tôi riêng cho rằng: Như hoa sen chưa nở, do ánh nắng mặt trời mà được nở xòe. Tâm mục của các vị Bồ Tát này cũng thế, do Phật gia trì thị hiện, cho nên mở to. “Phát mỹ diệu ngôn âm, ư Nhất Thiết Trí ly nhiệt não giả tiền, nhi thuyết tụng viết” (Thốt ra tiếng nói đẹp đẽ, mầu nhiệm, đối trước bậc Nhất Thiết Trí đã lìa nhiệt não mà nói kệ tụng rằng), tức là đối trước các bậc đã đạt được Nhất Thiết Trí lìa nhiệt não mà ca ngợi.

 

          (Kinh) Kỳ tai Chân Ngôn hạnh, năng cụ quảng đại trí.

          ()奇哉真言行,能具廣大智。

          (Kinh: Lạ thay hạnh Chân Ngôn, trọn đủ trí rộng lớn).

          Tán thán hạnh Chân Ngôn này hết sức kỳ đặc: Từ Như Lai tâm mà có thể hiện ra Tứ Đức. Từ đấy, mỗi đức đều phát xuất vô lượng âm thanh bí diệu chẳng nghĩ bàn trọn khắp pháp giới. Mỗi âm thanh lại lần lượt phát ra hết thảy các âm thanh chẳng hai, chẳng khác, nhưng có tác dụng sai biệt để hoàn thành Phật sự, tức là biểu lộ Pháp Thân bí mật trong tạng diệu nghiêm của Như Lai trọn đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Do vậy nói “năng cụ quảng đại trí” (có thể trọn đủ trí rộng lớn). Trí ấy chẳng có ngằn mé, giống như thái hư chứa đựng muôn vàn hình tượng, cho nên nói là “quảng”. Do vậy, quảng trí tức là vô đẳng trí (trí không gì bằng), vô tỷ trí (trí khôn sánh). Do trí cú (câu trí huệ) ấy, sẽ có thể thành Phật.

 

          (Kinh) Nhược biến bố thử giả, thành Phật Lưỡng Túc Tôn.

          ()若遍布此者,成佛兩足尊。

          (Kinh: Nếu phổ biến chú ấy, thành Phật Lưỡng Túc Tôn).

 

          “Nhược biến bố thử giả” tức là đem chân ngôn ấy phổ biến trong hết thảy các thế giới, tức là môn chữ A. “Thành Phật Lưỡng Túc Tôn”: Trong chữ chân ngôn, dùng diệu âm ấy để phổ biến trong các thế giới, có thể khiến cho người nghe nhất định đắc Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế nói là “thành Phật Lưỡng Túc Tôn”.

 

          (Kinh) Thị cố, cần tinh tấn, ư chư Phật ngữ tâm, thường tác vô gián tu, tịnh tâm ly ư ngã.

          ()是故,勤精進,於諸佛語心,常作無間修,淨心離於我。

          (Kinh: Do vậy, siêng tinh tấn, với chư Phật ngữ tâm, thường tu chẳng gián đoạn, tịnh tâm lìa khỏi ngã).

 

          Có hai thứ siêng năng: Loại siêng năng trước chính là tinh tấn chẳng gián đoạn. Loại siêng năng thứ hai là thường tu chẳng gián đoạn. [Hai loại siêng năng ấy, nói theo] âm tiếng Phạn sẽ sai khác. Tức là trong tâm chân ngôn do hết thảy các đức Như Lai đã nói đó, dùng bốn chữ trên đây để khuyên các chúng sanh hãy nên lắng lòng siêng năng tu học tâm chân ngôn đã nói như thế sao cho đừng gián đoạn, thường nên dùng tâm chân ngôn ấy để tịnh cái tâm. “Tịnh” tức là tịnh trừ hết thảy các vọng nghiệp, các chướng trong và ngoài. “Ly ngã” là lìa hai món Nhân Ngã và Pháp Ngã. Hãy nên biết cái tâm ấy chính là Phật tâm. Phật tâm chính là chân ngôn tâm.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm phục thuyết thử pháp cú: - Ư Chánh Đẳng Giác tâm, nhi tác thành tựu giả.

          ()爾時,薄伽梵復說此法句,於正等覺心,而作成就者。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm lại nói pháp cú này: - Trong tâm Chánh Đẳng Giác, mà thực hiện thành tựu).

 

          Phẩm trước đã nói sự thành tựu trong thế gian giúp hành nhân đạt tới thành tựu xuất thế gian. Do vậy, ở đây nói dùng Phật tâm để làm nghiệp thành tựu xuất thế gian. “Phật tâm” tức là bốn chữ chân ngôn trên đây, tùy ý lấy một chữ nào để thực hiện cũng đều được. Thực hiện thành tựu cái quả ấy, sẽ đạt được cái quả xuất thế. “Chánh Đẳng Giác tâm” chính là chân ngôn tâm.

 

          (Kinh) Ư viên uyển, tăng phường, nhược tại nham quật trung, hoặc ý sở nhạo xứ, quán bỉ Bồ Đề tâm, nãi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ý.

          ()於園苑僧坊,若在巖窟中,或意所樂處,觀彼菩提心,乃至初安住,不生疑慮意。

          (Kinh: Nơi vườn hoa, tăng phường, hoặc nơi vách núi, hang, hoặc chỗ mình yêu thích, quán tâm Bồ Đề ấy, cho đến mới an trụ, chẳng sanh ý ngờ, lo).

 

          Muốn thực hiện pháp thành tựu ấy, hãy nên chọn nơi chốn trước. “Viên uyển” là chỗ [cây cối] do con người vun trồng, cắt xén, thì mới là viên uyển. Nếu không trồng mà tự mọc thì là đồng hoang, chẳng phải là viên uyển. “Tự” trong tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), phương này dịch là Trụ Xứ. “Quật” () là hang đá tự nhiên trong núi, hoặc do sức người đào khoét. Hoặc là chỗ hành nhân yêu thích, thì cũng là nơi thích hợp để tu đạo. Nếu nói theo ý nghĩa bí mật, “viên uyển” chính là Đại Bồ Đề tâm. Chỗ ấy rộng rãi, không gì chẳng có. Nương vào đấy để tu đạo, sẽ là chỗ tốt nhất. “Trụ” là Tứ Phạm Trụ, hoặc nói là đại bi, do hết thảy Bồ Tát thường thích trụ trong ấy. “Quật” là chỗ sâu thẳm, thanh nhàn, tức là hang Thiền Định rất sâu, sư tử là vua các loài thú cũng ngự trong đó. Hoặc “chỗ yêu thích” tức là đối với các pháp môn, tùy thuộc pháp nào thuận tiện, sẽ hệ niệm một môn mà hành, chẳng hạn như Lục Độ v.v… như kinh Bát Nhã đã nói, từ trong đó mà tùy ý tự tu.

          “Quán bỉ Bồ Đề tâm, nãi chí sơ an trụ, bất sanh nghi lự ý” (Quán cái tâm Bồ Đề ấy, cho đến khi mới an trụ, chẳng sanh ý niệm ngờ vực, lo ngại) tức là dùng tâm để quán Bồ Đề tâm của chính mình. Đấy là chánh hạnh xuất thế. Trụ trong ấy, chẳng duyên theo điều gì khác, tức là tam-muội. Ở trong pháp Quán ấy, do thường tự giác, hết thảy các lưới nghi sẽ dần dần trừ sạch, thậm chí đạt đến chỗ “không nghi ngờ”. Các mối nghi chẳng sanh, tức là thật sự trụ trong Bồ Đề tâm. Khi ấy, có đủ loại tướng mạo v.v… chớ nên sanh lòng lo ngờ, sẽ dần dần thấy Chân Thật Như. Nhưng khi hành điều đó, đại lược có hai địa vị: Một là chẳng phải là địa vị Tam-ma-hế-đa, và hai là địa vị Tam-ma-hế-đa (Samāhita, dịch là Đẳng Dẫn). Trong lúc chưa thành tựu mà đã có tướng thành tựu trước, cho đến khi sắp thành tựu, cũng có tướng sắp thành tựu. Đấy đều chẳng phải là địa vị Tam-ma-hế-đa. Tức là khi mới đạt được thành tựu thế gian, các thứ được gia trì như dược vật v.v… đều có lực dụng chẳng thể nghĩ bàn. Thậm chí [nhờ vào lực dụng của các dược vật ấy], có thể dạo chơi các cõi Phật. Tuy là tướng chưa thành tựu, mà giống như đã đạt được chuyện ứng nghiệm chẳng thể nghĩ bàn trong hiện tại. Tâm quyết định tín càng thêm tăng tấn thù thắng, được nhập vào địa vị Đẳng Dẫn. Khi hành giả mới tu phương tiện xuất thế gian quán, trước hết quán Bổn Tôn, nương vào tượng vẽ để khéo quán xong. Thoạt đầu, khi nhắm mắt bèn thấy rành rẽ; sau đó, dần dần mở mắt cũng thấy, [tướng đã quán] hiển hiện rành rẽ, chẳng bị ẩn lấp, mù mờ. Đấy chưa phải là Đẳng Dẫn. Nếu do đạt được chuyện như thế, cái tâm sanh tin tưởng, vui sướng gấp bội. Do lòng tin ấy mà cái tâm thanh tịnh, tâm sẽ dần dần chẳng chấp trước, bình đẳng bất nhị. Sự bất nhị ấy cũng trừ bỏ, chẳng có cái thấy “trung biên” (chính giữa hay bờ mé, tức là chẳng thấy có nhị biên, chẳng thấy chính mình chẳng chấp vào hai bên) sai khác, trừ các tâm duyên, vạn pháp bình đẳng. Khi đó, gọi là tướng Đẳng Chí. Do khi các tướng hiện, tuy chưa thành tựu, nhưng do vậy mà có thể dần dần được thành, nên nói “đấy chưa phải là địa vị Đẳng Dẫn” (tôi cho rằng là như thế gian chưa đạt tới môn Định thuộc mỗi địa vị vậy).

 

          (Kinh) Tùy thủ bỉ nhất tâm, dĩ tâm trí ư tâm, chứng ư cực tịnh cú. Vô cấu an bất động, bất phân biệt như kính, hiện  tiền  thậm  vi  tế.

Nhược bỉ thường quán sát, tu tập nhi tương ứng, nãi chí bổn sở tôn, tự thân tượng giai hiện.

          ()隨取彼一心,以心置於心,證於極淨句,無垢安不動,不分別如鏡,現前甚微細。若彼常觀察,修習而相應,乃至本所尊,自身像皆現。

          (Kinh: Tùy chọn một tâm ấy, đem tâm đặt nơi tâm, chứng biết câu cực tịnh. Vô cấu, an, bất động, chẳng phân biệt như gương, hiện tiền, rất vi tế. Nếu như thường quán sát, tu tập đạt tương ứng, thậm chí đức Bổn Tôn, tự thân Ngài đều hiện).

 

          Trước hết là quán Bổn Tôn đã hiện rành rẽ. Trong bốn chữ, tùy ý chọn một chữ đặt trên tâm của Bổn Tôn, chánh kinh nói điều này là “dữ tâm tương ứng” (tương ứng với tâm), tức là dùng chữ của Phật tâm để đặt trên tâm của Bổn Tôn (“Thủ tâm” chính là lấy chữ thuộc Phật tâm, đặt ở trên Phật tâm, thì gọi là “dữ tâm”). Tùy ý chọn lấy một chân ngôn tâm, tưởng đặt chân ngôn tâm nơi tâm của Bổn Tôn. Hoặc tưởng thân của chính mình là Bổn Tôn để đặt tâm chân ngôn nơi tim của chính mình. Vì thế nói là “dĩ tâm trí ư tâm” (dùng tâm chân ngôn đặt nơi tâm) v.v… Khi quán như thế, hãy quán vô cấu cực tịnh, do hết thảy Bổn Tôn nơi tâm thường là như thế. Khi quán tịnh như vậy, do chẳng duyên theo bên ngoài, an trụ bất động, chẳng phân biệt hết thảy pháp tướng để rồi nẩy sanh vọng tưởng. Khi đó, tương ứng với Quán Phật tam-muội v.v… Ví như người có con mắt thanh tịnh, đối diện gương sáng. “Gương” ở đây chính là quán sự viên minh, thanh tịnh vô cấu nơi tâm của Bổn Tôn. Nói “cực vi” tức là thoạt đầu quán chữ chủng tử sao cho cực nhỏ bé, do đó là chủng tử của tâm vậy. Trước là đã quán thấy hình tượng Bổn Tôn rồi, nơi tâm Bổn Tôn, quán cái gương sáng sạch ấy, trong gương có chữ ấy.   

Nhất tâm quán chữ ấy, tức là từ trong ấy mà được thấy hình tướng chân thật của Bổn Tôn, mà cũng là từ trong cái gương tròn sáng ấy, tự thấy thân mình. Đấy vẫn chưa phải là tướng Đẳng Dẫn. Chỉ trụ trong một cảnh như thế, chẳng bị cấu chướng lay động. Do thường tu tập như thế, khi hình bóng của chính mình hiện ra, nơi tim cũng có viên minh (vòng tròn sáng suốt thanh tịnh như cái gương) và chữ. Lúc mới quán, hễ thấy một chữ thì ba sự đều tự nhiên hiện. Lúc sau, từ trên viên minh nơi tâm, trông thấy Bổn Tôn. Nơi viên minh của Bổn Tôn, lại thấy thân mình. Soi tỏ lẫn nhau như thế chẳng có chướng ngại, gọi  là “ảnh  tượng

thành tựu”. Đấy vẫn chẳng phải là địa vị Đẳng Dẫn!

 

          (Kinh) Đệ nhị Chánh Giác cú, ư kính Mạn-noa-la, đại liên hoa vương tòa, thâm thúy trụ tam-muội.

          ()第二正覺句,於鏡漫拏羅,大蓮華王座,深邃住三昧。

          (Kinh: Câu Chánh Giác thứ hai, nơi kính Mạn-noa-la, tòa đại liên hoa vương, sâu thẳm trụ tam-muội).

 

          Thoạt đầu là quán Bổn Tôn, nay thì chỉ quán Phật. Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các hình tượng tôn thánh đều là các môn để thấy Pháp Thân. “Ư kính Mạn-noa-la, đại liên hoa vương tòa, thâm thúy trụ tam-muội”: Trong gương ấy, lại có hình tượng hang động. Quán hang động ấy rất sâu, trong đó có Như Lai ngồi lặng lẽ trong cái hang ấy.

 

          (Kinh) Tổng trì phát kế quan, vô lượng quang vi nhiễu, ly vọng chấp phân biệt, bổn tịch như hư không. Ư bỉ trung tư duy, tác nhiếp ý niệm tụng, nhất nguyệt tu Đẳng Dẫn, trì mãn nhất lạc-xoa. Thị vi tối sơ nguyệt, trì chân ngôn pháp tắc.

          ()總持髮髻冠,無量光圍繞,離妄執分別,本寂如虛空。於彼中思惟,作攝意念誦,一月修等引,持滿一落叉。是為最初月,持真言法則。

          (Kinh: Mão che tóc Tổng Trì, vô lượng quang vây quanh. Lìa vọng chấp phân biệt, vốn tịch như hư không. Tư duy ở trong ấy, nhiếp ý để niệm tụng, một tháng tu Đẳng Dẫn, trì đủ một lạc-xoa. Đó là tháng đầu tiên, trì pháp tắc chân ngôn).

 

          Ở trong ấy, quán như thế, đó gọi là “thật sự thấy Phật”. Khi thấy như thế, tưởng nơi tâm đức Phật ấy có chữ, nhất tâm tụng chữ chân ngôn ấy. Đó là một mực nhiếp ý nơi một cảnh, chẳng có một ngoại duyên nào. Tâm tâm niệm tụng, chẳng để cho người khác nghe thấy, nhưng trong Định tự nhiên có âm thanh lưu xuất như nước chảy không ngừng. Nói “một lạc-xoa”, phương này dịch [lạc-xoa] là “thấy”, nghĩa là tâm trụ nơi một duyên, hiện tiền rành rẽ. Nếu nói theo ngôn ngữ thế gian thì [lạc-xoa] sẽ là mười vạn lần. “Nhất nguyệt tụng” thì “nhất nguyệt” chính là Đẳng Dẫn viên mãn, nhập Sơ Địa. Trong bí tạng, Sơ Địa là tháng thứ nhất; đó chính là địa vị Đẳng Dẫn. Trong phần trước đã nói ba câu: “Bồ Đề tâm là chủng tử, đại bi là căn, phương tiện là sau cùng”. Ở đây nói cặn kẽ về hành pháp.

          Câu thứ hai là quán Phật trong hang sâu nơi tâm kính (cái gương nơi tâm), cho đến quán thân chính mình là Bổn Tôn. Trước hết, quán cái gương tròn sáng tròn sạch nơi tâm Bổn Tôn, trong gương có hình dạng hang đá, trong ấy có Bổn Tôn, tức là thật sự thấy Phật. Đã thấy Phật rồi, trong tâm vị Phật ấy lại có [tấm gương] tròn, sáng, viên mãn, thanh tịnh. Thoạt đầu, tâm kính cực tịnh ấy rất nhỏ bé; sau đó lớn dần, đối diện rành rành, nên nói là “hiện tiền”. Trong [tâm kính] thanh tịnh khôn sánh ấy, có chữ chủng tử. Nhất tâm chánh quán chữ chủng tử ấy, tức là tụng chữ ấy. Từ đấy trở đi, được thấy cái tâm đó, lại thấy thân chính mình giống như thể tướng của Bổn Tôn ở trong tâm Phật. Nếu quán [tâm kính] viên minh nơi tự tâm, thì cũng là [trông thấy] Như Lai Bổn Tôn ở trong ấy. Xoay vần hiển hiện lẫn nhau như thế chẳng trở ngại lẫn nhau. Bổn Tôn thanh tịnh, lìa các phân biệt. Đạt được như thế, gọi là “thấy Bồ Đề tâm”, là chủng tử Phật vừa mới thành. Đấy cũng gọi là “vừa thấy một cảnh”, nên gọi là “một lạc-xoa”. Đấy chính là pháp thừa sự trước hết trong hạnh xuất thế. Người thành tựu như thế tức là nhập Tín Địa (Đó là [giải đáp] cho câu hỏi về hành tướng của Bồ Đề tâm). Kế đó, nói “nhiếp ý” từ một đến mười cũng như thế, từ một cho đến một trăm, một ngàn, một vạn v.v… cũng đều giống hệt như nhau. Do trọn khắp nhiều lúc, sẽ có thể tự thấy trong nhiều lúc. Tiếng Phạn gọi là Tam-ma-hế-đa, có nghĩa là Đẳng Dẫn, cũng chính là ý nghĩa “nhiếp tâm nơi một cảnh”, tức là ý nghĩa “nhất tâm” vậy.

 

          (Kinh) Thứ ư đệ nhị nguyệt, phụng đồ hương, hoa đẳng, nhi dĩ tác nhiêu ích, chủng chủng chúng sanh loại. Hựu phục ư tha nguyệt, khí xả chư lợi dưỡng.

          ()次於第二月,奉塗香花等,而以作饒益,種種眾生類。又復於他月,捨棄諸利養。

          (Kinh: Kế đó, tháng thứ hai, dâng hương bôi, hoa thảy, để làm chuyện lợi ích, cho các loài chúng sanh. Lại ở trong tháng khác, vứt bỏ các lợi dưỡng).

 

          Như hạnh thế gian trong phần trước, cũng có nói “cúng dường hương bôi, hoa” v.v… Ở đây lại nhắc tới, nhưng có ý nghĩa khác với phần trước. Do ở đây, [hành nhân] đã đắc Đẳng Dẫn, do thanh tịnh, điều nhu, chuyện gì cũng đều có thể thành tựu. Hễ dâng một hương, liền có thể đúng như thật trọn khắp pháp giới, trọn khắp hết thảy chúng sanh giới, làm đủ loại lợi ích, chuyện gì cũng đều thành tựu. Như phẩm Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm đã nói rộng tướng này. Giống như hương, hoa, hễ làm hết thảy điều gì, cũng lại giống như thế, không gì chẳng thực hiện thành tựu Phật sự to lớn. Lại nữa, [kinh văn nói] “tha nguyệt” (tháng khác), tức là ở đây, thực hành hai tháng, đã đạt tới Sơ Địa, liền vứt bỏ các lợi dưỡng. Hiểu theo mặt văn tự, tức là lìa bỏ các chuyện thuộc tám pháp nghịch thuận, vì chúng gây trở ngại cho đạo.

          Nếu nói theo ý nghĩa bí mật, đấy là bậc đại Bồ Tát gieo thiện căn to lớn, quả báo [của thiện căn ấy] vô tận, chẳng hiện, đạt được của báu công đức là vô lượng pháp môn, nhưng chớ nên sanh chấp trước trong ấy. Nếu sanh tâm chấp trước lợi dưỡng, sẽ chẳng nhanh chóng nhập chánh vị. Vì thế, cần phải bỏ lợi dưỡng ấy! Lúc đó, hành giả lại nên đúng như lý tư duy, từ ngay cái Bồ Đề tâm ấy mà phát bi nguyện, nhiếp theo lý để khởi lên. Vì thế nói là “như lý tư duy” (suy nghĩ đúng như lý). Ý nghĩa “tư duy” trong ấy chính là “ta sẽ tư duy tương ứng lý như thế để được tự tại”.

 

          (Kinh) Thời, bỉ ư Du Già, tư duy nhi tự tại, nguyện nhất thiết vô chướng, an lạc chư quần sanh.

          ()時,彼於瑜伽,思惟而自在。願一切無障,安樂諸群生。

(Kinh: Khi ấy, trong Du Già, tư duy được tự tại, nguyện hết thảy chẳng chướng, an lạc các quần sanh).

 

          Đấy chính là phát ra bi nguyện quyết định. Cớ sao chúng sanh cùng có giác tánh như thế mà chẳng tự thấu hiểu, phải hứng trọn đại khổ não? Liền sanh tâm đại dũng mãnh, phải nên dùng vô số phương tiện để thành tựu [các chúng sanh ấy], nhất định sẽ đều khiến cho [các chúng sanh] đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí, trừ khử hết thảy cấu chướng, khiến cho chẳng còn sót.

 

          (Kinh) Nhạo dục thành Như Lai, sở xưng tán viên quả.

          ()樂欲成如來,所稱讚圓果。

          (Kinh: Ưa muốn thành Như Lai, viên quả đáng ca ngợi).

          Tức là Như Lai vô lượng tri kiến, rốt ráo thành tựu phương tiện quyền biến mầu nhiệm, khéo độ chúng sanh. Nếu chẳng đạt được điều ấy, sao có thể do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời? Ta sẽ mau chóng thành tựu phương tiện mầu nhiệm được chư Phật khen ngợi như thế!

 

          (Kinh) Hoặc mãn túc nhất thiết, hữu tình chúng hy nguyện, ứng lý vô chướng cái, nhi sanh thị phan duyên.

          ()或滿足一切,有情眾希願,應理無障蓋,而生是攀緣。

          (Kinh: Hoặc thỏa hết thảy nguyện, của hữu tình chúng sanh, đúng lý, chẳng ngăn chướng, nẩy sanh các nắm níu).

 

          Chẳng có chướng ngại như thế, dùng sự phan duyên (nắm níu) như thế để niệm tụng. Dùng công đức của ta để dẹp tan hết thảy các khổ. Dùng tâm đại bi để thỏa mãn hết thảy mong nguyện của chúng sanh, cũng có thể thành tựu chuyện dẹp trừ nỗi khổ to lớn của họ, ban cho niềm vui trong hiện tại. Vì lẽ nào vậy? Do tự tâm của hành giả chẳng có cấu chướng, tức là có năng lực và thế lực to lớn. Lại vì chúng sanh mà tùy phần trừ chướng, do không có nhân duyên gây chướng ngại giữa người khác và ta, liền có thể bất cứ chuyện gì cũng đều thành tựu. Đây chính hạnh nguyện Phổ Hiền. Tướng ấy như thế nào? Tức là sanh nguyện đại bi như thế đó.

 

          (Kinh) Bàng sanh tương đạm thực, sở hữu khổ vĩnh trừ. Thường linh chư quỷ giới, ẩm thực giai sung mãn. Địa ngục trung thọ khổ, chủng chủng chư sở độc, đương nguyện tốc trừ diệt. Dĩ ngã công đức cố, cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn, tam chủng gia trì cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm tụng trì chân ngôn.

          ()傍生相噉食,所有苦永除。常令諸鬼界,飲食皆充滿。地獄中受苦,種種諸楚毒,當願速除滅,以我功德故。及餘無量門,數數心思惟,發廣大悲愍,三種加持句,想念於一切,心誦持真言。

          (Kinh: Bàng sanh ăn nuốt nhau, tất cả khổ mãi trừ. Thường khiến các quỷ giới, uống ăn đều sung mãn. Chịu khổ trong địa ngục, đủ loại khổ sở ngặt, đều nguyện mau trừ diệt. Do công đức của tôi, và vô lượng môn khác, tâm nhiều lượt tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia trì, nghĩ tưởng đến hết thảy, tâm tụng trì chân ngôn).

 

          Do ta đã sanh khởi vô lượng phước thù thắng, trong tháng khác, tức là tháng thứ ba đã xả lợi dưỡng. Đối với trong và ngoài, đều chẳng tham chấp, thì gọi là “xả lợi dưỡng”, nhưng đối với chuyện bên ngoài, chẳng cầu, chẳng nhận bố thí. Xả lợi dưỡng, nhưng chẳng xả chúng sanh, do hạnh chân ngôn mà đều được thành tựu. “Cập dư vô lượng môn, sổ sổ tâm tư duy, phát quảng đại bi mẫn. Tam chủng gia trì cú, tưởng niệm ư nhất thiết, tâm trì tụng chân ngôn” (Cùng vô lượng môn khác, nhiều lượt tâm tư duy, phát bi mẫn rộng lớn. Ba loại câu gia trì, nghĩ tưởng tới hết thảy, tâm trì tụng chân ngôn): Các bi nguyện ấy cũng có vô lượng thứ, chẳng thể do trì tụng trong tháng đầu tiên và tháng thứ hai mà cũng nói là “có thể phát nguyện như thế”. Nhưng trong hai tháng đầu, do tâm tín giải mà thực hiện, nhưng chưa thể thành tựu. Tháng thứ ba, sở nguyện đều thành; do vậy, hồi hướng cho mình lẫn người khác. Nếu lúc hành giả Chân Ngôn hiểu ý, tùy theo sự mà làm, nhiều lượt dùng nước đại bi để gột rửa cái tâm như thế, dần dần khiến cho tâm Bồ Đề này có oai thế to lớn. Cho tới địa vị thứ mười một trở đi, lực dụng dần dần tăng trưởng, đều do điều này viên mãn. Tháng thứ nhất là Bồ Đề tâm, tháng kế đó là quán hình tượng của Phật thì gọi là “câu Chánh Giác”. Tháng thứ ba, trụ trong Chân Ngôn, lìa hết thảy các tướng, gọi là “tháng thứ ba”, cũng gọi là “ba lạc-xoa”. Lại do được gia trì rộng lớn, tức là thần lực gia trì của Như Lai do ba câu mà được thành.

 

          (Kinh) Dĩ ngã công đức lực, Như Lai gia trì lực, cập dữ pháp giới lực, châu biến chúng sanh giới.

          ()以我功德力,如來加持力,及與法界力,周遍眾生界。

          (Kinh: Do sức công đức tôi, sức Như Lai gia trì, cùng với sức pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới).

 

          Nay do muốn hành Như Lai sự, bèn suy tưởng, tâm niệm ba câu ấy. Vì thế, kinh nói: “Dĩ ngã công đức lực, Như Lai gia trì lực, cập dữ pháp giới lực, châu biến chúng sanh giới” (Dùng sức công đức của tôi, sức gia trì của Như Lai, cùng với sức pháp giới, trọn khắp chúng sanh giới). Ba câu này hòa hợp, bèn có sức gia trì rộng lớn sanh khởi. Niệm như thế rồi, hãy nên tụng niệm câu này. Đấy chính là hết thảy chân ngôn tâm. Dùng công đức của ba câu, tùy ý lấy hoa, hương v.v… dùng tâm niệm gia trì, như đối với hoa bèn dùng Hoa Chân Ngôn, đối với hương bèn dùng Hương Chân Ngôn để gia trì, cho đến dẹp khổ ban vui trong hết thảy mọi nơi, dâng hiến Phật, Bồ Tát v.v… sẽ đều được thành. Nếu chẳng dùng bổn chân ngôn (tức Hoa chân ngôn khi dâng hoa, Hương chân ngôn khi dâng hương v.v…) để gia trì, mà dùng minh phi [sẽ được nói] trong phần sau thì cũng thành tựu, do sức công đức của ta trọn khắp chúng sanh giới, do sức gia trì của Như Lai, do sức pháp giới bình   đẳng.

 

          (Kinh) Chư niệm cầu nghĩa lợi, giai tất nhiêu ích chi. Bỉ nhất thiết như lý, sở niệm giai thành tựu.       

          ()諸念求義利,皆悉饒益之。彼一切如理,所念皆成就。

          (Kinh: Các niệm cầu nghĩa lợi, thảy đều tạo lợi ích. Hết thảy đúng như lý, sở niệm đều thành tựu).

 

          Do trụ trong lý, tùy theo điều [hành nhân] hệ niệm mà thành tựu. Cho đến trừ khổ, khổ liền trừ diệt v.v... Do sức công đức của ta, do sức gia trì của Như Lai, do sức pháp giới bình đẳng, do ba duyên ấy hòa hợp, sẽ có thể thành tựu nghiệp chẳng thể nghĩ bàn. Làm như thế, hãy nên biết là rộng tương ứng với lý, nên nói là “đương đắc như lý” (sẽ được đúng như lý). Do sức bằng với hư không, chân ngôn Hư Không Tạng Minh Phi sẽ được nói tiếp đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Như Lai phục thuyết Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi chân ngôn viết:

          ()爾時,如來復說虛空等力虛空藏轉明妃真言曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Như Lai lại nói chân ngôn Hư Không Đẳng Lực Hư Không Tạng Chuyển Minh Phi rằng). 

         

          Như hư không chẳng thể phá hoại, hết thảy chẳng thể thắng được, nên gọi là Hư Không Đẳng Lực (sức bằng với hư không). Hơn nữa, Tạng là như người có kho báu lớn, thí cho người mong muốn, họ tự tại lấy mà [người bố thí] chẳng bị nghèo thiếu. Hư không tạng của Như Lai cũng lại giống như thế, hết thảy chuyện lợi lạc chúng sanh đều từ trong đó sanh ra vô lượng pháp bảo, tự tại thọ dụng, chẳng có tướng cùng kiệt, cho nên gọi là Hư Không Tạng. Chuyển Thuận Minh: “Chuyển thuận” nghĩa là “có thể sanh ra”. Tạng này có thể sanh ra hết thảy các Phật sự. Như bi nguyện đã phát trước đó, tức là như khi dùng một bông hoa cúng dường, vận tâm tưởng trọn khắp hết thảy chư Phật và phàm, thánh, đều cùng cúng dường xong, liền hồi hướng trí Nhất Thiết Trí, thỉnh rằng: “Các vị đã tiếp nhận con cúng thí. Nguyện do sức này, sẽ khiến cho con đạt được các nguyện như trên”. Nguyện như thế xong, dùng chân ngôn này để gia trì, không gì chẳng thành tựu. Trước hết là kính lễ hết thảy các đức Như Lai.

 

          (Kinh) Nam ma tát phạ đá tha nghiệt đế phiêu, vi thấp phạ, mục khiết tệ (xảo môn đẳng, diệc thị chủng chủng môn đẳng dã), tát phạ tha (nhất thiết dã) khiếm (không dã, thông thượng, ngôn Nhất Thiết Trí Không dã. Thử thị chủng tử tự dã) ổ đặc yết để (sanh dã) tát phán ra hê môn (phổ biến dã), già già na kiếm (hư không dã), sa ha. Trì thử tam chuyển, tùy bỉ sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu.

          ()南麼薩嚩怛他蘖帝鏢。微濕嚩目喫弊(巧門等,亦是種種門等也)。薩嚩他(一切也)。欠(空也,通上言一切智空也,此是種子字也)。鄔特揭底(生也)。薩泮囉醯門(普遍也)。伽伽那劍(虛空也)。莎訶。持此三轉,隨彼所生善願皆亦成就。

          (Kinh: Nam ma tát phạt đá tha nghiệt đế phiêu (Namaḥ sarva-tathāgatebhyo). Vi thấp-phạ mục khiết tệ (viśvamukhebhyaḥ, môn hay khéo, cũng là các thứ môn), tát phạ tha (sarvathā, hết thảy) khiếm (khaṃ, không, thông với Nhất Thiết Trí Không trong phần trên. Đây là chữ chủng tử). Ổ đặc-yết để (udgate, sanh), tát-phán ra hê môn (sphara-hīmaṃ, phổ biến), già già na kiếm (gaganakaṃ, hư không), sa ha (svāhā). Trì minh chú này, ba lượt chuyển, các thiện nguyện sanh bởi đó cũng đều được thành tựu).

 

          Đây là ý nghĩa Hư Không Đẳng Lực của Hư Không Tạng, giống như hết thảy các pháp đều từ Không mà sanh ra các vật trọn khắp hết thảy hư không. “Trì thử tam chuyển” (Trì minh chú này, ba lượt chuyển) tức là dùng một hoa để dâng hiến, không gì chẳng trọn khắp pháp giới. Trên là hiến cúng hết thảy thánh hiền, dưới là thí cho hết thảy hữu tình. “Tùy bỉ sở sanh thiện nguyện, giai diệc thành tựu” (Bất cứ thiện nguyện nào sanh bởi đó cũng đều thành tựu) tức là dùng chân ngôn này để gia trì, [hết thảy các thiện nguyện] đều được thành tựu. Như từ trong kho, tự lấy vật báu, không gì chẳng tùy tâm. Nếu tụng minh chú này ba lượt, hễ nghĩ đến chuyện gì, chuyện ấy cũng thành tựu. Phàm thứ dâng cúng như hoa, hương v.v… do ba sức hồi hướng, lại dùng minh chú gia trì, hết thảy đều tùy ý mà thành. Có nghĩa là dùng Bi hoa để dâng lên hết thảy chư Phật, sẽ tự tại thành tựu.

 

          (Kinh) Hành nhân ư mãn nguyệt, thứ nhập tác trì tụng.

          ()行人於滿月,次入作持誦。

          (Kinh: Hành nhân ngày trăng tròn, kế đó, vào trì tụng).

         

          Trước đó đã cúng dường, thừa sự xong, đã đạt được tướng thành tựu. Do tướng trên đây, sau đó mới trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt, thực hiện pháp trì tụng, tức là [thực hiện] vào ngày trăng tròn.

 

          (Kinh) Sơn phong, ngưu lan trung, hàn lâm hoặc hà châu, tứ cù, độc thụ hạ, Mang-đát-rị thiên thất.

          ()山峯牛欄中,寒林或河洲,四衢獨樹下,忙怛哩天室。

          (Kinh: Đỉnh núi, trong chuồng bò, rừng lạnh, hoặc bãi sông, ngã tư, cội cây lẻ, miếu thờ Mang-đát-rị[4]).

 

          Tùy theo chuyện thượng, trung, hạ, mà thực hiện pháp thành tựu. Thượng sự thì [làm trên] đỉnh núi, trung sự thì làm ở chỗ nhốt trâu, bò, hạ sự thì làm trong rừng, hoặc bến sông, cho tới ngã tư, miếu thờ trời v.v… đều có thể áp dụng cho các pháp thượng, trung, hạ thành tựu. Hoặc tùy ý ở chỗ ưa thích mà làm, ở các chỗ như đỉnh núi v.v… mà tạo Mạn-đồ-la.

 

          (Kinh) Nhất thiết kim cang sắc, nghiêm tịnh đồng kim cang, bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn.

          ()一切金剛色,嚴淨同金剛,彼中諸障者,攝伏心迷亂。

          (Kinh: Hết thảy kim cang sắc, nghiêm tịnh như kim cang. Kẻ gây chướng trong đó, nhiếp phục, tâm mê loạn).

 

          Nơi tầng thứ nhất, giáp vòng đều vẽ hình chày kim cang. Cái đàn ấy được làm gồm ba lớp, đều dùng [hình chày] kim cang làm ranh giới. Thần thủ hộ các phương, chư Phật, Bồ Tát v.v… sẽ được nói trong phần sau; ở đây chưa nói phân biệt. Trong ấy, xếp đặt các vị tôn thánh, nói chung là giống như đã liệt kê trong phần trước, chỉ dùng thêm hình chày kim cang đặt liên tiếp để làm ranh giới là khác biệt mà thôi! Nói “nhất thiết kim cang sắc” (hết thảy màu kim cang) tức là vẽ hình chày kim cang vòng quanh để làm ranh giới, đều vẽ sao cho thanh tịnh, chẳng sai sót. “Chẳng sai sót” tức là [hình vẽ] viên mãn, chỉnh tề, đoan nghiêm, đẹp đẽ. “Nghiêm tịnh đồng kim cang”: Các hình chày kim cang giáp vòng như thế đều có màu vàng. Ở đây, có ba sự giống như kim cang: Sắc đồng kim cang, thể đồng kim cang, danh đồng kim cang. Vì thế nói “nghiêm tịnh đồng kim cang” tức là thanh tịnh giống như kim cang. Nói “bỉ trung chư chướng giả, nhiếp phục tâm mê loạn” (kẻ gây chướng ở trong ấy sẽ bị nhiếp phục, tâm mê loạn), do ba sự ấy giống như kim cang, không gì có thể phá hoại được, không thể thắng được, không thể hàng phục được. Do tạo kim cang giới trọn đủ nghiêm tịnh như thế, khiến cho những kẻ gây chướng đều bị mê hoặc, chẳng dám quấy nhiễu. Đã được lìa chướng, tức là dược vật dùng làm pháp thành tựu đều được thành tựu.

 

          (Kinh) Tứ phương tương châu táp, nhất môn cập thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết tương ứng.

          ()四方相周匝,一門及通道,金剛互連屬,金剛結相應。

          (Kinh: Bốn phương đều giáp vòng, một cửa thông lối đi, kim cang xếp liên tiếp, tương ứng kim cang kết).

 

          Kinh nói: “Tứ phương tương châu táp” có hai nghĩa, tức là làm đàn tràng có hình vuông ngay ngắn, và kim cang ấn (hình chày kim cang) cũng được đặt khắp bốn phía [của đàn] ứng với bốn mặt. Nói “nhất môn cập thông đạo, kim cang hỗ liên thuộc, kim cang kết tương ứng”: “Kim cang kết” nghĩa là xếp đặt chày kim cang giáp vòng như trên, đều là đặt liên tiếp nối đầu nhau; đó chính là ý nghĩa “kim cang kết”. Xếp đặt sao cho cửa và “duyên” tương ứng (“duyên” là như trong phần trên đã nói: Mở một đường trống để thông với bên ngoài), tức là cái cửa ấy tương ứng với từng sự. Thượng thành tựu thì cửa mở hướng về phía Đông. Trung thành tựu thì mở cửa về hướng Bắc hoặc Tây. Hạ thành tựu thì mở cửa về hướng Nam. Ranh giới [của cái cửa ấy] tiếp nối với [ranh giới do các chày] kim cang [hợp lại bao quanh đàn tràng], cũng là ý nghĩa kim cang.

         

          (Kinh) Môn môn nhị thủ hộ: Bất Khả Việt, Tương Hướng, nghĩ thủ nhi thượng chỉ, châu mục, phẫn nộ hình. Ân cần họa ngung giác, Thâu-la diễm quang ấn. Trung diệu kim cang tòa, phương vị chánh tương trực. Kỳ thượng đại liên hoa, bát diệp tu nhụy phu.

          ()門門二守護,不可越相向,擬手而上指,朱目奮怒形,慇懃畫隅角,輸羅焰光印,中妙金剛座,方位正相直,其上大蓮華,八葉鬚蘂敷。

          (Kinh: Mỗi cửa hai thủ hộ: Bất Khả Việt (Durdharṣa), Tương Hướng (Abhimukha). Giơ tay chỉ lên trên, mắt đỏ, dáng phẫn nộ. Cẩn trọng vẽ các góc, ấn Thâu-la rực lửa. Giữa: Tòa diệu kim cang. Phương vị đều ngay ngắn. Trên đặt hoa sen lớn, tám cánh, phô tuy nhụy).

 

          Để làm vật thành tựu, thủ hộ là quan trọng nhất. Coi chuyện thủ hộ cửa là trọng yếu, tức là như trong phần trước đã nói: “Oai quang nan thị cập, Tương Hướng thủ môn giả” (Oai quang khó thể nhìn ngó, hai vị Tương Hướng canh giữ cửa). Mỗi mỗi tướng đều là ấn (ấn sẽ được nói ở phần sau), cả hai [vị thủ hộ cửa ấy] đều là sắc trắng và đỏ, có hình dạng tột bậc phẫn nộ. “Ân cần họa ngung giác, Thâu La diễm quang ấn” (Cẩn trọng vẽ hình ấn Thâu-la có quang minh như ngọn lửa cháy rực [bao quanh] ở mỗi góc đàn), [Thâu-la (Śūla)] tức là chày kim cang một nhánh, chỉ đặt ở các góc đàn, có vầng sáng hình ngọn lửa. “Trung diệu kim cang tòa, phương vị chánh tương trực, kỳ thượng đại liên hoa, bát diệp tu nhụy phu” nghĩa là: Chính giữa Mạn-đồ-la, đặt tòa kim cang yết-ma chữ thập[5], sao cho [các đầu mũi nhọn của chày kim cang] đối diện trực tiếp với bốn phương. Trên đó, vẽ hoa sen lớn có tám cánh và các tua nhụy (làm bằng chất kim cang). Đấy chính là kim cang tòa, vì thế nói “giống như kim cang”.

 

          (Kinh) Đương kết Kim Cang Thủ, kim cang chi huệ ấn. Khể thủ nhất thiết Phật, sổ sổ kiên thệ nguyện, ưng hộ trì thị xứ, cập tịnh chư dược vật.

          ()當結金剛手,金剛之慧印,稽首一切佛,數數堅誓願。應護持是處,及淨諸藥物。

          (Kinh: Nên kết Kim Cang Thủ, tức Kim Cang huệ ấn. Đảnh lễ hết thảy Phật, thệ nguyện nhiều lượt vững. Nên hộ trì nơi đó, tịnh hóa các dược vật).

 

          Hãy nên kết Kim Cang Ngũ Cổ Ấn của ngài Kim Cang Thủ, nên nói là “kim cang tam-muội huệ kim cang ấn”. Nói “khể thủ nhất thiết Phật” (đảnh lễ hết thảy Phật), [nghĩa là] ở ngay nơi sẽ thủ hộ dược vật, hoặc tác tịnh, trong khi làm lễ, hãy nên phát ra bi nguyện rộng lớn như trên đã nói. “Sổ sổ kiên thệ nguyện” (Nhiều lượt phát thệ nguyện vững vàng) tức là tự thệ vận tâm, thệ nguyện rộng khắp, chẳng vì chính mình, vì hết thảy chúng sanh mà thành tựu dược vật ấy. Nguyện do sức gia trì sẽ khiến cho mau chóng thành tựu, vì vật ấy được thành tựu, sẽ có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. “Ưng hộ trì thị xứ, cập tịnh chư dược vật” (Hãy nên hộ trì nơi ấy, và tịnh trị các dược vật): Có nhiều pháp, trong Quảng Bổn có nói. Phàm khi thực hiện pháp thành tựu dược vật, cần phải hiểu thứ tự của pháp dụng. Dẫu cầu thành tựu dược vật để chính mình sử dụng thì vẫn có phương quỹ (方軌: pháp tắc, khuôn khổ, nghi thức), cho đến tác hộ (gia trì để thủ hộ), tác tịnh (tịnh trị bản thân và vật cúng dường, vật muốn làm pháp thành tựu) đều có thứ tự pháp dụng và cách tẩy rửa v.v… Trong kinh này không nói cặn kẽ, cần phải tìm hiểu thêm [từ các kinh khác] (hoặc dùng theo phương cách đã nói trong kinh Tô Tất Địa v.v…)

          (Kinh) Ư thử thời trì tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc ư trung dạ phần, hoặc ư nhật xuất thời, bỉ dược vật đương chuyển, viên quang phổ huy diễm. Chân Ngôn giả tự thủ, du bộ ư đại không, trụ thọ đại oai đức, ư sanh tử tự tại. Hành ư thế gian đảnh, hiện chủng chủng sắc thân.

          ()於此時持誦,清淨無障礙。或於中夜分,或於日出時。彼藥物當轉,圓光普暉焰,真言者自取,遊步於大空,住壽大威德,於生死自在,行於世界頂,現種種色   身。

          (Kinh: Lúc bấy giờ trì tụng, thanh tịnh vô chướng ngại. Hoặc vào lúc giữa đêm, hoặc khi mặt trời mọc, dược vật ấy sẽ chuyển, viên quang rực sáng khắp. Chân Ngôn giả tự lấy, dạo bước trên hư không, sống lâu, oai đức lớn, tự tại trong sanh tử. Đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân).

 

          Tướng thành tựu có thượng, trung, hạ. Nếu đạt được thành tựu vô chướng ngại, thượng thành tựu có ba tướng chuyển, tức là đầu đêm thì sanh ra hơi ấm, giữa đêm khói bốc lên, tới canh năm thì có ngọn lửa xuất hiện. Trung thành tựu thì có hai tướng, ngoại trừ tướng ngọn lửa xuất hiện. Hạ thành tựu chỉ có một tướng, tức là chỉ sanh ra hơi ấm. “Chuyển” tức là từ ít mà được nhiều, từ hơi ấm mà có ngọn lửa v.v… Đã được thành tựu, “Chân Ngôn giả tự thủ, du bộ ư đại không” (Hành giả Chân Ngôn tự lấy [dược vật ấy], bước đi trên không trung), [tức là hành giả] hoặc ăn, hoặc bôi, chấm [dược vật lên thân] v.v… sẽ tự tại dạo trong các cõi Phật, từ cõi này sang cõi khác. “Trụ thọ, đại oai đức”: Liền được thọ trọn vô lượng kiếp số, oai quang tự tại. “Ư sanh tử tự tại” tức là đủ thứ tự tại trong sanh tử. Đó gọi là “chân Phật tử” (“đi trên thế giới” (chánh kinh ghi là “hành ư thế giới đỉnh”) tức là đi qua các thế giới). Vật đã thành tựu rồi, dùng Kim Cang Ấn để thủ hộ tự thân, thủ hộ Bổn Tôn, thủ hộ vật [thành tựu ấy] rồi mới lấy, chia thành năm phần, tức là thầy, tiên nhân đã thành tựu trước, trợ bạn (người giúp đỡ, phụ tá), chính mình, và Phật. Vật được sanh thêm từ đó, nên dùng cho Tam Bảo. Vật thành tựu trước, nếu có tiên nhân đến lấy, hãy nên cho họ. Nếu chẳng đến lấy, chia thành hai phần: Một phần cho trợ bạn, một phần cho chính mình. Vật dành cho thầy, nếu thầy ở phương khác, hãy nên giữ lấy, đợi thầy đến sẽ đưa cho. Nếu thầy chẳng còn, hãy [dùng vật ấy] làm công đức nơi thầy sanh ra. Những thứ [dùng làm vật thành tựu] như đao v.v… chẳng thể chia, cũng nên lắng lòng tưởng chia sẻ. Từ đầu đến cuối, đều dùng Kim Cang để tự thủ hộ và thủ hộ vật cho đến lúc lấy. Nói “hành ư thế giới đảnh, hiện chủng chủng sắc thân” (đi trên đỉnh thế giới, hiện đủ loại sắc thân) tức là vì các chúng sanh mà làm Phật sự to lớn. Cúng dường thuốc cũng có phương pháp, tức là dâng hiến.

 

          (Kinh) Cụ đức cát tường giả, triển chuyển nhi cúng dường. Chân ngôn sở thành vật, thị danh vi Tất Địa. Dĩ phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt.

          ()具德吉祥者,展轉而供養,真言所成物,是名為悉地。以分別藥物,成就無分別。

          (Kinh: Bậc đủ đức cát tường, xoay vần để cúng dường. Vật do chân ngôn thành, được gọi là Tất Địa. Do phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt).

 

          Đã được thành tựu, mang [vật thành tựu ấy] tới mười phương, tùy ý dâng lên mười phương Phật. Đối với chư Phật, A-xà-lê, và trợ bạn, đều có phương pháp để phân chia, hãy nên thưa hỏi [để làm cho đúng pháp tắc]. “Chân ngôn sở thành vật, thị danh vi Tất Địa” (Vật được thành tựu bởi chân ngôn, đó gọi là Tất Địa): Nếu đạt được thành tựu như thế thì gọi là “thành tựu có phân biệt”. Do vì các sự như dược vật ấy, vẫn là pháp có tướng thành tựu, nên gọi là “thành tựu có phân biệt”. “Dĩ phân biệt dược vật, thành tựu vô phân biệt” (Do phân biệt dược vật, thành tựu chẳng phân biệt): Do có phân biệt mà đạt được thành tựu vô phân biệt. Cái có thể phân biệt làm nhân, nương vào cái “có phân biệt” đó mà đạt được cái quả vô phân biệt. Cái quả vô vi, vô tướng, vô nhiễm chẳng thể nghĩ bàn tuy chẳng do cái nhân mà thành, nhưng do có phân biệt để làm nhân mà thành tựu cái quả vô đắc, vô vi này.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhất thiết thế giới chư hiện tại đẳng Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, bỉ Như Lai tri nhất thiết phân biệt bổn tánh Không, dĩ Phương Tiện Ba La Mật Đa lực cố, nhi ư vô vi dĩ hữu vi vi biểu, triển chuyển tương ứng, nhi vị chúng sanh thị hiện biến pháp giới.

          ()祕密主!一切世界諸現在等如來、應、正等覺,通達方便波羅蜜多,彼如來知一切分別本性空,以方便波羅蜜多力故,而於無為以有為為表。展轉相應 ,而為眾生示現遍法界。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuộc hiện tại trong hết thảy các thế giới, thông đạt Phương Tiện Ba La Mật Đa, các đức Như Lai ấy biết bổn tánh của hết thảy phân biệt là Không, do sức của Phương Tiện Ba La Mật Đa, trong vô vi dùng hữu vi để biểu thị, xoay vần tương ứng, vì chúng sanh thị hiện trọn khắp pháp giới).

 

          Tức là cái quả vô vi, do phương tiện hữu vi mà có thể thành tựu chuyện ấy chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại, vị lai, quá khứ tam thế Phật, đều do thông đạt Phương Tiện Ba La Mật mà nói pháp này; đó là một. Nêu lên tam thế Phật, muốn nói rõ [các Ngài] “cùng dùng pháp này để nhập”. Tuy lập ra phương tiện hữu vi này, nhưng hiểu rõ bản tánh của pháp phân biệt này thường Không! Pháp sanh khởi bởi nhân duyên như thế lìa “sanh, diệt, đoạn, thường, một, khác, đến, đi”, chỉ như huyễn hóa, chẳng khác Trung Đạo. Nếu lìa bỏ điều này để cầu một cái Thể vô vi nào khác, sẽ chẳng thể được, do tánh của vô vi chẳng khác hữu vi. Do liễu đạt pháp duyên khởi rất sâu như thế, sẽ có thể từ ngay pháp hữu vi này mà thành tựu cái quả vô vi. Vì thế, hết thảy tam thế Như Lai do sức phương tiện, tuy chứng pháp giới mà có thể từ cái quả có bản thể “vô vi, vô tác”, dùng hữu vi làm các quyến thuộc. Như Đại Nhật Như Lai từ trong đức tự chứng này, do sức gia trì, từ trong vô vi mà dùng hữu vi để biểu đạt, bổn tánh chẳng hề tạo tác, do có tạo tác mà có thể thành tựu vô vi. “Triển chuyển tương ứng”: Khi chưa trì tụng thì tánh vốn bất tịnh. Do trì tụng liền đạt được thanh tịnh, có thể độ chúng sanh, cho nên hiện thân chẳng thanh tịnh, lại tạo nhân duyên thanh tịnh cho người khác, bèn gọi là “triển chuyển tương ứng”. Lại từ vô vi sanh ra hữu vi để biểu đạt. Do vậy, hiện ra các Kim Cang và Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười thế giới, mỗi mỗi đều dùng môn Chân Ngôn để hướng dẫn, tiếp độ chúng sanh, đều khiến cho họ đạt tới cái quả vô vi. Dùng phương tiện ấy trọn khắp pháp giới, ứng với trọn khắp chúng sanh, khiến cho họ đều đạt được nghĩa lợi.

 

          (Kinh) Linh đắc kiến pháp an lạc trụ, phát hoan hỷ tâm, hoặc đắc trường thọ, ngũ dục hy hý nhi tự ngu lạc, vị Phật Thế Tôn nhi tác cúng dường. Chứng như thị cú, nhất thiết thế nhân sở bất năng tín. Như Lai kiến thử nghĩa lợi cố, dĩ hoan hỷ tâm, thuyết thử Bồ Tát chân ngôn hành đạo thứ đệ pháp tắc.

          ()令得見法安樂住、發歡喜心,或得長壽,五欲嬉戲而自娛樂,為佛世尊而作供養。證如是句,一切世人所不能信。如來見此義利故,以歡喜心說此菩薩真言行道次第法則。

          (Kinh: Khiến cho được thấy pháp, trụ trong an lạc, phát tâm hoan hỷ, hoặc được sống lâu, tự được vui thỏa trong ngũ dục, cúng dường Phật Thế Tôn. Chứng câu như thế, hết thảy người đời chẳng thể tin. Như Lai do thấy nghĩa lợi ấy, dùng cái tâm hoan hỷ để nói pháp tắc hành đạo chân ngôn theo thứ tự này của bậc Bồ Tát).

 

          Tức là các đức Như Lai do phương tiện, từ vô vi giới, dùng sức gia trì chẳng xả chúng sanh, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện tu các hạnh, hoặc khiến cho họ thấy pháp, trụ trong an lạc hạnh, phát tâm hoan hỷ (tức là Pháp Hỷ Sơ Địa). Hoặc đạt được trường thọ, tức là trong vô số kiếp, luôn được thấy đức Phật xuất thế. Hoặc có được ngũ dục thanh tịnh tốt đẹp để tự vui sướng, lại có thể cúng dường hết thảy Như Lai. Kẻ chẳng có phương tiện, sẽ chẳng thể tin chuyện này. Họ nghĩ như thế này: “Cái Thể của chân ngôn giống như pháp giới, là vô vi, vô tác, sao có thể thành tựu chuyện này? Nếu sanh khởi chuyện này, tức là hữu tướng phân biệt, sao có thể tương ứng với lý cho được?” Vì thế, sanh tâm hủy báng. Nói “Phật có bí mật khó hiểu”, tức là nói kẻ do chẳng có phương tiện, cho nên chẳng thể hiểu. Nhưng ở đây, do tâm tự tại mà nói đến trường thọ. Thọ lượng như thế chính là thọ mạng nơi Pháp Thân của Như Lai. “Ngũ dục” tức là Tứ Vô Lượng (từ, bi, hỷ, xả) và Bồ Đề tâm, hết thảy thánh nhân dùng các hiện pháp ấy để tự vui thỏa. Cúng dường Như Lai chính là chân pháp cúng dường Pháp Thân Phật. Nếu hành giả nương vào phương tiện duyên sanh rất sâu của Phật để đạt được thành tựu trong pháp thế gian, tức là từ trong ấy quán bổn tánh Không; đấy chính là thành tựu vô vi. Phàm phu sẽ chẳng thể tin pháp chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng chư Phật Như Lai và các vị Bồ Tát do thấy nghĩa lợi này, nói ra thứ tự trong đạo chân ngôn hạnh này, chớ nên báng bổ là chẳng có!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Ư vô lượng kiếp, cần cầu tu chư khổ hạnh sở bất năng đắc, nhi Chân Ngôn môn hạnh đạo chư Bồ Tát tức ư thử sanh nhi hoạch đắc.

          () 何以故?於無量劫勤求修諸苦行所不能得,而真言門行道諸菩薩即於此生而獲得。       

          (Kinh: Vì sao vậy? Trong vô lượng kiếp, siêng cầu tu các khổ hạnh mà chẳng thể đạt được, nhưng các Bồ Tát do hạnh đạo của Chân Ngôn môn liền đạt được ngay trong đời này).

 

          Như các vị Bồ Tát khác vì cầu đạo vô thượng, hành hạnh khó, hạnh khổ như cứu đầu cháy trải qua vô lượng kiếp, vẫn chưa thể đạt được thành tựu như thế. Hành giả Chân Ngôn nếu trọn đủ phương tiện, sẽ có thể thành tựu thánh quả trong một đời. Do biết ý nghĩa của mười thí dụ về duyên khởi rất sâu, dùng các nguyện thuộc về Chân Ngôn để tạo tác đủ loại thành tựu, nhưng chẳng chấp trước, chẳng khác nào [sẽ thành tựu] vi diệu nhanh chóng các pháp như thế.

 

          (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh Bồ Tát, như thị Kế-đô, Khiết-già, tán, cái, lý tỷ, Chân Đà Ma Ni, cập An Thiện Na dược, Lô Giá Na đẳng, trì tam lạc-xoa, nhi tác thành tựu, diệc đắc Tất Địa.

          ()復次祕密主!真言門修菩薩行菩薩,如是計都朅伽、傘蓋履屣、真陀摩尼,及安膳那藥、盧遮那等,持三落叉而作成就,亦得悉地。

          (Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đối với các thứ Kế-đô (Ketu, phan), Khiết-già (Khaḍga)[6], lọng, tàn, giày dép, Như Ý Châu, và thuốc An Thiện Na (Añjana)[7], Lô Già Na (Rocanā)[8] v.v… trì ba lạc-xoa để làm thành tựu, cũng đạt được Tất Địa).

          Kế đó, nói về dược vật được thành tựu, tức là như trong phần trước [đã nói], trước hết là [niệm tụng] một lạc-xoa. Tháng thứ hai trì tụng xong, tạo Mạn-đồ-la. Trong đó, đặt vật muốn được thành tựu để niệm tụng, lại [trì tụng] ba lạc-xoa mới thành. Tọa vị của chư tôn thánh trong Mạn-đồ-la ấy giống như Đại Bi Thai Tạng. Vì vậy, ở đây không nhắc lại. Nhưng đối với vật muốn được thành tựu đặt ở trong ấy, đặt Đại Nhật Như Lai ở góc. Tràng thì dùng trúc làm sào, dùng vải sạch buộc vào, lại buộc rủ xuống từ một trượng trở lên, giống như phan, phía trên làm thành hình nhiều tầng. Trên đó, đặt bạt-chiết-la (chày kim cang). Đao thì dùng thép tinh luyện làm sống đao và cán. Tàn (lọng che) thì có thượng, trung, hạ thành tựu, tức là [làm bằng] vàng, bạc, lông chim công. Giày, dép làm bằng da, trước hết phải xông, gột đủ cách khiến cho cực thanh tịnh, không có mùi. Lại còn dùng thuốc để chế biến, khiến cho lửa đốt không cháy, lại cực thơm thì mới dùng được. Báu Như Ý thì lấy chất báu sạch sẽ, tốt đẹp đặt ở trên tràng. Thuốc nhỏ mắt thì dùng thuốc An Thiện Na để làm. Thuốc An Thiện Na có hai loại, một loại là cực nhẹ, có thể nổi trên mặt nước. Ngưu hoàng thì lại có vô lượng loại[9], tức là không thanh, châu sa, hùng hoàng, thư hoàng v.v… đều có thể thành tựu.

          Lại còn vô lượng vật như chày kim cang v.v… cũng có thể thành tựu. Đại Bổn có nói phương quỹ đầy đủ, kinh Tô Tất Địa cũng có nói thứ tự [tác pháp]. Như giày dép nếu được thành tựu, sẽ có thể mang vào chân, dạo các cõi Phật vô ngại. Các thứ như thuốc nhỏ mắt v.v… thành tựu, liền thấy mười phương cõi Phật, liền có thể vọt lên không, dạo trong mười phương cõi Phật. Những thứ khác có thể suy ra mà hiểu. Lại còn có trường hợp vẽ hình đủ loại chim, thú, tùy ý chọn lấy một loại nào, tác pháp thành tựu, sẽ liền có thể cưỡi lên chúng, tự tại đến mười phương cõi. Hoặc dùng pháp gia trì đồng nam, đồng nữ, cũng khiến cho chúng nó thành tựu để làm người hầu hạ, theo ta dạo khắp mười phương cõi. Ở phương Tây, có một người thành tựu, dẫn năm trăm người vọt lên không mà đi, chẳng biết đi về đâu! Pháp này thành tựu tức là Trì Minh Tiên. Vật ấy tùy theo lòng mong muốn mà làm, khi người ấy trì tụng cũng đắc cảnh giới, khiến cho làm các vật như thế này, như thế nọ. Hoặc có thể vận tâm làm vật ấy thì cũng được thành tựu!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược cụ phương tiện thiện nam tử, thiện nữ nhân, tùy sở nhạo cầu, nhi hữu sở tác, bỉ duy tâm tự tại, nhi đắc thành tựu.

          ()祕密主!若具方便善男子善女人,隨所樂求而有所作,彼唯心自在而得成就。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đủ phương tiện, tùy theo ý thích, mong cầu mà thực hiện, chỉ do tâm tự tại mà được thành tựu).

         

          Người đời chẳng thể tin tưởng. Nói “người ấy đạt được” tức là nói về người thực hiện pháp thành tựu ấy. [Người đời] chẳng thể tin tưởng các chuyện hiếm lạ đều có thể đạt được. Vì thế nói “thiện nam, thiện nữ trọn đủ phương tiện muốn cầu vật, nhưng tự tâm tự tại, chuyện hy hữu chẳng thể tin sẽ đều có thể đạt được”, đạt được thành tựu chỉ [vì lý do] như thế mà thôi! Nói “tự tâm của người ấy tự tại, chỉ thành tựu như thế” nghĩa là tùy theo lòng mong muốn, duy tâm chuyển biến mà được thành tựu. “Duy” là chỉ dùng tự tâm, chẳng nhờ vào các duyên khác. “Duy” cũng có nghĩa là “tạm”, [ý nói] tâm vừa mới khởi niệm liền thành tựu.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Chư nhạo dục nhân quả giả, bí mật chi pháp phi bỉ ngu phu chi sở năng tri chân ngôn chư chân ngôn tướng. Hà dĩ cố?

          ()祕密主!諸樂欲因果者,祕密之法非彼愚夫之所能知真言諸真言相。何以故?

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Đối với những kẻ ưa thích, mong muốn nhân quả, những kẻ ngu phu đó sẽ chẳng thể biết chân ngôn và tướng của chân ngôn trong pháp bí mật được. Vì sao vậy?)

 

          Nếu có người đối với hạnh Chân Ngôn ấy mà nghĩ như thế này: “Ta nay hành cái nhân như thế, sẽ đạt được cái quả như thế”. Hãy nên biết: Như thế chẳng phải là chánh thuyết, chỉ là so đo hư vọng của phàm phu! Vì lẽ nào vậy? Có các ngoại đạo nói “hết thảy các pháp từ Ngã mà sanh. Nếu Tự Tại Thiên vui thích như thế thì sẽ ban cho. Chẳng vui thích thì chẳng cho”. Người như thế chẳng thể hiểu đạo này! Phải nên nói “vạn vật đều sanh từ các nhân”. Nếu sanh từ các nhân, cái nhân ấy sẽ có tánh. Nếu có tự tánh, tức là đọa vào Thường Kiến. Thường pháp sao có thể sanh cho được? Nếu nhân diệt, quả sanh, thì là pháp đoạn diệt, sao có thể sanh cho được?

 

          (Kinh) Thuyết nhân phi tác giả, bỉ quả tắc bất sanh.

          ()說因非作者,彼果則不生。

          (Kinh: Nói nhân chẳng phải là người làm, quả ấy sẽ chẳng sanh).

 

          Ý nói “nhân” là Nhân Không. Do cái nhân đã là Không, há có quả? Vì thế, Trung Luận và Đại Trí Độ Luận đã rộng phá [chấp trước này]. Hãy nên biết: Dùng trí để quán sát cái nhân ấy, còn chẳng thể thấu suốt cội nguồn. Cái nhân ấy không nương vào đâu. “Không nương vào đâu” tức là vốn sẵn bất sanh. Cái nhân vốn sẵn bất sanh, sao có thể sanh ra quả cho được? Do vậy, cũng giống như thế, cái quả vốn bất sanh.

 

          (Kinh) Thử nhân nhân thượng không, vân hà nhi hữu quả?

          ()此因因尚空,云何而有果。

          (Kinh: Do cái nhân ấy còn là không, làm sao có quả cho được?)

 

          Ý nói: Cái nhân chẳng thật có. Nhân đã là chẳng chân thật, trọn chẳng thể sanh ra cái quả chân thật; hãy nên biết cái quả vốn bất sanh. Lại nữa, bản tánh của cái nhân ấy là không tịch; hãy nên biết cái quả cũng như thế. Nếu đối với pháp duyên khởi như thế, mà nói “có nhân, có quả”, tức là Biến Kế Sở Chấp, đọa vào “đoạn, thường, một, khác”, chẳng nhập Trung Đạo. Vì thế, chứng biết chân ngôn như thế vĩnh viễn lìa khỏi nhân nghiệp, chính là pháp giới (tức bất tư nghị giới).

 

          (Kinh) Đương tri chân ngôn quả, tất ly ư nhân nghiệp.

          ()當知真言果,悉離於因業。

          (Kinh: Nên biết cái quả của chân ngôn, đều lìa khỏi nhân nghiệp).

          Nói rõ nhân chính là pháp “có phương cách để thực hiện”. Nhân đã là hữu tác, hãy nên biết quả cũng là hữu sở tác. Đã là được thực hiện, há có thể trở thành chân thật ư? Hãy nên biết cái quả lìa khỏi nhân nghiệp vậy.

 

          (Kinh) Nãi chí thân chứng xúc, vô tướng Tam-ma-địa.

          ()乃至身證觸,無相三摩地。

          (Kinh: Cho đến thân chứng, chạm vô tướng Tam-ma-địa).

         

          Ý nói các tướng nhân quả v.v… như thế ấy do vọng tưởng mà có. Chánh quán sát thì [sẽ thấy] chúng vốn chẳng trụ. Do chẳng trụ nên quả thể (Thể của cái quả) chẳng sanh, tức là giống như vô vi. Do vậy, nếu hành giả nghĩ như thế này: “Ta tụng chân ngôn, tu Chân Ngôn hạnh, sẽ được thành tựu cái quả” chỉ là tự dối mình! Nếu hành giả Chân Ngôn ấy tuy từ duyên khởi mà thật sự vô tác, vốn sẵn là pháp giới, vô sanh, vô diệt, chẳng tịnh, chẳng nhiễm như thế, sao có thể là nói “đạt được thành tựu?”

 

          (Kinh) Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa tùng tâm sanh,

          ()乃至身證觸,無相三摩地。

          (Kinh: Người tu Chân Ngôn sẽ đạt được Tất Địa từ tâm sanh).

         

          Hãy nên biết hành giả Chân Ngôn chỉ dùng phương tiện này để tự tịnh cái tâm. Nếu ba nghiệp thanh tịnh, sẽ ở trong ấy, tự được hiểu rõ rồi tự giác ngộ. Ví như có người trong mộng tu hành các thứ Lục Độ, thanh tịnh cõi Phật; tỉnh giấc, sẽ thấy chẳng có tướng thành tựu cái quả, chỉ là trong một niệm tâm vô minh bèn có nhân quả vạn hạnh đó thôi! Lại như trong nhà tối mà có kho báu, nếu dùng phương tiện để đốt lửa, thắp đèn, tuy tìm cầu nhân duyên sanh diệt chẳng thể được, giống như hư không, nhưng cũng hiểu rõ pháp tùy ý dấy lên: Do cái tâm hiểu rõ nhân duyên mà thấy kho báu, chẳng phải là kho báu ấy sanh từ nhân duyên. Người tu Chân Ngôn hạnh vốn vì trừ bỏ Hoặc nghiệp, từ ngay nơi bản thể, thấu hiểu pháp giới chẳng có “sanh, diệt, tịnh, nhiễm”, lìa các phân biệt, biết cái Thể của chân ngôn này chính là cái Thể của pháp giới. Nếu biết rõ cái Thể của chân ngôn giống như pháp giới, giống như Đại Không, sẽ tự nhiên có thể đạt được Vô Tướng tam-muội. Do vậy, Tất Địa hiện tiền. Hãy nên tin hiểu như thế.

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Duy nguyện phục thuyết Chánh Đẳng Giác cú, Tất Địa thành tựu cú. 

          ()爾時,金剛手復白佛言:世尊!惟願復說正等覺句、悉地成就句。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Kính mong lại nói câu Chánh Đẳng Giác, câu Tất Địa thành tựu).

 

          Tức là như trên đã nói, từ một chữ có thể sanh ra bốn chữ, cho đến trọn khắp pháp giới. Đấy chính là câu “thấy Phật tâm”. Nay Ngài hỏi về pháp thành tựu trong ấy.

 

          (Kinh) Chư kiến thử pháp thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, tâm đắc hoan hỷ, thọ an lạc trụ, bất hại pháp giới.

          ()諸見此法善男子善女人等,心得歡喜,受安樂住,不害法界。

          (Kinh: Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thấy pháp này, tâm hoan hỷ, được trụ trong an lạc, chẳng trở ngại pháp giới).

 

          Người thuận theo đó để tu giác, nếu được thành tựu, sẽ gọi là “kiến pháp”. “Thành tựu” tức là ngay trong đời này được kiến Đế. Người thấy pháp ấy nghe đức Phật nói pháp thành tựu này, ắt sẽ đạt được pháp hỷ sâu xa, trụ trong an lạc hạnh, hiện pháp lạc trụ. Vì thế, thưa hỏi. “Bất hại pháp giới” có nghĩa là “chẳng gây trở ngại trong pháp giới ấy”. Cho đến tiếp nhận đủ loại vui thú trong cõi đời, nhưng sự vui thú trong cõi đời chính là pháp giới, trọn chẳng do vậy mà trở ngại, tổn hại pháp giới. Do vậy, [nói là] “bất hại”.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Thế Tôn! Pháp giới giả, nhất thiết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác thuyết danh tức bất tư nghị giới. Thị cố, Thế Tôn! Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đắc thị thông đạt pháp giới bất khả phân tích, phá hoại.

          ()何以故?世尊!法界者,一切如來、應、正等覺說名即不思議界。是故世尊!真言,門修菩薩行諸菩薩得是通達法界不可分析破壞。

          (Kinh: Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn! Pháp giới được hết thảy Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác gọi là “giới chẳng nghĩ bàn”. Do vậy, bạch đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn đạt được sự thông đạt pháp giới chẳng thể phân tích hay phá hoại này).

 

          Bốn chữ ấy rốt ráo thành tựu, chẳng phương hại pháp giới. Bốn câu ấy đều là Phật tâm, há có thể do Phật tâm mà phương hại pháp giới ư? Người trụ trong thành tựu ấy do chẳng hai, chẳng khác pháp giới, cho nên chẳng phương hại, trở ngại. Tất Địa ấy, pháp giới ấy đều chẳng bị phương hại. Vì lẽ nào vậy? Do pháp giới chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, vô lượng Phật đắc đạo thành tựu mà pháp giới chẳng tăng. Vô lượng chúng sanh diệt độ mà pháp giới chẳng giảm. Nếu chúng sanh thắng tấn, [pháp giới] cũng chẳng tăng thêm nhiều. Nếu họ phá phiền não, [pháp giới] cũng chẳng tổn hại. Đó cũng là bất tư nghị giới tánh như kim cang, chẳng thể phá hoại. Nếu có phương ngại, tức là có “đây, kia”. Hễ có “đây, kia” thì có thể phá hoại. Nay chẳng phương hại, trở ngại, cho nên chẳng thể phá hoại. Hãy nên biết “bất hoại” ở đây cũng có nghĩa là “không thể chia chẻ”, tức là các loại môn, các loại chuyện thế gian và xuất thế gian đều cùng là một pháp giới, chẳng thể chia chẻ thành những cái Thể riêng biệt. Nếu hành giả có thể thông đạt như thế, chính là được thấy pháp thành tựu.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ phục thiện tai, năng vấn Như Lai như thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết.

          ()如是說已,世尊告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝復善哉,能問如來如是義。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。

          (Kinh: Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, này Bí Mật Chủ! Ông lại rất lành, có thể hỏi Như Lai nghĩa như thế đó. Ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay sẽ diễn nói).

 

          [Đức Phật] lại khen ngợi ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, vì có thể thương xót người tu Chân Ngôn hạnh trong đời vị lai mà nêu ra câu hỏi như thế. “Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”, lời ấy có ý bảo các đại chúng trong hội: Các vị hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, ta nay sẽ diễn nói chuyện như thế đó.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ ngôn: - Như thị Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn.

          ()祕密主言:如是世尊!願樂欲聞。

          (Kinh: Bí Mật Chủ thưa: - Đúng như thế, bạch đức Thế Tôn! Con vui thích muốn được nghe).

 

          Nhắc lại Như Lai từ bi trọn khắp, thuận theo lời hỏi ấy mà giải thích.

 

          (Kinh) Phật cáo Bí Mật Chủ: - Dĩ A tự môn nhi tác thành tựu.

          ()佛告祕密主:以阿字門而作成就。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ: - Dùng môn chữ A để thực hiện thành tựu).

 

          Tức là từ trong câu Chánh Đẳng Giác mà thực hiện pháp thành tựu.

         

          (Kinh) Nhược tại tăng sở trụ xứ, nhược sơn quật trung, hoặc ư tịnh thất.

          ()若在僧所住處、若山窟中、或於淨室。

          (Kinh: Hoặc ở chỗ Tăng cư trụ, hoặc trong hang núi, hoặc nơi tịnh thất).

 

          Tùy ý chọn nơi yêu thích, và cách giải thích bí mật như đã nói trong phần trước.

 

          (Kinh) Dĩ A tự biến bố nhất thiết chi phần, trì tam lạc-xoa.

          ()以阿字遍布一切支分,持三落叉。

          (Kinh: Dùng chữ A để xếp trọn khắp trên hết thảy chi phần, trì ba lạc-xoa).

 

          Dùng tâm để trải khắp chữ A ấy. Từ đỉnh đầu, và mắt, tai v.v… cho đến trọn khắp các thân phần trong, ngoài, [đều tưởng có chữ A tại đó, thì gọi là “dùng chữ A để xếp trọn khắp hết thảy các chi phần”]. Lại tụng chữ ấy ba lạc-xoa, liền thành tựu. Lại nói rằng: Bổn Tôn, chủng tử, và viên minh (vầng quang minh tròn sáng như cái gương nơi tâm của Bổn Tôn) là ba thứ. Chữ ở trong viên minh, viên minh ở nơi tâm Bổn Tôn. Khi quán một thứ đã thành, ba thứ đều tự thành. Một thứ duyên ba cảnh ấy, nên gọi là ba lạc-xoa. Lạc-xoa nghĩa là “thấy”. Tụng ba lạc-xoa xong, tới ngày Mười Lăm của bạch nguyệt là ngày trăng tròn, y theo kinh văn mà tụng đủ ba lạc-xoa xong.

 

          (Kinh) Thứ ư mãn nguyệt, tận kỳ sở hữu nhi dĩ cúng dường.

          ()次於滿月,盡其所有而以供養。

          (Kinh: Kế đó, trong ngày trăng tròn, tận hết những gì mình có để cúng dường).

 

          Tức là làm thành tựu Mạn-đồ-la trong ngày Mười Lăm của bạch nguyệt. Khi làm pháp này, tận lực đem tất cả các thứ mình vốn có để cúng dường Tam Bảo, thực hiện pháp thành tựu. Khi làm pháp thành tựu, cũng tụng chữ này (cách hiểu theo nghĩa bí mật như trên đã nói).

 

          (Kinh) Tác thử pháp thời, nãi chí Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang đẳng, hoặc dư thánh, thiên hiện tiền, ma đảnh xướng ngôn: “Thiện tai hành giả!” Ưng đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy.

          ()作此法時,乃至普賢菩薩、文殊師利、執金剛等或餘聖天現前,摩頂唱言:善哉行者!應當稽首作禮,奉閼伽水。

          (Kinh: Khi làm pháp này, cho đến Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi, Chấp Kim Cang v.v… hoặc các vị thánh, chư thiên khác hiện tiền, xoa đỉnh đầu [hành giả], xướng rằng: “Lành thay hành giả”. [Khi ấy, hành giả] hãy nên dập đầu làm lễ, dâng nước Át-già).       

 

          Giải rằng: Hoặc là các vị Kim Cang khác, chẳng thể nói nhất định được! Hễ có một vị nào hiện đến, sẽ là thành tựu. Nhưng khi trông thấy, cũng nên biện định tướng thượng, trung, hạ. Nếu đích thân trông thấy phân minh như đối trước mắt chẳng khác thì là thượng thành tựu. Nếu chỉ nghe tiếng hiện tiền, chỉ dạy khiến cho lợi lạc, hoan hỷ, thì là trung thành tựu. Nếu mộng thấy thì là hạ thành tựu. Lại nữa, khi thấy có rõ ràng hay mù mờ sai khác, sẽ biết là có chướng hay không (nói theo nghĩa bí mật cũng có thể hiểu là “tâm đắc”). Khi Bổn Tôn hiện tiền gia bị như thế, [hành nhân] liền “ưng đương khể thủ tác lễ, phụng Át-già thủy” (hãy nên dập đầu đảnh lễ, dâng nước Át-già). Đây chính là nước thơm, bỏ thêm năm thứ báu, năm loại hạt lương thực v.v… như trong phần trước đã nói.

 

          (Kinh) Tức thời đắc bất vong Bồ Đề tâm tam-muội.

          ()即時得不忘菩提心三昧。

          (Kinh: Liền được chẳng quên Bồ Đề tâm tam-muội).

 

          Hành giả ấy do đắc tam-muội, khiến cho thân tâm đều được khinh an (khinh an tức là cấu chướng trừ sạch).

 

          (Kinh) Hựu dĩ như thị thân tâm khinh an nhi tụng tập chi, đương đắc tùy sanh tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh.

          ()又以如是身心輕安而誦習之,當得隨生心清淨、身清淨。

          (Kinh: Lại dùng thân tâm khinh an như thế để tụng niệm, tu tập, sẽ đạt được tâm thanh tịnh và thân thanh tịnh, ý sanh thân thuận theo ý niệm mà sanh).

 

          Tức là dùng sự khinh an ấy để suy tưởng, xếp đặt [các chữ trên các chi phần của thân thể], niệm tụng, gìn giữ tột bậc, [khiến cho] năm căn như thân v.v… đều thanh tịnh. Như trong phẩm Lục Căn đã nói, muôn hình tượng đều thấy, có thể biết Phật tâm v.v… Do thân tâm thanh tịnh, liền được “tùy sanh”, tức là ý sanh thân[10] thuận theo ý niệm mà sanh. Do tùy sanh làm nhân, niệm tụng là tịnh, sẽ đạt được thân tâm thanh tịnh.

 

          (Kinh) Nhược trí ư nhĩ thượng trì chi, đương đắc nhĩ căn thanh tịnh.

          ()若置於耳上持之,當得耳根清淨。

          (Kinh: Nếu đặt ở tai để trì, sẽ đạt được Nhĩ Căn thanh tịnh).

 

          Giải rằng: Nếu hành giả muốn Nhĩ Căn thanh tịnh, hãy tưởng đặt chữ A nơi tai rồi niệm tụng, sẽ được nhĩ căn thanh tịnh, Văn Trì chẳng quên, có thể nghe mười phương chư Phật thuyết pháp, cho đến nghe tiếng của chư thiên v.v… cũng giống như kinh Pháp Hoa đã nói.

 

          (Kinh) Dĩ A tự môn tác xuất nhập tức, tam thời tư duy. Hành giả nhĩ thời, năng trì thọ mạng trường kiếp trụ thế. Nguyện Ra Xà đẳng chi sở ái kính, tức dĩ Ha tự môn tác sở ưng độ giả, thọ dữ Bát-đầu-ma hoa, tự trì thương-khư nhi hỗ tương quán, tức sanh hoan    hỷ.

          ()以阿字門作出入息,三時思惟,行者爾時能持壽命長劫住世。願囉闍等之所愛敬,即以訶字門作所應度者,授與鉢頭摩華,自持商佉而互相觀,即生歡喜。

          (Kinh: Dùng môn chữ A theo hơi thở ra vào, ba thời tư duy. Lúc bấy giờ, hành giả có thể duy trì thọ mạng trụ thế lâu cả kiếp. Nếu mong được hàng vua chúa kính yêu, dùng môn chữ Ha để làm người đáng được độ (tức tưởng chữ Ha là người mà mình muốn nhiếp phục), trao cho [người ấy] hoa Bát-đầu-ma, chính mình thì cầm thương-khư (tù và bằng vỏ ốc), [đôi bên] nhìn ngó lẫn nhau, liền sanh hoan hỷ).

 

          Đây nói về môn Bồ Đề tâm bất sanh bất diệt trong chữ A. Nếu muốn sống lâu dài, hãy tưởng chữ A giống như hơi thở ra vào (tức là dùng chữ này để tùy thuận hơi thở, sao cho thở ra, hít vào [luôn tưởng chữ A] chẳng gián đoạn). Nếu kẻ đoản mạng tưởng niệm như thế, hằng ngày ba thời tư duy, sẽ liền được trường thọ. Nói theo ý nghĩa bí mật, chữ, câu và Bổn Tôn là ba thời. Nếu muốn thâu nhiếp hết thảy các độc, hãy tưởng chữ A đó, hoặc mình hay người khác, đều tưởng nơi thân. Nếu như [chất độc] ở nơi thân chính mình, hãy tưởng chữ ấy nơi chỗ có độc, dần dần khắp toàn thân trục chất độc xuống phía dưới, chất độc cũng dần dần cũng theo chữ ấy mà bị loại trừ. Loại bỏ hết thì độc liền trừ. Độc có hai loại: Một là chất độc từ các vật; hai là chất độc của hữu tình, tức là chất độc của rồng, rắn v.v… Nếu nói theo ý nghĩa bí mật, “độc” tức là Tam Độc. Khi Tam Độc lừng lẫy, muốn trừ khử thì cũng làm như trên, tức là loại trừ cho hết.

          “Nguyện Ra Xà đẳng chi sở ái kính” (Nguyện được hàng vua chúa kính yêu) liền dùng môn chữ A và Ha để làm người đáng được độ, ý nói: Nếu muốn cho kẻ khác nghĩ tưởng yêu mến và quy y, trước hết hãy tưởng chữ A là thân thể của chính mình, tưởng chữ Ha là thân của kẻ khác. Tưởng thân chính mình cầm thương-khư (tù và bằng vỏ ốc). Lại tưởng người ấy cầm hoa sen, [đôi bên] nhìn ngó lẫn nhau, trong tâm tụng chữ A này. Dẫu người ấy phẫn nộ, kiêu mạn, cũng liền có tâm yêu mến, hòa thuận. Nói theo nghĩa bí mật, nếu muốn nhiếp phục cái tâm, tưởng chính mình là chữ A, tưởng tâm là chữ Ha, trên tâm có hoa sen, tay cầm thương-khư, khiến cho thuận tùng, liền có thể nhiếp phục. Hết thảy kẻ khó hàng phục, [vận dụng pháp này] cũng đều có thể nhiếp phục. Đó là nói về Thượng Phiền Não và Tùy Phiền Não.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn phục quán nhất thiết đại hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Kim Cang Thủ! Chư Như Lai hữu ý sanh, tác nghiệp hý hành vũ, quảng diễn phẩm loại, nhiếp trì tứ giới, an trụ tâm vương đẳng đồng hư không, thành tựu quảng đại kiến, phi kiến quả, xuất sanh nhất thiết Thanh Văn cập Bích Chi Phật, chư Bồ Tát vị, linh Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát nhất thiết hy nguyện giai tất mãn túc, cụ chủng chủng nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết. Bí Mật Chủ! Vân hà hành vũ, nhi tác nhất thiết quảng đại thành hoại quả? Trì chân ngôn giả nhất thiết thân chứng da?

          ()爾時,毘盧遮那世尊復觀一切大會,告執金剛祕密主言:金剛手!諸如來有意生,作業戲行舞,廣演品類,攝持四界安住心王等同虛空,成就廣大見非見果,出生一切聲聞及辟支佛、諸菩薩位,令真言門修行諸菩薩一切希願皆悉滿足,具種種業,利益無量眾生。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。祕密主!云何行舞而作一切廣大成壞果?持真言者一切親證耶?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn lại quán hết thảy đại hội, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Kim Cang Thủ! Các đức Như Lai do ý sanh khởi tác nghiệp du hý, biến hiện thần thông, rộng diễn phẩm loại, nhiếp trì tứ giới (Địa, Thủy, Hỏa, Phong), an trụ trong tâm vương giống như hư không, thành tựu cái quả “kiến, phi kiến” rộng lớn, xuất sanh hết thảy các Thanh Văn và Bích Chi Phật, các địa vị Bồ Tát, khiến cho hết thảy các ước nguyện của Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn thảy đều được thỏa mãn, trọn đủ các loại nghiệp, lợi ích vô lượng chúng sanh. Ông hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay diễn nói. Bí Mật Chủ! Thế nào là hiện thần thông biến hóa để tạo tác hết thảy cái quả thành hoại rộng lớn mà người trì Chân Ngôn đích thân chứng đắc hết thảy vậy?)

 

          Đấy chính là phổ hiện sắc thân, tùy loại mà hiện thân hình trong lục đạo. “Vũ” (Múa) tức là các chuyện thần biến huyễn tác (thần thông biến hiện, hóa hiện như huyễn), tùy theo từng sự cũng hiện rất nhiều loại, chẳng thể nói trọn. “Tứ giới nhiếp trì” tức là nói đến các giới Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Tuy hiện các thân trong, ngoài, y báo, chánh báo ấy, nhưng đấy là tâm vương an trụ giống như hư không. Hư không thường bất động mà chứa đựng hết thảy. Vì thế, chỉ từ nghiệp nơi Phật tâm mà sanh, tùy tâm mà có, bản thể giống như hư không, chẳng thể chấp giữ. “Kiến” là nói tới các thứ tướng vũ hý (múa may, đùa bỡn)[11], chẳng phải là thấy lý Niết Bàn (Lại nói Kiến là thấy cái quả thế gian, chẳng phải là thấy cái quả Bồ Đề. Do loại này vô lượng, nên nói là “rộng lớn”). Cũng thấy ba thừa tu hành đủ loại pháp môn, thuận theo nguyện của họ mà khiến cho được thỏa mãn, tức là có thể hiện đủ loại chuyện có thể thấy và chẳng thể thấy. Cho đến nguyện cầu các pháp môn Thiền Định, trí huệ, nhiều thứ của báu, cũng đều tùy loại mà thị hiện để ban tặng cho. Giống như Như Ý bảo vương, tùy lòng mong cầu, hết thảy đều thí cho.

          Đẳng Dẫn khiến cho thần thông v.v… dấy lên. Tam-ma-hế-đa (Samāhita) có nghĩa là Đẳng Dẫn (bình đẳng dẫn khởi các thứ như thần thông, chẳng phải là Đẳng Chí). Khi đó, đức Tỳ Lô Giá Na Phật lại quán hết thảy đại chúng hội, quán xong, bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng (như trong phần trên đã giải thích). Kim Cang Thủ “hành vũ, nhất thiết tác quảng đại thành hoại quả, thân nhất thiết dữ” (nhảy múa, thực hiện hết thảy quả thành hoại rộng lớn, đích thân ban cho hết thảy): “Vũ” chính là đùa vui. Lại còn phổ hiện sắc thân, thuận theo từng loài mà khéo léo thành tựu họ, thực hiện đủ loại ứng hiện. Những điều này chẳng chân thật, chỉ là như huyễn. Vì thế gọi là “Như Lai chi vũ”. Giống như người nhảy múa có thể làm đẹp lòng mọi người, tuy [người xem có] các thứ ý giải bất đồng, nhưng đều khiến cho họ đẹp dạ. Phật cũng như thế đó, nhưng chẳng phải do sắc tướng thuộc tứ giới mà làm, chỉ tùy thuận tâm ý của Phật mà sanh. Từ tâm mà sanh, từ tâm mà diệt. Tuy là thường pháp mà có thể tùy duyên sanh diệt. Do hưng phế tùy duyên, nên nói là cái quả sanh diệt. Vì vậy bảo là “thành, hoại”. Dấu tích ấy trọn khắp pháp giới rộng lớn vô biên, vì thế nói là “rộng lớn”. Đã thực hiện rồi bèn diệt, cho nên nói là “thành, hoại”.

          “Quảng đại thành hoại” (Thành hoại rộng lớn): “Thành” có nghĩa là biến chuyển, cho nên sẽ hoại; nhưng sự thành hoại ấy chính là sự ứng hiện mầu nhiệm của Như Lai, từ Phật pháp giới tùy cơ cảm ứng mà sanh, tuy sanh mà chẳng sanh, tuy diệt mà chẳng diệt, tức là giống như huyễn, do chẳng khác pháp giới. Do việc làm chẳng thật, cho nên gọi là Vũ. Tam thế chư Phật đều thực hiện “sự nhảy múa” ấy. “Thân nhất thiết dữ” (Đích thân ban cho hết thảy): Ta đích thân từ cổ Phật nhận lãnh pháp này, nay lại đích thân trao cho các vị. Vì thế nói “đích thân trao cho hết thảy”. Nói “đích thân” tức là có thể đích thân hiện tiền trao cho hết thảy cái quả mà họ ước nguyện. Nghĩa ấy là đúng.

 

          (Kinh) Hành giả như thứ đệ, tiên tác tự chân thật, như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai. A tự vi tự thể, tịnh trí Đại Không điểm, đoan nghiêm biến kim sắc, tứ giác kim cang tiêu. Ư bỉ trung tư niệm, nhất thiết xứ tôn Phật. Thị chư Chánh Đẳng Giác, thuyết tự chân thật tướng. Tu hành bất nghi lự, tự chân thật tướng sanh. Đương đắc vi thế gian, nhất thiết chúng lợi lạc, cụ quảng đại hy hữu, trụ ư như huyễn cú. Vô thỉ thời túc thực, vô trí chư hữu bách. Hành giả thành Đẳng Dẫn, nhất thiết giai tiêu trừ. Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm. Trì chân ngôn nghiệp cố, ư tịnh phi tịnh quả, ứng lý thường vô nhiễm, như liên xuất ứ nê. Hà huống ư tự thể, đắc thành Nhân Trung Tôn.                

()行者如次第,先作自真實,如前依法住,正思念如來,阿字為自體,并置大空點,端嚴遍金色,四角金剛標。於彼中思念,一切處尊佛,是諸正等覺,說自真實相。修行不疑慮,自真實相生,當得為世間,一切眾利樂。具廣大希有,住於如幻句,無始時宿殖,無智諸有迫,行者成等引,一切皆消除。若觀於彼心,無上菩提心,持真言業故,於淨非淨果,應理常無染,如蓮出淤泥,何況於自體,得成仁中尊。

          (Kinh: Hành giả theo thứ tự, trước tác tự chân thật, như trên, nương pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai. Chữ A làm tự thể, thêm một chấm Đại Không, sắc vàng khắp đoan nghiêm, bốn góc bày kim cang. Ở trong ấy nghĩ niệm, tôn, Phật hết thảy chỗ. Các Chánh Đẳng Giác ấy, nói tự tướng chân thật. Tu hành chẳng lo ngờ. Tự tướng chân thật sanh, sẽ được vì thế gian, hết thảy các lợi lạc, trọn hy hữu rộng lớn, trụ trong câu như huyễn. Đã gieo từ vô thỉ, vô trí, các cõi ép. Hành giả thành Đẳng Dẫn, hết thảy đều tiêu trừ. Nếu quán cái tâm ấy, vô thượng Bồ Đề tâm. Do nghiệp trì chân ngôn, nơi quả tịnh, phi tịnh, xứng lý, thường vô nhiễm, như sen vượt bùn lầy. Huống hồ nơi tự thể, được thành Nhân Trung Tôn).

 

          Nói “tiên tác tự chân thật” (trước hết thực hiện sự chân thật nơi chính mình) tức là như trên đây đã quán chủng tử, chân ngôn, và Bổn Tôn. Do quán thấy Bổn Tôn, thấy rồi liền chuyển thân chính mình thành Bổn Tôn. Xoay vần “tức là lẫn nhau” (tức quán Bổn Tôn, Bổn Tôn nhập vào thân mình, thân mình chuyển thành Bổn Tôn, quán Bổn Tôn và chính mình chẳng khác), chẳng hề trở ngại lẫn nhau, chính là “thấy cái quả kim cang”, cái tâm Bồ Đề, cho nên gọi là “tiên tác tự chân thật”. Theo thứ tự trụ như thế, tức là trụ vào đối tượng được quán trên đây, tâm nương vào đó mà khéo trụ. Trước hết đã thấy Thật Tướng, đã quán chữ A vậy.

          Kinh nói “như tiền y pháp trụ, chánh tư niệm Như Lai” (nương vào pháp mà trụ giống như trên, chân chánh nghĩ nhớ Như Lai) có nghĩa là theo đúng cách suy nghĩ như trong phần trên đã nói để niệm tụng, hành trì. Tưởng chữ A là chính mình, và thêm một chấm [Đại Không trên đầu chữ A] để trở thành rộng lớn, hết thảy đều là màu vàng sao cho đẹp dạ tột bậc. Nơi chày kim cang bày khắp bốn cạnh [của chữ ấy], hãy nghĩ nhớ, trì tụng chữ [chân ngôn] và quang minh của chư Phật trọn hết thảy mọi nơi. Hết thảy các đức Phật ấy sẽ tự nói, tức là quán chữ A có màu vàng đậm, sắc tướng ấy đoan chánh, trang nghiêm, tốt đẹp, khiến cho mọi người đẹp lòng, ở ngay trong tâm của chính mình. Đối với chữ này, kinh lại nói cũng thêm vào cái chấm cho rộng lớn, nghĩa là trên chữ A lại thêm một cái chấm [Đại Không], “tăng thêm” tức là rộng lớn. Ở phía ngoài, nơi bốn góc của chữ A, dùng chày kim cang làm lan can bao bọc. Lan can ấy toàn bằng chày kim cang ba nhánh. Các nhánh chày lại được vẽ chéo nhau, chính giữa [khung lan can được xếp bằng chày kim cang ấy] đặt chữ. Đã thấy chữ A ấy, liền chuyển chữ A đó thành hình tượng của Tỳ Lô Giá Na Bổn Tôn, tức là tự thân hiện hình tượng giống như Bổn Tôn. Hình tượng ấy dựa theo bổn ấn mà làm. Toàn thân đức Phật có quang minh. Đấy chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong Bồ Đề tâm, giống như trong lưu ly thanh tịnh trông thấy hình tượng vàng ròng, chẳng giống như vọng tưởng trong các món tâm số (tâm sở) khác. Hãy nên biết thấy như thế chính là thấy vị Phật Thật Tướng trong tâm. Người tu pháp thành tựu này nếu chẳng ngờ vực, lo lắng, sẽ có thể vì khắp hết thảy chúng sanh tạo tác sự lợi ích to lớn.

          Kinh nói: “Cụ quảng đại hy hữu” (Trọn hy hữu rộng lớn), giống như huyễn nhân, tức là có đủ loại chuyện khác lạ. Giống như chư đại Bồ Tát, thuận theo lòng muốn làm chuyện lợi ích chúng sanh, khác nào vầng trăng hư huyễn trong nước ứng với vạn loại đều được thành tựu. Đấy là câu Như Huyễn tam-muội của Như Lai. Nếu có thể làm như thế, ác nghiệp từ đời vô thỉ đến nay, và cái quả bức bách trong ba cõi, cho đến nghiệp nặng Vô Gián diệt ngay trong thân hiện tại, huống hồ những thứ khác ư? Nói tóm lại, các thứ khổ quả trong ba cõi đều diệt. Vì lẽ nào vậy? Do người trì tụng trụ trong địa vị Tam-ma-hế-đa. Nếu quán Thật Tướng như thế, sẽ lìa khổ.

          Kinh nói: “Nhược quán ư bỉ tâm, vô thượng Bồ Đề tâm” (Nếu quán vô thượng Bồ Đề tâm trong cái tâm ấy) tức là quán Vô Thượng Bồ Đề tâm trong tự tâm của hành giả. Nói “tâm” thì tức là vô thượng đại Bồ Đề tâm. Nếu trụ trong phép Quán ấy, sẽ có thể thanh tịnh thân khẩu ý nghiệp. Do có thể thanh tịnh các nghiệp, tịnh nghiệp và bất tịnh nghiệp đều lìa. Ý nói: Có nghiệp như thế sanh ra, tịnh và bất tịnh đều chẳng thể nhiễm. Kinh nói “đương nghiệp” tức là cái nghiệp sẽ sanh ra tịnh tâm này. Cái quả ấy đều chẳng thể nhuốm bẩn. Vì sao vậy? Do thường tương ứng với lý. Ví như hoa sen tuy sanh trong bùn lầy, nhưng chẳng bị bùn nhuốm bẩn. Hành giả như thế giống như chư Phật. Vì sao vậy? Do có thể sanh ra hết thảy chư Như Lai. Đấy chính là Phật, là bậc thầy tôn quý trong những vị nhân từ vậy. Ý nói: Vừa mới quán Bồ Đề tâm, đã đạt được cái quả Như Lai, huống hồ đích thân hiện chứng mà thành Phật ư?

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Như Lai hựu phục trụ ư Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý tam-muội, thuyết hàng phục tứ ma, giải thoát lục thú, mãn túc Nhất Thiết Trí trí kim cang tự cú: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm.

          ()爾時,毘盧遮那世尊又復住於降伏四魔金剛戲三昧,說降伏四魔、解脫六趣滿足一切智智金剛字句:南麼三曼多勃馱喃。阿味囉吽欠。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý tam-muội, thuyết câu chữ kim cang hàng phục tứ ma, giải thoát sáu nẻo, viên mãn trí Nhất Thiết Trí: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a vị ra hồng khiếm).

 

          Lại nữa, khi đó, Tỳ Lô Giá Na Như Lai lại trụ trong Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hý tam-muội, hàng phục bốn loại ma, giải thoát sáu đường, nói câu chữ kim cang viên mãn trí Nhất Thiết Trí. Trụ trong tam-muội ấy, có thể hàng phục tứ ma, có thể trừ phiền não nghiệp khổ trong sáu đường, ban cho niềm vui giải thoát, và cũng có thể thỏa mãn tất cả hết thảy ước nguyện của hết thảy phàm thánh. Đức Phật trụ trong Định ấy mà nói câu Kim Cang và ý nghĩa chân ngôn. Năm chữ ấy chính là câu chân ngôn hàng phục tứ ma. A (अः, Aḥ) là hành, tức là “hành”
vốn bất sanh. Hai cái chấm bên cạnh chữ A (
) có nghĩa là “tịnh trừ”. Do nghĩa này mà có thể hàng phục tứ ma, trừ hết thảy các khổ. Vị (वि, Vi) nghĩa là “trói buộc”, [chữ Va ()] thêm một vạch chính là Vô Giải tam-muội, tức là giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Ra () nghĩa là “thanh tịnh sáu căn”; do sáu căn thanh tịnh nên chẳng có trần. Hồng (हुं, Hūṃ) có ý nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Trong phần trước, cũng có chỗ giải thích ý nghĩa chữ Khư (, Kha). “Hồng” lại có ba nghĩa, chính là ba món giải thoát của Như Lai. Do tu hành trừ chướng mà có ba giải thoát, trụ trong Đại Không. Khiếm (खं, Khaṃ) là Đại Không.

 

          (Kinh) Thời, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đẳng chư Chấp Kim Cang, Phổ Hiền đẳng chư Bồ Tát, cập nhất thiết đại chúng, đắc vị tằng hữu khai phu nhãn, khể thủ nhất thiết Tát Bà Nhã, nhi thuyết kệ ngôn:

          ()時,金剛手祕密主等諸執金剛,普賢等諸菩薩,及一切大眾,得未曾有開敷眼,稽首一切薩婆若而說偈言:

          (Kinh: Khi đó, các vị Chấp Kim Cang như Kim Cang Thủ  Bí  Mật

v.v… Các vị Bồ Tát như Phổ Hiền v.v… và hết thảy đại chúng, được mở bừng mắt chưa từng có, đảnh lễ hết thảy Tát Bà Nhã mà nói kệ rằng).

 

          Khi đức Phật nói chân ngôn này, các vị như Kim Cang Thủ và Phổ Hiền được mở bừng mắt chưa từng có (như trên đã nói), đảnh lễ hết thảy Nhất Thiết Trí, nói kệ như thế này (“hết thảy Nhất Thiết Trí” tức là hết thảy các pháp Như, tức là Như Lai Như).

 

          (Kinh) Thử chư Phật, Bồ Tát, cứu thế chư khố tạng, do thị nhất thiết Phật, Bồ Tát, cứu thế giả, cập dữ nhân Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền não, năng biến sở hành địa, khởi chủng chủng thần thông, bỉ đắc Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng trí.

          ()此諸佛菩薩,救世諸庫藏,由是一切佛,菩薩救世者,及與因緣覺,聲聞害煩惱,能遍所行地,起種種神通。彼得無上智,正覺無上智。

          (Kinh: Chư Phật, Bồ Tát ấy, các kho tàng cứu đời, do vậy hết thảy Phật, Bồ Tát đấng cứu thế, và do bởi Duyên Giác, Thanh Văn trừ phiền não, khắp địa vị sở hành, dấy đủ loại thần thông, đạt được Vô Thượng Trí, Chánh Giác vô thượng trí).

 

          “Nhất thiết” (Hết thảy) ở đây theo ý nghĩa tiếng Phạn là “không gì chẳng đủ”, tức là ý nghĩa “kho chứa” vậy. Ý nói dùng năm chữ ấy làm cái kho, có thể chứa đựng đầy ắp hết thảy của cải. Hết thảy chư Phật, Bồ Tát là đấng cứu thế. “Duyên Giác, Thanh Văn hại phiền não”: Tán thán phẩm đức của Thanh Văn, tức là trừ diệt tùy miên vậy. Lại còn có thể hiểu là: Tô La Đa (Surata)[12] là trừ diệt phiền não. “Năng biến sở hành địa, khởi chủng chủng thần thông” (Có thể trọn khắp các hành xứ, dấy lên các thứ thần thông): “Của cải” chính là pháp bảo của Như Lai, ban cho hết thảy chúng sanh mà vẫn chẳng thiếu hụt. Kho báu đại trí vô cùng như thế, nên gọi là “của cải”. Do của cải nơi pháp có thể thí cho hết thảy, nên nói môn chân ngôn này trên từ chư Phật, dưới đến Thanh Văn, không gì chẳng nương vào câu này để có thể thực hiện các loại thần biến lợi ích hết thảy. Vì thế nói “tùy theo hành địa này mà hiện đủ loại sức thần thông”. Nói “hành địa” tức là nói về hành xứ, như kệ nói: “Tầm địa sơn lâm biến vô đẳng” (Tìm khắp núi rừng trên đại địa đều chẳng có ai sánh bằng). Nói “bỉ đắc vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí” (người ấy đạt được vô thượng trí, Chánh Giác vô thượng trí): Cũng do câu này mà hết thảy các vị thánh hiền đều được thành tựu trí huệ, cho tới cùng thành trí Nhất Thiết Trí. Nhưng trí Nhị Thừa đối với thế gian cũng gọi là “vô thượng”, nay lại nói rõ Phật là vô thượng, tức là lặp lại [để nhấn mạnh Phật trí vô thượng tuyệt đối].

 

          (Kinh) Thị cố nguyện quảng thuyết, thử giáo chư phương tiện, cập dữ bố tưởng đẳng, chủng chủng chúng sự nghiệp. Chư chí cầu đại chúng, vô thượng Chân Ngôn hạnh, kiến pháp an trụ giả, đương đắc hoan hỷ trụ.

          ()是故願廣說,此教諸方便,及與布想等,種種眾事業。諸志求大眾,無上真言行,見法安住者,當得歡喜住。

          (Kinh: Do vậy, nguyện rộng nói, phương tiện trong giáo này, và đặt chữ, quán tưởng… Các sự nghiệp đủ loại. Các đại chúng chí cầu, hạnh Chân Ngôn vô thượng, thấy pháp được an trụ, sẽ được hoan hỷ trụ).

 

          Trước là đã tán thán; sau đó, thỉnh đức Phật nói năm chữ ấy. Theo thứ tự nói cặn kẽ, và các chủng loại quán tưởng, sắp xếp chữ v.v… Đối với các điều chưa nói, đều thỉnh [đức Thế Tôn] giảng giải trong lời dạy này. Đối với chuyện sắp xếp chữ (tức quán tưởng sẽ đặt chữ chân ngôn nơi nào trên các chi phần thân thể), thượng, trung, hạ thành tựu, màu sắc, lực dụng sai biệt, các loại phương tiện, đều thỉnh Phật rộng vì [chúng con] tuyên nói. Thành tựu, tiến nhập, tùy thuận để hành pháp ấy trong các môn thì gọi là Giáo. Thỉnh [đức Phật] tự nói Giáo ấy, tức là [cầu thỉnh] đức Phật đích thân diễn nói. Nếu đức Phật rộng nói pháp ấy, các hành giả hành vô thượng Chân Ngôn trong Đại Thừa sẽ được thấy pháp. Nếu đã thấy, cũng sẽ đều hoan hỷ. “Kiến pháp” (Thấy pháp) tức là chứng đắc. “Đương trụ” (Sẽ trụ trong) tức đã tự thấy rồi, lại trao truyền cho các chúng sanh. Do thấy sự ấy, mình và người đều đạt được lợi ích vô thượng nơi pháp. Vì thế, thỉnh đức Phật rộng nói.

Kinh này vốn có ba ngàn năm trăm bài kệ giảng giải ý nghĩa của năm chữ ấy. Ý nghĩa chánh yếu của Tam-ma-hế-đa chính là “trụ tâm nơi một cảnh”.

          (Kinh) Thuyết như thị kệ dĩ, Đại Nhật Thế Tôn ngôn: - Phổ giai ưng đế thính, nhất tâm trụ Đẳng Dẫn. Đại kim cang địa tế, thời gia trì hạ thân, vị thuyết thử pháp cố, nhi hiện Bồ Đề tòa, tối thắng A tự đồng, đại Nhân Đà La luân, đương tri nội ngoại đẳng, Kim Cang Mạn-đồ-la, trung tư duy nhất thiết, thuyết danh Du Già tòa.

          ()說如是偈已,大日世尊言:普皆應諦聽,一心住等引,大金剛地際,時加持下身,為說此法故,而現菩提座。最勝阿字同,大因陀羅輪,當知內外等,金剛漫荼羅,中思惟一切,說名瑜伽座。

          (Kinh: Nói kệ như vậy xong, Đại Nhật Thế Tôn bảo: - Hết thảy nên lắng nghe. Nhất tâm trụ Đẳng Dẫn. Địa tế đại kim cang, gia trì ở dưới thân. Vì để nói pháp này, mà hiện tòa Bồ Đề, như chữ A tối thắng. Đại Nhân Đà La luân, hãy nên biết trong ngoài, Kim Cang Mạn-đồ-la, trong tư duy hết thảy, gọi là tòa Du Già).

 

          Đức Phật muốn nói câu kim cang, khiến cho khắp đại chúng trụ trong cảnh nhất tâm mà lắng nghe, muốn thực hiện pháp thành tựu Kim Cang chân ngôn này; trước hết, bảo họ làm kim cang tòa. Như lúc đức Phật sắp thành đạo, ngự tại kim cang đạo tràng. Lại nữa, ngoại trừ tòa ấy ra, chẳng còn có tòa nào khác kham có thể vượt trội mà đạt đến điều ấy được! Khi đó, đại kim cang từ mặt đất thấu tận địa tế. “Gia trì hạ thân nơi địa tế, vì muốn nói chữ A” có nghĩa là: Chữ ấy là tối thắng, là chữ bậc nhất. “Gia trì”: Nay vì muốn nói pháp ấy, trước hết, dùng [chữ ấy] để gia trì tự thân. “Hạ thân” tức là từ rốn trở xuống, đều tưởng thuần là kim cang. Trong ấy, có nội và ngoại, “nội” là như vừa nói trên đây, “ngoại” là tưởng thân chính mình ngồi trong đàn tràng kim cang hình vuông. Đàn ấy như trong phần trên đã nói, có hình vuông, [dùng chày kim cang] làm lan can. Nói “đại Nhân Đà La” (Mahendra) tức là chất tột bậc cứng rắn trong các chất kim cang, có thể phá nát kim cang, nhưng kim cang chẳng thể phá nó. Lại còn là màu vàng tột bậc, giống như tử ma kim sắc (màu của chất vàng sắc tía được giồi mài sáng bóng). Tưởng đó là chữ A, gọi là “kim cang luân”. Ở trên tòa ấy, tư duy hết thảy, thì chính là “Du Già tòa”. Đấy là chỗ ngồi của người tu hành tương ứng với lý. “Tư duy hết thảy” nghĩa là hết thảy các sự đều do sự tư duy này mà thực hiện. Do có nhiều sự việc, nên nói là “hết thảy”. Trên đây là phần đầu tiên giải thích [ý nghĩa] “dùng chữ A làm tòa” đã xong.

          (Kinh) A tự đệ nhất mạng, thị vi dẫn nhiếp cú, thường an Đại Không điểm, năng nhiếp thọ chư quả. Hành giả ư nhất nguyệt, kết Kim Cang Huệ ấn, tam thời tác trì tụng, tồi hủy vô trí thành, đắc bất động kiên cố. Thiên, Tu La mạc hoại. Nãi chí tùy tự ý, tăng ích sự thành tựu.

          ()阿字第一命,是為引攝句,常安大空點,能攝授諸果。行者於一月,結金剛慧印,三時作持誦,摧毀無智城,得不動堅固,天脩羅莫壞,乃至隨自意,增益事成   就。

          (Kinh: Chữ A: Mạng bậc nhất. Đó là câu dẫn nhiếp. Thường đặt chấm Đại Không, hay nhiếp thọ các quả. Hành giả trong một tháng, kết Kim Cang Huệ ấn, ba thời đều trì tụng, đập nát thành vô trí, được kiên cố bất động. Trời, Tu La chẳng hoại, cho đến tùy tự ý, tăng ích sự thành tựu).

 

          Kế đó, nói về chữ A âm dài (Ā). Đây là mạng căn bậc nhất của chữ A. Do nó có thể phát sanh các chữ, cho nên nói là Mạng. Nếu chẳng có chữ A, các chữ khác chẳng sanh, nên gọi là “mạng bậc nhất”. Đây chính là câu có thể nhiếp triệu. Nếu tưởng chữ này, sẽ có thể nhiếp triệu. Chữ A đọc âm dài tức là hạnh. Nếu tiếp xúc chữ A, sẽ có thể dẫn khởi hết thảy Phật hạnh. Vì thế nói là “nhiếp triệu”. Nhiếp triệu hết thảy các pháp trong, ngoài. “Nhiếp triệu” nghĩa là thâu nhiếp, khiến cho phụ thuộc chính mình hòng tự tại thọ dụng. Môn chữ A này có thể nhiếp triệu công đức của hết thảy Như Lai quy vào tự thân, cũng có thể trọn vẹn hết thảy các hạnh.

          Kế đó nói chữ Ám (Aṃ). Nếu tưởng chữ này, có thể nhiếp trừ hết thảy độc và các chướng như bệnh tật v.v… Các chướng trong và ngoài đều có thể thâu nhiếp để trừ khử. Nội chướng tức là các thứ pháp chướng đạo, chỉ cần chúng hiện tiền, sẽ đều có thể diệt trừ. Ngoại chướng là hết thảy các vật gây chướng ở bên ngoài, cũng thảy đều có thể trừ diệt. Lại trừ các độc, bệnh tật. Bệnh có đủ loại, đều có thể trừ diệt. Lại còn có thể trừ diệt thậm chí bệnh mất trí, tức là có thể cứu chữa khiến cho [người bị mất trí] khôi phục bổn tâm. Chữ này lại còn có thể nhiếp tâm một cảnh, mau chóng tương ứng với tam-muội. Nếu tưởng chữ này, sẽ đạt được công đức như trên. “Nhất thiết năng dữ” (Có thể ban cho hết thảy): Nói “dữ” () tức là có thể mãn nguyện ấy, trao cho cái quả Tất Địa. Nếu trì tụng thì trong một tháng liền kết Kim Cang Huệ Ấn để tụng chữ Ám. Trong một tháng đó, mỗi ngày tu tập ba thời, sẽ phá hết thảy thành quách vô trí. Hết thảy chúng sanh bị vô minh quấy nhiễu, bốn phía ép lại, kiên cố giống như tòa thành chắc chắn, chẳng thể phá hoại. Dùng tự môn này, sẽ có thể phá hoại [tòa thành kiên cố vô trí ấy]. “Đắc bất động kiên cố” tức là trời, người, A Tu La v.v… đều chẳng thể phá hoại. Phàm hết thảy các chuyện tăng ích, nếu muốn làm, sẽ đều ngồi tòa này. Tăng Ích cũng gọi là viên mãn, ngụ ý: Có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện.

 

          (Kinh) Hành giả nhất thiết thường, Mạn-đồ-la trung tác, kim sắc quang minh thân, thượng trì phát kế quan, chánh giác trụ tam-muội, danh Đại Kim Cang Cú. Kim cang liên hoa đao, tố nga, cập kim địa, Chân Đà Mạt Ni bảo. Thị đẳng chúng khí vật, quán đại Nhân Đà La, nhi tác chư Tất Địa.

          ()行者一切常,漫荼羅中作,金色光明身,上持髮髻冠,正覺住三昧,名大金剛句。金剛蓮華刀,素鵝及金地,真陀末尼寶,是等眾器物,觀大因陀羅,而作諸悉   地。

          (Kinh: Hành giả hết thảy thường, làm trong Mạn-đồ-la, thân quang minh kim sắc, trên đội mão che tóc, Chánh Giác trụ tam-muội, gọi Đại Kim Cang Cú. Kim cang, hoa sen, đao, ngỗng trắng và đất vàng, báu Chân Đà Mạt Ni. Các vật dụng như thế, quán đại Nhân Đà La, để làm các Tất Địa).

 

          Nếu giải thích theo ý nghĩa bí mật, “một tháng” tức là “vừa trông thấy”. Nếu được thấy pháp, sẽ nhập Sơ Địa, tùy ý tăng ích hết thảy tam-muội, đà-la-ni v.v… và các địa vị. Nếu lúc muốn thực hiện pháp Tăng Ích, người trì tụng ở trong đàn kim cang này, tưởng Phật trụ trong tam-muội, thân màu vàng ròng. Ánh sáng có hình ngọn lửa, tức là ý nghĩa “có oai quang”. “Hữu oai quang” tức là kiêm nói về ý nghĩa Bổn Tôn. Tiếng Phạm như thế đó, tức là quang minh có hình như ngọn lửa bọc quanh. Dùng tóc kết thành mão. Đấy chính là đại Nhân Đà La. Đại kim cang ấy cứng chắc, hàm nghĩa “Phật trí có thể phá hết thảy những cái chẳng thể trừ”. Tưởng vị Phật ấy ở trong đàn kim cang vuông đó, tùy ý làm hết thảy các vật thành tựu. Kinh nói “kim cang, liên hoa” v.v… hàm nghĩa [để tác pháp nhằm thành tựu] hết thảy các sự ấy, hãy nên thực hiện trong luân ấy (tức trong đàn tràng Mạn-đồ-la). Nếu muốn thành tựu pháp kim cang, hãy dùng chày kim cang năm nhánh thuần bằng vàng, đặt ở trong đàn để gia trì. Các vật thành tựu trung, hạ như thương-khư v.v… cũng như trên đã nói, tức là đều trì tụng chữ A này. Nếu muốn thành tựu Phật Đảnh, dùng vàng ròng làm Phật Đảnh để làm pháp gia trì. Nếu được thành tựu, sẽ giống như thân của Đại Nhật Như Lai. Hoặc có thể là chẳng cần vật nào khác, chỉ tự tại tưởng là thân Phật để gia trì. Nếu thành tựu, sẽ giống như thân Phật. Nếu làm kim cang thành tựu, người trì tụng sẽ giống như Kim Cang Thủ Bồ Tát. “Liên hoa” thì dùng vàng làm hoa sen tám cánh v.v… Trì tụng ở trong ấy. Nếu thành tựu, sẽ giống như Quán Âm. Đao cũng có pháp thành tựu. Nếu thành tựu, sẽ giống như Văn Thù đồng tử. Ngỗng thì nếu tác pháp thành tựu, thân chính mình sẽ thành thân Phạm Thiên. Trong pháp thành tựu ngoại tài, thì hoặc là thành tựu vàng, hoặc thành tựu đất (“đất” là nói tới kho tàng), hoặc là châu Như Ý v.v… Chỉ cần tương ứng với pháp Tăng Ích thì đều dùng pháp này để làm, đều có pháp thượng, trung, hạ. Nói “đại Nhân Đà La quán” tức là quán trong kim luân.

 

          (Kinh) Kim thuyết nhiếp trì pháp, nhất thiết nhất tâm thính. Hành giả nhất duyên tưởng, bát phong Di Lô sơn, thượng quán diệu liên hoa, lập Kim Cang Trí ấn. Du Già giả ư thượng, tự môn oai diễm quang, nhi dụng trí kỳ đảnh, an trụ bất khuynh động.

      ()說攝持法,一切一心聽。行者一緣想,八峯彌盧山,上觀妙蓮華,立金剛智印。瑜伽者於上,字門威焰光,而用置其頂, 安住不傾動。

          (Kinh: Nay nói pháp nhiếp trì pháp, hết thảy nhất tâm nghe. Hành giả tưởng một duyên, núi Di Lô tám đỉnh, quán sen đẹp trên ấy, đặt Kim Cang Trí ấn. Hành nhân ở trên ấy, tự môn oai quang rực, đặt trên đỉnh đầu đó, an trụ, chẳng lay động).

 

          Lại nữa, phàm là pháp gia trì, như trong phần trước đã nói cách gia trì gió v.v… bằng cách chấm bảy điểm v.v… vẫn chưa nói trọn; ở đây, thuyết minh cặn kẽ. Phàm đối với hết thảy các thứ gây chướng, hại đạo, đều dùng pháp này, khiến cho chúng bất động. Hết thảy đều là một cảnh, khiến cho hết thảy trụ nơi tâm làm Thể. Làm pháp này, trước hết tưởng núi chúa Tu Di có tám đỉnh. “Bát phong” (Tám đỉnh núi) tức là vây quanh bốn mặt đều là đỉnh núi. Trên tám đỉnh núi, tưởng hoa sen. Trên hoa có chày Kim Cang ba nhánh, các nhánh hướng lên trên. Kinh nói “trí bỉ đảnh” (đặt trên đỉnh đầu đó) tức là [đặt] ở trên đầu chày. Trên ấy, tưởng chữ A, có ánh sáng như hình ngọn lửa bao quanh. Tưởng như thế xong, hết thảy các chướng đều bị nhiếp trừ. Nhiếp trừ những thứ đó như thế, khiến cho [tâm chính mình] trụ trong một cảnh, chẳng thể động, chứ không phải là nói đến ngài Bất Động Minh Vương, mà có nghĩa là “giữ chặt [các thứ gây chướng]”, tự tại tùy ý tu đạo vô ngại.

 

          (Kinh) Bách chuyển sở trì dược, hành giả ưng phục chi. Tiên thế nghiệp sanh tật, thị đẳng tất trừ dũ.

      ()百轉所持藥,行者應服之,先世業生疾,是等悉除愈。

      (Kinh: Gia trì thuốc trăm lượt, hành giả nên uống vào. Bệnh do nghiệp trước sanh, thảy đều trừ khỏi hẳn).

 

          Lại nữa, thành tựu dược pháp. Hễ lúc muốn thành tựu như thế đó, đều có thứ tự pháp dụng, nay ở đây chỉ nói đại lược điều chánh yếu. Chế thuốc thì tác pháp, gia trì một trăm lần. Hễ nói “một trăm lần”, hãy nên thêm vào tám lần nữa. Tụng xong, tự lấy uống, hoặc trao cho người khác. [Thuốc ấy] có thể trừ hết thảy bệnh hoạn, thậm chí bệnh do nghiệp trước cũng có thể trừ. Phàm là chuyện Tăng Ích, hãy nên tương ứng với kim cang sắc vàng.

 

          (Kinh) Phật tử ưng phục thính, đệ nhất Phạ tự môn, tuyết nhũ, thương-khư sắc, nhi tự tề trung khởi, tiễn bạch liên hoa đài, nhi ư bỉ trung trụ, thậm thâm tịch nhiên định. Thu tịch tố nguyệt quang. Như thị Mạn-đồ-la, chư Phật thuyết hy hữu. Tư duy dĩ thuần bạch, luân viên thành cửu trùng. Trụ ư phi vụ trung, trừ nhất thiết nhiệt não. Tịnh nhũ do châu man, thủy tinh dữ nguyệt quang, phổ biến nhi lưu chú, nhất thiết xứ sung mãn. Hành giả tâm tư duy, xuất ly chư chướng độc. Như thị ư viên đàn, Đẳng Dẫn tác thành tựu. Nhũ, lạc, sanh, thục tô, Phả-chi-ca, châu man, ngẫu thủy đẳng chúng vật. Thứ đệ thành Tất Địa. Đương đắc vô lượng thọ, ứng hiện thù đặc thân. Nhất thiết hoạn trừ tức, thiên nhân hàm ái kính, đa văn thành Tổng Trì, thiện huệ tịnh vô cấu. Do tư tác thành tựu, tốc chứng Tất Địa quả. Thị danh Tịch Tai giả, cát tường Mạn-đồ-la. Đệ nhất nhiếp trì tướng, an dĩ Đại Không điểm.

      ()佛子應復聽,第一嚩字門,雪乳商佉色 ,而自臍

中起,鮮白蓮華臺,而於彼中住,甚深寂然定,秋夕素月光。如是漫荼羅, 諸佛說希有,思惟以純白,輪圓成九重,住於霏霧中,除一切熱惱,淨乳猶珠鬘,水精與月光,普遍而流注,一切處充滿。行者心思惟,出離諸障毒,如是於圓壇,等引作成就。乳酪生熟酥,頗胝迦珠鬘,藕水等眾物,次第成悉地。當得無量壽,應現殊特身,一切患除息,天人咸愛敬,多聞成總持,善慧淨無垢,由斯作成就,速證悉地果,是名寂災者,吉祥漫荼羅,第一攝持相,安以大空點。

          (Kinh: Phật tử lại nên nghe, môn chữ Phạ thứ nhất, màu tuyết, sữa, thương-khư. Từ nơi rốn khởi lên, đài hoa sen trắng sạch, để trụ trong đài đó, Định vắng lặng rất sâu. Vầng trăng sáng đêm Thu. Mạn-đồ-la như thế, chư Phật nói hy hữu. Tư duy thuần sắc trắng, tròn trịa thành chín tầng, trụ ở trong sương mù, trừ hết thảy nhiệt não. Sữa sạch như chuỗi ngọc, thủy tinh và ánh trăng, tuôn trào trọn khắp cả, hết thảy chốn tràn trề. Hành giả tâm tư duy, lìa khỏi các chướng độc. Nơi đàn tròn như thế, làm thành tựu Đẳng Dẫn. Sữa, lạc, sanh, thục tô, pha lê và chuỗi ngọc, ngó sen, nước… mọi vật. Thứ tự thành Tất Địa. Sẽ được thọ vô lượng, ứng hiện thân thù đặc. Mọi hoạn nạn trừ dứt, trời người đều yêu kính. Đa văn, thành Tổng Trì, thiện huệ sạch chẳng nhơ. Do vậy, làm thành tựu, mau chứng quả Tất Địa. Đó gọi là Tịch Tai, cát tường Mạn-đồ-la. Tướng nhiếp trì bậc nhất. Thêm vào chấm Đại Không).

 

          Kế đó, nói về môn chữ Phạ, tức là chữ Va (). Trước là nói về cái Thể của nó, sau là nói [chữ ấy] kèm thêm vạch tam-muội. Cách quán tưởng là tưởng chữ này thuần sắc trắng, sáng sạch, tươi tắn, ví như núi Tuyết, và sữa bò v.v… Trước hết, tưởng từ trên rốn có hoa sen màu trắng trắng sạch, trong sáng tột bậc. Chữ Phạ thuần màu trắng nằm trên sen trắng. Đã [quán tưởng] thành tựu rồi, liền chuyển chữ ấy thành Bổn Tôn. Đấy là cách bậc nhất trong pháp Tức Tai. Đối với Phật hoặc Bổn Tôn, cũng tưởng [Ngài có] hình tượng vắng lặng, dáng vẻ cực tịch tĩnh, trụ trong Tịch Định, thuần trắng khôn sánh, giống như vầng trăng đêm Thu. Mạn-đồ-la hãy nên tròn trặn, ví như chín vầng trăng hợp thành, giống như trụ trong mây trắng mù mịt. Làm pháp này thành tựu, hết thảy nóng bức nhiệt não v.v… đều có thể ngưng dứt.

          Phàm hết thảy các pháp tương ứng với Tức Tai, đều thực hiện trong ấy (trong Mạn-đồ-la ấy). “Giống như sữa bò, chuỗi ngọc” tức là tưởng chữ ấy giống như sữa bò tuôn chảy liên tục chẳng dứt, giống như trân châu trắng rót xuống tâm mình. Dù vì chính mình hay người khác, nếu quán tưởng như vậy, hết thảy nhiệt não trong ngoài, không gì chẳng trừ sạch. Hoặc tưởng như vầng trăng, hoặc như thủy tinh, ánh trăng thanh tịnh chiếu rót trọn khắp. Hễ có hết thảy nhiệt não, do được tưới rót như vậy mà đều trừ sạch. Hết thảy các pháp Phiến Để Ca (Śantika, pháp Tịch Tai) tương ứng với màu trắng, được thực hiện trong ấy (trong Mạn-đồ-la này). Chữ A trong phần trước là Kim Cang mạn-đồ-la, còn chữ Phạ này được gọi là Thủy Mạn-đồ-la.

 

Hình đàn tràng

Tên gọi và đặc tánh

Vuông

Kim cang, đất, màu vàng

Tròn

Thủy, đất, màu trắng

Tam giác

Hỏa, đất, màu đỏ

Bán nguyệt

Phong, đất, màu đen

         

          Hư không chẳng có hình tướng nhất định, mà hiện ra đủ loại. Từ vầng trăng phủ trong sương mù, Mạn-đồ-la xuất hiện như sữa tưới rót, có thể trừ hết thảy nhiệt não. Nói “nội ngoại chướng” tức là nhiệt chướng, pháp này đều có thể trừ. “Xuất ly” tức là thoát khỏi khổ hoạn ấy. Hệ duyên nơi một cảnh như thế để [tác pháp] thành tựu [các “dược vật” như] tô, sữa, chuỗi ngọc, ngó sen, thủy tinh, hoặc lạc, hoặc nước. Các vật như thế số lượng rất nhiều, tùy lòng mong muốn mà thực hiện, chỉ cần tương ứng với pháp Tịch Tai, sẽ đều được thành tựu. Hoặc cầu trường thọ, sống lâu vô lượng, hoặc hiện đủ loại thân tướng đoan nghiêm, kỳ diệu. Nói “tối thượng” tức là yêu kính tối thượng, khiến cho người khác kính yêu. Hoặc cầu Văn Trì, hoặc cầu thông minh, hoặc cầu trí huệ, và dứt trừ các bệnh. Các điều như thế đều được thành tựu. Nếu thêm một chấm cho chữ Phạ này [tức chữ Vaṃ (वं)], các chuyện như trừ bệnh, trừ hoạn nạn, trừ các độc trong ngoài v.v… đều nhanh chóng thành tựu. Đấy chính là Tức Tai Cát Tường Mạn-đồ-la, nhưng do nhiếp trừ vô lượng sự, nên nói là Đẳng.

 

          (Kinh) Ra tự thắng chân thật, Phật thuyết hỏa trung thượng. Sở hữu chúng tội nghiệp, ưng thọ vô trạch báo. Du Kỳ thiện tu giả, Đẳng Dẫn giai tiêu trừ. Sở trụ tam giác hình, duyệt ý biến hình xích, tịch nhiên châu diễm man, tam giác tại kỳ tâm. Tương ứng quán bỉ trung, Ra tự Đại Không điểm. Trí giả như Du Già, dĩ thử thành chúng sự. Nhật diệu chư quyến thuộc, cập tác nhất thiết hỏa, nhiếp thủ, phát oán đối, tiêu khô chúng chi phần. Thị đẳng sở ưng tác, giai ư trí hỏa luân.

      ()囉字勝真實,佛說火中上,所有眾罪業,應受無擇報。瑜祇善修者,等引皆消除,所住三角形,悅意遍形赤,寂然周焰鬘,三角在其心。相應觀彼中,囉字大空點,智者如瑜伽,以此成眾事,日曜諸眷屬,及作一切火,攝取發怨對,消枯眾支分,是等所應作,皆於智火輪。

          (Kinh: Chữ Ra thắng chân thật, Phật nói lửa bậc thượng. Tất cả các tội nghiệp, đáng chịu báo chẳng chọn. Bậc Du Kỳ (Yogi) khéo tu, Đẳng Dẫn đều tiêu trừ. Trụ trên hình tam giác, khắp hình đỏ đẹp ý. Vầng lửa vắng lặng vây, tam giác đặt nơi tâm. Quán tương ứng trong ấy. Chữ Ra, chấm Đại Không. Bậc trí như Du Già, dùng đó thành các sự. Các quyến thuộc Nhật Diệu, tạo ra hết thảy lửa, nhiếp thủ, trừ oán đối, tiêu khô mọi chi phần. Các điều nên làm ấy, đều trong trí hỏa luân).

 

          Kế đó, nói Trừ Chướng Mạn-đồ-la nơi chữ Ra, là pháp chân thật bậc nhất trong các cách trừ chướng (do vậy, chánh kinh nói “Ra tự thắng chân thật” tức là “chữ Ra (​) chân thật thù thắng nhất”). Chữ Ra ấy đỏ nhất trong các màu đỏ, là lửa mạnh nhất trong các thứ lửa, thiêu đốt nhất trong các sự thiêu đốt, do nó có thể đốt cháy tan đủ loại phiền não nghiệp khổ; thậm chí tội Ngũ Vô Gián tạo tác trong hiện tại, nếu tu tự môn này, cũng có thể trừ sạch, khiến cho chẳng còn thừa sót. Tội đã diệt, sẽ sanh ra các công đức tốt lành. Tự môn này có tác dụng tương ứng với Bất Động Minh Vương, nhưng câu chân ngôn của Bất Động Minh Vương có thể dùng để làm hết thảy các sự thuộc ba phẩm (thượng, trung, hạ). Trước hết, pháp này [được thực hiện] giống như pháp trước: Trụ tâm nơi một cảnh, quán tưởng Mạn-đồ-la hình tam giác cực đỏ, sao cho tột bậc đẹp ý. “Đẹp ý” tức là [hãy quán] sao cho tươi sáng, đẹp đẽ, tề chỉnh. “Đẹp ý” lại còn là do tâm mà làm; đấy là “bí ngữ” (lời nói hàm chứa ý nghĩa bí mật). “Châu táp tác ư diễm man” là nói tới hình dạng giống như lửa cháy sáng rực [vây quanh], quán chữ Ra ở trong ấy. Đã thành tựu, [liền quán chữ Ra đó] biến thành Bất Động Minh Vương, có hình dạng tĩnh lặng. Chẳng sân, chẳng cười; đó là tĩnh lặng. Lại nói: Trước hết, tưởng Bất Động Minh Vương, nơi tim Ngài có hình tam giác, trong đó có chữ Ra. [Quán tưởng] chữ đã thành, [chữ ấy] lại biến thành Bất Động Minh Vương. Do trừ chướng nên tội diệt; do tĩnh lặng nên Tức Tai. Đó chính là ý nghĩa “tội diệt, phước sanh”.

          Kế đó là “thành tựu vật ấy” tức là nói đến [các pháp sẽ được thực hiện trong] cái đàn tam giác đó. Nói Cật La (Graha) tức là nói tới quyến thuộc của Chấp Nhật, gồm có tám tinh tú, đều gọi là Chấp. Phàm các Chấp như mặt trời, mặt trăng v.v… và Hỏa Thiên v.v… cùng đặt tại góc Đông Nam, cách tác pháp đại để tương đồng. Tức là cần phải dùng lửa để tác pháp, hoặc chuyển lửa thành lạnh v.v… đều được thực hiện trong ấy. Nhưng ý nghĩa bí mật là “làm mặt trời”, cho nên là trí hỏa. “Nhật” cũng là huệ nhật. “Nhiếp thủ” là thâu tóm những kẻ hành ác pháp, khó điều phục, khiến cho họ đều nhu thuận, điều phục (ý nghĩa cũng chuẩn theo hai mươi tám tinh tú, mười hai cung [hoàng đạo] v.v… cùng với Thủy Tinh, mặt trăng ở cùng phương vị). [Người] “nhiếp phục kẻ ác” ở đây chính là người có thể nhiếp phục phiền não, đạt được tự tại. “Phát oán đối”: Có thể làm cho chính mình lẫn người khác đều được thành tựu (gọi đó là “trừ khử oán hận của người khác”). “Tiêu khô chi phần”: Có thể làm cho thân của kẻ đó khô kiệt, chẳng thể kham làm gì được. Hết thảy các thân phần dùng Tam Độc làm bản thể, [nay do pháp này] khiến cho nó tiêu diệt chẳng còn sót. Nếu quán hình tướng bên ngoài để nói thì “khô khan” chính là cạn kiệt ao rồng v.v… Hết thảy các việc làm, hết thảy chuyện tương ứng với Hàng Phục đều được thực hiện trong cái đàn này. Nhưng các pháp ấy đều tương ứng với từ bi; bởi lẽ, hàng phục, khéo điều phục họ, chỉ nhằm tạo nhân duyên [khiến cho người bị hàng phục] đạt được Phật đạo.

 

          (Kinh) Ha tự đệ nhất thật, phong luân chi sở sanh, cập dữ nhân nghiệp quả, chư chủng tử tăng trưởng. Bỉ nhất thiết tồi hoại, tịnh dĩ Đại Không điểm. Kim thuyết bỉ sắc tượng, thâm huyền, đại oai đức, thị hiện bạo nộ hình, diễm man phổ châu biến, trụ Mạn-đồ-la vị. Trí giả quán mi gian, thâm thanh bán nguyệt luân, xuy động tràng phan tướng, nhi ư bỉ trung tưởng, tối thắng Ha tự môn. Trụ bỉ Mạn-đồ-la, thành tựu sở ưng sự, tác nhất thiết nghĩa lợi, ứng hiện chư chúng sanh, bất xả ư thử thân, đãi đắc Thần Cảnh Thông, du bộ Đại Không vị, nhi thành thân bí mật. Thiên nhĩ, nhãn căn tịnh, năng khai thâm mật xứ. Trụ thử nhất tâm đàn, nhi thành chúng sự nghiệp. Bồ Tát đại danh xưng, sơ tọa Bồ Đề tràng, hàng phục ma quân chúng.

      ()訶字第一實,風輪之所生,及與因業果,諸種子增長,彼一切摧壞,并以大空點。今說彼色像,深玄大威德,示現暴怒形,焰鬘普周遍。住漫荼羅位,智者觀眉間,深青半月輪,吹動幢幡相,而於彼中想,最勝訶字門。住彼漫荼羅,成就所應事,作一切義利,應現諸眾生,不捨於此身,逮得神境通,遊步大空位,而成身祕密。天耳眼根淨,能開深密處,住此一心壇,而成眾事業,菩薩大名稱。初坐菩提場,降伏魔軍眾。 

          (Kinh: Chữ Ha chân thật nhất, do phong luân sanh ra, cùng với nhân, nghiệp, quả, các chủng tử tăng trưởng, đều dẹp tan hết thảy, lại thêm chấm Đại Không. Nay nói sắc, hình tướng: Đen thẫm, oai đức lớn. Hiện hình dạng bạo nộ, vòng lửa bọc khắp cùng, trụ trong Mạn-đồ-la. Bậc trí quán giữa mày, vầng bán nguyệt xanh đậm, tướng tràng phan thổi động. Nhưng tưởng ở trong ấy, môn chữ Ha tối thắng. Trụ trong Mạn-đồ-la, thành tựu chuyện đáng nên, tạo hết thảy nghĩa lợi, ứng hiện các chúng sanh, chẳng xả cái thân này, đạt được Thần Cảnh Thông, dạo địa vị Đại Không, thành tựu thân bí mật. Thiên nhãn, nhĩ căn tịnh, hay mở chỗ sâu mật. Trụ đàn nhất tâm này, mà thành các sự nghiệp. Bồ Tát tiếng tăm lớn, mới ngồi Bồ Đề tràng, hàng phục lũ quân ma).

         

          Chữ Ha () chân thật bậc nhất; đấy là Phong Mạn-đồ-la. Tánh của gió có thể tăng ích. “Phong sanh” (Sanh bởi gió) nghĩa là những chuyện đáng nên làm tương ứng với tác dụng của Phong đều xuất sanh từ đàn tràng này, mà [đàn tràng này] cũng sanh ra các sự ấy. Vạn vật có thể tiêu hao, biến hóa không ngằn mé, các chuyện sử dụng chữ này cũng như thế. Nói “nhân nghiệp đẳng sanh” (sanh từ nhân, nghiệp v.v…) nghĩa là đủ loại chuyện tăng trưởng, tươi tốt đều được tự tại. Nếu trên đó thêm một chấm, sẽ có thể phá hoại hết thảy các chuyện thuộc về nhân, nghiệp v.v… Thực hiện pháp này thì trước hết tưởng Bổn Tôn, trên trán vị ấy, chỗ giáp với chân mày, tưởng có hình bán nguyệt, đặt chữ Haṃ (हं) trong ấy. Trước hết là tưởng [hình tướng Bổn Tôn ở] bên ngoài, rồi tưởng chính mình [là Bổn Tôn]. Trên hình bán nguyệt ấy, có hình tượng oai quang đại oai đức, sanh ra trọn khắp các ngọn lửa màu đen túa ra ngoài, tạo thành hình ảnh đặc trưng gió thổi lay động. “Ác” có nghĩa là tưởng hình tượng ấy có dáng vẻ cực phẫn nộ, ý nói: Đấy chỉ là vị tôn thánh ngự trên phong luân, chưa phải là ngài Hàng Tam Thế (Trailokyavijaya). Cũng tưởng hình tượng ấy xanh đậm (gần giống như màu đen). Nếu tưởng như vậy thành tựu, sẽ có thể vì hết thảy chúng sanh tạo đủ loại nghĩa lợi. Kế đó, “thành tựu” tức là các vật liệt kê dưới đây đem làm [pháp gia trì thành tựu] trong Phong [Mạn-đồ-la], liền có thể là ngay trong thân hiện tại này, đều đạt được thành tựu. Chẳng hạn như thăng lên hư không, thần túc biến hóa, thiên nhãn, thiên nhĩ, ẩn mất thân hình. “Khai” tức là mở cửa cung A Tu La v.v… Kế đó, nói “niệm” thì chỉ là dụng tâm mà làm.

          Năm chữ này (A, Va, Ra, Ha, Kha) đều là do tâm tạo tác mà thành tựu đàn tràng, mà cũng có thể dùng sự pháp (tức là dùng các vật cụ thể) để tạo đàn, nhưng quán tâm phải tương ứng. Nếu như dùng sự tướng để làm đàn mà tu Thần Túc, cũng có thể ngồi trong ấy để thực hiện. Như ngó sen v.v… cũng đặt ở trong đàn để làm [pháp thành tựu], tưởng sữa trắng tuôn chảy đầy ắp trong ấy. Xưa kia, đức Phật ngồi dưới cội đạo thụ, từ tự môn này mà hàng phục vô lượng quân chúng của thiên ma. Người trì tụng nếu có thể đúng như pháp tu tập, hành trì, chẳng lâu sau liền giống như Như Lai, ngay nơi thân hiện tại sẽ có thể hàng phục lũ ma quân ấy. “Đại danh xưng” (Tiếng tăm to lớn) là do hàng ma vậy!

 

          (Kinh) Chư nhân bất khả đắc, nhân vô tánh, vô quả. Như thị nghiệp bất sanh, bỉ tam vô tánh cố, nhi đắc Không trí huệ. Đại đức Chánh Biến Tri, tuyên thuyết ư bỉ sắc. Khư tự cập Không điểm, tôn thắng hư không không, kiêm trì huệ đao ấn, sở tác tốc thành tựu. Pháp luân cập quyến sách, Khiết Già, Na Thích Giá, tịnh Mục Kiệt Lam đẳng, bất cửu thành tư cú.

          ()諸因不可得,因無性無果。如是業不生,彼三無性故,而得空智慧,大德正遍知,宣說於彼色。佉字及空點,尊勝虛空空,兼持慧刀印,所作速成就。法輪及羂索,朅伽那刺遮,并目竭嵐等,不久成斯句。

          (Kinh: Các nhân chẳng thể được, nhân vô tánh, không quả. Nghiệp như thế chẳng sanh, do cả ba vô tánh[13], mà đắc Không trí huệ. Đại đức Chánh Biến Tri, tuyên nói màu sắc đó. Chữ Khư và chấm Không, hư không Không[14] tôn thắng. Kiêm cầm huệ đao ấn, việc làm chóng thành tựu. Pháp luân và dây trói, Khiết Già[15], Na Thích Giá[16], và Mục Kiệt Lam[17] thảy, chẳng lâu thành câu này).

 

          Kế đó, do từ môn chữ Ha mà chuyển sang nói về môn chữ Khư. Ha có nghĩa là nhân. Do có nhân, liền có tướng “theo nghiệp mà thọ quả”. Nhưng trong Đệ Nhất Nghĩa, môn chữ Ha vốn tự chẳng sanh. Do chẳng sanh, nên cái nhân chẳng thể được! Cái nhân còn vốn sẵn chẳng sanh, huống hồ có nghiệp quả trong ấy ư? Khi quán như thế, các sự thuộc nhân, nghiệp, quả vắng lặng, đều là chẳng thể được! Nếu có thể quán như thế, chính là giống như đức Như Lai ngồi dưới cội đạo thụ hàng phục ma. Do nhân, nghiệp v.v… đều chẳng thể được, tức là cái tướng ấy giống như hư không; do đã không mà lại càng thêm không, [nên nói là “hư không Không”]! Đại đức Thế Tôn nói đến “sắc” chính là “hư không sắc”. Nếu lại thêm cái chấm [trên chữ Khư (, Kha)], sẽ thuộc vào môn chữ Khiếm (खं, Khaṃ). Điều đáng tôn trọng nói trong môn chữ Khiếm được gọi là Tôn, ý nói là “tôn quý nhất trong các thứ tôn quý”, tức là Đại Không. Nếu muốn thành tựu hết thảy các đồ vật [bởi pháp môn tu chữ Khiếm này], sẽ đều được thành tựu. Tên và chủng loại của các món ấy vô lượng, chẳng thể nói trọn!

          Mạn-đồ-la ấy chẳng có tướng vuông, tròn, bán nguyệt v.v… Hãy nên biết hư không vô tướng mà có thể thành tựu các tướng. Đàn ấy làm đủ loại màu, do không trung hiện đủ thứ sắc tướng. “Huệ đao ấn cộng tác” tức là kiêm dùng đao ấn để thủ hộ hòng thực hiện pháp thành tựu. Nếu làm [pháp thành tựu cho] đao, hãy dùng thép tinh luyện để chế [thành đao]. Dây trói (quyến sách, ) thì dùng chỉ hoặc tơ ngó sen để làm. Luân (bánh xe) thì dùng vàng hoặc thép tinh luyện để chế thành. Các khí cụ ấy rất nhiều, chẳng thể chép trọn để nêu riêng từng loại được. Các khí cụ như trên, tùy thuộc làm chuyện gì, đều dùng chữ Khiếm để thành tựu. Nếu đạt được thành tựu thượng, trung, hạ, hãy tùy theo từng sự mà dùng. Cho đến khi được thành tựu, cầm vật ấy để dạo chơi các cõi Phật, [hành giả ấy được] gọi là Trì Minh Tiên.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán đại chúng hội, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, nhi thuyết kệ ngôn: - Nhược ư Chân Ngôn môn, tu hành chư Bồ Tát, A tự vi tự thân, nội ngoại tất đồng đẳng, chư nghĩa lợi giai xả, đẳng lịch, thạch, kim, bảo, viễn ly chúng tội nghiệp, cập dữ tham, sân đẳng, đương đắc cụ thanh tịnh, đồng chư Phật Mâu Ni, năng tác chư lợi ích, ly nhất thiết chư quá.              

()爾時毘盧遮那世尊觀大眾會告執金剛祕密主而說偈若於真言門,修行諸菩薩,阿字為自身,內外悉同等,諸義利皆捨,等礫石金寶,遠離眾罪業,及與貪瞋等,當得俱清淨,同諸佛牟尼,能作諸利益,離一切諸過。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán đại chúng hội, do bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, mà nói kệ rằng: - Nếu các vị Bồ Tát, tu hành Chân Ngôn môn, chữ A là tự thân, trong ngoài đều đồng đẳng, các nghĩa lợi đều xả, vàng, báu như sỏi, đá, xa lìa các tội nghiệp, cùng với tham, sân thảy, sẽ được cùng thanh tịnh, giống chư Phật Mâu Ni, hay tạo các lợi ích, lìa hết thảy các lỗi).

         

          Kế đó, nói cặn kẽ hơn ý nghĩa của năm chữ. Nếu trụ trong lý này, tùy sự tương ứng, sẽ liền có thể hoàn thành hết thảy các chuyện. Vì thế, đức Phật quán đại chúng, bảo ngài Kim Cang Thủ rằng: “Vị Chân Ngôn Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát này, dùng chữ A làm bổn sắc của chính mình, trong ngoài hết thảy đều xả”. Đạt được hết thảy cú nghĩa, được tương ứng với bản thể và bản sắc của chữ A. Xét về cái Thể thì bản thể bất sanh, giống như thân Thật Tướng của Kim Cang. Nếu tương ứng với điều ấy, liền có thể xả hết thảy các pháp, thô và diệu đều bình đẳng. Coi ngói và vàng giống như nhau, do khéo trụ trong bình đẳng quán, hết thảy tội nghiệp ba độc đều lìa. Nếu đạt được cái tâm thanh tịnh như thế, người được sự thanh tịnh ấy sẽ tôn quý giống như chư Phật Mâu Ni, có thể lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh, thoát khỏi sai trái, lìa các lầm lỗi và lo âu.

 

          (Kinh) Phục thứ, ư Phạ tự, hành giả y Du Già, giải tác nghiệp nghi thức, lợi ích chúng sanh cố, nội thân cứu thế giả, nhất thiết giai như thị. Tâm thủy trạm doanh mãn, khiết bạch do tuyết nhũ, đương sanh quyết định ý. Xuất ư nhất thiết thân, tất biến chư mao khổng, lưu chú cực thanh tịnh, tùng thử nội sung dật, biến mãn ư đại địa. Dĩ thị bi mẫn thủy, quán thế khổ chúng sanh. Chư hữu ẩm dụng giả, hoặc phục thân sở xúc, nhất thiết giai quyết định, đắc thành tựu Bồ Đề.

          ()復次於嚩字,行者依瑜伽,解作業儀式,利益眾生故,內身救世者,一切皆如是,心水湛盈滿,潔白猶雪乳,當生決定意,出於一切身,悉遍諸毛孔,流注極清淨,從此內充溢,遍滿於大地,以是悲愍水,觀世苦眾生。諸有飲用者,或復身所觸,一切皆決定,得成就菩提。

          (Kinh: Lại nữa, nơi chữ Phạ, hành giả nương Du Già, hiểu nghi thức tác pháp, do lợi ích chúng sanh. Nội thân bậc Cứu Thế, hết thảy đều như thế. Tâm thủy lắng, tràn đầy. Trắng, sạch dường tuyết, sữa. Hãy sanh ý quyết định. Ra ngoài hết thảy thân, trọn khắp lỗ chân lông, tưới rót cực thanh tịnh. Tràn trề từ trong thân, trọn khắp cõi đại địa. Dùng nước bi mẫn ấy, nhìn chúng sanh khổ sở. Những người lấy uống, dùng, hoặc thân được tiếp xúc, hết thảy đều quyết định, được thành tựu Bồ Đề).

 

          Kế đó, nói về môn chữ Phạ. Nếu có thể hiểu các pháp tắc tương ứng với chữ này (tức là hiểu thứ tự pháp tắc trong chân ngôn), sẽ có thể tạo các chuyện lợi ích to lớn cho hết thảy chúng sanh. Trước hết, hãy nên quán chữ này như trong phần trên, trắng như tuyết hay sữa, rót vào trong tâm. Nếu tưới rót tràn ngập khắp thân, trong lẫn ngoài đều thanh tịnh, hết thảy người trông thấy liền [thấy thân hành giả] giống như thân Phật. Lại từ cái thân ấy tuôn ra, [thấm vào] trọn khắp hết thảy thân chúng sanh, sao cho thanh tịnh viên mãn tột bậc. Lại còn tuôn rót tràn khắp đại địa. Hãy nên biết điều này giải thích theo nghĩa bí mật sẽ là “đại từ bi thủy”. Do quán thế gian tột bậc nhiệt não, nên tạo lợi ích, có thể khiến cho chúng sanh hoặc uống, hoặc tiếp xúc, sẽ trừ các hoạn nạn, nhất định có thể đắc Vô Thượng Bồ Đề. Tức là nước ấy hiện [tác dụng] giống như cam lộ. Dù là hiển hay bí mật, trong hai cách giải thích ấy, đều có tác dụng lợi ích thế gian và xuất thế gian. “Vô nghi” tức là hãy nên sanh lòng tin quyết định, chẳng nghi!

          (Kinh) Tư duy tại Đẳng Dẫn, nhất thiết Ra tự môn, châu luân sanh diễm quang, tịch nhiên nhi phổ chiếu. Du Kỳ quang ngoại chuyển, nhi biến nhất thiết xứ. Lợi thế tùy lạc dục, hành giả khởi thần thông. Thượng thân Ra tự môn. Phạ tự tề luân trung, xuất hỏa nhi giáng vũ, câu thời nhi ứng hiện. Địa ngục cực hàn khổ, Ra tự năng tiêu trừ. Phạ tự quyên xí nhiên, trụ Chân Ngôn pháp cố. Ra tự vi hạ thân, Ha tự vi tiêu xí. Tác nghiệp tốc thành tựu, cứu trọng tội chúng sanh. Trụ đại Nhân Đà La, tác thủy long sự nghiệp, nhất thiết nhiếp trừ đẳng, Chân Ngôn giả vật nghi. Phong biến nhất thiết xứ, nhất thiết tất khai hoại. Thử chủng chủng tạp loại, các các chúng sự nghiệp. Sắc Mạn-đồ-la trung, y pháp nhi tác chi, xúc tâm nhi niệm trì, đãi đắc ý căn tịnh. Khinh cử tập kinh hành, trung tụng hoạch thần túc. Yến tọa quán A tự, tưởng tại ư nhĩ căn, niệm trì mãn nhất nguyệt, đương đắc nhĩ thanh tịnh.

          ()思惟在等引,一切囉字門,周輪生焰光,寂然而普照,瑜祇光外轉,而遍一切處。利世隨樂欲,行者起神通,上身囉字門,嚩字臍輪中,出火而降雨,俱時而應現。地獄極寒苦,囉字能消除,嚩字蠲熾然,住真言法故。囉字為下身,訶字為幖幟,作業速成就,救重罪眾生,住大因陀羅,作水龍事業,一切攝除等,真言者勿疑。風遍一切處,一切悉開壞,此種種雜類,各各眾事業,色漫荼羅中,依法而作之。觸心而念持,逮得意根淨,輕舉習經行,中誦獲神足。宴坐觀阿字,想在於耳根,念持滿一月,當得耳清淨。

          (Kinh: Tư duy nơi Đẳng Dẫn, hết thảy môn chữ Ra, giáp vòng sanh lửa sáng, lặng lẽ mà chiếu khắp. Quang minh từ Du Kỳ, chiếu ra ngoài xoay chuyển, trọn khắp hết thảy nơi. Lợi đời tùy ưa thích, hành giả dấy thần thông. Thân trên: Môn chữ Ra. Chữ Phạ ở nơi rốn, bốc lửa và tuôn mưa, cùng lúc đều ứng hiện. Địa ngục khổ cực lạnh, chữ Ra tiêu trừ hết. Chữ Phạ trừ lửa bừng. Do trụ pháp Chân Ngôn. Chữ Ra làm thân dưới, chữ Ha làm biểu trưng. Tác nghiệp chóng thành tựu, cứu chúng sanh tội nặng. Trụ đại Nhân Đà La, làm sự nghiệp thủy long, nhiếp trừ cho hết thảy. Bậc chân ngôn đừng nghi. Gió trọn khắp mọi chốn, hết thảy đều mở, hoại. Đủ mọi loại như thế, mỗi mỗi các sự nghiệp. Trong Sắc Mạn-đồ-la, nương pháp mà thực hiện, chạm tim mà niệm trì, hòng được ý căn tịnh. Nhẹ nâng thân, kinh hành, tụng niệm đạt Thần Túc. Ngồi yên quán chữ A, tưởng chữ ở nơi tai, niệm trì tròn một tháng, sẽ được tai thanh tịnh).

 

          Kế đó, nói môn chữ Ra (thêm chấm [Đại Không], tức là chữ Raṃ). Cũng quán giống như trên, đều vắng lặng, quang minh chiếu sáng ngời như vầng lửa, chung quanh có quang minh, trọn khắp trong ngoài đều tưởng thành màu sắc ấy. Ánh sáng túa ra ngoài, cho đến chiếu vào thân người khác, cũng khiến cho quang minh ấy lần lượt biến thành rộng lớn, trọn khắp pháp giới, có thể trừ các thứ ác sự của hết thảy chúng sanh. Thuận theo lòng họ mong thích mà thỏa nguyện cho họ, cũng có thể tạo các thứ thần biến. Kế đó, hành giả từ rốn trở lên, đặt chữ Ra (tức là tưởng nơi phần thân phía trên có chữ Ra). Trong rốn, đặt chữ Phạ, [cả hai chữ ấy] đều hiện thần biến. Từ chữ Ra sanh lửa, từ chữ Phạ sanh ra nước, trừ khử các hoạn nạn như nóng, lạnh v.v… Cho tới tám đại nhiệt địa ngục, có thể dùng chữ Phạ để tạo sự thanh lương hòng ngưng diệt. Đối với tám hàn địa ngục, thì có thể dùng chữ Ra để tạo sự ấm áp nhằm dứt diệt. Kế đó, phía dưới lại xếp các chữ như Ra v.v… Trên tràng nêu cao, lại đặt chữ Ha, có thể trừ sạch hết thảy tội khổ của mình lẫn người.

          Lại giống như trong phần trên, tưởng đại kim cang luân; đó là chất cứng rắn nhất trong các thứ cứng rắn. Trong kim cang đại Nhân Đà La luân ấy, tưởng hai chữ A và Phạ, từ phương Long (phương Tây) có thể nhiếp phục hết thảy. Gió có thể trọn khắp hết thảy mọi nơi, hoặc có thể mở ra, hoặc phá hoại (Vì thế, chánh kinh ghi “Phong biến nhất thiết xứ, nhất thiết tất khai hoại” tức là “gió trọn khắp mọi nơi, hết thảy đều mở ra hoặc phá hoại”). “Mở” là mở cung A Tu La và hết thảy các vật gây chướng ngại, “hoại” là đập nát, hủy hoại. Các thứ sắc khác nhau do nghiệp nhân trong và ngoài hợp thành, [gió] đều có thể khai, hoại. “Sắc Mạn-đồ-la” là nói dựa theo màu của nó, tức là như trong phần trước đã nhắc đến Phong Đàn (đàn có hình bán nguyệt, màu đen). “Xúc tâm nhi niệm trì” (Chạm vào tim mà trì niệm): Tưởng chữ ấy ở trong vầng tròn sáng ở ngay nơi tim, có thể khiến cho ý đạt được thanh tịnh, tức là như “ý căn thanh tịnh” nói trong kinh Pháp Hoa. Đi kinh hành niệm tụng, quán chữ này, tưởng có thể “khinh cử”, tức là có thể nâng thân vọt lên hư không, hiện đủ loại thần túc. Hoặc ngồi mà tưởng chữ A ở nơi tai, do chữ ấy ra vào mà nghe tiếng, liền đạt được Thiên Nhĩ Thông. Hoặc nói là dùng bất cứ chữ nào cũng đều đạt được, hoặc có thể là phần kinh văn này chỉ nói về chữ A (điều này còn tồn nghi).

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ý sanh Tất Địa cú. Bí Mật Chủ! Quán thử vô hữu hình sắc, chủng chủng tạp loại chúng hạnh sanh, ư tư niệm khoảnh, tài chuyển tụng chi, năng tác như thị nhất thiết thiện nghiệp chủng tử. Phục thứ Bí Mật Chủ! Như Lai vô sở bất tác, ư Chân Ngôn môn tu hành chư Bồ Tát đồng ư ảnh tượng, tùy thuận nhất thiết xứ, tùy thuận nhất thiết chân ngôn tâm, tất trụ kỳ tiền, linh chư hữu tình hàm đắc hoan hỷ, giai do Như Lai vô phân biệt ý, ly chư cảnh giới.

          ()祕密主如是等意生悉地句祕密主觀此無有形色種種雜類眾行生於思念頃纔轉誦之能作如是一切善業種子復次祕密主如來無所不作於真言門修行諸菩薩同於影像隨順一切處隨順一切真言心悉住其前令諸有情咸得歡喜皆由如來無分別意離諸境界

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Câu ý sanh Tất Địa như thế. Bí Mật Chủ! Quán sắc chẳng có hình tướng ấy, đủ mọi các thứ loại hạnh của chúng sanh, trong khoảng một niệm suy nghĩ ấy, vừa mới chuyển tụng, có thể tạo ra hết thảy các chủng tử của nghiệp lành như thế. Lại này, Bí Mật Chủ! Như Lai không gì chẳng làm, các vị Bồ Tát tu hành trong Chân Ngôn môn giống như hình bóng, tùy thuận hết thảy mọi nơi, tùy thuận hết thảy chân ngôn tâm, đều trụ đằng trước [vị Bồ Tát ấy], khiến cho các hữu tình đều được hoan hỷ, đều do ý chẳng phân biệt của Như Lai mà lìa các cảnh giới).

 

          “Ý sanh thân” tức là nói tóm lược. Thuận theo ý mong muốn mà đều được thành tựu, như đạt được Ý Sanh Thân thuận theo ý niệm đến khắp mười phương. Hãy nên biết Như Lai có phương tiện tự tại như thế, có thể khiến cho trong hạnh “vô tướng ly tướng” mà hiện trọn khắp sắc thân, hoàn thành hết thảy các Phật sự. Khi vừa mới trì tụng, có thể phá hoại hết thảy chủng tử sanh tử, thành tựu chủng tử Bồ Đề. “Chuyển” tức là chuyển trong “chuyển tụng”. Hành giả nếu có thể tu hành như thế, chư Phật sẽ thường hiện ra trước người ấy, như bóng theo thân, thỏa mãn ước nguyện. Hành giả đã được mãn nguyện ấy rồi, liền có thể chẳng xả hết thảy chúng sanh, cũng lại thường hiện trước họ, thỏa mãn nguyện của họ, khiến cho họ đạt được pháp hỷ. Vì thế nói “đồng ư ảnh tượng” (giống như hình bóng). Trong hết thảy các chỗ, tùy thuận hết thảy chúng sanh. Vì lẽ nào vậy? Các đức Như Lai ấy trụ trong địa vị Tam Bình Đẳng, chẳng có hý luận phân biệt.

          (Kinh) Nhi thuyết kệ ngôn: - Vô thời phương tạo tác, ly ư pháp, phi pháp, năng thọ Tất Địa cú, chân ngôn hạnh phát sanh. Thị cố, Nhất Thiết Trí, Như Lai Tất Địa quả, tối vi tôn thắng cú, ưng đương tác thành tựu.                 

()說偈無時方造作,離於法非法,能授悉地句,真言行發生。是故,一切智,如來悉地果,最為尊勝句,應當作成就。

          (Kinh: Bèn nói kệ rằng: - Chẳng thời, phương, tạo tác, lìa khỏi pháp, phi pháp, hay thọ câu Tất Địa, hạnh chân ngôn phát sanh. Do vậy, Nhất Thiết Trí, Như Lai Tất Địa quả, là câu tôn thắng nhất, hãy nên làm thành tựu).

                  

          Lại còn vượt khỏi hết thảy các tâm “cảnh tướng, giới, thời, phương, tác nghiệp”, hết thảy cũng đều lìa. “Thời” tức là sanh diệt trong thời hạn tam thế. “Phương” tức là nơi chốn. “Tác” là các nghiệp. Tuy hiện muôn vàn hình tượng mà giống như chẳng hiện gì, giống như trong mười thí dụ, pháp và phi pháp đều cùng xa lìa. Do đạt được vô tận trang nghiêm tạng như thế, cho nên có thể ứng trọn khắp hết thảy chúng sanh. Vì thế, hành giả hãy nên siêng cầu Vô Thượng Tất Địa nơi hạnh chân ngôn này. Đó gọi là trí Nhất Thiết Trí của Như Lai. Hãy nên biết: Đấy là tối thượng trong các thành tựu, không có gì bằng, chẳng có gì sánh bằng. Nhất Thiết Trí do hạnh Chân Ngôn mà trụ. Vì thế, hãy nên siêng học. Tới đây, phẩm Tất Địa đã xong.



[1] Tam-ma-bát-để được dịch nghĩa là Đẳng Chí, Chánh Thọ, Chánh Định Hiện Tiền, có nghĩa là do xa lìa các chướng ngại như hôn trầm, điệu cử v.v… mà thân tâm đạt tới cảnh bình đẳng, an hòa.

 

[2] Ngữ biểu là sự biểu thị bằng từ ngữ dể diễn đạt một lý nào đó; ở đây có nghĩa là chân ngôn.

 

[3] Tức là ao A Nậu Đạt (Anavatapta). Theo Câu Xá Luận, quyển mười một, ở giữa phía Bắc của Tuyết Sơn và phía Nam của Hương sơn, có một cái ao lớn, tên là Vô Nhiệt Não, là nguồn của bốn con sông lớn: Sông Hằng, sông Tín Độ (Sindhu, tức sông Indus hiện thời), sông Tỷ Đa (Sītā, tức sông Sir-Daria hiện thời), và sông Phược Sô (Vaksu, tức sông Amu Daria).

 

[4] Mang Đát Rị (Mātṛs) có nhiều cách hiểu:

 

- Thất Mẫu Mang Đát Rị, tức bảy chị em của Diêm La Vương.

 

- Trong Bà La Môn giáo, Mātṛs là thánh mẫu, tức nhân cách hóa năng lực của một vị thần, hoặc phối ngẫu của vị thần ấy. Tám vị thánh mẫu được tôn sùng nhất là Brāhmī (mẹ của Phạm Vương, tức Brahma. Có thuyết nói vị này là vợ của Phạm Vương), Māheśvarī (mẹ của thần Shiva), Vaiṣṇavī (mẹ của thần Viṣnu); Aindri (Indrāṇī), of Indra; Varahi (vợ có hình đầu lợn của Viṣnu, vị này được Mật Tông gọi là Kim Cang Hợi), Kaumārī (mẹ của thần Kartikeya); Cāṃuṇḍī (mẹ của thần Kuvera), và Nārasiṃhī (mẹ của thần Narasimha).

 

- Là danh xưng của Diễm Ma Hậu (Yami) tức vợ của vua Diêm La.

 

- Là tôn hiệu của Lakṣmi (vợ của thần Viṣnu).

 

[5] Tức là chày kim cang kép (visva-vajra), còn gọi là Yết Ma kim cang (karma-vajra) gồm hai chày kim cang năm nhánh nối kết với nhau ở phần giữa thành hình chữ thập.

 

[6] Khaḍga (còn gọi là Khaṅga) là một loại kiếm thẳng, lưỡi kiếm được mài bén cả hai bề. Do cực sắc bén và mạnh mẽ, kiếm này thường được dùng tượng trưng cho trí huệ. Trong Mật Tông, loại kiếm này được cầm bởi Văn Thù Bồ Tát, Bất Động Minh Vương, Đại Hắc Thiên (Mahakala), Công Đức Thiên (Śrīdēvī, thường được biết phổ biến với danh xưng Palden Lhamo, tức thần bảo hộ của Dalai Lama).

 

[7] Thuốc An Thiện Na (còn được phiên âm là An Thiền Na, A Xà Na), có hai cách giải thích:

 

- Một là loại thuốc trị bệnh mắt, có màu xanh đen.

 

- Hai là tên một loại thực vật, lá nó có thể dùng để làm thuốc trị bệnh mắt.

 

[8] Lô Giá Na có nhiều nghĩa, nếu hiểu là một loại thuốc thì chính là mật của bò, hay ngưu hoàng (bezoar).

 

[9] Ngưu Hoàng ở đây là nói chung, tức là trong thể loại được coi là Lô Giá Na thì bao gồm Ngưu Hoàng (chất sạn của bò, mật của bò), hoặc các vị thuốc sau đó như Không Thanh, Châu Sa, Hùng Hoàng, Thư Hoàng v.v… Không Thanh (Azurite) là hydroxide bicarbonate đồng như đã giải thích trong phần trước. Châu Sa (Cinnabar) còn gọi là Đan Sa, Xích Đan, hoặc Hống Sa, chính là sulfide thủy ngân (HgS) có màu đỏ tươi, thường được dùng trong Đông Y để trị động kinh, an thần, trấn tĩnh. Nhưng theo các nghiên cứu mới nhất, 10% thuốc Đông Y có chứa Châu Sa, và Châu Sa dùng lâu ngày có thể gây tổn thương thận, bao tử, nhất là hệ thống thần kinh… Hùng Hoàng (Realgar) càng độc hơn nữa vì nó là Sulfide Arsenic (As4S4), có màu đỏ sậm, nhưng thấu quang. Thư Hoàng (Orpiment) cũng là Sulfide Arsenic (As2S3), nhưng có màu từ vàng chanh cho tới vàng óng. Người xưa thường dùng Hùng Hoàng để pha rượu uống vào tiết Đoan Ngọ với mục đích khử trùng cho thân thể.

 

[10] Ý Sanh Thân (Manomayaṃ kāyaṃ) còn gọi là Ý Thành Thân, Ý Thành Sắc Thân, tức cái thân chẳng do cha mẹ sanh ra, mà là thân do bậc Địa Thượng Bồ Tát (từ Sơ Địa trở lên) thuận theo tâm ý của chúng sanh mà hóa hiện để tế độ chúng sanh. Ngoài ra các thân trong giai đoạn Trung Hữu, người thuộc kiếp sơ, thân của chư thiên Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thân biến hóa đều được gọi là Ý Sanh Thân vì các thân ấy có thể thuận theo ý niệm mà biến đổi.

 

[11] Do chư Phật biến hiện đủ loại thần thông nhằm thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến họ sanh lòng ưa thích, tin tưởng, quy hướng, giống như một hình thức “biểu diễn” để thu hút chúng sanh, nên gọi các chuyện thần thông biến hiện ấy là “vũ hý” (múa, biểu diễn trò vui).

 

[12] Tô La Đa dịch nghĩa là Diệu Thích, Diệu Trụ, Diệu Trước, Diệu Lạc, có nghĩa là cộng trụ an lạc, cùng trụ trong diệu lý để thọ hưởng pháp lạc.

 

[13] Câu này có ý nói: Xét theo lý, do các nhân chẳng thể được, nên nó là vô tánh. Do nhân là vô tánh, quả cũng là không (vì thế, quả cũng là vô tánh). Do nhân và quả là vô tánh, nên nghiệp chẳng sanh khởi. Do cả ba thứ ấy (nhân, quả, nghiệp) là vô tánh, nên hành giả quán lý ấy, đắc Không trí huệ.

 

[14] “Hư không” Không là tánh Không được thể hiện nơi hư không, hoặc có thể là Thể của hư không là Không.

 

[15] Khiết Già (Khaḍga): Loại kiếm có lưỡi được mài bén cả hai phía.

 

[16] Na Thích Giá (Nārāca): Mũi tên bằng sắt. Chúng tôi ngờ rằng ở đây là khi khắc ván, đã khắc sai chữ Lạt () thành Thích (), vì Na Lạt Giá sẽ gần với âm tiếng Phạn hơn. Hình vẽ trong phần Sớ cũng ghi chữ này là Na La Giá (那羅遮).

 

[17] Mục Kiệt Lam (Mudgara): Chùy, búa, vồ. Lời Sớ phiên âm thành Một Nghiệt Lam (沒蘗藍).

Comments

Popular posts from this blog