Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
28. Phẩm thứ hai mươi tám: Nói
về Bổn Tôn tam-muội
Thuyết Bổn Tôn Tam-muội Phẩm Đệ Nhị Thập Bát
說本尊三昧品第二十八
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Nguyện thuyết chư tôn sắc tượng, oai nghiệm hiện tiền, linh Chân Ngôn môn tu Bồ
Tát hạnh chư Bồ Tát quán duyên Bổn Tôn hình cố, tức Bổn Tôn thân dĩ vi tự thân,
vô hữu nghi hoặc, nhi đắc Tất Địa”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ năng vấn ngô như thị
nghĩa, thiện tai, đế thính! Cực thiện tác ý, ngô kim diễn thuyết”. Kim Cang Thủ
ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Chư tôn
hữu tam chủng thân, sở vị tự, ấn, hình tượng. Bỉ tự hữu nhị chủng, vị thanh cập
Bồ Đề tâm. Ấn hữu nhị chủng, sở vị hữu hình, vô hình. Bổn Tôn chi thân, diệc hữu
nhị chủng, sở vị thanh tịnh, phi thanh tịnh. Bỉ chứng tịnh thân, ly nhất thiết
tướng, phi tịnh hữu tưởng chi thân tắc hữu hiển hình, chúng sắc. Bỉ nhị chủng
tôn hình, thành tựu nhị chủng sự: Hữu tưởng cố thành tựu hữu tướng Tất Địa, vô tưởng cố tùy sanh vô tướng Tất Địa.
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:世尊!願說諸尊色像威驗現前,令真言門修菩薩行諸菩薩觀緣本尊形故,即本尊身以為自身,無有疑惑而得悉地。如是說已,佛告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝能問吾如是義。善哉諦聽,極善作意,吾今演說。金剛手言:如是。世尊!願樂欲聞。佛言:祕密主!諸尊有三種身,所謂字、印、形像。彼字有二種,謂聲及菩提心。印有二種,所謂有形、無形。本尊之身亦有二種,所謂清淨、非清淨。彼證淨身離一切相,非淨有想之身則有顯形眾色。彼二種尊形,成就二種事:有想故成就有相悉地,無想故隨生無相悉 地。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin hãy nói hình sắc và oai thần
linh nghiệm hiện tiền của các vị tôn thánh, khiến cho các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn do nương theo hình tượng của Bổn Tôn để quán, liền biến
thân Bổn Tôn thành thân của chính mình, chẳng có ngờ vực, đạt được Tất Địa”.
Nói như thế xong, đức Phật bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay!
Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông có thể hỏi ta nghĩa như thế. Lành thay! Lắng nghe,
hãy cực khéo suy nghĩ, ta nay diễn nói”. Kim Cang Thủ thưa: “Đúng như thế, bạch
Thế Tôn! Con nguyện ưa thích, muốn được nghe”. Đức Phật dạy: - Bí Mật Chủ! Chư
tôn có ba loại thân, tức là chữ, ấn, và hình tượng. Chữ có hai loại, tức là
thanh và Bồ Đề tâm. Ấn có hai loại, tức là hữu hình và vô hình. Thân Bổn Tôn
cũng có hai loại, tức là thanh tịnh và chẳng thanh tịnh. Các vị ấy đã chứng
thân thanh tịnh, lìa hết thảy các tướng. Thân chẳng tịnh, có tưởng thì sẽ hiển
lộ hình tướng, các sắc. Hai loại hình tượng tôn thánh thành tựu hai loại sự: Do
hữu tưởng nên thành tựu hữu tướng Tất Địa.
Do vô tưởng nên thuận theo đó mà sanh ra vô tướng Tất Địa).
Lúc bấy giờ, ngài
Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: “Bạch
đức Thế Tôn! Xin hãy nói về oai thần linh nghiệm của Bổn Tôn, khiến cho các Bồ
Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn quán tưởng hình tượng Bổn Tôn”. Đức Phật dạy: - Này Bí Mật Chủ! Chư
tôn có ba loại hình, tức là chữ, ấn và hình mạo. Chữ có hai loại là âm thanh và
Bồ Đề tâm. Kế đó, ấn cũng có hai loại, tức là hữu tướng và vô tướng. Tướng có
nghĩa là sắc, tức là có hình tượng và không hình tượng. Hình tượng của Bổn Tôn
cũng gồm hai loại là tịnh và chẳng thanh tịnh. Các Ngài chứng hình sắc thanh tịnh,
“hình sắc” tức là thân, Thể như
hư không, lìa hết thảy các tướng. Thân chẳng thanh tịnh, hữu tưởng, tức là có
các hình sắc hiển lộ. Hai loại hình tướng của chư tôn tạo thành hai loại sự:
- Do hữu tướng mà thành hữu tướng Tất
Địa.
- Do chẳng phải tướng nên thành phi tướng
Tất Địa.
[Phần chánh kinh] trên đây cũng đã kể
ra.
(Kinh) Nhi thuyết kệ ngôn: - Phật thuyết hữu tưởng cố, lạc dục thành hữu
tướng, dĩ trụ vô tưởng cố, hoạch vô tướng Tất Địa. Thị cố nhất thiết chủng,
đương trụ ư phi tưởng.
(經)而說偈言:佛說有想故,樂欲成有相 ;以住無想
故,獲無相悉地。是故一切種,當住於非想。
(Kinh:
Bèn nói kệ rằng: - Do Phật nói hữu tưởng, lạc dục thành hữu tướng. Do trụ trong
vô tưởng, đắc vô tướng Tất Địa. Vì thế, hết thảy loại, nên trụ trong phi tưởng).
Kế đó, dẫn Phật làm chứng. Do hữu tướng,
nên thành hữu tướng [Tất Địa]. Đức Phật thường nói như thế. Nếu tâm trụ vào phi
tưởng, sẽ thành phi tưởng [Tất Địa]. Đức Phật trước hết nêu ra như thế. Do vậy,
để thành hết thảy các loại, hãy nên trụ trong bi tưởng. Do nói “sự tùy tâm”, hãy nên cầu xuất thế.
Đã quán hình tượng Bổn Tôn rồi, sẽ đạt được Tất Địa chẳng ngờ chi. Trên đây là
lời hỏi của ngài Kim Cang Thủ.
Bổn Tôn trong tiếng Phạn là Sa Dã Địa
Đề Phạ Đa (Sveṣṭa-devatā). Nếu chỉ nói là Đề
Phạ Đa (Devatā) thì ý nghĩa trực tiếp
là Tôn. Tôn cũng nói là “tự tôn”,
tức là vị tôn thánh [của thần chú, hay pháp môn] mà chính mình đang trì. Hành
giả do thân ấn, chân ngôn và quán Bổn Tôn, ba sự ấy hòa hợp, Bổn Tôn liền tự
giáng lâm đạo tràng để gia bị. Nhưng chuyện này đối với hành giả khi mới hành,
vẫn là phàm phu tự chẳng có đức lực, sao có thể cảm Phật, Bồ Tát ứng hiện như
thế cho được? Chỉ vì các vị Phật, Bồ Tát trước kia đã lập đại thệ nguyện, lời lẽ
chân thành: “Nếu có chúng sanh vâng
theo pháp này của ta mà tu hành, chẳng thiếu sót pháp tắc, ta ắt ngầm ứng, hoặc
tuy chẳng đến mà gia hộ từ xa. Nếu hành nhân thực hiện pháp tắc đúng pháp, mà
chẳng cảm ứng, chính là trái nghịch bổn nguyện”. Vì thế, chẳng thể không ứng! Như [cầm] Phương Chư[1]
hướng về mặt trăng, bèn có nước tuôn ra; gương tròn hướng về mặt trời, bèn sanh
ra lửa. Nhân duyên tương ứng, chẳng suy nghĩ, [mà có lửa, hay nước sanh ra],
các pháp ấy cũng có thể dùng để sánh ví. Trọn chẳng phải là chư Phật có tâm hạnh
ứng phó giống như phàm phu. Nếu tâm chẳng tương ứng, sự duyên khuyết thiếu, ắt
Bổn Tôn sẽ chẳng gia trì, hộ niệm. Vì thế, chẳng ứng nghiệm, chẳng phải là lỗi
của các vị Phật, Bồ Tát! Nhưng hành giả do vì chuyện này, cần phải nên chánh
quán thân thanh tịnh của Bổn Tôn. Nếu đã thấy thân thanh tịnh, liền dùng thân
chính mình làm thân Bổn Tôn. Chẳng lo ngờ như thế, Tất Địa mong cầu không gì chẳng
thành tựu cái quả! Kinh nói “duyên”
tức là nếu hành giả nương theo Bổn Tôn mà quán như thế, “vô nghi” là do tương ứng với Bổn Tôn, chẳng còn có tâm nghi
nan. Vì thế, chuyện tu tập ắt thành. Trên đây, phần thưa hỏi đã xong.
Đức Phật bảo: “Lành thay! Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông có thể hỏi ta chuyện như thế. Do
vậy, Kim Cang Thủ! Hãy cực khéo suy nghĩ, ta sẽ nói” cho đến [ngài Kim
Cang Thủ thưa] “con nguyện ưa thích muốn
nghe”. Do ngài Kim Cang Thủ có thể khéo léo theo thứ tự nêu ra nghi vấn,
nhằm khuyên các vị Bồ Tát thuộc Chân Ngôn hạnh trong vị lai, lại còn an ủi, răn
dạy, khuyên nhủ. Kế đó, đức Phật nói: “Bí
Mật Chủ! Hình tướng Bổn Tôn có ba chuyện là chữ, ấn và hình”. Hình chính
là “tôn hình” (hình sắc của Bổn
Tôn). Chữ có hai loại là âm thanh và Bồ Đề tâm. Tức là hành giả thoạt đầu tu
hành nơi chữ, đại lược có hai loại quán tự nghĩa:
- Nếu chỉ quán Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm
chính là chữ, tức các chữ như A, Ca, Giá, Trá, Đa, Bà v.v… chỉ nêu ra các chữ đứng
đầu. Tuy các chữ đều như vậy, nhưng lấy [các chữ trên đây] làm đầu tiên, nên
nói là Bồ Đề tâm.
- Hoặc quán tự luân, tức là tưởng chân
ngôn mình đã trì tụng tạo thành hình như vòng tròn nhập vào thân, như phẩm Trì
Tụng trong phần trước đã nói, hoặc quán chữ chủng tử cũng đều là như thế. Hoặc
chẳng quán chữ, chỉ niệm âm thanh, tức là quán âm thanh ấy như tiếng chuông,
khánh, theo thứ tự chẳng dứt, và dùng âm thanh ấy để điều hòa hơi thở ra vào.
Những điều vừa nói trên đây đều là
quán tự nghĩa. Nói về Chữ đã xong.
Ấn hình cũng có hai thứ, tức là hữu
hình và vô hình. “Hình” tức là
các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Hoặc hình thể vuông, tròn, tam giác v.v… Hoặc
các tướng như co, duỗi, ngồi, đứng và chỗ trụ. “Ấn” tức là các thứ pháp khí được [chư tôn] cầm, như đao, bánh
xe, dây trói, chày kim cang… Sơ tâm thì duyên theo từng điều riêng biệt để
quán, tức là trước hết quán hình vẽ của tôn thánh. Ước theo đó mà quán thì gọi
là “hữu hình”. Về sau, dần dần
thuần thục, lại do sức gia trì, tự nhiên mà hiện tương ứng với tâm. Lúc bấy giờ,
vị Bổn Tôn ấy chỉ từ tâm hiện, chẳng do ngoại duyên nào khác, cho nên nói là “vô hình”. Tôi cho rằng: Có thể là
thoạt đầu đạt được tam-muội thế gian, thấy Bổn Tôn có hình thể như thế, sắc như
thế, trụ xứ như thế, đứng ngồi như thế, ở trong Mạn-đồ-la trì ấn như thế v.v…
Do có các tướng ấy, nên gọi là “hữu
hình”. Về sau, chuyển chân ngôn, thấy trực tiếp rành rành, giống như
hình bóng trong gương, chẳng nghĩ mà thấy, nên gọi là “vô hình”.
Kế đó, Bổn Tôn hình có hai loại, tức
là thanh tịnh và chẳng thanh tịnh. Ý nói: Thoạt đầu hành giả do từ hữu tướng mà
dẫn nhập vô tướng. Trước hết, quán trong vầng tròn sáng có ấn và thân của Phật,
Bồ Tát. Thoạt đầu quán sẽ chẳng thấy, phải nhờ vào tượng vẽ v.v... để quán. Dần
dần được pháp lực gia bị, sẽ dần dần thấy rõ, nhưng vẫn còn bị ngăn chướng, nhắm
mắt liền thấy, mở mắt chẳng thấy. Kế đó là dần dần nhắm mắt hay mở mắt đều thấy
rõ. Dần dần không cần tác ý vẫn thấy, cho đến đụng chạm thân cũng vô ngại, ví
như tận mắt nhìn thấy người đời vậy. Do từ hữu tướng dần dần dẫn vào chỗ thanh
tịnh, vì hữu tướng nên gọi là “phi tịnh”.
Do Tam-ma-hế-đa bình đẳng dẫn khởi, trụ trong chỗ thanh tịnh, vắng lặng, vô tướng,
nên gọi là Tịnh. Tịnh là quả, phi tịnh là nhân. “Phi tịnh” tức là hình, sắc, ấn, hình tượng… Do phi tịnh dẫn khởi
mà thành tịnh, do cái nhân vô thường mà đạt tới cái quả thường hằng. Tôi cho rằng
ba chuyện này, mỗi thứ đều có hai loại, liền hành theo thứ tự. Quán trì chân
ngôn thì quán nơi chữ; kế đó, quán âm thanh dần dần vi tế. Kế đó, quán hình sắc
của Bổn Tôn lại vi tế hơn. Kế đó, chẳng do duyên nào khác mà quán càng vi tế
hơn. Kế đó, do vô duyên mà lại có tịnh, bất tịnh, và thuần tịnh. Hoặc có thể
nói theo chiều ngang, ba chuyện ấy mỗi chuyện đều có phương tiện thế gian và xuất
thế gian, cho nên đều có hai vậy!
Kinh nói “bỉ nhị chủng” (hai loại ấy), “nhị” tức là ba sự trên đây, mỗi sự đều có hai loại. Trong hai
loại ấy, mỗi loại lại có hai thứ sự, [tức là] do thành tựu hữu tưởng nên hữu tưởng,
do phi tưởng nên phi tưởng, Tất Địa thuận theo đó mà sanh. Nghĩa là nếu dùng
chuyện hữu tưởng để quán thấy, sẽ được thành tựu nơi hữu tướng. Nếu là vô tướng
thì cũng đạt được vô tướng Tất Địa thành tựu. Lại nói: Trong hai loại thuộc ba
chuyện ấy, tùy ý dùng một chuyện, sẽ đều đạt tới thành tựu, nhưng đều có thành
tựu thế gian và xuất thế gian, cũng như sự thành và lý thành. Vì thế, trong ba
loại trên đây, mỗi thứ đều có hai loại thành tựu. Kinh nói do hữu tưởng thì sẽ
thành tựu hữu tưởng, nếu trụ trong phi tưởng sẽ có phi tưởng thành tựu. Vì thế,
để thành tựu một loại sự, hãy nên trụ trong phi tưởng. Đó là khuyên lìa hết thảy
các tưởng, trụ trong phi tưởng, nhằm kết lại lời khuyên. Do trụ trong phi tưởng,
sẽ là lý thành tựu. Hết thảy các thần biến chẳng thể nghĩ bàn, chẳng kèm thêm
tâm tưởng mà tự nhiên thành tựu diệu nghiệp. Chẳng giống như thành tựu thế
gian, do thuộc trong tâm hạnh sanh diệt mà sức hữu hạn, lại chẳng rốt ráo! Vì
thế, khuyên [hành nhân hãy nên] chọn lấy điều thù thắng. Tôi cho rằng trong các
kinh như Đại Bát Nhã đã nói cặn kẽ chuyện quán tưởng nhằm gột rửa cái tâm,
nhưng cần phải có gốc. Nay hành nhân trước hết từ duyên mà khởi quán, cho đến
thấy trọn khắp các thứ cảnh giới nơi các thế giới trong mười phương Phật hội,
coi đó là Tất Địa. Sau đấy, tịnh trừ gột rửa bằng Bát Nhã, liền trở thành đại dụng
chẳng nghĩ bàn, nhanh chóng nhập Phật quả. Nếu chẳng biết hành theo thứ tự, chỉ
xem kinh văn, chẳng nhập chỗ sâu xa, bí mật, sẽ phần nhiều dẫn đến chuyện hiểu
sai ý kinh, bỗng dưng nhập Không, đánh mất đạo viên đốn. Vì vậy, đối với hai phẩm
này, cần phải quán chắc chắn tột bậc ý nghĩa.
[1] Phương
Chư (方諸) là một loại
gương bằng đồng dùng trong nghi thức tế bái mặt trăng thời cổ. Trịnh Huyền chú
giải chương Tư Huyễn Thị trong phần Thu Quan của sách Châu Lễ cho biết: Cổ nhân
có hai loại gương bằng đồng xanh. Loại để lấy lửa từ mặt trời gọi là Dương Toại
(còn gọi là Hỏa Kính). Loại lấy nước từ mặt trăng gọi là Âm Toại (còn gọi là Thủy
Giám, Giám Chư, hoặc chỉ gọi là Giám), nhưng thế tục quen gọi là Phương Chư.
Vào đêm trăng tròn, họ dùng Phương Chư hướng về mặt trăng, hứng lấy sương đọng,
gọi là Minh Thủy. Dùng nước đó để tưới lên thóc lúa trong lễ Minh Trai, nhằm cầu
mùa màng bội thu. Sách Đại Đường Khai Nguyên Lễ quyển hai mươi hai chép vào thời
đó, chức quan Quang Lộc Khanh chuyên trách dùng Dương Toại lấy lửa từ mặt trời
để đốt đuốc, nến trong lễ tế. Quan Thái Sử dùng Phương Chư để lấy nước dùng
cúng tế. Thậm chí, Hán Vũ Đế còn cho rằng nước sương hứng từ mặt trăng uống vào
sẽ có tác dụng trường sinh bất lão!
Comments
Post a Comment