Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

25. Phẩm thứ hai mươi lăm: Hạnh thuộc ba môn tam-muội-da

Tam Tam-muội-da Hạnh Phẩm ĐNhị Thập N

三三昧耶行品第二十五

 

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn sở thuyết tam tam-muội-da, vân hà thuyết thử pháp vi tam tam-muội-da?” Như thị ngôn dĩ, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ vấn ngô như thị nghĩa, Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.

          ()爾時執金剛祕密主白佛言世尊所說三三昧耶云何說此法為三三昧耶如是言已世尊告執金剛祕密主言善哉善哉祕密主汝問吾如是義祕密主汝當諦聽善思念之吾今演金剛手言如是世尊願樂欲聞

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch đức Phật rằng: “Đức Thế Tôn nói ba môn tam-muội-da, vì sao nói các pháp ấy là ba môn tam-muội-da?” Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế. Bí Mật Chủ! Ông hãy nên lắng nghe, ta nay sẽ diễn thuyết”. Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con mong ưa thích được nghe”).

 

          Trong phần trước đã nói, nhưng chưa trọn hết, [nay ngài Chấp Kim Cang] nương theo ý trên mà thưa hỏi, cho nên nói lời ấy. Ý của lời hỏi là: “Đối với ba môn tam-muội-da, những pháp gì là ba môn tam-muội-da?” Phật coi lời hỏi này là đại sự nhân duyên; do vậy, tán thán xong, bèn răn bảo [ngài Chấp Kim Cang] hãy tiếp nhận cẩn thận, cho đến [ngài Bí Mật Chủ] thưa vâng, lãnh nhận, kinh văn dễ hiểu!

                  

          (Kinh) Phật ngôn: - Hữu tam chủng pháp tương tục trừ chướng

tương ứng sanh, danh tam tam-muội-da. Vân hà bỉ pháp tương tục sanh? Sở vị sơ tâm bất quán tự tánh, tùng thử phát huệ, như thật trí sanh, ly vô tận phân biệt võng. Thị danh đệ nhị tâm Bồ Đề vô phân biệt Chánh Đẳng Giác cú. Bí Mật Chủ! Bỉ như thật kiến dĩ, quán sát vô tận chúng sanh giới, bi tự tại chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm sanh, sở vị ly nhất thiết hý luận, an trí chúng sanh, giai linh trụ ư vô tướng Bồ Đề. Thị danh tam tam-muội-da cú.

          ()佛言有三種法相續除障相應生名三三昧耶云何彼法相續生所謂初心不觀自性從此發慧如實智生離無盡分別網是名第二心菩提無分別正等覺句祕密主彼如實見已觀察無盡眾生界悲自在轉無緣觀菩提心生所謂離一切戲論安置眾生皆令住於無相菩提是名三三昧耶句

          (Kinh: Đức Phật nói: - Có ba loại pháp liên tục mà sanh, tương ứng với sự trừ chướng, được gọi là ba môn tam-muội-da. Các pháp ấy nối tiếp nhau sanh khởi như thế nào? Chính là sơ tâm chẳng quán tự tánh. Từ đó, phát sanh huệ, trí như thật sanh ra, lìa khỏi lưới vô tận phân biệt. Đó gọi là câu “tâm Bồ Đề vô phân biệt, Chánh Đẳng Giác” thứ hai. Này Bí Mật Chủ! Người ấy đã thấy như thật rồi, quán sát vô tận chúng sanh giới, lòng bi tự tại, chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm phát sanh. Đó gọi là lìa hết thảy các hý luận, đặt yên chúng sanh, khiến cho họ đều trụ trong vô tướng Bồ Đề. Đó gọi là câu “ba môn tam-muội-da”).

         

          Ba môn tam-muội-da ấy, trong Đại Bổn giải thích cặn kẽ có đến một ngàn hai trăm bài kệ. Ở đây, chỉ nêu đại lược ý chánh yếu, các nghĩa khác không ra ngoài ý nghĩa chánh yếu ấy. Đức Phật nói có ba loại pháp liên tục (“liên tục” là “sanh”) trừ khử các thứ gây chướng, khiến cho tương ứng với vô chướng. Nói “trừ chướng” tức là sanh khởi tương ứng với vô chướng, gọi đó là “ba môn tam-muội-da” (do Du Già tương ứng với vô chướng, nên chính là ba môn tam-muội-da). Các pháp ấy liên tục như thế nào? Kế đó, trong lời giải đáp, đức Phật dạy: Trước hết, ba pháp liên tục chẳng gián đoạn chính là ý nghĩa của tam-muội-da. Nhưng trong tiếng Phạn, “liên tục” (nirvataya) có ý nghĩa giống như “chướng” (nīvaraṇa), cũng có thể bao gồm cả hai ý nghĩa ấy. Do liên tục mà nếu có gián đoạn thì chẳng phải là tam-muội-da; đấy chính là “chướng sanh”. Do vậy, kiêm cả hai nghĩa. Cái được gọi là “vô gián tương tục” (liên tục không gián đoạn) chính là ngôn hạnh liên tục, tâm và miệng tương ứng. Hễ đã phát tâm thì thân, miệng, việc làm đều chẳng dám trái vượt, miệng thốt thệ nguyện, tâm hạnh cũng tu như thế; đó gọi là tam-muội-da.

          Kinh dạy “sơ tâm bất quán tự tánh, tùng thử phát huệ” (hàng sơ tâm chẳng quán tự tánh, từ đó phát sanh trí huệ). Kế đó, trí như thật sanh khởi, lìa khỏi lưới phân biệt vô tận. Đó là tướng thứ hai của Bồ Đề tâm. Chẳng phân biệt Phật cú, như thật quán thấy chúng sanh giới vô tận. Bí Mật Chủ! Lòng bi tự tại, chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm phát sanh, tức lìa hết thảy hý luận, đặt yên chúng sanh trụ trong vô tướng Bồ Đề tâm. Đó là ba môn tam-muội-da. Đấy là các ý chánh trong kinh văn. Sơ tâm chẳng quán tự tánh (“bổn tánh” cũng là sơ khởi); từ đấy, phát sanh trí huệ, trí như thật sanh khởi. Tức là hiểu rõ Thật Tướng, “hiểu rõ” là trí vậy. “Lìa lưới phân biệt vô tận” gọi là “cái tâm thứ hai”. Câu “Bồ Đề tướng vô phân biệt Tam Bồ Đề: Bí Mật Chủ! Người ấy đã thấy như thật rồi, quán chúng sanh giới vô tận, lòng Bi tự tại, chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm sanh khởi. Nói “lìa hết thảy hý luận, đặt yên chúng sanh đều trụ trong vô tướng Bồ Đề”, đấy chính là đại bi nguyện. Đó gọi là câu “ba môn tam-muội-da”.

          Trong ba câu ấy, [hành nhân] thoạt đầu chỉ có thể phát tâm thề mong thành Phật, nhưng chưa thể chánh quán công đức của Như Lai, chẳng thể biết rõ dùng pháp gì để được thành Phật, chẳng thể có trí huệ quán chiếu toàn vẹn, chỉ có tâm cầu Phật, chưa thể liễu đạt bổn tánh nơi thân chính mình có công đức gì! [Người ấy] chỉ có huệ tánh ấy, có thể ở trong sanh tử, tối sơ phát tâm cầu Phật quả. Đó là tam-muội-da thứ nhất. Do cái tâm ấy, đạt được trí như thật phát sanh, tức là có thể dùng huệ để quyết trạch[1], biết rõ điều này là công đức, điều kia chẳng phải là công đức, thị xứ, phi xứ, biết tướng tà chánh. Do đạt được trí như thật, có thể lìa lưới phân biệt, kiến chấp hư vọng, khéo diệt các hý luận, an trụ trong tướng chân thật; nhưng thật trí ấy chính là Bồ Đề tâm. Tam-muội-da (Samaya) có nghĩa là “bình đẳng”. Tâm bình đẳng đã phát, được gọi là tam-muội-da. Sơ tâm tuy chưa trọn đủ Thật Trí, nhưng vẫn thề thành Phật độ người khác; đó chính là cái tâm bình đẳng. Vì thế, cũng được gọi là tam-muội-da.

          Từ cái tâm liên tục thứ hai này, do chẳng gián đoạn, chẳng chướng ngại, kế đó, từ trong câu chân thật, đã hiểu rõ chân và giả, từ trong hết thảy vô tận chúng sanh, khởi tâm đại bi, đó tam-muội-da thứ ba. Do hết thảy chúng sanh đều cùng có tánh này, nhưng chẳng thể tự hiểu rõ, đành phải chịu luân hồi sanh tử chẳng ngằn mé. Nay ta đã tự giác liễu, hãy nên khai trọn khắp quang minh trí huệ của Phật, khiến cho [hết thảy chúng sanh] thảy đều như ta. Đó tức là đại bi. Do thấy thật, “chẳng thật” sẽ tự trừ, chẳng phải từ bên ngoài có pháp vào trong thân! Khi vọng trừ, thì Thật Tướng tự hiện. Trong phần trên đã nói kinh này có ba cú nghĩa: “Bồ Đề tâm làm chủng tử” là câu đầu tiên, “đại bi làm căn” chính là câu thứ hai. Trước đó đã lấy đại bi làm căn, nay điều gì thuộc vào câu thứ ba? Ở đây, lấy Chiếu Liễu (hiểu biết thấu triệt) làm căn. Do có thể chiếu liễu đúng sai thì mới có thể sanh ra Bi, nghĩa tướng đã thành. Thứ ba là “phương tiện làm rốt ráo”. Ở đây nói là đại bi, cũng được thành tựu. Do hưng khởi đại bi mà thực hiện phương tiện hòng nhiếp thọ hết thảy. Ba chuyện ấy từ đầu tới cuối liên tục, chẳng gián đoạn, được gọi là “ba môn tam-muội-da”. Do trụ chân, liễu vọng, vì chúng sanh mà dấy lòng đại bi, trừ hết thảy hý luận của chúng sanh. Từ đấy trở đi, liền dùng phương tiện để làm Phật sự.

          “Hý luận” là như người đời dùng cái tâm tán loạn biểu hiện thành các hoạt động nơi thân và miệng, chỉ khiến cho họ thỏa ý, nhưng chẳng có thật nghĩa! Nay cái thấy hư vọng và việc được thực hiện cũng đều như thế, nên gọi là “hý luận”. “Khiến cho chúng sanh trụ trong Bồ Đề” tức là khiến cho chúng sanh trụ trong pháp ấy, chẳng khác gì ta, tức là ý nghĩa “an trụ trong tạng bí mật của các con [đức Thế Tôn]”.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Hữu tam tam-muội-da, tối sơ Chánh Giác tâm, đệ nhị danh vi pháp, bỉ tâm tương tục sanh, sở vị hòa hợp Tăng. Thử tam tam-muội-da, chư Phật đạo sư thuyết. Nhược trụ thử tam đẳng, tu hành Bồ Đề hạnh, chư đạo môn thượng thủ, vị lợi chư chúng sanh, đương đắc thành Bồ Đề. Tam thân tự tại luân.

          ()復次祕密主!有三三昧耶,最初正覺心,第二名為法,彼心相續生,所謂和合僧,此三三昧耶,諸佛導師。若住此三等,修行菩提行,諸導門上首,為利諸眾生,當得成菩提,三身自在輪。

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Có ba tam-muội-da, đầu tiên: Tâm Chánh Giác. Thứ hai gọi là pháp. Tâm ấy liên tục sanh, gọi là “hòa hợp Tăng”. Ba tam-muội-da ấy, chư Phật đạo sư nói. Nếu trụ ba món ấy, tu hành hạnh Bồ Đề, thượng thủ các đạo môn, vì lợi các chúng sanh, sẽ được thành Bồ Đề, tam thân tự tại luân).

 

          Kế đó, lại có ba môn tam-muội-da. Thoạt đầu đã dùng phương tiện đại bi để thành Phật rồi, lại này Bí Mật Chủ! Thế nào là ba môn tam-muội-da? Điều đầu tiên gọi là Phật. [Chánh kinh nói] tâm đầu tiên là Đẳng Chánh Giác, thứ hai là pháp. Kế đó [môn thứ ba] là tâm liên tục sanh, gọi đó là “hòa hợp Tăng”. Ba môn tam-muội-da ấy do đạo sư nói như thế đó. Trụ trong ba môn ấy, tu hành hạnh Bồ Đề. Kế đó là các loại “đạo thủ” (tức là rộng truyền bá các môn hướng dẫn). Vì lợi ích các chúng sanh, sẽ được thành Bồ Đề, tam thân tự tại chuyển. Lại nữa, từ Phật mà có pháp. Kế đó, từ pháp mà có tăng. Ba điều ấy tức là một Thể; thật sự chẳng có hai tánh. Do bởi các điều ấy mà gọi là “tam-muội-da” (trước đó, đã có lúc giải rằng: [Trong chữ tam-muội-da (samaya)], Sa là Phật, Ma là pháp, Dã Da nghĩa là Tăng).

          Lại nữa, ba môn tam-muội-da chính là trụ trong tam-muội-da này, liền thành Bồ Đề. Do trụ Bồ Đề vì chúng sanh, hiện đủ loại sắc, nói đủ loại đạo. Hãy nên biết: Dùng cái tâm ấy có thể nhiếp ba thân; đó là ý nghĩa tam-muội-da. Như trên đã nói, Tam Bảo là ba môn tam-muội-da. Tam-muội-da nghĩa là “bình đẳng”, tức là Tam Bảo bình đẳng, gọi là “ba môn tam-muội-da”. Từ ba môn tam-muội-da ấy; kế đó, trọn đủ ba thân, cũng gọi là “ba môn tam-muội-da”. Do trụ trong tam thân, có chuyện lợi ích. Những lợi ích gì vậy? Chính là lợi ích chúng sanh. Trụ trong tam thân, thị hiện các loại đạo, cũng nhiếp thủ chúng sanh. “Nhiếp” có nghĩa là “tự tại nhiếp thủ”. Bí Mật Chủ! Chánh giáo của Phật được biểu thị bằng một thân gia trì, tức đầu tiên là Hóa Thân. “Giáo” là mười hai phần giáo, và các loại phương tiện trong ấy.

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tam Miệu Tam Phật Đà an lập giáo cố, dĩ nhất thân gia trì, sở vị sơ biến hóa thân. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thứ ư nhất thân, thị hiện tam chủng, sở vị Phật, Pháp, Tăng. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tùng thử thành lập thuyết tam chủng thừa, quảng tác Phật sự, hiện Bát Niết Bàn, thành thục chúng sanh. Bí Mật Chủ! Quán bỉ chư Chân Ngôn môn tu Bồ Đề hạnh chư Bồ Tát, nhược giải tam đẳng, ư chân ngôn pháp tắc, nhi tác thành tựu, bỉ bất trước nhất thiết vọng chấp, vô năng vi chướng ngại giả, trừ bất nhạo dục, giải đãi, vô lợi đàm thoại, bất sanh tín tâm, tích tập    tài  giả. Phục  ưng  bất  tác

nhị sự, vị ẩm chư tửu, cập tẩm sàng thượng.

          ()祕密主三藐三佛陀安立教故以一身加持所謂初變化身復次祕密主次於一身示現三種所謂佛復次祕密主從此成立三種乘廣作佛事現般涅槃成熟眾生祕密主觀彼諸真言門修菩提行諸菩薩若解三等於真言法則而作成就彼不著一切妄執無能為障礙者除不樂欲懈怠無利談話不生信心積集資財者復應不作二事謂飲諸酒及寢床上

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Đức Chánh Đẳng Chánh Giác do an lập giáo, dùng một thân gia trì, tức là: Đầu tiên là Biến Hóa Thân. Lại nữa Bí Mật Chủ! Kế đó từ một thân thị hiện ba thứ, tức là Phật, Pháp, Tăng. Lại này, Bí Mật Chủ! Từ đó thành lập, nói ba loại thừa, rộng làm Phật sự, hiện Bát Niết Bàn, thành thục chúng sanh. Bí Mật Chủ! Quán các vị Bồ Tát tu Bồ Đề hạnh trong Chân Ngôn môn, nếu hiểu ba loại bình đẳng, thực hiện thành tựu các pháp tắc chân ngôn, chẳng chấp trước hết thảy vọng chấp, không ai có thể chướng ngại được, trừ kẻ chẳng ưa thích, biếng nhác, nói lời vô ích, chẳng sanh tín tâm, tích cóp của cải. Lại chớ nên làm hai chuyện, tức là uống các thứ rượu và ngủ trên giường).

 

          Bí Mật Chủ! Do Tam Miệu Tam Phật Đà (Chánh Đẳng Chánh Giác) an lập giáo; dùng một thân gia trì, đó gọi là “sơ biến hóa thân” (thân biến hóa đầu tiên). Lại này, Bí Mật Chủ! Kế đó, từ trong một thân thị hiện ba loại, tức là Phật, Pháp, Tăng. Lại này, Bí Mật Chủ! Từ đó thành lập, nói ba loại thừa, rộng làm các Phật sự, hiện bát Niết Bàn. Thành tựu chúng sanh, lợi ích chúng sanh, đều do một thân nhiếp trì. Đó gọi là Biến Hóa Thân. Ví như do trụ trong tam-muội-da, nên có lợi ích như thế. Kế đó, từ trong một thân, thị hiện ba thân, tức là Phật, Pháp, Tăng, tức là Nhất Thể Tam Bảo. Hãy nên biết đó đều là từ trong một thân mà dấy lên. Ba môn tam-muội-da ở trong ấy, đều là nối tiếp cái trước làm nhân mà sanh ra cái sau. Kế đó, tiếp nối cái được sanh ra trên đây, tức là chỉ dạy, diễn nói ba thừa, rộng làm Phật sự để hướng dẫn chúng sanh. Các việc đã làm đều quy vào Niết Bàn. Sau khi đã Niết Bàn, lại thành tựu vô lượng chúng sanh. Nói đến một loại chúng sanh, tức là người trong đời Mạt chưa thể phát tâm, do đức Phật diệt độ [mà phát tâm], hoặc sẽ thành tựu trong đời Tượng Pháp, đều là hạng người ấy. Bí Mật Chủ! Quán ba môn tam-muội-da ấy, biết các môn Chân Ngôn. Bí Mật Chủ! Do quán và hiểu rõ ba môn tam-muội-da ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ Đề hạnh trong Chân Ngôn môn bèn thực hiện thành tựu các pháp tắc Chân Ngôn. Họ chẳng chấp vào hết thảy các vọng chấp, chẳng ai có thể gây chướng ngại được! Điều này có tên gọi khác, tức là trừ những thứ chẳng đáng ưa muốn, giải đãi, các thứ nói năng vô lợi ích, chớ nên sanh tâm bất tín, hoặc tích tụ của cải. Lại chớ nên làm hai chuyện, tức là uống các loại rượu và nằm trên giường. Bậc Bồ Tát tu hành, đối với pháp tắc trì tụng chân ngôn, chẳng chấp trước hết thảy các vọng chấp, trụ trong “chẳng bị chướng ngại”. Đó là các ý chánh yếu trong kinh văn. Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ, quán những điều được nói trên đây, đều là do trụ trong ba môn tam-muội-da. Do trụ trong tam-muội-da ấy, đúng pháp trì tụng, tâm tâm chẳng gián đoạn, thì gọi là “chẳng chấp trước hết thảy vọng chấp”. Do vọng chấp mà các chướng sanh khởi. Nếu trụ trong Tam Bình Đẳng, tức là chẳng chấp hết thảy vọng chấp. Tam bình đẳng ấy chính là Bồ Đề, các chướng sẽ do đâu mà sanh khởi được? Đấy chính là ý chỉ chánh yếu để lìa hết thảy các chướng!

          Lại có nguyên do sanh ra các thứ chướng khác, chính là chẳng mong muốn, tức là đối với hạnh Chân Ngôn ấy mà có chướng ngại, ngay khi đó, sẽ không do đâu mà yêu thích được. Hoặc do tâm chẳng mong muốn nẩy sanh mà chướng ngại thừa dịp sấn vào! “Chẳng mong muốn” tức là chẳng mong cầu. “Giải đãi”: Do chẳng siêng năng tấn tu, như dùi lửa, gỗ chưa nóng mà đã nhiều lượt ngưng nghỉ, chướng bèn xuất hiện. Lại còn đàm luận vô ích, đối với hạnh Chân Ngôn, chẳng niệm tụng, chẳng siêng năng tu hành, cũng do phí uổng thời gian nên các chướng thừa dịp [gây trở ngại]. “Bất tín”: Do chẳng tin nên chướng thừa dịp. Lại rộng tom góp của cải, do lúc cầu mong thì tâm bực tức, xáo động, [lúc có được bèn] nhọc nhằn gìn giữ, lúc mất đi thì bị khổ sở. Do các thứ nhân duyên như thế, khiến cho hành giả bị chướng ngại thừa dịp chen vào. Trên đây đều là các duyên sanh chướng!

          Lại có hai loại [hành vi phải tránh làm], tức [chuyện thứ nhất] là không được uống rượu. Rượu là duyên sanh chướng; đó là điều thứ nhất. Do uống rượu, các điều bất thiện phát sanh. Lại chẳng nằm trên giường; đây là điều thứ hai. Do ngủ yên trên giường, sẽ sanh ra đủ loại dục, tâm tưởng buông lung; vì thế chớ nên! Hãy nên trải chiếu cỏ. Người trì tụng ở phương Tây (Ấn Độ) phần nhiều dùng cỏ cát tường[2] làm chiếu.

Loại cỏ này có nhiều lợi ích:  

          - Một là do khi Như Lai thành đạo đã ngồi [trên cỏ ấy].

          - Do hết thảy thế gian coi cỏ ấy là cát tường, nên người trì tụng nhờ vào đó để chẳng sanh các chướng.

          - Lại nữa, các loài trùng độc, nếu trải cỏ này, sẽ đều chẳng thể bén mảng tới.

          - Tánh của cỏ này lại rất thơm sạch.

          - Loại cỏ này lại cực bén, đụng vào liền rách da, [mỗi lá có] có hình dáng như hai lưỡi đao bén. Hành nhân ngoài lúc trì tụng, khi rảnh rỗi, hoặc lúc nghỉ ngơi, ngủ trên chiếu cỏ này, nếu phóng dật, buông thả sẽ liền bị thương. Vì thế, chẳng dám phóng túng, ngạo mạn.

          - Lại còn do đức Phật tự nhờ vào loại cỏ này mà trừ tâm kiêu mạn thế gian. Khi làm Thái Tử, buông lung đủ mọi lẽ, ngồi, nằm giường báu, ghế báu đỡ chân. Nếu xuất gia mà vẫn quen làm như thế, có khác gì tại gia? Do có thể bỏ sự như thế, ngồi trên chiếu cỏ, hết thảy trời, người đều sanh tâm kính ngưỡng, cũng phỏng theo Ngài, trừ mạn tâm, nhập chánh pháp. Phật còn như thế, huống hồ chúng ta ư? Do quán công đức như thế nên tu hành.



[1] Quyết trạch (Nairvedhika) là nói gọn của “quyết đoán giản trạch” (chọn lựa dứt khoát), tức là dùng vô lậu thánh trí để đoạn trừ nghi hoặc, phân biệt, chọn lựa tướng Tứ Đế v.v…

 

[2] Cỏ cát tường (Kuśa), được phiên âm  là  Củ  Thi, Câu  Thư, Cô  Xa, dịch  nghĩa  là

 

Hương Mao (cỏ tranh), Cát Tường Mao, Lữu Mao, Hy Sinh Thảo. Loại cỏ này còn được gọi là Dharba, hay Pavitram (có tên khoa học là Desmostachya D. Bipinnata. Âu Tây dịch là halfa grass, big cordgrass, hoặc salt reed-grass). Loại cỏ này mọc ở vùng ẩm thấp, trông giống như cỏ tranh, nhưng không phải là cỏ tranh, nhánh cỏ có thể mọc dài đến 60 cm. Cổ Ấn Độ coi đây là một loại cỏ thiêng, thường dùng để trải tòa trong khi cúng tế, hoặc bện thành đệm, đặt đồ cúng tế lên đó. Người tu hành cũng thường dùng cỏ này làm đệm để nằm hay ngồi.


Comments

Popular posts from this blog