Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
22. Phẩm thứ hai mươi hai: Bách
tự thành tựu trì tụng
Bách Tự Thành Tựu Trì Tụng Phẩm Đệ Nhị Thập Nhị
百字成就持誦品第二十二
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính,
Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế giả, thân thân vô hữu dị phần, ý tùng ý sanh,
linh thiện tịnh trừ, phổ giai hữu quang. Bỉ xứ lưu xuất, tương ứng nhi khởi, biến
chư chi phần. Bỉ ngu phu loại thường sở bất tri, bất đạt thử đạo. Nãi chí thân
sở sanh phần, vô lượng chủng cố, như thị chân ngôn cứu thế giả phần thuyết diệc
vô lượng. Thí như cát tường chân-đà-ma-ni, tùy chư lạc dục, nhi tác nhiêu ích.
Như thị thế gian chiếu thế giả thân, nhất thiết nghĩa lợi, vô sở bất thành. Bí
Mật Chủ! Vân hà vô phân biệt pháp giới, nhất thiết tác nghiệp tùy chuyển? Bí Mật
Chủ! Diệc như hư không giới, phi chúng sanh, phi thọ giả, phi Ma Nô Xà, phi Ma
Nạp Bà, phi tác giả, phi Phệ Đà, phi năng chấp, phi sở chấp, ly nhất thiết phân
biệt, cập vô phân biệt, nhi bỉ vô tận chúng sanh giới nhất thiết khứ lai, chư hữu
sở tác, bất sanh nghi tâm. Như thị vô phân biệt Nhất Thiết Trí trí đẳng đồng
hư không, ư nhất thiết chúng sanh, nội ngoại nhi chuyển.
(經)爾時,世尊告執金剛祕密主言:諦聽。祕密主!真言救世者,身身無有異分。意從意生,令善淨除,普皆有光。彼處流出,相應而起遍諸支分。彼愚夫類常所不知,不達此道。乃至身所生分,無量種故,如是真言救世者分說亦無量。譬如吉祥真陀摩尼,隨諸樂欲而作饒益。如是世間照世者身,一切義利無所不成。祕密主!云何無分別法界,一切作業隨轉?祕密主!亦如虛空界,非眾生、非壽者、非摩奴闍、非摩納婆、非作者、非吠陀、非能執、非所執,離一切分別及無分別,而彼無盡眾生界一切去來諸有所作,不生疑心。如是無分別一切智智等同虛空,於一切眾生內外而轉。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe! Chân ngôn cứu thế là thân [của
chân ngôn] và thân [của hành giả] chẳng có chỗ khác biệt. Ý sanh từ ý khiến cho
khéo tịnh trừ, sẽ đều có quang minh trọn khắp. [Quang minh ấy] từ các chỗ đó mà
tuôn ra, tương ứng để dấy khởi trọn khắp các chi phần. Các loài ngu phu đó thường
chẳng hay biết, chẳng thấu đạt đạo này. Cho tới các phần được sanh bởi thân có
vô lượng loại, cũng nói các phần của chân ngôn cứu đời như thế là vô lượng. Ví
như chân-đà-ma-ni (Như Ý Bảo Châu) cát tường, thuận theo sự ưa thích [của chúng
sanh] mà tạo lợi ích. Do thân của [chân ngôn] chiếu soi cõi đời như thế mà hết thảy
các nghĩa lợi, không gì chẳng thành tựu. Bí Mật Chủ!
Trong pháp giới vô phân biệt, hết thảy nghiệp được tạo tác sẽ xoay chuyển như
thế nào? Bí Mật Chủ! Cũng giống như hư không giới, chẳng phải là chúng sanh, chẳng
phải là thọ giả, chẳng phải là Ma Nô Xà (Manuja: con người), chẳng phải là Ma Nạp
Bà (Mānava: nhân loại), chẳng phải là kẻ tạo tác, chẳng
phải là Phệ Đà (Vedaka: kẻ nhận biết), chẳng phải là chủ thể chấp trước, chẳng
phải là đối tượng bị chấp trước, lìa hết thảy phân biệt và vô phân biệt, nhưng
chẳng sanh tâm nghi đối với hết thảy các việc làm, đến, đi trong vô tận chúng sanh
giới. Trí Nhất Thiết Trí vô phân biệt như thế giống như hư không, chuyển trong
ngoài hết thảy các chúng sanh).
Kinh nói: “Đế thính, Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế giả, thân
thân vô hữu dị phần” (Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe, đối với
chân ngôn cứu thế, thân và thân chẳng có chỗ khác nhau) tức là thân [của hành
giả] chẳng khác với thân ấy (thân của chân ngôn, tức thân do trì tụng chân ngôn
và quán tưởng mà thành thân Bổn Tôn trong tâm của hành giả). Đó gọi là từ trong
tâm mà vận dụng cái thân chân ngôn ấy. “Ý
tùng ý sanh” (Ý sanh từ ý): Chữ Ý
trước là ý có thể sanh, còn chữ Ý sau là “tịnh
ý”, có thể khiến cho ý được tịnh trừ. “Phổ giai hữu quang bỉ xứ lưu xuất” (Đều trọn khắp có quang minh
từ chỗ ấy tuôn ra): Từ tịnh tâm mà lưu xuất [quang minh]. Nói “bỉ” tức là chỉ “ý” trong phần trước (tức “ý” trong câu “ý tùng ý sanh”). Quang minh và Du Già tương ứng mà sanh. Do
tương ứng với Du Già, từ cái tâm ấy mà sanh ra quang minh đó. Nói “ngu phu thường sở bất năng tri” tức
là ngu phu chẳng thể biết, chẳng thể liễu đạt đạo này! Cho đến các phần sanh từ
nơi thân, phần chẳng khác với thân, cũng là những cái thân được sanh bởi thân
[của hành giả]. Thân được sanh từ bản thân cũng nhiều tới vô lượng loại. Thân
đã là vô lượng, [cho nên] ngôn thuyết nơi chân ngôn như thế cũng có vô lượng.
Như báu Như Ý, được gọi là “cát tường
như ý châu”, tùy theo mong muốn [của chúng sanh] mà tạo lợi ích thành tựu.
Thân của đấng chiếu thế trong thế gian như thế, thành tựu hết thảy các điều lợi.
Bí Mật Chủ! Hết thảy các việc làm trong pháp giới vô phân biệt sẽ được chuyển
như thế nào? Bí Mật Chủ! Lại giống như hư không giới v.v...
Đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ hãy lắng
nghe. Chân ngôn cứu thế, mỗi thân chẳng khác. Ý sanh khởi từ ý, được khéo tịnh
trừ. Do từ nơi ấy lưu xuất, đều có quang minh tương ứng với các chi phần. Ngu
phu chẳng biết đạo này, cho đến [chẳng biết] các phần được sanh bởi thân nhiều
vô lượng loại. Đó là [ý nghĩa chánh yếu trong] kinh văn. Ví như do trì chân
ngôn, sẽ có khác biệt: Hễ có thể khéo tịnh trừ cái ý được sanh bởi ý (tâm) thì
pháp được lưu xuất bởi đó chính là cái thân này (thân của hành giả trì chân
ngôn) chẳng khác với cái thân được sanh ra từ tự thân (cái thân được sanh ra từ
bản thân chính là thân thanh tịnh sanh khởi bởi quán tưởng các pháp tịnh diệu
bên ngoài, rồi biến cái thân tịnh diệu ấy đồng nhất với thân mình), tức là từ ý
mà sanh. Do tịnh trừ các cấu, hết thảy các sự được thành tựu. Do có đức ấy, tùy
theo các chi phần mà lưu xuất quang minh để làm Phật sự. Các chuyện như thế,
phàm ngu chẳng thể biết! Do không biết đạo này, nên gọi là “ngu phu”. Đạo ấy chính là chân ngôn
hạnh, do thành tựu chân ngôn, sẽ đạt được Tất Địa. Từ thân này lại có thân
sanh, tức là như [các thân trong] Dục Giới, Sắc Giới v.v… rất nhiều loại, đều
do một chân ngôn mà sanh ra vô lượng thân, miệng, ý, như trong phần trước đã
nói từ các phần thượng, trung, hạ nơi thân Phật mà sanh ra vô lượng thân [của
Phật, Bồ Tát, tôn thánh v.v…]. Hành nhân này cũng như thế, có thể tùy theo thân
phần thượng, trung, hạ, hoặc hiện ra bốn vị Phật, bốn vị Bồ Tát, cho đến tám bộ
v.v… giống như trong Đại Bi Tạng đã nói, số ấy vô lượng!
Lại có kẻ ngờ vực, gạn rằng: “Trong phần
trên đã nói chân ngôn vô tướng, vô duyên, giống như thái hư, chẳng thể phân biệt,
vì sao có các sự ấy?” Đáp: Ví như Như Ý Châu thỏa mãn hết thảy các nguyện, cho
đến ba sự cũng có thể tịnh hóa, [tức là]: Nếu ai muốn tịnh cái thân này, do sức
của châu, khiến cho thân này như lưu ly. Nếu muốn ngữ và ý thanh tịnh, cũng tùy
theo ý phần mà thanh tịnh. Pháp thế gian mà còn như thế, huống hồ Như Lai như ý
châu diệu bảo mà chẳng thể làm chuyện như thế ư? Châu như thế, tuy làm đủ mọi sự,
thỏa mãn đủ mọi nguyện, nhưng vắng lặng, bất động, chẳng suy nghĩ, vô vi, chẳng
đến, chẳng đi, thành tựu hết thảy, huống hồ Như Lai đại bảo ư? Do vậy, pháp giới
chẳng phân biệt, như rồng lớn ở trong cung, chẳng khởi tâm động niệm, mà thuận
theo nghiệp lực, tuôn xuống [những cơn mưa có] các vị sai biệt. Do bởi nghĩa
này, trong vô tướng Không mà hiện vô lượng chuyện phổ môn nơi thân, khẩu, ý, từ
ngay nơi thân mà có thể đạt được, chớ nên nghi! Lại ví như hư không chẳng thuộc
vào chúng sanh số, mà là chỗ để chúng sanh nương tựa. Chẳng phải thân thọ, chẳng
phải Ma Nạp Bà, tác giả, thọ giả v.v… Hết thảy các vọng tưởng đều trừ, đều lìa
phân biệt, chẳng đến, chẳng đi, nhưng chẳng khác chúng sanh giới. Hết thảy
chúng sanh y chỉ và tác nghiệp đều do đó mà thành, lợi ích chúng sanh, thành tựu
đủ mọi sự. Chẳng thể do hư không có thể thành tựu hết thảy các sự, mà bảo hư
không là hữu vi, hữu tướng! Nay Đại Không Mạn-đồ-la này cũng như thế, rốt ráo
thanh tịnh, nhưng không gì chẳng làm, thường trụ vắng lặng, nhưng không gì chẳng
thành tựu. Vì thế, kinh khuyên hãy nên tin tưởng mà nói: “Đương như thị tri, vật sanh nghi hoặc”
(Hãy nên biết như thế, chớ sanh lòng ngờ vực).
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục tuyên thuyết tịnh trừ vô tận chúng sanh
giới cú, lưu xuất tam-muội cú, bất tư nghị cú, chuyển tha môn cú: - Nhược bổn
vô sở hữu, tùy thuận thế gian sanh, vân hà liễu tri Không, sanh thử Du Già giả?
Nhược tự tánh như thị, giác danh bất khả đắc. Đương đẳng không tâm sanh, sở vị
Bồ Đề tâm. Ưng phát khởi từ bi, tùy thuận chư thế gian, trụ ư duy tưởng hạnh.
Thị tức danh chư Phật. Đương tri tưởng tạo lập, quán thử vi không không. Như hạ
số pháp chuyển, tăng nhất nhi phân dị, cần dũng không diệc nhiên. Tăng trưởng
tùy thứ đệ, tức thử A tự đẳng, tự nhiên trí gia trì.
(經)爾時,世尊又復宣說淨除無盡眾生界句、流出三昧句、不思議句、轉他門句:若本無所有,隨順世間生,云何了知空,生此瑜伽者?若自性如是,覺名不可得,當等空心生,所謂菩提心。應發起慈悲,隨順諸世間,住於唯想行,是即名諸佛。當知想造立,觀此為空空,如下數法轉,增一而分異。勤勇空亦然,增長隨次第,即此阿字等,自然智加持。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói câu tịnh trừ vô tận chúng sanh giới, câu
lưu xuất tam-muội, câu chẳng nghĩ bàn, câu thuộc các môn chuyển biến người
khác: - Nếu vốn vô sở hữu, tùy thuận thế gian sanh, làm sao biết rõ Không, sanh
ra Du Già này? Nếu tự tánh như thế, giác là chẳng thể được! Tâm sanh như hư
không, đó gọi Bồ Đề tâm. Nên phát khởi từ bi, tùy thuận các thế gian, chỉ trụ
nơi tưởng hạnh. Đó gọi là chư Phật. Nên biết: Tưởng tạo lập, quán đó là Không
Không. Như đặt số tính đếm, thêm một mà khác đi. Cần Dũng Không cũng thế, tăng
trưởng theo thứ tự, tức từ chữ A thảy, trí tự nhiên gia trì).
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói
câu tịnh trừ vô tận chúng sanh giới, câu từ tam-muội lưu xuất, câu chẳng nghĩ
bàn, câu thuộc môn chuyển biến người khác. Nếu “sanh” đã vốn là vô sở hữu, tùy thuận pháp thế gian, hãy nên biết
Không sanh ra người tu hành như thế nào? Nếu tự tánh là như thế, giác chẳng thể
được, tâm hãy nên như hư không, sanh ra sự sanh khởi của Bồ Đề. Hãy nên phát
sanh lòng Bi, tùy thuận hết thảy thế gian. Trên đây là [các ý chính trong] kinh
văn. Trụ trong sự tịnh trừ chúng sanh giới vô tận, tức là vốn đã lập thệ nguyện,
vì muốn tịnh trừ hết thảy chúng sanh trong vô tận thế giới. Do chúng sanh có cấu,
chẳng thể tự độ, nay muốn khai trọn khắp tri kiến của Như Lai cho họ, khiến cho
họ thanh tịnh, khiến cho thân, khẩu, ý địa của họ đều được thanh tịnh, chẳng có
cấu uế. Hãy nên biết câu “tịnh trừ vô
tận chúng sanh” chính là câu lưu xuất từ tam-muội. Câu lưu xuất từ
tam-muội là câu chẳng thể nghĩ bàn. Câu chẳng thể nghĩ bàn chính là câu “chuyển tha môn” (câu thuộc về môn
chuyển biến người khác). Chuyển các món hữu cấu khác thành tự tánh thanh tịnh,
chuyển kẻ khác từ vô minh thành sự sáng suốt của Như Lai. Vì thế, gọi là “chuyển tha môn cú”. “Tha” (người khác) là nói về chúng
sanh. Do chuyển uế thành tịnh mà nói pháp môn này. “Bổn sanh vô sở hữu”: Nếu vốn là vô sở hữu, tùy thuận thế gian
mà sanh, làm thế nào để biết Không? Nói “nên như thế nào” tức là “[làm thế nào]
để biết các pháp là Không”.
“Sanh
thử Du Già” (Sanh ra môn Du Già
này): Trong phần kệ có hỏi về điều này, tức là nương vào thần lực của Phật mà
có câu hỏi này. Nếu nói “sanh vốn vô sở
hữu, Có là tùy thuận thế gian”, người tu hành sẽ làm như thế nào để khiến
cho người tu hành sanh cái Không ấy, tức là môn Không thanh tịnh. Nếu nói là “chẳng có”, làm thế nào để sanh trong
môn Không thanh tịnh ấy? Nếu vốn là vô sở hữu, cái Sanh ấy cũng thuận theo cái “vốn là Không”, tức là “vốn bất sanh”. Du Già là như thế
nào? Nhận biết Không như thế nào? Cái Không ấy chính là tánh của chân ngôn. Thế
nào là “sanh Du Già”? Nếu tự
tánh là như thế, danh xưng Giác cũng chẳng thể được, tức là quán danh tự còn chẳng
thể được. Hễ phù hợp thì là quán. Quán và giác như nhau. “Đương đẳng không tâm sanh” (Hãy nên sanh tâm như hư không), tức là Bồ
Đề tâm sanh, đấy chính là dẫn mười thí dụ được nói trong phần trước. Do giác “vốn
bất sanh”, vô tướng, chẳng thể được, nên đạt được cái tâm như hư không. Thanh tịnh,
vô phân biệt v.v… như trên, thì chẳng chỉ là Không, mà còn có trí sanh, tức là
Bồ Đề.
“Ưng
phát khởi từ bi, tùy thuận chư thế gian, trụ ư duy tưởng hạnh, tức danh vi chư
Phật” (Hãy nên phát khởi
lòng từ bi, tùy thuận các thế gian, trụ trong hạnh “chỉ tưởng”, thì gọi là chư
Phật), tức là Như Lai liễu đạt các pháp vốn tự bất sanh, vốn vô sở hữu, do tùy
thuận pháp thế gian để độ chúng sanh mà có. “Có” tức là phổ môn thị hiện đủ loại các phương tiện để làm chuyện
lợi ích chúng sanh. Do nhân duyên cơ cảm mà có, nhưng vốn vô sở hữu. Bản tánh của
tánh chúng sanh là vô sở hữu, do tu hành mà biết bản tánh nơi tánh của chúng
sanh là không tịch, do giác tri tánh ấy là Không, chỉ có danh tự, chẳng thể được!
Nói “tánh Không Không chỉ có danh tự,
rốt ráo cầu chẳng thể được” thì đấy chính là Bất Khả Đắc Không. Chẳng
như người huệ kém cỏi, chấp tánh Không ấy là thật sự có! Quán chúng sanh giống
như hư không. Bản tánh của hư không lìa khỏi quán chiếu, lìa hết thảy vọng niệm,
hý luận. Do biết rõ hư không như thế, liền biết lý chân thật, chẳng nên chấp lấy
pháp Không ấy. Do hư không ấy chẳng thể được, chẳng phải là đều vô sở hữu, mà
là thật sự có tự tánh. Cái gọi là tự tánh của Không tức là bất không. Hãy nên
biết cái Bất Không ấy chính là tâm giống như hư không. Tâm giống như hư không
chính là Bồ Đề thanh tịnh. Từ cái tâm Bồ Đề thanh tịnh ấy, sanh ra tâm đại bi.
Vì lẽ nào vậy? Hành nhân đã hiểu rõ cái tâm Bồ Đề ấy, bèn nghĩ thế này: “Hết thảy chúng sanh thảy đều như thế, sẵn
có kho báu Như Lai mà chẳng tự hay biết! Do nhân duyên ấy, uổng công chịu khổ
nhọc mà chẳng có lợi ích”. Bồ Tát do bốn duyên ấy, dấy khởi tâm đại bi.
Do [chúng sanh] chẳng biết rõ tâm ấy, liền luân hồi trong sanh tử mênh mông
không ngớt! Hễ biết rõ thì tức là Bồ Tát. Bồ Tát do hết thảy chúng sanh đều sẵn
có tánh “có thể giác”, nhưng chẳng thể tự ngộ, vì chuyện này mà các vị Bồ Tát
sanh lòng đại bi, sẽ nói phương tiện để cứu vớt, thủ hộ. Tức là dùng lòng đại
bi ấy, vì trừ cấu cho vô tận chúng sanh, tùy thuận thế gian mà lập phương tiện.
Do chủng loại trong chúng sanh giới vô tận, tánh dục, căn duyên lần lượt sai biệt
ngần ấy, Bồ Tát thuận theo đó mà giáo hóa, hướng dẫn. Vì thế nói là “tùy thuận thế gian”. “Tưởng duy tâm trụ” liền gọi là chư
Phật. Hãy nên biết từ trong tưởng mà tạo lập sanh. Cái gọi là Không được kiến lập
từ nơi tưởng. Đã trụ trong duy tâm, lại còn do đã đắc duy tâm mà kiến lập hết
thảy các pháp. “Quán thử vi Không
Không” (Quán điều đó là
Không Không), ý nói cái danh hiệu Không Không là do quán mà có, cũng chỉ có tên
gọi, Không từ tâm mà sanh.
Như
sự chuyển biến trong cách tính đếm, từ một, hai, ba mà chia thành khác biệt
(nói “một, hai” ở đây là nói tới sự khác biệt). Cần Dũng! Cái Không ấy cũng giống
như thế đó, cho đến tăng trưởng theo thứ tự, tức là các chữ A v.v… [cho đến
toàn bộ các chữ trong bốn mươi hai mẫu tự Tất Đàm]. “Tưởng” là nói theo ý nghĩa “chỉ có tưởng”. Chữ A như đã nói
trên chính là Tưởng, mà tự nhiên trí cũng là Phật, tức là được Phật gia trì. Nếu
tạo lập tưởng Không và Bất Không, quán sát các pháp lần lượt được tính đếm sau
đó, sẽ từ một, hai, ba mà bắt đầu tách ra khác nhau. Như bậc dũng sĩ từ nơi cái
Không đó mà tăng trưởng thuận theo thứ tự, khởi đầu từ chữ A, tương ứng gia trì
tự nhiên trí. Kinh văn nói như thế đó.
Trước hết là nói “đạt được cái tâm hư không”, tức là Bồ
Đề tâm sanh. Bồ Đề là giác, cái tâm ấy há chẳng phải là Không ư? Nhưng [Bồ Đề]
thật sự trọn đủ công đức nhiều như cát sông Hằng. Tuy trọn đủ vô lượng công đức
của Như Lai, nhưng vô tướng, vô danh, chẳng thể hiển thị. Như tông Pháp Tướng
nói mười sáu loại Không, kinh Đại Bát Nhã nói mười tám loại Không v.v… đều nhằm
giảng rõ ý nghĩa này. Nếu tánh chỉ là Không, trọn chẳng có gì, làm sao có thể
thành tựu đức thần biến chẳng thể nghĩ bàn như thế để độ chúng sanh? Hãy nên biết
cái Không ấy chính là lý tự chứng. Tưởng đã là Không, vô sở hữu, thì danh cũng
như thế. Chỗ này chẳng thể chỉ bày, tướng ngôn từ tịch diệt. Nếu dùng pháp tự
chứng như thế để nói với phàm ngu, sẽ trọn chẳng thể được! Hãy nên biết nó chỉ
có cái tên suông, trong mười tám món Không, nó là tối thượng, tức là Đại Không
của chư Phật, thật sự chẳng hư dối! Toán số, thí dụ ở đây vẫn giống như cách
tính toán thấp kém của người thế gian, thoạt đầu là vạch con số một để làm cơ sở
(phép tính toán của phương Tây (Ấn Độ) đều là vạch nơi đất…), cho đến ức, tải[1],
A-tăng-kỳ v.v… đều sanh từ đó; nhưng thoạt đầu, khi chưa tính toán, vốn chẳng
có con số ấy. Từ nơi đất trống vốn chẳng có con số để tính toán, mà bèn tính
toán một, hai, ba, cho tới vô lượng. Tính toán xong, bèn bỏ các vị trí (các vạch
đánh dấu con số tính toán), vẫn là trở về cái gốc rỗng không, nhưng tâm người
tính toán tự biết được kết quả đã tính, rành rành chẳng mất. Tuy từ gốc, vốn chẳng
có gì mà lập ra con số, nay [tính toán xong] đã [thành không có gì] như cũ, thật
sự chẳng có con số nào, nhưng kết quả ghi nhớ trong tâm chẳng mất đi. Tức là chẳng
có mà có, tuy có mà chẳng có. Nay môn chữ A này cũng giống như thế, từ trong
cái gốc “vốn bất sanh”, do tùy
thuận thế gian, theo thứ tự xuất hiện vô lượng pháp môn. Tuy xuất hiện vô lượng
phương tiện, nhưng vẫn chẳng khác ý nghĩa bản tánh “bất sanh” của chữ A, giống
như các con số ấy chẳng hề lìa một. Do thoạt đầu tính toán bắt đầu từ một, cách
tính hết thảy các con số đều chẳng lìa một, cho tới một vạn cũng là “một và vạn chẳng thể tách rời nhau!”
Hết thảy các số khác đều có thể [suy theo đó] mà biết. Nay hết thảy các pháp đều
chẳng thể lìa chữ A, cũng do lẽ ấy.
Nhưng có luận sư lại dẫn thí dụ, giống
con trùng bò. Do có vô lượng trùng nối theo nhau chẳng dứt mà thành đường hướng
dẫn, hoặc có đủ loại tướng như vuông, tròn, quanh co v.v… Nếu lìa khác đó, mỗi
mỗi đều là một con trùng, chẳng còn các tướng cong, thẳng, dài, ngắn v.v… Nay
pháp này cũng thế, trong Không pháp tự chứng rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn mà trọn
đủ hết thảy các công đức. Nhưng do duyên sanh, chẳng có bổn sanh, chẳng lìa cái
lý “là một, vốn bất sanh” vậy! Chữ A đứng đầu, tương ứng gia trì tự nhiên trí.
Do tự nhiên trí gia trì tự môn này, sanh ra vô lượng ngữ. Mỗi ngữ có vô lượng
thanh, mỗi thanh có vô lượng lý, tức là giống như các con số kia, trong mỗi mỗi
đều trọn khắp hết thảy. Đại Không cũng thế, có đủ hết thảy các pháp, trọn khắp
hết thảy các pháp. Chữ A này cũng như thế! Hết thảy các chân ngôn môn đều từ chữ
A mà có, giống như muôn hình tượng từ Không mà có, không chỉ sanh ra hết thảy
các chữ. Đấy chính là trong mỗi môn được sanh bởi chữ, liền hiển thị lý bất
sanh!
(Kinh) A phạ, ca khư nga già, giá xa nhã xã, trá trá noa đồ, đa tha na
đà, ba phả ma bà, dã ra la phạ, xa sa sa ha, ngưỡng nhưỡng noa nẵng mãng. Bí Mật
Chủ! Quán thử không trung lưu tán giả lập, A tự chi sở gia trì, thành tựu
tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Như thị A tự, trụ ư chủng chủng trang nghiêm, bố liệt
đồ vị, dĩ nhất thiết pháp bổn bất sanh cố, hiển thị tự hình, hoặc dĩ bất khả đắc
nghĩa, hiện Phạ tự hình. Hoặc chư pháp viễn ly tạo tác cố, hiện Ca tự hình. Hoặc
nhất thiết pháp, đẳng hư không cố, hiện Khư tự hình. Hoặc hạnh bất khả đắc cố,
hiện Nga tự hình. Hoặc chư pháp nhất hợp tướng bất khả đắc cố, hiện Già tự
hình. Hoặc nhất thiết pháp ly sanh diệt cố, hiện Giá tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp vô ảnh tượng cố, hiện Xa tự hình. Hoặc nhất thiết pháp sanh bất khả đắc cố,
hiện Nhã tự hình. Hoặc nhất thiết pháp ly chiến địch cố, hiện Xã tự hình. Hoặc
nhất thiết pháp ly ngã mạn cố, hiện Trá tự hình. Hoặc nhất thiết pháp ly dưỡng
dục cố, hiện Trá tự hình. Hoặc hiện nhất thiết pháp ly oán đối cố, hiện Noa tự
hình. Hoặc nhất thiết pháp ly tai biến cố, hiện Đồ tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp ly Như Như cố, hiện Đa tự hình. Hoặc nhất thiết pháp ly trụ xứ cố, hiện
Tha tự hình. Hoặc nhất thiết pháp, ly thí cố, hiện Na tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp giới bất khả đắc cố, hiện Đà tự hình. Hoặc nhất thiết pháp Thắng Nghĩa Đế
bất khả đắc cố, hiện Ba tự hình. Hoặc chư pháp bất kiên như tụ mạt cố, hiện Phả
tự hình. Hoặc nhất thiết pháp ly hệ phược cố, hiện Ma tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp chư quán bất khả đắc cố, hiện Bà tự hình. Hoặc nhất thiết pháp chư thừa bất
khả đắc cố, hiện Dã tự hình. Hoặc nhất thiết pháp ly nhất thiết trần cố, hiện
Ra tự hình. Hoặc nhất thiết pháp vô tướng cố, hiện La tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp ly tịch cố, hiện Xa tự hình. Hoặc nhất thiết pháp bổn tánh độn cố, hiện Sa
tự hình. Hoặc nhất thiết pháp đế bất khả đắc cố, hiện Sa tự hình. Hoặc nhất thiết
pháp ly nhân cố, hiện Ha tự hình.
(經)阿嚩。迦佉哦伽。遮車若社。吒咤拏荼。多他娜馱。波頗摩婆。野囉邏嚩。奢沙娑訶。仰壤拏曩莽。祕密主!觀此空中流散假立,阿字之所加持,成就三昧道。祕密主!如是阿字,住於種種莊嚴,布列圖位。以一切法本不生故,顯示自形。或以不可得義,現嚩字形。或諸法遠離造作故,現迦字形。或一切法等虛空故,現佉字形。或行不可得故,現誐字形。或諸法一合相不可得故,現伽字形。或一切法離生滅故,現遮字形。或一切法無影像故,現車字形。或一切法生不可得故,現若字形。或一切法離戰敵故,現社字形。或一切法離我慢故,現吒字形。或一切法離養育故,現咤字形。或一切法離怨對故,現拏字形。或一切法離災變故,現荼字形。或一切法離如如故,現多字形。或一切法離住處故,現他字形。或一切法離施故,現那字形。或一切法界不可得故,現馱字形。或一切法勝義諦不可得故,現波字形。或諸法不堅如聚沫故,現頗字形。或一切法離繫縛故,現麼字形。或一切法諸觀不可得故,現婆字形。或一切法諸乘不可得故,現也字形。或一切法離一切塵故,現囉字形。或一切法無相故,現邏字形。或一切法離寂故,現奢字形。或一切法本性鈍故,現沙字形。或一切法諦不可得故,現娑字形。或一切法離因故,現訶字形。
(Kinh:
A Va, Ka Kha Ga Gha, Ca Cha Ja Jha, Ṭa Ṭha Ḍa Ḍha, Ta Tha Da Dha, Pa Pha Ba
Bha, Ya Ra La Va, Śa Ṣa Sa Ha, Ṅa Ña Ṇa Na Ma. Bí Mật Chủ! Quán các chữ ấy trôi nổi, giả lập trong hư
không, được chữ A gia trì, thành tựu tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Chữ A như thế,
trụ trong các loại trang nghiêm, xếp đặt theo vị trí trong đồ hình. Do hết thảy
các pháp vốn bất sanh, hiển thị hình chữ: Hoặc do nghĩa “chẳng thể được” mà hiện
hình thể chữ Phạ (व, Va). Hoặc do các pháp xa lìa tạo tác mà hiện hình thể chữ
Ca (क, Ka). Hoặc
do hết thảy các pháp bằng với hư không, mà hiện hình thể chữ Khư (ख, Kha). Hoặc
do hạnh chẳng thể được, mà hiện hình thể chữ Nga (ग, Ga). Hoặc do một hợp tướng của
các pháp chẳng thể được, mà hiện hình thể chữ Già (ङ, Gha). Hoặc do hết thảy các
pháp lìa sanh diệt mà hiện hình thể chữ Giá (च, Ca). Hoặc do hết thảy các
pháp chẳng có hình bóng, mà hiện hình thể chữ Xa (छ, Cha). Hoặc do hết thảy các
pháp, sanh chẳng thể được, mà hiện hình thể chữ Nhã (ज, Ja). Hoặc do hết thảy các
pháp lìa đối địch mà hiện hình thể chữ Xã (झ, Jha). Hoặc do hết thảy các
pháp lìa ngã mạn mà hiện hình thể chữ Trá (ट, Ṭa). Hoặc do hết thảy các pháp lìa dưỡng dục mà hiện hình thể
chữ Trá (ठ, Ṭha). Hoặc do hết thảy các pháp lìa oán đối mà hiện hình
thể chữ Noa (ड, Ḍa). Hoặc do hết thảy các pháp lìa tai biến cố, mà hiện
hình thể chữ Đồ (ढ, Ḍha). Hoặc do hết thảy các pháp lìa Như Như, mà hiện hình
thể chữ Đa (त, Ta). Hoặc
do hết thảy các pháp lìa trụ xứ mà hiện hình thể chữ Tha (थ, Tha). Hoặc do hết thảy các
pháp lìa thí mà hiện hình thể chữ Na (द, Da). Hoặc do hết thảy pháp giới đều chẳng thể được
mà hiện hình thể chữ Đà (ध, Dha). Hoặc do Thắng Nghĩa Đế của hết thảy các pháp
chẳng thể được, mà hiện hình thể chữ Ba (प, Pa). Hoặc do các pháp chẳng kiên cố như bọt nước, mà
hiện hình thể chữ Phả (फ, Pha). Hoặc do hết thảy các pháp lìa trói buộc mà hiện hình
thể chữ Ma (ब, Ba). Hoặc
do hết thảy các pháp, các quán chẳng thể được, mà hiện hình thể chữ Bà (भ, Bha). Hoặc
do hết thảy các pháp các thừa chẳng thể được mà hiện hình thể chữ Dã (य, Ya). Hoặc
do hết thảy các pháp lìa hết thảy trần, mà hiện hình thể chữ Ra (र). Hoặc do hết
thảy các pháp vô tướng mà hiện hình thể chữ La (ल). Hoặc do hết thảy các pháp
lìa tịch, mà hiện hình thể chữ Xa (श, śa). Hoặc do tánh của hết thảy các pháp vốn là độn mà hiện hình
thể chữ Sa (ष, Ṣa). Hoặc do Đế nơi hết thảy các pháp chẳng thể được, mà
hiện hình thể chữ Sa (स). Hoặc do hết thảy các pháp lìa nhân mà hiện hình thể chữ Ha
- ह).
“Trí
vị” (Đặt đúng vị trí) tức
là các thứ trang nghiêm. “Quán”
là bảo Bí Mật Chủ hãy quán điều ấy. Tức là trụ trong đủ loại hình tượng trang
nghiêm, phân biệt các vị trí. Do các pháp vốn bất sanh, hiển thị hình tượng của
chính mình. Hình tượng của chính mình tức là chữ A. Từ trong hình tượng của
chính mình hiển thị “vốn bất sanh”.
Chữ A là như thế đó. Này Bí Mật Chủ! Các thứ vị trí xếp đặt xen kẽ, ta quán “trụ trong bất sanh”, hình tướng của
các pháp được hiển thị. Đó là [đại ý của] kinh văn. Quán chữ A này từ trong hư
không lưu xuất muôn vàn hình tượng trong thế gian, hết thảy thế gian đều sanh từ
đó, nhưng [chữ A] vốn bất sanh! Chữ A giả lập, gia trì tam-muội thành tựu, chứng
tam-muội trọn đủ Bát Nhã, thành tựu vạn hạnh đều do chữ A này, đạt được phước
huệ viên mãn đều từ môn chữ A này. Chữ này có thể sanh ra đủ loại sắc, tức là
xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, cho đến xen kẽ có vô lượng thứ, và đủ loại hình, tức
là các thứ như tam giác, vuông, tròn, bán nguyệt, và các vị Bổn Tôn vô lượng bất
đồng. Nếu hiểu nghĩa chân thật trong ấy, không gì chẳng phải là toàn thể vào
trong môn chữ A, giống như đức Tỳ Lô Giá Na. Môn chữ A được nói trên đây, tức
là hiển thị thân ta, tức là bản thân ta vốn bất sanh mà cũng bất diệt. “Bất sanh, bất diệt” chính là thân
Như Lai, hãy nên quán sát như thế. Vì thế nói chữ A dùng hình tướng của chính
mình để hiển thị đức ấy.
Kế đó, hoặc là ý nghĩa “vô sở đắc”. Từ hình tướng của chữ Phạ
(Va), hiển thị ý nghĩa “bất khả đắc”,
do chữ Phạ này chứng “vốn bất sanh”.
Hình tượng của chữ Phạ hiện ra, tức là ý nghĩa “ngôn ngữ dứt bặt” trong đoạn sau. Điều này minh thị ý nghĩa gì?
Đức Phật bảo: “Chữ A có đủ hết thảy
các công đức”, hoặc trực tiếp từ môn chữ A để nói rõ “vốn bất sanh”. Hoặc từ môn khác mà
hiển thị, tức là dùng các môn như chữ Phạ v.v… để nói rõ. Ý nghĩa tuy khác, môn
cũng khác biệt, nhưng ý nghĩa “vốn bất
sanh” được hiển thị bởi thân của chính mình chẳng khác! Nếu pháp có một
thứ gì đó là sanh, sẽ chính là tướng có thể nói, chẳng phải là pháp dứt bặt
ngôn ngữ! Do chữ Phạ là “ngôn ngữ dứt,
tâm hạnh diệt”, nên vào trong môn chữ A. Do chữ A mà biết chữ Phạ chẳng
thể nói bày được!
Tiếp đó đều là tướng trạng của các dị
môn (các tự môn khác với chữ A): Hoặc trong hết thảy các pháp, do lìa tạo tác,
hình thể chữ Ca hiện ra. Đây vẫn là nói về môn chữ A, nhưng muốn nêu rõ hết thảy
các pháp vốn vô tác, nên hiện chữ Ca này. Chữ Ca này nhằm nêu rõ ý nghĩa của chữ
A. Nhưng chữ Ca (क), nếu chẳng đặt nét ngang, sẽ chẳng thành âm Ca. Sở dĩ chẳng thành là do
trong chữ Ca khuyết âm A. Trên đầu chữ Ca có hình thể chữ A, hãy nên biết một
trăm chữ đều là như thế; những điều sau đó phỏng theo đó mà hiểu. Nếu không có
âm A trong ấy, sẽ chẳng thể mở miệng, mà cũng tự chẳng có âm thanh. Hoặc do hết
thảy các pháp bằng với hư không, hình thể chữ Kha (ख) hiện ra. Hoặc do
hành bất khả đắc, nên hình thể chữ Nga (ग, Ga) hiện ra. Hoặc
do nhất hợp tướng chẳng thể được, hình thể chữ Già hiện ra (घ, Gha): A Lại Da chứa
đựng hết thảy chủng tử nhiễm và tịnh, là ý nghĩa “hàm tàng”. Hoặc do các pháp
lìa sanh diệt, hình thể chữ Giá (च, Ca) hiện ra. Chữ này dịch sát nghĩa là
“chết mất”. Hoặc do các pháp không có hình bóng, mà hình thể chữ Xa (छ, Cha) hiện ra, như
pháp thế gian, do mặt trời và cây hòa hợp mà có bóng cây sanh ra. Hoặc do hết
thảy các pháp ly sanh, bất khả đắc, mà hình thể chữ Nhã (ज, Ja) hiện ra. Hoặc
do hết thảy các pháp lìa đối địch, mà hình thể chữ Xã (झ, Jha) hiện ra. Đây
chính là ý nghĩa “có cái này, có cái kia”. Có đây và kia tức là có đối địch. Hoặc
do hết thảy các pháp lìa thấp hèn, hình thể chữ Trá (ट, ṭa) hiện ra. Trá
có nghĩa là ngã mạn tự cao. Đối ứng với điều này bèn có thấp hèn. Nếu có ngã mạn,
có thấp hèn, tức là có ý nghĩa “sanh diệt”, chẳng tương ứng với chữ A. Do có âm
A trong ấy, tức là nêu rõ “chẳng có ý nghĩa ty, mạn”. Hoặc do hết thảy các pháp
lìa dưỡng dục, hình thể chữ Trá (ठ, ṭha) hiện ra. Đấy
là ý nghĩa ‘vun bồi, thành lập’, như điều hòa nước, đất v.v… để vun quén cây cối
được sum suê. Hết thảy các pháp vào trong chữ A. Hoặc do lìa oán, mà hình thể
chữ Noa (ड, ḍa) hiện ra (“oán” là tự thân một mực ở trong hết thảy các chỗ mà làm
ác, tức là đối lập với chỗ chẳng ác, trở thành hai đằng). Hoặc do lìa tai biến,
mà hình thể chữ Đồ (ढ, ḍha) hiện ra. Đây là ý nghĩa “tai biến”,
tức là các hiện tượng lạ như châu chấu, tai nạn nước, lửa, đạo tặc xâm hại. Hoặc
do các pháp lìa Như Như, hình thể chữ Đa (त, Ta) hiện ra. Nếu
quán có Như Như, tức là có cái bị quán. Có cái bị quán tức là có sanh, có diệt,
tức là chẳng tương ứng với chữ A! Vì thế, cũng cần phải lìa Như Như. Hoặc do
các pháp lìa trụ xứ, hình thể chữ Tha (थ, Tha) hiện ra (nếu
có thị xứ, có phi xứ, tức là có tâm thị phi sanh ra, chẳng tương ứng với chữ A.
Hoặc do hết thảy các pháp lìa thí, hình thể chữ Na (द, Da) hiện ra. Nếu
có “đây, kia, vật được thí” v.v… tức là chẳng tương ứng với đạo, như kinh Bát
Nhã đã nói. Hoặc do hết thảy các pháp giới chẳng thể đắc, hình thể chữ Đà (ध, Dha) hiện ra. “Giới” (界) có nghĩa là mỗi
pháp đặt đúng bổn vị. Các pháp giới hình tượng muôn mối. “Giới” hàm ý có nhiều hình tượng
trong ấy. Giới ấy chẳng thể được. Hoặc do hết thảy các pháp, Đế chẳng thể được,
mà hình thể chữ Ba (प, Pa) hiện ra. Đệ Nhất Nghĩa Đế cũng chẳng
thể được. Hoặc do hết thảy các pháp giống như bọt nước, chẳng cứng chắc, hình
thể chữ Phả (फ, Pha) hiện ra. “Bọt” có nghĩa là “không cứng chắc”. Do lìa chẳng cứng chắc,
tức là đức của chữ A. Hoặc do hết thảy các pháp lìa trói buộc, hình thể chữ Ma
(ब, Ba) hiện ra. Nếu thấy trói buộc và tháo gỡ, tức là có tâm chấp trước. Nhập
chữ A tức là không trói buộc, không giải thoát, do bất sanh. Hoặc do hết thảy
các pháp quán vô sở đắc, hình thể chữ Bà (भ, Bha) hiện ra. “Quán” tức là quán chiếu. Do quán chiếu
thành, tức là có chỗ thọ sanh. Nếu hiểu [chỗ thọ sanh ấy] vốn là không, tức là
vô sanh, vô quán. Cách giải thích chữ Bà ở đây không thích hợp để giải thích chữ
Ma. Đây là cách giải thích khác của nghĩa Không, văn sai lầm vậy. Hoặc do các
thừa chẳng thể đạt được hết thảy các pháp, mà hình thể chữ Dã (य, Ya) hiện ra. “Thừa” là
tam thừa. Phàm ngồi thuyền, xe, đều có chỗ để đạt đến, đều là ý nghĩa ấy. Nếu
có cái để ngồi, tức là có sở đắc. Hoặc do hết thảy các pháp ly trần, hình thể
chữ Ra (र) hiện ra. Ra có nghĩa là “nhiễm”. Nhiễm ô tức là khiến cho sắc thanh tịnh
bị nhuốm bẩn; đấy chính là trần nhiễm. Các pháp lìa hết thảy cấu. Hoặc do hết
thảy các pháp vô tướng, hình thể chữ La (ल) hiện ra. Nếu có
tướng tức là đối lập với vô tướng, chẳng tương ứng với chữ A. Hoặc do hết thảy
các pháp lìa ngôn thuyết, hình thể chữ Phạ (व, Va) hiện ra. Hoặc
do hết thảy các pháp ly tịch, hình thể chữ Xa (श, śa) hiện ra. Xa
có nghĩa là “vắng lặng”. Nếu có vắng lặng, liền có tán loạn. Chẳng tịch, chẳng
loạn, pháp thể là như thế đó. Hoặc do bản tánh ngu độn của hết thảy các pháp,
hình thể chữ Sa (ष, ṣa) hiện ra. Sa có nghĩa là kẻ ngu, chẳng hiểu biết. Ngu trí là sai lầm,
chẳng tương ứng với bản thể. Hoặc là Đế chẳng thể được, hình thể chữ Sa (स, Sa) hiện ra. Đế ấy có nghĩa là “chân thật”. Đế và phi đế là hai, tức là
pháp thế gian. Đó là hiện hình thể của chữ. Nói “hiện chữ” (công đức của hết thảy các pháp đều ở trong ấy. Hoặc
do hết thảy các pháp lìa nhân, mà hình thể chữ Ha (ह) hiện ra. Ha có
nghĩa là “nhân”. Nếu có nhân,
liền có quả, tức là pháp sanh diệt. Nhập môn Bất Sanh tức là vô nhân, vô quả.
Các điều khác phỏng theo đây.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Tùy nhập thử đẳng nhất nhất tam-muội môn, Bí Mật Chủ!
Quán thị nãi chí tam thập nhị đại nhân tướng đẳng, giai tùng thử trung xuất.
Ngưỡng, nhưỡng, noa, nẵng, mãng đẳng ư nhất thiết pháp tự tại nhi chuyển. Thử đẳng
tùy hiện, thành tựu Tam Miệu Tam Phật Đà tùy hình hảo.
(經)祕密主!隨入此等一一三昧門,祕密主!觀是乃至三十二大人相等皆從此中出,仰壤拏曩莽等於一切法自在而轉。此等隨現,成就三藐三佛陀隨形好。
(Kinh: Này Bí Mật Chủ! Thuận nhập mỗi một môn tam-muội
ấy. Bí Mật Chủ! Quán pháp ấy cho tới ba mươi hai tướng đại nhân v.v… đều từ
trong ấy mà ra. [Các chữ] Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự tại chuyển trong hết thảy các
pháp. Các chữ ấy hễ hiện ra, sẽ thành tựu tùy hình hảo của đấng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
Tức là trong mỗi chữ ấy có ba mươi hai
môn tam-muội. Ba mươi hai môn ấy nhập lẫn nhau, có thể tạo thành ba mươi hai tướng,
tức là hai mươi chữ như Ca v.v.. trên đây, như tám chữ Ra v.v… và bốn chữ này,
cùng hợp thành ba mươi hai. Tam-muội trong mỗi chữ đều trọn đủ ba mươi hai tướng.
Kế đó, năm chữ Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự tại xoay chuyển
trong hết thảy các pháp. Các chữ ấy thành tựu tùy hình hảo của đấng Đẳng Chánh
Giác, tùy ý hiện thành kinh văn. Năm chữ ấy trọn khắp trong Định, Huệ, cũng có
thể thành tam-muội, cũng có thể thành trí huệ, có thể thành trọn khắp tám mươi
tùy hình hảo của Như Lai. Vì thế, hành giả tu Chân Ngôn hãy nên biết ý nghĩa của
các chữ này. Nếu trong chân ngôn có các chữ ấy, tùy theo nghĩa tương ứng mà liền
biết ý nghĩa, hiểu rõ chuyện như thế. Do hiểu rõ chuyện như thế, liền biết chân
ngôn này có công đức lực dụng như thế đó. Ở đây có một bài kệ, từ Bí Mật Chủ,
các Bồ Tát thuộc Chân Ngôn môn, cho đến một trăm môn tam-muội-da sanh từ trăm
chữ, là kinh văn thuộc phần khác, chẳng nên ghép vào đây. Đó là kinh văn bị
chép lầm vậy. Cũng có thể hiểu đây là chư Phật rộng giải về cái Ngã, cũng được
thành đấng Nhân Trung Tôn trong hết thảy chư Phật. Ba mươi hai tướng, tùy hình
hảo v.v.., hết thảy cái nhân thành Phật, hết thảy công đức như trên đều do rộng
hành pháp này mà được thành tựu. Hết thảy chư Phật do hạnh này mà được thành
Thiên Nhân Trung Tôn. Nếu hành giả hành như thế, cũng sẽ được thành Nhân Trung
Tôn. Trên đây là phẩm Bách Tự Thành Tựu Trì Tụng đã xong.
[1] Trong
cách tính đếm của cổ Trung Hoa, những con số lớn là vạn, ức, triệu, kinh, cai,
tỷ, nhương, câu, giản, tải. Trong đó, vạn là mười ngàn, ức là trăm ngàn, cho đến
con số lớn cuối cùng là Tải (tức là sau số 1 có mười bốn con số không).
Comments
Post a Comment