Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
4.
Phẩm thứ tư: Phổ Thông Chân Ngôn Tạng
Phổ
Thông Chân Ngôn Tạng Phẩm Đệ Tứ
普通真言藏品第四
(Kinh) Nhĩ thời,
chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ, chư Bồ Tát chúng, Phổ Hiền vi thượng
thủ, khể thủ Tỳ Lô Giá Na Phật, các các ngôn âm thỉnh bạch: - Thế Tôn! Nhạo dục
ư thử Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, như sở thông đạt pháp giới thanh tịnh
môn, diễn thuyết chân ngôn pháp cú.
(經)爾時,諸執金剛祕密主為上首,諸菩薩眾普賢為上首,稽首毘盧遮那佛,各各言音請白:世尊!樂欲於此大悲藏生大漫荼羅王,如所通達法界清淨門演說真言法 句。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, các vị Chấp Kim Cang, ngài Bí Mật Chủ làm thượng thủ, trong các vị Bồ
Tát thì ngài Phổ Hiền làm thượng thủ, đảnh lễ Tỳ Lô Giá Na Phật, ai nấy dùng lời
lẽ thỉnh bạch: - Bạch Thế Tôn! Chúng con ưa thích từ trong Đại Bi Tạng Sanh Đại
Mạn-đồ-la vương này, đúng theo từng môn thanh tịnh đã thông đạt đối với pháp giới
mà diễn nói pháp cú chân ngôn).
Các vị Bồ Tát, Kim Cang ấy vì muốn thành tựu viên mãn pháp
này, ai nấy đảnh lễ Đại Nhật Như Lai xong, mỗi vị vui thích, muốn tự diễn nói
pháp môn pháp giới thanh tịnh mà tâm mình đã thông đạt. Vì lẽ nào vậy? Đối với
cái Thể của pháp giới thanh tịnh nơi Đại Mạn-đồ-la vương như thế, mỗi vị Bồ Tát
do từ một môn mà đạt được tự tại, tương xứng với sự hiểu biết của chính mình mà
rộng nói. Nếu có chúng sanh tiến nhập, hành theo một môn ấy, chẳng lâu sau, sẽ
được giống như vị Bồ Tát đó. Các vị Bồ Tát ấy đều là đức nội chứng của Đại Nhật
Như Lai. Vì muốn rộng khai môn tri kiến ấy, mỗi vị Bồ Tát đều diễn nói một môn.
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn vô hoại pháp nhĩ gia trì, nhi cáo chư Chấp Kim Cang, cập Bồ Tát ngôn: -
Thiện nam tử! Đương thuyết như sở thông đạt pháp giới, tịnh trừ chúng sanh giới
chân thật ngữ cú.
(經)爾時,世尊無壞法爾加持而告諸執金剛及菩薩言:善男子!當說如所通達法界,淨除眾生界真實語句。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn do pháp vốn sẵn bất hoại gia trì như thế, bảo các vị Chấp Kim Cang và Bồ
Tát rằng: - Thiện nam tử! Hãy nên nói câu chữ chân thật tịnh trừ chúng sanh giới
đúng như các ông đã thông đạt).
Khi đó, đức Phật thuận theo lời thỉnh của họ, do pháp ấy là
vô tận, hoặc có thể nói là vô hại, hoặc có thể nói là bất động, hoặc có thể nói
là bất hoại, các nghĩa dưới đây chính là các ý nghĩa đó. Như người khăng khăng
cam chịu thất bại, sẽ chẳng thể cứu chữa được! Lại có kẻ khác có thể lìa các lỗi
lầm ấy, kẻ đó sẽ chẳng bị khuất phục. Ý nghĩa “bất hoại” là như thế đó. Sức tự tại trang nghiêm vô tận, sức vô
công dụng mà pháp vốn sẵn có, dùng đó để gia trì trọn khắp các đại chúng ấy;
sau đấy mới bảo rằng: “Thiện nam tử!
Nay các ông hãy nên nói. Như đối với mỗi môn do chính ông thông đạt pháp giới,
vì muốn trừ sạch các cấu uế hư vọng trong hết thảy chúng sanh giới, khiến cho đều
giống như chân pháp giới vô tận tạng, ai nấy hãy nên tự nói câu chân ngôn vậy”.
(Kinh) Thời, Phổ
Hiền tức thời trụ ư Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội, thuyết Vô Ngại Lực
chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô yết đa, vi ra xà đạt
ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha.
(經)時,普賢菩薩即時住於佛境界莊嚴三昧,說無閡力真言曰:南麼三曼多勃馱喃。三麼多奴揭多。微囉闍達摩儞闍多。摩訶摩訶。莎訶。
(Kinh:
Khi đó, Phổ Hiền Bồ Tát lập tức trụ trong Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội,
nói chân ngôn Vô Ngại Lực rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tam ma đa nô yết
đa, vi ra xà đạt ma nễ xà đa, ma ha ma ha, sa ha).
Khi đó, Phổ Hiền Bồ
Tát trụ trong Phật Trang Nghiêm Cảnh Giới tam-muội để nói chân ngôn Vô Ngại Lực.
Ngài là thượng thủ trong các vị đại Bồ Tát, được tự tại trong pháp môn Phật
Trang Nghiêm Cảnh Giới, lập tức nhập tam-muội ấy. Phật Cảnh Giới chính là cảnh
giới chân thật do chư Phật tự chứng, hàng Thanh Văn chẳng thể đạt được, như
trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa đã nói. “Trang nghiêm” chính là cái
Thể mà Như Lai tự chứng. Thể có vô lượng đức, mỗi đức có vô lượng tên, dùng vô
lượng trang nghiêm để tự trang nghiêm. Đấy chính là pháp lìa danh tự chẳng thể
nghĩ bàn. Cớ sao trong Định ấy mà có ngôn thuyết vậy? Tức là nói vị Bồ Tát này
do trụ trong môn tam-muội ấy, nên đạt được sức vô ngại. Từ trong tự tâm diện
môn mà phát ra đủ loại ánh sáng, trong quang minh ấy nói chân ngôn này.
Tam Mạn Đa (Samanta) là Đẳng,
Nô Yết Đa (Anugata) nghĩa là “tiến, đi, qua”. Vi Ra Xà (Viraja): Vi là lìa, Ra
Xà (Raja) là trần cấu, [Vi Ra Xà] nghĩa là “trừ hết thảy các chướng”. Đạt Ma Nễ
Xà Đa (Dharmanirjāta), hai chữ đầu là Pháp, ba chữ sau là Sanh. Sanh ra các pháp nào? Tức là
từ thể tánh của các pháp mà sanh. Ma Ha Ma Ha (Mahāmahā): Ma là chữ thứ năm, trọn khắp hết
thảy mọi nơi, tức là Đại Không. To lớn trong các món Không, nên gọi là Đại
Không. Vì thế, lặp lại. Lại còn là “chẳng thể được, không gì sánh bằng”, nên gọi
là Đại. Trong Trùng Không, lại càng là khôn sánh!
Ý nói: Đẳng chính là “các pháp rốt ráo bình đẳng”. “Tiến” có nghĩa là “đi qua”, tức là Phật khéo vượt qua [sanh tử, phiền não] mà thành Chánh Giác.
Nhưng pháp giới bình đẳng chẳng đến, chẳng đi, sao lại có đến, có đi ư? Kế đó,
giải thích: Do có thể ly cấu, trừ hết thảy các chướng; đó chính là ý nghĩa “tiến lên thù thắng”. Chẳng đi mà tiến, đó chính là Thiện Thệ bậc nhất! Do tiến hành như thế,
sẽ có thể sanh thành các pháp, tức là từ pháp tánh bình đẳng mà sanh trong nhà
Phật. Vì thế nói là “đại trung
chi đại” (lớn nhất trong các thứ to lớn), tức là Đại Không do
chứng vô ngại, không gì sánh bằng. Đại Không là cảnh giới của Phật. Nhưng chân
ngôn này dùng chữ Ha làm Thể, Ha là Hỷ. Đó gọi là tu hành theo pháp
tu của Bồ Tát. Nếu chúng sanh từ trong pháp môn này mà thọ trì, đọc, tụng, hoặc
quán chiếu, tức là có cùng pháp môn với đức Phổ Hiền, chẳng lâu sau sẽ đạt được
sức tự tại nơi Phật Cảnh Giới Trang Nghiêm tam-muội.
(Kinh) Thời, Di Lặc Bồ Tát trụ Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ tam-muội, thuyết
Tự Tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. A thệ đan xà da. Tát bà tát đỏa xa dã nô kiệt
đa. Sa ha.
(經)時,彌勒菩薩住發生普遍大慈三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿誓單闍耶。薩婆薩埵奢也奴竭多。莎訶。
(Kinh: Khi đó, Di Lặc Bồ Tát trụ trong Phát Sanh Phổ Biến Đại Từ
tam-muội, nói tự tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A thệ đan
xà da, tát bà tát đỏa xa dã nô kiệt đa. Sa ha).
Phổ là bình đẳng, trọn khắp
hết thảy các pháp giới. Tương xứng với pháp giới mà sanh khởi lòng đại từ, có
thể trao cho trọn khắp hết thảy chúng sanh niềm vui chánh pháp. Đó là chỗ nhập
môn của Ngài. Như tự mình tăng tấn, đạt được, nhập vào tam-muội mà nói chân
ngôn; do vậy nói là “tự tâm thuyết”.
Chữ Thuyết có ý nghĩa giống như trong phần trên. A Thệ Đan Xà Da (Ajitaṃjaya), có nghĩa là “vô
năng thắng” (không ai hơn được). Xà Da (Jaya) là thắng, A là không. Tát
Bà Tát Đỏa (Sarvasatva) là “hết thảy chúng sanh”. A Xa Dã (Āśaya) là tâm tánh, tức các căn, tánh dục do đã hành, hoặc tu tập từ đời trước.
Nô Kiệt Đa (Anugata) là “biết”,
tức là có thể biết rõ các căn và tánh hạnh của chúng sanh.
Chân ngôn này lấy chữ A làm
Thể, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. “Sanh” là sanh, lão, bệnh, tử, hết
thảy các pháp lưu chuyển. Thể của nó là “thường tự chẳng sanh”; đó là ý nghĩa của
chữ A. Do biết tự tánh của các pháp chẳng sanh, cho nên hết thảy chúng sanh chẳng
có thượng, thắng thượng, vô đẳng! Lại có thể biết do pháp thể là bất sanh, soi
biết hết thảy tâm tánh của các căn cơ, không gì chẳng hiểu rõ hiện giác, thuận
theo người đáng nên được [hóa độ] mà thành tựu [người ấy]. Đó là lòng Từ bậc
thượng, thí trọn khắp chúng sanh, chẳng có cùng tận. Do vậy, nếu có chúng sanh
có thể thông đạt, thọ trì, đọc, tụng pháp hạnh này, hành theo, chẳng lâu sau sẽ
có cùng một hạnh với đức Di Lặc.
(Kinh) Nhĩ thời, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội,
thuyết tự tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a ca xa tam ma đa
nô kiệt đa, phệ chất đát lãm phạ ra đà ra, sa ha.
(經)爾時,虛空藏菩薩入清淨境界三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃 。阿迦奢三麼多奴竭多 。吠質怛纜
嚩囉馱囉。莎訶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Hư Không Tạng Bồ Tát nhập
Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, tự nói tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, a ca xa tam ma đa nô kiệt đa, phệ chất đát lãm, phạ ra đà ra, sa ha).
Hư Không Tạng Bồ Tát nhập
Thanh Tịnh Cảnh Giới tam-muội, nói tâm chú, tức là trụ trong tam-muội ấy, có thể
biết bản tánh của tự tâm là thanh tịnh, liễu đạt cảnh pháp giới thanh tịnh như
thế, tức là tạng bí mật Đại Không. Hư Không lại chính là Đại Bi Thai Tạng, có
thể trưởng dưỡng thành tựu cái tâm Bồ Đề. A Ca Xa (Ākāśa) nghĩa là hư không, Tam Mạn Đa (Samata) là Đẳng, ý nói hết thảy các pháp
như hư không. Nô Kiệt Đa (Anugata) là biết rõ. Phệ Chất Đát-lãm (Vicitrāṃ) là “áo nhiều màu”, nghĩa là các thứ hiển sắc kỳ diệu. Phạ-ra (Bara) là
áo, Đà (Dha) nghĩa là chấp trì, Ra là mặc, khoác. Đức ấy sanh ra tức là mặc các
loại áo vậy.
Chân ngôn này lấy chữ A (âm
dài, tức chữ Ā, आ) làm Thể. Chữ
A là cái Thể vốn chẳng sanh, nay chữ Ā này là âm thanh thứ hai, tức là nghĩa
Không. Do “vốn bất sanh” nên giống
như hư không, cũng tức là hết thảy các pháp đều giống như hư không, tự đạt được sự thấu hiểu như thế đó. “Áo nhiều màu” chính là các thứ pháp môn vạn đức trang nghiêm. Nếu
ai có thể chứng môn Không tam-muội này, sẽ có thể dùng vạn đức để trang nghiêm
tấm thân, như do hư không thanh tịnh mà có thể thấy hiển sắc. Các điều khác như
đã nói trong phần trước.
(Kinh) Nhĩ thời, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực tam-muội,
thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa, phiêu dữu
kiệt đa, đát lãm đát lãm lãm lãm, sa ha.
(經)爾時,除一切蓋障菩薩入悲力三昧,說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿薩埵係多驃庾竭多。怛纜怛纜纜纜。莎訶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực
tam-muội, nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a tát đỏa hệ đa,
phiêu dữu kiệt đa, đát lãm đát lãm lãm lãm, sa ha).
Lúc bấy giờ, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát nhập Bi Lực
tam-muội nói chân ngôn; đó chính là lòng Bi nơi pháp tánh. Do sức tự tại
có thể trừ hết thảy cái chướng của chúng sanh, được tự tại trong các chướng ấy.
Có thể ở ngay trong chướng ấy mà lại có thể trừ khử thì chính là đại bi của Như
Lai vậy! A (Aḥ, आः) có nghĩa là
“hàng phục, nhiếp phục”. Đó là
cái Thể của chân ngôn. Chữ A vốn bất sanh, chữ thứ hai sau đó (tức hai chấm) tạo
thành âm dài, chính là Kim Cang tam-muội, lại thêm một điểm bất động thì chính
là ý nghĩa “hàng phục”. Tát Đóa Hệ Đa (Satvahīta) là lợi ích hữu tình. Phiêu Dữu
Kiệt Đa (Abhyugata) là khởi đầu, mà cũng là khởi sanh. Đát-lãm Đát-lãm (Traṃ Traṃ, त्रंत्रं), Đát chính là chữ Đa (त, ta), có
nghĩa là Như Như, trong chữ Lãm (रं) có chữ La (र), có nghĩa
là “vô cấu”. Thêm một chấm tức
là chữ Ma, thì là “nhập chứng Đại
Không”. Lãm Lãm (Raṃ Raṃ): Chữ La trong ấy có nghĩa là “không
có bụi bặm”, thêm một chấm tức là chứng Đại Không.
Chân ngôn này có ý nghĩa:
Cái Thể là Như Như, do sức tự tại này mà trừ hết thảy các trần cấu che lấp,
ngăn chướng, chứng Không. Cái Không nhất trong các cái Không, chính là ý nghĩa
của Đại Không. Tướng ấy vi tế, khó trừ, chốn chốn đều nói phá vô minh tam-muội,
trừ sạch Hoặc tướng nơi tự thể. Vì thế, lặp lại hai chữ Lãm Lãm nhằm nhấn mạnh
lần nữa. Lại giải thích theo tướng thì do trụ trong chữ Raṃ (रं), sẽ có thể tạo lợi ích rộng lớn cho hết thảy chúng sanh,
phát sanh tánh này, trừ khử các cấu. Nếu có chúng sanh nhập môn Chân Ngôn này,
chẳng lâu sau, sẽ có cùng đức với vị Bồ Tát ấy. Phàm khi quán chiếu, chỉ lấy một
chữ bản thể làm chủ, khi trì tụng thì nói đủ [các chữ trong chân ngôn]. Đấy là
chữ chủng tử. Lại giải thích theo thứ tự của các chữ, như trước hết có chữ Ác
(Aḥ), dùng chữ kế đó để giải thích. Chuẩn theo tự môn trước đó, nếu chẳng trọn
khắp, sẽ chẳng gọi là Phổ được!
(Kinh) Nhĩ thời, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập ư Phổ Quán tam-muội, thuyết
tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ
đát tha kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dã, ra ra ra, hồng nhã, sa ha.
(經)爾時,觀世自在菩薩入於普觀三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩怛他竭多。嚩路吉多。迦嚧尼麼也。囉囉囉吽若。莎訶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Quán Thế Tự Tại Bồ Tát nhập Phổ Quán tam-muội,
nói chân ngôn của tự tâm và quyến thuộc rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Tát phạ đát tha kiệt đa, phạ lộ cát đa, ca rô ni ma dã, ra ra ra, hồng nhã, sa
ha).
Dùng Phổ Nhãn để quán chúng
sanh, nên gọi là đấng Quán Tự Tại. Đã nhập môn tam-muội này, từ cái tâm này, tỏa
ra đủ loại quang minh, trong quang minh hiện ra chân ngôn của pháp môn. Tát Phạ
Đát Tha Kiệt Đa (Sarvatathāgata) tức là hết thảy Như Lai, ý
nói mười phương ba đời chư Phật. Phạ Lộ Cát Đa (Avalokita) là Quán, giống hệt
như điều đức Phật quán. Vì thế gọi là “chư
Như Lai quán”, tức là bình đẳng quán. Đó chính là Phổ Nhãn Quán. Ca Rô
Ni Ma Dã (Kāruṇamaya) là cái Thể. Đó chính là Đại Bi làm Thể, giống như người bằng vàng, do tự
thể thuần là vàng, nên gọi là “kim
nhân”. Vị Bồ Tát này cũng thế, thuần dùng Đại Bi làm Thể. Ra Ra Ra: Ra
có nghĩa là trần, nhập A tự môn thì là Vô Trần. Do vậy, nhắc lại ba lượt, ngụ ý
trừ trần chướng của phàm phu. Chữ Hồng (Hūṃ) nghĩa là
“khủng bố”. Dùng sức tự tại đại oai mãnh để đe dọa ba tầng trần chướng, khiến
cho chúng bị trừ sạch, giống như mắt Phật. Chữ Nhã (जाः, Jaḥ) cuối cùng chính là chủng tử. Các chữ [khác trong bài chú này] đều nhằm
giải thích ý nghĩa của chữ [Nhã] này, tức sanh và bất sanh là ý nghĩa của chữ
Xà (ज, Ja). Hoặc coi chữ Tát (स, Sa) đầu tiên là Thể, cũng có
cùng công dụng, mang ý nghĩa “cảnh
giác”. Trong chữ Hồng (हूं) có chữ Ha (ह) nghĩa là hoan hỷ, trên đó có chấm Đại Không là tam-muội,
phía dưới có nét vẽ tam-muội (ू). Trong đó, nét chữ vẽ ở dưới cũng là tam-muội, [tức là] hai
tam-muội song hành. Tam thế chư Phật đều cùng quán điều này. Vì thế gọi là Đẳng
Quán.
(Kinh) Đắc Đại Thế chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm,
nhiêm nhiêm sách, sa ha.
(經)得大勢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯髯索。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn Đắc Đại Thế rằng: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm,
nhiêm nhiêm sách, sa ha).
Ngài Đắc Đại Thế cũng nhập
môn tam-muội này, giống như ngài Quán Âm, do là quyến thuộc vậy. Nhiêm Nhiêm
(Jaṃ Jaṃ, जांजां) nghĩa là Sanh, nên có hai tầng: Trước là Phiền Não Chướng sanh, sau là Sở
Tri Chướng sanh. Nhập môn chữ A thì toàn thể của cả hai thứ sanh đều là bất
sanh. Trên đó có chấm Đại Không, tức là ý nghĩa Đại Không, ngụ ý: Trừ hai thứ
chướng thì Đại Không sanh khởi. Chữ Sách (Saḥ, सः) là chủng tử của chân ngôn. “Sách” nghĩa là bất động. Pháp bất động
mà trụ trong Động tức là có sanh diệt. Phàm là vật có sanh diệt thì có tướng trụ
trong Động. Vì thế kinh nói: “Động, bất
động pháp, giai thị bất an chi tướng” (Pháp động và bất động đều là tướng
chẳng yên). Bên cạnh [chữ Sa (स)] có hai chấm giống như Niết Bàn, tức là ý nghĩa Kiên Trụ.
Đã lìa hai chướng, giống như Đại Không, trụ vững trong địa vị ấy, giống như chư
Phật trụ, tức là địa vị “đại thế” (thế
lực, oai thế to lớn). Như người
đời có quan chức lớn, có lắm tài lực, oai thế, khiến cho nhiều người khuất phục,
bèn gọi là “người có oai thế”.
Oai thế ấy chính là địa vị. Ý nói: Vượt thoát hai thứ sanh, sẽ giống như Phật
sanh, tức là địa vị Như Lai. Đạt được địa vị to lớn ấy, có thế lực to lớn ấy,
nên gọi là Đắc Đại Thế.
(Kinh) Đa La tôn chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô
noa, ốt bà phí, đa rị đa rị ni, sa ha.
(經)多羅尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迦盧拏。嗢婆費。多唎多唎尼。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Đa La là: - Nam mô
tam mạn đa bột đà nẫm, ca lô noa, ốt bà phí, đa rị đa rị ni, sa ha).
Kế đó, ngài Đa La (Tārā) cũng là quyến thuộc của ngài Quán Tự Tại, nhập tam-muội cũng giống như
phần trên đã nói. Ca Lô Noa (Kāruṇa) nghĩa là Bi. Ốt-bà Phí (Odbhave) là Sanh, ý nói sanh từ
lòng Bi. Đấng có lòng Bi tức là Quán Âm. Vị Bồ Tát này sanh từ mắt của vị tôn thánh ấy (Quán Thế Âm Bồ Tát). Giống như thấy
Thật Tướng của các pháp, bèn gọi là Phổ Nhãn, tức là thấy cái Thể Như Như, sanh
từ con mắt tam-muội ấy. Đa Rị Đa Rị Ni (Tāre Tāriṇi): Đa Rị nghĩa là Độ. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đa đầu tiên làm thể, tức
là chữ Đa (ता, Tā) đầu tiên trong hai chữ Đa. Đa (त, Ta) có nghĩa là Như Như, cái chấm bên cạnh (ा) chính là chữ A; đó gọi là hạnh
Như Như. Chữ Ra là trần. Sáu trần chính là biển cả sanh tử. Do quán lý tánh Như
Như này, hết thảy các trần lao liền giống như “vốn sẵn bất sanh”, tức là ý
nghĩa “vượt biển cả”. Có thể vượt thoát các biển cả sanh tử tức là “đắc độ trong
các pháp”. Hơn nữa, Thích Phạm được nói là “cực độ”, do đã tự đắc độ, lại còn phổ độ hết thảy chúng sanh,
nên gọi là Cực Độ. Nếu người chưa tự đắc độ mà độ người khác, sẽ chẳng thể như
thế được. Nếu là người đã tự độ, lại còn có thể độ người khác, sẽ có lẽ ấy! Chữ
Đa kế tiếp chính là cái Thể của Như Lai. Do quán Như Như mà vượt qua biển cả trần
lao, đạt thành tự thể của Như Lai. Như trong Đại Bổn nói có năm trăm vị Đa La, đều sanh từ mắt
của đức Quán Âm, đều là A Di Đà Tỷ Muội tam-muội vậy!
(Kinh) Đại Tỳ Câu Chi chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm,
tát bà bồi dã, đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả trá dã, sa ha.
(經)大毘俱胝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆陪也。哆羅薩儞。吽。吽。薩頗吒也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Đại Tỳ Câu Chi là: -
Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm, tát bà bồi dã, đá la tát nễ, hồng, hồng, tát phả
trá dã, sa ha).
Kế đó, ngài Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭi) nhập tam-muội giống như trên. Tát Bà Bồi Dã (Sarvabhaya) nghĩa là “hết
thảy khủng bố”. Đá La Tát Nễ (Trāsani) cũng là Khủng Bố. Hồng Hồng
(Hūṃ Hūṃ) cũng có nghĩa là Khủng Bố. Tát Phả Trá Dã (Sphoṭaya) là “tàn hại, phá chướng”. Sở dĩ lặp lại Khủng Bố là do trước bèn có sự
sợ hãi, sau là vô úy. Hết thảy chúng sanh đều có nỗi sợ hãi, do chưa đạt được
Vô Úy Xứ. Nhưng do ở trong ấy mà sanh giải đãi, ngạo mạn, ngã chấp, tự cao, cho
nên [Bồ Tát] đe dọa họ, khiến cho họ lìa hữu úy, đạt được vô úy. Do bị sợ hãi
mà khiến cho họ được không sợ hãi. Vì thế nói lặp lại. “Tàn hại” tức là phá hết thảy các chướng. Nhưng chân ngôn này lấy
chữ Đá La (त्रा, Trā) làm Thể. Các chữ khác nhằm giải thích chữ này. Đa (त, Ta) là Như Như. La là trần. Một
chấm bên góc chữ Đa là A (ा), A tức là “hạnh”. Thể của các trần lao giống như Như Như.
Dùng hạnh Như Như này, sẽ có thể chiết phục, diệt tan hết thảy các tràng cao
“sanh tử kiến, mạn, ngã chấp”, tức là ý nghĩa “đại tồi phục” đập tan, chế phục lớn lao.
Trong đại hội của Phật, khi
đó, các vị Kim Cang hiện dáng vẻ hàng phục hết sức đáng sợ, ra vẻ như không ai
có thể hàng phục họ. Khi đó, từ vết nhăn trên trán của đức Quán Âm, hiện ra vị
Bồ Tát này. Phương Tây gọi vết nhăn trên trán là Tỳ Câu Chi. Như người hiện thời
tức giận, trên trán sẽ có vết nhăn. Vị Bồ Tát này hiện thân với hình dạng đại
phẫn nộ. Khi đó, các vị Kim Cang đều sanh lòng sợ hãi, nhập vào thân ngài Kim
Cang Tạng. Khi đó, ngài Tỳ Câu Chi đến trước ngài Kim Cang Tạng. Lúc ấy, ngài
Kim Cang Tạng cũng hết sức sợ hãi, lui tới dưới tòa của Như Lai, “nguyện Phật che chở cho con”. Khi
đó, đức Phật bảo ngài Tỳ Câu Chi: “Này
chị! Hãy dừng lại”. Lúc bấy giờ, ngài Tỳ Câu Chi liền đứng lại, bạch Phật:
“Vâng theo giáo sắc của Phật, con sẽ
phụng hành”. Lúc bấy giờ, nỗi sợ hãi của các vị Kim Cang cũng đều trừ, họ
đều đại hoan hỷ mà nói thế này: “Đấng
đại bi này có thể hiện đại lực oai mãnh rất hy hữu. Phải nên thưa hỏi ý bí mật
trong ấy”.
(Kinh) Bạch Xứ Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát
tha kiệt đa tỳ xá dã, tam bà phệ, bát đầu ma ma lý nễ, sa ha.
(經)白處尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛他竭多毘舍也。三婆吠。鉢頭摩摩履儞。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Bạch Xứ Tôn là: - Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm, đát tha kiệt đa tỳ xá dã, tam bà phệ, bát đầu ma ma
lý nễ, sa ha).
Kế đến là ngài Bạch Trụ Xứ
(Pāṇḍaravāsinī, Bạch Xứ) Bồ Tát, hãy nên giữ nguyên âm tiếng Phạn. Đát Tha Kiệt Đa (Tathāgata) là Như Lai, Tỳ Xá Dã (Viṣaya) là cảnh giới. Cảnh giới của Như
Lai gọi là Như Như. Tam Bà Phệ (Saṃbhave) là “sanh từ đó”. Bát Đầu-Ma (Padma) là “hoa trắng”,
Ma Lý Nễ (Mālini) tức là dùng hoa Bát Đầu-Ma làm tràng hoa; do vậy đặt tên
như thế. Lý Nễ ở đây có nghĩa là “ở”, là “trụ”. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đát
(Tat) đầu tiên làm Thể, tức là Như Như. Như Như chính là cảnh giới của chư Phật.
Ta nay từ đó mà sanh! “Bạch” tức
là tâm Bồ Đề. Trụ trong cái tâm Bồ Đề ấy chính là chỗ tự trụ. Bồ Đề tâm ấy sanh
từ cảnh giới của Phật. Thường trụ trong ấy, có thể sanh ra chư Phật. Đây chính
là Quán Âm Mẫu, tức Liên Hoa Bộ Chủ.
(Kinh) Hà Da Yết Lật Phạ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
hồng khư đà bạn xà, tát phổ trá dã, sa ha.
(經)何耶揭㗚嚩真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽佉陀畔闍。薩普吒也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Hà Da Yết Lật Phạ là: -
Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, hồng khư đà bạn xà, tát phổ trá dã, sa
ha).
Kế đó là Mã Đầu Bồ Tát (Hayagrīva, Hà Da Yết Lật Phạ). Hồng nghĩa là “khủng bố”,
Khư Đà (खद, Khada) nghĩa là “ăn nuốt”, tức là “ăn nuốt các chướng”,
nhưng chân ngôn này lấy chữ Khư làm thể. Chữ Khư (ख, Kha) nghĩa là Không, cái chấm
bên góc là “hành”. Đà (द, da) có nghĩa là “trao cho”. Nói tới Không, đó chính
là Thật Tướng của các pháp. Do hành chuyện này mà đạt được cái quả Thật Tướng.
Lại thường dùng điều này để trao cho người khác. Nay nói “ăn nuốt” thì chính là dùng Không hạnh
này để ăn nuốt các thứ gây chướng ngại pháp Bồ Đề. Bạn Xà (Bhañja): Bạn là Dục, Sắc, tam giới, Xà
là sanh. Nói gộp chung hai chữ, chính là ý nghĩa “thuận hoại”. Tát Phổ Trá Dã (Sphoṭaya) nghĩa là “phá nát trọn khắp, khiến cho hết sạch”, ý nói: Dùng Không hạnh
ấy để phá hết thảy các pháp trọn khắp, chẳng còn thừa sót. Ngoại trừ Thật Tướng
của các pháp, các thứ khác đều là pháp gây chướng Bồ Đề. Dùng “ăn nuốt” để phá nát cho đều hết sạch,
đạt thành đại thế lực oai mãnh. Vị Bồ Tát này là Liên Hoa Bộ Minh Vương.
(Kinh) Thời, Địa Tạng Bồ Tát trụ Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh
Giới tam-muội, thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha,
tô đa nô, sa ha.
(經)時,地藏菩薩住金剛不可壞行境界三昧,說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶訶訶。蘇多奴。莎訶。
(Kinh: Khi đó, Địa Tạng Bồ Tát trụ trong
Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh Cảnh Giới tam-muội, nói chân ngôn rằng: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, ha ha ha, tô đa nô, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Địa
Tạng Bồ Tát. Khi đó, vị Bồ Tát này nhập Kim Cang Bất Khả Hoại Hạnh [Cảnh Giới]
tam-muội. Kim Cang tức là tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề ấy chẳng thể phá hoại; nương vào
đó để hành Kim Cang hạnh. Ha Ha Ha: Chữ Ha đầu tiên là cái Thể của chân ngôn.
Ha có nghĩa là hành, cũng có nghĩa là cười, là hoan hỷ. Nhập môn chữ A liền lìa
hỷ, Hỷ chính là pháp sanh diệt. Sở dĩ có ba [chữ Ha], do chính là hạnh tam thừa.
Vị Bồ Tát này dùng đủ loại pháp môn để lợi ích chúng sanh. Tô Đa Nô (Sutanu): Tô
là thiện, Đa Nô là Tử, tức là Thiện Tử (đứa con tốt lành), cũng có nghĩa là
Khinh An. Ví như khéo có thể hành hạnh này để lợi ích hữu tình, thật sự là Phật
tử, từ thiện tánh mà sanh, nên gọi là Thiện Tử. Do từ Phật mà sanh, nên gọi là
Phật Tử. Vị Bồ Tát này liền có thể nói các loại hạnh môn trong tam thừa để lợi ích chúng sanh như trong kinh Thập Luân đã rộng nói.
(Kinh) Thời, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ Phật Gia Trì Thần Lực
tam-muội, tự thuyết tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê hê câu
ma ra ca, tỳ mục cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra, sa-ma ra, bát-ra để nhã,
sa ha.
(經)時,文殊師利童子住佛加持神力三昧,說自心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯醯俱摩囉迦。毘目吃底鉢他悉體多。娑麼囉娑麼囉。鉢囉底若。莎訶。
(Kinh: Khi đó, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử trụ trong
Phật Gia Trì Thần Lực tam-muội, tự nói tâm chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, hê hê câu ma ra ca, tỳ mục cật-để bát tha tất-thể đa, sa-ma ra,
sa-ma ra, bát-ra để nhã, sa ha).
Kế đó, ngài Văn Thù nhập Phật
Gia Trì Thần Lực tam-muội. Gia Trì tam-muội này như trong phần đầu kinh Tỳ Lô
đã nói. Hê Hê nghĩa là triệu tập, Câu Ma Ra Ca (Kumāraka) nghĩa là “đồng tử”
(bé trai), tức là triệu tập khiến cho nghĩ nhớ bổn nguyện. Lại còn có nghĩa “tồi phá” (dẹp tan). Ma Ra (Mara) là
quyến thuộc của Ma, đó chính là Tứ Ma. Chân ngôn này lấy chữ Ma làm thể, tức là
ý nghĩa Đại Không. Chứng Đại Không, sẽ đập tan hết thảy các ma. Tỳ Mục Cật-để Bát
Tha Tất-thể Đa (Vimuktipathasthita) là người trụ trong đạo giải thoát, tức là gọi
đồng tử này trụ trong đạo giải thoát, tức là sự giải thoát của chư Phật, chính
là Đại Niết Bàn. Sa-ma Ra Sa-ma Ra (Smara Smara) nghĩa là ức niệm. Bát-ra Để
Nhã (Pratijñāṃ) là sở nguyện đã lập trước đó.
Chân ngôn này có ý nói: Hê
Hê đồng tử trụ trong đạo giải thoát, nghĩ nhớ bổn nguyện đã lập. Pháp Thân của
hết thảy chư Phật thành Phật, nhập cái Thể “thân, khẩu, ý bí mật”, hết thảy kẻ hữu tâm chẳng thể sánh bằng!
Nhưng do nghĩ nhớ bổn nguyện, dùng sức tự tại, trở vào sanh tử cứu độ chúng
sanh. Chân ngôn này cũng có ý nghĩa như thế đó. Vị đồng tử này đã thành tựu
Pháp Thân Phật từ lâu; do vậy, thỉnh Ngài hãy nghĩ nhớ bổn nguyện độ chúng
sanh. Do thỉnh bổn nguyện của Bồ Tát, nếu có ai thấy, nghe, tiếp xúc, hay biết,
nghĩ nhớ đến ta, sẽ đều đắc Định rốt ráo trong tam thừa, cho đến thỏa mãn hết
thảy các nguyện. Vị Bồ Tát này thành Phật đã lâu, tức là Phổ Kiến Như Lai, hoặc còn gọi là Phổ
Hiện Như Lai, do sức đại bi gia trì mà thị hiện thân đồng tử.
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ trụ Đại Kim Cang Vô Thắng tam-muội, thuyết
tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
chiến đồ ma ha lô sắt noa, hồng.
(經)爾時,金剛手住大金剛無勝三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。戰荼麼訶盧瑟拏。吽。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ trụ trong Đại Kim Cang Vô Thắng
tam-muội, nói tự tâm và quyến thuộc chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa phạt
chiết ra nạn, chiến đồ ma ha lô sắt noa, hồng).
Kế đó là Kim Cang Vô Thắng
tam-muội. Do không gì sánh bằng được, nên gọi là Vô Thắng. Do hiện tại giác ngộ
cái Thể Kim Cang của chư Phật, có thể trì trí của chư Phật, nên gọi là Chấp Kim
Cang. [“Nam ma tam mạn đa phạt chiết
ra nạn” (Namaḥ samantavajrāṇāṃ) là] quy mạng [hết thảy] các Kim Cang, vì Kim Cang chính là trí ấn của chư Phật,
tức là biệt danh của chư Phật vậy. Chiến Đồ (Caṇḍa) là cực ác. Tột cùng trong các điều ác, ý nói: Hình dạng bạo ác, không ai
hơn được. Thậm chí ăn thịt hết thảy thế gian chẳng bỏ sót, tức là ác tột bậc.
Ma Ha Lô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là đại phẫn nộ. Đã cực ác, mà lại còn phẫn nộ hết mực, tức
là nói Phật đệ nhất oai mãnh, tàn hại tận cùng sào huyệt thế gian, khiến cho
[chúng sanh] đều nhập pháp giới, quy vào Kim Cang Giới. Chữ Hồng (Hūṃ) là cái Thể của chân ngôn, có nghĩa
là “chẳng sợ hãi”. [Chữ Hồng gồm ba phần: Chính giữa là] chữ Ha, nghĩa là hành.
Phía trên có một điểm Đại Không, nét cong ở dưới là Định. Đó là Đại Không hành
tam-muội, tức là tên gọi khác của Đại Kim Cang tam-muội. Do có thể hàng phục,
chẳng có ai thắng được!
(Kinh) Mang Mãng Kê chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
đát rị trá đát rị trá, nhã diễn để, sa ha.
(經)忙莽計真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。怛唎吒怛唎吒。若衍底。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Mang Mãng Kê là: - Nam mô tam mạn đa chiết phạt ra nạn, đát rị
trá đát rị trá, nhã diễn để, sa ha.)
Kế đến là Kim
Cang Mẫu, được gọi là Mang Mãng Kê (Māmāki). Mang nghĩa là mẹ, Mãng Kế nghĩa
là nhiều, tức là “mẹ của hết thảy các
Kim Cang”. Các kim cang trí huệ sanh từ đây. Đát-Rị Trá Đát-Rị Trá (Triṭa Triṭa): Trong ấy,
chữ Đát-Rị (त्रि) thứ nhất là Thể, [gồm ba phần]: Đa nghĩa là như như, Ra nghĩa là ly trần cấu,
Y là tam-muội. Tức là Như Như Vô Cấu tam-muội, các trí huệ kim cang sanh bởi đấy.
Chữ Trá chẳng thành, là nửa Thể. Phá hoại cái Thể “chẳng thành” chính là nghĩa “chết”. Do tam-muội này, “giết”
kẻ thuộc vô minh trụ địa, đã giết vô minh trụ địa! Nhã Diễn Để (Jayanti) có nghĩa là Thắng, cũng có nghĩa là Sanh. Nếu liễu đạt
Như Như, trừ sạch cấu chướng, sẽ đạt được Sanh không ai hơn được. Do vậy, là mẹ
của đại chúng. Không ai hơn được mà sanh, tức là sanh ra các Kim Cang. Kim Cang
là bậc không ai hơn, cũng sanh ra những người không ai hơn được! Vô Thắng Sanh
(sự sanh không chi hơn được) ấy còn gọi là Cam Lộ Sanh.
(Kinh) Kim Cang Tỏa chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
bạn đà bạn đà dã, mộ trá mộ trá dã, phạt chiết ra ốt bà phệ, tát phạ đát ra bát
ra để ha đế, sa ha.
(經)金剛鎖真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。畔陀畔陀也。暮吒暮吒也。伐折囉。嗢婆吠。薩嚩怛囉鉢囉底訶諦。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn Kim Cang Tỏa là: - Nam mô tam
mạn đa phạt chiết ra nạn, bạn đà bạn đà dã, mộ trá mộ trá dã, phạt chiết ra ốt
bà phệ, tát phạ đát ra bát ra để ha đế, sa ha).
Kế đến là chân ngôn của
ngài Kim Cang Tỏa (Vajraśṛṅkhalā, Kim Cang
Thương Khế La). Bạn Đà Bạn Đà Dã (Bandha bandahya): [Chữ Bạn (बं) này] là chữ Phạ (ब) đằng sau kèm thêm chữ Na, dùng
chữ Na ấy thêm vào trên chữ Phạn, tức là cái chấm Đại Không [trên chữ Phạ]. Nếu
chữ Phạ trước đó đã thêm chấm thì chữ Đà (ध, dha) kế đó, không cần thêm âm Na
(tức là không có chấm). Ở đây, lấy chữ Bạn làm Tâm, có ý nghĩa “trói buộc”, tức
là Kim Cang Phược. Bạn Đà có nghĩa là “thủ hộ trọn khắp”, tức là trọn khắp mọi
nơi đều dùng nó để kết lại. Trọn khắp mọi nơi bị nó kết lại, tức là kết cái Thể
của pháp giới vậy. Cái chấm trên đầu ấy [chữ Phạ] ấy có nghĩa là “trọn khắp hết
thảy mọi nơi”. Đã liễu đạt cái Thể của Kim Cang pháp giới, kết cho nó chẳng hoại,
tức là ý nghĩa “kết hộ” (kết giới
thủ hộ) vậy. Mộ Trá Mộ Trá Dã (Moṭa Moṭaya) nghĩa là “kiên cố”. Đã làm kim cang phược, đã trói rồi lại trói thêm, khiến
cho nó vững chắc. Bạt Chiết Ra Ốt Bà Phệ (Vajrodbhave) là kim cang sanh. Sanh từ
kim cang giới thì chính là kim cang trí của chư Phật sanh khởi. Tát Phạ Đát Ra
Bát Ra Để Ha Đế (Sarvatrāpratihate) chính là các thứ chẳng thể hại. Như bản thể của báu kim
cang, hết thảy chẳng thể hại. Nếu thấu hiểu kim cang thể tánh ấy, do kim cang phược trói chặt cái Thể, cho nên nó chẳng
thể bị hư hại. Kim cang phược chính là Chân Như không có kẽ hở!
(Kinh) Kim Cang Nguyệt Yển chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết
ra nạn, hiệt rị, hồng phát trá, sa ha.
(經)金剛月壓真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。頡唎。吽發吒。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Kim Cang Nguyệt Yển là: - Nam mô tam mạn
đa phạt chiết ra nạn, hiệt rị, hồng phát trá, sa ha).
Kế đến, nói về chân ngôn của
ngài Phẫn Nộ Nguyệt Yển Kim Cang (Vajra-candratilaka, Krodhacandratilaka). Trên đây, chữ Hiệt-Rị (Hrīḥ) là Tâm. Hiệt Rị (ह्रीः) có nghĩa là nhiếp triệu, mà cũng là triệu thỉnh. Chữ ấy gồm
có chữ Ha (ह) là hành, có chữ Ra là lìa trần
cấu, lại thêm nét vạch trên đó là nghĩa tam-muội. Hai chấm bên cạnh tức là giống
như Niết Bàn. Đấy là trọn đủ công đức của chư Phật, nguyện ta cũng giống như thế.
Kế đó, chữ Hồng có nghĩa là Khủng Bố. Vì nhanh chóng viên mãn công đức của chư
Phật, dùng sự kiên cường để chuyển biến, thăng tấn Ly Cấu tam-muội, giống như hạnh
Niết Bàn, khiến cho hết thảy các ma kinh hãi to lớn, thảy đều tan lui. Phát Trá
(Phaṭ) nghĩa là quát mắng, tức quát chửi hết thảy ma chướng, khiến cho chúng nó
diệt mất.
(Kinh) Kim Cang Châm chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra
nạn, nỉ bệ đà nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha.
(經)金剛針真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。薩婆達麼。抳鞞陀儞。伐折囉素只伐囉弟。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Kim Cang Châm là: - Nam mô tam
mạn đa phạt chiết ra nạn, nỉ bệ đà nễ, phạt chiết ra tố chỉ phạt ra đệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của ngài
Kim Cang Châm. Tát Bà Đạt Ma (Sarvadharma) là hết thảy các pháp, lấy chữ Tát
trước đó làm chủng tử thể. Nỉ Bệ Đà Nễ (Nirvedhani) nghĩa là “xuyên qua”. Phạt
Chiết La Tố Chỉ (Vajrasūci) là Kim Cang Châm. Phạt Ra Đệ (Varade) là nguyện thù thắng. Ý nói: “Châm” có nghĩa là trí sắc bén. Dùng
trí nhạy bén như kim cang ấy xuyên suốt, không pháp nào chẳng thông suốt, có ý
nghĩa “huệ đạt pháp tánh”. Đó
là ý nghĩa của Kim Cang Châm, tức là xuyên suốt thấu triệt vô minh, đạt tới Thật
Tướng Tế.
(Kinh)
Nhất thiết Trì Kim Cang chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
hồng hồng hồng, bạn trá bạn trá bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha.
(經)一切持金剛真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。吽吽吽。伴吒伴吒伴吒髯髯。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của hết thảy các vị Trì
Kim Cang là: - Nam mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hồng hồng hồng, bạn trá, bạn
trá, bạn trá, nhiêm nhiêm, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của hết
thảy các vị Trì Kim Cang. Khi đó, các vị Kim Cang số nhiều như số vi trần trong
mười cõi Phật cùng nhập Kim Cang Vô Thắng tam-muội, giống hệt như ngài Kim Cang
Thủ chẳng khác, cũng từ tự tâm tỏa ra quang minh chẳng thể nghĩ bàn. Trong
quang minh, hiện chân ngôn này. Hãy nên biết các quyến thuộc khác đều chuẩn
theo đây. Hồng Hồng Hồng: Lấy chữ đầu tiên làm Thể, cũng là Đại Không Hạnh
tam-muội. [Người hành] tam-muội này chính là hành nhân Đại Kim Cang Vô Thắng.
Do nhập tam-muội này, nên gọi là Đại Không Hạnh tam-muội. Ba chữ [Hồng] hàm ý
đông nhiều, các vị Kim Cang nhiều như hết thảy chúng sanh cùng nói, nên gộp ba
chữ lại. Bạn Trá Bạn Trá Bạn Trá (Phaṭ Phaṭ Phaṭ) có nghĩa là quở trách, ý nghĩa giống như trên. Tôi cho rằng nói nhiều lượt
nhằm quở trách ba chướng. Nhiêm Nhiêm (Jaṃ Jaṃ, जांजां) nghĩa là Sanh. Trên đó (trên chữ Ja, ज) có một chấm là Đại Không. Đã phá
các chướng, sẽ đạt được Đại Không Sanh, tức là sanh ra chư Phật vậy. Sanh ra
Kim Cang trí, tức là Pháp Thân của chư Phật sanh khởi. Như kinh Ương Quật nói “sanh cái thân bất sanh này”; đấy
chính là ý nghĩa này vậy!
(Kinh) Nhất thiết chư phụng giáo giả chân ngôn viết: - Nam mô tam mạn
đa phạt chiết ra nạn, hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa, nghị rị ngân
noa, khư đà, khư đà, bát rị bổ ra dã, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ bổ ra để
nhiễm, sa ha.
(經)一切諸奉教者真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。醯醯緊只囉曳細。蟻哩痕拏蟻哩痕拏。佉駝佉駝。鉢唎補囉也。薩嚩枳迦囉喃娑嚩補囉底染。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của hết thảy các vị phụng giáo là: - Nam
mô tam mạn đa phạt chiết ra nạn, hê hê khẩn chỉ ra duệ tế, nghị rị ngân noa,
nghị rị ngân noa, khư đà, khư đà, bát rị bổ ra dã, tát phạ chỉ ca ra nẫm, sa phạ
bổ ra để nhiễm, sa ha).
Kế đó, các vị phụng giáo
nói chân này. Các vị này chuyên ở bên cạnh Bổn Tôn, vâng lệnh qua lại tùy thuộc
các việc cần làm, cũng giống như các vị Kim Cang trên đây, nhập Đại Kim Cang Vô
Thắng tam-muội mà nói chân ngôn. Hết thảy các vị phụng giáo trong các bộ đều
dùng chân ngôn này. Hê Hê: Chữ Hê thứ nhất là chủng tử, cũng có nghĩa là kêu gọi
triệu tập. [Trong chữ Hê (हे)], Ha (ह) nghĩa là hành, là hỷ, trong đó có chữ Ế (े) là tam-muội. Nói lặp lại [hai chữ
Hê] nhằm diễn tả “hành cực hành”, ý nói “cực
định” vậy. Khẩn Chỉ Ra Duệ Tế (Kiṃ Cirāyasi) nghĩa là “sao
không nhanh chóng”. Đó là ý nghĩa thúc ép. Như người phán xử đã ra lệnh, sao chẳng
nhanh chóng làm chuyện ấy, mà lại lần khân? Nghĩ Rị Ngân Na Nghĩ Rị Ngân Noa (Gṛhṇa gṛhṇa) nghĩa là “chấp trì, gìn giữ”,
ý nói: Trì Kim Cang Hạnh tam-muội đã nói trong phần trên. Nhắc lại từ ngữ này lần
thứ hai, nhằm diễn tả ý nghĩa “thủ hộ”.
Đã chấp trì rồi lại chấp trì, lại thủ hộ không cho thất lạc, khiến cho nó chẳng
bị các chướng bức bách, đoạt mất, khiến cho Kim Cang Hạnh tam-muội mau chóng
thành tựu. Khư Đà Khư Đà (Khāda Khāda) có nghĩa là “ăn nuốt”. Ăn các phiền não, lại còn tột
bậc ăn nuốt khiến cho chúng nó hết sạch. Vì thế nói lặp
lại. Tôi cho rằng đó là “ăn nuốt” giới nội, giới ngoại phiền não; do đó nói lặp
lại. Bát Rị Bổ Ra Dã (Paripūraya) nghĩa là “sung mãn”,
ý nói do ăn nuốt tột bậc mà được thỏa mãn. Do viên
mãn tất cả nguyện thù thắng của hành nhân mà được thỏa mãn. Nguyện bậc nhất
chính là Kim Cang Hạnh tam-muội. Tát Phạ Chỉ Ca Ra Nẫm Sa Phạ Bổ Ra
Để Nhiễm (Sarvakiṃkarāṇaṃ
Sāprativijñāṃ) là nói nguyện vốn đã lập. Thuận theo cái nguyện đã lập trước
đó mà đều nên được thỏa. Câu trước là nói về Mãn, câu kế đó là bổn nguyện đã lập.
[Chú ngữ] này dùng chung cho sứ giả của ba bộ.
(Kinh) Thời, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập ư Bảo Xứ tam-muội, thuyết
tự tâm cập quyến thuộc chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ
cật lệ xa, nê tô đà na, tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa
ma, sa ma, sa ha.
(經)時,釋迦牟尼世尊入於寶處三昧,說自心及眷屬真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩吃隷奢泥蘇馱娜。薩嚩達摩。嚩勢多補囉鉢多。伽伽娜娑摩娑麼。莎訶。
(Kinh: Khi đó, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nhập Bảo
Xứ tam-muội, nói tự tâm
và quyến thuộc chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát phạ cật lệ
xa, nê tô đà na, tát phạ đạt ma, phạ thế đa bổ ra bát đa. Già già na, sa ma, sa
ma, sa ha).
Kế đó, Thích Ca Như Lai nhập
Bảo Xứ tam-muội. Chất báu sanh ra từ đó, nên gọi là Bảo Xứ, ví như biển cả sanh
ra đủ loại báu. Nếu tới bến bãi ấy, sẽ tùy ý cần dùng, không gì chẳng đầy đủ. Đức
Phật nhập tam-muội ấy xong, từ diện môn của Ngài tỏa ra các thứ ánh sáng. Trong
quang minh, hiện chân ngôn này. Cho đến trọn khắp hết thảy các cõi Phật. Hãy
nên biết các chân ngôn khác đều nên nói như thế. Tát Phạ Cật Lệ Xa (Sarvakleśa) là hết thảy các phiền não. Nê Tô Đà Na (Niṣūdana) là “dẹp trừ”, thông với câu trên
thành “diệt trừ hết thảy phiền não”. Tát Phạ Đạt Ma (Sarvadharma) là hết thảy
các pháp. Phạ Thế Đa Bổ Ra Bát Đa (Vaśitāprāpta) là “đắc tự tại”, thông với câu trên nghĩa là “được tự tại trong các
pháp”. Do trừ các chướng, nên được đại tự tại. Già Già Na (Gagana) là hư không.
Sa Ma (Sama, đọc không dấu, có thanh A, nghĩa là Đẳng, tức là bằng với hư
không). Hạnh ấy bằng với hư không, vô biên thanh tịnh, hết thảy tự tại vô ngại,
giống như danh tự. Câu dưới do gắn liền với A thành Vô Đẳng. Vô Đẳng chính là
Nhị Thừa. Do có khiếm khuyết mà gọi là Vô Đẳng, tức là ý nghĩa thực hiện Quyền.
Nhưng chân ngôn này lấy chữ
Tát đầu tiên làm Thể. Sa nghĩa là lậu, cũng có nghĩa là kiên cố. Nhập môn chữ A
chính là vô lậu, vô kiên. Nếu có sự cứng chắc, tức là pháp “sanh, diệt, hoại, phá”! Nếu khiến
cho nó giống như chữ A, sự kiên cố ấy vốn chẳng sanh, tức là trong các pháp mà
tự tại như hư không, có thể là chỗ có hết thảy của báu. Tôi cho rằng đức Thích
Ca do sức đại bi, dẫu là kẻ Nhất Xiển Đề toàn thể kín mít như kim cang, Ngài vẫn
có thể phá hoại kiến chấp ấy để [kẻ đó] nhập Phật pháp, ban cho cái nguyện đại
bảo. Há chẳng phải là tự tại trong các pháp, có thể phá hết thảy sự cứng chắc
ư?
(Kinh) Hào Tướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ ra bát để, hồng.
(經)毫相真言曰:南麼三曼多勃馱喃。皤囉提。皤囉補囉鉢底。吽。
(Kinh: Chân ngôn về Hào Tướng rằng: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, bà ra đề, bà ra bổ ra bát để, hồng).
Kế đó là chân ngôn về Hào Tướng. Đây chính là do vô lượng công đức của Như
Lai thành tựu để trang nghiêm. Đó chính là khối công đức; do vậy, tạo tam-muội
có hình dáng nữ nhân. Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca, cũng nhập Bảo Xứ
tam-muội mà nói chân ngôn này. Bà Ra đề (Varade) là “ban cho thỏa nguyện”, [tức
là] có thể thỏa nguyện cho hết thảy chúng sanh. Bà Ra Bổ Ra Bát Để (Varaprāpte) là “nguyện đắc”, tức
đạt được điều nguyện. Như người có của báu, bèn có thể ban cho người khác. Do
ta tự mình thành tựu nguyện này, nên có thể tự tại thí cho người khác, khiến
cho họ đều sung túc. Chữ Hồng (हूं, Hūṃ) [hàm ý] cái tâm này là chủng tử, chữ Ha (ह) [trong đó] là hành nơi Đại
Không, phía dưới [chữ Hồng] là chữ Ổ (ू, Ū) làm tam-muội. Phía trên có cái
chấm tức là hành Đại Không tam-muội. Nhờ vào đó mà tấn tu, đạt đến chỗ có của
báu, có thể tự tại thỏa nguyện cho người khác.
(Kinh) Nhất thiết chư Phật đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Vãm vãm vãm, hồng hồng phát trá, sa ha.
(經)一切諸佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鑁鑁鑁。吽吽發吒。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của hết thảy chư Phật đảnh là:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vãm vãm vãm, hồng hồng phát trá, sa ha).
Kế đó là [chân ngôn của] hết
thảy Phật Đảnh. “Hết thảy Phật Đảnh”
tức là đỉnh đầu của các vị Phật số nhiều như vi trần trong mười cõi Phật. Đỉnh
đầu là chỗ tôn thắng, cao nhất trên thân. Đó chính là tên gọi khác đối với mười
tám pháp bất cộng của Phật. Hình tượng của vị Bổn Tôn này giống như hình tướng
bậc đại nhân trọn đủ của Phật Thích Ca, chỉ có búi tóc trên đỉnh đầu có hình dạng
như búi tóc của Bồ Tát là khác biệt. Các Ngài cũng trụ trong Bảo Xứ tam-muội mà
nói chân ngôn này. Vãm Vãm Vãm (Vaṃ Vaṃ Vaṃ): Trong ấy, chữ thứ nhất là chủng tử, có nghĩa là “trói buộc”; nhập môn chữ A thì có nghĩa là “không trói buộc”. Lại nữa, “trói buộc” nghĩa là ngôn ngữ dứt bặt.
Trên chữ ấy, có một chấm Đại Không. Đã thành tựu, lại khiến cho thành tựu tột bậc,
cho nên nói ba lượt [nhằm diễn tả] ý khiến cho thành tựu thanh tịnh tột bậc. Hồng
(Hūṃ) có nghĩa là Khủng Bố, dùng sức oai mãnh phá trọn khắp các trói buộc giống
như Đại Không. Phán Trá (Phaṭ) nghĩa là bất sanh, ví như cái Thể
đã hoại, chẳng sanh, ắt sẽ chết! Tức là các pháp không gì chẳng trọn khắp, đều
khiến cho chúng vĩnh viễn chẳng còn sanh trở lại, giống như Đại Không là giải
thoát của chư Phật, tức là nhập đỉnh đầu “bất
cộng pháp” của Phật.
(Kinh) Vô Năng Thắng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa
lăng, địa lăng, lăng lăng, nhật lăng, nhật lăng, sa ha.
(經)無能勝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地𠻱地𠻱。𠻱𠻱。馹𠻱馹𠻱。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn Vô Năng Thắng là: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, địa lăng địa lăng, lăng lăng, nhật lăng nhật lăng, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của ngài
Vô Năng Thắng (Aparājita). Vị này là quyến thuộc của Phật Thích Ca, cũng nhập Bảo Xứ tam-muội như
trên mà nói chân ngôn. Vị này là hóa thân của Phật Thích Ca, ẩn vô lượng tự tại
thần lực để hiện thân Phẫn Nộ Minh Vương nhằm hàng phục chúng sanh, tận trừ các
chướng. Địa lăng, địa lăng (Dhriṃ Dhriṃ, hai chữ đọc dính nhau, giống như âm Chiêm). Lấy thứ nhất làm Thể, lấy chữ Địa Lăng (ध्रिं, Dhriṃ) thứ nhất làm chủng tử. Đà (ध, Dha) có
nghĩa là pháp giới. Ra (âm R trong chữ Dhriṃ ấy) có nghĩa là “trần chướng, các cấu”. Nếu nhập môn chữ A tức là “không có trần chướng”, chính là pháp
giới. Hãy nên biết chính là giống như pháp giới, há còn nơi nào có trần nữa ư?
Đấy chính là ý nghĩa Đại Không. Nếu ai trụ trong tam-muội này, hết thảy cái chướng
không gì chẳng bị phá hoại. Nói nhắc lại [hai chữ Dhriṃ], đó là ý
nghĩa “phá trần chướng tột bậc”.
Vì thế nói là Vô Trần tam-muội chính là môn chữ Lăng (Riṃ). Kế đó nói Nhật Lăng
(ज्रिं, Jriṃ), tức
là chư chướng chẳng sanh mà đắc Đại Không sanh vậy. Chữ chủng tử này có đủ loại
Định Huệ trang nghiêm; do vậy có thể đạt tự tại trong sanh tử, ngồi dưới cội
cây của đức Phật, phá tan bốn ma binh chúng. Vô Năng Thắng có nghĩa là “không gì chẳng phá hoại”.
(Kinh) Vô Năng Thắng Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa trĩ đế, sa ha.
(經)無能勝妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿波囉誓帝。闍演帝。多雉帝。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Vô Năng Thắng Phi là: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A ba ra thệ đế, xà diễn đế, đa trĩ đế, sa ha).
Kế đó là Vô Năng Thắng Minh
Phi, có hình dạng nữ nhân. Nói chân ngôn này, Ngài nhập tam-muội như trong phần
trên đã nói. A Ba Ra Thệ Đế (Aparājite) là Vô Năng Thắng, Xà Diễn Đế
(Jayanti) là tên gọi khác của Thắng, có nghĩa “đánh bại, hàng phục kẻ khác”. Đa Trĩ Đế (Taḍite) có nghĩa là “đã dẹp tan
xong”. Chữ Xà (Ja) ở đây có nghĩa “chiến
đấu”. Đức Phật ngồi nơi đạo tràng, dùng định lực chiến đấu cùng tứ ma, đạt
được thế lực to lớn, không ai có thể tổn hại được. Đó là do sức của tam-muội
này. [Chân ngôn này] dùng chữ thứ ba làm chủng tử.
(Kinh) Địa Thần chân ngôn viết: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bát lật
thể tỳ duệ, sa ha.
(經)地神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。鉢㗚體毘曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Địa Thần là: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, bát lật thể tỳ duệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Địa
Thần. Đất có thể nâng giữ vạn vật. Hết thảy vạn vật nương vào đất mà sanh trưởng;
hãy nên biết đó chính là Phật tâm. Ví như Như Lai tâm có thể trì vạn vật, thân
nhập tam-muội mà chính mình đang trì để nói chân ngôn này. Đây cũng là phương
tiện hóa thân của Phật Thích Ca. Bát Lật Thể Tỳ Duệ (पृथिव्यै, Pṛthivyai) là tên của Địa Thần, tức là dùng danh tự của chính vị ấy
làm chân ngôn. Nếu ai tụng trì, tu tập, chẳng lâu sau cũng sẽ đắc tâm địa của
Như Lai. Lấy chữ thứ ba của chân ngôn làm chữ chủng tử, nghĩa là “lìa ngôn thuyết”. Trong đó, có âm Y
là tam-muội. Nhập môn Ly Danh tam-muội này, sẽ được chứng tâm địa. Tam muội này
còn có tên là Phổ Tải (chuyên chở khắp), do tam-muội này giống như đại địa. Chữ
Tỳ Duệ (व्यै, Vīyai) cuối cùng có nghĩa là “trói”, tức Diễn Na (य, Ya) nghĩa
là Xứ. Ế (ै, ai) là
tam-muội, cũng là tiếng chỉ vật. Đó là nói về cái Thể của chân ngôn vậy. Do môn
ly Tâm Địa tam-muội này, lìa khỏi các thừa trói buộc để tăng tấn hạnh.
(Kinh) Tỳ Nữu Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ
sắt nữu phí, sa ha.
(經)毘紐天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。毘瑟紐費。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Tỳ Nữu Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ sắt nữu
phí, sa ha).
Kế đó là Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) có nhiều biệt danh, [Tỳ Nữu] chính là biệt danh của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa). Vị này là hóa thân của Phật, tam-muội giống như trên. Tỳ Sắt Nữu Phí (Viṣṇave) tức là lấy chính tên
mình làm chân ngôn. Lấy chữ thứ nhất làm chủng tử. Chữ Tỳ (वि, vi) có
nghĩa là Không, Sắt Nữu Phí (ष्णवे, Ṣṇave) có nghĩa là Tiến, là
Sanh, do nương vào hư không mà tiến. Tức là vị trời này cưỡi chim Ca Lâu La bay
đi trong không trung. Tôi cho rằng Phật Thích Ca trong Ngũ Bộ Phật[1]
ngồi trên chim Ca Lâu La, tức là ý nghĩa “đi
lại trong hư không”.
(Kinh) Rô Nại Ra chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, rô đà
ra dã, sa ha.
(經)嚕捺囉真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚕馱囉也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Rô Nại Ra là: - Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, rô đà ra dã, sa ha).
Kế đó là Rô Nại Ra (Rudra),
cũng là thân do Phật biến thành. Vị này là hóa thân của Ma Hê Thủ La (Maheśvara, còn gọi là Y Xá Na, Īśāna). Rô Đà Ra Dã (Rudrāya) tức là lấy tên của chính mình làm chân ngôn, lấy chữ Rô (रु, Ru) làm tâm. Đà Ra (द्रा, Drā) có nghĩa là “trao cho”, ví
như tự mình có nhiều, bèn có thể huệ thí (bố thí rộng rãi) cho người khác. Nói
đến các thừa, “thừa” nghĩa là
chính mình. Tự thông đạt thừa báu như thế, có thể thí trọn khắp hết thảy chúng
sanh. Rô tức là Vô Trần Cấu tam-muội, tự đạt được tam-muội này, lại còn dùng đó
để thí cho người khác.
(Kinh) Phong Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà dã
phệ, sa ha.
(經)風神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。皤也吠。莎 訶。
(Kinh: Chân ngôn của Phong Thần là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
bà dã phệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của
Phong Thần. Vị này cũng là hóa thân của Phật, tam-muội giống như trên. Bà Dã Phệ
(Vāyave) tức là [thần gió] dùng tên của chính mình làm chân ngôn, lấy chữ Bà (वा, Vā) làm Thể. Phệ (वे, Ve) có nghĩa là trói buộc; nhập môn chữ A thì nghĩa là “chẳng trói buộc”, tức là giải thoát.
Bên cạnh [Chữ Va] có chữ A [tạo thành A âm dài, tức Vā], tức là thực hiện. Chữ Phệ thứ ba nghĩa là vô ngôn thuyết, lại thêm chữ Ế
(े) là nghĩa tam-muội-da. Các thừa ấy
dùng vô ngại thừa để độ hết thảy.
(Kinh) Mỹ Âm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tát
la tát phạt để duệ, sa ha.
(經)美音天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩羅薩伐底曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Mỹ Âm Thiên là: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, tát la tát phạt để duệ, sa ha).
Kế đó là Mỹ Âm Thiên, tức là các vị trời hiển thị sự ca vịnh, hơi khác với Càn Thát
Bà, Càn Thát Bà là người tấu nhạc. Tát La Tát Phạt Để Duệ (Sarasvatyai) chính là tên của Mỹ Âm. Lấy chữ Tát (Sa) đầu tiên làm Thể, có nghĩa là “kiên cố”. Nếu có kiên trụ, tức là có
tướng “sanh, trụ, dị, diệt”. Nhập môn chữ A thì chẳng kiên cố, tức
là không có thành hay hoại. Các chữ khác [trong chân ngôn] đều nhằm giải thích
chữ này. Tôi cho rằng vị này dùng diệu âm khiến cho chúng sanh đẹp dạ, ngôn từ
mềm mỏng, đẹp lòng mọi người, khiến họ hoan hỷ. Nói “chẳng kiên cố” nhằm khiến cho họ biết vô thường, chứng nghiệm
pháp kiên cố của Như Lai.
(Kinh) Nễ Rị Để chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra cật
sát sa, đề bát để duệ, sa ha.
(經)禰哩底真言曰:南麼三曼多勃馱喃 。囉吃剎娑。
提鉢底曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Nễ Rị Để là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
ra cật sát sa, đề bát để duệ, sa ha).
Kế đến là Nễ Rị Để (Nairṛti), tức là chúa của loài La Sát, cũng là hóa thân của Phật. Ra
Cật Sát Sa (Rākṣasa, La Sát): Ra (cấu nhơ), Cật Sát Sa (Kṣasa, ăn nuốt). Sa có
nghĩa là cứng chắc, đều có nghĩa là “ăn nuốt”. Vị này thường ăn nuốt chúng
sanh. Như Lai cũng thế, có thể ăn hết thảy trần chướng hữu tình chẳng chán đủ.
Đề Bát Để Duệ (Adhipataye): Chữ Đề có âm Đà (Dha) tức là pháp giới, thêm âm Y là tam-muội. Đó là pháp giới tam-muội. Bát Để là Trụ,
tức là trụ trong pháp giới tam-muội ấy, thì gọi là Diệu Trụ. Quán hết thảy cấu
chướng chính là pháp giới; nhập trong pháp giới chính là nghĩa “có thể ăn vào bụng”. Chữ Duệ cuối
cùng chính là Thừa. Thừa ấy nhanh chóng khôn sánh, ở trong chữ chủng tử nơi cái
Thể của môn này.
(Kinh) Diễm Ma chân
ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá dã, sa ha.
(經)焰摩真言曰:南麼三曼多勃馱喃。毘嚩薩嚩哆也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Diễm Ma là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỳ phạ tát phạ đá
dã, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Diễm
Ma Vương (Yamarāja), vị này cũng là hóa thân của Phật. Tỳ Phạ Tát Phạ Đá Dã (Vaivasvatāya) cũng lấy tên của chính mình làm chân ngôn[2].
Lấy chữ đầu tiên làm Thể để hỏi, tức là Vô Phược tam-muội. Tỳ Phạ nghĩa là kiên
cố trụ, cũng là trừ các trói buộc, ý nói “dùng Lý để trừ trói buộc, chẳng dùng
phi pháp!” Trong chữ Đá có nhiều âm, tức là Như Như. Chữ Tát có nghĩa là “kiên
cố”. Chữ Dã có nghĩa là Thừa, nương vào cái Thừa Như Như này để thăng tấn hạnh.
Bên cạnh đó có chữ A tức là “hành”. Nương vào tướng Như Như mà tiến hành, tức
là đạt đến thành tựu Chánh Giác vậy!
(Kinh) Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, một lật
để dã phệ, sa ha.
(經)死王真言曰:南麼三曼多勃馱喃。沒㗚底也吠。莎訶。
(Kinh: Tử vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm, một lật để dã phệ, sa ha.
Kế đó là chân ngôn của Tử Vương (Mṛtyu). Vị này là Diêm La Minh Vương, cũng vì thành tựu Đại Bi
Phát Sanh Mạn-đồ-la, thuận theo sự thông đạt của chính mình mà nói chân ngôn
này. Một Lật Để Dã Phệ (Mṛtyave) chính là nghĩa Chết. Chết nghĩa là “giết, đoạn”. Căn bản ấy được gọi là Sát. Do ý nguyện của chính mình, “ta đoạn mạng căn của hết thảy chúng sanh”. “Mạng căn” chính là các vô thỉ vô
minh phiền não. Đoạn [mạng căn của] hết thảy chúng sanh chẳng còn thừa sót! Đấy
là nói “tự tại trong Tử pháp môn”,
tức là do Phật hiện hóa, chẳng phải là thật sự giết chết hết thảy chúng sanh.
Dùng chữ đầu tiên là chữ Một làm chủng tử [của chân ngôn này].
(Kinh) Hắc Dạ Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca
la ra để rị duệ, sa ha.
(經)黑夜神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迦羅囉底哩曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn Hắc Dạ Thần rằng: - Nam
ma tam mạn đa bột đà nẫm, ca la ra để rị duệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Hắc
Dạ Thần (Kālarātri). Đấy chính là phi hậu thị tùng của Diêm La. Ca La Ra (Kālarā) là “hắc” (đen). Để Rị Duệ (Trīye) là “đêm”. Dùng chữ Ca đầu tiên
làm Thể, do trong đêm tối có nhiều nỗi sợ hãi và các họa hoạn. Vì muốn trừ nỗi
sợ do các chướng cấu trong đêm dài vô minh, nên nói chân ngôn này.
(Kinh) Thất mẫu đẳng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma
đát rị tệ dã, sa ha.
(經)七母等真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩怛哩弊也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của thất mẫu là: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, ma đát rị tệ dã, sa ha).
Kế đó là Diêm La Vương Thất
Mẫu, gồm bảy chị em. Danh hiệu của bảy vị này[3]
chuẩn theo các kinh khác, đều dùng tên của chính họ làm chân ngôn. Nay chỉ nói
chung như sau: Ma Đát Rị Tệ Dã (Mātṛbhyaḥ) nghĩa là Đẳng. Đẳng nghĩa là chẳng
phải một, mà là nhiều, tức là bảy chị em. Dùng chữ Ma đầu tiên làm chủng tử,
nghĩa là Vô Ngã.
(Kinh) Thích Đề Hoàn Nhân chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Thích ca ra dã, sa ha.
(經)釋提桓因真言曰:南麼三曼多勃馱喃。釋迦囉也。莎訶。
(Kinh:
Chân ngôn của Thích Đề Hoàn Nhân là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thích ca
ra dã, sa ha).
Kế đó là Thích Đề Hoàn Nhân
(Śakro Devānām Indraḥ). Thích Ca Ra Dã (Śakrāya) chính là tên gọi của ông ta. Thích Ca nghĩa là “một trăm phước đức”. Do trong khi tu nhân, vị này đã từng tu
phước một trăm lần, tức là một trăm lần thực hiện Đại Vô Giá Thí Hội để thí trọn
khắp chúng sanh. Do vậy, được thành tựu chốn sanh về thù thắng ấy. Dùng chữ
Thích đầu tiên làm chủng tử; do vậy, gọi tên như thế. Nó có nghĩa là “ngưng dứt”,
tức ngưng dứt các chướng. Chướng đã dứt bèn tăng phước, Ca Ra là “tăng tấn”. Chữ
Xa lại chính là Xa Ma Tha (Chỉ). Thường dùng lời sâu xa để lợi ích chư thiên;
vì thế, dùng tâm làm chân ngôn. Vị này cũng do Phật hóa sanh.
(Kinh) Phạ Rô Noa long vương chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm. A bán bát đa dã, sa ha.
(經)嚩嚕拏龍王真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿半鉢多也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của vua rồng Phạ Rô Noa: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. A bán bát đa dã, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của long
vương Phạ Rô Noa (Varuṇa). Đây là rồng trong biển cả, các long vương có cùng chân ngôn
này. A Bán (nước, Apāṃ) Bát Đa Dã (Pataye): Bát Đa [nghĩa là] “người nào đó”, Dã là tiếng trợ
thanh. Do vị này được tự tại trong nước, nên gọi là Thủy Chủ. Dùng chữ A đầu
tiên làm chủng tử.
(Kinh) Phạm Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra
xà ma đa duệ, sa ha.
(經)梵天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。補囉闍麼多曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Phạm Thiên là: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bổ ra xà ma đa duệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Phạm
Thiên. Vì muốn thành tựu Đại Bi Thai Tạng, cũng giống như trên đã nói. Bổ Ra Xà
(Prajā, sanh ra hết thảy), Ma Đa Duệ (Pataye, chủ). Cái nhân của hết thảy chúng
sanh là Phạm Thiên, nên gọi là Nhất Thiết Chúng Sanh Chủ, do có thể sanh ra hết
thảy hữu tình. Dùng chữ Bổ-ra (Pra) làm chữ chủng tử. Bổ là Đệ Nhất Nghĩa. Ra
là chướng cấu, tức chướng chẳng thể chướng trong Thắng Nghĩa, hết thảy các
thánh giả đều sanh từ đấy. Vị này cũng là hóa thân của Phật.
(Kinh) Nhật Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A địa
đa tà dã, sa ha.
(經)日天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿地多邪也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Nhật Thiên là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
A địa đa tà dã, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Nhật
Thiên Tử. A Địa Đa Tà Dã (Ādityāya): A (vốn bất sanh), Địa (cùng với), Đa Tà Dã (mặt trời).
Dùng chữ A đầu tiên làm chủng tử, tức là ý nghĩa “vốn bất sanh”. Tự thông đạt lý này,
lại còn truyền cho người khác, tức là ý nghĩa “thường lợi ích chúng sanh” giống như vầng mặt trời. Người đời
nói mặt trời thường lợi ích chúng sanh.
(Kinh) Nguyệt Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chiến
đạt ra dã, sa ha.
(經)月天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。戰達囉也。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Nguyệt Thiên là: - Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm. Chiến đạt ra dã, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Nguyệt
Thiên Tử. Chiến Đạt Ra (Candrāya): Chiến (bất tử), Đạt Ra là tên của
mặt trăng. Dùng chữ đầu tiên làm Thể. Nếu bất tử thì cũng bất sanh. Bất sanh bất
tử thì gọi là Cam Lộ. Người đời do mặt trăng có thể trừ độc nhiệt phiền não mà
coi như cam lộ; do vậy, gọi như thế. Vị của hết thảy cam lộ chẳng thể nào hơn
được Tịnh Nguyệt tam-muội.
(Kinh) Chư long chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mê ca
phiến nễ duệ, sa ha.
(經)諸龍真言曰:南麼三曼多勃馱喃。迷迦扇儞曳。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của các rồng là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Mê ca phiến nễ duệ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của các
rồng. Chú trong phần trước là của long vương, chú này dùng chung cho hết thảy
các rồng. Mê Ca Phiến Nễ Duệ (Meghāśanīye): Mê Ca (mây), Phiến Nễ Duệ (nhai nuốt). Giải
nghĩa là “nuốt mây”. Mây chính
là hắc ám, tức là cấu chướng của chúng sanh. Có thể ăn các chướng mà được tự tại,
cho nên đặt tên như thế. Lấy chữ Mê đầu tiên làm Thể, tức là ý nghĩa Ta, [nhập
môn chữ A sẽ là] vô ngã vậy.
(Kinh) Nan Đà, Bạt Nan Đà chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Nan đồ, bạt nan đà dữu, sa ha.
(經)難陀跋難陀真言曰:南麼三曼多勃馱喃。難徒拔難陀庾。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Nan Đà, Bạt
Nan là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nan đồ, bạt nan đà dữu, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của hai
vị long vương Nan Đà (Nanda) và Bạt Nan Đà (Upananda) thủ hộ cửa [đàn tràng].
Nan Đồ (Nando) dùng chữ Nan đầu tiên làm Thể, có nghĩa là Quán. Từ ngay trong
quán mà lìa quán, trụ trong Trung. Đã tự thông đạt, còn dùng đó để lợi ích
chúng sanh. Bạt Nan Đà Dữu (Opanandayoḥ: Chữ Bạt có âm là Ổ Ba). Ổ là vượt khỏi, [tức là] tự vượt khỏi các pháp
sanh tử lưu chuyển, trụ trong chỗ tối thắng. Dùng đó để hộ trì thế gian, nên gọi
tên như thế.
Đến đây đã xong phần quyến
thuộc của Phật Thích Ca, họ đều trụ trong Bảo Xứ tam-muội, do đức Phật hóa thân
vì muốn thành tựu Đại Bi Tạng mà nói chân ngôn.
(Kinh) Thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn nhạo dục thuyết Tự Giáo Tích Bất
Không Tất Địa Nhất Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhãn Minh Phi chân ngôn viết:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na bà ra lạc khất xoa nỗ, già già na
tam mê, tát bà đô ốt kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già
nẫm, sa ha.
(經)時,毘盧遮那世尊樂欲說自教跡不空悉地一切佛菩薩母虛空眼明妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。伽伽那皤囉落吃叉努。伽伽那三迷。薩皤都嗢竭多。陛薩囉三婆吠。闍嚩羅娜母。阿穆伽喃。娑訶。
(Kinh: Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ưa thích nói chân ngôn Tự
Giáo Tích Bất Không Tất Địa Nhất Thiết Phật Bồ Tát Mẫu Hư Không Nhãn Minh Phi rằng:
- Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, già già na bà ra, lạc khất xoa nỗ, già già na
tam mê, tát bà đô ốt kiệt đa, bệ tát ra tam bà phệ, xà phạ la na mẫu, a mục già
nẫm, sa ha).
Tự Giáo Tích tức là giáo
pháp do Pháp Thân Phật tự chứng, tức là giáo pháp bí mật bình đẳng. Người tu
hành trong giáo pháp này, thảy đều bất không. Bất không nghĩa là “chẳng luống uổng”. Tùy theo năng lực
của mỗi người, đều hướng về lý Pháp Thân, liền giống như Phật. Vì thế nói là Bất
Không. Như trong phần trên, các vị Bồ Tát nói chân ngôn, ai nấy đều mong dẫn
nhiếp các hành giả đồng loại: “Nếu có
ai tu hành, sẽ đều giống như ta”. Nay Pháp Thân Phật tự nói Minh Phi
chân ngôn; nếu có ai tu hành, sẽ từ Hư Không Nhãn (Gaganalocanā) mà sanh Pháp
Thân, giống như ta chẳng khác.
Già Già Na (Gagana): Lấy chữ
đầu tiên làm tâm, Già có nghĩa là “không đến, đi”. Già Già Na lại có nghĩa là
Không, tức là Đại Không của chư Phật. Bà Ra (Vara) là nguyện. Lạc Khất Xoa Nỗ
(Lakṣaṇe): Lạc
Khất Xoa là tướng, Nỗ tức Đại Không. Nguyện này thắng thượng, tức là giống như
hư không nhất tướng thanh tịnh vô biên, chẳng thể phân biệt. Già Già Na là
Không. Tam Mê (Samaye) là Đẳng. Đại nguyện như trên đây giống như tướng hư
không, bằng với hư không. Tát Bà Đô (Sarvato) là hết thảy mọi nơi. Ốt Kiệt Đa
(Odgata) là “không có gì sánh bằng”, tức là nói các Không Nguyện này bằng với
hư không, trọn khắp hết thảy mọi nơi, đều chẳng có gì sánh bằng. Trên tâm có chữ
A liên quan. Bệ Tát La (Abhisāra): Kiên cố, chẳng thể hoại. Tam Bà Phệ (Saṃbhave): Sanh theo, tức là sanh từ bất khả hoại. Xà Phạ La (Jvala)
nghĩa là quang minh. Do trụ trong hạnh “chẳng đến, chẳng đi”, bèn thành tựu đại
oai quang không gì sánh bằng. Na Mẫu (Namo) là quy mạng. Do trụ pháp này, cho
nên tôi quy mạng. A Mục Già Nẫm (Amoghānāṃ): Bất Không là chỗ để quy mạng, tôi bèn quy mạng.
Đầu các chân ngôn đều là “quy mạng trọn khắp chư Phật”, do chữ
Nhất Thiết giống như “phổ biến”. Như nếu nói “hết thảy chư Phật ở phương Đông”,
tức là chẳng trọn khắp mười phương. Vì phân biệt với chút phần đó mà nói là “phổ biến chư Phật” (trọn khắp chư Phật).
Những điều khác cứ phỏng theo [cách nói] này. Phần nói về ngài Hư Không Nhãn là
mẹ của hết thảy Phật, Bồ Tát đã xong.
(Kinh) Phục thứ, Bạc Già Phạm vị tức nhất
thiết chướng cố, trụ ư Hỏa Sanh tam-muội, thuyết thử Đại Tồi Chướng Thánh Giả Bất Động Chủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt
chiết ra nạn, chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát phả trá dã, hồng đát ra ca. Hám
vãm.
(經)復次,薄伽梵為息一切障故,住於火生三昧,說此大摧障聖者不動主真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。戰荼摩訶嚧瑟拏。薩頗吒也。吽怛囉迦。唅鑁。
(Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm vì dứt hết thảy
các chướng mà trụ trong Hỏa Sanh tam-muội, nói chân ngôn của ngài Bất Động Chủ
là đấng vĩ đại phá tan các chướng như sau: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn,
chiến đồ, ma ha rô sắt noa, tát phả trá dã, hồng đát ra ca. Hám vãm).
Khi đó, đức Phật lại muốn
ngăn dứt hết thảy những kẻ gây chướng, Hỏa Sanh là chứng tam-muội, nói chân
ngôn Đại Tồi Chướng này. Chân ngôn này có oai thế có thể trừ hết thảy các thứ
chướng nạn của người tu Chân Ngôn. Thậm chí, đức Phật ngồi dưới đạo thụ, do
dùng chân ngôn này, hết thảy ma quân không gì chẳng tán hoại, huống hồ các chướng
ngại trong thế gian! Lại nữa, chướng ấy đại lược có hai loại:
- Một là nội chướng, tức là
sanh từ tự tâm. Loại này rất nhiều, chẳng thể nói tường tận được.
- Hai là ngoại chướng, tức
là sanh từ bên ngoài, cũng rất nhiều.
[Chú này] đều có thể dẹp
tan [các chướng ấy]. Chiến Đồ (Caṇḍa) là cực ác, tức là tột bậc bạo ác
trong các kẻ bạo ác. Ma Ha Rô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại Phẫn Nộ. Tát Phả Trá Dã (Sphoṭaya) nghĩa là “phá hoại”. Hồng
là khủng bố. Đát Ra Ca (Traka) là kiên cố. Dùng hai chữ cuối là
Hám Vãm (Hāṃ māṃ) làm chủng tử, các cú nghĩa đều nhằm thành tựu điều này. Trước tiên là
Chiến Đồ. Chiến nghĩa là “chết”, nhập môn chữ A sẽ có nghĩa là “chẳng sanh tử”.
Đồ là chiến đấu, dùng cái “vô sanh tử” có thế lực to lớn ấy làm chủ để chiến đấu
cùng tứ ma. Chữ Ma kế đó nghĩa là Ta, nhập môn chữ A thì là Vô Ngã, cũng là
Không. Ha nghĩa là hỷ, là hành. Rô Sắt (रोष, Roṣa) có chữ Ra (र) là cấu chướng, có âm Ổ (ो) là tam-muội; tức Xa-ma-tha là
tam-muội. Noa (ण, ṇa) nghĩa là Không. Chữ thứ năm tức là Đại Không tam-muội. Tát [trong Tát Phả
Trá Dã] có nghĩa là cứng chắc. Phả có nghĩa là pháp, biết rõ thế gian như bọt
nước đọng, dễ phá tan. Bên cạnh có cái chấm diễn tả âm A, tức là “thực hiện”.
Trá có nghĩa là chiến đấu, có thể đối địch sự chướng ngại, sợ hãi, khiến nó bị
phá tan, cũng có nghĩa là Thừa. Hồng là Đại Không Hạnh tam-muội, như trong phần
trước đã nói. Đát là Như Như, Ra là vô cấu. Ca là làm, tức “hết thảy các pháp
vô tác”. Chữ Ha (ह) trong chữ Hám (हां) có nghĩa là hành, lại có âm A (ा) tức là Bố Ma Chướng Kim Cang
tam-muội. Cái chấm trên đó tức là Đại Không, [hàm nghĩa] dùng Đại Không bất động
để thực hiện, khiến cho hết thảy ma chướng hết sức kinh sợ. Chữ Ma (म) trong Vãm (मां, māṃ) nghĩa là ta, nhập môn chữ A tức
là Vô Ngã. Lại dùng Đại Không Vô Ngã tam-muội để dọa nạt lũ ma, do chữ này cũng
có âm A và chấm [Đại Không]. Bốn chữ Ha, Rô, Hám, Vãm đều có âm A, tức là ý
nghĩa “tầng tầng đe dọa ma, khủng bố
hai loại chướng nội và ngoại!”
(Kinh) Phục thứ, Hàng Tam Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, ha ha ha, tỳ tát ma duệ,
tát phạ đát đa yết đa, tỳ sái dã, tam bà phạ, đát lệ lộ ca dã, phệ xà dã, hồng
nhạ, sa ha.
(經)復次降三世真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。訶訶訶。毘薩麼曳。薩嚩怛多揭多毘灑也三婆嚩。帝㘑路迦也吠闍也。吽惹。莎訶。
(Kinh: Lại nữa, chân ngôn của ngài Hàng Tam Thế
là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, ha ha ha, tỳ tát ma duệ, tát phạ đát
đa yết đa, tỳ sái dã, tam bà phạ, đát lệ lộ ca dã, phệ xà dã, hồng nhạ, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Hàng
Tam Thế Minh Vương (Trailokyavijaya). Đây là Tỳ Lô Giá Na Như Lai trụ trong Pháp Tràng Cao Phong Quán gia trì
tam-muội, như trong phẩm Tự đầu tiên đã nói. Như Lai nói hai thứ minh chú này đều
là tam-muội của Pháp Thân Phật, nhằm khiến cho hành nhân từ sơ phát Bồ Đề tâm
được thủ hộ, tăng trưởng, khiến cho chúng sanh thành tựu trọn vẹn Phật quả, trọn
chẳng lui sụt, mất mát, chẳng đọa trong phi đạo. Đó chính là Bất Động Minh
Vương. Nhằm hàng phục chúng sanh khó điều phục trong thế gian, thì là Hàng Tam
Thế Minh Vương. [Đức Phật] lần lượt nói ra [các minh chú ấy]. Nói đến Tam Thế
thì Thế chính là tham, sân, si. Hàng phục ba món độc ấy thì gọi là Hàng Tam Thế.
Lại do vì quá khứ tham lam, nay thọ cái thân do quả báo tham lam ấy, lại sanh
nghiệp tham, phải chịu quả báo trong vị lai. Tam Độc đều như thế, [vì trừ diệt
Tam Độc] nên gọi là Hàng Tam Thế. Lại nữa, tam thế gọi là tam giới, tức là Tỳ
Lô Giá Na Như Lai, bắt đầu từ trời Hữu Đảnh cho đến mặt đất, từ trên xuống dưới,
trong mỗi tầng trời đều lần lượt hóa hiện, hóa thành chúa tể của vô lượng đại
thiên quyến thuộc. Nay Ngài (Tỳ Lô Giá Na Như Lai) hơn hẳn các vị trời ấy trăm
ngàn vạn lần, chưa từng có nỗi sợ hãi, há có chúng sanh nào hơn được ta ư? Cho
đến dùng pháp mà hàng phục, tức là lần lượt giáng hạ. Do có thể hàng phục chúa
tể của ba thế giới, nên gọi là Hàng Tam Thế Minh Vương.
Ha Ha Ha (Ha có nghĩa là Hạnh,
là Hỷ). Ba hạnh ấy chính là hạnh của người thuộc tam thừa. Chữ Hạnh này chính
là nói ba hạnh ấy vốn sẵn “chẳng sanh”. Do vốn chẳng sanh, nên vượt khỏi ba hạnh
ấy, tức là Phật hạnh. Tỳ Tát Ma Duệ (Vismaye) có nghĩa là “lạ thay, ngạc nhiên
sao!” Như đức Phật thường dạy, dùng lòng Từ để đối trị sân, dùng vô tham đối trị
tham, dùng chánh kiến đối trị tà kiến, nay bèn dùng đại phẫn sân để trừ phẫn
sân, dùng đại tham để trừ hết thảy các tham. Điều này
khó tin, khó hiểu nhất. Vì thế, nói là “lạ lùng thay!”
Tát Phạ Đát Đa Yết Đa
(Sarvatathāgata) là hết thảy chư Phật. Tỳ Xá Dã (Viṣaya) là cảnh giới. Tam Bà Phạ (Saṃbhava) là sanh, ý nói từ cảnh giới của
chư Phật mà sanh. Cảnh giới của chư Phật chính là Thật Tướng của các pháp. Từ
Thật Tướng mà sanh, vì thế hiệu là Hàng Tam Thế. Đế Lệ Lộ Ca Dã (Trailokya) tức
là Tam Thế. Phệ Xà Dã (Vijaya) nghĩa là hàng phục chiến thắng. Hồng có ý nghĩa giống như trong phần trước đã nói. Nhạ (Jaḥ) là triệu tập,
có ý nghĩa cảnh giác. Nếu tụng chú này, có thể vào tâm của
trọn khắp hết thảy chúng sanh để cảnh tỉnh, giác ngộ họ, khiến cho họ hết sạch
chướng, giống như Pháp Thân Phật. Nhưng chân ngôn này lấy chữ Đế Lệ (त्रै, Trai) làm Thể, trong đó có âm Đa
(Ta), tức là nghĩa Như Như, Ra là cấu chướng. Có âm Y tức là tam-muội. Do cái Thể
Như Như vốn sẵn bất sanh, do bất sanh nên cấu chướng cũng tự vốn sẵn chẳng
sanh. Xứng với lý này mà tu Định Huệ đều trọn. Do vậy, có thể hàng phục ba đời!
(Kinh) Chư Thanh Văn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hê
đô bát ra để dã, tỳ nghiệt đa yết ma nê xã đa, hồng.
(經)諸聲聞真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯都鉢羅底也。毘蘖多羯麼泥社多。吽。
(Kinh: Chân ngôn của các Thanh Văn là: - Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, hê đô bát ra để dã, tỳ nghiệt đa yết ma nê xã đa, hồng).
Kế đó là chân ngôn của
Thanh Văn. Hê Đô (Hetu) là nhân, Bát Ra Để Dã (Pratyaya) là duyên. Tỳ Nghiệt Đa
(Vigata) là lìa, Yết Ma (Karma) là nghiệp, Nê Xã Đa (Nirjāta) là sanh, Hồng (Hūṃ) là đe dọa các chướng. Giải thích chung là “lìa sự sanh bởi nhân duyên”. Sanh bắt nguồn từ nghiệp. Ly sanh tức là lìa nghiệp. Chữ Hê (हे) đầu tiên có âm Ha (ह) là “hành”, là “hỷ”, tức là hạnh
Thanh Văn. Âm Ế (े) tam-muội chính là môn Định của
Thanh Văn. Kế đó là chữ Đô (तु, Tu) có âm Đa (त, Ta) chính là Như Như mà Thanh Văn đã nhập. [Trong chữ Tu (तु) cũng có âm tam muội chữ Ổ (ु, U). Kế đó là chữ Bát (tức Đệ Nhất
Nghĩa Đế do Thanh Văn trông thấy) rồi đến chữ Ra (tức là sáu trần mà Thanh Văn
phải đối diện). Để Dã (có nghĩa là “nương vào Như”, tức là ý nghĩa “cái Thể để Thanh Văn nương vào”). Chữ
Tỳ (वि, Vi) có âm Phạ (व, Va), tức là “trói”. Âm Y (ि) chính là tam-muội. Nghiệt Đa
(Gata, lìa). Các chữ còn lại đều rộng nói. “Bố chướng” (Đe dọa các chướng) ý nghĩa như trong phần trên đã
nói, nhưng do hạnh Thanh Văn có khác. Đây là Pháp Thân Phật do nguyện lực đại
bi, vì lợi ích hữu tình, trong tam-muội mà hiện chân ngôn của Duyên Giác và
Thanh Văn. Nếu chúng sanh đáng nên dùng pháp này để nhập đạo, sẽ khiến cho họ từ
môn này mà nhập Đại Bi Tạng.
(Kinh) Chư Duyên Giác chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
phạ.
(經)諸緣覺真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚩。
(Kinh: Chân ngôn của các Duyên Giác là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, phạ).
Kế đó là chân ngôn của
Duyên Giác. Chữ Phạ (वः, Vaḥ) nghĩa là
“ngôn ngữ dứt bặt”, tức là như trên đã nói: Duyên Giác chứng cực vô ngôn thuyết
giới. Đã chứng đắc trong ấy, lại dùng pháp ấy để lợi ích chúng sanh. Tự mình
thông đạt, lại dùng pháp này để lợi tha. [Chân ngôn của] Thanh Văn và Duyên
Giác được nói như trên đây, đều dùng cú pháp làm chân ngôn. Nay dùng một chữ ấy
chính là điều trọng yếu được đề cao tột bậc, tức là trụ xứ tu hành tột bậc. Vì
thế, sử dụng một chữ!
(Kinh) Phổ nhất thiết Phật, Bồ Tát tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn
đa bột đà nẫm. Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na
ma tát phạ tỳ đệ, sa ha.
(經)普一切佛菩薩心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩勃馱菩提薩埵。訶㗚娜耶。甯夜毘舍儞。娜麼薩嚩毘睇。莎訶。
(Kinh: Tâm chân ngôn của trọn khắp hết thảy Phật,
Bồ Tát là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ bột đà bồ đề tát đỏa, ha lật
na da, nịnh dạ tỳ xá nễ, na ma tát phạ tỳ đệ, sa ha).
Kế đó là tâm chân ngôn của
chư Phật, Bồ Tát. Tát Phạ Bột Đà (Sarvabuddhā, hết thảy chư Phật), Bồ Đề Tát Đỏa (Boddhisatva, Bồ Tát), Ha Lật Na Da (Hṛdaya, tâm), Nịnh Dạ Tỳ Xá Nễ
(Nyāveśani, nhập. Đây là nói chung nhập vào tâm của hết thảy
chư Phật, Bồ Tát). Na Ma (Namaḥ, quy mạng), Tát Phạ Tỳ Đệ (Sarvavide, thỏa nguyện), tức
là cho thỏa nguyện trí Nhất Thiết Trí. [Trong câu Tát Phạ Tỳ Đệ], Tát có nghĩa là “cứng chắc”, [hàm nghĩa] có thể lìa các sự
cứng chắc và chẳng cứng chắc). Chữ Ra [trong chữ Tát (Sar)] là “cấu nhơ”, chữ
Phạ sau đó là trói buộc. Tỳ (वे, Ve) là “ngôn ngữ dứt bặt”, lại
có âm thanh tam-muội (tức là có nguyên âm E sau chữ व, Va). Đệ (दे, De) nghĩa là “trao cho”, âm Ế
là tam-muội. Ví như do đã tự trọn đủ bèn trao cho người khác. Ví như do đã
tự đạt được trí Nhất Thiết Trí, có thể ban cho người khác được thỏa nguyện này.
Đấy chính là tâm của chư Phật. Chữ Đệ chính là chủng tử, nối tiếp âm A trong
câu trước đó, tức là dùng âm A làm cái Thể của chủng tử, tức là ý nghĩa “vốn chẳng sanh”.
(Kinh) Phổ thế thiên đẳng chư tâm chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Lô ca lô ca ca ra dã. Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát phược,
a tu la, yết lộ đồ, khẩn na la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca sa dã,
phí chỉ đa la yết đế.
(經)普世天等諸心真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚧迦嚧迦迦囉也。薩婆提婆。那伽。夜乞叉。健闥縛。阿修羅。揭露荼。緊那羅。摩呼羅伽儞。訶㗚馱夜娜夜。迦沙也。費只多羅揭帝。
(Kinh: Tâm chân ngôn của trọn khắp các vị
trời trong thế gian là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lô ca lô ca ca ra dã.
Tát bà đề bà, na già, dạ khất xoa, kiện thát phược, a tu la, yết lộ đồ, khẩn na
la, ma hô la già nễ, ha lật đà dạ na dạ, ca sa dã, phí chỉ đa la yết đế).
Kế đó là các tâm chân ngôn
của các vị trời trong thế gian. Lô Ca Lô Ca (Lokaloka, thế gian), tức là ý
nghĩa “tối tăm”, được gọi là vô minh. Bên cạnh chữ này có âm A, nghĩa là “vốn
chẳng có”. Chẳng tối tăm tức là thật sự sáng sủa. A Lô Ca là “sáng”. Ca Ra Dã
(Karāya) là Tác, có nghĩa là Chiếu, soi sáng, tạo thành tướng sáng, [hàm ý]: Hiện
thân trọn khắp trong tám bộ để trừ tối tăm cho họ, khiến cho họ hành hạnh sáng
suốt. Tạo sự sáng suốt ấy để khiến cho thế gian sáng bừng. Tát Bà Đề Bà
(Sarvadeva, chư thiên), Na Già (Nāga, rồng), Dạ Khất Xoa (Yakṣa, Dạ Xoa, đọc đúng theo mặt chữ), Kiện Thát Phược (Gandharva, Càn Thát Bà), A Tu La (Asura), Yết Lộ Đồ (Garuḍa, Ca Lâu La, nhạc chủ[4]),
Khẩn Na La (Kiṃnara, nhạc thanh), Ma Hô La Già (Mahoraga), Nễ (दि, Di) nghĩa là “vân vân”, nhiếp
thuộc các bộ), Ha Lật Đà Dạ Na Dạ (Hṛdayāny, tâm), Ca Sa Dã (Akarṣāya, nhiếp thuộc, [hàm nghĩa]: “Khiến cho tâm của tám bộ ấy được sáng
suốt”). Phí Chỉ Đa La Yết Đế (Vicitragati) là các thứ hạnh, cũng có nghĩa là Xảo
Sắc (màu sắc đẹp đẽ). Tùy loại thị hiện hết thảy các thân đáng yêu mến thì gọi
là Xảo Sắc. Cũng có nghĩa là Tạp Sắc (nhiều màu), [hàm nghĩa] “dùng đủ loại
hạnh, đủ loại sắc pháp môn để trừ tối tăm cho thế gian”, tức là ý nghĩa khôn
sánh trong các minh chú vậy. Dùng chữ Lô tối sơ để làm chủng tử.
(Kinh) Nhất thiết chư Phật chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Tát phược tha, tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm sâm ha,
sa ha.
(經)一切諸佛真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩縛他。毘末底。毘結囉拏。達摩馱都。涅闍多。參參訶。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của hết thảy chư Phật: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Tát phược tha, tỳ mạt để, tỳ kết ra noa, đạt ma đà đô, niết xà đa, sâm
sâm ha, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của hết
thảy chư Phật. Tát Phược Tha (Sarvātha, hết thảy). Tỳ Mạt Để (Vimati,
vô huệ): Do không có huệ, nên gọi là Nghi. Chữ này chính là để giải thích cho
Nghi. Tỳ Kết Ra Noa (Vikiraṇa) nghĩa là Trừ. Có nghĩa là vứt bỏ Sắc Trần như người vứt bỏ ô uế,
nên gọi là Trừ Khí. Đạt Ma Đà Đô (Dharmadhātu, pháp giới): Ý nói trừ hết thảy vô huệ, đều khiến cho trụ trong pháp giới.
Niết Xà Đa (Nirjāta) là sanh. Chữ Niết này chính là Đại Không tam-muội. Từ đây mà sanh thì
chính là sanh trong pháp giới vậy. Sâm Sâm Ha (Saṃ saṃ hā): Ba chữ này đều là
chủng tử. Tát (स, Sa) có
nghĩa là “cứng chắc”. Ví như do trừ sự kiên cố này mà sanh ra tối thắng. Cái chấm
Không là nhập tam-muội, [tức chữ Sa thêm chấm Đại Không thành Saṃ (सं)]. Như Nhị
Thừa nhập Niết Bàn, đấy chính là ý nghĩa “kiên cố”. Cho đến nếu có gì cứng chắc,
đấy chính là tướng sanh trụ. Hết thảy các pháp động đều là bất an. Do cực lực
trừ khử điều ấy mà đều có ý nghĩa “Trọng
Không tam-muội”. Ha chính là hạnh ấy, tức là Như
Lai hạnh.
(Kinh) Bất Khả Việt Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nô đạt rị sa,
ma ha rô sắt noa, khư đà dã, tát phược đát tha yết đa chiêm, câu rô, sa ha.
(經)不可越守護門者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。奴達哩沙。摩訶嚧瑟拏。佉佗也。薩縛怛他揭多瞻。俱嚧。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của người thủ hộ cửa Bất Khả
Việt (chẳng thể vượt qua): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nô đạt rị sa, ma ha
rô sắt noa, khư đà dã, tát phược đát tha yết đa chiêm, câu rô, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của người thủ hộ. Đây chính là chẳng thể vượt qua,
chính vì khó trì (nghĩa là “tận lực trì”. Dòm ngó sẽ chẳng thể được[5],
cũng có nghĩa là khó hàng phục). Người vâng theo giáo pháp của Pháp Thân Phật
thường ở bên phải, phía trong cửa, gọi là Bất Khả Việt Sứ Giả (Durdharṣadvarapāla). Do oai lực
tam-muội-da của chư Phật, sẽ không thể vượt qua! Tuân phụng, làm theo giới luật
kim cang, hết thảy chẳng dám trái vượt, cũng gọi là Vô Năng Kiến (chẳng thể thấy).
Do người tuân phụng giáo này oai mãnh hừng hực như trăm ngàn mặt trời, không ai
dám nhìn, ví như trẻ nhỏ mới sanh chẳng kham ngửa mặt nhìn mặt trời. Do vậy gọi
tên như thế. Do thường ở phía trong cửa của Phật, hành đúng theo lời răn dạy,
nên gọi là Phụng Giáo Giả.
Nô Đạt Rị Sa (Durdharṣa) chính là tên của họ,
có nghĩa là Bất Khả Việt. Đà Đạt (dhar) là pháp giới, có âm Ra là vô cấu, Xa (Ṣa)
tức là Xa-ma-tha. Ma Ha Rô Sắt Noa (Mahāroṣaṇa) là Đại Phẫn Nộ. Khư Đà Da
(Khādaya) là ăn, tức nuốt hết thảy các phiền não do hình tướng hư vọng. Dùng chữ
Khư (Khā) làm chủng tử. Các chữ kia nhằm giải thích chữ này, tức là nghĩa
Không. Đà có nghĩa là Cho, cũng có nghĩa là Thừa (nương vào, ngự trên). Tát Phược
Đát Tha Yết Đa (Sarva-tathāgatā) là hết thảy Như Lai. Chiêm (Jñaṃ, đọc âm
dài) có nghĩa là “giáo sắc”, liên kết với âm A trong câu trước. Câu Rô (Kurū) là “làm”,
tức là khiến cho [người phụng giáo] thực hiện giáo sắc của Như Lai. Thuận theo giáo sắc mà thực hiện, chẳng trái nghịch, nghĩa là “có thể tuân theo giáo sắc” vậy.
(Kinh) Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hê ma ha bát
ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư đà dã, khẩn chỉ la duệ tế,
tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha.
(經)相向守護門者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。醯摩訶鉢囉戰荼。阿鞞目佉。蘖㗚訶拏。佉陀也。緊只羅曳細。三麼耶麼努薩麼囉。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của người thủ hộ cửa đối
diện nhau: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. Hê ma ha bát ra, chiến đồ. A bệ mục khư. Nghiệt lật ha noa, khư đà dã,
khẩn chỉ la duệ tế, tam ma da, ma nỗ tát ma ra, sa ha).
Kế đến là chân ngôn của
Tương Đối Thủ Môn Giả (Abhimukha). Hê (He) là kêu gọi triệu tập. Ma Ha Bát Ra
(Mahāpra) là
cùng cực. Chiến Đồ (Caṇḍa) là đại phẫn nộ, bạo ác, hàm nghĩa “phẫn nộ tột bậc”. A Bệ Mục Khư (Abhimukhā): Đối
diện nhau, giữ cửa như trong phần trên [đã nói về Việt Thủ Hộ Thủ Môn Phụng
Giáo Giả]. Nghiệt Lật Ha Noa (Gṛhṇa) là nhiếp thủ. Khư
Đà Dã (Khādaya) là ăn
nuốt, cũng lấy chữ Khư (Khā) làm chủng tử. Khẩn Chỉ La Duệ Tế (Kiṃ cirāyasi): Sao không nhanh chóng? Tam Ma Da (Samayam) như
đã giải thích trong phần trước. Ma Nỗ Tát Ma Ra (Anusmara): Ức niệm, tức là nghĩ
nhớ Tam-ma-da. Do phẫn nộ tột bậc. Kẻ chẳng thể quán sẽ khiến cho [kẻ đó] chẳng
thể nhìn ngó. Do đối ứng với [các vị thủ hộ cửa] trong phần trước, nên gọi tên
như thế. Tuân phụng giáo sắc của chư Phật, dùng Bất Khả Đắc
Không để ăn nuốt hết thảy chúng sanh chấp tướng và khó thể hóa độ hàng phục,
khiến cho chẳng còn sót. Đó là ý nghĩa Đại Phẫn Nộ.
(Kinh) Kết đại giới chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tát phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dã tử mạn.
Ma ha tam muội da nễ ra xã để. Tát mạt ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca, đà ca,
giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa nễ chiên. Tát phạ đát tha yết đa nô nhưỡng
đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ xà duệ. Bạc già phiệt để, tỳ câu lệ, tỳ câu
lệ, lệ rô bổ lê, sa ha.
(經)結大界真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩嚩多羅努揭底。畔陀也死曼。摩訶三昧耶儞囉社底。薩末囉拏。阿鉢囉底訶底。馱迦馱迦。遮囉遮囉。畔陀畔陀。娜奢儞羶。薩縛怛他揭多奴壤多。鉢囉嚩囉。達摩羅陀毘闍曳。薄伽筏底。毘俱㘑毘俱麗。隷嚕補𠼝。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn kết đại giới là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Tát phạ đa la nỗ yết để, bạn đà dã tử mạn. Ma ha tam muội da nễ ra xã để. Tát mạt
ra noa, a bát ra để ha để. Đà ca đà ca, giá la, giá la. Bạn đà, bạn đà. Na xa nễ
chiên. Tát phạ đát tha yết đa nô nhưỡng đa. Bát ra phạ ra. Đạt ma la đà tỳ xà
duệ. Bạc già phiệt để, tỳ câu lệ, tỳ câu lệ, lệ rô bổ lê, sa ha).
Kế đó là chân ngôn kết đại
giới. Như đức Phật đã nói có vô lượng trì minh, sợ cũng có những người trì chân
ngôn do không kết giới, thủ hộ, pháp sự có thể bị phá, tổn hoại người trì tụng.
Vì thế, lập ra pháp kết giới. Do kết giới, thậm chí các vị Trì Minh cũng chẳng
thể phá hoại. Do tỳ-kheo kết giới làm pháp sự, dẫu tỳ-kheo ở ngoài kết giới tác
pháp, [những kẻ gây rối khác] cũng chẳng thể chướng ngại được, ở bất cứ chỗ nào
cũng đều trọn khắp.
Tát Phạ Đa La Nỗ Yết Để (Sarvatrānugate): Hết thảy nơi chốn, tức là mười phương đều cần kết giới trọn khắp.
Bạn Đà Dã Tử Mạn (Bandhaya sīmāṃ): Câu trên là Kết, câu dưới là Giới. Ý nói: Hết thảy các nơi
chốn đều được kết giới. Ma Ha Tam Muội Da (Mahāsamaya): Đại tam-muội-da, tức là dùng đại tam-muội-da ấy để kết các giới. Nễ Ra Xã Để
(Nirjāte): Sanh
bởi. Ý nói từ đại tam-muội-da mà sanh. Tát Mạt Ra Noa
(Smaraṇe): Ức
niệm. Tức là nghĩ nhớ hết thảy lời dạy của đức Phật. A Bát Ra Để Ha Để (Apratihate): Chẳng có gì có thể gây hại, cũng nói là “không vướng mắc”,
cũng là “chẳng thể phá hoại”. Do kết giới mà chẳng thể phá hoại. Đà Ca Đà Ca
(Dhaka dhaka): Oai quang. Do oai quang mà thành giới. Đà là pháp giới, Ca là
làm. Tức là nói “Thể của pháp giới lìa các tạo tác”; lìa tạo tác tức là pháp giới.
Giá La Giá La (Cala cala): Giá nghĩa là Diệt, tức là sanh diệt, đổi dời. La là cấu chướng.
Câu này cũng có nghĩa là hành, tức là “tới trọn khắp mười phương để kết”. “Cũng có nghĩa là hành” tức là đến,
đi. Nói lặp lại, [nhằm diễn tả] ý nghĩa “đến tột bậc”. Đây chính là gấp đến. Bạn Đà Bạn Đà (Bandha bandha): Câu giải thích để kết lại ý nghĩa. Câu trước mang ý nghĩa
“có thể”, câu sau là Không. Ví như chẳng thể đả phá giống như hư không. Do dùng
chuyện này để kết giới, nên chẳng thể phá hoại. Na Xa (Daśa) là mười;
Nễ Chiên (Diśaṃ) là Phương; tức là “kết
giới trong mười phương”. Tát Phạ Đát Tha Yết Đa (Sarvatathāgata): Hết thảy
chư Phật. Nô Nhưỡng Đa (Anujñate): Giáo, tức là lời dạy của hết thảy chư Phật; khiến cho
nghĩ nhớ cái được nghĩ tới trong phần trước. Bát Ra Phạ Ra (Pravara) là sở chứng.
Đạt Ma (Dharma) là pháp, [nói gộp hai câu này lại] thì chính là “pháp được chứng bởi chư Phật”. La Đà
(Labdha): Thu được, chứng được, đạt được. Tỳ Xà Duệ (Vijaye): Chẳng
thể thắng, [hàm nghĩa]: Ở trong các chướng bèn chiến thắng, tức là [các chướng]
chẳng thể hại (chẳng thể thắng người ở trong kết giới) được! Bạc Già Phiệt Để (Bhagavati): Đấy
là vị Chân Ngôn Chủ, tán thán công đức của Thế Tôn. Tỳ Câu Lệ (Vikuri): Trừ, [tức
là] “có thể trừ cấu”. Trước hết
là khuyên trừ, mà cũng khuyên niệm để làm. Tỳ Câu Lệ (Vikule): Câu trước là trừ
hữu tướng cấu, chính là “đừng làm”. Câu sau là trừ ly tướng cấu. Tức là “trừ hết thảy các chướng”. Lệ (Le) là chủng tử. Lỗ Bổ Lê
(Lu Puri) nghĩa là cung điện, là nơi chốn. Dùng chân pháp để trừ cấu tướng, đó
chính là cung điện để chư Phật trụ, tức là giống như pháp giới. [Trong Phạn bản,
có khi sau câu này] lại thêm câu Vi Củ Lệ (Vikuli), nhưng chỉ có chữ Lệ trong
câu cuối cùng là chủng tử. La (ल) là tướng, thêm vào âm Ế tức là tam-muội [thành chữ Lệ (ले)], [hàm ý] “có đủ hết thảy các tướng mà ly tướng”.
Đấy là thể tướng của Giới.
(Kinh) Bồ Đề chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố.
(經)菩提真言曰:南麼三曼多勃馱喃。惡。
(Kinh: Chân ngôn Bồ Đề là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ố).
Từ đây trở đi, nói các chữ
chủng tử (do từ một chữ mà có thể sanh ra nhiều, thì gọi là Chủng Tử). Ố (अ, A) là chủng tử Bồ Đề. Phàm người
trì tụng đều có cái tâm mong cầu Vô Thượng Bồ Đề, cho nên trước hết nói chữ
này. Từ đó, sanh ra hết thảy các pháp, tức là Bồ Đề tâm.
(Kinh) Hạnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.
(經)行真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿。
(Kinh: Chân ngôn hạnh [Bồ Đề] là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A).
A (आ, Ā) là hạnh,
tức chủng tử tu Bồ Đề hạnh, do thành tựu
phước trí.
(Kinh) Thành Bồ Đề chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ám.
(經)成菩提真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗。
(Kinh: Chân ngôn thành Bồ Đề là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ám).
Ám (अं, Aṃ) là chủng tử thành Bồ Đề. Chữ trước (tức chữ A) là Bồ Đề tâm, thêm một
cái chấm bên trên tức là Đại Không. Chứng Đại Không là thành Bồ Đề.
(Kinh) Niết Bàn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Á.
(經)涅槃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。噁。
(Kinh: Chân ngôn Niết Bàn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Á).
Á (अः, Aḥ) là chủng tử Niết Bàn. Bên cạnh [chữ A (अ)] có hai chấm đều là tiếng gọi gấp,
tức là âm thanh Ha (ḥ), có nghĩa là trừ khử, tức là trừ khử các cấu bèn nhập Niết
Bàn.
(Kinh) Hàng Tam Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Ha.
(經)降三世真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。訶。
(Kinh: Chân ngôn Hàng Tam Thế là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Ha).
Ha
(हा, Hā) là “hàng phục ba đời”. Ha là
“hành”, thêm âm A (chữ Hā là chữ Ha
ghép với chữ A, thành âm A trường âm) là “cực
hành”. Dùng điều này để trừ khử các hành, tức là “chẳng hành hết thảy các
hành”. Dùng điều này có thể đánh bại tam thế.
(Kinh) Bất Động Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Hãn.
(經)不動尊真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。悍。
(Kinh: Chân ngôn của Bất Động Tôn là: - Nam ma tam mạn đa
phạt chiết ra nạn. Hãn)
Hãn (हां, Hāṃ) là Bất Động Chủ (Acalanātha, Bất Động Minh Vương). Ha là hành, âm A lại là hạnh, thêm chấm tức là Đại
Không. Do trụ trong địa vị này, có thể hàng phục hết thảy, tức là Bồ Đề tâm tạo
sự thủ hộ to lớn.
(Kinh) Trừ Cái Chướng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A.
(經)除蓋障真言曰:南麼三曼多勃馱喃。阿。
(Kinh: Chân ngôn của Trừ Cái Chướng là: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm. A).
A (अः, Aḥ) là Trừ Cái Chướng (Sarvanīvaraṇaviṣkambhin). A là chướng, bên cạnh có hai chấm, tức là trừ khử. Đấy chính là trừ khử
cái chướng.
(Kinh)
Quán Tự Tại chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Sa.
(經)觀自在真言曰:南麼三曼多勃馱喃。娑。
(Kinh: Chân ngôn của Quán Tự Tại là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Sa).
Sa (सः, Saḥ) là Quán Tự Tại (Avalokiteśvara). Sa (स) là các lậu, bên cạnh có hai điểm
tức là âm Ha (ḥ). Quán để trừ khử các lậu và vô lậu, nên là tự tại.
(Kinh) Kim Cang Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Phạ.
(經)金剛手真言曰:南麼三曼多伐折囉𧹞。嚩。
(Kinh: Chân ngôn của Kim Cang Thủ là: - Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn. Phạ)
Phạ (वः, Vaḥ) là Kim Cang Thủ (Vajrapāṇi), nghĩa là “trói buộc”. Bên cạnh [chữ Va (व)] có hai điểm tức là trừ các trói
buộc. Đấy chính là Kim Cang chủng tử.
(Kinh) Diệu Cát Tường chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mạn.
(經)妙吉祥真言曰:南麼三曼多勃馱喃。瞞。
(Kinh: Chân ngôn của Diệu Cát Tường là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Mạn).
Mạn (मं, Maṃ) là Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī). Bản thể [của chữ Ma] chính là Không, phía trên lại có chấm là lại thêm
Không vào, tức là Đại Không. Vượt ngoài mười tám món Không, nên gọi là Đại
Không. Trụ nơi địa vị Không tức là Đại Không; đó chính là Đại Bát Nhã.
(Kinh) Hư Không Nhãn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nghiêm.
(經)虛空眼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。嚴。
(Kinh: Chân ngôn của Hư Không Nhãn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nghiêm).
Nghiêm (गं, Gaṃ) là Hư Không Nhãn (Gaganalocanā). Già (Ga) là “đến, đi”. Lìa đến
đi tức là giống như Đại Không. Vì thế, thêm cái chấm.
(Kinh) Pháp giới chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Lam.
(經)法界真言曰:南麼三曼多勃馱喃。㘕。
(Kinh: Pháp giới chân ngôn là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lam).
Lam (रं, Raṃ): Hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều từ đây mà vào pháp giới. Ra (र) là cấu. Trên đó có chấm, tức là
ly cấu giống như Đại Không. Đó là ý nghĩa của pháp giới.
(Kinh) Đại Cần Dũng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Khiếm.
(經)大勤勇真言曰:南麼三曼多勃馱喃。欠。
(Kinh: Chân ngôn của bậc Đại Cần Dũng là: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, khiếm).
Khiếm (खं, Khaṃ) là con của đấng Đại Cần
Dũng (Mahāvīra). Do đức Phật ngồi đạo tràng, hàng phục các ma, hết thảy trời, người gọi
Ngài là Đại Cần Dũng, tức là Tỳ Lô Giá Na. Khư (ख, Kha) có nghĩa là Không, trên đó
có chấm là Đại Không [thành Khaṃ], [tức là] dùng Đại Không tịnh hóa hết thảy
các Không.
(Kinh) Thủy Tự Tại chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhiêm.
(經)水自在真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Thủy Tự Tại là: -
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm (जं, Jaṃ) là Thủy Tự Tại (Jalendra) Bồ Tát. Do sanh từ nước, nên gọi là Thủy Tự Tại, tức là danh hiệu của Bồ
Tát. Trong Đại Bổn có nói, nhưng trong tọa vị thuộc Mạn-đồ-la này chẳng nói chỗ
an lập, cần phải kiểm giảo cặn kẽ. Xà (Ja) có nghĩa là Sanh, [hàm nghĩa] “trừ
các sanh diệt giống như Đại Không”.
(Kinh) Đa La Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm.
Đam.
(經)多羅尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。耽。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Đa La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Đam).
Đam (तं, Taṃ) là ngài Đa La (Tārā). Đa là Như Như, tánh của Như Như chính là Đại Không.
(Kinh) Tỳ Câu Chi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bột-rị.
(經)毘俱胝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。勃唎。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Tỳ Câu Chi là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, Bột-rị).
Bột-rị (भृः, Bhṛḥ) là Tỳ Câu Chi (Bhṛkuṭī), Bà (भ, Bha) tức là tam hữu, Rị (ृ) là tam muội. Được tự tại trong
tam hữu, bên cạnh có hai chấm tức là trừ bỏ tam hữu.
(Kinh) Đắc Đại Thế chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sâm.
(經)得大勢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。參。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Đắc Đại Thế là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sâm).
Sâm (सं, Saṃ) là Đắc Đại Thế (Mahāsthāmaprāpta). Sa (स) là chư lậu, giống như chủng tử của
ngài Quán Âm, trên đó có chấm, ý nói các lậu ấy giống như Đại Không.
(Kinh) Bạch Xứ Tôn chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bán.
(經)白處尊真言曰:南麼三曼多勃馱喃。半。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Bạch Xứ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bán).
Bán (पं, Paṃ) là Bạch Xứ (Pāṇḍaravāsinī), tức Quán Âm Bộ Mẫu. Bả (प, Pa) là đệ nhất nghĩa thể, ví như hư không.
(Kinh) Hà Da Yết Rị Bà chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hàm.
(經)何耶揭哩婆真言曰:南麼三曼多勃馱喃。含。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Hà Da Yết Rị Bà: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hàm).
Hàm (हं, Haṃ) là ngài Mã Đầu (Hayagrīva), Ha (ह) là hành, thêm [cái chấm] Đại
Không, tức là hạnh Đại Không.
(Kinh) Da Thâu Đà La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Diêm.
(經)耶輸陀羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。閻。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Da Thâu Đà La: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm).
Diêm (यं, Yaṃ) là Da Thâu Đà La (Yaśodharā), tức Liên Hoa Bộ Minh Phi, Dã (य, ya) có nghĩa là Thừa. Phía trên có chấm, ý nói thừa thanh tịnh
giống như Đại Không.
(Kinh) Bảo Chưởng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Sâm.
(經)寶掌真言曰:南麼三曼多勃馱喃。參。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Bảo Chưởng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sâm).
Sâm (सं, Saṃ) là chủng tử của Bảo Chưởng (Ratnakara) Bồ Tát, giống như ngài Đại Thế
Chí, dùng Bảo Xứ làm Định, dùng báu làm tay. Chất báu sanh từ đó, cũng có nghĩa
là Thường, cũng có nghĩa là Tác.
(Kinh) Quang Võng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nhiêm.
(經)光網真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Quang Võng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm (जं, Jaṃ) là Quang Võng (Jālinīprabha) Bồ Tát, tức là quyến thuộc của đức Văn Thù, ý nghĩa giống như trong phần
trên.
(Kinh) Thích Ca Mâu Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Bà.
(經)釋迦牟尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。婆。
(Kinh: Chân ngôn của Thích Ca Mâu Ni Phật: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, bà).
Bà (भः, Bhaḥ) là Phật Thích Ca. Bà là tam hữu. Bên cạnh có hai chấm, tức là ý nghĩa
“trừ khử tam hữu”.
(Kinh) Tam Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng trá-lam.
(經)三佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽吒㘕。
(Kinh: Chân ngôn của ba vị Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng trá-lam).
Hồng Trá Lam (Hūṃ Ṭrūṃ). [Chữ Hồng] trên có chữ Ha là hành, dưới có chữ Ô là tam-muội.
Trên đó có một chấm là Đại Không. Chữ Lam sau chữ Trá (Ṭa) là “chiến đấu với oán địch”. Ra là cấu, âm Ô (Ū) bên cạnh là tam-muội, trên có chấm Đại Không. Trên đây là chủng tử của
ba vị Phật đảnh, theo thứ tự đối xứng.
(Kinh) Bạch Tán Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân.
(經)白傘佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。隣。
(Kinh: Chân ngôn của Bạch Tán Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân).
Lân (लं, Laṃ) là ngài Bạch Tán [Phật Đảnh] (Sitātapatroṣṇīṣa). La (ल) là tướng, trên có chấm giống như
Đại Không.
(Kinh) Thắng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thiêm.
(經)勝佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。苫。
(Kinh: Chân ngôn của Thắng Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Thiêm).
Thiêm (शं, Śaṃ): Chữ Xã (श, Śa) là chướng, có nghĩa là oán địch đối đầu, nghĩa là hết thảy các pháp có đối
đãi đều giống như Đại Không, không hơn kém.
(Kinh) Tối Thắng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tứ.
(經)最勝佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。賜。
(Kinh: Chân ngôn của Tối Thắng Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Tứ).
Tứ (शी, Śī) là Tối Thắng Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa). Sa (श, Śa) là kiên cố. Lìa kiên cố và chẳng kiên cố tức là Đại Không, lại có tam-muội.
(Kinh) Hỏa Tụ Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đát-lân.
(經)火聚佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。怛𭌇。
(Kinh: Chân ngôn của Hỏa Tụ Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đát-lân).
Đát-lân (त्रिं, triṃ): Đa là Như Như, Ra là cấu; lại có tam-muội và nghĩa Đại Không, đấy là Hỏa
Tụ (Tejorāśyuṣṇīṣa, Đế Thù La Thí Phật Đảnh).
(Kinh) Trừ Chướng Phật Đảnh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ha-lâm.
(經)除障佛頂真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶啉。
(Kinh: Chân ngôn của Trừ Chướng Phật Đảnh: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ha-lâm).
Ha-lâm (ह्रुं, Hruṃ): Ha là hành, Ra là cấu, Ổ là tam-muội, cái chấm là Đại Không. Đấy là Trừ
Cái Chướng Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa).
(Kinh) Thế Minh Phi chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đam hàm bán hàm diêm.
(經)世明妃真言曰:南麼三曼多勃馱喃。耽含半含 閻。
(Kinh: Chân ngôn của Thế Minh Phi (Lokavidyārājñī): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Đam hàm bán hàm
diêm).
Trên đây là chủng tử của
năm vị Phật Đảnh. Đam, Hàm, Bán, Hàm, Diêm (Taṃ Haṃ Paṃ Haṃ Yaṃ): Như Như, trên [mỗi chữ] có [cái chấm] Không, tức Như Như chẳng thể được,
giống như Đại Không.
(Kinh) Vô Năng Thắng chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hồng.
(經)無能勝真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Vô Năng Thắng (Aparājita): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hồng).
Hồng (Hūṃ) là hành, nhập môn chữ A chính là hành vô hành, tức ly hành.
(Kinh) Địa Thần chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vi.
(經)地神真言曰:南麼三曼多勃馱喃。微。
(Kinh: Chân ngôn của Địa Thần: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Vi).
Vi (वि, Vi) là nhập Đệ Nhất Nghĩa, lìa Đệ
Nhất Nghĩa.
(Kinh) Kế Thiết Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chỉ-lý.
(經)髻設尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。枳履。
(Kinh: Chân ngôn của Kế Thiết Ni (Keśinī): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Chỉ-lý).
Chỉ-lý (किलि, Kili): Hành, ly hành.
(Kinh) Ổ Ba Kế Thiết Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nễ-lý.
(經)鄔波髻設尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。儞履。
(Kinh: Chân ngôn của Ổ Ba Kế Thiết Ni (Upakeśinī): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Nễ-lý).
Nễ-lý (दिलि, Dili): Hết thảy các thừa, tức là
thừa vô thừa, Thể đồng với hư không. Năm chữ này là chữ chủng tử của Minh Phi
trong thế gian, tuy là Phật hóa thân, tướng giống như thế gian, được gọi là
Thiên v.v… Trọn khắp hết thảy tất cả Minh Phi, tùy ý chọn lấy một vị. Hồng là
chủng tử tam-muội của Vô Năng Thắng. Vi (trói buộc) là chữ chủng tử của Địa Thần.
Chỉ (Tác tam-muội) Lý (ly tướng tam-muội), Tướng Ly (sứ giả Kế Thiết Ni của đức
Văn Thù. Do búi tóc đoan nghiêm, khéo léo mà có tên như thế). Nễ là Định Không.
Lý là người thí, là tướng của Định. Đà là thí. Trong vô tướng, có thể mãn hết
thảy các nguyện. Đấy là Ổ Ba Thiết Kế Ni (Không Định).
(Kinh) Chất Đa đồng tử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mị-lý.
(經)質多童子真言曰:南麼三曼多勃馱喃。弭履。
(Kinh: Chân ngôn của Chất Đa đồng tử (Citrā): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Mị-lý).
Tướng của Mị-lý (मिलि, Mili) như trong phần trước [đã
nói]. Đây là sứ giả của ngài Văn Thù, tên là Chất Đa (Citrā). Ma (म) là Không, là Ngã. Chữ La (ल) sau đó là tướng, ví như do hữu
tướng nên có ngã. Do ly tướng nên vô ngã, cũng là môn Định của ngài Văn Thù Sư
Lợi.
(Kinh) Tài Huệ đồng tử chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hệ-lý.
(經)財慧童子真言曰:南麼三曼多勃馱喃。係履。
(Kinh: Chân ngôn của Tài Huệ đồng tử: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Hệ-lý).
Hệ Lý (हिलि, Hili): Hệ (hỷ hành), Lý là tướng,
chính là sứ giả Tài Huệ (Vasumatī) của ngài Văn Thù, tức là có thể thỏa mãn hết thảy các nguyện, đều khiến
cho hoan hỷ. Lại còn một sứ giả tên là A Ca Sa Ni, tức là sứ giả chuốc vời, giữ
lấy các vật, nhưng kinh thiếu phần kinh văn nói về chữ chủng tử của vị này,
chưa tìm được! Trên đây là năm vị sứ giả của ngài Văn Thù, mỗi sứ giả lại có một
người phụng giáo, [mỗi vị phụng giáo có] cùng chữ chủng tử giống như sứ giả.
(Kinh) Trừ Nghi Quái chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. Ha sa nan.
(經)除疑怪真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶娑難。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Trừ Nghi Quái: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha sa nan).
Kế đó là Trừ Nghi Quái (Kauṭūhala) Bồ Tát. Ha Sa Nan (Hasanāṃ): Hành hạnh lìa Không, lại là Đại
Không; đó gọi là pháp cam lộ. Cả câu nghĩa là Hỷ (có nghĩa là hoan hỷ, hớn hở).
(Kinh) Thí Nhất Thiết Chúng Sanh Vô Úy chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra sa nan.
(經)施一切眾生無畏真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉娑難。
(Kinh: Chân ngôn của ngài Thí Nhất Thiết Chúng Sanh Vô
Úy: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, ra sa nan).
Kế đó là ngài Thí Nhất Thiết
Chúng Sanh Vô Úy (Sarvasatva-abhayaṃ-dada). Ra Sa Nan (Rasanāṃ) là “cấu” như trong phần trên. Do có chữ này nên có sợ hãi. Nếu nhập môn
chữ A, sẽ có thể trừ hết thảy sợ hãi. Cả câu có nghĩa là Vị, tức là dùng vô thượng
chân thật pháp vị để thỏa mãn hết thảy các nguyện.
(Kinh) Trừ Nhất Thiết Ác Thú chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đặc-mộng sa
nan.
(經)除一切惡趣真言曰:南麼三曼多勃馱喃。特懵娑難。
(Kinh: Chân ngôn của Trừ Nhất Thiết Ác Thú: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, đặc mộng sa
nan).
Kế đó là ngài Trừ Nhất Thiết
Ác Thú (Sarvāpāyaṃjaha). Đặc Mộng Sa Nan (Dhvaṃsanāṃ): Đặc Mộng là pháp giới
trói buộc, Sa Nan [có ý nghĩa] như câu nói chung trong phần trên, có nghĩa là
phá nát. Như người tay cầm đồ vật đập vật khác cho tan nát.
(Kinh) Ai Mẫn Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi ha sa nan.
(經)哀愍惠真言曰:南麼三曼多勃馱喃。微訶娑難。
(Kinh: Chân ngôn của Ai Mẫn Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, vi ha sa nan).
Kế đến là Ai Mẫn Huệ (Paritrāṇāśayamati), do thương xót hết thảy mà có tên
gọi ấy. Vi Ha Sa Nan (Vihasanāṃ): Vi là trói buộc, âm tam-muội Y là Định. Ha là hỷ, Sa là vững
chắc. Nan (như câu nói chung trên đây), dùng đủ loại phương tiện thiện xảo, khiến
cho chúng sanh vui mừng cùng cực, có ý nghĩa “tăng trưởng, tích tụ”.
(Kinh) Đại Từ Sanh chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, siểm.
(經)大慈生真言曰:南麼三曼多勃馱喃。諂。
(Kinh: Chân ngôn của Đại Từ Sanh là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, siểm).
Siểm (Ṭhaṃ) là chủng tử của Đại Từ Sanh (Mahāmaitriyā-bhyudgata) Bồ Tát. Lòng Từ này cực lớn khôn sánh, sanh từ lòng Từ ấy. Thừa cũng có
nghĩa “đến, đi”. Lìa đến đi giống như Đại Không.
(Kinh) Đại Bi Triền chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm.
(經)大悲纏真言曰:南麼三曼多勃馱喃。閻。
(Kinh: Chân ngôn của Đại Bi Triền: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, diêm).
Diêm (Yaṃ) là chữ chủng tử của Đại Bi Triền (Mahākāruṇā-mṛḍita) Bồ Tát. Do đại bi tự quấn quýt trong tâm, nên Ngài có tên như vậy.
(Kinh) Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ải.
(經)除一切熱惱真言曰:南麼三曼多勃馱喃。縊。
(Kinh: Chân ngôn của Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ải).
Ải (Ī) là Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não (Sarvadāhapraśāmin) Bồ Tát. Có thể trừ Tam Độc nhiệt não, đó là ý nghĩa tột cùng của tam-muội. Ổ
cũng có nghĩa là tam-muội tột bậc.
(Kinh) Bất Tư Nghị Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ô.
(經)不思議慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。污。
(Kinh: Chân ngôn của Bất Tư Nghị Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ô).
Ô (Ū): Đây là Bất Tư Nghị Huệ (Acintyamati) Bồ Tát. Dùng trí huệ chẳng thể
nghĩ bàn để trừ vô huệ. Thí: Do tự có [trí huệ], nên có thể ban huệ cho người
khác.
(Kinh) Bảo Xứ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, than.
(經)寶處真言曰:南麼三曼多勃馱喃。灘。
(Kinh: Chân ngôn của Bảo Xứ (Ratnākara): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, than).
Than (Daṃ) là Xa-ma-tha. Lại là Đại Không Bảo
Sanh Bồ Tát, ví
như có thể sanh ra hết thảy các pháp bảo, cho nên có tên như vậy.
(Kinh) Bảo Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sam.
(經)寶手真言曰:南麼三曼多勃馱喃。衫。
(Kinh: Chân ngôn của Bảo Thủ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sam).
Sam (Ṣaṃ): Đây là Bảo Thủ (Ratnapāṇi) Bồ Tát. Như tay cầm Như Ý Châu, có thể mãn nguyện của hết thảy mọi người.
Vị Bồ Tát này cũng thế, cho nên có tên ấy. Nghiễm: Chữ thứ năm là Không, lại
còn là Đại Không.
(Kinh) Trì Địa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệm.
(經)持地真言曰:南麼三曼多勃馱喃。噞。
(Kinh: Chân ngôn của Trì Địa là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệm).
Nghiệm (ङं, Ṅaṃ): Đây là ngài Trì Địa (Dharaṇiṃdhara), giống như đại địa duy trì muôn vật, Phật địa trì chúng sanh. Vị Bồ Tát
này cũng thế, dùng ý nghĩa của chữ này để trì hết thảy.
(Kinh) Phục thứ, chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm.
(經)復次真言曰:南麼三曼多勃馱喃。髯。
(Kinh: Lại còn chân ngôn rằng: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhiêm).
Nhiêm (जं, Jaṃ) là chữ Nhiễm, cũng là chữ thứ năm. Hơn nữa, bản Đại Không
Kinh thiếu danh hiệu của Bồ Tát.
(Kinh) Bảo Ấn Thủ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phiếm.
(經)寶印手真言曰:南麼三曼多勃馱喃。泛。
(Kinh: Chân ngôn của Bảo Ấn Thủ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, phiếm).
Phiếm (फं, Phaṃ) có nghĩa là bọt nước, chẳng kiên cố. Hiểu rõ tự tướng của hết thảy các
pháp như thế, giống như Đại Không. Đấy là chủng tử của Bảo Ấn Thủ (Ratnamudrāhasta) Bồ Tát.
(Kinh) Kiên Cố Ý chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nạn.
(經)堅固意真言曰:南麼三曼多勃馱喃。𧹞。
(Kinh: Chân ngôn của Kiên Cố Ý: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nạn).
Nạn (णं, Ṇaṃ) là Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāśaya) Bồ Tát. Không lại còn thêm Không, tức là Kiên Ý Bồ Tát. Trong
Không bèn dứt trừ cấu.
(Kinh) Hư Không Vô Cấu chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hàm.
(經)虛空無垢真言曰:南麼三曼多勃馱喃。含。
(Kinh: Chân ngôn của Hư Không Vô Cấu: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hàm).
Hàm (हं, Haṃ) là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala). Huệ này như hư không thanh tịnh vô cấu. Cái nhân của hạnh thuộc về
Không, hạnh thành tựu sẽ bằng với hư không.
(Kinh) Hư Không Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân.
(經)虛空慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。隣。
(Kinh: Chân ngôn của Hư Không Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, lân).
Lân (रिं, Riṃ) là Hư Không Huệ (Gaganamati). Như hư không vô biên, vô ngại; trí huệ của vị
Bồ Tát này cũng như thế.
(Kinh) Thanh Tịnh Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt đan.
(經)清淨慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。蘖丹。
(Kinh: Chân ngôn của Thanh Tịnh Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt đan).
Nghiệt Đan (गतं, Gataṃ) là Thanh Tịnh Huệ (Viśuddhamati), vô cấu.
(Kinh) Hành Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lam.
(經)行慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地㘕。
(Kinh: Chân ngôn của Hành Huệ (Cāritramati): - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa lam).
Địa Lam (धिरं, Dhiraṃ): Tâm hành huệ, thường dùng trí huệ ấy để lợi ích chúng sanh.
(Kinh) An Huệ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng.
(經)安慧真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吽。
(Kinh: Chân ngôn của An Huệ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, hồng).
Hồng là An Huệ (Sthiramati). Thường trụ trong
trí huệ ấy để lợi ích chúng sanh; nên có tên như thế. Câu này có ý nghĩa là
“không sợ hãi”. An trụ trong huệ ấy ví như Kim Cang Sơn Định.
(Kinh) Chư phụng giáo giả chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa thất-rị
hám một-lam.
(經)諸奉教者真言曰:南麼三曼多勃馱喃。地室唎唅沒㘕。
(Kinh: Chân ngôn các vị phụng giáo: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, địa thất-rị
hám một-lam).
Địa Thất Rị Hám Một Lam (धिश्रीहंब्रं, dhi śrī haṃ braṃ): Địa là pháp giới, Thất-rị (śrī) là Chỉ Định vô cấu. Hám là hành Không. Một-lam (Braṃ) là cái Không trói buộc các cấu chướng. Bốn chữ này dùng chung cho các vị
phụng giáo, tùy ý chọn một chữ để sử dụng.
(Kinh) Bồ Tát sở thuyết chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật-sa noa ra
diêm kiếm.
(經)菩薩所說真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吃沙拏囉閻劍。
(Kinh: Chân ngôn do Bồ Tát nói: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật-sa noa ra
diêm kiếm).
Cật-sa Noa Ra Diêm Kiếm (Kṣaḥ ḍa ra yaṃ kaṃ): Cật-sa là tác
chỉ (khiến cho ngưng dứt), Noa gồm hai chấm là khủng bố, khiến cho [kẻ gây chướng]
thôi chiến đấu. Ra có thêm chấm là chiến đấu tột bậc, khiến cho sự khủng bố ấy
đại thắng. Diêm là Như Như vô cấu, thấu đạt hết thảy các thừa. Kiếm: Làm và chẳng
làm đều lìa, do gì mà được lìa? Do cái Thể là Đại Không, tùy ý chọn một loại chữ
chủng tử, phần nhiều là thiếu chữ Đa là chữ thứ ba. Sáu chữ trên đây là chủng tử
của các vị Bồ Tát nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật. Tùy ý sử dụng một
chữ đều được. Phàm trong các chân ngôn, tùy ý chọn chữ đầu, giữa, hay cuối làm
chủng tử đều được (hãy quán sát để chọn lấy chữ tông yếu).
(Kinh) Tịnh Cư Thiên chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma nô ra ma, đạt ma tam bà phạ phí bà phạ,
ca tha na, tam tam, sa ha.
(經)淨居天真言曰:南麼三曼多勃馱喃。摩奴囉麼。達摩三婆嚩費婆嚩。迦他那。三三。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Tịnh Cư Thiên: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ma nô ra ma, đạt
ma tam bà phạ, phí bà phạ, ca tha na, tam tam, sa ha).
Kế đó là chân ngôn của Tịnh
Cư Thiên (Śuddhāvāsa). Ma Nô Ra Ma (Manorama) là ý vui sướng, do thọ đủ thứ lạc. Đạt Ma Tam Bà
Phạ (Dharmasaṃbhava) là pháp sanh. Đó là do Phật hóa sanh, chẳng liên quan tới chư thiên
thế gian. “Cấu” là nói từ pháp
sanh ra. Phí Bà Phạ (Vibhava) do Hữu có ba loại. Ba chữ ấy cũng là chủng tử. Ca
Tha Na (Kathāna) là nói, thông với phần trước thì là hễ có nói năng bèn thuận theo pháp ấy
mà sanh. Dùng pháp đã thấu hiểu để vì chúng sanh mà thuyết pháp. Tam Tam (Saṃ Saṃ): Cũng là chủng tử cứng chắc và chẳng cứng chắc đều lìa. Thể đồng hư
không, khiến cho Không tột cùng, nên nói lặp lại.
(Kinh) La Sát Sa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà
nẫm, cật-lam kế rị.
(經)羅剎娑真言曰:南麼三曼多勃馱喃。吃㘕計唎。
(Kinh: Chân ngôn của La Sát Sa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, cật-lam kế rị).
Kế đó là chân ngôn của La
Sát (Rākṣasas), tức là dùng tiếng ở phương đó làm chân ngôn. Cật-lam (Kraṃ) là Tâm. Kế Rị (Keri) (gộp chung ba chữ ấy làm chủng tử. Trong ấy, có hai
chữ Ca (tức âm K trong Kraṃ và Keri) và hai chữ Ra (tức hai
chữ R), tức là [hàm ý] có thể “ăn nuốt
hết thảy các nghiệp cấu”. Hai chữ Y[6]
chính là tam-muội. Nói lặp lại nhằm diễn tả ý thanh tịnh lần nữa.
(Kinh) Đồ Cát Ni chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha-rị ha.
(經)荼吉尼真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶唎訶。
(Kinh: Chân ngôn của Đồ Cát Ni: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha-rị ha).
Kế đó là chân ngôn của Đồ
Cát Ni (Ḍākinī). Đây là trong thế gian có kẻ tạo ra pháp thuật này, và cũng
tự ở trong chú thuật, có thể biết người sắp mạng chung, trong vòng sáu tháng liền
biết. Đã biết liền tác pháp, lấy tim người ấy để ăn. Vì lẽ nào vậy? Do trong
thân người có chất Hoàng, được gọi là Nhân Hoàng, như bò có Ngưu Hoàng. Nếu ăn
được, sẽ có thể đạt được thành tựu cực lớn. Trong một ngày đi khắp bốn châu, hễ
làm điều gì cũng đều được thành công, cũng có thể trừng trị người khác đủ cách.
Đối với kẻ có hiềm khích, bèn dùng pháp thuật để trừng trị, khiến cho người ấy
bệnh khổ tột bậc. Nhưng pháp này không được giết người, phải nương theo phương
thuật. Người sắp chết, [kẻ tu chú thuật này] trước đó sáu tháng đã biết. Biết rồi
liền dùng chú thuật để đoạt lấy tim kẻ đó. Tuy lấy tim người đó, nhưng cần có
pháp thuật, phải dùng vật khác để thay thế [trái tim], ngõ hầu người ấy trọn chẳng
mất mạng. Tới khi người ấy đáng phải chết thì [vật thay thế ấy] mới hư hoại.
Phần lớn [Đồ Cát Ni] đều là
Dạ Xoa đại tự tại, được người đời gọi là bậc Đại Cực, trực thuộc [quyền thống
nhiếp của] Ma Ha Ca La, tức là Đại Hắc Thần. Đức Tỳ Lô Giá Na dùng pháp môn
hàng phục tam thế, muốn trừ [ác nghiệp sát hại] cho họ, bèn hóa thành Đại Hắc
Thần. Ngài thị hiện vô lượng trong bọn họ, dùng tro bôi thân, ở trong đồng
hoang, dùng pháp thuật triệu tập hết thảy các Đồ Cát Ni đã thành tựu pháp bay
lên hư không, hoặc đi trong nước đều vô ngại, mà quở trách rằng: “Do các ngươi
thường ăn thịt người, nay ta cũng ăn các ngươi”. Liền nuốt trộng họ, nhưng
không giết chết họ. Họ đã khuất phục bèn nhả ra, dạy họ đều thôi ăn thịt. Bọn họ
bạch Phật: “Chúng con đều ăn thịt thì mới sống nổi. Nay chúng con phải tự nuôi
mình bằng cách nào?” Đức Phật nói: “Cho phép các ngươi ăn tim người đã chết”. Bọn
họ thưa: “Khi người sắp chết, các đại Dạ Xoa sẽ biết kẻ đó mạng đã tận, tranh
nhau đến muốn ăn. Con làm như thế nào thì mới ăn được?” Đức Phật bảo: “Ta vì
các ngươi nói pháp chân ngôn và ấn, các ngươi sẽ biết sáu tháng trước khi [người
đó] chết. Biết rồi bèn dùng pháp gia hộ, đừng khiến cho người ấy kinh sợ, tổn hại.
Tới khi người ấy mạng tận, cho phép các ngươi lấy [tim người ấy] mà ăn”. Vì thế,
phần nào dẫn dắt họ nhập đạo. Do vậy, có chân ngôn này. Ha-rị (Hrīḥ): Ha là định hạnh, Rị là cấu, Ha (Haḥ) là hành, [hàm nghĩa] trừ khử cấu
nhơ tà thuật.
(Kinh) Chư Dược Xoa nữ chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất-xoa vĩ nễ-dạ đạt rị.
(經)諸藥叉女真言曰:南麼三曼多勃馱喃。藥吃叉尾儞夜達唎。
(Kinh: Chân ngôn của các Dược Xoa Nữ: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, dược khất-xoa
vĩ nễ-dạ đạt rị).
Kế đó là chân ngôn của các
Dược Xoa nữ (Yakṣiṇī) họ có thể nuốt thế gian, có thể ăn các thứ ác như các nghiệp cấu v.v… Đó
là ý nghĩa của Dạ Xoa. Dược (ý nghĩa như trên) Khất-xoa (Kṣa) là môn Định đoạn dứt ngôn ngữ. Vĩ Nễ-dạ (Vidya) nghĩa là Thừa. Đạt (Dhā) là pháp giới. Rị (Ri) là vô cấu Định. Câu chú này có nghĩa: Người trì Dạ
Xoa minh chú chính là cái tâm, dùng ngôn ngữ của họ để làm chú.
(Kinh) Chư Tỳ-xá-giá chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tỷ chỉ tỷ chỉ.
(經)諸毘舍遮真言曰:南麼三曼多勃馱喃。比旨比 旨。
(Kinh: Chân ngôn của các Tỳ-xá-giá: - Nam ma tam mạn đa bột
đà nẫm, tỷ chỉ tỷ chỉ).
Kế đó là chân ngôn của Tỳ-xá-giá
(Piśāca), [Tỳ Xá Giá] dịch nghĩa là Cực Khổ Sở. Bọn này
phần nhiều là ngạ quỷ. Tỷ là Đệ Nhất Nghĩa Định, Chỉ là chết. Tỷ Chỉ (Pici) là
cực Đệ Nhất Nghĩa diệt, cũng tùy thuộc phương ngôn mà làm chú.
(Kinh) Chư Bộ Đa chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ngung ải, ngung y mộng tán ninh.
(經)諸部多真言曰:南麼三曼多勃馱喃。喁縊喁伊懵散寧。
(Kinh: Chân ngôn của các Bộ Đa: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ngung ải ngung y mộng tán ninh).
Kế đó là chân ngôn của Bộ
Đa (Bhūta), đây là một loại Dạ Xoa. Ngung (Guṃ) là trừ bỏ Không, Ải (Ī) là Định. Ngung Ải là tột cùng. Mộng (Maṃ) là cái Ngã cứng chắc. Tán Ninh (Saṃne) là Không Định.
(Kinh) Chư A Tu La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra trá ra trá đặc mộng đam một-ra ba ra.
(經)諸阿修羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。囉吒囉吒特懵耽沒囉波囉。
(Kinh: Chân ngôn của các A Tu La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ra trá ra trá
đặc mộng đam một-ra ba ra).
Kế đến, chân ngôn của A Tu
La, mỗi mỗi chữ [đều có thể] riêng làm chữ chủng tử, tùy ý chọn lấy một chữ. Ra
là cấu. Trá là chiến, Ra Trá (Raṭaṃ, lặp lại). Đặc Mộng Đam (Dhvaṃtaṃ): Pháp giới không trói buộc, giống như hư không. Một-ra (Mra): Ví như hư
không. Ba-ra (Pra): Ngôn ngữ dứt bặt, lìa các cấu. Trong câu này có lời nhiễm dục,
sân hận, tức là trừ sự đa dục và sân hận của họ nên nói [như vậy].
(Kinh) Chư Ma Hầu La Già chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt ra lam,
nghiệt ra lam.
(經)諸摩睺羅伽真言曰:南麼三曼多勃馱喃。蘖囉藍蘖羅藍。
(Kinh: Chân ngôn của các Ma Hầu La Già là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nghiệt ra lam,
nghiệt ra lam).
Kế đó là Ma Hầu La Già,
cũng tùy ý chọn chữ chủng tử trong đó. Nghiệt Ra Lam (Garalaṃ): Nghiệt là “đến, đi”. Ra là cấu. Lam là tướng, tức sanh tử, [hoặc có thể hiểu]
Nghiệt là trói buộc, Ra là cấu, Lam là tướng.
(Kinh) Chư Khẩn Na La chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha tán nan vi ha tán nan.
(經)諸緊那羅真言曰:南麼三曼多勃馱喃。訶散難微訶散難。
(Kinh: Chân ngôn của các Khẩn Na La là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ha tán nan vi
ha tán nan).
Kế đó là chân ngôn của Khẩn Na La. Ha Tán Nan (Hakhasanaṃ): Ha (hỷ) Khư (hành), Tán (cứng chắc, tức là Ngã Chấp), Nan (Không, tức
là Không trong câu trên), Vi Ha Tán Nan (Vihasanaṃ): Vi (trói chặt), Ha Tán Nan (ý nghĩa như câu trên và câu dưới). Trong cú
nghĩa này, câu trên là hoan hỷ, câu dưới là ban cho người khác hoan
hỷ. Do có thể trừ Ngã Chấp kiên cố mà chứng Đại Không. Vì thế, hăng hái vô lượng.
Đã tự đạt được, mà cũng có thể ban cho người khác.
(Kinh) Chư nhân chân ngôn viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhất xa bát lam, ma nỗ ma duệ mê, sa ha.
(經)諸人真言曰:南麼三曼多勃馱喃。壹車鉢㘕。麼弩麼曳迷。莎訶。
(Kinh: Chân ngôn của nhân loại là: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, nhất xa bát
lam, ma nỗ ma duệ mê, sa ha).
Trong
chân ngôn của nhân loại, mỗi chữ đều là chữ chủng tử. Nhất Xa Bát Lam (Icchaparaṃ): Nhất là Định. Xa là hình bóng. Bên cạnh có chữ A là hành. Bát là Đệ Nhất
Nghĩa. Lam là Trần, tức Đại Không. Ma Nỗ Ma Duệ Mê (Manomayeme): Ma là vô ngã,
tức Đại Không. Nỗ: Đã không lại còn là không. Âm Y là Không. Ma: Không, Duệ Mê
là nương vào Định của loài người. Sa Ha có ý nghĩa giống như trong phần trước.
Trên đây là các biệt tướng chân ngôn đã xong.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Thị đẳng nhất thiết chân ngôn ngã dĩ tuyên thuyết.
Thị trung, nhất thiết chân ngôn chi tâm, nhữ đương đế thính, sở vị A tự môn. Niệm
thử nhất thiết chư chân ngôn tâm tối vi vô thượng, thị nhất thiết chân ngôn sở
trụ, ư thử chân ngôn nhi đắc quyết định.
(經)祕密主!是等一切真言我已宣說。是中一切真言之心,汝當諦聽,所謂阿字門。念此一切諸真言心最為無上,是一切真言所住,於此真言而得決定。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Hết thảy các chân ngôn như thế ấy, ta đã
tuyên nói. Trong ấy, tâm chú của hết thảy các chân ngôn, ông hãy nên lắng nghe,
tức là nói đến môn chữ A. Niệm tâm chú (chữ chủng tử) của hết thảy các chân
ngôn sẽ là vô thượng nhất, đó là chỗ trụ của hết thảy các chân ngôn, sẽ đạt được
quyết định đối với chân ngôn ấy).
Kế đó, đức Tỳ Lô Giá Na nói
về chân ngôn tâm, do các chân ngôn trên đây, mỗi một chân ngôn đều có căn bản
chân ngôn, tâm chân ngôn, và tùy tâm chân ngôn. Vô lượng vô biên như thế ấy chẳng
thể biết nổi số, nay nói chung “tâm”
của các chân ngôn chính là chữ A. Đó là ý nghĩa “các pháp vốn chẳng sanh”. Nếu lìa âm A, sẽ không có chữ nào
khác. Đấy chính là mẹ của các chữ, tức là sanh xứ của hết thảy các chân ngôn, tức
là hết thảy các pháp môn và các vị Bồ Tát v.v… đều từ cái tâm tự chứng nơi tự
thể của Tỳ Lô Giá Na, vì muốn lợi ích chúng sanh, dùng sức gia trì để hiện các
năng lực. Thật ra, cái Thể bất sanh, giống như pháp thể của chữ A. Chữ này thượng
diệu nhất trong các chân ngôn. Vì thế, hành giả Chân Ngôn thường nên thọ trì
như thế. Vì thế, hết thảy chân ngôn trụ trong chữ A. Do trụ vào đó, hễ tụng liền
được sanh [các công đức tương ứng]. Trên đây đã nói xong phẩm Phổ Thông Chân
Ngôn Tạng. Các chân ngôn trong phẩm này sử dụng chung cho hết thảy các nơi, còn
các pháp trong các phẩm sau thì mỗi pháp sẽ được sử dụng riêng!
[1] Ngũ Bộ
Phật tức là các vị Phật chính yếu trong Kim Cang Giới mạn-đồ-la: Trung Ương Tỳ
Lô Giá Na Phật, Đông phương A Súc Bệ Phật, Nam phương Bảo Sanh Phật, Tây phương
Vô Lượng Thọ Phật, Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật.
[2] Trong thần
tích Ấn Độ, Diêm Vương còn được gọi bằng danh xưng Vaivasvata. Đôi khi còn gọi
ghép chung là Yamavaivasvata. Vị này cũng được coi là thần thủ hộ của chỗ thiêu
xác.
[3] Theo Phật
Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, Diêm La Vương có bảy chị em gái, được gọi
chung là Thất Mẫu. Đại Nhật Kinh Sớ quyển năm giảng: “Thất Ma Đát Rị, phương
này dịch là Thất Mẫu, đều là nữ quỷ”. Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích, quyển bảy
chép: “Có bảy chị em, một tên là Tả Vấn Noa, hai tên là Kiều Phệ Rị, ba tên là
Sắt Noa Vi, bốn tên là Kiều Ma Rị, năm tên là Ấn Nại Rị, sáu tên là Lao Nại Rị,
bảy tên là Mạt La Hế Mị”.
[4] Có lẽ ở
đây bị in khắc sai. Vì Càn Thát Bà mới là nhạc thần của Thiên Đế, trong khi Ca
Lâu La là Kim Xí Điểu Vương, không liên quan đến thiên nhạc.
[5] Câu này
hơi khó hiểu, chúng tôi tạm diễn giải theo ý hiểu nông cạn như sau: Do Mạn-đồ-la
là pháp thâm sâu, không thể truyền cho bất cứ người nào căn cơ không xứng hợp,
cho nên các vị thủ hộ môn sứ giả này có trách nhiệm bảo vệ đạo tràng, tức là
ngoại trừ vị A-xà-lê chủ pháp, các đệ tử thị giả, và người được truyền pháp, sẽ
không có ai khác vào trong Mạn-đồ-la được, dẫu lén lút dòm ngó cũng không thể
được.
[6] Hai chữ
Y tam-muội ở đây là nói hai nguyên âm E và I trong Kraṃ và Keri.
Comments
Post a Comment