Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏

 

 

15. Phẩm thứ mười lăm: Giới cấm của bậc trì minh

Trì Minh Cấm Giới Phẩm ĐThập N

持明禁戒品第十五

 

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục dĩ kệ tụng, thỉnh vấn Đại Nhật Thế Tôn trì minh cấm giới, vị Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát cố: - Vân hà thành cấm giới? Vân hà trụ Thi La? Vân hà tùy sở trụ, tu hành ly chư trước? Tu hành kỷ thời nguyệt, cấm giới đắc chung cánh? Trụ ư hà pháp giáo, nhi tri bỉ oai đức? Ly thời phương tác nghiệp, cập pháp, phi pháp đẳng, vân hà nhi tốc thành? Nguyện Phật thuyết kỳ lượng, tiên Phật sở tuyên thuyết, linh đắc ư Tất Địa. Ngã vấn Nhất Thiết Trí, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, vị  vị  lai  chúng sanh, Nhân Trung Tôn chứng tri.

          ()爾時,金剛手復以偈頌請問大日世尊持明禁戒,為真言門修菩薩行諸菩薩故。云何成禁戒?云何住尸羅?云何隨所住,修行離諸著?修行幾時月,禁戒得終竟?住於何法教,而知彼威德?離時方作業,及法非法等,云何而速成?願佛說其量。先佛所宣,令得於悉地,我問一切智,正覺兩足尊,為未來眾生,中尊證知。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại dùng kệ tụng thưa hỏi Đại Nhật Thế Tôn về giới cấm của hàng trì minh, vì các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn môn [mà nói kệ rằng]: - Thế nào thành cấm giới? Trụ Thi La ra sao? Thế nào tùy chỗ trụ, tu hành lìa chấp trước? Tu hành chừng mấy tháng, giới cấm được trọn thành? Trụ trong pháp giáo nào, mà biết oai đức đó? Lìa “thời, phương” tạo nghiệp, và pháp, phi pháp thảy, làm sao để chóng thành? Nguyện Phật nói lượng ấy. Cổ Phật đã tuyên nói, khiến đạt được Tất Địa. Con hỏi Nhất Thiết Trí, Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, vì chúng sanh mai sau. Nhân Trung Tôn chứng biết).        

 

          Khi đó, ngài Kim Cang Thủ vì các vị Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh phải nên có pháp “giới cấm trì minh”, do [đức Phật] còn chưa nói nhân duyên ấy. Vì vậy, kế đó, Ngài lại dùng kệ để hỏi đức Phật. Do vậy, Ngài nói bài phúng tụng. Đối với Giới, phương Tây (Ấn Độ) có hai loại:

          - Một, đấy là giới để tu hành, tức là để thân thanh tịnh thì cần phải hành trì, tiếng Phạn là Thi La (Śīla).

          - Hai là Một Lật Đa Thi La (Vrataśīla, cấm giới).

          Giới có hai loại, tức là bổn tánh giới và chế giới. [Bổn] tánh giới tức là [các giới điều] nhằm thanh tịnh các căn. Nay đối với Một Lật Đa, thì cần phải thành tựu; cho nên chế định. Riêng trong phần sau, như “phục phong” (uống gió)[1] v.v… là như các giới luật do có chuyện [trái phạm hay cần thiết] mà đặt ra. Nay giới được nói ở đây chính là “cấm giới”, hoặc còn gọi là “chế giới”, đều là Một Lật Đa. Thi La tức là giới phải giữ lâu dài, còn Một Lật Đa là giới nguyện giữ trong một thời gian nhất định, tức là khi hành giả trì tụng, có thể phát tâm [giữ giới ấy] trong một tháng, cho đến nhiều năm. Khi xong việc ấy, cấm giới đó cũng gác lại. Vì thế, chẳng gọi là “đại giới”. Nay trong lời hỏi này, [ngài Kim Cang Thủ] hỏi đủ cả hai ý nghĩa ấy. Trước tiên hỏi “thế nào là chế giới?” Tức là hai loại “như thế nào để phát khởi” trong phần trước. Kế đó hỏi “tu hành như thế nào?” Tức là đã biết giới ấy rồi, đã tu tại nơi chốn nào đó, vậy thì phải tu hành thế nào để đừng chấp trước, trụ ở một nơi mà tu hành? Lời hỏi ngụ ý: Các pháp tịch diệt, vô tướng, chẳng có tướng người tu và pháp được tu. Nếu có giới được trì tức là có chấp trước, nay làm thế nào để chẳng chấp trước trong tu hành, được thành tựu đại quả? Kế đó, hỏi tu hành có thời tiết[2] hay không? Như các giới thế gian bèn có thời hạn, thậm chí Thanh Văn thọ Cụ Túc Giới thì là suốt một đời. Nay [giới cấm trong] Trì Minh có ngằn hạn hay không? Đó là ý muốn hỏi: Giới này đã do duyên mà đạt được, tức là có khởi đầu và kết thúc, nhưng pháp tịch diệt chẳng có khởi đầu hay kết thúc sai khác, làm thế nào để tương ứng? Giả sử có trí, lấy gì làm hạn lượng?      

          Lại nữa, trì giới như thế nào để tăng trưởng oai đức? Tức là nay y chỉ vào chỗ nào, tu hành như thế nào, dùng pháp gì để khiến cho oai đức ấy tăng trưởng, thành tựu hết thảy các oai đức giống như Như Lai? Lại hỏi thời gian và nơi chốn trì giới này, hỏi khi nào sẽ được phép lìa giới ấy v.v… Trong thời điểm và nơi chốn như thế nào mà tác nghiệp đúng pháp, phi pháp v.v… Vào lúc nào thì sẽ được lìa (xả giới)? Phật giới chính là trí huệ tự nhiên của Như Lai, chẳng phải thời, chẳng phải nơi chốn, lìa khỏi pháp và các tác nghiệp. Nay [ngài Kim Cang Thủ] hỏi khi nào sẽ lìa các sự ấy để nhập “nhất tướng”? “Thời” tức là thời hạn một tháng, một năm, một ngày, một lúc v.v… “Phương” là chỗ cư trụ. Chỗ nào có thể tu? Hãy nên [tu tập] tại chỗ nào? Làm thế nào để mau chóng được thành tựu (tức các chuyện vừa nói trên đây), nguyện Phật nói hạn lượng ấy, tức là định lượng của sự nhanh chóng. Đã hỏi về khởi đầu và kết thúc; kế đó hỏi về lượng. Hỏi giới ly tướng ấy có hạn lượng [tu tập] cỡ nào để có thể đạt được?

          Ngài Kim Cang Thủ thưa: “Trong quá khứ, con ở nơi cổ Phật, đã biết rõ pháp này. Nay vì người tu Chân Ngôn hạnh, khiến cho họ trong đời vị lai sẽ được nhanh chóng thành tựu giới của Như Lai, nên thốt lên lời hỏi này, chẳng phải vì có điều cầu mong nào khác, hoặc do danh lợi v.v… Nay con thốt lời chân thành, tâm ấy sẽ được ai chứng biết? Chỉ mong Như Lai chứng giám, nhưng thâm tâm của con chỉ mình đức Phật tự biết rõ. Đã được đấng Lưỡng Túc Tôn làm chứng, cho nên con thỉnh đấng Nhân Trung Tôn hãy vì con mà nói. Đấy là vì chúng sanh đời vị lai vậy”. Người chứng là Nhân Trung Tôn; đó chính là nói đến đức Phật. Đúng như pháp tướng mà chứng, cho nên nói “như sở chứng”.

 

          (Kinh) Thị thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ai mẫn chúng sanh cố, nhi thuyết kệ ngôn: - Thiện tai Cần Dũng Sĩ, đại đức Trì Kim Cang! Sở thuyết thù thắng giới, cổ Phật sở khai diễn, duyên minh sở khởi giới, trụ giới như Chánh Giác, linh đắc thành Tất Địa. Vị lợi thế gian cố, đẳng khởi tự chân thật, bất sanh nghi lự tâm, thường trụ ư Đẳng Dẫn, tu hành giới đương cánh. Bồ Đề tâm cập pháp, cập tu học nghiệp quả, hòa hợp vi nhất tướng, viễn ly chư tạo tác, cụ giới như Phật trí. Dị thử, phi cụ giới, đắc chư pháp tự tại, thông đạt lợi chúng sanh. Thường tu vô trước hạnh, đẳng lịch, thạch, chúng bảo. Nãi chí mãn lạc-xoa, sở thuyết Chân Ngôn giáo, tất ư  thời  nguyệt  đẳng, cấm

giới lượng chung cánh.  

          ()是時,薄伽梵毘盧遮那哀愍眾生故而說偈言:善哉勤勇士,大德持金剛!所說殊勝戒,古佛所開演。緣明所起戒,住戒如正覺,令得成悉地,為利世間故。等起自真實,不生疑慮心,常住於等引,修行戒當竟。菩提心及法,及修學業果,和合為一相,遠離諸造作,具戒如佛智,此非具戒。得諸法自在,通達利眾生,常修無著行,等礫石眾寶。乃至滿落叉,所真言教,畢於時月等,禁戒量終竟。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na vì thương xót chúng sanh, bèn nói kệ rằng: - Lành thay! Bậc Cần Dũng, đại đức Trì Kim Cang! Nói tới giới thù thắng, do cổ Phật khai diễn. Giới khởi theo minh chú, trụ giới như Chánh Giác, khiến đạt thành Tất Địa. Vì lợi ích thế gian, bình đẳng khởi chân thật, chẳng sanh tâm lo ngờ, thường trụ trong Đẳng Dẫn, sẽ trọn tu hành giới. Bồ Đề tâm và pháp, cùng tu học nghiệp quả, hòa hợp thành một tướng, xa lìa các tạo tác, đủ giới như Phật trí. Nếu khác các điều ấy, chẳng phải giới trọn vẹn. Tự tại trong các pháp, thông đạt lợi chúng sanh. Thường tu hạnh chẳng chấp, sỏi, đá như các báu. Trọn đủ một lạc-xoa, Chân Ngôn giáo đã nói, hoàn tất một thời, tháng. Lượng cấm giới đã xong).

 

          [Phần chánh kinh] trên đây gồm năm bài tụng, đều là [giải đáp các] câu hỏi. Khi đó, đức Đại Nhật Như Lai nghe ngài Kim Cang Thủ thưa hỏi về trì minh giới của chư Phật, cho nên tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại dũng mãnh”. Nay đức Phật thấy Bồ Tát vì hết thảy chúng sanh mà hỏi; do vậy, đức Phật lại vì hết thảy chúng sanh mà tán thán. “Dũng” là có thể trừ hết thảy các chướng của mình lẫn người. Lại còn siêng năng, tinh tấn, tự tâm chẳng ngưng nghỉ, ở trong sanh tử mà chẳng chán mệt, có thể trừ hết thảy các oán đối vô minh. Do có nhiều nghĩa như thế ấy, nên gọi là Đại Dũng Mãnh. Do hành đại nguyện, cầu đại pháp, khởi đại hạnh, thành đại sự; đó gọi là “khiến cho trọn khắp hết thảy chúng sanh đều nhập tri kiến của Phật”, nên gọi là Đại Sĩ. Vị hữu tình ấy nói theo âm tiếng Phạn là Sách Đá (Sattva), có nghĩa là “vướng mắc”. Giống như người thế gian, chấp sâu đậm thân tâm, chẳng thể tạm lìa. Nay Bồ Đề Sách Đá (Boddhisattva, Bồ Tát) cũng thế, chấp hạnh Đại Bồ Đề này, cho đến chẳng có một niệm tâm ngưng nghỉ, buông bỏ. Vì thế gọi là Sách Đá. Lại còn phiên âm là Tát Đỏa, có nghĩa là “hữu tình”. Do ở trong các hữu tình mà có thể tu vô thượng đạo, có thể gánh vác hết thảy các chúng sanh khác, tức là bậc vô thượng trong chúng sanh, nên gọi là Đại Hữu Tình. Đối với các nghĩa mà chúng sanh chấp trước, nay Ngài có thể tự thoát, lại còn có thể khiến cho người khác thoát ra. Vì thế gọi là Đại Hữu Tình. Do có thể nắm giữ bí mật của Như Lai, nên gọi là Kim Cang Thủ. Lại còn gọi là bậc Đại Phước Đức. Đấy là đức Phật tán thán công đức của ngài Kim Cang Thủ, đó là tên gọi khác của ngài [Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ]. [Đức Phật] tán thán Bồ Tát là bậc có phước đức, [phước đức ấy] chính là tích tập công đức của Như Lai vậy.

          Từ đây trở đi, đức Phật cũng dùng kệ để đáp. “Sở thuyết thù thắng giới, cổ Phật sở khai diễn” (Giới thù thắng như đã nói, đã được cổ Phật khai diễn), [hàm ý]: Giới thù thắng được chế định do cổ Phật đã tuyên nói. Đức Phật lại dẫn chư Phật để làm chứng. Giới này do quá khứ Phật đã nói, nay ta cũng nói như thế. Pháp rốt ráo của cổ Phật đều có cùng một đạo. Vì thế, dẫn điều này để làm chứng, hòng nêu tỏ: “Chẳng có hai đạo”. Nói “duyên minh sở khởi giới, trụ giới như Chánh Giác” (giới do nương theo minh chú mà phát khởi, trụ trong giới ấy giống như bậc Chánh Giác), hàm ý: Nhằm khai phát trí huệ mà chế giới, bậc Chánh Giác trụ trong giới đã được chế định ấy. Do trì giới này, sẽ phát khởi hạnh Chân Ngôn, đạt được Tất Địa. Tức là do trụ trong Trì Minh Giới này, nên [hành nhân sẽ] giống như bậc Chánh Giác. Chánh Giác là danh xưng khác của đức Phật. Do hành đạo mà Như Lai đã hành, nên giống như Phật. Do sự tu hành ấy, người trong đời hiện tại đạt được cái quả Tất Địa. Đấy chính là trả lời [câu hỏi] “trụ giới như thế nào?” Đức Phật có ý nói: Đúng như giới do Phật đã trụ, hành nhân cũng nên trụ như thế, tức là tam bình đẳng (thân, khẩu, ý bình đẳng), phước trí tăng trưởng, được thành tựu Tất Địa. “Vị lợi thế gian cố, đẳng khởi tự chân thật, bất sanh nghi lự tâm, thường trụ ư Đẳng Dẫn” (Vì lợi lạc thế gian, bình đẳng dấy lên sự tự chân thật, chẳng sanh tâm lo ngờ, thường trụ trong Đẳng Dẫn): “Tự chân thật” tức là tự trì chân ngôn, thủ ấn, và quán tưởng Bổn Tôn. Do chuyên niệm nên có thể thấy Bổn Tôn. Bổn Tôn chính là lý chân thật. Không chỉ thấy Bổn Tôn mà thôi, lại còn như thật quán thân của chính mình giống như Bổn Tôn. Vì thế gọi là “chân thật”. Ở đây có phương tiện tam bình đẳng, thân tức là ấn, ngữ tức là chân ngôn, tâm tức là Bổn Tôn. Quán ba sự ấy đến mức chân thật rốt ráo thì đều bằng với ta; ba sự bình đẳng ấy chẳng khác ba bình đẳng của hết thảy các đức Như Lai. Vì thế là chân thật. Khi hành giả tu hành, quyết định tin tưởng, được vào trong đại hội của Phật hải. Nếu có ngờ lo, hạnh Chân Ngôn sẽ trọn chẳng thành tựu. Vì thế, lại khuyên răn lần nữa “chớ sanh nghi”. Do chẳng ngờ vực, bèn đạt được Đẳng Dẫn. Đẳng Dẫn, tiếng Phạn là Tam-ma-hế-đa (Samāhita), tức là dùng pháp tam bình đẳng để dẫn khởi, thâu nhiếp hết thảy các công đức, thâu tóm vào tự thân. Vì thế nói là Đẳng Dẫn. Nêu ra ba món bình đẳng ấy, tức là thâu nhiếp trọn khắp hết thảy các công đức. Xét rõ ba sự ấy rốt ráo đều bình đẳng nhiếp nhập tự thân, bèn gọi là Đẳng Dẫn. Lại nữa, Định và Huệ kết hợp thành một, thì gọi là Đẳng Dẫn. Có thể trụ trong chân thật như thế cho tới Đẳng Dẫn, chính là trụ trong Phật giới. Bồ Đề tâm pháp, tu học nghiệp quả, nếu hòa hợp thành một tướng, tác nghiệp ly giới, sẽ chẳng khác gì trí do Phật đã đạt được!

          “Giới hết thảy pháp được tự tại”: Bồ Đề tâm chính là chánh nhân của Như Lai (tức là tâm vương). “Pháp” là tâm pháp, tức là sức tự tại của Ba La Mật nơi hết thảy các địa vị. Nói tóm lại, hết thảy các pháp công đức đều là nó. Các pháp ấy đều là quyến thuộc của Phật, mà cũng là quyến thuộc của Bồ Đề tâm, như hoa đài có cánh hoa và nhụy. Diệu quả ấy giống như Phật. Cái được gọi là “nghiệp” một mực là thiện nghiệp; tôi cho rằng đó là diệu nghiệp của Như Lai. Do sự tu hành ấy bằng với Phật, từ sơ phát tâm cho tới khi giới và nghiệp đều bằng với Phật. Phật lìa hết thảy các tướng, nhưng trụ trong tịnh giới. Đó gọi là “lìa các tướng, hết thảy có cùng một vị”. Nếu có thể lìa hết thảy các tướng như thế mà trụ trong giới, giới ấy chính là Phật giới, nghiệp đã tạo tác ấy chính là Phật nghiệp. Cái quả đạt được chính là Phật quả, do nhất tướng, vô tướng, lìa tác nghiệp. Nếu hành giả phân biệt “đây là giới, đây là người trì, đây là pháp được trì”, do những điều ấy chẳng chân thật, do có sở đắc, sẽ chẳng phải là trì Phật giới!         

          Hơn nữa, giới ấy chính là vô sư huệ (trí huệ không do thầy dạy) của Như Lai. Do trụ trong Như Lai trí, liền được tự tại trong hết thảy các pháp. Do tự tại trong pháp, chiếu soi tánh chân thật của hết thảy chúng sanh, cũng có thể tạo lợi ích đúng như thật, khiến cho hết thảy các chúng sanh đều giống như ta. Do trụ trong giới này, nhiếp hết thảy các pháp, nên gọi là “tự tại”. “Tự tại” có nghĩa là “nhiếp thủ”, tức là tự đạt được pháp, lại có thể lợi ích người khác. Vì vậy, kế đó, kinh nói hữu tánh nghĩa trung thông đạt” (thông đạt nơi nghĩa “hữu tánh”) là nói tới ý này. “Nghĩa” là thiện lợi, tức là cái được gọi là “nghĩa lợi”. Tu hành thường chẳng chấp trước, thì ngói sỏi và các báu đều bình đẳng, đó gọi là “được tự tại trong hết thảy các pháp”, cũng là lợi ích chúng sanh, lìa khỏi đủ loại kiến chấp đối với sự sai biệt giữa pháp, phi pháp v.v… như thế, tâm chẳng trụ vào đâu! Do vô trụ, vật thô ác và của báu trân diệu đều bình đẳng, tâm chẳng tăng giảm. Lúc bấy giờ, hành giả quán ngũ nghịch Xiển Đề và Như Lai công đức bình đẳng, chẳng khác biệt, chẳng sanh tăng giảm, huống hồ những điều khác ư? Nếu quán tới mức, sẽ đối với hết thảy các phiền não ác nghiệp và công đức của Như Lai chẳng sanh tâm lấy, bỏ, huống hồ [so đo giữa] ngói, sỏi và vàng báu ư?

          Kế đó, đáp về phân lượng của trì giới. Đã có lúc khởi đầu, sẽ có lúc kết thúc. Vì thế, đức Phật đáp rằng “cho đến thấy một lạc-xoa”. Thông thường, số lượng tụng niệm chân ngôn phải là hạn định thời gian, hay [bao nhiêu] tháng nhất định phải trì tụng xong. Nếu nói sơ sài, đại lược, trì chân ngôn hoặc trì giới thì phải trì giới trong bao lâu, số lượng lần trì tụng hạn định là bao nhiêu, tức là từ một lần, mười lần, cho đến lạc-xoa lần v.v… Hoặc một đêm, một tháng, cho đến nhiều năm. Vì thế, ở đây, đức Phật dạy “hãy nên [trì tụng] cho đủ một lạc-xoa mới xong”. Nếu nói đại lược, sơ sài thì một lạc-xoa (laksa) là một trăm ngàn lần. Ở đây, chẳng phải vậy (chẳng hiểu theo ý nghĩa đó), [phải hiểu] “lạc-xoa”“thấy”, nghĩa là: Nếu lúc đã thật sự thấy [tướng thành tựu], hạnh Chân Ngôn ấy mới hoàn tất. Nếu không, chẳng ngưng nghỉ giữa chừng. Chẳng phải như người trì tụng trong thế gian có ngằn hạn. Có ngằn hạn tức là cầu sự hiệu nghiệm nông cạn, thấp kém! Nhưng trong sự trì tụng này, hãy nên giống như trước, thực hiện ba tầng phương tiện, tức là chân ngôn, thân ấn, và quán Bổn Tôn. Khi thấy Bổn Tôn, cái tâm tương ứng mà trụ, chẳng thứ gì có thể động loạn được! Lại quán chân ngôn đã trì tụng, từ trong tâm Bổn Tôn, tưới rót vào miệng [hành giả], giống như tràng hoa, chẳng gián đoạn. Liền dùng công đức của Phật như thế để chứa đầy ắp thân mình, cũng chẳng từ thân lưu xuất. Khi sắp thành tựu viên mãn, sẽ dần dần có tướng [thành tựu] hiện, hoặc như tướng thành tựu được nói trong bổn bộ, hoặc thân chính mình có đủ loại bệnh khổ mà được chữa khỏi, hoặc có các loại tiểu trùng chẳng ở trong thân, [thân thể] vui sướng, trắng sạch, thanh tịnh, không có cấu uế. Hoặc là trước kia độn căn, huệ kém, mà nay đạt được Tổng Trì chẳng quên. Đối với bất cứ chữ nào, cũng đều có thể diễn nhiều nghĩa, cho đến kết thành kệ phúng tụng, tâm không ngăn ngại. Đấy là “tiền tướng” (tướng trước khi đạt thành tựu). Vì thế, đức Phật nói “nếu lúc thấy” thì mới hoàn tất. “Lạc-xoa” nghĩa là “thấy”, cũng có nghĩa là “thành tựu”.

          Hành giả tâm trụ trong tam-muội, được thấy Bổn Tôn, lặng  lẽ  trụ

trong Chánh Định. Giả sử núi chúa Diệu Cao nứt lở, chấn động, vẫn chẳng thể gián đoạn, lay động cái tâm ấy. Hoặc là đủ loại tướng lạ, như các loại ma sự đáng sợ nơi Bồ Đề đạo tràng, [hành giả] vẫn có thể an tâm, không sợ hãi. Thậm chí thể nữ đẹp đẽ mỹ lệ trong cung ma cũng chẳng thể khuynh động ý chí, khiến cho [hành giả] nẩy sanh tạp niệm. Vì lẽ nào vậy? Do trụ trong chân thật giới [mà được chân thật giới] duy trì. Hãy nên biết khi đó, sẽ cách “thấy đạo” chẳng xa. Hoặc là có lúc, đối với mùi vị của hết thảy các thức ăn, thậm chí thứ đắng rít, đều như cam lộ. Do duyên ấy, thân thể vui sướng, chẳng bị lay động bởi vị ngũ dục thô tệ. Đó là tướng dứt tham. Tướng dứt sân là sáu căn của hành nhân dần dần thanh tịnh, giống như khi đi trong đồng hoang rộng lớn, nóng bức, ánh mặt trời nung đốt cát, đá, bỗng gặp con suối trong để tự xối rửa. Lúc bấy giờ, các thứ phẫn hại chẳng thể quấy nhiễu được! Lại nữa, “vàng đá bình đẳng” tức là tam bình đẳng! “Số lượng tháng hoặc thời” đều là kỳ hạn trì tụng. Lạc-xoa lại có nghĩa là “cái đích”, như bắn trúng hồng tâm. Như ý nghĩa “tập bắn” trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, hoặc kinh Văn Thù[3]. Nếu trụ trong đế lý, tùy ý tương ứng; đó là ý nghĩa của “lạc-xoa” vậy.

 

          (Kinh) Tối sơ kim luân quán, trụ Đại Nhân Đà La, đương kết Kim Cang ấn, ẩm nhũ dĩ tư thân, hành giả nhất nguyệt mãn, năng điều xuất nhập tức.

          ()最初金輪觀,住大因陀羅,當結金剛印,飲乳以資身。行者一月滿,能調出入息。

          (Kinh: Đầu tiên, quán kim luân. Trụ Đại Nhân Đà La, nên kết ấn Kim Cang, uống sữa để nuôi thân. Hành giả tròn một tháng, điều hòa hơi thở mình).

 

          Lại nữa, như trong phần trên đã nói, cái Thấy “chân thật một vị” khó tin, khó hiểu, Như Lai lại dùng phương tiện khác với cách trì tụng của thế gian để giúp [hành giả] thấy chân thật. Vì thế, Ngài nói ra cách trì tụng trong sáu tháng, nhưng [cách này cũng] đều là bí mật rốt ráo, chẳng khác các phần trước. Trong tháng thứ nhất, hãy nên quán kim cang, tức là Mạn-đồ-la hình vuông (Mạn-đồ-la ấy còn gọi là Đại Nhân Đà La), sắc vàng. Quán thân của chính mình ngồi trong ấy, liền tưởng thân mình là chữ A (). Chữ A ấy vuông vức, màu vàng, sao cho nội thân sung mãn, chẳng thiếu khuyết, toàn thể đều là chữ A ấy. Hãy nên kết ấn chày kim cang năm nhánh, chẳng cần cầm xâu chuỗi. Ấn ấy kết hư tâm hiệp chưởng, cùng gập hai ngón áp út, dùng ngón phải đè lên ngón trái, móc vào nhau trong lòng bàn tay. Hai ngón cái cùng duỗi ra, hai ngón trỏ cùng cong, hướng vào lưng ngón giữa. Đó chính là ấn Kim Cang Thủ. Hãy nên trong một tháng, chỉ ăn sữa, không ăn vật nào khác. Chỉ quán chân ngôn được trì từ rốn thoát ra, từ mũi hít vào, như điều hòa hơi thở chẳng khác. Lúc bấy giờ, chỉ quán chân ngôn này để hít thở, [quán tưởng] màu của hơi thở cũng là vàng. Nếu quán chân ngôn, cứ lấy mỗi câu là một hơi thở. Nếu quán chữ chủng tử, chỉ quán chẳng gián đoạn theo hơi thở. Tuy nói là “một tháng”, nhưng mười, một trăm cho tới một lạc-xoa tháng v.v… phải lấy “thấy” [tướng thành tựu] làm hạn. Lại nữa, “một” chính là ý nghĩa “một tướng, một vị”. Thấy điều đó thì gọi là “trọn một tháng”.

 

          (Kinh) Thứ, ư đệ nhị nguyệt, nghiêm chánh thủy luân trung, ưng dĩ Liên Hoa ấn, nhi phục thuần tịnh thủy.

          ()於第二月,嚴正水輪中,應以蓮華印,而服醇淨水。

          (Kinh: Kế đó, tháng thứ hai, trong thủy luân nghiêm chánh, hãy dùng ấn Liên Hoa, lại uống thuần nước sạch).

 

          Lại nữa, tháng thứ hai, trụ trong thủy luân. Luân ấy  tròn  trặn, sắc

trắng. Tự tưởng thân ở trong ấy. Giống như trên, dùng tay phương tiện kết ấn Liên Hoa, [tức là] hai ngón út và ngón cái chụm lại làm đài, ba ngón khác xòe ra, khiến cho ngón giữa và ngón trỏ hơi hợp lại, đặt ngang nhau, tức là ấn Quán Âm trong phần trước. Quán thân thể như chữ Phạ (Va) màu trắng, cũng dùng chân ngôn màu trắng để làm hơi thở ra vào.

          Hỏi: Quán Bổn Tôn bằng chữ Va ư? Quán chủng tử của chân ngôn được trì tụng là sắc trắng ư?

          [Đáp]: Trong tháng ấy, kết ấn Liên Hoa. Trong hai tháng, chỉ uống nước mà thôi, những thứ khác đều không ăn. Nói “uống nước” chính là chỉ dùng nước [được gia trì bởi] chân ngôn. Khi hít vào, tưởng chữ có màu trắng như sữa để làm thức ăn. Nếu lúc hành giả tương ứng, sẽ được pháp vị gia trì, chẳng còn mong ăn các thứ khác, chỉ dùng vị pháp hỷ để thân thể được sung mãn mà thôi! “Nghiêm bị” tức là ngồi trong ấy. Lúc bấy giờ, chỉ quán chữ này, chẳng quán hình tượng Bổn Tôn.

 

          (Kinh) Thứ, ư đệ tam nguyệt, thắng diệu hỏa luân quán, đạm bất cầu chi thực, tức dĩ đại huệ lực, thiêu diệt nhất thiết tội, nhi sanh thân ý ngữ.

          ()於第三月,勝妙火輪觀,噉不求之食,即以大慧力,燒滅一切罪,而生身意語。

          (Kinh: Kế đó, tháng thứ ba, quán hỏa luân thắng diệu, ăn thực phẩm chẳng cầu, liền dùng sức đại huệ, đốt diệt hết thảy tội, để sanh thân ý ngữ).

 

          Tháng thứ ba ở trong hỏa luân, tức Mạn-đồ-la hình tam giác, màu đỏ, trụ trong hỏa luân thắng thượng. Quán ở trong đó, dùng chữ Ra (​) này làm thân. Kết Huệ Đao ấn, tức là Tam Bổ Trá hiệp chưởng, gập hai ngón trỏ bấm vào hai ngón cái, quán hơi thở ra vào có màu đỏ. “Ba tháng” có ý nghĩa như trên, tức là trong ba tháng, ba mươi ngày, hoặc ba ngàn ngày v.v… lấy “thấy” [tướng thành tựu] làm kỳ hạn. Trong ba tháng ấy, chẳng cầu hết thảy các thức ăn, tức là “chẳng được khất thực” v.v… Nếu có người đến thí, thì được phép tùy ý ăn. Không có người thí thì không ăn, chỉ dùng chữ Ra làm thức ăn. Do phương tiện này, đốt cháy hết thảy tội chướng chẳng còn sót. Do nghĩa này, hết thảy tối tăm hết sạch, tức là Phật huệ sáng soi. “Bị” tức là sắp đặt đầy đủ, dùng ấn này.

          (Kinh) Đệ tứ nguyệt phong luân, hành giả thường phục phong, kết Chuyển Pháp Luân ấn, nhiếp tâm dĩ trì tụng, kim cang thủy luân quán, y trụ ư Du Già.

          ()第四月風輪,行者常服風,結轉法輪印,攝心以持誦。金剛水輪觀,依住於瑜伽。

          (Kinh: Tháng thứ tư, phong luân, hành giả thường uống gió, kết ấn Chuyển Pháp Luân, nhiếp tâm để trì tụng, quán kim cang thủy luân, y trụ trong Du Già).

 

          Tháng thứ tư trụ trong phong luân, có hình nửa vầng trăng (giống như trong phần trước), trong ấy là màu đen. Dùng chữ Ha (​) làm thân, hơi thở ra vào giống như trong phần trên đã nói. Trong một tháng ấy, chỉ uống gió để sống, chẳng ăn hết thảy các thức ăn. Khi uống gió, cũng dùng chữ Ha theo hơi thở ra vào làm thức ăn, chẳng như ngoại đạo hít khí mà sống. Hãy nên kết ấn Chuyển Pháp Luân, tức là hai tay đâu lưng vào nhau, đan chéo các ngón vào nhau, làm giống như ấn trong phần trước. Cách này khó thực hiện.

 

          (Kinh) Thị vi đệ ngũ nguyệt, viễn ly đắc, phi đắc, hành giả vô sở trước, đẳng đồng Tam Bồ Đề.

          ()是為第五月,遠離得非得。行者無所著,等同三菩提。

          (Kinh: Đó là tháng thứ năm, xa lìa đắc, phi đắc, hành giả chẳng chấp trước, giống như Tam Bồ Đề).

 

          Tháng thứ năm, từ kim luân tới thủy luân, giống như chư Phật trụ trong Kim Cang Thủy Luân, tức là làm Mạn-đồ-la hình vuông, màu vàng, trong đó có Mạn-đồ-la tròn màu trắng, thân ngồi trong đó. Phía dưới rốn là vàng, từ phần giữa lên trên là trắng. Chẳng kết ấn, dùng hai chữ A và Phạ, những điều khác giống như trên. Trong tháng thứ năm ấy, không được ăn, tận lực chẳng ăn, tức là đoạn trừ hết thảy các thức ăn, chỉ dùng hai chân ngôn điều hòa hơi thở ra vào làm thức ăn. Từ tháng thứ năm trở đi, tu hạnh chẳng chấp trước, lìa Ngã, giống như nhất tướng tịch diệt, tức là giống như chư Phật.

 

          (Kinh) Hòa hợp Phong, Hỏa luân, xuất quá chúng quá hoạn. Phục nhất nguyệt trì tụng, diệc xả lợi, phi lợi. Phạm, Thích đẳng, thiên chúng, Ma Hầu, Tỳ Xá Giá, viễn trụ nhi kính lễ, nhất thiết vi thủ hộ, giai tất phụng giáo mạng. Bỉ thường đắc như thị, nhân, thiên, Dược Xoa thần, Trì Minh, chư linh tiên, dực thị kỳ tả hữu, tùy sở mạng đương tác. Bất thiện vi chướng giả, La Sát, Thất Mẫu đẳng, kiến trì chân ngôn giả, cung kính nhi viễn chi. Kiến thị xứ quang minh, trì tán như mãnh hỏa, tùy sở trụ pháp giáo, giai y minh cấm cố. Đẳng Chánh Giác chân tử, nhất thiết đắc tự tại, điều phục nan hàng giả, như Đại Chấp Kim Cang, nhiêu ích chư quần sanh, đồng ư Quán Thế Âm. Kinh du lục nguyệt dĩ, tùy sở nguyện thành quả. Thường đương ư tự tha, bi mẫn nhi cứu hộ.

          ()和合風火輪,出過眾過患。復一月持誦,亦捨利非利,梵釋等天眾,摩睺毘舍遮,遠住而敬禮,一切為守護,皆悉奉教命。彼常得如是,人天藥叉神,持明諸靈仙,翊侍其左右,隨所命當作。不善為障者,羅剎七母等,見持真言者,恭敬而遠之。見是處光明,馳散如猛火。隨所住法教,皆依明禁故,等正覺真子,一切得自在。調伏難降者,如大執金剛,饒益諸群生,同於觀世音。經逾六月已,隨所願成果,常當於自他,悲愍而救護。

          (Kinh: Hòa hợp Phong, Hỏa luân, vượt khỏi các lỗi họa. Lại trì tụng một tháng, cũng xả lợi, chẳng lợi. Phạm, Thích, các vị trời, Ma Hầu, Tỳ Xá Giá, đều kính lễ từ xa. Hết thảy đều thủ hộ, đều tuân phụng giáo mạng. Người ấy sẽ thường được, người, trời, thần Dược Xoa, Trì Minh, các linh tiên, chầu hầu quanh hai bên, vâng làm theo mạng lệnh. Kẻ bất thiện gây chướng, La Sát, Thất Mẫu thảy, thấy người trì chân ngôn, cung kính mà lánh xa. Thấy nơi ấy quang minh, tỏa ra như lửa hừng. Theo pháp giáo đã trụ, đều tuân minh cấm giới. Chân tử Đẳng Chánh Giác, hết thảy được tự tại, điều phục kẻ khó hàng, như Đại Chấp Kim Cang, lợi ích các quần sanh, giống như Quán Thế Âm, trải qua sáu tháng rồi, thành quả như ý nguyện. Sẽ thường vì mình, người, xót thương mà cứu hộ).

 

          Theo thứ tự, tới tháng thứ sáu, ở trong Phong Hỏa Luân, trừ hết thảy các chướng, cũng là trong Phong luân có Hỏa luân. Chuẩn theo sự tướng trong phần trên để biết, phía dưới là Phong, ngang rốn; trên đó là Hỏa. Dùng chữ Ha và Ra làm thức ăn. Dù được thí thức ăn, cũng không được ăn, cũng như hết thảy các thức ăn đều chẳng ăn, xả hẳn lợi    dưỡng.

          Kế đó, đức Phật nói về công đức của trì minh cấm giới. Hành giả do hạnh phương tiện này, hết thảy Đế Thích, Phạm vương, rồng, quỷ tám bộ, đều từ xa hướng về [hành giả] kính lễ, cùng nhau thủ hộ, đều tới trước mặt, tuân phụng giáo mạng. Cho đến thần Dược Xoa v.v… cũng đến hỏi [hành giả] cần gì để dâng cấp. Các trì minh tiên ở bên cạnh, hết thảy ác quỷ, La Sát, Thất Mẫu v.v… là kẻ hại người cũng từ xa kính lễ, thấy thân người ấy như lửa lúc đại kiếp, oai quang mạnh mẽ, hừng hực. [Do hành giả] thuận theo hết thảy các thiện nguyện, tự tại thành tựu, các kẻ gây chướng đều chẳng có cơ hội [làm hại], [oai đức] giống như Đại Cát Tường Kim Cang, Quán Âm, Văn Thù v.v… chẳng khác!



[1] Tức là như trong phần sau nói: Trong tháng thứ tư, không ăn gì, chỉ uống gió (tức là hít gió, không ăn vật gì khác), trụ trong phong luân, quán chữ Ha v.v…

 

[2] “Thời tiết” ở đây có nghĩa là thời hạn, thời điểm.

 

[3] Tức kinh Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật (do ngài Tăng Già Bà La xứ Phù Nam dịch sang tiếng Hán), có một đoạn như sau: “Thế Tôn! Như sơ học xạ, tiên tác thử ý, ngã đương xạ bằng. Xạ bằng thành dĩ, hậu tác thị niệm: ‘Ngã đương xạ bì’. Xạ bì thành dĩ, phục tác thị niệm: “Ngã đương xạ mộc’. Xạ mộc thành dĩ, phục tác thị niệm: ‘Ngã đương xạ thiết’. Xạ thiết thành dĩ, vô phục tiền niệm, tùy kỳ tiễn trúng, giai năng triệt quá. Ngã diệc như thị, tích sơ phát ý, cầu nhập bất khả tư nghị định. Ngã ư kim nhật, vô phục thử ý, đương nhập bất khả tư nghị định, hà dĩ cố? Thử định bất khả tư nghị cố” (Bạch Thế Tôn! Như lúc mới học bắn, trước hết, nghĩ như thế này: “Ta sẽ bắn vào bia”. Bắn bia thành công rồi, sau đó, nghĩ thế này: “Ta sẽ bắn vào da”. Bắn vào da thành công rồi, lại nghĩ thế này: “Ta sẽ bắn vào gỗ”. Bắn vào gỗ thành công rồi, lại nghĩ thế này: “Ta sẽ bắn vào sắt”. Bắn vào sắt thành công rồi, chẳng còn có ý niệm như trước, hễ bắn tên vào đâu cũng đều có thể xuyên qua. Con cũng như thế, xưa kia lúc mới phát ý, cầu nhập định chẳng thể nghĩ bàn. Nay con chẳng còn có ý niệm sẽ nhập định chẳng thể nghĩ bàn ấy nữa, vì sao vậy? Do môn định ấy chẳng thể nghĩ bàn).

 


Comments

Popular posts from this blog