Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
29. Phẩm thứ hai mươi chín: Nói
về vô tướng tam-muội
Thuyết Vô Tướng Tam-muội Phẩm Đệ Nhị Thập Cửu
說無相三昧品第二十九
(Kinh) Phục thứ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: - Bí Mật Chủ! Bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát nhạo dục thành tựu
vô tướng tam-muội, đương như thị tư duy: Tưởng tùng hà sanh? Vi tự thân da? Tự
tâm ý da? Nhược tùng thân sanh, thân như thảo, mộc, ngõa, thạch! Tự tánh như thị,
ly ư tạo tác, vô sở thức tri, nhân nghiệp sở sanh, ưng đương đẳng quán, đồng ư
ngoại sự. Hựu như tạo lập hình tượng, phi hỏa, phi thủy, phi nhẫn, phi độc, phi
kim cang đẳng chi sở thương hoại, hoặc phẫn khuể, thô ngữ, nhi năng thiểu phần
linh kỳ động tác. Nhược dĩ ẩm thực, y phục, đồ hương, hoa man, hoặc dĩ đồ
hương, chiên đàn, long não, như thị đẳng loại chủng chủng thù thắng thọ dụng
chi cụ, chư thiên thế nhân phụng sự, cung cấp, diệc bất sanh hỷ. Hà dĩ cố? Ngu
đồng phàm phu ư tự tánh Không hình tượng, tự ngã phân sanh, điên đảo bất thật,
khởi chư phân biệt, hoặc phục cúng dường, hoặc gia hủy hoại. Bí Mật Chủ! Đương
như thị trụ tu thân niệm, quán sát tánh Không.
(經)復次,薄伽梵毘盧遮那告執金剛祕密主言:祕密主!彼真言門修菩薩行諸菩薩樂欲成就無相三昧,當如是思惟。想從何生?為自身耶?自心意耶?若從身生,身如草木瓦石。自性如是,離於造作、無所識知、因業所生,應當等觀同於外事。又如造立形像,非火非水、非刃非毒、非金剛等之所傷壞,或忿恚麁語而能少分令其動作。若以飲食衣服塗香華鬘、或以塗香旃檀龍腦如是等類種種殊勝受用之具,諸天世人奉事供給,亦不生喜。何以故?愚童凡夫於自性空形像自我分生,顛倒不實起諸分別,或復供養或加毀害。祕密主!當如是住修身念,觀察性空。
(Kinh:
Lại nữa, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng:
- Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát trong Chân Ngôn môn ưa muốn thành tựu vô
tướng tam-muội, hãy nên tư duy như thế này: Tưởng sanh từ đâu? Từ tự thân ư?
Hay từ tâm ý? Nếu từ thân sanh thì thân như cỏ, cây, ngói, đá. Tự tánh như thế,
lìa tạo tác, không hay biết, do nghiệp sanh ra, hãy nên bình đẳng quán giống
như chuyện bên ngoài. Lại như tạo lập hình tượng, chẳng phải do lửa, chẳng phải
do nước, chẳng phải do đao bén, chẳng phải do chất độc, chẳng phải do kim cang
v.v… gây nên tổn hoại, hoặc sự nóng giận, lời thô tháp có thể khiến cho [hành
nhân] bị lay động chút nào. Nếu được chư thiên hay người đời dùng thức ăn, quần
áo, hương bôi, tràng hoa, hoặc dùng hương bôi, chiên đàn, long não v.v… các loại
vật thọ dụng thù thắng như thế để phụng sự, cung cấp, cũng chẳng sanh vui mừng.
Vì sao vậy? Phàm phu ngu muội như trẻ nít, đối với các hình tượng có tự tánh là
Không, nẩy sanh phân chia tự ngã, điên đảo, chẳng thật, dấy lên các phân biệt,
hoặc lại cúng dường, hoặc là hủy hoại. Bí Mật Chủ! Hãy nên trụ như thế, trụ
trong tu thân niệm, quán sát tánh Không).
Tự tánh của cái thân sanh bởi nghiệp
cũng giống như thế, trơ trơ như gỗ, đá. “Nghiệp
sanh” có nghĩa là từ đó (từ nghiệp) mà khởi lên. Quán là hữu tưởng. Hữu
tưởng thì là “bên ngoài”. “Bên ngoài” bao gồm thân, ngữ v.v…
Quán như thế đó! Trơ trơ như cỏ cây, tánh lìa khỏi tạo tác thì gọi là “nghiệp nhân sanh”. Từ nhân nghiệp
(cái nghiệp làm nhân) mà sanh ra [quả báo] thì là “nội”. “Ngoại sanh”
là như được tạo lập bởi gỗ, đá v.v... Đó chính là “ngoại”. Trong phẩm kế tiếp, đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ Bí Mật
Chủ: - Hễ mong muốn thành tựu phi tưởng tam-muội, các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn hãy tư duy như thế này: Tưởng sanh từ nơi đâu? [Nếu sanh] từ
tâm ý của chính mình, tức là người tu Du Già đã có thể quán Bổn Tôn v.v…. Cho đến
hiện tại, tuy đã đạt được đủ loại cảnh kỳ diệu, nhưng vẫn thuộc loại tam-muội
thế gian, chưa đạt được bình đẳng huệ, nay lại phải nên khai thị “nhập tam bình đẳng quán”. Nếu hiểu
rõ Quán, thấu hiểu Thật Tướng nơi thân, miệng, ý của chính mình, liền nhập sơ
pháp minh môn thuộc tịnh Bồ Đề tâm. Trên đây là địa vị Bồ Tát. Điều này có nhiều
cách giải thích, nhưng đại ý là như thế.
Trước hết, nói về quán Thật Tướng nơi
thân, tức là quán cái thân sanh bởi nghiệp, có tánh giống như cỏ cây, ngói, gốm
v.v… Quán rời lìa như thế, trơ trơ như ngoại tác (sự tạo tác do sự vật bên
ngoài). Hoặc do nghiệp sanh, như thấy hay tạo tác hình tượng, [đại ý của] kinh
văn là như thế. Trong phần trước đã nói: Hãy nên trụ trong phi tưởng v.v… Nay
trong phẩm này, nếu hành giả tu Chân Ngôn muốn được thành tựu phi tưởng tam-muội,
hãy nên quán niệm như thế đó. Kinh dạy “tự
thân, tự tâm ý”, tức là từ trong tâm có suy nghĩ nẩy sanh. “Tâm” là thanh tịnh tâm, “ý” là phân biệt. Nhưng thân này giống
như gỗ, đá, tánh nó trơ trơ, ngu độn, có nghĩa là nếu Tứ Đại lìa khỏi tâm, sẽ
giống như gỗ, đá. Như phần Quán Thân Tâm Xứ trong kinh Đại Bát Nhã đã nói: Như
người sáng mắt, tự thấy các loại thóc, lúa mạch v.v… trong kho vựa. Thân này
cũng như thế, khi quán thân niệm xứ rành rẽ, tự thấy ba mươi sáu vật [bất tịnh
trong thân], mỗi vật có tướng khác nhau. Lúc bấy giờ, thân tướng liền trừ, như
mở kho, thấy thóc, lúa mạch, thì cái tên “kho vựa” bị mất đi! Cho tới mỗi mỗi
thứ đều là duyên sanh, theo thứ tự mà nói sâu hơn. Kế đó, lại nói “thân giống như tượng”. Như tạo tượng
thì dùng đất, gỗ, các vật hòa hợp thành bức tượng, hoặc tượng Phật, hoặc tượng
trời, hoặc những vị khác như hình tướng cha mẹ v.v… Do chẳng khéo quán, liền
sanh ý tưởng tôn trọng, yêu mến. Nhưng quán kỹ mỗi thứ, [sẽ thấy rõ] chúng chỉ
là các duyên hợp hội, đều chẳng có tự tánh. Nay thân ta cũng thế, các duyên giả
hợp, do tự mình chẳng hiểu rõ, nên sanh ra Thân Kiến. Nếu lúc quán kỹ, sẽ đều
là vô tự tánh, chỉ từ duyên mà có, như các huyễn cảnh từ duyên mà sanh, thật sự
chẳng thể được!
Hơn nữa thân này, do tâm mà có hình dạng,
dường như sáu căn có hay biết, nhưng thật sự chẳng phải vậy. Như tâm người hễ
quán sát thì có cái để trụ vào. Dẫu nhật nguyệt soi sáng, nhưng vẫn có khi chẳng
trông thấy, [cũng như] có lúc chẳng nghe âm vang của sấm, sét. Lại như trong
quá khứ, một vị tỳ-kheo nhất tâm Thiền Quán, thậm chí trên đường có đại quân
kéo qua mà chẳng thấy. Hãy nên biết: Nếu lìa tâm, thân này, tuy đầy đủ các căn
như mắt, tai v.v… mà vẫn giống như gỗ, đá, chẳng hay biết gì!
Lại như thí dụ về cái tượng, nếu các
tượng gỗ, đá v.v… hoặc bị lửa đốt, nước ngâm hư hoại, đao chặt sứt sẹo, bị kim
cang phá nát, hoặc dùng lời phẫn nộ, thô ác mắng nhiếc, chẳng thể khiến cho tượng
ấy dấy động đôi chút tâm tưởng, sanh lòng chẳng vui! Hoặc cúng dường đủ thứ,
khoác phủ áo đẹp nhất, dâng món ăn ngon nhất, bôi hương quý nhất, khiến cho tượng
rực rỡ, thậm chí các vật cúng của trời, người bày đầy ắp trước mặt, tượng cũng
chẳng sanh lòng mừng. Hãy nên biết bản tánh của tượng tự Không, do tâm ta phân
biệt mà sanh tăng giảm, hoặc hủy hoại, hoặc cúng bái, đều là điên đảo, chẳng thật!
Giống như quán tượng bên ngoài, dùng cách quán ấy để quán tự thân; lúc đó, sẽ
chẳng thấy thân tướng, lìa phân biệt. Quán sát thân này như thế, thấy Thật Tướng
của thân, liền chứng vô tướng tam-muội. Khi quán sát mà thấy, tức là cái duyên
cho xúc tướng và hữu tướng, dần dần thâm nhập tự nhiên, từ ngay nơi tướng mà vô
tướng, từ ngay duyên mà vô duyên. Nếu chẳng đạt được phương tiện này, chỉ trực
tiếp quán Không, chẳng biết do nhân duyên gì mà thành Không, sẽ chấp trước pháp
Không ấy, sanh ra nhiều dị kiến. Vì vậy, đối với thứ tự tu hành, cần phải có chỉ
dẫn thích đáng. Vì sao vậy? Do phàm phu ngu muội như trẻ nít, đối với hình tượng
tánh Không của chính mình mà nẩy sanh phân biệt tự ngã, tức là từ tự thân mà
sanh ra sự phân biệt đối với Ngã. Vì thế, điên đảo, chẳng thật, nẩy sanh các
phân biệt, hoặc cúng dường, hoặc bài bác cúng dường v.v… hoặc hủy báng, chửi bới,
đoạn trừ, [các thứ chấp trước điên đảo ấy] đều nên trừ xả.
Quán thân rồi, kế đó phải nên có ngữ
quán (quán sát ngữ nghiệp). Ngữ quán do được gom chung vào thân quán, nên chẳng
nói riêng. Nay nói rạch ròi đại lược, tức là gộp chung lại để luận. Nay ngôn ngữ
do đâu mà có? Chính là từ răng, họng, môi, lưỡi, bụng v.v… làm các duyên, tâm động
gió, ma sát lẫn nhau mà có âm thanh ấy. Ví như tiếng vọng từ hang trống, đều chẳng
có tự tánh. Phàm phu do chẳng hiểu, nên nghe tiếng hay đẹp, liền sanh lòng vui
sướng, nghe tiếng trái ý liền sanh giận dữ. Nay thấy Thật Tướng của âm thanh
như thế, biết âm thanh ấy chẳng sanh, chẳng diệt, giống như Thật Tướng, là âm
thanh có tánh chất bình đẳng. Kế đó liền quán tâm, do pháp chẳng có hình tướng,
thấy, nghe, hay, biết, trước là quán sát từ cái thô thiển, hiểu thân này bình đẳng,
ngữ
bình đẳng, sẽ tự biết
thâm nhập!
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tâm vô tự tánh, ly nhất thiết tưởng cố,
đương tư duy tánh Không. Bí Mật Chủ! Tâm ư tam thời, cầu bất khả đắc, dĩ quá
tam thế cố, như thị tự tánh viễn ly chư tướng. Bí Mật Chủ! Hữu tâm tưởng giả, tức
thị ngu đồng phàm phu chi sở phân biệt, do bất liễu tri, hữu như thị đẳng hư vọng
hoành kế. Như bỉ bất thật, bất sanh, đương như thị tư niệm. Bí Mật Chủ! Thử
Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát chứng đắc vô tướng tam-muội. Do trụ vô
tướng tam-muội cố, Như Lai sở thuyết chân ngữ thân đối kỳ nhân, thường hiện tại
tiền.
(經)復次,祕密主!心無自性,離一切想故,當思惟性空。祕密主!心於三時求不可得,以過三世故,如是自性遠離諸相。祕密主!有心想者即是愚童凡夫之所分別,由不了知,有如是等虛妄橫計。如彼不實不生,當如是思念。祕密主!此真言門修菩薩行諸菩薩證得無相三昧,由住無相三昧故,如來所說真語親對其人常現在前。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Tâm chẳng có tự tánh, do lìa hết thảy tưởng. Hãy nên tư
duy tánh Không. Bí Mật Chủ! Tâm trong ba thời, cầu chẳng thể được, do vượt
ngoài ba đời. Tự tánh như thế xa lìa các tướng. Bí Mật Chủ! Tâm hữu tưởng chính
là do phàm phu ngu muội như trẻ nít phân biệt, do chẳng biết rõ mà có các so đo
ngược ngạo hư vọng như thế. Các so đo ấy chẳng thật, chẳng sanh, hãy nên nghĩ
nhớ như thế. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát ấy tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn,
chứng đắc vô tướng tam-muội. Do trụ trong vô tướng tam-muội, chân ngữ do Như
Lai đã nói luôn thường đích thân hiện ra trước mặt người ấy).
Lại nữa, Bí Mật Chủ! Tâm tánh lìa hết
thảy các tướng, tư duy tánh Không thì hãy nên tư duy điều này. Bí Mật Chủ! Tâm
trong ba thời, cầu chẳng thể được, lìa ngoài ba đời. Tánh ấy như thế, hãy nên
tư niệm mà lìa tướng. Lại này, Bí Mật Chủ! Cũng tự nên quán sát. Hành giả khi
đó đã quán ngoại tướng, kế đó, hiểu rõ nội tâm cũng là Không. Cái tâm ấy lìa hết
thảy các tướng, trong ba đời đều chẳng thể cầu được. Như hư không lìa ba đời,
tâm cũng như thế, vượt khỏi ba đời, vượt khỏi pháp trụ diệt, nhưng phàm ngu chẳng
hiểu thật tánh của cái tâm. Lại này, Bí Mật Chủ! Có tâm tưởng chính là sự phân
biệt của phàm phu ngu muội như trẻ nít, tức là tâm chấp tướng mà chẳng thể biết
rõ, dấy lên hư vọng chẳng thật, bèn có cách nói như thế đó! Họ chẳng biết như
thật, tức là do có vọng chấp ấy, chẳng thể biết như thật. Suy nghĩ như thế,
chính là phàm phu dấy lên sự tư duy ấy. Nói “như thế” tức là phàm phu có sự phân biệt ấy. Trên đây thuộc về
tâm cú.
Lại này, Bí Mật Chủ! Do các vị Bồ Tát
tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn nói tướng để dẫn khởi vô tướng, hãy nên thấu
hiểu hữu tướng để khởi vô tướng, tức là các Bồ Tát tư duy như thế, đạt được Vô
Tướng tam-muội. Do trụ trong Vô Tướng tam-muội, này Bí Mật Chủ! Người đó sẽ được
chứng. Do trừ vọng, thật thể nơi Thật Tướng của Chân Ngôn hiện tiền, đi, đứng,
ngồi, nằm, đều thường hiện tiền. Đối với chân ngôn do Như Lai đã nói, người ấy
thường đích thân đối trước đó mà tự trụ, do biết cái Thể của chân ngôn như
trong mười thí dụ ở phần trên, tức là tướng Tất Địa. Vọng là tâm ta: “Ta ngu, ta trí, ta thuận, ta chống”,
tự sanh đủ thứ tưởng chấp trước. Do sự hư vọng trên đây, tất cả thân khẩu cũng
đều là hư vọng. Vì thế, chẳng biết là chuyện như thế nào? Chính là chẳng thấy
chân thật! Do chẳng thấy chân
thật, do giống như trẻ nít chẳng hiểu biết gì! Nếu lúc thấy Thật Tướng của cái
tâm, tự nhiên lìa hết thảy các hý luận phân biệt như thế. Do chẳng biết Thật Tướng
của tâm, nên sanh vọng chấp, gọi là “phàm
ngu”. Nếu biết rõ, liền gọi là chư Phật.
Tiếp đó, kinh nói: “Bí Mật Chủ! Chân ngôn hạnh Bồ Tát chứng đắc
vô tướng định, như vô tướng định trụ, đắc Như Lai sở thuyết chân ngôn thân đối,
nhi bỉ thường trụ” (Bí Mật Chủ! Bồ Tát thuộc Chân Ngôn hạnh chứng đắc vô
tướng định, nếu trụ trong vô tướng định, sẽ được đích thân đối trước chân ngôn
do Như Lai đã nói để thường trụ trong đó). Ý nói: Chân ngôn hạnh Bồ Tát khi lìa
tướng tu hành như thế, gọi là “trụ vô
tướng định”. Do trụ trong vô tướng tam-muội ấy, hết thảy các chân ngôn
do Như Lai đã nói đều hiện tiền mà chứng, nên gọi là “thân đối” (đích thân đối trước). Khi chứng lý như thế, liền gọi
là “thường trụ”. “Trụ” tức là trụ giống như Phật. Phẩm
này đáng nên gộp chung với phần mười tâm để nói, nhưng theo thứ tự ý nghĩa, nói
trước phần đó thì chẳng tiện; do vậy, đem nói trong phần kết hội này. Tôi cho rằng
các phần kinh văn trên đây, đại ý chẳng vượt ngoài hạnh này, tức là “miệng niệm chân ngôn, thân kết pháp ấn, ý
quán Phật”. Nhưng ba sự này đều là pháp sanh bởi các duyên. Duyên hòa hợp
thì có, đều là vô tự tánh, chẳng sanh, chẳng diệt, tức là môn chữ A, là tánh
pháp giới. Phàm phu chẳng biết, làm sao nhập được? Vì thế, đức Phật trước hết
nói ba môn chân ngôn này, [khiến cho chúng sanh] dần dần đạt được tam-muội, cho
đến [khi họ] đích thân trông thấy Bổn Tôn, thấy đủ loại cảnh thần biến, do vì
cái tâm chấp trước ấy, chẳng đạt được tam bình đẳng trụ. Nay nói pháp môn nhập
tam bình đẳng, nếu hành giả từ trong tâm Du Già mà lại có thể quán sát như thế,
lìa phân biệt hý luận nơi thân, miệng, ý, liền được hiện tiền chứng Thật Tướng
của chân ngôn, trụ giống như Phật. Tự thể thường trụ, giống như Như Lai!
Comments
Post a Comment