Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
11. Phẩm
thứ mười một: Bí Mật Mạn-đồ-la
Bí Mật Mạn-đồ-la Phẩm Đệ Thập Nhất
祕密漫荼羅品第十一
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na dĩ Như Lai nhãn quán sát nhất
thiết pháp giới, nhập ư pháp giới câu-xá, dĩ Như Lai Phấn Tấn Bình Đẳng Trang
Nghiêm Tạng tam-muội, dĩ hiện pháp giới vô tận nghiêm cố, dĩ thị Chân Ngôn hạnh
môn độ vô dư chúng sanh giới, mãn túc bổn nguyện cố.
(經)爾時,薄伽梵毘盧遮那以如來眼觀察一切法界,入於法界俱舍,以如來奮迅平等莊嚴藏三昧,以現法界無盡嚴故,以是真言行門度無餘眾生界,滿足本願故。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá
Na dùng Như Lai nhãn quán sát hết thảy pháp giới, nhập trong pháp giới câu-xá,
dùng Như Lai Phấn Tấn Bình Đẳng Trang Nghiêm Tạng tam-muội để hiện ra sự trang
nghiêm vô tận của pháp giới, dùng hạnh môn Chân Ngôn này để độ chúng sanh giới
chẳng thừa sót, hòng thỏa mãn bổn nguyện).
Lúc bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá
Na Thế Tôn lại nhập trong Nhất Thiết Pháp Giới Như Lai Nhãn Giới Quán, Pháp Giới
Tạng Phấn Tấn Như Lai Bình Đẳng Nghiêm Tạng tam-ma-địa chứng (hiện chứng). Do
pháp giới trang nghiêm hiển hiện vô tận, dùng hạnh môn Chân Ngôn ấy để độ chúng
sanh giới chẳng thừa sót hòng thỏa mãn bổn nguyện. Trên đây, nói phẩm Tự Luân
đã xong; kế đó, nói về phẩm Bí Mật Mạn-đồ-la. Do là bí mật, phàm những điều nói
ra đều do thần lực của Như Lai gia trì, chẳng thể biểu thị, nên gọi là phẩm Thần
Lực Gia Trì Tự Luân (hết thảy các phẩm khác đều giải thích như thế). Đã nói phẩm
Tự Luân xong; kế đó, muốn thành tựu tự luân như vậy, lại nhập tam-muội. Điều được
kinh nói ở đây là nêu ra tên của tam-muội. “Hết thảy pháp giới” chính là pháp giới vô tướng. Đã là pháp giới
vô tướng, bèn dùng Phật nhãn bình đẳng để quán pháp giới như thế.
Lại giải thích theo kiểu bí
mật thì tự luân như trên chính là pháp giới của chư Phật, dùng Phật nhãn để
quán pháp giới ấy. Hãy nên biết “Phật
nhãn quán” chính là sức gia trì của Như Lai; nếu lìa gia trì, sẽ chẳng
thể nói! “Pháp giới tạng”: Chữ
Tạng này trong tiếng Phạn được gọi là Câu Xá (Kośa), vốn có nghĩa là “cái vỏ”,
giống như đao trong thế gian nằm trong vỏ đao. Tạng này cũng thế; do vậy, dùng
nghĩa này để phiên dịch. Vì thế, kinh nói “pháp giới tạng” tức là chỗ Như Lai xuất hiện, hàm nghĩa “hết thảy Như Lai ngự ở trong đó”. “Phấn tấn” (奮迅) có nghĩa là
“lưu xuất”, có nghĩa “tuôn chảy tràn trề”. Như sư tử chúa ở
trong hang sâu, an trụ bất động, có khi ra khỏi hang duỗi mình, cử động, tức là
thân vốn bất động, nay bèn lìa chỗ thường ở mà động vậy. Phật cũng như thế, an
trụ trong mật tạng rất sâu như thế, nếu chẳng có thần lực của Như Lai gia trì,
sẽ là vi diệu tịch tuyệt, chẳng thể thị hiện. Nay bèn thị hiện vô tận các thứ
hình tướng và âm thanh từ thân, miệng, ý, trọn khắp pháp giới, tức là “chư Phật phấn tấn”. Thị hiện tạng
bình đẳng trang nghiêm của Như Lai; đó là “tạng” trong “thai tạng”
vậy. Do nhập pháp môn này, thân, miệng, ý của mười phương ba đời hết thảy Như
Lai thảy đều bình đẳng, Phật, Phật đạo đồng; do vậy, gọi là Đẳng. “Nghiêm” là trang nghiêm cái thân
này, tức là dùng vô lượng môn trong Phật đạo để trang nghiêm Pháp Thân, hòng độ
chúng sanh. Chính là dùng pháp giới bình đẳng để trang nghiêm Pháp Thân; do vậy
gọi là Nghiêm. Giống như ở chỗ các đội quân trong thế gian có đại tràng tướng,
[đại tràng tướng ấy] được gọi là Nghiêm. Tam-muội này cũng thế. Do tam-muội này
có thể biểu thị chuyện bí mật của Như Lai; do vậy, gọi tên như thế. Trong cái tạng
ấy, tiếng Phạn gọi là Yết Ha (Garbha), tức là lưu xuất vô tận trang nghiêm, phấn
tấn thị hiện chẳng thể cùng tận, cạn kiệt, giống như kho báu to lớn. Tạng pháp
giới bình đẳng ấy chính là ý nghĩa của Như Lai Tạng vậy. Do pháp giới trang
nghiêm chẳng thể cùng tận, giống như tự luân xoay tròn chẳng thể cùng tận, mà gọi
là “vô tận tạng”.
Vì sao Như Lai ngự trong
tam-muội ấy? Cũng chẳng phải là không có nhân duyên! Chính vì khai thị chuyện
bí yếu rất sâu của Như Lai. Vì thế, kế đó kinh nói: “Dĩ thị chân ngôn môn, độ vô dư chúng sanh giới, mãn túc bổn nguyện cố”
(Dùng môn Chân Ngôn này để độ chúng sanh giới chẳng sót nhằm thỏa mãn bổn nguyện).
Khi đức Phật vốn hành Bồ Tát đạo, lập đại thệ nguyện, đều khiến cho hết thảy
chúng sanh cùng nhập tạng pháp giới của Như Lai. Nay sở nguyện được thỏa, do
lòng đại bi, phấn tấn thị hiện để độ chúng sanh. Như pháp giới nghiêm tạng chẳng
thể cùng tận, chúng sanh giới cũng thế, chẳng thể cùng tận. Nay muốn dùng trọn
khắp hạnh môn Chân Ngôn để bình đẳng lợi ích, khiến cho đều được khai tri kiến
rốt ráo chẳng thừa sót, tức là sở nguyện được thỏa mãn; cho nên nói là “mãn bổn nguyện”. Lại nữa, do tác
pháp chưa được thành tựu, hành giả tu Chân Ngôn chẳng thể mau chóng thành đạo
vô thượng. Nay lại quyết trạch, khiến cho đều hiển hiện, nhập môn Định này.
(Kinh) Thời, Phật tại tam-muội trung, ư như thị vô tận chúng sanh giới,
tùng chúng thanh môn, xuất tùy loại âm thanh, như kỳ bổn tánh, nghiệp sanh
thành thục, thọ dụng quả báo, hiển hình chư sắc, chủng chủng ngữ ngôn, tâm sở
tư niệm, nhi vị thuyết pháp, linh nhất thiết chúng sanh giai đắc hoan hỷ. Phục
ư nhất nhất mao khổng, pháp giới tăng thân xuất hiện, xuất dĩ đẳng đồng hư
không, ư vô lượng thế giới trung, dĩ nhất âm thanh pháp giới ngữ biểu diễn thuyết
Như Lai phát sanh kệ.
(經)時,佛在三昧中,於如是無盡眾生界,從眾聲門出隨類音聲,如其本性、業生成熟、受用果報,顯形諸色、種種語言、心所思念而為說法,令一切眾生皆得歡喜。復於一一毛孔,法界增身出現,出已等同虛空,於無量世界中以一音聲法界語表演說如來發生偈:
(Kinh: Khi đó, đức Phật ở trong tam-muội, nơi
chúng sanh giới vô tận như thế, từ các môn âm thanh, phát ra âm thanh tùy theo
từng loài, đúng như bổn tánh của họ, do nghiệp sanh khởi [các quả báo] đã chín
muồi, bèn thọ dụng quả báo, hiển lộ hình tượng, các màu sắc, đủ loại ngôn ngữ,
những điều suy nghĩ trong tâm mà vì họ thuyết pháp, khiến cho hết thảy chúng
sanh đều được hoan hỷ. Lại từ trong mỗi lỗ chân lông, xuất hiện thêm thân pháp
giới. Đã xuất hiện nhiều như hư không rồi, bèn ở trong vô lượng thế giới, dùng
một âm thanh pháp giới ngữ để biểu lộ, diễn nói bài kệ phát sanh của Như Lai).
Kế đó là ở trong Định, tức
là đức Phật trụ trong môn tam-muội này, hiện việc hy hữu, hòng lợi lạc trọn khắp
quần sanh. Ở trong Định ấy, Ngài hiện các chuyện hy hữu nào? Chính là từ trong
chúng sanh giới chẳng thừa sót, các môn âm thanh v.v…, bèn đúng như ý nghiệp của
họ mà sanh khởi thành tựu, thọ các quả báo, sắc tướng, hình tượng, âm thanh,
thuận theo tâm tưởng [của từng loại chúng sanh] mà nói đủ loại pháp, khiến cho
hết thảy chúng sanh hoan hỷ. “Nhất nhất
mao khổng pháp giới tăng thân xuất (Từ trong mỗi lỗ chân lông, xuất hiện
thêm thân pháp giới): Tiếng ấy [nói theo ý nghĩa] trong tiếng Phạn cũng là Hống
(rống), Ví như rồng lớn xuất hiện, tiếng sấm vang rền, hết thảy đều nghe thấy,
không đâu chẳng trọn khắp. Như Lai Hống cũng giống như thế, trọn khắp hữu tình
giới chẳng thừa sót. Vô lượng âm thanh trong giới ấy cũng đều nghe trọn khắp,
chẳng phải là có hạn lượng như rồng trong thế gian. Thượng, trung, hạ phẩm
trong chúng sanh giới tùy thuộc nghiệp nào mà có quả báo ấy. Vì thế nói là “nghiệp sanh thành tựu”. Ví như người
đời nhận được thức ăn mà chẳng ăn; do duyên cớ ấy, chưa thể gọi là Thọ (tiếp nhận).
Nếu nhận lãnh bèn ăn ngay, bèn gọi là “tiếp nhận [thức ăn] được cung cấp”. Nay
nhận lãnh quả báo dị thục cũng giống như thế, mỗi mỗi đều xứng với cái nhân trước
đó mà thọ quả báo ấy. Hình tướng, hiển sắc v.v… sai biệt, muôn vàn âm thanh
khác biệt, tuyên nói bất đồng, ý nhạo (tâm ưa thích), tín giải [của chúng sanh]
mỗi mỗi đều sai khác. Đức Phật dùng một diệu âm bình đẳng, ứng với tâm họ, đúng
với ý chí của họ, tùy theo ngôn ngữ của họ mà dạy họ giác ngộ, phát khởi họ suy
nghĩ, nhận biết phương tiện, khơi mở, dẫn dụ [khiến cho] họ đều được hoan hỷ, tức
là tướng lành chưa từng có trong tam-muội. Ở trong ấy, “nói đủ loại” [âm thanh] là như các ý nghĩa trong Thanh Luận: Giả
sử ba âm hòa hợp để cùng biểu thị một nghĩa; nếu ý nghĩa chưa trọn vẹn, bèn
thêm một chữ cho trọn vẹn. Nếu bốn âm cùng biểu thị một nghĩa, nhưng nay dùng
ba âm mà ý nghĩa đã trọn đủ, thì bớt đi một chữ. Tùy nghi mà tăng giảm như thế;
nay ở đây cũng thế: Do một môn chữ A có trọn đủ hết thảy các nghĩa, không chuyện
gì chẳng trọn vẹn! Do vậy bèn nói là “thuyết”,
không giống chữ Thuyết trong “thuyết
pháp”. [Nếu xét theo] tiếng Phạn, [chữ Thuyết ở đây] khác [với chữ “thuyết”
trong “thuyết pháp”], nên cần phải khảo sát thêm.
“Pháp giới tăng thân xuất”: Pháp giới bình đẳng rốt ráo tịch diệt,
chẳng có tướng xuất nhập. Do thần lực của Như Lai gia trì, mà hiện ra vô tận sắc
thân, tức là từ trong mỗi lỗ chân lông của Phật, thuận theo đó hiện ra tiếng rống
như trong phần trước. Lại hiện ra đủ loại hình tướng, cho nên nói là “pháp giới tăng thân”. Thật ra, từ
duyên mà khởi, nhưng bản tánh là vô sanh! Thật Tướng như thế liền có cùng một
Thể với pháp giới, há có tăng thêm hay sanh diệt ư? Tuy là pháp duyên khởi,
nhưng Thể của nó là “tướng thường như”
(tuy có các hình tướng khác biệt, nhưng cái Thể là Như Như). Do sức gia trì của
Như Lai, từ mỗi lỗ chân lông đều hiện ra tiếng rống, hoặc dùng âm thanh nhu
nhuyễn, hoặc dùng lời thô tháp, hoặc sâu xa, hoặc nông cạn, tương ứng với tâm
cơ của họ, như thủy triều nơi biển cả chẳng quá lệ thường! Thân này cũng thế,
hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc mang hình tướng phẫn nộ, hoặc hành Lục Độ, hoặc dùng
oai thế để chế phục, sai biệt muôn vàn, nhưng hữu tình được độ chẳng hề sai lầm!
Trong phần trước đã dạy tự
luân, nay từ trong pháp giới luân mà hiện hình tướng và âm thanh. Đã phát ra
trong hư không, giống như một âm thanh pháp giới trong thế giới nói bài kệ Như
Lai Sanh cũng như hư không chẳng có ngằn mé. Âm thanh này cũng thế, giống như
hư không. “Biểu” là biểu thị, tức
là nghiệp được biểu thị bằng lời nói của Như Lai, tức là biểu hiện cho hết thảy
chúng sanh, khiến cho họ đều tương xứng, ngộ pháp giới bình đẳng. Dùng diệu âm ấy
để biểu thị pháp giới, cho nên nói “pháp
giới là tâm”. “Nhất âm”
tức là môn chữ A luân chuyển vô cùng, giống như hư không trọn khắp pháp giới.
Tam thế chư Phật đều sanh từ diệu kệ như thế; vì thế gọi là “Như Lai sanh”. Nay đức Phật từ môn “nhất âm” ấy mà nói diệu kệ, khiến
cho trọn khắp chẳng sót các thế giới đều bình đẳng nghe biết, tùy theo từng
loài mà được hiểu. Do vậy gọi tên như thế. Nói ra tự luân như trên đây là vì muốn
biểu thị công đức của Như Lai. Vì thế, từ trong mỗi lỗ chân lông, đức Phật phát
ra âm thanh mầu nhiệm, trọn khắp pháp giới này, nói nghĩa rất sâu của tự luân
này, tức là nói bài kệ “sanh ra chư Phật”.
Nếu có chúng sanh biết rõ ý nghĩa của tự luân như thế, liền thành Bồ Đề. Vì thế
nói “hết thảy chư Phật sanh từ đó”.
Như Pháp Thân của chư Phật
lìa sanh diệt; nếu Như Lai có sanh,
tức là chấp tướng. Hễ chấp trước tướng thì còn chẳng thể lìa sanh tử, huống
hồ có thể thành đại Bồ Đề ư? Nay nói “sanh”
tức là cái sanh chân thật, lìa tướng. Bởi lẽ, Pháp Thân thanh tịnh, lìa hết thảy
các tướng, nhưng do Phật dùng sức gia trì, dùng tự luân này để khai thị đức nội
chứng bí mật của Như Lai. Do được thần lực tự tại của Phật gia trì, do phương
tiện hữu tướng ấy, có thể sanh ra cái tướng “vô tướng”. Ví như khi họ chưa giác, bèn dùng tự luân này làm
phương tiện, [khiến cho họ] dần dần có thể liễu đạt, quán sát môn chữ A. Do nhập
môn chữ A, sẽ có thể thấu hiểu Pháp Thân rốt ráo tự tại.
(Kinh) Năng sanh tùy loại hình, chư pháp chi pháp tướng, chư Phật dữ
Thanh Văn, cứu thế nhân duyên giác, cần dũng Bồ Tát chúng, cập nhân tôn diệc
nhiên. Chúng sanh, khí thế giới, thứ đệ nhi thành lập, sanh trụ đẳng chư pháp,
thường hằng như thị sanh. Do cụ trí phương tiện, ly ư vô huệ nghi, nhi quán thử
đạo cố, chư Chánh Biến Tri thuyết.
(經)能生隨類形,諸法之法相,諸佛與聲聞,救世因緣覺,勤勇菩薩眾,及仁尊亦然。眾生器世界,次第而成立,生住等諸法,常恒如是生。由具智方便,離於無慧疑,而觀此道故,諸正遍知說。
(Kinh: Sanh hình tướng tùy loại, pháp tướng của
các pháp, chư Phật và Thanh Văn, bậc Duyên Giác cứu đời, Bồ Tát siêng, dũng
mãnh, và Nhân Tôn cũng thế. Chúng sanh, khí thế giới, thành lập theo thứ tự.
Các pháp như sanh, trụ… Thường hằng sanh như thế. Do đủ trí phương tiện, lìa khỏi
vô huệ, nghi, do quán sát đạo này, các Chánh Biến Tri nói).
Kệ nói: “Năng sanh tùy loại hình,
chư pháp chi pháp tướng” (Có thể sanh ra các hình tướng tùy theo từng loại.
Đó là pháp tướng của các pháp), tức là do nhập môn chữ A thì chính là Pháp Thân
bình đẳng. Do Pháp Thân ấy vô tướng, có thể tùy duyên cảm ứng, hiện trọn khắp
các sắc thân, tùy theo hình tướng của mọi loài, dùng thân mà họ thích thấy để
khai thị trí huệ của Như Lai cho họ. Kệ nói: “Chư Phật dữ Thanh Văn, cứu thế nhân duyên giác” (Chư Phật và
Thanh Văn, bậc giác ngộ nhân duyên cứu đời [tức là các vị Duyên Giác]), Bồ Tát
cứu đời cũng dũng mãnh tinh tấn giống như Phật, do cái thân vô tướng vô thượng
này, hết thảy chư Phật đều sanh từ đó. Không chỉ chư Phật sanh từ đó, mà hết thảy
các thứ hạnh vị của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho đến địa vị Nhất Sanh Bổ
Xứ, đều sanh từ lý chữ A này. Không chỉ hết thảy các quả thánh hiền, mà cho đến
hết thảy hữu tình thế gian và khí thế gian, đủ loại tăng trưởng sai khác theo
thứ tự, cũng đều do nghĩa chữ A này mà sanh. Vì thế, “sanh” ở đây đại lược có ba loại:
- Thượng phẩm sanh là sanh
ra cái quả thể Pháp Thân chân tịnh thường trụ của Như Lai.
- Kế đó là sanh ra chư Phật,
Bồ Tát, Nhị Thừa (tức trung phẩm sanh), tùy thuộc địa vị nào mà trừ chướng ấy.
- Hạ phẩm sanh chính là hữu
tình và khí thế gian, cũng đều do pháp môn này mà được thành lập.
“Sanh trụ đẳng chư pháp, thường hằng như thị sanh” (Các pháp như
sanh, trụ v.v… đều thường hằng mà sanh ra như thế): Các điều được nói ở đây
khác với Đoạn Kiến và Thường Kiến của ngoại đạo. Các pháp tuy sanh từ nhân,
nhưng “sanh nhân” (cái nhân của
sự sanh khởi ấy) vô tướng. Tuy sanh từ duyên, nhưng duyên ấy vô tướng. Tuy từ
duyên khởi [mà sanh], nhưng pháp vốn chẳng sanh. Tuy do duyên khởi mà diệt,
nhưng chẳng có tướng sanh hay trụ. Vì thế là thường, chẳng giống cái thấy của
ngoại đạo, nên nói “sanh diệt là thường”.
Kệ nói: “Do cụ trí phương tiện, ly ư vô huệ nghi”
(Do trọn đủ trí phương tiện, lìa vô huệ, ngờ vực), đã liễu đạt luân chữ A, [thấu hiểu] bản thể của các pháp là rốt
ráo không, vô sở hữu, tịch diệt, vô tướng, vốn sẵn vô sanh; đó là huệ. Thân ấn,
Du Già v.v… trong Chân Ngôn có thể thực hiện lợi ích to lớn, nhập Phật huệ. Đó
là phương tiện. Nếu nương theo phương tiện mà không có huệ, hoặc chỉ có huệ mà
chẳng có phương tiện, sẽ trọn chẳng thể thành tác dụng tự nhiên chẳng thể nghĩ
bàn! Phải do phương tiện và trí huệ trọn đủ, phương tiện sẽ được nhập trong bí
tạng của tự luân. “Ly vô huệ nghi”:
Nếu lìa hai pháp như thế (tức là lìa phương tiện và trí huệ), hãy nên biết đó
là kẻ không có huệ. Do chẳng có huệ, nơi nào cũng sanh nghi, chẳng thể tiến nhập.
Lại nữa, nếu hành giả cùng trọn đủ trí huệ và phương tiện, sẽ tự nhiên lìa vô
huệ, chẳng sanh tà nghi.
Kệ nói: “Nhi quán thử đạo cố, chư Chánh Biến Tri
thuyết” (Thấy đạo ấy do các đấng Chánh Biến Tri nói): Quán đạo này do chư Phật đã nói,
chẳng phải chỉ mình ta nói như thế. Do hết thảy các đấng Đẳng Chánh Giác đều
nói như thế, chẳng có phân biệt. Do mười phương ba đời chư Phật cùng đắc đạo
này chẳng sai biệt, một tướng, một vị, chẳng nói khác biệt!
(Kinh) Nhĩ thời, pháp giới sanh Như Lai thân, nhất thiết pháp giới tự
thân biểu hóa vân biến mãn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, tài sanh tâm khoảnh, chư mao
khổng trung xuất vô lượng Phật, triển chuyển gia trì dĩ, hoàn nhập pháp giới
cung trung. Ư thị, Đại Nhật Thế Tôn phục cáo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí
Mật Chủ! Hữu tạo Mạn-đồ-la thánh tôn phần vị, chủng tử, tiêu xí, nhữ đương đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”. Trì Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn:
“Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.
(經)爾時,法界生如來身,一切法界自身表化雲遍滿毘盧遮那世尊,纔生心頃,諸毛孔中出無量佛,展轉加持已還入法界宮中。於是大日世尊復告持金剛祕密主言:祕密主!有造漫荼羅聖尊分位種子幖幟。汝當諦聽,善思念之,吾今演說。持金剛祕密主言:如是。世尊!願樂欲 聞。
(Kinh: Lúc bấy giờ, thân của đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn là thân
Như Lai do pháp giới sanh, là tự thân Như Lai biểu lộ, hiện hóa trong trọn khắp
hết thảy các pháp giới như mây, trong khoảng vừa mới sanh tâm, từ trong các lỗ
chân lông, hiện ra vô lượng Phật, xoay vần gia trì xong, lại trở vào trong cung
pháp giới. Khi đó, Đại Nhật Thế Tôn lại bảo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật
Chủ! Có [pháp dạy về cách] tạo phần vị, các vật biểu trưng, và chủng tử của chư
tôn thánh trong Mạn-đồ-la. Ông hãy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta nay diễn
nói”. Trì Kim Cang Bí Mật Chủ thưa: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nguyện ưa
thích muốn nghe”).
“Pháp giới sanh thân” ở đây chính là Tỳ Lô Giá Na Pháp Thân. Do
sanh từ pháp giới chân thật, nên gọi là “pháp
giới sanh”. “Nhất thiết pháp giới
tự thân biểu”: “Biểu”
nghĩa là có thể khiến cho hết thảy đều thấy biết. Nói “ư nhất thiết pháp giới trung, tự thân biểu hóa vân giai biến mãn”,
tức là thân Như Lai biểu hiện trọn khắp các sắc thân, giống như mây to trọn khắp
pháp giới. “Vân” (Mây) có nghĩa là “trọn khắp”. Ý nói: Mây hóa thân ấy trọn khắp, đầy ắp thế
giới, trọn khắp mười phương thế giới, chẳng thể hạn lượng! “Tâm tự tại” ở đây được dịch theo ý
nghĩa, nếu dịch sát thì là “tâm tài”
(心纔, tâm vừa mới), tức khi tâm vừa dấy lên ý niệm, chẳng dùng công sức mà có
thể trọn khắp, đầy ắp rộng lớn như thế, tức là tâm có thể đạt được tự tại. “Chư mao khổng trung, Phật sanh triển chuyển
gia trì” (Trong các lỗ chân lông [nơi thân đức Tỳ Lô Giá Na], sanh ra
chư Phật, xoay vần gia trì): Ví như Như Lai vừa mới nhập tam-muội; ngay lập tức
liền hiện chuyện hy hữu trọn khắp như thế. Đấy là thần lực gia trì của Như Lai.
“Triển chuyển” [ở đây] nghĩa là
“nhập vào lẫn nhau”. Từ lỗ chân
lông của đức Phật, lưu xuất bản thân của Như Lai, [các thân ấy] xoay vần nhập
vào lẫn nhau. Mỗi thân đều hiện thần lực như trên, đã biến hóa rồi lại biến
hóa, chẳng có cùng tận. Các nghĩa như thế càng phải nên nói tường tận. “Triển chuyển gia trì” tức là dùng thần
lực tự tại của Phật để gia trì. Đấy chính sự gia trì từ tự luân thuộc pháp giới
tánh như đã nói trong phần trên. Từ mỗi lỗ chân lông nơi thân đức Phật, hiện ra
đủ loại “thân vân” (thân nhiều
như mây), chia thành thượng, trung, hạ phần, tức: Đầu là nội thai (trung thai
bát diệp của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la). Từ tim trở lên là viện thứ nhất,
từ rốn trở lên là viện thứ hai, từ rốn trở xuống là viện thứ ba. Phối hợp [các
phần ấy với] bốn vị trí trong cái đàn hình tròn ở phần trước, tùy theo các phần
thượng, trung, hạ, trái, phải, sau, trước mà hiển hiện thân Bổn Tôn, đều dựa
theo bổn vị (vị trí đáng nên an lập trong Mạn-đồ-la) mà xuất hiện, thực hiện Phật
sự trong thế giới. Từ mỗi mỗi thân mà lần lượt xuất hiện, thực hiện các Phật sự.
Do vậy nói là “triển chuyển”.
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang
cũng hiểu ý Phật. Nay đức Phật Thế Tôn hiện chuyện hy hữu chưa từng có, chẳng
phải là không có nhân duyên, chắc chắn Ngài sẽ nói pháp sâu xa, bí mật, tức là
trong phần trên nếu có điều gì nói chưa trọn vẹn, còn thiếu sót, ắt Ngài sẽ nói
[vào lúc này], [do vậy, ngài Kim Cang Thủ] bèn chí thành chiêm ngưỡng, mong mỏi
mà trụ. Do vậy, đức Phật lại bảo: “Bí
Mật Chủ! Hữu tạo Mạn-đồ-la
thánh tôn phần vị, chủng tử, tiêu xí, nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi,
ngô kim diễn thuyết” (Bí Mật Chủ! Có cách tạo các phần vị, chủng tử, vật
biểu trưng của các tôn thánh trong Mạn-đồ-la, ông hãy nên lắng nghe, khéo suy
nghĩ, ta nay sẽ diễn nói), tức
là khi đó đức Phật đã vì các vị như Chấp Kim Cang v.v… hiện ra các thứ phần vị
như trên đây. Khi ấy, chư tôn đã thực hiện đủ loại Phật sự, lại từ bổn vị nhập
vào thân của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cũng đúng với các vị trí khi đã xuất hiện,
chẳng khác gì. Do đó, kinh nói: “Phục
nhập pháp giới cung” (Lại vào trong pháp giới cung). Phần
vị và chủng tử của chư tôn, các vị tôn thánh trên đây đều là đức nội chứng của
Như Lai, đều từ mỗi mỗi [điều ấy] mà biểu lộ đường lối rất sâu nơi pháp giới do
Như Lai hiển thị. Nay nếu có A-xà-lê muốn làm đàn, trước hết, hãy trụ trong môn
Du Già này, theo đúng thứ tự, từ mỗi vị trí nơi thân Phật để quán hình tượng,
màu sắc xong, nơi tâm mỗi vị tôn thánh, quán vầng tròn sáng. Quán chủng tử của
vị ấy trong vầng tròn sáng, mỗi mỗi xếp đặt như thế rồi mới tác pháp. Nếu chẳng
như thế, sẽ trọn chẳng thể gia trì, kiến lập các đệ tử, mà cũng chẳng thể gọi
là A-xà-lê!
Như trong phần trước đã
nói, đoạn chủng tử phiền não xong; kế đó, sanh khởi chủng tử của pháp giới
tánh, tức là chủng tử bình đẳng của hết thảy hữu tình. Chủng tử pháp giới tánh
bình đẳng ấy được sanh trưởng bởi đất Nhất Thiết Trí của Như Lai. Như đủ loại
thảo mộc trong thế gian, tùy theo tánh phận của từng loài mà mỗi mỗi đều sai biệt,
đều nương vào đại địa mà được sanh trưởng, nhưng rễ, thân, cành, lá, đủ thứ bất
đồng, tánh phần tăng trưởng lớn nhỏ mỗi thứ mỗi khác, nhưng đều là nương vào
tánh của đại địa, do đất mà sanh trưởng. Tuy rốt ráo đều quy vào đất, chỉ do
nhân duyên hội hợp mà có sanh trưởng, chứ thật ra, chẳng có tự tánh, vô sanh,
vô khởi! Nếu chúng sanh đã được an lập chủng tử như thế, tức là giống như địa vị
Như Lai. Do chủng tử ấy sanh từ pháp giới tánh, có thể sanh ra pháp giới, nên gọi
là “pháp giới sanh chủng tử”. “Pháp giới sanh” tức là thân tự tánh
của Như Lai. “Tiêu xí” (Các vật biểu trưng, các đặc điểm đặc trưng) là như chủng tử thế gian, mỗi mỗi
sai biệt. Như đối với chủng tử của cỏ nhỏ, tuy nó chưa mọc lớn, nhưng người có
trí nhìn vào, đã biết tánh phận cùng cực lớn nhỏ ắt có của nó. [Cũng giống như
vậy], nếu thấy chúng sanh hành chủng tử thuộc nhân vị như thế, cũng sẽ [đạt được
quả địa] như thế. Nhưng nay do chủng tử chính là chủng tử thuộc pháp giới tánh,
hãy nên biết tánh của nó nhất định có thể sanh ra thân pháp trí bình đẳng của
Như Lai. Vì thế, gọi là “tiêu xí”.
Lại nữa, mỗi phần vị trong
Mạn-đồ-la ấy đều có chủng tử dùng để ghi nhớ các môn pháp giới sai biệt. Hãy
nên biết mỗi mỗi đều vào trong chữ A. Hễ thấy, hễ thấy tiêu ký (dấu hiệu đặc
trưng để ghi nhớ) của nội chứng, sẽ biết đức nội chứng của Như Lai. Vì thế gọi
là “tiêu ký”. Tùy theo bốn tầng
phần vị mà lưu xuất từ từng vị trí, tức là từ tiêu xí của Phật, hoặc từ các phần
vị của Bồ Tát mà xuất hiện, hoặc từ phần vị Nhị Thừa mà xuất hiện, hoặc từ phần
vị thiên long bát bộ mà xuất hiện. Hãy nên biết các địa vị sai biệt mỗi mỗi đều
được biểu thị bằng các chữ chủng tử bất đồng. Khi ấy, đức Phật bảo ngài Bí Mật
Chủ xong, ngài Kim Cang Thủ liền bạch Phật rằng: “Nguyện nhạo dục văn”, tức là con vì muốn lợi ích trọn khắp hết
thảy chúng sanh mà lưu truyền, diễn nói, phổ biến, vì trọn hết thảy chúng sanh
trong đời vị lai, cũng như nhằm lợi ích các đại chúng hội mà thỉnh Phật diễn
nói. Trong phần trước, tuy đã nói pháp Mạn-đồ-la, nhưng chưa nhắc tới màu sắc,
chủng tử và tạng bí yếu. Do vậy, con sẽ nhất tâm lắng nghe, nguyện Phật diễn
nói.
(Kinh) Thời, Bạc Già Phạm dĩ kệ tụng viết: - Chân Ngôn giả viên đàn,
tiên trí ư tự thể, tự túc nhi chí tề, thành đại kim cang luân. Tùng thử nhi chí
tâm, đương tư duy thủy luân. Thủy luân thượng hỏa luân. Hỏa luân thượng phong
luân. Thứ ưng niệm trì địa, nhi đồ chúng hình tượng.
(經)時,薄伽梵以偈頌曰:真言者圓壇,先置於自體,自足而至臍,成大金剛輪,從此而至心 ,當思惟水輪,
水輪上火輪,火輪上風輪,次應念持地,而圖眾形像。
(Kinh: Khi đó, đức Bạc Già Phạm dùng kệ tụng để nói: - Đàn tròn
bậc Chân Ngôn, trước đặt nơi thân mình, từ chân cho đến rốn, thành đại kim cang
luân. Từ đó cho đến tim, nên tư duy thủy luân. Hỏa luân trên thủy luân. Phong
luân trên hỏa luân. Kế nên niệm trì đất, để vẽ các hình tượng).
Kế đó, đức Phật có ý bảo: Hễ
A-xà-lê muốn kiến lập Đại Bi Thai Tạng để kiến lập đệ tử, hãy nên trước hết trụ
trong Du Già để quán tự thân. Tưởng từ rốn trở xuống là kim cang luân, màu
vàng, cứng chắc. Kế đó, từ rốn trở lên tới tim, tưởng như thủy luân, sắc trắng.
Kế đó, từ tim trở lên tới họng, tưởng như hỏa luân, màu đỏ. Kế đó, từ họng trở
lên tới đỉnh đầu, tưởng như phong luân, màu đen.
Lại nữa, địa luân vuông vắn,
thủy luân tròn, hỏa luân tam giác, phong luân hình bán nguyệt, hư không ở trên
cùng, thành một điểm. Các thứ màu ấy đặt ở trên hình chữ thập chỗ các miếng
xương sọ giáp mí trên đỉnh đầu. Chấm tròn, bán nguyệt, tam giác, tròn, vuông là
hình dạng của các luân, hoàn toàn tương xứng với thân phần. Năm vị trí ấy chính
là năm chữ đã nói trong phần trước. Trong hình vuông đặt chữ A (अ), trong hình tròn đặt chữ Phạ
(Va, व), trong hình tam giác đặt chữ Ra
(र), trong hình bán nguyệt đặt chữ
Hám (Haṃ, हं), nơi cái chấm thì đặt chữ Khiếm (Khaṃ, खं). Hãy nên kiểm trong quyển trước. Thầy đã tự quán phương vị và màu sắc
nơi thân mình theo thứ tự, gia trì tự thân như thế và quán để xếp đặt chữ chủng
tử xong; kế đó, quán đất nơi đàn tràng, liền xếp [thứ tự các luân] đảo ngược lại:
Trên cùng là kim cang luân. Dưới kim cang luân là thủy luân. Dưới thủy luân là
hỏa luân. Dưới hỏa luân là phong luân. Dưới phong luân chính là hư không luân.
Vì lẽ nào vậy? Do hết thảy các thế giới đều nương tựa vào năm luân để duy trì.
Khi thế giới hình thành thì trước là từ hư không khởi lên phong, trên phong dấy
lên hỏa, trên hỏa dấy lên thủy, trên thủy dấy lên đất, tức là thứ tự an lập Mạn-đồ-la
vậy. Khi hoại, địa luân hoại trước hết, cho đến chỉ có hư không tồn tại; đó tức
là thứ tự để thầy tự gia trì. Nay hành nhân tu đạo cũng tương tự như thế: Đầu
tiên là phát tín tâm, kế đó là Bồ Đề tâm, cho đến Đại Không.
A-xà-lê đã gia trì như thế
xong, liền xếp đặt chư tôn, theo thứ tự, phương vị. Đối với mỗi vị trí, đều
dùng Du Già để quán, đúng như phương vị, màu sắc, hình tướng, nơi tâm mỗi vị đều
đặt một vầng tròn sáng. Trong vầng tròn sáng có chữ chủng tử, mỗi mỗi đều rành
rẽ, chẳng có chướng ngại. Có thể làm như thế, tức là phần vị trong Pháp Giới
Thai Tạng Mạn-đồ-la, sẽ có thể được hết thảy Như Lai cùng nhau gia trì, hết thảy
các vị tôn thánh thảy đều nhóm họp, cùng gia trì hành nhân kiến lập đệ tử, rốt
ráo chẳng thoái thất Chánh Đẳng Bồ Đề. Nếu không, sẽ uổng phí công sức, vô ích!
Lại nữa, nơi tòa Du Già ấy,
luân kim cang vuông màu vàng chính là tòa kim cang. Vuông là Tức Tai, tròn là
Tăng Ích, tam giác là Hàng Phục, bán nguyệt là Nhiếp Triệu; cái chấm là hoàn
thành hết thảy các sự. Trong đàn hư không luân ấy, chỉ dùng tâm niệm để làm, do
chẳng dùng hình tướng. Khi thế giới hoại, cũng là trước hết từ phong luân hoại
địa luân mà sanh ra lửa, lửa xong đến gió, phải xem xét! Làm ngũ luân như thế,
hãy nên biết trên dưới đều có hư không luân. Do từ không luân mà sanh ra phong,
hỏa, thủy, địa. Lại từ địa luân dần dần lên cao cho tới hư không. Vì thế, trên
dưới đều có hư không. Khi làm Mạn-đồ-la, thầy hãy nên tự quán thân mình và đất,
lại quán các đệ tử được độ cũng giống như thế, an lập họ chuẩn theo cách [quán
của] thầy. Nếu chẳng như vậy, sẽ chẳng gọi là “như pháp” được!
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ thăng ư Đại Nhật Thế Tôn thân, ngữ, ý địa
pháp bình đẳng quán, niệm bỉ vị lai chúng sanh, vị đoạn nhất thiết nghi cố,
thuyết Đại Chân Ngôn Vương viết: - Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm. A sa ma bổ đa,
đạt ma đà đô, nghiệt đăng nghiệt đá nẫm. Tát phạ tha, ám khiếm ám á, tảm sách,
hàm hạc, lam lạc, vãm phạ, sa ha hồng, lam lạc ha ra hạc. Sa ha lam lạc. Sa ha.
(經)爾時 ,金剛手昇於大日世尊身語意地法平等觀,
念彼未來眾生,為斷一切疑故,說大真言王曰:南麼三曼多勃馱喃。阿娑摩補多達摩馱都。蘖登蘖哆喃。薩嚩他。暗欠暗噁。糝索。含鶴。㘕𡀩。鑁嚩。莎訶吽。㘕𡀩訶囉鶴。莎訶㘕𡀩。莎訶。
(Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ thăng lên pháp bình đẳng
quán nơi thân, ngữ, ý địa của Đại Nhật Thế Tôn, nghĩ tới vị lai chúng sanh, vì
đoạn hết thảy các mối nghi [của họ], bèn nói Đại Chân Ngôn Vương rằng: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm. A sa ma bổ đa, đạt ma đà đô, nghiệt đăng nghiệt đá nẫm.
Tát phạ tha, ám khiếm ám á, tảm sách, hàm hạc, lam lạc, vãm phạ, sa ha hồng, lam
lạc ha ra hạc. Sa ha lam lạc. Sa ha - Namaḥ samantabuddhānāṃ
asamāptadharmadhātu-gatiṃ gatānāṃ, sarvathā āṃ khāṃ
aṃ aḥ saṃ saḥ haṃ haḥ raṃ raḥ vaṃ vaḥ svāhā hūṃ, raṃ raḥ hra haḥ svāhā, raṃ raḥ
svāhā”).
Khi đó, [chánh kinh nói]
ngài Kim Cang Thủ thăng lên pháp giới bình đẳng quán đối với thân, ngữ, ý địa của
Tỳ Lô Giá Na Như Lai, có nghĩa là: Ví như vị Bồ Tát ấy có thể biết thân, khẩu,
ý mật của Như Lai, nên gọi là Bí Mật Chủ. Pháp ý mật của Như Lai chỉ có Phật và
Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo. Giống như ý, hãy nên biết thân và khẩu cũng
giống hệt như thế. Nay vị Bồ Tát này cũng có thể biết, hãy nên biết là địa vị của
Ngài giống như bậc đại giác, vì muốn độ chúng sanh mà thị hiện làm Bồ Tát để khởi
phát. “Thân mật” được nói ở đây
chính là các ấn, như trong Đại Mạn-đồ-la bốn tầng, mỗi vị Bổn Tôn đều có mật ấn.
Nếu quán thân ấn ấy, sẽ biết đức bí mật được biểu thị bởi vị tôn thánh ấy, tùy
loại thượng, trung, hạ sai biệt mà có vô lượng loại. “Ngữ mật” tức là tất cả chân ngôn của chư tôn thánh. Nghe chân
ngôn ấy, liền biết đức nội chứng của vị tôn thánh ấy. “Ý mật” tức là phép quán Bổn Tôn Du Già, cũng tùy theo phương vị
trong bốn tầng [của Mạn-đồ-la] mà mỗi mỗi bất đồng, hễ tương ứng với điều này,
sẽ nhập tạng bí mật trong Như Lai ý. Thân, ngữ, ý mật ở đây, trên là từ địa vị
Phật, Bồ Tát và Nhị Thừa, [dưới là đến] chư thiên tám bộ, vô lượng sai biệt. Luận
định rộng hơn, thậm chí như số vi trần trong mười thế giới, mỗi mỗi đều bất đồng.
Nói đại lược, các địa vị được biểu thị trong kinh như thế đều nhằm biểu thị đức
bí mật nơi thân, khẩu, ý của Như Lai. Nếu có thể biết rõ như thật, sẽ giống như
Bí Mật Chủ. Nay Bí Mật Chủ Bồ Tát trụ trong pháp giới bình đẳng quán, vì nghĩ tới
chúng sanh trong đời vị lai, muốn khiến cho trọn khắp hết thảy [các chúng sanh ấy]
đều xé toạc lưới nghi lớn, cho nên Ngài đối trước đức Phật mà nói Đại Chân Ngôn
Vương. Phần kinh văn này dễ hiểu!
“Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm” (Namaḥ samantabuddhānāṃ, quy mạng trọn khắp chư Phật), “a
sa ma bổ-đa” (asamāpta, vô tận), “đạt ma đà
đô” (dharmadhātu, pháp giới), “nghiệt đăng nghiệt
đá nẫm” (gatiṃ gatānāṃ,
siêu việt vô tận pháp giới. “Siêu việt” chính là tán thán đức nơi thân, khẩu, ý bí mật của
Như Lai). “Tát phạ tha”
(sarvathā, trong hết thảy các thời thuộc mười phương ba đời, hết thảy nơi chốn,
siêu việt vô tận pháp giới, mà có thể lợi ích trọn khắp hết thảy). Bốn chữ Ám
Khiếm Ám Á (āṃ khāṃ aṃ aḥ) chính là bốn luân. Chữ thứ nhất là địa kim cang luân. Chữ thứ hai là thủy
luân. Chữ thứ ba là hỏa luân. Chữ thứ tư là phong luân. Bản thể của chữ Ám (āṃ, आं) là kim cang giới thể, lại có âm dài là hạnh, hạnh tức là hỏa luân. Phía trên có cái chấm tức là Không luân,
dùng để trang nghiêm. Kế đó, chữ Khiếm (khāṃ, खां) là thủy luân. Khư (kha - खा có nghĩa là Không, cũng có âm dài là hạnh, có cái chấm là
Không, tức Đại Không. Chữ Ám (aṃ) kế tiếp là lửa. Trong tiếng Phạn,
A-kiệt-nam (Agni) là lửa. Á (aḥ) là tánh Niết Bàn, màu đen tức là
gió.
Lại nữa, hư không vô sắc,
mà có thể chứa đựng hết thảy các sắc tượng. Nay chữ Khư có hành, có chấm, tức
là “hết thảy các sắc tượng”. Đại
Không là cũng như hư không trọn đủ màu sắc, hình tượng của hết thảy các pháp.
Cái Không ấy hoàn thành hết thảy các sự. Vì thế, chữ Khiếm được coi là nước. Sản sách (saṃ saḥ, đất), hám hạc (haṃ haḥ, gió), lam lạc (raṃ raḥ, lửa), vãm phạ (nước). Như
trong phần trên [đã nói] A (अ) có bốn chữ, tức là [chữ A] âm dài (आ, ā), phía trên
có chấm (अं, aṃ), và bên cạnh có hai chấm, [chữ A] âm ngắn cũng có chấm phía trên và hai
chấm bên cạnh (अः, aḥ), hai âm ấy thành ra bốn chữ. Nay hãy nên biết các chữ như Sa (स) v.v… cũng giống như thế, đều có
bốn chữ. Nay ở đây chỉ nêu ra âm ngắn, kết hợp hai chữ âm dài với hai chữ âm ngắn
trước đó, chuẩn theo trên đây mà nói. Tảm
sách hám hạc (saṃ saḥ haṃ haḥ) cũng như thế, các chữ khác đều phỏng
theo lệ này).
Lại luận định chung, chữ A
là Phật Bộ, chữ Sa là Liên Hoa Bộ, chữ Phạ là Kim Cang Bộ, Phong và Hỏa dùng khắp
ba bộ. Như trong Liên Hoa Bộ đều có đất, nước, lửa, gió. Nếu Tức Tai thì cần
kim cang luân hình vuông, nếu Tăng Ích thì cần thủy luân, Hàng Phục cũng cần
dùng hỏa luân v.v…, tùy loại mà dùng. Năm môn A, Sa, Ha, Ra, Phạ (अ, स, ह, र, व) này giống như năm tự luân trong
phần trên, trong luân nào cũng đều có bốn luân kia. Như chữ Phạ trong Kim Cang
Bộ đều có bốn luân, tùy thuộc làm các chuyện Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục mà
dùng theo từng loại. Nếu đọc các chân ngôn khác, tùy thuộc bộ loại có các chữ ấy,
sẽ biết chỗ dùng của nó, mỗi chân ngôn đều có tác dụng chủ yếu nhất. Đoạn cuối
còn chưa rõ, phải hỏi lại! Cũng có ba đạo chân ngôn: Hồng lam lạc (hūṃ, raṃ, raḥ - हूं, रं, रः) là thân chân ngôn. “Ha ra hạc” (hraḥ haḥ - ह्रःहः) là ngữ chân ngôn. “Lam lạc” (raṃ raḥ - रं, रः) là ý chân ngôn.
Ba đạo chân ngôn ấy thâu
nhiếp pháp môn “thân, ngữ, ý bình đẳng”
của Như Lai; nhưng đối với ba chân ngôn, nếu chú trọng chữ Sa Ha thì cũng được,
chẳng chú trọng cũng được. Khi hành giả đã hiểu ý, bèn tự xem xét phương tiện.
Lại nữa, do chân ngôn này tối thắng nên gọi là Vương. Như trên đã nói, tuy mỗi
chữ chân ngôn đều có bốn chữ, đều cùng chứa đựng trong đây, nhưng chỉ gọi mười
hai chữ chân ngôn là Vương. Bốn thứ luân trong ấy, đều tùy thuộc địa, thủy, hỏa,
phong luân mà gia trì thân A-xà-lê, hòng đạt được tác dụng tự tại. Chân ngôn
thân khẩu ý cũng cùng gia trì thân, khẩu, ý nghiệp. Chuyện này chưa rõ, cần phải
hỏi thêm (Lại như cách sắp xếp chữ trong phần trước, nay ở đây dùng cách kết hợp
riêng biệt, tức là thuận theo chữ tương ứng với năm sự mà liền thâu nhiếp để sử
dụng, cũng cần phải thưa hỏi thêm).
(Kinh) Trì Kim Cang Bí Mật Chủ thuyết thử Chân Ngôn Vương dĩ, thời nhất
thiết Như Lai trụ thập phương thế giới, các thư hữu thủ, ma Chấp Kim Cang đảnh,
dĩ “thiện tai” thanh, nhi xưng tán ngôn: - Thiện tai, thiện tai, Phật tử! Nhữ
dĩ siêu thăng Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn thân ngữ ý địa, vị dục chiếu minh nhất thiết
phương sở, trụ bình đẳng Chân Ngôn đạo chư Bồ Tát cố, thuyết thử Chân Ngôn
Vương. Hà dĩ cố? Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, Ứng, Chánh Đẳng Giác tọa Bồ Đề tòa, quán
thập nhị cú pháp giới, hàng phục tứ ma, thử pháp giới sanh, tam xứ lưu xuất,
phá hoại thiên ma quân chúng. Thứ đắc Thế Tôn thân ngữ ý bình đẳng, thân lượng
đẳng đồng hư không, ngữ ý lượng diệc như thị, đãi đắc vô biên trí sanh, ư nhất
thiết pháp tự tại nhi diễn thuyết pháp, sở vị thử thập nhị cú chân ngôn chi
vương. Phật tử! Nhữ kim hiện chứng Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bình đẳng thân ngữ ý cố,
chúng sở tri thức, đồng ư Chánh Biến Tri giả.
(經)持金剛祕密主說此真言王已,時一切如來住十方世界,各舒右手摩執金剛頂,以善哉聲而稱歎言:善哉善哉佛子!汝已超昇毘盧遮那世尊身語意地,為欲照明一切方所,住平等真言道諸菩薩故說此真言王。何以故?毘盧遮那世尊、應、正等覺坐菩提座,觀十二句法界,降伏四魔,此法界生,三處流出,破壞天魔軍眾;次得世尊身語意平等,身量等同虛空,語意量亦如是;逮得無邊智生,於一切法自在而演說法,所謂此十二句真言之王。佛子!汝今現證毘盧遮那世尊平等身語意故,眾所知識,同於正遍知者。
(Kinh: Ngài Trì Kim Cang Bí Mật Chủ nói Chân
Ngôn Vương ấy xong, khi đó, hết thảy Như Lai trụ trong mười phương thế giới, đều
duỗi tay phải xoa đỉnh đầu Chấp Kim Cang, dùng tiếng “lành thay” để khen ngợi rằng:
- Lành thay! Lành thay! Phật tử! Ông đã siêu thăng địa vị thân, ngữ, ý của Tỳ
Lô Giá Na Thế Tôn, vì muốn chiếu sáng các vị Bồ Tát trụ trong đạo Chân Ngôn
bình đẳng thuộc hết thảy các phương sở mà nói Chân Ngôn Vương này. Vì lẽ nào? Tỳ
Lô Giá Na Thế Tôn, Ứng, Chánh Đẳng Giác ngồi tòa Bồ Đề, quán mười hai câu pháp
giới, hàng phục tứ ma. Pháp giới này sanh, ba chỗ lưu xuất, phá hoại bè lũ binh
lính thiên ma. Kế đó, đạt được thân ngữ ý bình đẳng của Thế Tôn, thân lượng bằng
với hư không, ngữ lượng và ý lượng cũng như thế, đạt được vô biên trí sanh, tự
tại trong hết thảy các pháp để diễn nói pháp, tức là vua của mười hai câu chân
ngôn này. Phật tử! Do ông nay đã hiện chứng “thân ngữ ý bình đẳng” của Tỳ Lô
Giá Na Thế Tôn, được mọi người hay biết, bèn đồng hàng với bậc Chánh Biến Tri).
“Xoa đỉnh đầu” ở đây không phải là mười phương chư Phật đều duỗi
tay sang cõi này để xoa đỉnh đầu Bồ Tát. Khi Bí Mật Chủ đối trước đức Phật nói
Chân Ngôn Vương này, liền do [thần lực của] Chân Ngôn Vương mà hiện thân trước
mỗi đức Như Lai trong hết thảy các thế giới khắp mười phương, dùng âm thanh
bình đẳng trọn khắp để cùng lúc nói. Vì thế, hết thảy Như Lai, mỗi vị đều duỗi
tay xoa đỉnh đầu Ngài. “Việt”
có nghĩa là “siêu nhập”. Như đức
Tỳ Lô Giá Na ngồi đạo tràng trên A Ca Ni Trá Thiên (Akaniṣṭha, Sắc
Cứu Cánh Thiên), do Chân Ngôn Vương này, đạt được tác dụng thân khẩu ý rốt
ráo bình đẳng tự tại. Ông nay cũng được siêu nhập địa vị thuộc pháp “thân khẩu ý bình đẳng” như thế, bằng
với đức Tỳ Lô Giá Na. Đấy chính là hết thảy các đức Như Lai tán thán đức chân
thật của Bồ Tát. Nói “ông đã đạt được
địa vị bình đẳng như thế, vì muốn lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh, vì muốn
soi sáng cho các Bồ Tát tu chân ngôn hạnh, trừ tối tăm cho họ. Vì thế, nói Chân
Ngôn Vương này”, [hàm ý]: Chân Ngôn Vương có thể xé toạc lưới nghi trong
hết thảy pháp giới. “Nghi” tức
là tối tăm. Có thể đoạn hết thảy nghi hoặc tức là đã chiếu sáng. Vì sao vậy?
Nay đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, Ứng, Chánh Đẳng Giác ngồi tòa Bồ Đề, quán chân
ngôn mười hai chữ, hàng phục tứ ma. Pháp giới ấy hiện sanh ba xứ, lưu xuất bậc
hàng phục thiên ma, tức là khi Đại Nhật Như Lai ngồi đạo tràng, bình đẳng quán
pháp giới, nói mười hai câu Chân Ngôn Vương này, liền do sức ấy, có thể đánh bại
tứ ma, trừ tội cấu cho họ. Nhưng trong bốn loại ma, ba loại ma (phiền não ma, tử
ma, ngũ ấm ma) là vô sắc, khi đức Phật ở A Ca Ni Trá Thiên đã hàng phục rồi. Chỉ
có thiên ma hữu tướng, vì muốn cho thế giới biết đến sức tự tại, lại ở trong cõi này mà thị hiện hàng phục thiên ma.
“Ba chỗ” là như trong phần trước đã nói: Phần trên của thân Phật
lưu xuất hết thảy chư Như Lai, phần giữa từ tim tới rốn, lưu xuất hết thảy Bồ
Tát, phần dưới từ rốn tới chân lưu xuất hết thảy các thiên thần thuộc tám bộ. Đều
là phổ môn thị hiện từ tam nghiệp bình đẳng của Như Lai, phơi bày các phần vị
trang nghiêm trong Đại Mạn-đồ-la Thai Tạng, tức là chân ngôn và ấn của Bổn Tôn.
Hãy nên biết: Khi đức Phật từ đức nội chứng mà hiện ra chuyện như thế, ngay lập
tức, hàng phục tứ ma trọn khắp, chẳng còn thừa sót. Nay khi A-xà-lê muốn tạo Mạn-đồ-la,
cũng cần phải nghĩ bản thân giống như đức Tỳ Lô Giá Na, liền đạt được sức tự tại,
cũng giống như đức Phật ấy có thể hàng phục tứ ma.
Kế đó, đức Thế Tôn thân, ngữ,
ý bình đẳng, đạt được lượng bằng hư không. Ngài đạt được thân ngữ ý như thế, đắc
trí như thế, tự tại trong hết thảy các pháp, tức là đức Phật ngồi nơi đạo tràng
kim cang, vừa mới nghĩ tới ba đạo chân ngôn ấy, tức là ba chân ngôn thân, khẩu,
ý như vừa mới nói. Trong khi nghĩ như thế, liền đạt được địa vị thân, khẩu, ý
bình đẳng, thân và ngữ ý đều là cái Thể của pháp giới, chẳng có ngằn mé như hư
không. Ngài liền dùng sức như thế để hàng phục tứ ma. Trong phần trước đã nói
ba đạo, có một cách giải thích như sau: Ba đạo chân ngôn ấy, tức sức bình đẳng
tự tại nơi thân, khẩu, ý, đều từ Phật mà ra. Do ba đạo chân ngôn thân, khẩu, ý ấy,
Như Lai siêu nhập địa vị tam bình đẳng, thuận theo các loại thượng, trung, hạ
mà phổ môn thị hiện đủ loại thân Bổn Tôn, đủ loại chân ngôn, đủ loại ấn pháp,
giống như hư không chẳng có ngằn mé, trọn khắp pháp giới độ quần sanh, rốt ráo
đều khiến cho họ được siêu nhập địa vị tam bình đẳng như thế. Thân trọn đủ vô
lượng công đức, giống như hư không chẳng thể biết hạn lượng, ngữ và ý cũng thế.
Do quán chân ngôn này, đạt được công đức như thế, giống như Như Lai. Do tam
nghiệp vô tận, nếu đáng nên dùng thân để độ người khác, liền hiện trọn khắp đủ
loại sắc thân. Nếu đáng nên dùng ngữ để độ người khác, liền phổ môn thị hiện đủ
loại ngôn ngữ, tùy theo cơ nghi mà chỉ dạy, khiến cho họ được nhập tri kiến của
Phật. Nếu đáng nên dùng ý để độ người khác, cũng đủ loại cảm thông như thế, chẳng
thể cùng tận!
Không chỉ thân, ngữ, ý chẳng
có hạn lượng, trọn đủ hết thảy các công đức đều giống như hư không. Hãy nên biết
trí huệ cũng đạt được giống như thế, chẳng có hạn lượng giống như hư không. Nếu
đạt được diệu trí vô ngại như thế, tức là đạt được tự tại trong hết thảy các
pháp, giống như đức Thế Tôn. Nói “tự tại”
tức là trong hết thảy, không chuyện gì chẳng tự tại! Hết thảy các loài chúng
sanh do chưa thấu hiểu rốt ráo pháp giới thanh tịnh, đều thuộc trong lồng rọ của
nghiệp phiền não, hệ thuộc sanh tử, chẳng thể đạt được sức tự tại. Nay đức Như
Lai ở trong biển cả sanh tử, dùng đủ loại pháp môn để tuyên nói, chỉ bày pháp yếu
bí mật của Như Lai, vì một đại sự nhân duyên mà dùng đủ loại phương tiện để
thành tựu, đều khiến cho họ đạt đến địa vị Nhất Thiết Trí. Đó chính là ý nghĩa “tự tại trong hết thảy các pháp”. Do
chứng pháp như thế, được tự tại trong các pháp. Do tự tại, bèn có thể diễn nói
vô ngại, khéo léo tùy thuận các căn cơ. Sở dĩ Như Lai đạt được lực dụng tự tại
như thế, đều do quán pháp môn “mười
hai tự luân” này. Hãy nên biết pháp môn mười hai chữ này chính là thể
tánh của pháp giới!
(Kinh) Nhi thuyết kệ ngôn: - Nhữ vấn Nhất Thiết Trí, Đại Nhật Chánh
Giác tôn, tối thắng Chân Ngôn hạnh, đương diễn thuyết pháp giáo. Ngã vãng tích
do thị, phát giác diệu Bồ Đề, khai thị nhất thiết pháp, linh chí ư diệt độ. Hiện
tại thập phương giới, chư Phật hàm chứng tri.
(經)而說偈言:汝問一切智,大日正覺尊,最勝真言行,當演說法教。我往昔由是,發覺妙菩提,開示一切法,令至於滅度,現在十方界,諸佛咸證知。
(Kinh: Bèn nói kệ rằng: - Ông hỏi Nhất Thiết Trí, đấng Đại Nhật
Chánh Giác, hạnh Chân Ngôn tối thắng, sẽ diễn nói pháp giáo. Ta xưa kia do vậy,
giác ngộ diệu Bồ Đề, khai thị hết thảy pháp, khiến đạt tới diệt độ. Mười phương
cõi hiện thời, chư Phật đều chứng biết).
Khi đó, mười phương chư Phật
thấy ngài Kim Cang Thủ nói chân ngôn ấy, giống như đạo của cổ Phật. Hết thảy
các Như Lai chúng ta cũng do quán mười hai tự môn này mà thành thân mầu nhiệm rốt
ráo tột bậc, các đức Thế Tôn trong vị lai cũng sẽ giống như thế. Vì thế, [chư
Phật] đại hoan hỷ, xoa đỉnh đầu Bồ Tát, mà bảo như thế này: “Hết thảy chư Phật
do tự tại trong các pháp, vì một đại sự nhân duyên mà dùng thân, miệng, ý bình
đẳng để nói pháp môn này. Ông nay cũng lại có thể nói giống như thế, tức là
cũng chứng pháp này giống như Như Lai!” Ngài Kim Cang Tạng tuy chưa lập tức thấu
hiểu rốt ráo Nhất Thiết Chủng Trí, nhưng giống như diệu giác Thế Tôn, chỉ vì được
thần lực của mười phương chư Phật cùng nhau gia trì, cho nên ở trong đại hội
cũng có sở chứng bằng với Như Lai. Nếu lìa thần lực gia trì, cũng sẽ chẳng thể
rốt ráo bằng với Như Lai được! Vì thế, thiện nam tử! Tỳ Lô Giá Na Phật chứng
thân ngữ ý bình đẳng, hết thảy chư Phật biết như thế. “Biết” là danh xưng khác của “giác”. Do biết hạnh phổ môn vô tận của các Như Lai, chứng ba thứ
bình đẳng của Như Lai, tức là biết tạng Thân Mật của Như Lai, cũng biết tạng bí
mật vi diệu ngữ và ý. Nếu chứng biết pháp này tức là bằng với Như Lai. Tán
thán, ấn khả như thế xong, lại thỉnh cầu Như Lai. Vì lẽ nào vậy? Tạng sâu mầu
như thế, chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu cùng tận. Vì thế, hết thảy
các Bồ Tát, không ai có thể nêu câu hỏi!
Nay mười phương Phật cùng
dùng thần lực gia trì ngài Kim Cang Thủ, vì lợi ích hết thảy chúng sanh, nay
nương vào thần lực của chư Phật mà thưa hỏi Đại Nhật Như Lai. Hỏi chuyện gì ở
đây? Hàm ý những chuyện đã nói trước đó vốn có ý nghĩa sâu xa, bí mật, do vẫn
chưa [được giảng nói] trọn vẹn (lại phải hỏi chỗ tột bậc trọng yếu). “Nhất Thiết Trí thành” chính là Đại
Nhật Như Lai. Ý nghĩa của chữ Bạc Già Phạm gồm có sáu ý nghĩa, trong phần trước
đã giải thích. Đức Tỳ Lô Giá Na như mặt trời xuất hiện trong cõi đời, có thể trừ
khử tối tăm, có thể thành tựu tất cả sự nghiệp của hết thảy chúng sanh, các
loài sống trên đại địa không gì chẳng được lợi ích. Vầng mặt trời đại huệ Thật
Tướng tự nhiên ấy cũng lại như thế, nếu có chúng sanh biết rõ, tự chứng, như
gió mạnh lùa mây, mặt trời, mặt trăng xuất hiện, [Phật] cũng có công sức giống
như thế, tạo lợi ích to lớn trong khắp pháp giới, như ánh sáng mặt trời chiếu
thế gian. “Chủ” là do được tự tại
trong các pháp, nên gọi là Chủ. Nay chư Phật dạy ngài Kim Cang Thủ hỏi Đại Nhật
Như Lai chuyện bí mật thuộc về hạnh cú Chân Ngôn. Nói theo phương diện thù thắng
thì tự giáo rộng lớn, do pháp môn “một chữ” mà thấu đạt hết thảy các pháp, chứng
đắc “thân, khẩu, ý bình đẳng” chẳng thể cùng tận của mười phương ba đời Như
Lai. Vì thế, gọi là Thắng. “Giáo”
tức là tên gọi khác của pháp tắc. “Pháp”
có nghĩa là “quỹ tắc” (軌則: khuôn khổ, đường lối). Do vậy, khi xưa ta phát Bồ Đề tâm, [chứng đắc] Vô
Thượng Bồ Đề, tuyên nói hết thảy pháp Niết Bàn của ta, cho tới chư Phật Thế Tôn
trong các thế giới hiện thời, cũng nói “chúng
ta khi xưa lúc hành Bồ Tát đạo, cũng do Chân Ngôn môn như thế mà thành tựu trí
tự nhiên, lại vì hết thảy chúng sanh diễn nói như thế, đều khiến cho họ đạt tới
Đại Niết Bàn”. Duyên khởi của câu nói “ta nay” rất sâu, hết thảy những ai có tâm còn chẳng thể nêu câu
hỏi, huống hồ có thể tin hiểu ư? Chỉ có mười phương hết thảy các đức Như Lai
cùng đạt tới pháp này, có thể chứng đắc trọn chẳng hư dối! Ông nay đã đạt được
hạnh mà chúng ta đã từng thực hiện; do vậy, hãy nên thưa hỏi Như Lai.
(Kinh) Nhĩ thời, cụ đức Kim Cang Thủ tâm đại hoan hỷ, chư Phật oai thần
sở gia trì cố, nhi thuyết kệ ngôn: “Thị pháp vô hữu tận, vô tự tánh, vô trụ, ư
nghiệp sanh giải thoát, đồng ư Chánh Biến Tri, chư cứu thế phương tiện, tùy ư
bi nguyện chuyển, khai ngộ Vô Sanh Trí. Chư pháp như thị tướng”. Thời, Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ phục thuyết ưu-đà-na kệ, thỉnh vấn Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn, ư thử Đại
Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la, quyết đoạn sở nghi, vị vị lai thế chư chúng sanh cố:
- Dĩ đoạn nhất thiết nghi, Chủng Trí ly nhiệt não, ngã vị chúng sanh cố, thỉnh
vấn ư đạo sư.
(經)爾時,具德金剛手心大歡喜,諸佛威神所加持故,而說偈言:是法無有盡,無自性無住,於業生解脫,同於正遍知。諸救世方便,隨於悲願轉,開悟無生智,諸法如是相。時執金剛祕密主復說優陀那偈,請問毘盧遮那世尊,於此大悲藏生大漫荼羅決斷所疑,為未來世諸眾生故。已斷一切疑,種智離熱惱,我為眾生故,請問於導師。
(Kinh: Lúc bấy giờ, bậc trọn đức Kim Cang Thủ tâm hoan hỷ to lớn,
do được oai thần của chư Phật gia trì, bèn nói kệ rằng: “Pháp này chẳng cùng tận,
vô tự tánh, vô trụ. Nơi nghiệp sanh giải thoát, cùng nơi Chánh Biến Tri, các
phương tiện cứu đời, tùy theo bi nguyện chuyển, khai ngộ Vô Sanh Trí. Tướng các
pháp như thế”. Khi đó, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại nói kệ ưu-đà-na, thưa hỏi đức
Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn để quyết đoạn nghi vấn trong Đại Bi Tạng Sanh Mạn-đồ-la
này, vì các chúng sanh trong vị lai [mà nói]: - Đã đoạn hết thảy nghi, Chủng
Trí lìa nhiệt não. Con do vì chúng sanh, thưa hỏi đấng đạo sư).
Khi đó, ngài Chấp Kim Cang
là bậc trọn đức, do đã nắm giữ trí ấn của Như Lai, tức là trọn đủ các thứ công
đức của hết thảy chư Phật, đều có cùng một vị, thường gọi là “vị giải thoát của Như Lai”. Do trí ấn
ấy giống như Như Lai, cho nên nói là “trọn
đức”. Khi đó, vị Bồ Tát ấy do được các đức Như Lai cùng gia trì, do đại
hoan hỷ, liền biết sâu xa lời nói của Như Lai, cũng biết tâm của Như Lai. Trước
đó, do chưa thấu đạt nên chẳng thể hỏi, nay đều do tự tại, nên có thể thưa hỏi
Như Lai, chẳng có nghi nan. Nay muốn hỏi Như Lai, bèn trước đó tán thán đức của
pháp giới, bèn nói kệ rằng: “Pháp ấy vô tận, mà cũng chẳng có tự tánh”. “Tận” là có khởi đầu và kết thúc, có
sanh, có diệt. Do có sanh diệt, tức là có pháp khởi lên và tận diệt. Nhưng nay
tánh của pháp giới bình đẳng lìa các lỗi như thế, chẳng có khởi đầu hay kết
thúc. Do chẳng sanh diệt, có nghĩa là “chẳng
thể tận”. “Vô tận” là
tên gọi khác của vô tướng. Do vô tận, nên hết thảy các pháp đều chẳng có tự tánh,
chẳng lay động, chẳng có thay đổi, mà cũng chẳng có trụ xứ. A Lại Da có nghĩa
là “phòng”, hoặc “chứa đựng”. Nay trong pháp giới bình đẳng chẳng có tướng nhận
lấy, chứa đựng như thế; do đó chẳng có trụ xứ. Nếu hết thảy các pháp đều vô tự
tánh, tức là vô tác. Do vô tác nên chẳng có quả báo sanh diệt v.v… vốn sẵn tịch
diệt, là tướng thường tự tịch diệt, tức là cùng giải thoát chẳng thể nghĩ bàn.
Chư Phật có cùng một địa vị,
pháp tịch diệt rất sâu như thế, hết thảy danh từ, lời lẽ đều chẳng thể diễn tả
được, chẳng có gì để có thể thí dụ được, chỉ có Phật cùng chứng biết là có thể
thí dụ. Vì thế nói là “đồng ư Chánh
Giác”. Nhưng hết thảy các pháp rốt ráo là vô sanh, vô tác. Nói “rốt ráo” tức là chẳng có các thừa
phân biệt sai khác, hết thảy các địa vị thánh nhân liền đọa trong đoạn diệt mà
chứng nơi thật chứng, do chẳng thể lợi ích hết thảy. Kế đó, nói “phương tiện Phật” v.v… do bi nguyện
mà chuyển vô tướng giáo để khơi gợi, phát khởi sự giác ngộ đối với tướng như thế.
Do trọn đủ phương tiện, có thể thỏa mãn hết thảy các sở nguyện. Phương tiện ấy
chính là đại bi nguyện. Do đại bi nguyện ấy, sẽ có thể chuyển. Ở trong pháp vô
tướng ấy, không ai có thể nói, không ai có thể biểu thị, nhưng có thể khiến cho
hết thảy đạt được và cũng tự chứng đắc. Hãy nên biết đó là sức đại phương tiện
vậy. Pháp này không ai có thể dạy bảo, chẳng do người khác giác ngộ mà là tự chứng
đắc, tức là trí tự giác vô sư, tự nhiên thành Phật đạo, nơi đạo tràng hiện tịch
tĩnh, giác ngộ pháp Thật Tướng như thế. Đấy đều là lời kệ, phần sau sẽ nói rõ
thêm!
Lại nữa, nếu nói “pháp giới vô tận, chẳng có khởi đầu hay kết
thúc”, tức là đoạn diệt, chẳng thể tạo lợi ích cho chúng sanh! Vì sao vậy?
Đã tạo phần hạn trong sanh tử, tức là thuộc về trần lao. Đối với Như Lai chủng,
nếu hết thảy vô sanh, vô tánh, thì cũng chẳng có trụ xứ, sao có thể vì khắp thế
gian làm các Phật sự cho được? Nhưng các vị Bồ Tát có hai sự, nên chẳng đọa
trong đoạn diệt, tức là đại bi và phương tiện. Do có hai sự ấy, có thể tự khai
phát. “Khai phát” được nói ở
đây chính là Bồ Đề tâm tự nhiên khai phát. Nếu do ngôn thuyết và biểu thị ấy,
do người khác dạy cho giác ngộ mà có thể đạt được trí huệ vô sư tự nhiên như thế,
chẳng có lẽ ấy! Vì cớ sao vậy? Chỉ vì hành giả tự giác như thật, tự quán pháp
giới vô tận đúng như thật, cho nên đạt được trí huệ Thật Tướng ấy, chẳng do người
khác mà ngộ. Kinh có ý nói “pháp tướng
là như thế”, cho nên nói “như
thị tướng”. Đã đạt được pháp Thật Tướng như thế, liền dùng pháp đại bi
phương tiện này mà vì chúng sanh khai thị, diễn nói, nhưng thật ra [người được
giáo hóa] chẳng do ai khác mà ngộ, chẳng do người khác truyền dạy mà đạt được.
Như người mù hỏi sữa có màu sắc giống như gì, thậm chí nghe nói màu sữa giống
như tuyết, liền nghĩ là sữa lạnh. Lại nghe nói giống như hạc, bèn nghĩ là sữa
sinh động. Thậm chí dùng đủ loại thí dụ, phương tiện để biểu thị mà [người mù ấy]
trọn chẳng thể hiểu [màu sắc của sữa là như thế nào], chỉ tăng thêm so đo hư vọng
mà thôi. Vì lẽ nào vậy? Do mắt người ấy chẳng sáng.
Đệ Nhất Nghĩa Đế cũng thế,
nếu chẳng như thật tự biết rõ, dẫu người khác khơi gợi, hướng dẫn đủ mọi cách,
trọn chẳng đắc lý! Nếu ai chẳng tự khai phát pháp nội chứng như thế, mà vì người
khác nói, muốn làm cho kẻ ấy ngộ, cũng chẳng có lẽ ấy! Vì cớ sao vậy? Như kẻ chẳng
có chân, hò hét nói với mọi người như thế này: “Ta sẽ vì các ngươi mà lên núi
Diệu Cao”. Hãy nên biết kẻ đó ắt bị người trí chê cười. Vì lẽ nào vậy? Nếu
chính mình chẳng có chân, còn chẳng thể tự lên chỗ kém cao hơn núi chúa Diệu
Cao, huống hồ có thể lên được chỗ cao tột trong hết thảy ư? Lại như có kẻ chưa
thể vượt qua sóng gió nơi biển cả, mà bảo người khác rằng: “Ta sẽ độ quý vị vượt
qua bờ kia”. Hãy nên biết chuyện đó cũng chẳng thể được! Hành nhân cũng như thế,
nếu chưa tự giác trí huệ vô sư, mà muốn khiến cho người khác nghe pháp đắc ngộ,
ắt chẳng có lẽ ấy!
Khi đó, ngài Kim Cang Chủ
dùng bài kệ ấy để tán thán Như Lai
xong; kế đó, nói kệ ưu-đà-na để thưa hỏi đức Phật. Ưu-đà-na (Udana) nghĩa
là Tổng Nhiếp. Do dùng nghĩa lý trong một bài kệ để thâu nhiếp các pháp ly tướng,
vô lượng pháp nghĩa trong vô tận pháp giới. Vì thế nói là Nhiếp. Tán thán, nói
kệ xong, nghĩ tới các chúng sanh tu Chân Ngôn hạnh trong vị lai, đối với Đại Bi
Tạng Sanh Mạn-đồ-la này do thiếu khuyết, họ sẽ chẳng thể nhanh chóng thành Vô
Thượng Bồ Đề. Do vậy, kế đó, Ngài hỏi đức Phật về phương tiện bí yếu. “Đoạn hết thảy nghi”: Nếu chẳng thể
đoạn trọn khắp các thứ lưới nghi của chúng sanh, sẽ chẳng gọi là bậc Nhất Thiết
Trí. Bởi lẽ, trong hết thảy các pháp, tự mình đã lìa lưới nghi, thì mới có thể
đoạn lưới nghi cho người khác. Nay Phật đã tự đoạn hết thảy lưới nghi. Vì thế,
con nay thưa hỏi, nguyện Phật vì con đoạn nghi. “Lìa nhiệt não” tức là vĩnh viễn đoạn trừ gốc rễ Tam Độc. Nay
con vì hết thảy chúng sanh, thưa hỏi đấng Đạo Sư, do trong hết thảy các pháp có
thể hướng dẫn khiến cho đạt được Phật huệ, nên gọi
là “đại đạo sư”.
(Kinh) Mạn-đồ-la
hà tiên? Duy Đại Mâu Ni thuyết. A-xà-lê hữu kỷ? Đệ tử phục kỷ chủng? Vân hà tri
địa tướng? Vân hà nhi trạch trị? Vân hà đương tác tịnh? Vân hà bỉ kiên trụ, cập
tịnh chư đệ tử? Duy nguyện đạo sư thuyết. Vân hà dĩ tịnh tướng? Dĩ hà nhi tác hộ?
Vân hà gia trì địa? Sự nghiệp thùy vi sơ? Tu Đa La hữu kỷ? Vân hà tác địa phần?
Kỷ chủng tu cúng dường? Vân hà hoa hương đẳng? Thử hoa đương hiến thùy? Hương
diệc phục như thị, vân hà nhi phụng hiến? Ưng dĩ hà hoa hương? Chư thực dữ hộ-ma,
các dĩ hà quỹ nghi? Cập chư thánh, thiên tòa, nguyện thuyết thử giáo pháp. Thân
tướng hiển hình sắc, duy thứ đệ khai diễn, sở tôn chi mật ấn, cập dữ tự phu
tòa?
(經)曼荼羅何先?惟大牟尼說。阿闍梨有幾?弟子復幾種?云何知地相?云何而擇治?云何當作淨?云何彼堅住,及淨諸弟子?惟願導師說。云何已淨相?以何而作護?云何加持地?事業誰為初?修多羅有幾?云何作地分?幾種修供養?云何花香等,此華當獻誰?香亦復如是,云何而奉獻?應以何花香?諸食與護摩,各以何軌儀?及諸聖天座,願說此教法。身相顯形色,唯次第開演。所尊之密印,及與自敷座。
(Kinh: Mạn-đồ-la
gì trước? Nguyện Đại Mâu Ni nói: A-xà-lê mấy
loại?
Đệ tử lại mấy loại? Biết tướng đất thế nào? Chọn, trị địa ra sao? Tác tịnh như
thế nào? Khiến nó được trụ chắc, tịnh đệ tử ra sao? Kính mong đạo sư nói. Tướng
đã tịnh thế nào? Làm thủ hộ ra sao? Gia trì đất thế nào? Sự nghiệp nào đầu
tiên? Tu Đa La mấy thứ? Tạo địa phần ra sao? Mấy cách tu cúng dường? Hoa,
hương… như thế nào? Hoa ấy nên cúng ai? Hương cũng giống như thế, dâng hiến như
thế nào? Nên dùng hoa, hương nào? Thức ăn và hộ-ma, nghi quỹ cho mỗi thứ? Và
tòa chư thánh, trời, xin nói giáo pháp ấy. Thân tướng hiển hình sắc, mong thứ tự
khai diễn, mật ấn của chư tôn, tự trải tòa thế nào?)
[Ngài Kim Cang Thủ] lại dùng kệ để theo thứ tự hỏi đức Phật.
Nay sẽ theo thứ tự, nêu ra [ý nghĩa của từng câu hỏi], chưa có câu kết lại bài
kệ. [Ngài Kim Cang Thủ hỏi]: Trong Mạn-đồ-la thì nên làm gì trước? (Ý nói: Mạn-đồ-la
có khá nhiều sự, hãy nên làm gì trước, tức là nên làm chuyện nào trước tiên?)
A-xà-lê có mấy loại (xin cũng nói ra). Đệ tử có bao nhiêu loại, ([kính xin] đấng
Đại Mâu Ni cũng nói)? Biết thế đất như thế nào? [Tức là] hỏi cuộc đất tốt, xấu
(tức là chọn cuộc đất tốt, [phân định] sự thành tựu thượng, trung, hạ nơi đất
v.v…) Chọn lựa cuộc đất như thế nào? Đã chọn [cuộc đất] rồi, hãy nên tác tịnh
như thế nào? Đã tác tịnh rồi thì an trụ như thế nào? (Tuy đã tác tịnh, lại sợ bị
kẻ gây chướng tạo khổ não. Vì thế, hỏi an trụ như thế nào?) Lại có ba câu hỏi,
hỏi tác tịnh cho đệ tử ra sao, nguyện đức Phật nói cho (trước đó là hỏi có mấy
loại đệ tử. Nay đã có đệ tử rồi, bèn hỏi làm chuyện gì trước hết?) Tướng [cuộc
đất] đã được tịnh trị lại là như thế nào? (Ở đây là hỏi về thầy, hỏi về đất, hỏi
về đệ tử. Ba chuyện ấy là ba câu hỏi). Hỏi dùng gì để thủ hộ? Hộ trì cuộc đất lại
như thế nào? (Cũng hỏi thầy tự làm pháp thủ hộ, thủ hộ cõi đất, và thủ hộ đệ tử,
tức là ba chuyện ấy tương ứng với ba câu hỏi).
Lại gia trì cuộc đất như thế nào? Kết hộ trì v.v… có nhiều
nghĩa, cũng hỏi ba sự. Tác dụng đầu tiên là gì? (Tức là đất đã được thủ hộ, tịnh
hóa xong, bèn dựa vào cái đàn ấy để làm chuyện đáng nên làm. Trong ấy, có hai
chuyện được thực hiện: Chuyện làm bên ngoài tức là các chuyện thuộc về phương
diện tạo đàn; chuyện được làm bên trong tức là thầy tu pháp Du Già, tự quán
thân mình giống như Đại Nhật Như Lai v.v…). Dùng các pháp chân ngôn v.v… nào?
Thực hiện thủ hộ trước, hay tịnh trừ trước? Tức là hỏi thứ tự trước sau của mỗi
chuyện trên đây. Hai chuyện ấy đều là tác dụng. Dây chỉ [để kết giới thủ hộ đàn
tràng] có mấy thứ? Lại đo lường đất như thế nào? (Tức là dùng chỉ để đo đất và
buộc dây chỉ)? Đó là dùng chỉ để
hoạch định giới hạn [của đàn tràng].
Cúng dường lại có mấy thứ? Những gì là hoa, hương? (Trong ấy
lại có hương bôi, đèn v.v… Và lưới báu, lầu báu, cây cối v.v… tức là các thứ vật
cúng. Chuẩn theo lệ mà làm, cho nên nói là “đẳng”. “Đẳng”
có nghĩa là “nhiều thứ”). Hỏi
dâng hương, hoa bằng cách nào? Hoa nên dâng cúng cho ai? (Tức là hoa có bao
nhiêu loại, đáng nên dâng loại hoa nào cho vị tôn thánh nào, cũng có sai khác.
Cúng Phật nên dùng loại hoa nào? Cúng Bồ Tát và chư thiên v.v… dùng loại hoa
nào?) Các thứ như hương v.v… cũng thế (Chuẩn theo cách dùng mà hỏi). Hiến thức
ăn (thức ăn có thượng, trung, hạ sai biệt). Làm hộ-ma như thế nào? Hỏi hộ-ma và
cúng Phật có thứ tự như thế nào? Nêu ra pháp tắc tức là nói đến thứ tự. Đấy là
nói chung.
Dâng tọa vị cho các tôn thánh như thế nào? (Tòa của Phật, Bồ
Tát, tám bộ, hãy nên làm tòa bằng vật gì? Dâng cúng như thế nào?) Pháp giáo,
pháp tắc, phương pháp, thứ tự, nghi quỹ đều hiển lộ hình sắc v.v… (“hiển” có nghĩa là chư tôn có màu
xanh, vàng, đỏ, trắng… “Hình”
là nói đến chuyện tọa vị lớn, nhỏ. “Sắc”
là tướng mạo, tức là cười hoan hỷ, phẫn nộ, hay trụ trong tịch tĩnh). Đó là ba
câu hỏi, xin hãy lần lượt nói. [Còn những điều] chẳng tương ứng với pháp tắc
như ấn của chư tôn và tự tòa (tức tòa để [A-xà-lê] thường tự ngồi niệm tụng, tức
là đệm bằng cỏ tranh v.v… Xin đạo sư hãy nói).
(Kinh) Hà cố
danh vi ấn? Thị ấn tùng hà sanh? Quán đảnh phục kỷ chủng? Tam-ma-da hữu kỷ?
Chân Ngôn giả kỷ thời, cần tu Chân Ngôn hạnh, đương cụ Bồ Tát đạo? Vân hà kiến
Chân Đế? Tất Địa hữu kỷ chủng? Cập dữ thành tựu thời, vân hà thăng Đại Không?
Vân hà thân bí mật, bất xả ư thử thân, nhi đắc thành thiên thân? Chủng chủng
chư biến hóa, bỉ phục tùng hà sanh? Nhật, nguyệt, hỏa phương đẳng, diệu, tú,
tinh, thời phần, sở hiện chư bất tường, sanh tử thọ chúng khổ, vân hà linh bất
khởi? Sở khởi tận diệt trừ, nhi đắc thường thân cận, chư Phật Lưỡng Túc Tôn? Kỷ
chủng hộ-ma hỏa, kỷ sự nhi tăng oai? Chư Phật sai biệt tánh, duy nguyện Đạo Sư
thuyết. Vô dư chư thế giới, cập dữ xuất thế gian, bỉ quả cập số lượng, thù thắng
Tam-ma-địa, thành thục tại hà sở? Vị thành thục vân hà? Phục tễ ư kỷ thời, nghiệp
sanh đắc giải thoát?
(經)何故名為印?是印從何生?灌頂復幾種?三摩耶有幾?真言者幾時,勤修真言行,當具菩薩道?云何見真諦?悉地有幾種?及與成就時,云何昇大空?云何身祕密,不捨於此身,而得成天身?種種諸變化,彼復從何生?日月火方等,曜宿星時分,所現諸不祥,生死受眾苦,云何令不起,所起盡除滅,而得常親近,諸佛兩足尊?幾種護摩火,幾事而增威?諸佛差別性,唯願導師說。無餘諸世界,及與出世間,彼果及數量,殊勝三摩地,成熟在何所?未成熟云何?復劑於幾時,業生得解脫?
(Kinh: Vì
sao gọi là ấn? Ấn ấy sanh từ đâu? Quán đảnh lại mấy thứ? Mấy loại tam-ma-da? Bậc
Chân Ngôn mấy thời, siêng tu hạnh Chân Ngôn, sẽ trọn Bồ Tát đạo? Thấy Chân Đế
ra sao? Tất Địa có mấy loại? Và đến lúc thành tựu, thăng lên không thế nào?
Thân bí mật ra sao? Chẳng xả tấm thân này, mà được thành thân trời? Đủ các loại
biến hóa, lại từ đâu sanh ra? Các phương nhật, nguyệt, hỏa, các tinh tú, thời
phần, hiện các điềm bất tường, sanh tử chịu các khổ, sao khiến chẳng dấy lên?
Đã khởi, diệt trừ hết? Lại được thường thân cận, chư Phật Lưỡng Túc Tôn? Lửa hộ-ma
mấy thứ? Mấy sự tăng oai thế? Chư Phật tánh sai biệt, kính mong Đạo Sư nói. Các
thế giới chẳng sót, cùng với xuất thế gian, quả ấy và số lượng. Tam-ma-địa thù
thắng, vì sao chưa thành thục? Lại gồm trong mấy thời, được giải thoát nghiệp
sanh?)
Ấn lại sanh từ nơi nào? Nói các ấn ấy lại dùng để làm gì?
(Như thế gian tạo ra ấn để [đóng trên công văn ghi mệnh lệnh của] các bậc như
vua chúa, khiến cho người khác tin tưởng, chẳng ngờ vực sự chân, ngụy. Nay ấn của
Như Lai lại là như thế nào?) [Con muốn biết] danh hiệu của các ấn ấy; lại do vì
sao mà gọi là “ấn”? (mong được
biết nguyên do). Có mấy loại quán đảnh? (mong được hiểu biết). Có mấy loại
tam-muội-da? Người trì tụng chia thành mấy thời (xét ra, có ba câu hỏi)? Người
trì tụng siêng tu môn Chân Ngôn, khi nào sẽ thành tựu Bồ Tát đạo? Nguyện đấng
Nhất Thiết Trí hãy nói. Bao lâu sẽ “kiến
Đế” (tức là đạt được tri kiến như thật trong Chân Ngôn môn. Ý nghĩa
chánh yếu là khi nào sẽ đạt được?) Có mấy loại Tất Địa? (muốn được hiểu biết).
Khi nào Tất Địa sanh? Và nói từng thời điểm của Tất Địa (tức là gồm ba câu hỏi).
Thế nào để thăng lên thái hư không? Thế nào là thân bí mật? (Xét ra, gồm hai
câu hỏi). Vì sao chẳng bỏ thân này mà thành được thân thiên tiên? Đã thành tựu
thì các thứ biến hóa sẽ sanh khởi như thế nào? (Tức là hết thảy các sự đều thuận
theo ý niệm mà được thành, chuyện ấy sanh từ chỗ nào? Từ tự tâm ư? Hay từ nơi
nào khác?) Các thứ biến hóa do ai sanh? Các thứ ấy lại do đâu mà có thể sanh?
Trừ khử các điềm xấu nơi mặt trời, mặt trăng, chỗ có hỏa
tai, các tinh tú trực nhật, thời phần v.v… bằng cách nào? (Mặt trời, mặt trăng
biến hóa, dấy lên hỏa tai, hoặc nơi chốn có chuyện quái dị. “Tú” là Nhị Thập Bát Tú, “tinh” là các ngôi sao). Và các thứ
sanh tử thọ khổ dấy lên, làm thế nào để đều trừ diệt? “Chẳng có” nghĩa là “trừ diệt”. Làm thế nào để hành giả thường với
chư Phật ở cùng một chỗ? Có mấy loại hộ-ma? Ở đây hỏi khi hộ-ma cần dùng mấy loại
lửa, mong được biết! “Tăng oai thế
trong lửa” tức là pháp Tăng Ích [bằng cách hộ-ma]. Lại có mấy loại tăng
oai thế? Các thứ như hoa, hương v.v… sử dụng trong hết thảy các chỗ [như thế
nào?] Do tánh chất của các vị tôn thánh khác biệt (như Phật, Bồ Tát, tám bộ có
hình sắc và tánh loại khác nhau), cần phải biết bổn tánh của các vị [tôn thánh]
ấy là phẫn nộ, tịch tịch, hay hoan hỷ v.v… Kính mong đấng Đạo Sư dạy cho.
Các thế giới chẳng thừa sót và quả xuất thế gian gồm mấy loại?
Số lượng như thế nào? (“Xuất thế” là
Phật, Bồ Tát; “thế gian” là tám
bộ. Thời lượng sẽ thành tựu, quả vị và số lượng là như thế nào? Phần này bao gồm
sáu câu hỏi). Lại hỏi tam-muội thế gian và xuất thế gian là như thế nào? [Mỗi
môn tam-muội] đều có Định thù thắng. [Phần này] hợp với các câu trước thành tám
câu hỏi. Tác nghiệp thành tựu ở chỗ nào? [Có nghĩa là] hỏi về sự thành tựu, nhận
lãnh cái quả [thành tựu] thì ở phương vị, nơi chốn nào? Đối với người chưa
thành tựu cũng thế, hỏi [vì sao] họ chẳng thành tựu? Lại hỏi khi nào có thể lìa
nghiệp sanh (tức các quả sanh khởi bởi nghiệp đã tạo) để được giải thoát?
Khi đó, ngài Kim Cang Tạng nương theo oai thần của mười
phương chư Phật, nói kệ hỏi đức Phật; [bởi lẽ], các vị Bồ Tát Chân Ngôn hạnh có
những điều thiếu khuyết, và phương tiện pháp yếu chưa được trọn vẹn, nên cần được
giải đáp.
(Kinh) Chánh
Giác Nhất Thiết Trí, ly nhiệt não Thế Tôn, cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai,
Đại Cần Dũng! Bí mật Mạn-đồ-la, quyết định thánh thiên vị, đại bi căn bản sanh,
vô thượng Ma Ha Diễn, chư Phật tối bí mật. Như nhữ chi sở vấn, đại lực Trì Kim
Cang, ngã kim lược tuyên thuyết. Mạn-đồ-la sơ nghiệp, Phật tử ưng đế thính. Thập
nhị chi cú sanh, đại lực trì Minh Vương, sở ưng tối tiên tác. Trụ ư bổn tam-muội,
giải liễu Du Già đạo, nhi tác chúng sự nghiệp.
(經)正覺一切智,離熱惱世尊,告金剛手言:善哉大勤勇,祕密漫荼羅,決定聖天位,大悲根本生,無上摩訶衍,諸佛最祕密,如汝之所問。大力持金剛,我今略宣 說,漫荼羅初業,佛子應諦聽。十二支句生,大力持明 王,所應最先作。住於本三昧,解了瑜伽道,而作眾事 業。
(Kinh:
Chánh Giác Nhất Thiết Trí, Thế Tôn lìa nhiệt não, bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành
thay, Đại Cần Dũng! Mạn-đồ-la bí mật, thánh thiên vị quyết định, đại bi căn bản
sanh, là Đại Thừa vô thượng, bí mật nhất của Phật. Như lời ông đã hỏi, đại lực
Trì Kim Cang, ta nay nói đại lược. Sơ nghiệp Mạn-đồ-la, Phật tử nên lắng nghe.
Câu mười hai chi sanh, đại lực trì Minh Vương, nên thực hiện trước hết. Trụ
trong bổn tam-muội, thấu hiểu đạo Du Già, để làm các sự nghiệp).
Khi đó, đức Nhất Thiết Trí Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn [là đấng]
lìa các nhiệt não, nghe [Kim Cang Thủ] Bồ Tát hỏi các chuyện bí yếu, bèn tán
thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại tâm siêng năng, dũng mãnh, (tức là
người trong hết thảy các thời đều to lớn, có đại tâm, đại nguyện, đại hạnh
v.v…) “Mạn-đồ-la bí mật phối ứng với
các tôn vị quyết định” (đó là ý nghĩa của câu “thánh thiên vị quyết định” trong chánh kinh): Các tọa vị của
các vị tôn thánh đã được sắp xếp [theo các vị trí] nhất định [trong Mạn-đồ-la].
“Bí mật” chính là tạng bí áo của
Như Lai. Ngài thầm lặng suy nghĩ đã lâu, giống như hoa Ưu Đàm, đúng thời mới
nói ra. Nếu chẳng đúng người, sẽ chẳng tùy tiện truyền trao, chẳng giống như
các giáo pháp thông thường được hiển lộ. Mạn-đồ-la có nghĩa là “trọn đủ các đức”, tức là đức bí mật
của Như Lai. Các đức bí mật như thế giống như hoa sen xòe nở, tự trang nghiêm. “Phối ứng tôn vị quyết định” có nghĩa
là chọn lựa dứt khoát. Tạng liên hoa bí mật như thế, phân biệt các thứ phần vị,
các chuyện đáng nên làm đều “quyết trạch”
(chọn lựa dứt khoát). “Quyết”
có nghĩa là “nhất định”.
Cội nguồn đại bi được sanh khởi từ căn bản đại bi. [Đức Phật
nói] “Đại Thừa vô thượng là điều bí mật
nhất của chư Phật” chính là nói: Mạn-đồ-la này chính là căn nguyên của
vô thượng Đại Thừa. Có nghĩa là tâm Bồ Đề dùng đại bi làm căn bản, cũng giống
như thai tạng. Vì thế nói là “căn bản”. “Thừa” là chuyện [cần phải làm] của
Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh. Do trọn đủ phương tiện ấy, sẽ đi trên con đường to lớn,
thẳng thừng, một mực chẳng vướng chướng nạn, đạt tới chân thật. Giống như ngồi
cỗ xe êm ả, mát mẻ, đi trên con đường to lớn, thẳng thớm, tới được tòa thành to
lớn. Đấy chính là pháp bí yếu tối thượng của chư Phật. Nếu nói rộng thì cho tới
hết kiếp vị lai, vẫn chẳng thể cùng tận. Hiện thời, chỉ dùng phương tiện để nói
đại lược! Nay thì trong một lời mà trọn đủ hết thảy các nghĩa vị; vì thế gọi là
“lược thuyết” (nói đại lược).
Ông có thể hỏi mật sự ấy của Phật, ta nay sẽ nói đại lược. Trước hết là tán
thán pháp, hứa sẽ nói đại lược; sau đó, thuận theo lời hỏi ấy mà giải đáp theo
thứ tự.
Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: “Lắng nghe Minh Vương được sanh bởi câu gồm mười hai chi trong Đại Lực
Mạn-đồ-la”, đó là trước hết giải đáp [câu hỏi về] nghiệp đầu tiên [phải
thực hiện] của Đại Lực Mạn-đồ-la. Trước hết, hãy nên làm điều ấy. Đó chính là “câu gồm mười hai chi” như đã nói
trong phần trước (từ câu mười hai chi ấy mà sanh ra Đại Lực Minh Vương này),
sanh ra mười hai câu pháp giới thể. Trước hết, hãy nên “làm” (tức trì tụng, quán tưởng) Minh Vương ấy. Do Minh Vương ấy thâu nhiếp trọn hết thảy tất cả thế gian
và xuất thế gian, lúc mới làm đàn, trước hết hãy nên trụ trong Minh Vương
tam-muội ấy. “Vương” là nói đến
đức Đại Nhật. Đấy chính là nói nơi tâm đặt chữ tối sơ thuộc mười hai chữ (tức
mười hai chữ của Đại Chân Ngôn Vương trong phần trước là āṃ, khāṃ, aṃ, aḥ, saṃ,
saḥ, haṃ, haḥ, raṃ, raḥ, vaṃ, vaḥ). Dùng chữ tối
sơ để trì thân, Chân Ngôn đều được nhiếp trọn hết trong ấy. Muốn làm Mạn-đồ-la,
cần phải tụng [Minh Vương này] trước. Tức là khi sắp tạo Mạn-đồ-la, cần phải tụng
trước; sau đó mới trụ trong Du Già. Du Già chính là hạnh ứng với lý của Minh
Vương này. Đã trụ trong Du Già, hãy nên chánh quán sát: Nay đối với chuyện muốn
làm, hãy nên làm chuyện gì? Tức là tùy thuộc năm bộ mà sử dụng sự sai khác năm
chữ (a, ra, va, ha, kha) đã nói trên đây, [đàn tràng] hoặc vuông, hoặc tròn, hoặc
tam giác, bán nguyệt các loại, và đàn thượng, trung, hạ dùng để làm gì? Căn
tánh của đệ tử như thế nào? Các loại như thế đó đều đã biết thì mới có thể làm.
Nhưng trong Chân Ngôn Vương ở đây, đối với việc phân biệt các thứ chuyện sai biệt
mà vẫn chưa hiểu rõ thì phải hỏi han. Lại nữa, “biết trước” có hai loại:
- Do vị thầy (A-xà-lê) đã kiến Đế, có thể từ trong Chân
Ngôn Vương như thế mà thấy hết thảy các căn duyên, thông đạt chẳng chướng ngại.
- Nếu thầy chưa kiến Đế, cần phải vâng theo giáo pháp, lời
thầy mình truyền dạy, và chỉ thú được truyền dạy để quán sát. Đó cũng là loại
thứ hai.
Đã quán sát biết rồi, tùy theo chuyện đáng nên làm mà làm.
Vì thế, trước hết cần đến Chân Ngôn Vương này. Dùng bổn tam-muội để gìn giữ
thân xong, trước hết là hiểu biết đạo Du Già, sau đấy mới tùy ý làm các sự nghiệp.
Giải thích theo ý nghĩa bí mật, Chân Ngôn Vương mười hai
câu này chính là Kim Cang tam-muội, Bồ Tát ắt phải ngồi đạo tràng, nhập kim
cang giới, sẽ được mười phương chư Phật đồng thời quán đảnh, cùng gia trì, được
nhập Phật vị. “Nhập Phật vị”
chính là ý nghĩa “rốt ráo thành tựu Đại
Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la”. Ngài Kim Cang Thủ do nhập Chân Ngôn Vương
này, cho nên cũng ở trong kinh này, được mười phương chư Phật cùng nhau gia
trì, nay lại quyết trạch tạng Đại Bi. Nếu chẳng phải như vậy, há có thể được
chư Phật quán đảnh giống như địa vị Như Lai pháp vương ư? Nhưng trong cách tạo
Mạn-đồ-la, trước tiên là cần phải có A-xà-lê. Do vậy, kế đó [đức Phật] giải đáp
[lời hỏi về A-xà-lê].
(Kinh) A-xà-lê
hữu nhị, thông đạt ấn chân ngôn, bỉ tướng diệc như thị. Thâm bí, hiển lược
phân, năng tri thâm quảng nghĩa, khả truyền giả phương thọ. Chánh Giác chi trưởng
tử, viễn ly ư thế lạc. Đệ nhị cầu hiện pháp, thâm trước si phan duyên, thế gian
Mạn-đồ-la, nhất thiết vị tư tác.
(經)阿闍梨有二,通達印真言,彼相亦如是,深祕顯略分。能知深廣義,可傳者方授,正覺之長子,遠離於世樂。第二求現法,深著癡攀緣,世間漫荼羅,一切為斯 作。
(Kinh: A-xà-lê
hai loại. Thông đạt ấn, chân ngôn, tướng ấy cũng như thế. Sâu mật và sơ sài.
Người hiểu nghĩa sâu rộng, kẻ đáng truyền mới dạy. Con trưởng đấng Chánh Giác,
xa lìa vui thế gian. Thứ hai, cầu hiện pháp, chấp sâu, nắm níu si, thế gian Mạn-đồ-la,
hết thảy vì đó làm).
Hãy nên biết thầy có hai loại:
1) Phàm người thuộc địa vị làm thầy, cần phải hiểu trọn vẹn
chân ngôn, ấn, và hình tướng của Bổn Tôn. Đối với mỗi điều trong ấy đều liễu đạt,
chẳng nghi, biết rõ tướng sai biệt của pháp thượng, trung, hạ. Nhưng [loại
A-xà-lê này] lại chia thành hai loại. Lại chia thành hai loại như sau: Một là
thông hiểu sâu xa, bí mật; hai là người hiểu biết thông thường, đại lược. Nói “sâu” tức là có thể biết rõ sâu rộng,
tức là đối với tam-muội trong Chân Ngôn hạnh, khéo hiểu biết lý thú, hiểu sâu rộng
Đại Thừa, có thể kham tiếp nhận sự ủy thác, phó chúc. “Kham tiếp nhận ủy thác, phó chúc” ở đây chính là [A-xà-lê] khéo
biết thời nghi, liễu giải căn tánh [của người cầu pháp, biết kẻ ấy là kẻ đáng]
kham truyền thọ, bèn làm “bạn chẳng thỉnh”,
khiến cho kẻ ấy chẳng bỏ lỡ đại sự nhân duyên. Đối với kẻ chưa kham, bèn thủ hộ
tâm ý họ, chỉ dạy pháp sâu khác, khiến cho họ được lợi ích, hoan hỷ. Vì thế, gọi
là “kham ủy thác, giao phó”.
Hãy nên biết [vị A-xà-lê như vậy] chính là trưởng tử của Phật. Do kiến Đế nên
thấy pháp, tức là thấy quả báo trong đời hiện tại, cho nên chẳng chấp tướng của
các pháp. Lìa cảnh tâm lượng phân biệt, nên gọi là Ly. Tức là lìa lợi lộc trong
đời hiện tại, thẳng thừng cầu Phật đạo. Hãy nên biết vị thầy ấy được mười
phương chư Phật hiện tiền, mỗi vị đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu sư, dùng pháp
quán đảnh để giao phó pháp tạng.
2) Loại thầy thứ hai, chỉ đạt được lợi ích trong pháp hiện
tại, và lợi ích thành tựu trong thế gian. Đối với câu “si” (tức câu “thân trước
si phan duyên” (thân chấp trước, nắm níu các si) trong chánh kinh), lại
có kèm thêm“duyên niệm”. [Vị thầy ấy] vì người khác mà tạo
đàn, nhưng cũng hiểu biết các thứ phương tiện tạo tác Mạn-đồ-la v.v… chẳng phạm
sai lầm. Kể từ khi được thầy quán đảnh, cũng có thể gọi là “vị thầy có hạnh sâu”, được quán đảnh
dự vào địa vị A-xà-lê, cũng được gọi là “được
Phật ấn khả”. Do vị ấy từ trong Mạn-đồ-la, đích thân đối trước chư tôn
mà tiếp nhận quán đảnh, dự vào ngôi vị thầy, cho nên được ấn khả.
Hãy nên biết người được Phật quán đảnh ở đây chính là vị thầy
sâu xa, bí mật, còn người được vị thầy thế gian trao truyền thì là hạng A-xà-lê
sơ sài, đại lược. Lời hỏi của ngài Kim Cang Tạng đều dựa theo những điều cần
thiết trong Mạn-đồ-la, đức Phật cũng theo thứ tự dùng kệ để giải đáp. Nay lời kệ
chưa trọn hết ý, trong phần sau sẽ có kinh văn giải thích thêm. Đức Phật đáp
[câu hỏi về] thầy xong; kế đó, sẽ đáp về tướng đệ tử. Vì sao vậy? Nếu chỉ có thầy
mà chẳng có đệ tử, sẽ thiếu khuyết cái duyên truyền pháp, khiến cho Phật chủng
chẳng được tiếp nối!
(Kinh) Chư Phật
Nhị Túc Tôn, quán đảnh truyền giáo giả, thuyết tứ chủng đệ tử, thời, phi thời
sai biệt. Nhất giả, thời niệm tụng. Phi thời, câu, phi câu. Cụ hữu nhất thiết
tướng, Phật thuyết thân đệ tử.
(經)諸佛二足尊,灌頂傳教者,說四種弟子,時非時差別。一者時念誦,非時俱非俱,具有一切相,佛說親弟子。
(Kinh: Chư
Phật Nhị Túc Tôn, bậc quán đảnh truyền giáo, nói bốn loại đệ tử, thời, phi thời
sai khác. Một là thời niệm tụng. Phi thời, đều đúng thời, cùng với đều phi thời.
Trọn đủ hết thảy tướng, Phật gọi “thân đệ tử”).
Kế đó, phân biệt tướng đệ tử, có bốn loại: Một là thời niệm
tụng đệ tử, hai là phi thời, ba là vừa là thời vừa phi thời, bốn là chẳng phải
thời mà cũng chẳng phải là phi thời. Đó là bốn loại:
1) Nói “thời”,
tức là như đệ tử cầu A-xà-lê, thỉnh hành pháp Chân Ngôn. Nếu thầy là bậc kiến Đế,
sẽ tự soi rõ cảnh duyên của người ấy, biết người ấy kham đảm nhiệm chuyện này,
bèn truyền trao hành pháp, dạy trò niệm tụng, hạn định chừng bao lâu đó sẽ được
thành tựu. Nếu là bậc thầy thế gian, tuy chẳng thể soi xét căn cơ từ trước [của
đệ tử], chỉ vâng theo lời dạy mà làm, dạy đệ tử niệm tụng, cầu mong tướng cảnh
giới giao cảm. Thầy cũng tự niệm tụng, nếu tương ứng, đệ tử đạt được cảnh giới
kham tiếp nhận pháp, thì khi đó, thầy cũng sẽ tự biết. Đã được tương ứng để tiếp
nhận pháp hạnh này, thầy cũng dạy trò niệm tụng như trên. Trong trường hợp này,
cũng có phương quỹ (phương cách, khuôn khổ, lề luật).
2) “Phi thời”
là cũng theo cách như trên, dạy họ tu hạnh Chân Ngôn, hạn định sẽ được thành tựu
vào lúc nào đó. Nếu đến lúc đó, pháp nghiệm chẳng thành, cần phải tăng thêm gia
hạnh, nên gọi là “phi thời”.
3) “Thời phi thời câu” (Vừa là thời, vừa là phi thời): Tuy trò tiếp nhận ngôn giáo của
thầy giống như trên, nhưng chưa thể vâng theo hành trì đúng như pháp, chưa đạt
tới lúc thành tựu. Loại này chẳng thuộc thời mà cũng chẳng thuộc phi thời,
nhưng vẫn thuộc vào địa vị tu học, nên gọi là “câu” (đều cùng).
4) “Câu phi”
(Chẳng phải là thời, mà cũng chẳng phải là phi thời): [Đệ tử]
chỉ phát tâm quy y, nhưng hoàn toàn chưa có thứ tự (chưa hề được truyền dạy
cách tu tập). Tuy thầy đã nhiếp thủ, nhưng đợi thời, đợi duyên đều chưa trọn vẹn, [do vậy], chưa thể trao truyền pháp yếu
chân ngôn cho người ấy được!
Lại nữa, người “trọn
đủ các tướng”, tướng cũng có hai loại:
- Một là ngoại tướng, tức là các chi phần đều chẳng khuyết
giảm, như trong phần trước đã nói cặn kẽ.
- Hai là nội giáo, mỗi điều đều có thể tu hành đúng như
pháp, đúng như Phật đã giáo sắc, chẳng dám trái nghịch. Như thế thì đều là “nội tướng” (hãy nên biết “Phật giáo sắc” chính là lời thầy dạy,
do thầy vâng theo lời Phật dạy mà hành).
Nhưng bốn loại người ấy đều thuộc địa vị đang tu học, chưa
được viên mãn.
(Kinh) Tối sơ
tri địa tướng, tức sở vị tâm địa, ngã dĩ thuyết tác tịnh, như tiền tu sự nghiệp.
Nhược ly ư quá hoạn, tâm địa vô sở úy, đương đắc thành chân tịnh, ly nhất thiết
chư quá. Kiên trụ như thị tri, kiến tự tam Bồ Đề. Nhược dị ư thử giả, phi năng
thanh tịnh địa. Nhược trụ vọng phân biệt, hành giả tịnh kỳ địa, Bí Mật Chủ phi
tịnh, dĩ ly Bồ Đề tâm, cố ưng xả phân biệt, tịnh trừ nhất thiết địa.
(經)最初知地相,即所謂心地,我已說作淨,如前修事業。若離於過患,心地無所畏,當得成真淨,離一切諸過。堅住如是知,見自三菩提,若異於此者,非能清淨地。若住妄分別,行者淨其地,祕密主非淨,以離菩提心,故應捨分別,淨除一切地。
(Kinh: Thoạt đầu, biết tướng đất, tức là nói tâm địa.
Ta đã nói tác tịnh, như trước tu sự nghiệp. Nếu lìa các lỗi họa, tâm địa chẳng
sợ hãi, sẽ được thành chân tịnh, lìa hết thảy các lỗi. Trụ vững, biết như thế,
thấy tự Tam Bồ Đề. Nếu khác với điều này, chẳng thể thanh tịnh đất. Nếu trụ vọng
phân biệt, hành giả tịnh cuộc đất, Bí Mật Chủ chẳng tịnh, do lìa Bồ Đề tâm. Vậy
nên xả phân biệt, tịnh trừ hết thảy đất).
Đã có đệ tử, điều trước hết là biết tướng đất. Kế đó, hãy
nên theo thứ tự nói về tướng đất, tức là nói tới tâm địa. Biết tướng cuộc đất
nào đáng nên tạo Mạn-đồ-la. Để tạo Mạn-đồ-la, cần phải chọn cuộc đất trước. Nói
tới “đất” thì đó chính là Bồ Đề
tâm. Trước hết, tịnh trị cái tâm này, tức là trước hết bèn “tác tịnh”. Trong phần trước đã nói
[cách tịnh trị cái tâm], tức tâm có [hoa sen] tám cánh v.v… [Hãy theo đúng cách
tịnh trị cuộc đất] như trong phần trước mà làm. Trước hết, tịnh hóa cuộc đất, tức
là các phương tiện để tịnh hóa Bồ Đề tâm như đã nói trong phần trước, nghĩa là
quán hoa sen tám cánh. Trên đài hoa, quán chữ A, cho đến thường đặt chữ Ám trên
đỉnh đầu. Nơi mắt, cũng đặt chữ Lam để quán cái tâm này, cổ đừng cúi xuống quá
thấp, hoặc giữ quá thẳng v.v… Những điều ấy đều là phương tiện để tịnh hóa tâm
địa. Đã tịnh tâm địa; kế đó, đặt chữ Ra nơi hai mắt để quán, tức là chọn lựa
tâm địa, trừ bỏ các cấu uế. Phương tiện này đã được nói cặn kẽ trong phần trước,
hãy nên hành theo đó. [Chánh kinh] nói “nếu
lìa lỗi, tâm địa chẳng sợ hãi”, tức là có thể dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh
để lìa các tướng, nghĩa là lìa các ái kiến Hoặc như phiền não, tùy phiền não
v.v… nên nói là “lìa các lỗi”.
Do lìa các thứ đường ác chẳng an ổn, phiền não, hiểm trở, đáng sợ hãi như thế,
mà đạt được tánh an lạc, nên nói là “vô
úy”. Khi đạt được thanh tịnh, sẽ lìa hết thảy các lỗi. Đã đạt được hết
thảy thanh tịnh, do lìa các lỗi, tâm không sợ hãi, cho nên Bồ Đề tâm có thể rốt
ráo thanh tịnh. Nếu đã trụ vững nơi tịnh địa như thế, sẽ thấy Tam Bồ Đề. “Biết” là biết như thế đó. Biết như
thế bèn thấy Phật xứ. Trụ vững trong đó, chính là đã lìa hết thảy các lỗi, chẳng
bị ô nhiễm bởi tạp nhiễm phân biệt, hãy nên giữ [cái tâm Bồ Đề] bất động, chớ để
lui mất, nhất định sẽ có thể đạt tới Vô Thượng Bồ Đề. Nhưng thấy Bồ Đề tâm
thanh tịnh như thế, rốt ráo vô dư, tức là thành tựu trí Nhất Thiết Trí. Nếu
khác với điều này, sẽ chẳng thể tịnh địa!
Nếu phân biệt, sẽ là trụ trong “chẳng phải tịnh địa”: Nếu khác với điều này, sẽ chẳng thể tịnh
trị cuộc đất, nghĩa là nếu A-xà-lê chẳng phải làm như thế để tự tịnh trị cuộc đất
của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, sẽ chẳng gọi là “chọn lựa cuộc đất thanh tịnh”. Do chẳng thể lìa vọng tưởng,
phân biệt huyễn hoặc, luôn ở trong các lỗi, chẳng thể tránh khỏi sợ hãi, suy
não, sao có thể gọi là “khéo tịnh hóa
cuộc đất Mạn-đồ-la” cho được? Vì thế, kinh dạy: “Nhược trì tụng giả trụ tại phân biệt, nhược tác tịnh địa giả, phi tịnh.
Bí Mật Chủ! Ly Bồ Đề tâm cố” (Nếu người trì tụng trụ trong
phân biệt mà tịnh hóa cõi đất thì [cõi đất ấy] chẳng thanh tịnh. Bí Mật Chủ! Do
[người ấy đã] lìa Bồ Đề tâm). Hai loại thầy đều cần phải trụ trong Bồ Đề tâm, hễ
phân biệt thì chẳng phải là tịnh địa.
Như phần tạo đàn thuộc chương trước đã nói, phân định [đàn
tràng to] một khủy tay, tuy trị địa đúng pháp, nhưng đất vẫn chẳng thành! Vẫn cần
phải trụ trong Bồ Đề tâm một thời gian ngắn; hễ lìa khỏi điều này, sẽ chẳng
thành. Đào bỏ đất xấu, lựa bỏ các thứ cát, sỏi, lông, tóc, ngói, đá. Nếu là những
thứ uế ác nhỏ nhặt, sẽ không có cách nào loại bỏ trọn hết từng thứ được. Lại nữa,
trong khoảng đất to một khủy tay tuy tịnh, nhưng nếu ngoài một khủy tay mà có
các thứ vật xấu ác, cũng chẳng thể chọn [cuộc đất ấy]. Làm như thế nào để khiến
cho Mạn-đồ-la ấy đạt được thanh tịnh rốt ráo? Vì thế, hãy nên biết: Nếu có thể
tịnh cái tâm Bồ Đề, lìa bỏ hết thảy phân nhơ hý luận và phân biệt, tịnh hóa cuộc
đất tự giác, hãy nên biết đó gọi là “thiện
tu kỳ địa” (khéo tu sửa cuộc đất ấy). Nếu thầy hiểu theo [văn tự trong]
kinh văn, chỉ tuân theo thứ tự của pháp dụng đã nói trong các phần trước để làm
theo từng sự, hãy nên biết người ấy (vị thầy ấy) thuộc địa vị phàm ngu, chẳng
thể liễu đạt tác dụng bí mật. Hãy nên biết: Hiểu như thế, tức chẳng phải là
[chân nghĩa của] bậc Nhất Thiết Trí đã nói. Vì lẽ nào vậy? Nếu chẳng thể tịnh
hóa tâm địa, do có phân biệt, vọng tưởng, sẽ chẳng thể lìa bỏ cái nhân gây khổ.
Vì thế, chẳng phải là điều bậc Đẳng Chánh Giác đã nói. Trong, ngoài đều do tâm;
do tâm tịnh nên cõi đất tịnh. Vì thế, cần phải bỏ phân biệt, hòng tịnh trừ hết
thảy cuộc đất. Đáp chung các chuyện về đất đã xong.
(Kinh) Ngã quảng thuyết pháp giáo, sở hữu Mạn-đồ-la, thị
trung
sở tiên sự, ngu si bất tri giải, phi danh thế gian giác, diệc phi Nhất Thiết
Trí. Nãi chí bất năng xả, phân biệt chư khổ nhân. Ưng đương vị đệ tử, nhi tịnh
Bồ Đề tâm. Hộ dĩ Bất Động Tôn, hoặc dụng Hàng Tam Thế. Nhược đệ tử bất vị, vọng
chấp chi sở động, đương thành Tối Chánh Giác, vô cấu dụ hư không. Sơ gia trì thị
địa, y ư chư Phật giáo, đệ nhị tâm tự tại. Duy thử phi dư giáo.
(經)我廣說法教,所有漫荼羅,是中所先事,愚癡不知解,非名世間覺,亦非一切智,乃至不能捨,分別諸苦因。應當為弟子,而淨菩提心。護以不動尊,或用降三世。若弟子不為,妄執之所動,當成最正覺,無垢喻虛空。初加持是地,依於諸佛教,第二心自在,唯此非餘教。
(Kinh: Ta rộng nói pháp giáo, tất
cả Mạn-đồ-la. Chuyện trước hết trong ấy, ngu si chẳng biết hiểu. Chẳng gọi thế
gian giác, chẳng phải Nhất Thiết Trí. Cho đến chẳng thể xả, phân biệt các
khổ nhân. Hãy nên vì đệ tử, mà tịnh Bồ Đề tâm. Hộ bằng Bất Động Tôn, hoặc dùng
Hàng Tam Thế. Nếu đệ tử chẳng bị, lay động bởi vọng chấp, sẽ thành Tối Chánh
Giác, vô cấu dường hư không. Trước gia trì đất ấy, nương lời chư Phật dạy. Thứ
hai, tâm tự tại. Chỉ giáo này chẳng khác).
Đã tịnh Bồ Đề tâm xong, hãy nên dùng Đại Bi Thai Tạng để
trưởng dưỡng. Sợ các đàn tràng đã nói bị thiếu khuyết pháp tắc, ta sẽ theo thứ
tự rộng nói (“thứ tự” ở đây
chính là vâng theo pháp). Kẻ chẳng biết chuyện nào đáng nên làm trước là do ngu
si nên chẳng hiểu (chỉ quan tâm cái quả thượng, trung, hạ, chẳng biết trụ trong
tâm địa). Nếu chẳng trụ tâm mà toan cầu vị Phật vô thượng trong thế gian, chẳng
có lẽ ấy! Cũng chẳng thể gọi là Nhất Thiết Trí, thậm chí chẳng thể xả cái nhân
phân biệt gây nên nỗi khổ ấy! Sợ họ thoái thất; vì thế, cần phải kết hộ. Do vậy,
kế đó, kinh dạy: “Dĩ Bất Động Tôn nhi
thủ hộ chi” (Dùng [minh chú của] Bất Động Tôn để thủ hộ), [Bất Động Tôn]
tức là Bất Động Minh Vương. Hãy nên dùng Bất Động chân ngôn tâm để thanh tịnh Bồ
Đề tâm. “Vi” tức là thực hiện
các chuyện. Khuyên đệ tử phát tâm như thế tức là “trụ trong Bồ Đề tâm”. Thủ hộ
đệ tử, tức là bất động. Chính là dùng môn chữ Ha (ह), vì Ha có nghĩa là cái nhân.
Nói “tịnh Bồ Đề tâm” tức là hết
thảy; trước hết, trụ trong Bồ Đề tâm. Thầy và trò cùng trụ rồi sau đó mới dùng
hai vị tôn thánh ấy (Bất Động và Hàng Tam Thế) để thủ hộ. Đó là cái nhân của
trí Nhất Thiết Trí. Bên cạnh [chữ Ha] có chữ A âm dài (ā) là hạnh, phía trên [chữ Ha] có chấm tròn, có nghĩa là “chứng Đại Không”. Dùng diệu nhân ấy
để khởi chánh hạnh, hạnh bằng với hư không. Dùng ba pháp ấy để thủ hộ cái tâm,
khiến cho nó rốt ráo chẳng thể dời chuyển hay bị đoạt mất.
Nếu chẳng dùng [chân ngôn của ngài] Bất Động để thủ hộ, thì
dùng [chân ngôn của] Hàng Tam Thế Minh Vương cũng được. “Thế” là nói tới Tam Độc; do Ngài hàng phục Tam Độc, được đại tự
tại trong thế gian, nên gọi là Tam Thế Thắng. Ở đây, cũng có phương tiện, cần
phải tra cứu thêm. Nếu đệ tử có thể thành tựu chuyện này, sẽ chẳng bị si nhiếp
phục. “Si” là chấp trước. Hễ có
chấp trước, sẽ chẳng thể trụ trong “ly
si”. “Ly si” tức là bất
động. Hễ có cái để quán, có cái để đạt được, thì đều là Si. [Ly si] tức là chẳng
bị dao động bởi chấp trước hư vọng, nhất định thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, thanh
tịnh vô cấu giống như hư không. Hư không chẳng có gì có thể dao động, rộng lớn
không ngằn mé, mà có thể dung chứa hết thảy sắc tượng. Hãy nên biết cái tâm Nhất
Thiết Trí cũng lại giống như thế.
Kế đó, [chánh kinh nói] “lại gia trì đất” là nói tới môn chữ A. Hãy nên dùng chữ A để
gia trì. Đó là lời dạy của chư Phật. Hết thảy Như Lai xưa kia do môn này mà
thành Chánh Giác, dùng môn này để thủ hộ cái tâm. Hoặc lại thêm chữ Ám trên đỉnh
đầu và thêm chữ Ra nơi mắt v.v… nhằm kiên cố Bồ Đề tâm. Vì thế, nghiệp tự tại
được thành. Nếu làm khác đi, sẽ chẳng đạt được tâm tự tại; vì thế nói: “Chẳng phải điều gì khác”. “Chẳng phải điều gì khác” tức là nói
hết thảy Như Lai thành Phật, chẳng có con đường nào khác, chỉ có một môn này. Đầu
tiên là gia trì cõi đất, nương theo lời đức Phật dạy, “Phật” là nói đến chữ A. Thứ hai là tâm tự tại, tức là đặt cái
chấm [Đại Không trên chữ A]. Cái chấm đó chính là tam-muội. Do Định và Huệ bình
đẳng, hết thảy tự tại. Lại càng chẳng nên làm khác với lời dạy này. Đầu tiên là
nương theo lời Phật dạy để phát tâm, tức là chữ A. Sau đó, thành Phật, bằng với
Phật, cũng tức là chữ A. Bồ Đề tâm nương vào Phật mà khởi; do vậy, trừ hết thảy
phân biệt. Tuy chưa thành Phật, nhưng đã là chủng tử vô duyên. Trên đây là hỏi
đáp [về chuyện] gia trì đất!
(Kinh) Tứ chủng
Tô Đa La, vị bạch, hoàng, xích, hắc. Đệ ngũ sở ưng niệm, sở vị hư không sắc.
Không trung nhi đẳng trì, ấn định Mạn-đồ-la. Đệ nhị trì diên kinh, trí ư đạo
tràng địa. Nhất thiết Như Lai tòa, cập chư Phật trí tử, duyệt ý diệu liên hoa,
thế gian xưng cát tường. Duyên Giác, chư Thanh Văn. Sở vị biên trí giả. Đương
tri sở phu tòa, chi hà thanh liên diệp. Thế giới chư thiên thần, Phạm chúng dĩ
vi sơ. Xích sắc Bát Đàm hoa, bỉ xưng vi tòa vương. Giáng thử như sở ưng, niệm
cư kỳ địa phần.
(經)四種蘇多羅,謂白黃赤黑,第五所應念,所謂虛空色,空中而等持,印定漫荼羅。第二持綖經,置於道場地,一切如來座,及諸佛智子,悅意妙蓮華,世間稱吉祥;緣覺諸聲聞,所謂邊智者,當知所敷座,芰荷青蓮葉;世界諸天神,梵眾以為初,赤色鉢曇華,彼稱為座王;降此如所應,念居其地分。
(Kinh: Bốn
loại Tô Đa la, là trắng, vàng, đỏ, đen. Màu thứ năm nên nghĩ, chính là màu hư
không. Cầm chỉ trong không trung, ấn định Mạn-đồ-la. Thứ hai, cầm chỉ căng, đặt
nơi đất đạo tràng. Hết thảy tòa Như Lai, con trí của chư Phật. Diệu liên hoa đẹp
dạ, thế gian gọi “cát tường”. Duyên Giác, các Thanh Văn. Gọi là bậc “biên trí”[1].
Nên biết cách trải tòa, lá non, cánh xen sanh. Các thiên thần thế gian, Phạm
chúng là đầu tiên. Hoa Bát Đàm sắc đỏ, được gọi là “tòa vương”. Các vị thần thấp
hơn, hãy nên theo đúng lẽ, nghĩ đặt đúng nơi chốn).
Đã gia trì đất xong. Kế đó, cần dùng chỉ để ấn định các vị
trí trong Mạn-đồ-la. Tiếng Phạn gọi chỉ căng là Tô Đát Lãm (chánh kinh phiên âm
là Tô Đa La, tức Sūtra), [do chỉ có công năng]
liên kết, duy trì các đức chẳng bị tản mát. Vì thế gọi là Diên (綖, chỉ căng). Có bốn loại chỉ, tức
là [chỉ có các màu] trắng, vàng, đỏ, đen. “Niệm” [trong câu “đệ
ngũ sở ưng niệm” (điều thứ năm hãy nên nghĩ nhớ)] ở đây có nghĩa là “hãy
nên nghĩ nhớ”. [Hàm ý: Chỉ để căng làm ranh giới của Mạn-đồ-la ngoài bốn màu
trên đây], lại còn có thêm một loại, tức là màu của hư không. Hư không có thể chứa đựng hết thảy các sắc tượng, tức là trọn đủ hết thảy các màu. Nếu chỉ
nương vào màu của hư không [khi từ dưới đất nhìn lên bầu trời], sẽ là màu xanh
nhạt, tức là màu của lá cây cỏ. Trắng có nghĩa là Tín, vàng là Tinh Tấn, đỏ là
Niệm, đen là Định, màu của Định có cùng màu với Niết Bàn. Huệ tức là Đại Không.
Đại Không trọn đủ hết thảy tướng, nhưng chẳng có tướng; vì thế là hết thảy các
màu.
Phàm khi xe chỉ, nếu mỗi mỗi
đều vâng theo pháp, hãy nên tạo riêng một Mạn-đồ-la. [Trong đó], xếp đặt bình
báu, hương, hoa, hương bôi, đèn v.v… và các thứ thức ăn, thực hiện đủ loại cúng
dường (cần phải hỏi về phương pháp). Sau đấy, sai bé gái xe chỉ. Hãy nên trước
hết cho nó thọ tám giới, mặc áo mới sạch, tắm gội bằng nước thơm, khiến cho
trong ngoài đều thanh tịnh, ngồi trong đàn tràng mà xe. Cách xe chỉ thì trước
đó sắp đặt sẵn các sợi tơ mịn, sao cho tột bậc đều nhau, lớn, nhỏ, căng hay
chùng, đều sao cho thích đáng. Lại chẳng được đứt nối, hay nối mối giữa chừng.
Khi xe chỉ, lại dùng lụa che miệng. Mỗi thứ tơ [có cùng một] màu thì ghép chín
sợi tơ lại để xe thành một sợi. Mỗi sợi tơ chỉ có một đầu xoắn lại, phần giữa
không được nối (tức không phải là sợ tơ bị đứt, đem nối thành một sợi dài). Mỗi
sợi [do chín sợi nhỏ xe lại] là một màu. [Các sợi tơ ấy], cứ năm màu xe chung
thành một sợi dây. Nếu xe dây mà chùng, căng, thô, tế không đều, lại không tận
tâm để làm, rõ ràng sẽ sanh ra pháp chướng, tổn hại thầy, mà cũng tổn hại đệ tử,
hoặc khiến cho họ phát chứng cuồng loạn v.v… Chớ nên không cẩn thận! Tôi cho rằng
“đồng nữ” (bé gái) là tam-muội.
Do tam-muội được điều hòa tột bậc cân bằng, sẽ tạo thành Ngũ Lực, Ngũ Căn. Do
căn và lực có thể liên kết mà duy trì các hạnh.
“Hư không trung đẳng trì” có hai loại, [tức hai ý nghĩa]:
- Nếu là bậc thâm hạnh
A-xà-lê, khi muốn làm đàn, đã tịnh Bồ Đề tâm địa xong, ở trong Du Già, vì độ đệ
tử, chánh quán phương vị gia trì trong Thai Tạng Đại Mạn-đồ-la, hết thảy các phần
vị đều hiểu rõ rành mạch. Như hư không có thể bình đẳng duy trì, “đẳng” nghĩa là “phổ biến”. “Trì” là nên làm như thế. “Làm”
nghĩa là “biết thứ tự”. Trước là Định đã không, thì các tôn vị cân bằng.
- Thứ hai là dùng dây căng
trên cuộc đất [sẽ làm] Mạn-đồ-la như đối trước mắt. Sau đó, vì độ người mà thuận
theo Thế Đế, xếp đặt các phương vị trên cuộc đất làm đàn tràng. Sau đó, ở trên
đó, dùng chỉ ngũ sắc để lượng định phương vị.
Nếu là bậc thâm hạnh
A-xà-lê, cũng nên trước hết dùng loại chỉ này để hoạch định phương vị. Định
phương vị xong, hãy nên nhất nhất dụng tâm xếp đặt, cũng khiến cho [trong tâm
A-xà-lê nghĩ tưởng] tất cả các phương vị [rành rẽ] như đối trước mắt. Hoặc có
thể dùng giấy bút để ghi chép; khi làm, bèn xếp đặt theo đó, chớ nên để gặp lúc
đụng chuyện bèn ngờ vực, lầm lẫn. “Không
trung” ở đây là như trong phần trước đã nói: Trước hết, [A-xà-lê] cùng đệ
tử đứng đối diện, kéo chỉ căng ra để định phương vị, đừng để chỉ thõng xuống đất.
Trước là đối diện nhau, căng chỉ ở trên không trung, mỗi người đều giữ cho chỉ
nằm ngang ngay tim, theo thứ tự mà xoay chuyển giáp vòng. Nếu chẳng có đệ tử trọn
pháp (tức đệ tử thông thạo cách làm đàn, đã được quán đảnh trước đó) chưa thể
kham cùng thầy tạo đàn, cũng có thể cắm cọc ở chỗ đệ tử để làm [mốc hòng căng
chỉ kết giới đàn tràng]. Đã định như thế xong, liền vận tâm sắp xếp các tọa vị.
Sau đấy mới thắt chỉ để vẽ từng chỗ. Nếu là bậc Du Già A-xà-lê cũng ở trong ấy
mà tạo các phương vị, sẽ thấy chư Phật, Bồ Tát, thiên thần v.v… rành rành tại
các phương vị, [nhưng vẫn] thuận theo pháp thế gian mà cũng thắt dây để xác định
các tọa vị, xác định các hình sắc [của các vị tôn thánh] để biểu lộ. Hãy nên biết
đấy chính là tọa vị tối thượng.
“Nhất thiết chư Phật trí” [tức câu “nhất thiết Như Lai tòa, cập chư Phật trí tử” (tòa của hết thảy các đức Như
Lai, và con trí huệ của chư Phật): Các Phật tử tán thán Bồ Tát trọn đủ
trí huệ. “Duyệt
ý diệu liên hoa, thế gian xưng cát tường” (Hoa sen mầu nhiệm đẹp ý, được thế gian ca ngợi là cát tường): Cõi đời ca ngợi,
coi đó là cát tường. Đây chính là lời giải đáp [cho câu hỏi] về biểu tượng của
các tọa vị. Như người đời coi hoa sen là cát tường, thanh tịnh, có thể đẹp ý mọi
người. Nay trong bí tạng, cũng coi diệu pháp liên hoa trong Đại Bi Thai Tạng là
cát tường sâu xa, bí mật nhất, hết thảy các thân pháp môn gia trì đều ngồi trên
đài hoa ấy. Nhưng hoa sen thế gian cũng có vô lượng sai khác, như là lớn, nhỏ,
nở, búp, sắc tướng đậm nhạt, mỗi mỗi khác nhau. Hoa đài nơi tâm địa cũng giống
như thế, cũng có Quyền, Thật, tách ra, gộp lại v.v… sai khác. Vì thế nói “người trí phải nên biết”.
Nếu là Phật, thì sẽ là hoa
Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka) tám cánh, tức hoa sen trắng. Hoa ấy nở xòe bốn phía. Nếu là
Bồ Tát, cũng sẽ ngồi trên hoa ấy, nhưng hoa nở một nửa, sao cho đừng nở bung
(hoa ấy hoặc trắng, hoặc vàng, hoặc là hoa sen báu đều được, nhưng hoa màu đỏ
là hoa thế gian, thuộc bậc hạ). Nếu là Duyên Giác hoặc Thanh Văn, sẽ ngồi trên
hoa đài, hoặc ngồi trên cánh của hoa Câu Vật Đầu (Kumuda). Kẻ thức cạn thì là
trí chấp vào một bên. Câu Vật Đầu là hoa sen xanh. Đấy chỉ là hoa sen có màu
xanh, nhưng lại có sai biệt là hoa sen xanh, ngồi trên cánh sen non, hoặc sanh
từ cánh hoa sen, chẳng thuộc loại này. Nếu là Tịnh Cư Thiên cho đến Sơ Thiền Phạm
Thiên v.v… [tức các vị trời] được thế gian xưng hiệu là Phạm, sẽ đều ngồi trên
hoa sen đỏ. “Niệm” là “nghĩ nhớ
chẳng quên”. Sắc hoa thuần đỏ, thế gian gọi nó là “tòa vương”. Nếu là Dục Giới Thiên và Địa Cư Thiên v.v… đều tùy
theo phương vị của họ mà biểu thị. Như đối với hình tượng của Đế Thích, bèn vẽ
núi chúa Tu Di, sơn thần ngồi trên núi, thủy thần ngồi trên mặt nước, thụ thần
ngồi trên cây, thành thần ngồi trên tòa thành. [Các cách biểu thị dựa theo danh
hiệu] như thế rất nhiều, hãy nên dùng ý để suy ra. Kế đó, chư thiên chia đất
làm tòa, tức các vị thuộc Dục Giới Thiên hoặc ngồi trên cỏ, hoặc ngồi trên lá
khô v.v… “Niệm” là suy niệm.
Lại nữa, ngài Tam Tạng nói:
“Hoa sen ở phương Tây có nhiều loại, một
là Bát Đầu Ma (Padma, lại có hai loại, một là màu đỏ, tức hoa sen ở phương này.
Hai là màu trắng. Nay phương này có hoa sen trắng, chẳng phải là Phân Đà Lợi),
Ưu Bát La (Utpala, cũng có hai màu trắng và đỏ. Lại có thứ chẳng trắng, chẳng đỏ,
giống như hoa Nê Lô Bát La - Nīla-utpala), Câu Vật Đầu (Kumuda, có hai loại đỏ và xanh. Lại
nói Câu Vật Đầu là hoa sen màu xanh), Nê Lô Bát La (hoa này sanh từ phân bò, cực
thơm, ngài Văn Thù cầm hoa này. [Kinh nói] “mục như thanh liên” (mắt như sen
xanh) cũng là nói về loại hoa này. Cũng có hoa Tô Kiện Tha Ca (Saugandhika) cũng tương tự, nhưng hoa nhỏ hơn), Phân Đồ Lợi Ca (Puṇḍarīka, hoa có thể trăm cánh. Mỗi cánh nâng đỡ nhau, tròn trặn
đáng yêu. Ngoài cùng cực trắng, hướng dần vào trong, màu sắc vàng dần. Cho đến
phần trong cùng nhất, có màu gần như giống như màu của đài hoa. Hoa này cực
thơm. Xưa kia, khi vua Lưu Ly (Virūḍhaka)[2]
hại các cô gái thuộc dòng họ Thích, ngài Đại Ca Diếp lấy hoa này từ ao A Nậu Đạt
(Anavatapta) đựng nước tám công đức rảy lên họ. Thân tâm các cô liền được an lạc,
mạng chung, sanh lên trời. Do vậy, Ngài bèn ném hoa vào trong ao, bèn mọc thành
giống hoa ấy, tới nay vẫn còn. Hoa to lớn, đáng yêu, đường kính hơn một thước,
rất đáng yêu thích. [Hoa sen trong tựa đề kinh] Pháp Hoa chính là dẫn khởi từ
loại hoa này. Đó chính là hoa tám cánh trong Mạn-đồ-la vậy”.
(Kinh) Cúng dường hữu tứ chủng, vị tác lễ, hiệp chưởng, tịnh cập từ bi
đẳng. Thế gian dữ hoa, hương. Tùng thủ phát sanh hoa, phụng chư cứu thế giả. Kết
Chi Phần Sanh Ấn, nhi quán Bồ Đề tâm. Các các chư Như Lai, bỉ sở sanh tử đẳng.
Dĩ thị vô quá hoa, phân diệu, phục quang hiển, pháp giới vi thụ vương, cúng dường
Nhân Trung Tôn. Chân ngữ dĩ gia trì, tam-muội tự tại chuyển. Thắng diệu quảng đại
vân, pháp giới trung xuất sanh. Tùng bỉ vũ chúng hoa, thường biến chư Phật tiền.
Kỳ dư thế thiên đẳng, diệc đương tán thử hoa. Phụng hiến tùy tương ứng, bổn
chân ngôn tánh loại. Như thị đồ hương đẳng, diệc tùy kỳ sở ưng. Không, Thủy
luân tương trì, thị vị Cát Tường ấn. Bỉ sở phụng hoa đẳng, đương tự tâm hiến
chi. Nhược chư thế thiên thần, ưng tri tại tề vị, hoặc Kim Cang Quyền ấn. Nhược
phục Liên Hoa Man, nhi tại không trung hiến. Đạo sư cứu thế giả, nãi chí chư thế
thiên, các như kỳ thứ đệ.
(經)供養有四種,謂作禮合掌,并及慈悲等。世間與華香,從手發生花,奉諸救世者,結支分生印,而觀菩提心。各各諸如來,彼所生子等,以是無過花,芬妙復光顯。法界為樹王,供養仁中尊,真語以加持,三昧自在轉,勝妙廣大雲,法界中出生。從彼雨眾花,常遍諸佛前,其餘世天等,亦當散此華。奉獻隨相應,本真言性類,如是塗香等,亦隨其所應。空水輪相持,是謂吉祥印,彼所奉花等,當自心獻之。若諸世天神,應知在臍位,或金剛拳印,若復蓮華鬘,而在空中獻,導師救世者,乃至諸世天,各如其次第。
(Kinh: Cúng dường có bốn thứ, là làm lễ, chắp tay, cùng với từ
bi thảy. Hoa, hương từ thế gian, và hoa sanh từ tay. Cúng các đấng cứu thế. Kết
Chi Phần Sanh Ấn, mà quán Bồ Đề tâm. Và mỗi một người con, sanh từ các Như Lai.
Dùng hoa không hơn đó, thơm đẹp lại rạng rỡ, pháp giới làm cây chúa, cúng dường
Nhân Trung Tôn. Dùng chân ngữ gia trì, tam-muội tự tại chuyển. Mây thắng diệu rộng
lớn, xuất sanh từ pháp giới. Từ đó, mưa các hoa, thường khắp trước chư Phật.
Các trời thế gian khác, cũng sẽ rải hoa này. Dâng hiến thuận tương ứng, tánh loại
của chân ngôn. Hương bôi như thế thảy, cũng theo lẽ đáng nên. Ngón cái bấm áp
út, đó là ấn Cát Tường. Khi dâng hương, hoa thảy, nên tự tâm hiến dâng. Nếu thiên thần thế gian, nên kết
ấn ngang rốn, hoặc ấn Kim Cang Quyền, hoặc là Liên Hoa Man, dâng hiến ở trên
không. Đấng Đạo Sư cứu đời, cho đến thế gian thiên, đều theo đúng thứ tự).
Kế đó, giải đáp ý nghĩa
cúng dường. Tuy trong lời giải đáp chẳng thuận theo thứ tự thưa hỏi, nhưng [lời
đáp] luôn dựa theo các nghĩa đã hỏi, chẳng trái lý, hãy nên dùng trí để lãnh hội.
Hãy nên biết cúng dường đại lược có bốn loại:
- Một là cúng dường hoa,
hương v.v… (và hương bôi, đèn v.v… cho đến thức ăn. Đó là sự cúng dường thế
gian, chỉ dùng vật chất để dâng hiến).
- Hai là chắp tay (tức là lễ
kính; đấy là ấn).
- Ba là từ bi.
- Bốn là vận tâm, tức là tưởng
hương, hoa trọn khắp pháp giới.
Đã “vận tâm” liền dùng Hiệp Chưởng Ấn, và ba sự như từ bi đều vận
tâm. Tuy trong kinh chẳng nói [cúng dường] hương, hoa v.v… [thì phải vận tâm],
nhưng xét theo ý nghĩa thì ắt phải nên có. [Chánh kinh nói] “hoa thủ” nhằm nhắc lại Hiệp Chưởng Ấn.
Hoa ấy sanh từ tay. “Phát Sanh”:
Dâng hiến Nhất Thiết Chi Phần Sanh Ấn. Quán Bồ Đề tâm, hoa thủ phát sanh chính
là kết ấn, kết ấn xong bèn vận tâm cúng dường. Đối với Nhất Thiết Chi Phần Sanh
Ấn[3],
trong phần trước đã có chân ngôn, nhưng chẳng nhắc tới ấn, hãy nên kiểm xem.
Dùng ấn gia trì như thế xong, hãy nghĩ tới Bồ Đề tâm, tưởng thấy hoa sanh ra từ
tay. Dùng hoa đó để cúng dường.
“Các các nhất thiết” tức là vận tâm. Đối với chư Phật và các con
sanh bởi các Ngài (các vị Bồ Tát), đều ân cần dùng hoa không chi hơn, đẹp đẽ,
thơm tho, rạng rỡ, dùng pháp giới làm “cây chúa” (thụ vương), tưởng cây ấy trọn
khắp pháp giới, sanh ra hoa để cúng dường Phật. Cúng dường thì dùng chân ngôn để
gia trì thù thắng, nhiệm mầu. Lại còn có nhiều vầng mây to sanh từ pháp giới. Từ
các vầng mây ấy, tuôn ra mưa hoa trước chư Phật, tức là từ chư Phật, Bồ Tát,
cho đến Nhị Thừa, tám bộ, mỗi mỗi đều nương vào bổn chân ngôn và ấn (chân ngôn
và ấn tương ứng của từng vị) để gia trì vật cúng dường mà cúng dường. Khi hành
giả cúng dường hương, hoa, hãy nên dùng chân ngôn. Như khi cúng dường hoa, bèn
dùng Hoa chân ngôn v.v… Nếu tâm chẳng trụ Định, sẽ do đâu mà được như thế? Vì
thế nói “tam-muội tự tại chuyển”,
và ấn gia trì, sau đó mới vận tâm. Hoa ấy thơm, đẹp, chẳng có các khuyết điểm.
Nguyện sanh ra điều thù thắng, nhiệm mầu lại càng nhiều hơn nữa, ví như mây to
sanh từ pháp giới. Từ đó mà mưa hoa, tức là sanh từ pháp giới, thường trọn khắp
trước chư Phật, sanh ra đủ loại quang minh. Lại do các thứ hoa ấy trọn khắp
pháp giới, biến thành một cây to chẳng khác Thiên Ý Thụ[4],
mưa các thứ mây hoa, hương hoa, tràng phan v.v… và các thức ăn, vô lượng vô
biên chẳng thể cùng tận, trọn khắp trước hết thảy các đức Như Lai, đủ loại cúng
dường, đều khiến cho mỗi mỗi đều trọn khắp. Vận tâm như thế, liền dùng chân
ngôn để gia trì. Tức là để cúng dường mỗi vị tôn thánh, đều dùng chân ngôn và ấn
của Bổn Tôn để gia trì [các vật cúng]. Lại nữa, kém hơn các vị ấy tức là [chư
thiên, chư thần thuộc] tám bộ, cũng có khi tùy theo từng loại mà dùng chân ngôn
và ấn của họ; nhưng các vị tôn thánh ấy lại kém hơn các thiên thần.
Nay kế đó nói về chư thiên,
như trong bổn Du Già, mỗi mỗi đều tương ứng, tức là tương ứng với Bổn Tôn, như
[để cúng dường các vị trời thuộc loại] phẫn nộ thì dùng màu đỏ v.v… Nếu như
trong kinh có chép chân ngôn và ấn [của vị trời đó thì sử dụng chân ngôn và ấn ấy].
Nếu thiếu khuyết, thì có riêng một loại ấn Cát Tường phổ thông. Giống như hoa,
[để cúng dường] hương bôi v.v… thì cũng đúng như lý tương ứng mà niệm. [Để kết ấn
Cát Tường Phổ Thông], hãy nên dùng hai ngón cái và ngón áp út bấm vào nhau, ba
ngón kia đều duỗi ra, rời nhau. Dùng ấn này để gia trì các vật, cho đến hết thảy
các vật cúng dường trong đàn, đều nên dùng [ấn ấy] để gia trì, sẽ đều được
thành tựu. Nếu Bổn Tôn có ấn riêng, nhưng đến lúc đó (khi tác pháp cúng dường),
cũng dùng ấn Phổ Thông để gia trì thì cũng được. Chân ngôn hương, hoa v.v… [được
nhắc tới ở đây] chính là các chân ngôn hương, hoa, đèn v.v… đã nói trong phần
trước, đều tùy theo từng loại [mà sử dụng tương ứng]. Như kinh Bát Nhã đã nói,
nếu muốn dùng một bông hoa cúng dường trọn khắp hết thảy chư Phật, hãy nên tu
Bát Nhã Ba La Mật. Ở đây, chỉ vận tâm dùng một nén hương hay bông hoa, do gia
trì và tam-muội, liền có thể cúng dường trọn khắp hết thảy các vị hiền thánh
trong khắp pháp giới, khiến cho thiện căn ấy chẳng thể cùng tận! Nếu chẳng kết
Phổ Thông Cát Tường Ấn, bèn có Kim Cang Quyền Ấn, hoặc Liên Hoa Ấn, hoặc Quán
Âm Ấn, nhưng kết bằng tay phải. Chỉ có [ấn để cúng dường] Tịnh Cư Thiên là nên
kết ấn bằng tay trái, nhưng sợ rằng tay trái cần cầm nắm, làm chi đó, nếu dùng
tay phải để kết ấn gia trì vật [cúng dường] thì cũng được!
Nhưng khi cúng dường, trước
hết là dùng ấn để gia trì xong, liền nên nâng [vật cúng dường] lên để biểu thị
dùng tâm phụng hiến rồi mới đặt ở chỗ chư tôn. Nếu là hương bôi thì hoặc dùng
làm hương để bôi lên thân tôn thánh, hoặc đặt nơi chỗ trang nghiêm, hoặc đặt
trước mặt các vị ấy. Khi dâng hoa v.v… cũng có cao thấp khác biệt. Nếu cúng Phật
thì nên dâng cao ngang đầu hoặc đỉnh đầu. Cúng Bồ Tát thì đặt ngang từ tim trở
lên, cúng Nhị Thừa thì ở phía trên rốn. Tịnh trì (kết ấn để tịnh hóa vật cúng
dường) Phật, Bồ Tát thì [đặt ấn] tại tim, đối với các vị trời thuộc thế gian
thì tại rốn. Đó là nhất định. Đối với các vị Địa Cư Thiên thì từ rốn trở xuống.
[Các vị kém hơn] thì thấp hơn. Kết ấn xong, hướng ấn lên không trung để cúng Phật,
cho đến các vị như Địa Cư Thiên thì chuyển ấn xuống phía dưới. Như trên đã nói,
các tôn thánh có bốn hạng từ thân Phật lưu xuất, nay dâng cúng hoa cho những vị
[được lưu xuất từ] phần dưới [của thân Phật], cũng chuẩn theo phần trước mà kết
ấn phía dưới rốn, hòng phối ứng với vị trí trong Mạn-đồ-la. Nhưng có hai loại
thầy, nếu là bậc đã thành tựu Du Già, do chỉ dùng tam-muội, tâm bèn tự tại, vì
đã thông đạt Chân Ngôn môn, hễ tùy tâm thực hiện liền thành, chẳng cần đợi “sự pháp” (tác pháp theo sự tướng) mà
cũng được thành. Nếu là loại thầy thứ hai, tức là thầy trong thế gian (tức các
vị chưa thành tựu Du Già, chỉ thông hiểu thứ tự tác pháp), ắt cần phải nương
theo sự pháp, dùng chân ngôn và ấn để gia trì thì mới có thể thành được!
(Kinh) Hộ-ma hữu nhị chủng, sở vị nội cập ngoại. Nghiệp sanh đắc giải
thoát, phục hữu nha chủng sanh, dĩ năng thiêu nghiệp cố, thuyết vi nội hộ-ma.
Ngoại dụng hữu tam vị, tam vị tam trung trụ, thành tựu tam nghiệp đạo, thế gian
thắng hộ-ma. Nhược dị thử tác giả, bất giải hộ-ma nghiệp. Bỉ si bất đắc quả, xả
ly Chân Ngôn trí.
(經)護摩有二種,所謂內及外 。業生得解脫 ,復有芽
種生,以能燒業故,說為內護摩。外用有三位,三位三中住,成就三業道,世間勝護摩。若異此作者,不解護摩業,彼癡不得果,捨離真言智。
(Kinh: Hộ-ma
có hai loại, tức là nội và ngoại. Giải thoát khỏi quả báo, do các nghiệp sanh
ra. Lại còn nẩy mầm mộng. Do có thể thiêu nghiệp, nói là nội hộ-ma. Ngoại dụng
có ba vị, ba vị trụ trong ba, thành tựu ba nghiệp đạo. Thế gian, hộ-ma diệu. Nếu
làm khác cách này, chẳng hiểu nghiệp hộ-ma! Kẻ si chẳng đắc quả, lìa bỏ trí
Chân Ngôn).
Kế đó, giải đáp ý nghĩa hộ-ma.
Hãy nên biết hộ-ma có hai loại: Một là nội, hai là ngoại, được gọi là “nội phần” và “ngoại phần”, “phần”
chính là “khác biệt”. Hộ-ma (Homa) có nghĩa là “thiêu”; do hộ-ma có thể thiêu trừ các nghiệp. Do hết thảy chúng
sanh đều từ nghiệp mà sanh, do sanh mà chuyển nghiệp, luân hồi chẳng thôi! Do
trừ nghiệp, nên sanh cũng được trừ, tức là được giải thoát. Nếu có thể thiêu
nghiệp thì gọi là “nội hộ-ma”.
Từ chỗ nào mà được giải thoát vậy? Chính là từ phiền não nghiệp khổ mà được giải
thoát. Đã lìa thế gian liền sanh ra chủng tử [giải thoát], được gọi là “bạch tịnh Bồ Đề tâm”. Như lửa trong
thế gian, nếu đã thiêu vật thì chỉ thành tro tàn. Nay [hộ-ma trong Mật pháp] chẳng
phải vậy, đã thiêu hết thảy các phiền não, như kiếp hỏa đốt sạch chẳng còn sót;
nhưng cũng chính từ đó, lại có mầm nẩy sanh, tức là mầm Bồ Đề. Cái có thể thiêu
trong ấy chính là Trí. Như trong phần trên đã nói, quán chữ Ram (रं) có tràng lửa vây quanh, hãy tưởng
chữ ấy trọn khắp thân mình. Thân ấy lại cầm đao và dây trói. Do dùng môn chữ Ra
(र) ấy, được hết sạch các nghiệp, tịnh
trừ các chướng. Nghiệp chướng đã tịnh trừ, sẽ sanh ra chủng tử thanh tịnh. Vì vậy,
kế đó quán Bồ Đề tâm. Hãy nên biết Bồ Đề tâm sanh ra chủng tử. Khi quán như thế,
hãy tưởng chữ Phạ (Va, व) trọn khắp hết thảy các thân phần. Từ lỗ chân lông, tuôn ra cam lộ màu
trắng trọn khắp mười phương để rưới thân của hết thảy chúng sanh. Do cái nhân ấy,
sẽ có thể khiến cho chủng tử lần lượt tăng trưởng. Do vậy gọi là “nội hộ-ma”.
Kế đó, giải thích “ngoại hộ-ma”, có ba loại: Một là Bổn
Tôn, hai là chân ngôn, ba là ấn,
1) Bổn Tôn (đối với Bổn
Tôn, do cúng dường mà đặt [tọa vị của Ngài]. Tùy theo pháp môn nào mình tôn phụng
mà đặt [vị tôn thánh chủ yếu của pháp môn ấy], hoặc trong lửa có thể đặt tọa vị
của Mạn-đồ-la).
2) Chân ngôn (chính là Lò, tức nơi đặt lửa; đấy chính là “chân
ngôn”. Trong lửa bèn có [tác dụng thiêu
đốt giống như chân ngôn (thần chú, đà-la-ni) có thể thiêu trừ phiền não của
hành nhân]).
3) Ấn ([ở đây phải hiểu, “ấn”] chính là chỗ ngồi của A-xà-lê.
Tự thân chính là ấn)[5].
Khi làm ngoại hộ-ma, phải
[xếp đặt] sao cho ba vị trí ấy thẳng hàng. Ba thứ ấy cũng là ý nghĩa “tịnh tam nghiệp”. Ba vị trí căn bản
chính là thân, lò, và Bổn Tôn, mỗi vị lại đều có ba thứ là Bổn Tôn, chân ngôn
và ấn [Đó chính là ý nghĩa của đoạn kệ: “Ngoại
dụng hữu tam vị, tam vị tam trung trụ” (Ngoại dụng có ba vị, ba vị trụ trong ba)]. Tịnh ba nghiệp sẽ thành tựu ba sự
(ý nói Tức Tai v.v…). Bổn Tôn là ý nghiệp, chân ngôn là khẩu nghiệp, ấn nơi
thân của thầy chính là thân nghiệp. Do nhân duyên ấy, có thể tịnh ba nghiệp,
thành tựu ba sự, tức là Tức Tai, Tăng Ích, và Hàng Phục.
“Tam nghiệp đạo”: “Đạo”
nghĩa là “dung hội”, ý nói: Do
đồng một lý nên có thể dung hội. Do “đồng”
nên dung hội. Các ông hành Bồ Tát đạo, tức là ba đạo cùng quy vào nhất trí. Lại
nữa, ba sự thì mỗi sự quán chữ khác nhau. Nếu làm pháp Tức Tai thì quán chữ Ram
(रं), trên đó (trên chữ Ra) có thêm
cái chấm màu trắng [thành chữ Ram]. Tăng Ích thì quán chữ Lam có màu vàng, Hàng
Phục thì tưởng chữ Ám có màu đen hoặc đỏ. Giống như chữ, màu của Bổn Tôn và
thân của chính mình cũng tùy theo ba sự như thế mà tương ứng để được thành.
Trong đó, lại có thượng, trung, hạ sai khác, tức là Tức Tai là thượng, Tăng Ích
là trung, Hàng Phục là hạ. Làm như thế thì gọi là “ngoại hộ-ma”.
Hãy nên biết nội và ngoại hộ-ma
đều gọi là “thù thắng”. Nếu chẳng
tương ứng với điều ấy, thì chỉ uổng công làm, vô ích. Do làm ngoại hộ-ma, có thể
dẫn nhập nội hộ-ma. Nhưng lý của nội và ngoại vốn chẳng sai biệt, vì kẻ cầu
thành tựu thế gian mà phân biệt như thế, khiến cho họ làm ngoại hộ-ma. Nếu làm
khác với lý ấy, thì gọi là “chẳng
nương theo phương quỹ đã nói”. Hãy nên biết người chẳng hiểu biết, uổng
phí công lao, chẳng có quả báo gì! Do lìa trí Chân Ngôn, thuận theo cái tâm vô
minh của chính mình mà làm bừa, trọn chẳng thể đạt được cái quả Tất Địa thế
gian và xuất thế gian. Vì thế, chẳng đắc quả!
(Kinh) Như Lai Bộ chân ngôn, cập chư Chánh Giác thuyết. Đương tri bạch
dữ hoàng, Kim Cang cụ chúng sắc. Quán Tự Tại chân ngôn, thuần tố, tùy sự thiên.
(經)如來部真言,及諸正覺說,當知白與黃,金剛具眾色。觀自在真言,純素隨事遷。
(Kinh: Chân ngôn Như Lai Bộ, và do Chánh Giác
nói, hãy biết trắng và vàng, Kim Cang đủ các màu. Chân ngôn Quán Tự Tại, thuần
trắng, theo sự đổi).
Kế đó, giải đáp [câu hỏi] về
màu sắc và hình loại. Đại lược có ba bộ: Tỳ Lô Giá Na là Phật Bộ, tức là thân
pháp giới của Như Lai, màu trắng. Kế đó, Quán Thế Âm [thuộc về] A Di Đà Phật Bộ,
thân màu vàng. Kế đó, Kim Cang Tạng thuộc về Thích Ca Mâu Ni Bộ, thân sắc đỏ
pha vàng (tức là nhiều màu). Chân ngôn do đức Phật nói và do chư Phật nói [thuộc
về Như Lai Bộ], chữ “Phật” được
nói trên đây nhằm chỉ chung các chân ngôn thuộc Phật Như Lai bộ. “Bộ” hàm nghĩa “từ Phật sanh ra”. Cho tới [chân ngôn
do] chư thần nói, hễ được Phật hứa khả, sẽ đều thuộc về Phật Bộ. Trong phần sau
nói “chư Phật” thì là [các chân
ngôn] do đức Phật trực tiếp nói, chẳng bao gồm [chân ngôn của] các vị Bồ Tát trở
xuống. Hai loại này đều trọn đủ hai loại màu, tức là trắng và vàng. Trong các bộ,
hễ nói “chân ngôn do chư Phật nói”
thì đều là do đức Tỳ Lô Giá Na nói. Hãy nên biết tương ứng theo thứ tự. Kim
Cang Thủ gồm nhiều loại, các chân ngôn của Quán Tự Tại thì trắng.
“Tùy sự phân định”: Ở đây chỉ nói: Hãy nên biết dùng màu trắng
và vàng hòa hợp, tức là không quá vàng, quá trắng. “Nhiều màu” tức là đủ cả năm màu, cũng tùy theo từng sự để phân
biệt mà dùng. Phật Bộ thì một mực Tức Tai dùng màu trắng, tùy theo từng sự nghiệp
mà phân định. Quán Âm thuần trắng, nhưng trong bộ ấy, lại tùy theo từng sự nghiệp
mà biến chuyển, hãy nên là màu trắng. Liên Hoa Bộ một mực dùng vào pháp Tăng Ích,
màu vàng. Kim Cang Bộ một mực dùng làm Hàng Phục, có nhiều màu. Cũng tùy thuộc
trong một bộ mà có ba sự phân biệt. Như trong Phật Bộ có Tức Tai, Tăng Ích và
Hàng Phục. Nếu Tức Tai, hãy dựa theo bổn pháp mà làm màu trắng. Nếu lúc làm
Tăng Ích trong Phật Bộ, chỉ nên dựa theo pháp ấy mà làm màu vàng. Nếu là Hàng
Phục trong Phật Bộ, chỉ dựa theo pháp ấy mà chuyển thành nhiều màu. Giống như
Phật bộ, hãy nên suy ra Liên Hoa Bộ và Kim Cang Bộ tương tự. Nói “phân định theo từng sự” là tùy theo
màu sắc, thể loại mà chia ra từng sự. Như [câu cuối trong đoạn kệ nói về] các
chân ngôn của ngài Quán Tự Tại, đối với các âm thanh [trong chân ngôn ấy, chỉ]
nêu ra Liên Hoa Bộ [làm thí dụ, vì Liên Hoa Bộ vốn màu vàng, nhưng Quán Âm thì
màu trắng, lại tùy theo từng sự, mà quán màu sắc thích hợp], để [hành giả đối với
các chân ngôn thuộc] Phật Bộ và Kim Cang Bộ có thể phỏng theo [mà phân định]!
(Kinh) Tứ phương tương trọng phổ, luân viên như thứ đệ, tam ngung bán
nguyệt luân. Nhi thuyết hình diệc nhiên.
(經)四方相重普,輪圓如次第,三隅半月輪,而說形亦然。
(Kinh: Bốn phương
nên vuông vắn, tròn trặn theo thứ tự, ba góc, hình bán nguyệt, nói hình thể
cũng thế).
Kế đó, nói về hình tướng của
Mạn-đồ-la. Đúng ra phải nói đến phép Tức Tai trước hết, nhưng nay do âm thanh
thuận tiện và thuận tiện theo mặt Sự mà nói về pháp Tăng Ích trước. Các Mạn-đồ-la
trong pháp Tăng Ích thì là đàn vuông, màu vàng. Đàn Tức Tai thì hình tròn sắc
trắng. Đàn Hàng Phục thì hình tam giác, màu đen. Đàn Nhiếp Triệu hình bán nguyệt,
nhiều màu. Nhiếp Triệu tức là gom nhiều vật, kêu gọi triệu tập v.v… Kinh nói “tứ phương phổ” tức là nêu ra một trường
hợp để nói khái quát [cả bốn loại đàn]. [Hàm nghĩa]: Nếu như bên trong đàn là
hình vuông, [phần trung ương] đã là hình vuông thì trọn khắp [các tầng của Mạn-đồ-la]
đều là hình vuông. Là đàn tròn thì cũng theo thứ tự như thế. Đàn tam giác cũng
như thế, cho đến [nếu trung đàn là vuông] thì ngoại viện cũng là vuông. Nếu
chính giữa là tròn thì các tầng ngoài theo thứ tự cũng đều tròn. Làm lò để hộ-ma
cũng thế. Nếu như đàn [Mạn-đồ-la] hình vuông thì hỏa đàn (đàn để làm hộ-ma)
cũng hình vuông. Những điều khác cứ theo đó mà suy!
(Kinh) Sơ ưng
tri sắc tượng, sở vị nam nữ thân, hoặc phục nhất thiết xứ. Tùy kỳ loại hình sắc,
bất tư nghị trí sanh. Thị cố, bất tư nghị. Ứng vật hữu thù dị, trí trí chứng
thường nhất. Nãi chí tâm quảng bác, đương tri thị kỳ lượng. Tòa ấn diệc như thị,
dĩ cập chư thiên thần, như chư Phật sở sanh, ấn đẳng đồng bỉ sanh.
(經)初應知色像,所謂男女身,或復一切處,隨其類形色,不思議智生,是故不思議。應物有殊異,智智證常一,乃至心廣博,當知是其量。座印亦如是,以及諸天神,如諸佛所生,印等同彼生。
(Kinh: Trước nên biết sắc tượng, tức là thân nam, nữ, hoặc là hết
thảy chỗ. Hình sắc tùy từng loại, trí chẳng nghĩ bàn sanh. Vì thế, chẳng nghĩ
bàn. Ứng chúng sanh sai khác, trí, trí chứng thường một. Cho đến tâm rộng lớn,
hãy nên biết lượng ấy. Tòa, ấn cũng như thế, cùng với các thiên thần, như do
chư Phật sanh, các ấn sanh cũng thế).
Kế đó, nói các hình tượng.
Hãy nên lấy tướng mạo làm chánh nghĩa, cũng có thể nói là “sắc tượng” (màu sắc, hình dạng). Kệ
nói “sơ ưng tri sắc tượng” (trước
hết, hãy nên biết màu sắc và hình tượng [của các vị tôn thánh]), “sơ” [là từ ngữ mở đầu], có nghĩa là “ta nay sẽ nói”. “Sắc loại”: Chư tôn thánh có hình sắc
theo từng loại khác nhau. Nói khái quát, đại lược thì có hai loại, tức là nam
và nữ. Nam là trí huệ, nên đứng đầu; nữ làm tam-muội nên kế đó. Hoặc “hình sắc tùy thuộc hết thảy các chỗ”:
Như trong kinh này nói [một vị] tôn thánh có hình sắc như thế, hoặc trong kinh
khác [hình tướng của Ngài lại khác biệt], hoặc tùy thuộc một nơi mà hiển lộ
hình sắc [sai khác]; đó chính là tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thị hiện
hình sắc bất định. Vì thế gọi là “chẳng
thể nghĩ bàn”. Do mỗi mỗi đều bất đồng, bèn dựa theo bộ loại để chế định.
Nếu nói làm [thân sắc của Bổn Tôn] màu trắng, tức là dùng cho pháp Tức Tai,
vàng tức là Tăng Ích, những điều khác có thể suy ra mà biết! Thấy nam nữ khác
biệt và sắc mạo, sẽ biết chỗ sử dụng.
“Bất tư nghị trí sanh” ([Hình tướng của tôn thánh] sanh từ
cái trí chẳng thể nghĩ bàn): Như Bổn Tôn đáng lẽ phải có màu trắng, nhưng do cần
làm chuyện Tăng Ích, tâm hành giả bèn quán [thân sắc của] Ngài màu vàng, liền
có tác dụng Tăng Ích. Thuận theo tâm mà chuyển, nhưng các việc đã làm đều chân
thật, chẳng hư dối. Do đạt được bởi trí bất tư nghị giới mà thành ra như thế.
Nay nói đến màu của pháp giới, trong một sắc mà chính là hết thảy các sắc. Cái
trí có thể quán cũng tương ứng với cảnh; vì vậy, có thể sử dụng tự tại như vậy
đó! Vì trừ khử vô trí, mà có đủ loại trí sanh. Tuy biết là vô lượng, nhưng thật
ra chỉ là một trí. “Trí” được
nói trong phần trước chính là Nhất Thiết Trí, dùng một trí để hiện Nhất Thiết
Trí. Trước đó, [ngài Kim Cang Thủ] đã hỏi hình tướng Bổn Tôn có kích thước lớn,
nhỏ; ở đây, [đức Phật] bèn giải đáp. Nhưng Phật là phổ môn thị hiện, đều vì thuận
ứng các căn cơ. Căn cơ đã là muôn vàn sai khác, hãy nên biết là thuận lòng ứng
hiện dấu tích cũng sẽ lớn hay nhỏ bất định! Nói về hình tướng của mỗi vị Bổn
Tôn, không vị nào chẳng lượng đồng pháp giới, chẳng có ngằn mé, mà cũng chẳng
có khởi đầu hay kết thúc. Do trí [của hành nhân] có cạn hay sâu, mà lượng [của
hình tướng Bổn Tôn] có lớn hay nhỏ, nên các thân được thấy mỗi mỗi sai khác. Vì
thế, hãy nên biết: Trông thấy Bổn Tôn, tùy tâm hành giả lớn hay nhỏ mà [thân lượng
của vị ấy] chẳng có phân lượng nhất định (hãy nên xem phần Tam Mật Sự trong
kinh Mật Tích). Nói “chứng trí”
thì chính là Phật. Dùng trí vô tận để chứng cảnh vô tận, như hộp to thì nắp
cũng to! Trong phần trên đã hỏi kích thước thân hình Bổn Tôn, và cũng [hỏi] kèm
thêm về tòa và ấn của các Ngài, nay cũng giải đáp. Thân đã không có phân lượng
nhất định, hãy nên biết tòa và ấn cũng giống như thế. Thậm chí, tâm rộng thì
tòa cũng có kích thước tương đồng. Ấn cũng giống như thế, đúng theo thứ tự, tức
là tùy thuộc vào đó mà lớn hay nhỏ! Hơn nữa, lần lượt dựa theo Phật, khiến cho
Bổn Tôn và tòa của Ngài tương xứng, cho đến chư thiên cũng thế!
(Kinh) Dĩ thử pháp sanh ấn, ấn trì chư đệ tử. Cố lược thuyết pháp giới,
dụng thị vi tiêu xí.
(經)以此法生印,印持諸弟子 ,故略說法界 ,用是為
幖幟。
(Kinh: Dùng pháp sanh ấn ấy, ấn trì các đệ tử.
Nên lược nói pháp giới, dùng đó làm biểu trưng).
Kế đó, giải đáp [câu hỏi] “ấn
sanh từ nơi đâu?” Đức Phật bảo: “Như
chỗ sanh của Phật, ấn cũng giống như thế, sanh từ nơi đó”. Vì cớ sao vậy?
Hết thảy Như Lai đều sanh từ Phật tánh chủng tử Bồ Đề tâm; hãy nên biết hết thảy
các ấn cũng sanh từ Bồ Đề tâm. Dùng ấn sanh từ pháp giới để in lên các đệ tử,
như vua dùng ấn để đóng ấn, hết thảy đều tin chịu. Nay dùng cái ấn sanh từ hết
thảy các pháp giới để đóng ấn, tức là pháp ấn, chính là đại nhân tướng ấn.
Kế đó, giải đáp “ấn dùng để
làm gì?” Đáp rằng: Dùng pháp giới ấn ấy để in các đệ tử. Ấn có nghĩa là “chẳng thể trái vượt”, do chính mình
lẫn người khác đều chẳng thể trái vượt. Tức là khởi đầu từ Bồ Đề tâm cho đến tột
cùng là Phật huệ; trong khoảng giữa ấy, chẳng lùi, chẳng chuyển. Vì vậy, thế
gian gọi là Bồ Đề Tát Đỏa. Do ấn ấy, trụ trong Bồ Đề tâm chẳng còn thoái chuyển;
vì thế, gọi là “chẳng trái vượt”.
Ấn ấy chính là phong kín cửa sanh tử, mở đường pháp giới. Nói đại lược là “ấn ấy lượng đồng pháp giới”. Do dùng
pháp giới ấn để ấn, khiến cho người ấy đã có vật biểu trưng cho pháp giới, có
thân phổ môn đồng pháp giới. Vì thế, gọi là “ấn vào các đệ tử”. Do pháp giới ấn là đại lược, tức là dùng một
pháp ấn. Nếu nói rộng, sẽ chẳng thể lường. Đấy chính là tướng “tiêu xí” của bậc đại nhân vậy!
(Kinh) Quán đảnh hữu tam chủng, Phật tử chí tâm thính. Nhược bí ấn
phương tiện, tắc ly ư tác nghiệp. Thị danh sơ thắng pháp, Như Lai sở quán đảnh.
Sở vị đệ nhị giả, linh khởi tác chúng sự. Đệ tam dĩ tâm thọ, tất ly ư thời
phương, linh tôn hoan hỷ cố. Như sở thuyết ưng tác, hiện tiền Phật quán đảnh,
thị tắc tối thù thắng.
(經)灌頂有三種,佛子至心聽。若祕印方便,則離於作業,是名初勝法,如來所灌頂;所謂第二者,令起作眾事;第三以心授,悉離於時方。令尊歡喜故,如所說應作,現前佛灌頂,是則最殊勝。
(Kinh:
Quán đảnh có ba loại, Phật tử chí tâm nghe. Nếu phương tiện bí ấn, ắt lìa khỏi
tác nghiệp. Là thắng pháp đầu tiên, do Như Lai quán đảnh. Nói tới pháp thứ hai,
dạy khởi làm các sự. Thứ ba là tâm trao, đều lìa các thời, phương, khiến chư
tôn hoan hỷ. Nên làm đúng lời dạy, hiện tiền Phật quán đảnh. Đó là thù thắng nhất).
Trong phần trước đã hỏi “có mấy loại quán đảnh”, ở đây liền
giải đáp. “Phật tử thiện thính”
(Phật tử khéo nghe): Nếu xét theo bản tiếng Phạn, dịch sát nghĩa thì sẽ là “hãy nên dốc trọn lòng ân cần lắng nghe”.
Vì sao [giải đáp] các câu hỏi trước đó chẳng nói “thiện thính” mà tới đây mới nói? Các pháp khác nếu chẳng nghe kỹ,
dẫn tới sai lầm thì lỗi ấy còn nhỏ; chứ nếu quán đảnh chẳng thành, sẽ chẳng phù
hợp để nghe chân ngôn và ấn v.v…, ngày hôm nay sẽ không thực hiện được, lỗi ấy
khá lớn! Vì thế, [đức Phật] ân cần răn nhắc. Ví như chủng tánh Sát-lợi trong thế
gian, nếu muốn [đích tử] nối ngôi, khiến cho dòng dõi nhà vua chẳng đoạn mất, sẽ
làm quán đảnh cho đích tử. Lấy nước từ bốn biển, dùng bốn cái bình báu để đựng,
trang hoàng đủ mọi thứ. Lại còn trang nghiêm thân thể đứa con, các vật đều đầy
đủ. Lại trang hoàng con voi to, đặt bình lên lưng voi, bảo Thái Tử ngồi ở trong
đàn. Các quần thần đều tụ tập, hứng lấy nước tưới trên ngà voi để xối lên đỉnh
đầu Thái Tử. Xối nước ấy xong, lớn tiếng xướng ba lần: “Các ngươi nên biết, Thái Tử đã tiếp nhận ngôi vị xong. Từ nay trở đi,
tất cả các mệnh lệnh [của Thái Tử] đều nên phụng hành”. Nay Như Lai pháp
vương cũng giống như thế, vì muốn cho Phật chủng chẳng đoạn dứt, dùng cam lộ
pháp thủy để rưới lên đỉnh đầu Phật tử, khiến cho họ cầu Phật chủng chẳng đoạn
dứt. Vì tùy thuận pháp thế gian mà có pháp phương tiện ấn trì này. Từ đấy trở
đi, được hết thảy các thánh chúng đều cùng kính ngưỡng, cũng biết là người ấy rốt
ráo chẳng thoái thất Vô Thượng Bồ Đề, chắc chắn kế tục ngôi vị pháp vương.
Trong các hành vi, đối với các nghiệp chân ngôn, thân ấn, Du Già đã làm v.v… đều
chẳng dám trái vượt.
Nhưng quán đảnh có ba loại:
- Một là chỉ dùng ấn pháp để
làm, lìa các tác nghiệp. Đấy là nhập Bí Mật Mạn-đồ-la, tức là có đệ tử thành
tâm, ân cần, trân trọng, yêu thích sâu xa hạnh Chân Ngôn, chí cầu Đại Thừa,
nhưng tài lực thiếu khuyết. Nếu bảo người ấy mỗi mỗi lo đủ các sự, đâm ra sẽ có
trở ngại nơi đạo. Đối với người như thế, thầy hãy nên khởi từ tâm sâu xa, quán
tâm hạnh của người đó để mà nhiếp thọ, tiếp dẫn. Nhưng chỉ được phép vì người
như thế mà làm, đừng nên vì nhiều người mà làm! Vì sao vậy? Sợ kẻ có đủ tài lực
để lo liệu sẽ sanh tâm giải đãi, khinh mạn, chẳng tận tâm, tổn hại cái gốc của
các đức. Khi làm, hãy tùy sức để bảo người ấy lo liệu đôi chút để cúng dường
Tam Bảo. Đó là tối thắng bậc nhất, tức ba thứ thân, ngữ, ý của Bổn Tôn kết hợp
thành một, cả ba thứ đều tịnh, dùng ấn ấy để ấn. Đó là tối thắng. Thầy ngầm
trao truyền các thứ như chân ngôn, thủ ấn.
- Hai là dùng thực hiện sự
nghiệp để quán đảnh, tức là thầy và đệ tử đều làm sự nghiệp trước đó. Có nghĩa
là giống như trong phần trước [đã nói], thầy dạy đệ tử trong bảy ngày thành tâm
lễ bái, sám hối. Thầy cũng trong bảy ngày vì trò trì tụng, ngầm cầu sự cảm ứng,
và bảo trò sắm sửa các thứ vật cúng dường như hương, hoa v.v... Tùy theo các thứ
cần dùng cho đàn tràng mà mỗi mỗi đều thực hiện. Nhưng quán đảnh theo kiểu này
chẳng khác với cách quán đảnh trên đây, chỉ là do [đệ tử] có tài lực, nên dạy
trò tận lực dùng những gì họ có để thực hiện vô tận cúng dường trong hải hội của
chư Phật. Do nhân duyên ấy, cái quả phước thí chẳng thể cùng tận. Vì thế, cần
phải khuyên họ thực hiện đầy đủ.
- Ba là chỉ dùng tâm mà
quán đảnh. Quán đảnh như thế chẳng chọn thời điểm, chẳng chọn nơi chốn, tức là
đặt vị trí [quán đảnh] ở phương Đông hoặc phương Nam v.v… đều được. Do người đệ
tử ấy đã tu Chân Ngôn hạnh, có thể kham nhậm tạng bí mật, khiến cho thầy đẹp
lòng. Đấy lại là tối thắng. Thầy và đệ tử đều đắc Du Già, dùng tâm quán đảnh,
giống như “xoa đầu thọ ký”. [Đệ
tử] lại có thể tận hết tâm lực phụng sự thầy, đối với các loại thiện sự đều chẳng
hề trái vượt. Do nhân duyên ấy, khiến cho chư tôn hoan hỷ. Vì vậy, có thể dùng
tâm tưởng để quán đảnh.
Đó là pháp quán đảnh. Du
Già A-xà-lê trước hết nhập tịnh thất, trụ trong tam-muội, đúng như trên đã nói
mà dùng bốn phần nơi thân để làm các phương vị trong Mạn-đồ-la bốn tầng, cũng
như các phương vị do đức Tỳ Lô Giá Na đã hiện, mỗi mỗi đều chẳng khác. Làm như
thế xong, do bí mật gia trì, bảo người đệ tử ấy ở ngoài đợi lệnh, tự nhiên được
oai thần của ngài Kim Cang Thủ gia trì, dẫn vào đàn, cũng tự nhiên biết kết ấn
v.v… mỗi mỗi đều đúng như pháp. Đã nhập thất, do được ngài Kim Cang Thủ gia
trì, sẽ thấy các tôn vị trong Mạn-đồ-la hiện tiền rành rành. Tôn hình của mỗi vị
Bổn Tôn và ấn, chữ v.v… cũng đều rõ rệt. Lúc bấy giờ, hành giả lại do sức gia
trì, trong tay tự nhiên được trao cho diệu hoa, dùng đó để [rải hoa] cúng dường
đại chúng (các vị tôn thánh trong Mạn-đồ-la). Tùy theo [hoa] rơi vào chỗ vị Bổn
Tôn nào, vị ấy liền đứng dậy, dùng âm thanh nhiệm mầu để an ủi, nhiếp thọ. Lúc
bấy giờ, Bổn Tôn lấy nước cam lộ tam-muội nơi chỗ chư tôn trong mỗi đại hội, hiện
tiền quán đảnh cho đệ tử đó. Lúc bấy giờ, A-xà-lê chỉ ngồi một chỗ, nhập tam-muội,
lặng lẽ, bất động, mà có thể thành tựu chuyện thù thắng như thế, khiến cho tôn
thánh hoan hỷ tương ứng, tức là thừa sự Bổn Tôn, Bổn Tôn hoan hỷ. Do hành giả
được hiện tiền quán đảnh, do số lượt [tụng niệm] và tu tập được thực hiện trọn
đủ, thừa sự, niệm tụng, khiến cho tôn thánh hoan hỷ, Ngài sẽ hiện tiền thuyết
pháp. Hãy làm theo đúng lời dạy, phỏng theo phần trước mà làm. Nếu như đệ tử có
thể phụng sự khiến cho thầy hoan hỷ, thầy sẽ vì trò mà quán đảnh, dạy bảo!
(Kinh) Chánh Đẳng Giác lược thuyết, ngũ chủng tam-muội-da, sơ kiến Mạn-đồ-la,
cụ túc tam-muội-da, vị truyền chân thật ngữ, bất thọ bỉ mật ấn. Đệ nhị tam-muội-da,
nhập đổ thánh thiên hội. Đệ tam cụ đàn ấn, tùy giáo tu diệu nghiệp. Phục thứ hứa
truyền giáo, thuyết cụ tam-muội-da. Tuy cụ ấn đàn vị, như giáo chi sở thuyết, vị
đãi tâm quán đảnh, bí mật huệ bất sanh. Thị cố, Chân Ngôn giả, bí mật đạo tràng
trung, cụ đệ ngũ yếu thệ, tùy pháp ưng quán đảnh, đương tri dị thử giả, phi
danh tam-muội-da.
(經)正等覺略說,五種三昧耶 ,初見漫荼羅 ,具足三
昧耶,未傳真實語,不授彼密印。第二三昧耶,入覩聖天會。第三具壇印,隨教修妙業,復次許傳教,說具三昧耶。雖具印壇位,如教之所說,未逮心灌頂,祕密慧不生。是故真言者,祕密道場中,具第五要誓,隨法應灌頂,當知異此者,非名三昧耶。
(Kinh: Chánh Đẳng Giác lược nói, năm thứ tam-muội-da,
trước thấy Mạn-đồ-la, trọn đủ tam-muội-da, chưa truyền lời chân thật, chẳng
trao truyền mật ấn. Tam-muội-da thứ hai, vào thấy thánh thiên hội. Thứ ba, đủ
đàn ấn. Vâng giáo, tu diệu nghiệp. Lại nữa, hứa truyền giáo, trọn đủ tam-muội-da.
Tuy đủ đàn, ấn, vị, đúng như giáo đã nói, chưa được tâm quán đảnh, huệ bí mật
chẳng sanh. Vì thế, bậc Chân Ngôn, trong đạo tràng bí mật, đủ yếu thệ thứ năm,
theo pháp mà quán đảnh. Nên biết, khác với đó, chẳng gọi tam-muội-da).
Kế đó, giải đáp tam-muội-da
có mấy loại. Nay đức Thế Tôn đáp đại lược có năm thứ. Tam-muội-da (Samaya) là
như có người ở chỗ khá nhiều vị đáng tôn trọng như quốc vương, đại thần tụ tập,
mà tự thốt lời thệ nguyện rất trọng yếu rằng: “Tôi nay sẽ vĩnh viễn chẳng làm chuyện như thế này, sẽ vâng làm chuyện
như thế nọ”. Dùng chuyện tự mình đối trước những người đáng tin như thế
mà thốt lời thành thật. Nếu trái phạm, sẽ mắc trọng tội. Vì thế, tam-muội-da
nghĩa là “chẳng thể trái vượt”; nói đại lược thì có nghĩa là Giới.
1) Trong năm loại ở đây, loại
thứ nhất chỉ thấy Mạn-đồ-la từ xa, nghĩa là như khi tạo Mạn-đồ-la, đã thấy Mạn-đồ-la
trọn vẹn, chợt có những người thiện tâm tùy hỷ, muốn xin được lễ bái, cúng dường.
Lúc bấy giờ, A-xà-lê chấp thuận, dẫn họ vào phía ngoài đàn, để họ được lễ bái từ
xa, dùng hương, hoa v.v… từ xa rải vào đạo tràng để cúng dường, được thấy pháp
hội như thế. Do vậy, vô lượng tội nghiệp đều được diệt trừ, nhưng [người ấy]
chưa phù hợp để truyền trao chân ngôn và ấn. Đó là loại thứ nhất.
2) Loại thứ hai là người thấy
các tọa vị trong Mạn-đồ-la, tức là được dẫn vào đàn, lễ bái cúng dường, gieo
hoa rơi vào bổn vị (tọa vị của một vị tôn thánh nào đó). Thầy bảo người ấy: “Hoa của con rơi vào tọa vị của vị tôn thánh X….” Vì người ấy mà
nói danh hiệu của Bổn Tôn, [người ấy] cũng được vào trong cửa đàn, đều thấy các
tọa vị. Người như vậy được gọi là [thuộc loại] tam-muội-da thứ hai. Nếu [người ấy]
cầu xin chân ngôn và ấn, cũng được thuận theo lẽ đáng nên mà truyền trao.
3) Loại thứ ba là người đã
thấy Mạn-đồ-la, ấn, tọa vị, và cũng làm các sự, tức là A-xà-lê từ đầu đến cuối
vì người ấy mà tạo Mạn-đồ-la, cho đến [danh hiệu của] các vị tôn thánh và ấn
v.v… mỗi mỗi đều dạy bảo, lại truyền trao chân ngôn, thủ ấn. Mỗi mỗi hành pháp
đều truyền dạy. Đó là loại thứ ba.
4) Loại thứ tư là người đã
có thể nương theo Chân Ngôn môn để tu hành, tất cả các pháp tắc, ngôn từ, mỗi mỗi
đều thông hiểu, biết trọn vẹn các phương tiện, các nghề khéo cần dùng cho đàn
tràng, kham có thể dự vào địa vị làm thầy, khiến cho thầy đẹp ý. Thầy liền vì
người ấy làm Truyền Giáo Mạn-đồ-la, bảo rằng: “Ông từ nay trở đi, cũng giống như ta chẳng khác, tạo Mạn-đồ-la độ các
đệ tử, khiến cho pháp trụ thế lâu dài, Phật chủng chẳng đoạn”. Đấy là loại
thứ tư.
5) Loại thứ năm chính là Bí
Mật tam-muội-da. Ấn, đàn, phương vị tương ứng như trong giáo pháp đã nói đều thấy,
nhưng nếu chẳng từng nhập đàn ấy, trí bí mật sẽ chẳng sanh. Vì thế, cần phải ở
trong đàn bí mật, đúng như pháp quán đảnh. Đó gọi là loại thứ năm, bậc trí hãy
nên biết.
Nếu khác với các điều này,
sẽ chẳng gọi là tam-muội-da, tức là nhập [đàn tràng] thuộc loại quán đảnh thứ
ba như trong phần trên đã nói. Nếu khác với năm chuyện này, chẳng gọi là “khéo làm tam-muội-da”. Nhưng Bí Mật
Mạn-đồ-la lại có năm loại:
- Một là từ nơi thầy mà được
truyền thọ chân ngôn, pháp ấn, vâng theo lời dạy tu hành, được tương ứng với Du
Già, ở trong Định được thấy chư tôn đại hội, nhưng chưa được dẫn nhập [đàn
tràng] (trường hợp này ví như người thuộc loại thứ nhất [trên đây]).
- Loại người thứ hai đã được
dẫn vào đàn tràng bí mật, được lễ bái và cúng dường trọn khắp, nhưng chưa được
tôn thánh hiện ra quán đảnh cho người ấy v.v…
- Loại người thứ ba là đã
được dẫn vào giữa các vị đại thánh chúng, từ đầu đến cuối, mỗi hạnh bí mật đều
được thánh giả phương tiện dạy bảo. Loại người này giống như loại thứ ba [trong
đoạn trước].
- Loại người thứ tư là do
khéo tu đạo bí yếu, hiện thời được chư tôn thực hiện bí mật truyền giáo tam-muội-da,
tức là được Như Lai sai khiến hành Như Lai sự.
- Loại người thứ năm đã trọn
đủ các sự trên đây, lại thấy thân mình ở trong đại hội, tự làm A-xà-lê sư, tức
là người nhập địa. Người này vừa mới nhập tam-muội, liền thấy hết thảy các Phật
hội, cho đến các đại hội nhiều như số vi trần trong mười thế giới đều có thể
nhóm họp, ở trong ấy có cùng tôn vị với các Ngài.
(Kinh) Thiện trụ nhược quán ý, Chân Ngôn giả giác tâm, bất đắc ư tam xứ,
thuyết bỉ vi Bồ Tát. Đắc vô duyên quán hạnh, phương tiện lợi chúng sanh, vị thực
chúng thiện bổn. Cố hiệu Nhân Trung Tôn.
(經)善住若觀意,真言者覺心,不得於三處,說彼為菩薩。得無緣觀行,方便利眾生,為植眾善本,故號仁中尊。
(Kinh: Nếu khéo trụ, quán ý, bậc Chân Ngôn giác
tâm, chẳng đạt nơi ba chỗ, nói đó là Bồ Tát. Đạt vô duyên quán hạnh, phương tiện
lợi chúng sanh, vì gieo các cội lành, nên hiệu Nhân Trung Tôn).
[Chánh kinh nói] “nếu quan sát ý mà khéo trụ” chính là
nói với ngài Kim Cang Thủ. Bậc hành trì Chân Ngôn đã giác cái tâm chẳng chấp
vào ba chỗ, được gọi là Bồ Tát, tức là do [xét theo] ý nghĩa mà có tên gọi ấy.
Do chính mình đã giác ngộ, chẳng chấp vào ba chỗ (tâm quán Bổn Tôn, miệng niệm
chân ngôn, tay kết pháp ấn), tức là khi pháp quán của chính mình được thành tựu.
Nếu chấp trước ba thứ ấy, sẽ chẳng gọi là “giác tâm”. Do ba thứ ấy đều là vô sở đắc (chẳng đạt được) mà gọi
là Bồ Tát. Ý nghĩa “Bồ Tát” được
nói trong phần trước là dựa theo pháp tướng mà nói, còn nay ở đây [do dựa theo]
nghĩa này mà gọi như thế!
Trong phần trước, ngài Kim
Cang Thủ đã hỏi “khi nào thì được gọi
là Bồ Tát”, đoạn kệ này chính là lời đáp. Nếu quán ý, tâm giác, khéo trụ
trong ba chỗ, chẳng thể trì tụng, thì gọi là Quán, tức là thoạt đầu, từ nơi thầy,
lãnh thọ pháp Du Già, đại lược có ba chuyện, tức là tâm quán Bổn Tôn, miệng niệm
chân ngôn, thân có pháp ấn; ông hãy nên quán như thế. Đã thọ pháp rồi, tu hành
đúng theo điều đã được nghe, hiểu thấu suốt, rành rẽ, giống như từ nơi cái
gương mà thấy vẻ mặt. Đó là Quán. “Giác”
là hiểu rõ pháp chân thật trong cảnh giới nơi tự tâm. “Thiện trụ” (Khéo trụ) là nói ngài Kim Cang Thủ;
đức Phật thuyết pháp rồi đặt hiệu cho Bồ Tát để bảo ban. Hoặc có thể là những
người cùng tu hành với Bồ Tát, do đã hiểu rõ tự tâm, đạt được “vô sở trụ mà trụ”; cho nên gọi là “thiện trụ”. Đã được tương ứng với
pháp như thế, được thấy vô lượng cảnh giới rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chẳng
thể nghĩ bàn của Bổn Tôn. Khi đó, hành giả liền dùng “vô sở đắc” làm phương tiện, dùng trí huệ quán sát: Các pháp như
thế sanh ra từ bên trong ư? Từ bên ngoài tới ư? Từ trong và ngoài kết hợp mà
sanh ra ư?
Thân tâm của chính hành giả
thì gọi là “nội”, cảnh giới của
Bổn Tôn là cái cảnh đối ứng [với tự tâm của hành giả], nên gọi là “ngoại”. Do hai thứ duyên ấy kết hợp
thì gọi là “trung gian”. Quán
sát như thế, biết rõ đủ loại cảnh chẳng thể nghĩ bàn của pháp ấy, chẳng từ
trong ra, chẳng từ ngoài tới, cũng chẳng phải là do trong ngoài hòa hợp mà có
trung gian. Hãy nên biết vốn sẵn thanh tịnh, rốt ráo chẳng có gì để đạt được,
chẳng có gì được sanh ra (ngoại cảnh, nội tâm, và dùng thân tâm ấy để quán chiếu;
đó là trung gian). Ba sự ấy đều trừ, tức là vốn sẵn thanh tịnh, một tướng bình
đẳng. Vì lẽ nào vậy? Do nội tâm của hành giả, ngoại cảnh và tâm duyên hòa hợp,
khi chánh quán sát, ba sự ấy hòa hợp chính là quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn hiện
tiền. Do ba sự hòa hợp, từ duyên mà khởi; hãy nên biết đó chính là vô sanh, vô
tánh, chẳng thể được!
Lại nữa, hành giả thân có
bí ấn, miệng có chân ngôn, tâm có cảnh giới của Bổn Tôn để quán, do ba sự rốt
ráo vô sanh, tức là tam luân thanh tịnh, nhất tướng bình đẳng. Do hành giả lìa
ba thứ chấp, thanh tịnh tam luân mà lìa bốn tướng; kể từ đó trở đi, liền được gọi
là Bồ Tát (“bốn tướng” là “ta,
người, chúng sanh, thọ giả” như trong kinh Kim Cang đã phân biệt). Nhưng khi
hành giả quán “vô sanh, vô tánh”
như thế, tâm vô sở đắc, chẳng chấp vào tướng trong hay ngoài, tức là các pháp rốt
ráo đều là Không, đều chẳng thể được! Nhưng kể từ khi phát tâm, đã tu hành đủ
loại phước nghiệp, và tu vạn hạnh nhằm lợi ích chúng sanh, làm thế nào để có thể
trụ trong Tất Cánh Không, chẳng đọa vào đoạn diệt? Do hành giả có sức phương tiện,
chẳng đọa vào lỗi lầm như thế. Vì cớ sao vậy? Như khi hành giả mới quán, các thứ
cảnh hữu tướng chính là pháp từ duyên mà sanh khởi. Do từ duyên mà sanh khởi,
chẳng phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh (do pháp khác mà sanh), chẳng phải
là cộng sanh (do tự và tha hòa hợp mà sanh), chẳng phải là không có nhân. Vì thế,
thường vô sanh! Nếu là vô sanh, pháp nhân duyên ấy tức là duyên giống như pháp
tánh, lặng trong, thanh tịnh, trọn đủ hết thảy các công đức chẳng thể nghĩ bàn
do tánh khởi lên, tùy theo cơ duyên mà khởi, ví như bóng trong gương, trăng
trong nước, tuy có mà chẳng có, tuy chẳng có mà khởi. Tuy sanh từ duyên mà chẳng
đọa vào hai bên. Vì thế, tuy là rốt ráo không, nhưng có thể thành tựu các thứ
công đức, lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đại bi giáo hóa muôn vật, mà
chẳng đọa vào Thật Tế. Vì thế, kinh dạy: “Dĩ
phương tiện cố, nhi vị chúng sanh tác Bồ Đề chi chủng” (Do phương tiện
mà vì chúng sanh tạo tác chủng tử Bồ Đề).
Đối với bậc trí giả hành vô
duyên quán, hãy nên biết vị nhân giả ấy đã thành tựu Bồ Đề. Vô duyên quán chính
là Trung Đạo, có ý nghĩa giống như Phật. Pháp nghiệm là bất tư nghị quán. Phật
đã lìa hết thảy chấp trước, vì độ người khác [mà thị hiện các phương tiện]. “Chủng” là gieo trồng. Đã thành Phật
thì giống như là vô duyên giác, từ trong pháp vốn vắng lặng mà dấy lên phương
tiện lợi tha, dùng phương tiện để lợi ích chúng sanh. Dùng phương tiện nào vậy?
Nếu trụ trong “bổn tịch” (vốn sẵn
vắng lặng) thì chính là trái nghịch bổn thệ! Vì thế, dùng phương tiện vì chúng
sanh gieo trồng Bồ Đề. Lợi ích của cái nhân ấy được gọi bằng danh xưng khác là “độ người”, biến ý nghĩa “vô duyên” thành “hữu duyên”. “Nhân giả” (Người có tâm nhân từ): Phật được gọi
là Việt Chúng Sanh, có nghĩa là “vượt
hơn hẳn mọi người”. “Nhân giả”
chính là [bậc đã] đạt được tịch căn (các căn vắng lặng) thù thắng.
(Kinh) Ư chư
pháp bổn tịch, thường vô tự tánh trung, an trụ như Tu Di, thị danh vi kiến Đế.
Thử Không tức Thật Tế, phi hư vọng ngôn thuyết. Sở kiến do như Phật, tiên Phật
như thị kiến, đãi đắc Bồ Đề tâm.
(經)於諸法本寂,常無自性中,安住如須彌,是名為見諦。此空即實際,非虛妄言說,所見猶如佛,先佛如是見。逮得菩提心。
(Kinh: Nơi các pháp bổn tịch, thường trong vô tự tánh, an trụ
như Tu Di, đó gọi là “kiến Đế”. Không ấy là Thật Tế, chẳng phải nói hư vọng. Cổ
Phật thấy như thế, bèn đắc Bồ Đề tâm).
Trong phần trước, [ngài Kim
Cang Thủ] đã hỏi “thế nào là Kiến Đế?”
Nay [đức Phật] theo thứ tự giải đáp. Pháp “bổn tịch” (vốn tịch tĩnh), chẳng có tự tánh. An trụ nơi tâm “giống như núi Di Lô” trong pháp bổn
tịch. Những người tu hành trong các đạo ấy, do biết “pháp vốn tịch tĩnh, vô tánh, bất động như Tu Di”, thì gọi là Kiến
Đế. Được gọi là Kiến Đế thì như trên đã nói, trước hết là từ thầy được truyền
trao phương tiện chân ngôn quán hạnh, được tương ứng với tam-muội, hiện tiền
rành rẽ. Kế đó, đúng như thật chánh quán ba sự, đều là “vô sanh, vô diệt, tánh bất khả đắc”. Do nhân duyên ấy, liền có
thể hiện tướng giác ngộ “hết thảy các
pháp vốn sẵn thường tịch diệt”. Ở đây nói “bỉ chư pháp” (các pháp đó) tức là nói đến các cảnh được quán
chiếu trong phần trên. Từ ngay trong đó mà biết rõ bổn tịch, trụ trong lý tự chứng.
Đã được an trụ trong pháp thể như thế, trong trí huệ chân thật, nghi hối vĩnh
viễn trừ diệt, ví như núi chúa Tu Di chẳng bị lay động. Tu Di Lô (Sumeru) có
nghĩa là “chẳng thể lay động”. Do
trụ trong cái danh ấy, kể từ đó, được gọi là Kiến Đế. Do sự chân thật ấy như
Không, Thật chính là Không, giống như Không. Vô tự tánh thì gọi là Thật, Thật
chính là như Không. “Thật” [có
nghĩa] là “chẳng phải là vọng ngữ”!
Kế đó, nói “dĩ thị sở kiến do như Phật” (do thấy
được điều ấy, bèn giống như Phật). Cổ Phật cũng thấy như thế, ta cũng thấy như
thế, vì thế nói là “cập” (và). Thật và Không chẳng phải là vọng ngữ,
và sở kiến giống như Phật. [Chánh kinh nói] “như thị tiên Phật” (các vị Phật trước kia [cũng đã thấy giống
như thế]) nhằm giải thích ý nghĩa kiến Đế. “Kiến trụ” tức là an trụ trong trí huệ chân thật, nên gọi là Thật.
Ví như đã giác bản tánh của vô tánh Không là thanh tịnh, hãy nên biết các pháp
đều là Không. “Không” có nghĩa
là “lìa hư vọng, phân biệt, mà trụ
trong Đế”, đều là Thật. Người thấy lý ấy tức là thấy đạo do cổ Phật đã
thấy, giải ngộ u huyền giống hệt như chư Phật. Các đức Như Lai xưa kia cũng đi
theo con đường này mà đạt thành Chánh Giác. Đã đạt được trí tự nhiên như thế, lại
sẽ truyền trao cho chúng sanh. Nay tôi cũng đạt được như thế, chẳng khác gì; vì
thế gọi là Thật. “Thật” có
nghĩa là chẳng hư huyễn!
(Kinh) Tất Địa tối vô thượng, tùng thử hữu ngũ chủng, chư Tất Địa sai
biệt. Sở vị: Nhập tu hành, cập thắng tấn chư địa, thế gian ngũ thần thông, chư
Phật, Duyên Giác đẳng.
(經)悉地最無上。從此有五種,諸悉地差別。所謂入修行,及勝進諸地,世間五神通,諸佛緣覺等。
(Kinh: Tất Địa vô thượng nhất, từ đấy có năm thứ, tức là: Nhập
tu hành, và thắng tấn các địa, năm thần thông thế gian, chư Phật và Duyên
Giác).
Trong phần trước đã hỏi về
những người đắc Bồ Đề tâm, Tất Địa của họ lại càng không có gì hơn được! Ngoài
ra, còn có năm loại Tất Địa. Kế đó, Ngài hỏi vì sao gọi là Tất Địa? Lại có mấy
thứ? Nay trước hết, [đức Phật] đáp về cái quả. Hễ nói “thành tựu Tất Địa” tức là “trụ trong Bồ Đề tâm”. Bồ Đề tâm tức là Tối Chánh Giác được
thành tựu bởi đệ thập nhất địa (Đẳng Giác). Trong các địa, Tất Địa như thế là tối
thượng. Vì thế, kinh nói “Tất Địa
không chi hơn được”! Kế đó, giải đáp chuyện tiến nhập, tu hành, tức là
trụ trong địa vị Tín Hạnh. Kế đó, thăng lên địa vị, tức là vượt khỏi năm món thần
thông thế gian. Tất Địa của Phật và Duyên Giác có mấy thứ? Tức là nói: Trước Vô
Thượng Tất Địa, đại lược có năm loại Tất Địa: Một là tín, hai là nhập địa, ba
là ngũ thông, bốn là Nhị Thừa, năm là thành Phật. Đó là năm loại Tất Địa:
1) Đầu tiên là Tín, tức tùy
theo năng lực mà tịnh hóa phần nào các căn, tin sâu bí tạng của Như Lai, quyết
định chẳng nghi ngờ. Tin Phật có phương tiện như thế, nếu vâng theo đó để làm, ắt
sẽ thành Bồ Đề. Đấy chính là tín hạnh của bậc Địa Tiền (các địa vị Bồ Tát trước
khi chứng Sơ Địa).
2) Kế đó là nhập Địa, tức
là đã nhập Sơ Hoan Hỷ Địa, nếu so với pháp Thanh Văn thì giống như bậc đã kiến
Đế.
3) Thứ ba là ngũ thông, tức
là biết rõ cảnh ngũ thông thế gian, ví như huyễn mộng, trăng trong nước, chẳng
thể chấp lấy. Lúc bấy giờ, sẽ là địa vị độ ngũ thông tiên nhân, gọi là địa vị
thứ ba.
4) Thứ tư là Nhị Thừa, tức
quán sát cảnh giới của Nhị Thừa, tâm chẳng chấp trước, tâm chẳng đọa vào Thật Tế.
Khi đó, đã vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa. Lúc bấy giờ, đã đạt đến Đệ Bát Địa.
5) Thứ năm là từ Đệ Cửu Địa
tu hành đạo Bồ Đề hạnh, xoay chuyển thắng tấn, thành tựu địa vị Như Lai. Nhưng
trong các kinh luận và các đại sư đều chỉ nói đại lược như thế mà thôi. Nếu xét
theo ý nghĩa trong bí tạng lại khác, tức là: Đầu tiên là Hoan Hỷ Địa từ mười
tâm, từ sơ tâm cho đến đệ tứ tâm, đạt được cảnh giới vượt khỏi ngũ thông. Từ đệ
ngũ đến đệ bát tâm, vượt khỏi cảnh giới của Thanh Văn và Duyên Giác. Từ đệ cửu
tâm, một mực tu hành đạo Bồ Tát. Đạt tới đệ thập tâm thì gọi là “thành Phật”. Phật là giác, ý nói:
Giác tự tâm tánh tịnh, vốn là tướng thường tịch diệt. Nhưng trong mười tâm ấy,
từ tâm thứ nhất cho tới tâm thứ tám là Kiến Đạo. Từ tâm thứ chín tới tâm thứ mười
thì gọi là Quán Đạo. “Kiến” tức
là thấy đế lý. Tấn tu Quán chính là một mực quán công đức thuộc cảnh giới bí mật
chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Cảnh bí mật như thế chẳng phải là pháp được thấy,
vì nó vượt ngoài tâm lượng. Do vậy, gọi riêng là “quán đạo”. Giác có nghĩa là “nhận biết”, đã vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa, biết rõ tâm Nhị Thừa
khác với Bồ Đề. Nếu lúc nhập Đệ Nhị Địa, cũng đạt tới đệ tứ tâm, vượt khỏi ngũ
thông, đệ bát tâm vượt khỏi Nhị Thừa, đệ thập tâm là thành Phật. Chuẩn theo đó,
do có lòng tin nhận mà được gọi là “nhập
vị”, chẳng khác mười tâm của Sơ Địa, nhưng mười tâm ấy lại rạng rỡ, ly cấu.
Cho tới Đệ Thập Địa, cũng có mười tâm, tức là có một trăm tâm, mỗi mỗi tâm lần
lượt thù thắng hơn, như thí dụ vàng ròng trong kinh Hoa Nghiêm, có thể chuẩn
theo đó mà biết! Trọn vẹn mười tâm của Sơ Địa, sẽ có thể phân thân trong một
trăm cõi Phật, có thể dựa theo kinh đó (kinh Hoa Nghiêm) mà biết. Nhưng “một trăm tâm thành Phật” là do kinh
Bảo Cự Đà La Ni nói, rất sâu, vi tế, kinh này chưa được truyền tới Trung Hoa.
(Kinh) Tu nghiệp vô gián tức, nãi chí tâm tục tịnh, vị thục linh thành
thục. Nhĩ thời, Tất Địa thành. Ư bỉ nhất thời khoảnh, tịnh nghiệp tâm câu đẳng,
Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa tùy ý sanh.
(經)修業無間息,乃至心續淨,未熟令成熟,爾時悉地成。於彼一時頃,淨業心俱等,真言者當得,悉地隨意生。
(Kinh: Tu nghiệp chẳng ngừng nghỉ, sao cho tâm luôn tịnh, chưa
thuần khiến thành thục. Bấy giờ, Tất Địa thành. Trong một khoảnh khắc ấy, tịnh
nghiệp tâm bình đẳng, bậc Chân Ngôn sẽ đắc, Tất Địa tùy ý sanh).
Tu Thật chẳng ngừng, khiến
cho mỗi tâm đều tịnh. Kế đó, giải đáp về sự nghiệp tu hành chẳng ngừng khiến
cho tâm liên tục thanh tịnh. “Tâm liên
tục tịnh” tức là không ngừng dụng công, thành thục như thế (tức là chưa
thành thục bèn khiến cho thành thục, sẽ đạt được Tất Địa). Cũng có thể nói là
“người ấy sẽ đắc Tất Địa”. Khi nào thì Tất Địa sẽ sanh? Kinh dạy: “Thế thế sanh sanh nãi chí nghiệp nghiệp bất
trừ, quả linh thành thục, bỉ thời Tất Địa thành” (Đời đời kiếp kiếp cho
tới khi nghiệp nào cũng chẳng trừ, quả sẽ thành thục, khi đó, Tất Địa thành tựu),
khiến cho nghiệp phát sanh trong một lúc tồn tại nơi thân, người trì tụng đạt
được Tất Địa thuận theo ý mà sanh. “Thế
thế sanh sanh” ở đây có ý nghĩa như thế đó.
Chữ Tán Đả Na trong tiếng
Phạn có nghĩa là Thức, tức là trong nội tâm. Ví như chúng sanh trong thế gian tạo
đủ loại nghiệp, do nghiệp ấy mà phải hứng chịu quả báo, hoặc một đời, hoặc trăm
ngàn vạn đời, nghiệp ấy chẳng mất. Hễ [nghiệp ấy] chín muồi bèn thọ báo. Nay giải
đáp về sự sanh khởi Tất Địa cũng giống như thế: Như hành nhân tùy theo ước nguyện
thượng, trung, hạ, nương vào pháp Chân Ngôn muốn tu hành, được thành tựu Tất Địa.
Do Tất Địa ở nơi thân, cho đến đời đời kiếp kiếp thường ở nơi thân của hành
nhân, ví như nghiệp quả, tuy vẫn sanh từ các duyên, mà thường tự không tịch, chẳng
có, chẳng không, mà cũng chẳng bại, chẳng mất. Kể từ sau khi Tất Địa ấy đã
thành, sẽ đời đời thọ quả chẳng mất đi, hay suy bại. Nương theo nghiệp Tất Địa
mà thọ cái quả ấy, gọi là “sanh Tất Địa
gia” (sanh trong nhà Tất Địa). Đã sanh trong nhà Tất Địa, cho tới khi
thành Phật, trọn chẳng mất mát, hư hoại. Vì thế, nói “nghiệp chẳng thể trừ” [trong câu kinh văn trích dẫn trên đây].
Kinh nói “thục” (chín muồi) thì
“thục” tức là quả. “Khiến cho thành thục” có nghĩa là “thọ dụng cái quả”. “Nhất thời” nghĩa là trong một lúc,
tức là hành giả vâng theo pháp trì tụng, đã đạt được cảnh giới, hạn định kỳ hạn
để tác pháp thành tựu, liền ngay trong đêm ấy, đạt được Tất Địa. Do đã tu tập
trong một khoảng thời gian, [Tất Địa] tồn tại lâu dài nơi thân, chẳng mất mát,
hư hoại. Ví như bỏ chất độc vào trong sữa, thậm chí đề hồ [tinh luyện từ sữa có
chất độc ấy] cũng có thể giết người! Như người tạo cái nghiệp “thọ quả trong cõi trời”, đã được hưởng
báo trong cõi trời, hễ nghĩ tới liền đạt được, chẳng đổ công sức mà hễ nghĩ tới
liền thành. Tất Địa ở đây cũng thế, trong hết thảy các kiếp sống, trong khoảng
thời gian ấy, người trì tụng khi tịnh nghiệp do tu các điều thiện sanh khởi, sẽ
kế đó đạt được “Tất Địa tùy ý sanh khởi”,
tịnh nghiệp và cái tâm sanh khởi đều bình đẳng, chẳng phân biệt. Nghiệp sanh,
tâm bình đẳng; trong lúc ấy, Tất Địa thành tựu, thường được tùy ý mà sanh. Vì
thế nói là “tùy ý sanh”.
(Kinh) Tất Địa thăng không giới, như huyễn vô úy giả, chú thuật võng sở
hoặc, đồng như Đế Thích võng, như Càn Thát Bà thành, sở hữu chư nhân dân. Thân
bí mật như thị. Phi thân, diệc phi thức. Hựu như ư thụy mộng, nhi du chư thiên
cung, bất xả ư thử thân, diệc bất chí ư bỉ.
(經)悉地昇空界,如幻無畏者,呪術網所惑,同於帝釋網,如乾闥婆城,所有諸人民。身祕密如是,非身亦非識,又如於睡夢,而遊諸天宮,不捨於此身,亦不至於 彼。
(Kinh: Tất Địa lên hư không, như kẻ chẳng sợ huyễn, lưới chú thuật
mê hoặc. Giống như lưới Đế Thích, như tất cả nhân dân, trong thành Càn Thát Bà.
Thân bí mật giống thế, chẳng thân, cũng chẳng thức. Lại như khi nằm mộng, dạo
chơi các thiên cung, chẳng hề xả thân
này, mà cũng chẳng tới đó).
Kế đó, giải đáp thế nào để
thăng lên hư không giới, ý nói hành giả nương vào sức của Tất Địa, đi lại trên
hư không tự tại vô ngại, ví như người đạt được không sợ hãi trong huyễn pháp. “Không sợ hãi” tức là đối với pháp tắc,
phương quỹ của huyễn pháp mà có thể biết rõ, chẳng có nghi nan, muốn gì cũng đều
được thành tựu. Như huyễn sư hóa hiện đủ loại cảnh giới, có thể thuận theo lòng
mong muốn của kẻ khác mà thị hiện, nhưng vị huyễn sư ấy thật sự chẳng dao động,
mà cũng chẳng đổi khác, chỉ do nhân duyên chân ngôn hoặc dược vật mà mê hoặc
tâm mọi người đó thôi! Nay Tất Địa ở đây cũng thế, chẳng xả thân này mà đều
thành Tất Địa. Chân ngôn như huyễn, giống như cái lưới của Đế Thích, bước đi
trên hư không giới, dạo chơi các cõi nước, đủ cách tự tại, nhưng cũng chưa hề
dao động! Chỉ do chân ngôn huyễn tác mà được như thế đó thôi! Chân ngôn của huyễn
sư được gọi là “lưới của Đế Thích”,
ví như trong cái lưới ấy, hiển thị tướng trạng của hết thảy mọi sự, hiện ra đủ
loại tướng, nhưng thật sự chẳng có một chuyện nào là thật. Vì thế, gọi là “lưới Đế Thích”. Đây chính là chân
ngôn của huyễn nhân trong thế gian. Mượn chuyện đó để thí dụ, hòng sánh ví chân
ngôn xuất thế là huyễn (lại nói “lưới”
có nghĩa là “chẳng đoạn tuyệt”.
Nếu dùng lưới để bẫy người thì kẻ khác sẽ mờ mịt, chẳng thể tự thoát. Cái lưới
chân ngôn này giăng bẫy lòng người, cũng khiến cho họ mông muội, thấy hư vọng,
nên gọi là “lưới”).
Kế đó, đáp rằng “thân bí mật như thành Càn Thát Bà”. Tất
cả mọi người trụ trong thành ấy, chẳng phải là thân, mà cũng chẳng phải là thức.
Cớ sao nói là “thân bí mật”? Ý
nói: Người thành tựu Tất Địa ấy chẳng xả thân này, chẳng xả thức này, mà có thể
khiến cho cái thân bí mật. Giống như thành Càn Thát Bà, từ trong đó, thấy đủ loại
tướng cung điện, nhân dân, và các vật, tuy dường như là có, nhưng thật sự chẳng
có, cũng là “tuy chẳng có mà có”, hoặc lúc thì có thể thấy, có lúc thì không.
Thân bí mật của hành nhân cũng giống như thành Càn Thát Bà, chỉ từ các duyên mà
sanh. Thật ra, nó chẳng thật, hoặc ẩn kín, hoặc hiển hiện. Do các nhân duyên của
Chân Ngôn quán hạnh mà khiến cho thân ấy tùy duyên sanh diệt cũng giống như thế.
Lại nữa, như trong mộng, mộng lên Tam Thập Tam Thiên, hưởng đủ thứ vui sướng mầu
nhiệm trong cõi trời. Ví như người nằm mộng thấy dạo các cung trời, chẳng xả
thân này, mà cũng chẳng đến đó. Hành giả Du Già ngủ trong Chân Ngôn cũng giống
như thế, trụ trong Chân Ngôn hạnh, thân này như cầu vồng, qua khỏi một kiếp tới
khi tỉnh giấc, chỉ là khoảng chốc lát đó thôi! Người ấy chẳng xả thân này, chẳng
lên tầng trời đó, nhưng do cái tâm ngủ nghê mà có chuyện chẳng thể nghĩ bàn ấy,
chẳng thể dùng tâm thức để có thể suy lường nguyên do được! Nay người thành tựu
Tất Địa dạo trong các thế giới cũng giống như thế, chỉ do nhân duyên Du Già mộng
mà có chuyện ấy. Thành tựu đủ loại sự, rành rành chẳng không, nhưng biết chúng
đều như mười thí dụ [duyên sanh đã nói trong các phẩm trước], chẳng sanh chấp
trước!
(Kinh) Như thị Du Già mộng, trụ Chân Ngôn hành giả, sở sanh công đức
nghiệp, thân tướng do hồng nghê. Chân ngôn Như Ý Châu, xuất sanh ý, ngữ, thân.
Tùy niệm vũ chúng vật, nhi vô phân biệt tưởng. Do thập phương hư không, ly chư
hữu vi hạnh, Chân Ngôn giả bất nhiễm, nhất thiết phân biệt hạnh, giải liễu duy
hữu tưởng, như thị biến quán sát. Nhĩ thời, chân ngữ giả, chư Phật đồng tùy hỷ.
(經)如是瑜伽夢,住真言行者,所生功德業,身相猶虹霓。真言如意珠,出生意語身,隨念雨眾物,而無分別想。猶十方虛空,離諸有為行,真言者不染,一切分別行,解了唯有想,如是遍觀察,爾時真語者,諸佛同隨喜。
(Kinh: Hành giả trụ Chân Ngôn, mộng Du Già như thế, sanh ra nghiệp
công đức, thân tướng như cầu vồng. Chân ngôn Như Ý Châu, xuất sanh ý ngữ thân.
Tùy niệm tuôn các vật, chẳng suy tưởng phân biệt. Như mười phương hư không, lìa
các hạnh hữu vi. Bậc Chân Ngôn chẳng nhiễm, hết thảy hạnh phân biệt, hiểu rõ chỉ
có tưởng, quán sát trọn như thế. Lúc bấy giờ chư Phật, cùng tùy hỷ hành giả).
Do thân tịnh nên có Tất Địa,
giống như cầu vồng. Chân ngôn giống như Như Ý Châu, do gia trì công đức nghiệp
mà có Tất Địa ấy. Cầu vồng ở trên trời, chẳng biết từ đâu mà có, có thể thấy
các sắc. Chân ngôn như Như Ý Châu, tùy thuộc các loại thân, ngữ, ý mà sanh.
Theo ý niệm mà tuôn ra các vật dụng, tuy sanh nhưng vô phân biệt, tuy vô phân
biệt mà sanh. Đắc Tất Địa cũng giống như thế. Lại như cầu vồng ở trên trời, năm
sắc rực rỡ có thể trông thấy rành rành. Nay quán chuyện ấy, do hư không mà có
ư? Từ hơi đất mà sanh ư? Nếu từ hư không mà sanh, hư không vốn chẳng có pháp,
sao có thể có các màu sắc như thế cho được? Nếu sanh từ đất, thì cũng chẳng thể
được! Nhưng có chuyện này đẹp lòng mọi người. Hãy nên quán biết pháp ấy chẳng
do tự sanh, chẳng do pháp nào khác mà sanh, chẳng do tự và tha cùng sanh, chẳng
phải là không có cái nhân, chỉ là do các duyên hòa hợp đó thôi! Nay thân Tất Địa
cũng giống như thế, do sức công đức bởi trì tụng chân ngôn mà có tác dụng thần
biến đủ loại chẳng nghĩ bàn như thế, cũng giống như cầu vồng vậy!
Lại phải giải trừ nghi vấn.
Như có người nói: “Do pháp sự tướng chân ngôn ấy, sao có thể thành tựu pháp vô
tướng kiến Đế chân thật?” [Đáp rằng]: Pháp chân thật ấy thật sự chẳng lìa nhân
duyên, tức là quán cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của duyên sanh Thật Tướng ấy.
Như châu Như Ý đặt trên đầu tràng, có thể thỏa mãn nguyện của hết thảy mọi người,
tùy theo lòng mong muốn mà những điều tâm họ mong cầu đều được thỏa. Nay quán
sát những điều ấy do châu mà sanh ư? Sanh từ lòng người ư? Nếu từ châu mà ra,
vì sao trong hết thảy các thời chẳng tuôn ra, phải đợi lòng người mong cầu rồi
mới tuôn ra? Nếu từ lòng người mà ra, cớ sao chẳng tự cầu nơi tâm người mà phải
đợi có châu? Hãy nên biết là chẳng từ châu mà có, chẳng từ lòng người mà có, chẳng
phải do châu và lòng người kết hợp mà cùng có, chẳng phải là không có nhân
duyên, chỉ là hòa hợp mà có đấy thôi! Nay thần biến (sự biến hóa thần diệu) chẳng
nghĩ bàn của Tất Địa cũng giống như thế, chỉ do các duyên “chân ngôn, quán Bổn Tôn, thân ấn”
v.v… mà thành Tất Địa. Do chân ngôn nên khẩu nghiệp tịnh, do quán Bổn Tôn nên ý
nghiệp tịnh, do ấn nên thân nghiệp tịnh. Do ba sự bình đẳng, tự nhiên mà có
nghiệp chẳng nghĩ bàn; nhưng cũng chẳng thể phân biệt, không suy nghĩ, không
làm. Nếu đã là như vậy, đã giống như Như Ý Châu, hãy nên biết là pháp hữu tướng
ư? Vì trừ chỗ thấy đó, bèn nói thí dụ về thái hư không. Ví như hư không vô tướng,
vô phân biệt, nhưng các thứ nghiệp tạo tác “đến, đi, hành sử” của hết thảy hữu tình đều do hư không mà được
thành tựu. Đủ loại muôn vật, hết thảy các sắc tướng cũng do hư không mà được hiển
hiện, nhưng tánh của hư không thường vô phân biệt, chẳng có tướng sanh khởi!
Chân ngôn cũng giống như thế,
bản tánh thường tịnh, giống như hư không, hết thảy hữu vi chẳng thể nhuốm bẩn,
mà cũng có thể thành tựu đủ loại nghiệp tạo tác, biến hóa trọn khắp chẳng thể
nghĩ bàn, sao là hữu tướng ư? Hãy biết các loại pháp hữu tướng trong thế gian,
chấp lấy hình tướng ấy thì gọi là Tướng. Vì đó mà phân biệt, đặt ra danh xưng,
gọi đó là Danh. Pháp danh tướng như thế đều giống như mười thí dụ, chỉ từ nhân
duyên mà có, do điên đảo mà sanh, chứ nói thật ra thì vô sanh, vô tánh, tức là
giống như tánh Như Như của pháp giới vậy. Nếu có thể quán như thế, tức là cùng
với hết thảy Như Lai hội họp một chỗ, người ấy tuy chưa thể đạt đến Phật huệ rốt
ráo, nhưng sự hiểu biết đã giống như chư Phật! Do tương ứng với pháp mà nói là “giống như Phật”, tức là cùng chư Phật
tụ tập một chỗ. Nhằm nêu rõ “mười
phương là Không”, ví như dùng hư không để chỉ rõ “mười phương là không”. Lìa hết thảy các hạnh hữu vi chẳng nhiễm,
người tu Chân Ngôn chẳng nhuốm bẩn hết thảy các hạnh phân biệt. Nếu quán sát
như thế, liễu giải chỉ là tưởng. Khi người tu Chân Ngôn quán sát như thế, chư
Phật đều cùng tùy hỷ.
(Kinh) Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, thuyết nhị chủng hộ-ma, sở vị nội cập
ngoại. Tăng oai diệc như thị, chư tôn thù loại tánh, đương quán sát chứng tri.
(經)正覺兩足尊,說二種護摩,所謂內及外,增威亦如是。諸尊殊類性,觀察當證知。
(Kinh: Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, nói hai loại hộ-ma, tức là nội
và ngoại. Tăng oai cũng như thế, chư tôn tánh loại khác, hãy quán sát, chứng biết).
Hộ-ma có hai loại. Trong phần trước, đã nói đại lược tướng hộ-
ma. Nay lại phân biệt nội và ngoại hộ-ma. Như đấng Lưỡng Túc Tôn nói hộ-ma
có hai loại: - Ngoại hộ-ma là tác pháp, trừ các chướng thuộc phiền não và tùy
phiền não.
- Loại thứ hai là nội hộ-ma.
Tức là chư Phật Lưỡng Túc
Tôn nói có hai loại hộ-ma, nói “nội”
và “ngoại”, [mục đích là] ngưng
dứt các cảnh giới, mười hai duyên sanh v.v… Nhưng ngoại hộ-ma làm phương tiện
cho nội hộ-ma, tức là cái nhân của nó. Có kẻ bắt bẻ rằng: “Nay thực hiện pháp hộ-ma
này để cầu cái quả, tức là có mong mỏi, há có thể trở thành chân lý ư?” Đáp: Ta
nay chẳng mong cầu!
Hỏi: “Nếu là như thế, sao
không vâng theo thường pháp của Đàn Na để thí trọn khắp hết thảy kẻ nghèo khổ,
lại làm chuyện rỗng tuếch này, [đem các vật cúng] thiêu đốt hết sạch, có ý
nghĩa gì đâu?” Đáp: Kẻ phàm phu, nếu có vật được thí, sẽ có người nhận, tức là
có cái tâm mong mỏi, hoặc cầu được báo đền, hoặc mong cái quả của sự bố thí. Do
nhân duyên ấy, chẳng thể đối trị cái tâm mong cầu. Do chẳng thể trị, nên chẳng
thể tuyệt dứt nguồn tham ái. Do nhân duyên ấy, chẳng thể làm nhân duyên cho nội
hộ-ma. Nay thiêu những vật để thí ấy chính là để đoạn tuyệt khuyết điểm đó, tác
quán đối trị, tạo cái nhân trí huệ chẳng chấp trước, hòng làm phương tiện cho nội
hộ-ma. Do vậy mà làm như thế. Ví như cầm các vật cúng ấy dâng lên Bổn Tôn, liền
biết cái tâm mong cầu cũng giống như vật ấy chẳng khác, hết thảy đều như “củi hết, lửa tắt”, chẳng thể chấp lấy,
chẳng có nơi chốn. Vì thế, có thể làm duyên cho nội hộ-ma.
Thâm hạnh thì trong khi làm
pháp sự tăng ích, sẽ tăng thêm oai thế, như khi cúng hoa, trước tiên là trừ cấu
uế, tức là tăng thêm oai quang rồi mới cúng dường. [Cúng dường] đã là như thế,
hộ-ma cũng thế, A-xà-lê liền làm nội hộ-ma. Nếu là hành giả hạnh cạn, liền làm
ngoại pháp, nhưng rốt cuộc là cái nhân của nội pháp.
(Kinh) Thế gian chư chân ngôn, kim thuyết bỉ hạn lượng, phước đức Tự Tại
đẳng, chúng tri thức thiên thần. Bỉ sở thuyết minh chú, cập dữ đại lực ấn, bỉ
giai hiện thế quả. Cố thuyết hữu phân lượng. Tuy thành, bất kiên trụ, tất thị
sanh diệt pháp. Xuất thế gian chân ngôn, vô tác, bổn bất sanh, nghiệp sanh tất
dĩ đoạn. Chiến thắng ly tam quá, lân giác vô sư giả, cập Phật, Thanh Văn chúng,
Bồ Tát chư chân ngôn. Bỉ lượng ngã đương thuyết: Siêu việt ư tam thời, chúng
duyên sở sanh khởi. Khả kiến phi kiến quả. Tùng ý ngữ thân sanh. Thế gian chi sở
truyền, quả số kinh nhất kiếp. Đẳng Chánh Giác sở thuyết, chân ngôn quá kiếp số.
(經)世間諸真言,今說彼限量。福德自在等,眾知識天神,彼所說明呪,及與大力印,彼皆現世果,故說有分量,雖成不堅住,悉是生滅法,出世間真言,無作本不生。業生悉已斷,戰勝離三過,麟角無師者,及佛聲聞眾,菩薩諸真言,彼量我當說。超越於三時,眾緣所生起,可見非見果,從意語身生。世間之所傳,果數經一劫,等正覺所說,真言過劫數。
(Kinh: Các chân ngôn thế gian, nay nói hạn lượng đó. Phước đức tự
tại thảy, chư thiên mọi người biết. Minh chú do họ nói, cùng với đại lực ấn, đều
thuộc quả hiện đời. Nên nói có phân lượng. Tuy thành, chẳng lâu bền, đều là
pháp sanh diệt! Chân ngôn xuất thế gian, vô tác, vốn bất sanh, nghiệp sanh đều
đã đoạn. Chiến thắng lìa ba lỗi, bậc Lân Giác vô sư, và Phật, các Thanh Văn, Bồ
Tát nói chân ngôn. Ta sẽ nói lượng ấy, siêu việt ngoài ba thời, sanh khởi bởi
các duyên. Hay thấy quả chẳng thấy, sanh từ ý, ngữ, thân. Chân ngôn thế gian
truyền, quả tồn tại một kiếp. Chân ngôn do Phật nói, tồn tại ngoài kiếp số).
Lại nữa, cần phải chứng biết
bản tánh nơi biệt tướng của chư tôn, tức là Phật, Bồ Tát, Nhị Thừa, thiên thần
thượng, trung, hạ, quán sát hình tướng, màu sắc v.v… của các Ngài sẽ có thể biết
ngay. Tu hành Chân Ngôn lại có đủ loại sai biệt, nay sẽ liệu giản. Nếu người thế
gian, nương theo vị tôn thánh thuộc bổn bộ mà tu Chân Ngôn hạnh, tức là như
[nương theo] Đại Tự Tại Thiên v.v… [để tu Mật pháp] sẽ có vô lượng chủng loại,
mỗi mỗi bất đồng, chẳng thể ghi trọn! Kinh chỉ nêu ra một khía cạnh, dùng Đại Tự
Tại Thiên làm đầu mối [để so sánh]. Nhưng khi họ tác pháp, cúng dường, ai nấy đều
mong thành tựu cái quả của vị Bổn Tôn thuộc bộ của chính mình. Tùy theo tánh chất,
phương vị sai biệt bất đồng của mỗi vị, mà đều ôm lòng mong mỏi thành tựu cái
quả đó.
Tâm có hạn lượng, các quả
cũng thế. Nói tới lượng của các chân ngôn thế gian, thì đối với những vị [tôn
thánh mà] người đời hay biết, tức các vị trời tự tại phước đức, thì chân ngôn
và đại lực ấn do họ đã nói thảy đều là cái quả trong hiện đời. Vì thế nói lượng
có chút sai khác, tức là [các quả thành tựu đó] là pháp sanh diệt, chẳng vững bền,
nghĩa là trong đời tương lai sẽ chẳng có! Nói tới “lượng”, đức Phật bảo các cái quả thành tựu [bởi chân ngôn thế
gian] là pháp có hạn lượng, Ngài nói như thế đó. Tuy vậy, chẳng giống như pháp
tu hành hộ-ma do Như Lai đã dạy trong phần trước. Bởi lẽ, người đời chỉ muốn
thuận theo quả báo của vị thiên thần mà họ tôn phụng, để mong cầu chứng [cái quả
ấy], đức Phật cũng tạo ra pháp hộ-ma xuất thế để đối trị. Vì thế, có pháp hộ-ma
thuộc Chân Ngôn Hạnh. Đối với vị được người đời tôn sùng, nếu xét tới chỗ tột
cùng rốt ráo của pháp ấy, [thì hành nhân sau khi đắc Tất Địa] sẽ giống như vị Bổn
Tôn ấy, chẳng thể vượt hơn được! Chân ngôn và ấn của họ cũng thế, chỉ tùy thuộc
thế lực kham nổi do vị tôn thánh ấy đã gieo phước sâu hay cạn mà nói chân ngôn,
thủ ấn, Bổn Tôn v.v… Tùy theo thế lực của vị ấy, chỉ được thành tựu cái quả của
vị Bổn Tôn ấy. Lại chỉ có thể thành tựu cái quả trong đời hiện tại, đạt được
thành tựu thế gian, trọn chẳng thể thành tựu cái quả xuất thế gian. Khéo tu
chân ngôn, ấn v.v… của Như Lai thì chẳng phải vậy, [hễ thành tựu Tất Địa] sẽ
vĩnh viễn chẳng cạn kiệt, mất đi, hay hư hoại! Đó là điểm khác biệt.
Như nước đọng trong dấu
chân trâu, nếu để cho nước lưu tại đó, khi thế lực của nó đạt tới cùng cực, sẽ
tự khô cạn. Nếu có người đem nước ấy bỏ vào biển cả, sẽ chẳng có lẽ nào cạn kiệt.
Vì sao vậy? Do cùng với tánh của hết thảy các loại nước hòa hợp thành cùng một
vị; do vậy, chẳng thể tận! Người tu chân ngôn hạnh của Như Lai cũng giống như
thế, cho tới khi thành Phật, đời đời hưởng cái quả Tất Địa ấy, trọn chẳng thể
cùng tận. Rốt cuộc nương vào sức ấy mà đắc Bồ Đề. Vì lẽ nào vậy? Do chính mình
và biển cả “hết thảy Như Lai” có cùng một vị! Các chân ngôn xuất thế, bổn sơ là
bất sanh, vô tác, các nghiệp sanh đều đoạn, lìa lỗi nơi ba nghiệp thân, miệng,
ý mà thành Phật. Chân ngôn xuất thế gian từ khởi thỉ vốn bất tác, bất sanh,
nhưng đối với [chân ngôn của] các vị tôn thánh trong thế gian thuộc địa vị Độc
Giác (kinh bổn chép là “tê giác”,
hoặc như Luận nói là “lân giác”,
tức sừng con kỳ lân), và chân ngôn của chư Phật, Thanh Văn, Bồ Tát v.v… Ta nay
sẽ nói lượng đó. Chân ngôn do các vị như chư thiên v. v… đã nói đều là pháp hữu
tác, do sanh từ vị tôn thánh ấy. Chân ngôn xuất thế gian siêu việt ba thời, từ
duyên mà sanh khởi, cũng có thể dùng chữ Giai (đều) để nói [tức là] “đều có thể thấy cái quả chẳng thể thấy”,
[các chân ngôn sanh từ] thân, ngữ, ý sẽ chẳng giống như thế. [Tất Địa của các
chân ngôn xuất thế gian ấy] chẳng phải do Như Lai tự làm, mà cũng chẳng phải do
chư Phật xưa kia đã làm. Cái quả của [các chân ngôn] do thế gian xưng nói chỉ
lâu chừng một kiếp, còn cái quả của chân ngôn do bậc Đẳng Chánh Giác đã nói thì
vượt ngoài kiếp số. Vì thế, hãy nên biết: Chân ngôn, ấn v.v… từ nơi bổn tế Như
Lai pháp tánh vốn sẵn tự nhiên là như vậy, chẳng phải là có sanh khởi hay tạo
tác.
Hỏi: Nếu nói vô tác, chẳng
có sanh, nay thấy mọi người vì cầu cái quả Tất Địa mà siêng hành phương tiện
hòng được thành tựu cái quả ấy. Đã là hữu sanh, hữu quả, sẽ là “có làm”, sao lại
là bất sanh?
Đáp: Nghĩa ấy chẳng phải vậy.
Tánh của chân ngôn, thủ ấn và người trì tụng, Thể đồng hư không, sanh ra cái quả
cũng giống như thế. Do nhân duyên bình đẳng của ba chuyện “chân ngôn, thủ ấn,
và Bổn Tôn”, sẽ có thể tịnh ba chướng; từ đấy, sanh ra cái quả chẳng nghĩ bàn.
Vì thế, “lượng” của cái quả chẳng
thể nghĩ bàn ấy sẽ chẳng thể được! Như chân ngôn, ấn v.v… bằng với hư không,
hãy nên biết cái quả ấy cũng giống như hư không. Cho tới tất cả chân ngôn của
Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát v.v… cũng có cùng cái “lượng” ấy, đều vượt ngoài ba thời. “Ba thời” tức là quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do lìa ba thời,
nương vào cái quả Tất Địa ấy, vĩnh viễn chẳng mất đi, chẳng hư hoại, rốt ráo
thành Vô Thượng Bồ Đề. “Quả duyên sanh
khởi” tức là duyên theo các duyên như chân ngôn, thủ ấn, Bổn Tôn v.v… trọn
đủ, cho nên đạt được thành tựu. Do vậy, “lượng” ấy chính là Thật Tướng của
Trung Đạo
bình đẳng. Quả có hai loại:
- Một là pháp có thể thấy,
tức là được thành tựu trong đời hiện tại.
- Hai là pháp chẳng thể thấy,
tức là quả báo trong tương lai vĩnh viễn vô tận, đời đời thọ quả, lần lượt thắng
tấn mãi cho tới khi thành Phật. Nhưng chẳng phải là biểu nghiệp[6],
chẳng phải là sắc, chẳng phải là tâm pháp, chẳng có, chẳng mất, nhưng chẳng hư
mất. Do nhân duyên thân, ý, nghiệp thanh tịnh mà sanh khởi “vô sanh vô tánh” ấy
(Trên đây là giải đáp nhiều điều, hãy nên kiểm chánh kinh để đối chiếu).
Kế đó, đáp về quả số (thời
hạn của cái quả), thọ lượng [của các Tất Địa] là mấy thời? Thế lực của tất cả
chân ngôn của các vị được cõi đời tôn phụng, tột bậc thì chẳng quá một kiếp. [Tất
Địa của chân ngôn] do đức Phật nói vượt ngoài hạn lượng một kiếp, tức là vượt
khỏi kiếp này vượt hơn kiếp khác, vô lượng như thế cho tới khi thành Phật. Vì thế, Tất Địa, thọ
lượng và cái quả mà người đời đạt được là có ngằn hạn, chẳng vượt khỏi một kiếp.
Nay thì [Tất Địa của chân ngôn xuất thế gian] chẳng mất, thọ lượng vô tận, vượt
khỏi hạn lượng một kiếp. Nếu giải thích theo mặt Sự, chỉ tùy sức mà có thể vượt
qua chừng ấy kiếp, hoặc trải qua vô lượng kiếp, thọ lượng bất tận, cũng vượt
quá các vị trời trong thế gian. Vì thế nói là “siêu kiếp”; đấy chính là lời nói chung, hàm ý bất định. Luận định
thọ lượng khít khao sự thật, do vượt ngoài kiếp số thọ báo thì cũng là chẳng có
hạn lượng!
(Kinh)
Đại tiên Chánh Đẳng Giác, Phật tử chúng tam-muội, thanh tịnh ly ư tưởng, hữu tưởng
vi thế gian, tùng nghiệp nhi hoạch quả, hữu thành thục thục thời. Nhược đắc
thành Tất Địa, tự tại chuyển chư nghiệp, tâm vô tự tánh cố, viễn ly ư nhân quả,
giải thoát ư nghiệp sanh, sanh đẳng đồng hư không.
(經)大仙正等覺,佛子眾三昧,清淨離於想,有想為世間,從業而獲果,有成熟熟時。若得成悉地,自在轉諸業,心無自性故,遠離於因果,解脫於業生,生等同虛 空。
(Kinh:
Các tam-muội của đại tiên, Chánh Đẳng Giác, Phật tử, thanh tịnh, lìa khỏi tưởng.
Hữu tưởng là thế gian, do nghiệp mà đắc quả, có chín muồi, lúc chín. Nếu được
thành Tất Địa, tự tại chuyển các nghiệp, do tâm vô tự tánh, xa lìa khỏi nhân quả,
giải thoát khỏi nghiệp sanh, sanh bằng với hư không).
Kế đó, đáp về tam-muội (Samādhi, Tam Ma Địa), đại lược có nhiều loại.
Nếu là tam-muội của các vị Phật, Phật tử (Bồ Tát), chư Phật là bậc đại tiên,
thì đều thanh tịnh, lìa các tưởng. Hữu tưởng là thế gian, Nhị Thừa thì là “lìa tưởng”. Nếu tam-muội là Du Già
trong thế gian, sẽ gọi là hữu tướng tam-muội. Tam Ma ở đây có nghĩa là “đẳng”, còn Địa nghĩa là Huệ. Dùng huệ
để quán chiếu ba sự như trên đây đều là Không, dùng ba sự có bản thể là Không để
bình đẳng hợp thành một. Đó gọi là Tam-ma-địa. Nhưng tam-muội của Phật và Bồ
Tát đều là lìa tưởng, thanh tịnh. Dùng tam-muội ấy để chánh quán ba sự đều bình
đẳng, lại chẳng phân biệt, do lìa các tưởng, bản tánh thuần bạch, lìa các ô nhiễm.
Do vậy gọi là “thanh tịnh”. Nếu
có tưởng, sẽ là hết thảy các tam-muội thuộc thế gian, tức là tùy thuộc cái quả
để tu hành. Do mong cái quả mà tu nhân, do có điều mong mỏi, [cho nên] tột bậc
là đạt đến Tứ Thiền, Bát Định, chẳng thể cao hơn được nữa! Do vậy, chẳng thanh
tịnh. Thanh Văn, Duyên Giác tuy đạt được thanh tịnh, nhưng chưa thể hết thảy đều
thanh tịnh, do chưa biết trọn khắp Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Do vậy,
chưa thuần tịnh.
Tam-muội thế gian lại có hai thứ: Một là Đoạn Kiến, hai là
Thường Kiến. Nếu là Đoạn Kiến thì chẳng phân biệt, Thường Kiến sẽ có đôi chút
phân biệt. Từ nghiệp đắc quả là có sự thành thục và lúc nào sẽ thành thục, [do
vậy, chánh kinh nói “hữu thành thục,
thục thời” (có sự thành thục và lúc nghiệp chín muồi)]. Nếu “đắc Tất Địa” là đối với nghiệp bèn tự
tại xoay chuyển, cần phải thọ cũng được, mà chẳng thọ cũng được! Do tâm vô tự
tánh, tâm tánh lìa nhân quả. Nói “không”
tức là “chẳng có”. Đối với tướng
giải thoát, nghiệp sanh, sanh v.v… đều như hư không. Khi nghiệp thành tựu và
chín muồi, sẽ đắc quả. Nếu đạt được Tất Địa, từ ngay nơi nghiệp mà xoay cái tâm
vào vô tánh, quả nhân (cái nhân sanh khởi cái quả) cũng lìa, giải thoát khỏi
nghiệp sanh. “Sanh như hư không”
tức là hữu tướng tam-muội trong thế gian giống như là có nghiệp, do ước theo quả
báo mà tu, nên gọi là “thành tựu”.
“Đắc” là thành thục, được gọi
là Tất Địa. Nếu dùng Thế Gian Không để hồi hướng vô tự tánh nơi cái tâm này, Thể
đã là vô tướng, giống như hư không chẳng có ngằn mé. Do vậy, công đức đạt được
cũng rộng lớn. Xoay về vô tự tánh nơi cái tâm này, tâm được gọi là Chất Đa
(Citta). Chất Đa là giống như các màu sắc trang nghiêm tích tụ, được gọi là Chất
Đa. Ví như do các màu tạo thành, tức là chẳng có tự tánh. Đấy chính là cái
nhân. Bổn nhân đã là vô tự tánh, hãy nên biết cái quả sanh khởi [bởi cái nhân ấy]
cũng là vô tự tánh. Vì lẽ nào vậy? Nếu nhân có sanh, quả sẽ có thể sanh. Nay
nhân còn phải đợi duyên mà thành, vô sanh, vô tánh, hãy nên biết là “sanh chẳng thể được!” Do nhân lẫn quả
đều là như thế, cho nên được giải thoát khỏi nghiệp. Hoặc có người nói rằng: “Nếu
là như thế, đó là vô nhân, vô quả, đọa vào Đoạn Diệt Kiến”. Chẳng phải vậy! Chỉ
lìa tánh “sanh bởi nghiệp”! Đã
lìa khỏi sự sanh bởi nghiệp, tức là có sự sanh khởi do pháp tánh bằng với hư
không. Do hư không vô biên, hãy nên biết chuyện công đức lợi ích chúng sanh
cũng thành tựu vô biên, vô tận. Vì thế, chẳng phải là Đoạn. Trên đây, [đức Phật]
dùng kệ để đại lược giải đáp các điều thưa hỏi của ngài Kim Cang Thủ, [tiếp
đó], Ngài lại dùng Trường Hàng để nói.
(Kinh) “Phục thứ,
Bí Mật Chủ! Đế thính bỉ mật ấn, hình tướng,
phu
trí thánh thiên chi vị, oai nghiệm hiện tiền, tam-muội sở thú. Như thị ngũ giả,
vãng tích chư Phật thành Bồ Đề, pháp giới hư không hạnh, bổn sở thệ nguyện độ
thoát vô dư chúng sanh giới, vị dục lợi ích an lạc bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
chư Bồ Tát cố”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.
(經)復次祕密主!諦聽彼密印、形相、敷置聖天之位、威驗現前、三昧所趣。如是五者,往昔諸佛成菩提,法界虛空行,本所誓願度脫無餘眾生界,為欲利益安樂彼真言門修菩薩行諸菩薩故。金剛手言:如是。世尊!願樂欲聞。
(Kinh: Lại
này Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe mật ấn, hình tướng, sự xếp đặt tọa vị của chư
thánh, chư thiên [trong Mạn-đồ-la], oai thần, pháp nghiệm hiện tiền, mục tiêu
hướng đến của tam-muội. Năm điều như thế là hạnh pháp giới hư không, là bổn thệ
nguyện độ thoát chúng sanh giới chẳng sót của chư Phật xưa kia để thành tựu Bồ
Đề, vì muốn lợi ích an lạc các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn môn”. Ngài
Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế đó, bạch Thế Tôn! Con nguyện ưa thích muốn
nghe”).
Nói “phục thứ”
(lại này) là do những điều đã nói trước đây có chỗ chưa trọn hết, nay lại tiếp
tục nói rõ thêm. Vì thế, bảo là “phục
thứ”. “Đế thính” (Lắng
nghe) là do pháp này càng sâu dần, là ý chỉ trọng yếu, bí mật, nên lại răn nhắc
hãy nghe kỹ. Trong đoạn này, nói đại lược năm sự, tức ấn, sắc, tôn vị, trụ, và
tam-muội. “Ấn” là thủ ấn, khế ấn,
[ở đây] đổi thành [ý nghĩa] “hình tướng”.
“Sắc” tức sắp đặt hình tướng,
phần đoạn sai biệt của Bổn Tôn, chính là vuông, tròn, bán nguyệt, tam giác v.v…
“Tôn vị” là mỗi chỗ thuộc
phương vị để trụ [của chư tôn thánh] trong Mạn-đồ-la (tức là thứ tự xếp đặt các
vị tôn thánh). “Trụ” là nói tới
hình tượng của Bổn Tôn. Không chỉ là hình vẽ, mà còn do chân ngôn, ấn v.v… dẫn
khởi, tới ngự nơi bổn tọa (tọa vị của tôn thánh ấy trong Mạn-đồ-la) để tăng
thêm oai thần [cho đàn tràng] mà trụ, hiện ra oai thần để chứng nghiệm. “Tam-muội” tức là tùy theo các tướng
mạo, oai nghi thượng, trung, hạ, phẫn nộ hay tịch tĩnh, giận dữ hay vui sướng.
Thỉnh Bổn Tôn đúng như pháp, đó là dựa vào ấn và hình tướng (tức hai thứ “ấn”
và “sắc”). Phối trí tôn vị, oai thần linh nghiệm hiện tiền, trụ nơi tam-muội sẽ
hướng đến (chính là trụ xứ của mỗi vị). Chỗ để trụ được gọi là “thú”, ý nói “tam-muội thú” (三昧趣, mục tiêu mà
tam-muội hướng đến). Phải nói cặn kẽ năm duyên này. Còn như nói “ngũ thú” thì Thú (趣) có nghĩa [mỗi đường] khác biệt. Do năm duyên ấy sai khác, cho nên nói là
“năm”. Do trọn đủ năm thứ ấy, đối
với tất cả các Mạn-đồ-la thế gian và xuất thế gian, đều có thể thông hiểu. Nhưng
năm sự ấy chính là do cổ Phật đã thành tối Chánh Giác, các vị Phật thuở trước
đã thành Tam Bồ Đề (tức các Phật pháp), là pháp giới hư không hạnh.
“Pháp giới hư
không hạnh” do Thể đồng pháp giới mà thành hạnh Như Lai. Chư Phật nói “bổn nguyện độ hữu tình trong các giới chẳng
sót” như thế, vì lợi ích, an lạc các Bồ Tát tu Chân Ngôn môn nên diễn
nói. Do vậy, [đức Thế Tôn] răn dạy hãy nên ân cần, chân thật nhận lãnh. Ngài
Kim Cang Thủ thưa: “Đúng như thế, bạch
Thế Tôn! Thưa vâng, chúng con muốn được nghe”, tức là đại chúng gồm các
vị như ngài Kim Cang Thủ nhiều như số vi trần trong mười thế giới, và các vị
như ngài Phổ Hiền nhiều như số vi trần trong mười thế giới được đức Phật răn
truyền, đều cùng đồng thanh bạch rằng: “Dụy
nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Vì thế, đức Phật lại nói pháp Bí Mật
Mạn-đồ-
la.
(Kinh) Tối sơ
Chánh Đẳng Giác, phu trí Mạn-đồ-la, mật trung chi bí mật, Đại Bi Thai Tạng
Sanh, cập vô lượng thế gian, xuất thế Mạn-đồ-la, bỉ sở hữu đồ tượng, thứ đệ
thuyết, đương thính.
(經)最初正等覺,敷置漫荼羅,密中之祕密,大悲胎藏生,及無量世間,出世漫荼羅,彼所有圖像,次第說當聽。
(Kinh:
Tối sơ Chánh Đẳng Giác, xếp đặt Mạn-đồ-la, bí mật trong bí mật, Đại Bi Thai Tạng
Sanh, và vô lượng thế gian, xuất thế Mạn-đồ-la, tất cả các đồ tượng, thứ tự
nói, hãy nghe).
Đức Phật nói: Có Chánh Đẳng Giác Mạn-đồ-la, được xếp vào loại
bí mật trong các bí mật, được gọi bằng các danh xưng như Vô Thượng Đại Bi Tạng
v.v… Nói “giống như vô lượng Mạn-đồ-la
thế gian và xuất thế gian” tức là nói đến Tối Chánh Giác rốt ráo của Như
Lai. Nhưng Đại Bi Tạng Sanh này đã được nói trong phần trước, vì sao nay lại
nói? Có khác biệt gì chăng? Trong phần trước, tuy nói là “bí mật”, nay lại có “bí mật trong các bí mật”. Nếu chẳng
nói pháp này, dẫu thông đạt pháp trước, cũng chẳng thể thành tựu. Vì thế, [pháp
này] bí yếu nhất. Nếu hiểu pháp này, hết thảy các Mạn-đồ-la trong thế gian thảy
đều sẽ có cùng công dụng, không gì chẳng nhập.
(Kinh) Tứ
phương phổ châu táp, nhất môn cập thông đạo, Kim Cang ấn biến nghiêm, trung Yết-ma
kim cang. Kỳ thượng diệu liên hoa, khai phu hàm quả thật. Ư bỉ đại liên ấn, Đại
Không điểm trang nghiêm, bát diệp tất viên chánh. Thiện hảo cụ tu nhụy, thập nhị
chi sanh cú, phổ biến hoa đài trung. Kỳ thượng Lưỡng Túc Tôn, đạo sư thành
Chánh Giác. Dĩ nhập Mạn-đồ-la, quyến thuộc tự vi nhiễu. Đương tri thử tối sơ,
Bi Sanh Mạn-đồ-la, tùng thử lưu chư đàn, các như kỳ bổn giáo, sự nghiệp hình Tất
Địa, an trí chư Phật tử.
(經)四方普周匝,一門及通道,金剛印遍嚴,中羯磨金剛。其上妙蓮華,開敷含果實,於彼大蓮印,大空點莊嚴。八葉悉圓正,善好具鬚蘂,十二支生句,普遍華臺中。其上兩足尊,導師成正覺,以入漫荼羅,眷屬自圍繞。當知此最初,悲生漫荼羅,從此流諸壇,各如其本教,事業形悉地,安置諸佛子。
(Kinh:
Bốn phía vây trọn khắp, một cửa, đường thông vào. Ấn Kim Cang trọn khắp. Giữa:
Yết Ma Kim Cang. Trên đó, hoa sen đẹp, nở xòe chi chít hạt. Trong ấn sen lớn ấy,
chấm Đại Không trang nghiêm, tám cánh ngay, vẹn toàn. Hay khéo đủ tua nhụy. Câu
mười hai chi sanh, trọn khắp trong đài hoa. Trên ngự Lưỡng Túc Tôn, đạo sư
thành Chánh Giác. Do nhập Mạn-đồ-la, quyến thuộc tự vây quanh. Hãy nên biết tối
sơ, Bi Sanh Mạn-đồ-la, từ đấy ra các đàn, mỗi đều như bổn giáo. Sự nghiệp hình
Tất Địa, xếp đặt các Phật tử).
Để làm pháp này thì trước hết là làm Mạn-đồ-la hình vuông, ranh giới chỉ
dùng Yết Ma kim cang trí ấn (chày kim cang kép) để xếp liên tiếp vòng quanh làm
đường ranh, chỉ mở một cửa. Nơi đường thập tự (tức chỗ chính giữa đàn, giao điểm
của đường chữ thập) lại đặt thập tự kim cang ấn (chày kim cang kép). Ấn làm giống
như trước, chỉ có hình chữ thập là khác. Trên kim cang ấn chữ thập ấy, đặt hoa
sen ngửa lên, nở một nửa, khiến cho chữ Thập có hình dạng như hoa. Trên hoa, lại
đặt đóa hoa tám cánh, tức là giống như phương vị của năm vị Phật và bốn vị Bồ
Tát trong phần trước (tức năm vị Phật và bốn vị Bồ Tát trong Trung Đài Bát Diệp).
Hãy nên dùng tâm để tưởng, hòng đặt chín điểm, tức là trên đài hoa và tám cánh,
mỗi nơi đều tưởng có một chấm. Cái chấm ấy chính là “chứng Đại Không”. Đó là ý nghĩa “thành
Chánh Giác”. Ở trong tám cánh ấy và chính giữa, hãy nên làm Mạn-đồ-la
vuông và tròn, vẽ hình tượng Bổn Tôn. Đàn của Phật hình vuông, đàn của Bồ Tát
hình tròn. Đấy chỉ là hành nhân tự mình làm, không cho người khác thấy.
Nếu lúc tác pháp, tự mình ngồi ở cửa đàn, tự thực hiện các
pháp như quán đảnh v.v… Sau đấy mới có thể làm hết thảy các pháp sự. Chuyện này
rất bí mật, chỉ lắng lòng là làm, chẳng thể diễn tả bằng bút mực được. Lại còn ở
trên đài, tưởng như Chân Ngôn Vương mười hai chữ trong phần trên, khiến cho các
chữ ấy mỗi mỗi đều phân biệt đặt trên đàn. Lại hỏi: “Đặt liên hoàn ư? Theo thứ
tự nào?” Lại nói: “Đặt chữ ở trong hoa, tức là vẽ thành hạt sen, hoặc mười, hoặc
nhiều hơn, hoặc ít hơn, không sao cả!”
Kinh nói “lưu xuất”
[trong câu “tùng thử lưu chư đàn”
(từ đấy lưu xuất các đàn)] tức là người liễu giải pháp bí mật này, hết thảy các
đàn thế gian và xuất thế gian đều lưu xuất từ đó, thuận theo nghĩa tương ứng
bèn có thể hiểu được. Đại lược có bốn loại pháp tạo tác bí mật, chính là “sự nghiệp” (tức là từ đầu tới cuối,
thực hiện các thứ sự nghiệp đáng nên làm nơi đàn), “hình” (tức là phần đoạn hình tướng hiển hiện của Bổn Tôn), Tất
Địa (tức là cái quả sẽ thành tựu), “xếp
đặt tọa vị” (tức là phương vị để xếp đặt Bổn Tôn). Liễu giải bốn pháp ấy,
sẽ thông đạt hết thảy các pháp được lưu xuất. Từ đàn này lưu xuất các đàn, đều
nương theo những điều được nói trong bổn giáo (giáo pháp tương ứng với mỗi đàn ấy).
[Nói] “Phật tử” nhằm bảo ban
các vị ấy, tức là các vị Kim Cang. [“Phật
tử”] lại là bốn vị Bồ Tát, tức Phổ Hiền ở phương Tốn (Đông Nam), Văn Thù
ở phương Khôn (Tây Nam), Từ Thị (Di Lặc) ở phương Càn (Nam)[7],
Quán Âm ở phương Cấn (Tây Bắc). Đó là vị trí của các Ngài. Trong phần duyên khởi
xếp đặt các thánh chúng thuộc phần trước, có thể đem ngài Trừ Cái Chướng thay
cho đức Quán Âm, hoặc dùng ngài Trừ Nhất Thiết Ác Thú thay thế Văn Thù, ý nghĩa
cũng khác, tùy theo công khóa mà dùng theo một cách cũng được. Ở đây, dùng ngài
Quán Âm làm chánh yếu. Trên đây là Mạn-đồ-la của đức Tỳ Lô Giá Na đã xong.
(Kinh) Phục thứ,
Bí Mật Chủ! Như Lai Mạn-đồ-la, do như tịnh viên nguyệt, nội hiện thương-khư sắc.
Nhất thiết Phật tam giác, tại ư bạch liên hoa, Không điểm vi tiêu xí. Kim cang ấn
vi nhiễu, tùng bỉ Chân Ngôn Chủ, châu táp phóng quang minh, dĩ vô nghi lự tâm,
phổ biến nhi lưu xuất.
(經)復次,祕密主!如來漫荼羅,猶如淨圓月,內現商佉色。一切佛三角,在於白蓮華,空點為幖幟,金剛印圍繞。從彼真言主,周匝放光明,以無疑慮心,普遍而流出。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Như Lai Mạn-đồ-la, dường như trăng tròn sạch, trong hiện sắc
thương-khư. Tam giác hết thảy Phật, ở trên hoa sen trắng. Chấm Đại Không tiêu
biểu, kim cang ấn vây quanh. Từ vị Chân Ngôn Chủ, tỏa quang minh trọn khắp.
Dùng tâm chẳng lo ngờ, lưu xuất đều trọn khắp).
Kế đó, đầu tiên là Chánh Giác, được nói đầu tiên. Nói về Mạn-đồ-la
của chư Phật, tức là Phật Bộ. Làm Phật Bộ Mạn-đồ-la là làm Mạn-đồ-la hình tròn.
Hình tròn ấy giống như mặt trăng, ở giữa là màu trắng như vỏ sò. Trong vòng
tròn, trước hết, vẽ hoa sen trắng. Trên hoa có hình tam giác. Tam giác ấy có
màu đỏ, trong đó vẽ tượng Phật (cần phải xét xem là vẽ vị Phật nào). Vẽ chày
kim cang vây quanh hình tam giác, như trong đồ hình.
Quanh hình tam giác, vẽ các chấm để biểu thị. Phía ngoài, vẽ
quang minh như tư thế chống cự địch nhân. Ngoài vòng tròn, vẽ các chấm quanh
vòng tròn (ngờ rằng mỗi điểm ấy đều là tọa vị của Bổn Tôn, phải hỏi thêm. Hoặc
có thể đặt chữ). Quang minh đều tuôn ra ngoài, tức là quang minh từ trong thân
Phật lưu xuất, dần dần truyền ra ngoài hình tam giác. Chân Ngôn Chủ chính là Bổn
Tôn, khắp thân Ngài có quang minh lưu xuất. Trong đại đàn thuộc phần trước,
cũng có ấn tam giác, nhưng cách sử dụng khác với chỗ này. Trong phần trước, chỉ
là ấn, ở đây là đặt Phật hoặc đặt ấn [trong hình tam giác], tác pháp trọn vẹn
hơn đàn trước.
(Kinh) Phục thứ,
Bí Mật Chủ! Quán Thế Tự Tại giả, Bí Mật Mạn-đồ-la, Phật tử nhất tâm thính. Phổ
biến tứ phương tướng, trung cát tường thương-khư, xuất sanh Bát Đàm hoa, khai
phu hàm quả thật. Thượng biểu Kim Cang Huệ, thừa dĩ đại liên ấn. Bố nhất thiết
chủng tử, thiện xảo dĩ vi chủng. Đa La, Tỳ Câu Tri, cập dữ Bạch Xứ Tôn, Minh
Phi Tư Tài Chủ, cập dữ Đại Thế Chí, chư cát tường thọ giáo, giai tại Mạn-đồ-la,
đắc tự tại giả ấn, thù diệu tác tiêu tướng. Hà Da Yết Rị Bà, như pháp trụ tam
giác, Mạn-đồ-la vi nhiễu, nghiêm hảo sơ nhật huy, đương tại Minh Vương biên, xảo
huệ giả an lập.
(經)復次,祕密主!觀世自在者,祕密漫荼羅,佛子一心聽。普遍四方相,中吉祥商佉,出生鉢曇華,開敷含果實。上表金剛慧,承以大蓮印,布一切種子,善巧以為種。多羅毘俱知,及與白處尊,明妃資財主,及與大勢至,諸吉祥受教,皆在漫荼羅,得自在者印,殊妙作標相。何耶揭哩婆,如法住三角,漫荼羅圍繞,嚴好初日暉,當在明王邊,巧慧者安立。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Bí Mật Mạn-đồ-la, của Quán Thế Tự Tại, Phật tử nhất tâm nghe.
Tướng phổ biến bốn phương, giữa thương-khư cát tường. Xuất sanh hoa Bát Đàm, nở
xòe chứa quả hạt. Trên đặt kim cang huệ, nâng đỡ ấn sen lớn. Đặt hết thảy chủng
tử, thiện xảo làm chủng tử. Đa La, Tỳ Câu Tri, cùng với Bạch Xứ Tôn, Minh Phi
Tư Tài Chủ, cùng với Đại Thế Chí, các thọ giáo cát tường, đều trong Mạn-đồ-la,
đạt được ấn tự tại, thù diệu để biểu lộ. Hà Da Yết Rị Bà, như pháp trụ tam
giác. Vây quanh Mạn-đồ-la, mặt trời mọc nghiêm hảo, ở bên cạnh Minh Vương, bậc
xảo huệ an lập).
Kế đó là Liên Hoa Bộ. Làm Mạn-đồ-la hình vuông; trong đó, vẽ
thương-khư (vỏ ốc lớn). Trên thương-khư có hoa sen, trên hoa sen có chày kim
cang. Trên chày kim cang lại có hoa sen. Trên hoa sen, đặt Quán Âm Bồ Tát. Hoặc
có thể đặt ấn, hoặc đặt chữ. Trên các ấn, đều đặt chữ chủng tử, tức là trên
thương-khư, chày kim cang, và trên hoa. Viện kế tiếp đặt [các vị] như Đại Thế
Chí v.v… Vẽ quang minh trọn khắp, đừng sanh ngờ lo. Dùng chủng tử của mỗi vị để
khéo xếp đặt hòng làm chủng tử. Nơi chỗ trống, hãy nên đặt bảy thứ cát tường
màu trắng, mỗi mỗi [vị tôn thánh] đều có hai sứ giả. Kinh này chỉ nói đại lược,
[chi tiết] được chép riêng đầy đủ trong Quán Âm Bộ Pháp, hãy nên kiểm chứng tường
tận riêng. Minh Phi Tư Tài Chủ (Vidyārājñī
Bhogavatī) là người có thể tự tại ban cho điều mong cầu. Còn như các vị Đại Thế Chí
v.v…, hãy đúng như pháp mà làm. Vẽ hình đức Tự Tại tay cầm ấn để biểu thị tướng
đặc trưng. Hãy nên vẽ đặc biệt đẹp đẽ thì gọi là “đúng như pháp mà làm”. Ngài Mã Đầu (Hayagrīva: Hà Da Yết Rị Bà) trụ trong hình tam giác, chỗ thích hợp là vẽ ở trong đàn. Các vị tôn thánh
khác cũng là mỗi vị đều có hình sắc khác biệt, [và đàn có] hình vuông, tròn,
bán nguyệt, tam giác v.v… đều tương xứng, đều như trong Quảng Bổn [đã nói].
Trong phần trước đã nói cần
phải bao gồm năm sự, tức hình, sắc, khế ấn, Bổn Tôn và phương vị, chính là những
chuyện này. Như vẽ Bổn Tôn, phải nên vẽ Ngài có màu gì, hình tượng [như thế
nào] v.v… Mỗi vị đều có ấn. Đại Bi Tạng Sanh trong phần trước là Gia Hội Đàn (嘉會壇, đàn hội họp tốt lành, tức chư tôn thuộc các bộ được vẽ chung trong một đàn), còn đàn ở đây thì mỗi
bộ trong ba bộ đều là đàn riêng. Như đàn của Liên Hoa Bộ ở đây, trung thai là
cát tường đàn, lấy đức Quán Âm làm chủ. Phía ngoài phần trung thai chừa chỗ trống,
ở phía ngoài chỗ trống, chính là tọa vị thứ hai, đều đặt chư tôn thuộc Quán Âm
Bộ. Những nơi khác đều làm như cách tạo Đại Đàn. Nơi chỗ trống cũng đặt mười
phương Phật. Nơi tọa vị thứ ba, cũng đặt [các vị tôn thánh thuộc] tám bộ, chuẩn
theo phần trước đã nói để biết. Trong hình tam giác, giống như ánh sáng lúc mặt
trời mọc, tức là khi mặt trời mới mọc, có sắc đỏ pha vàng. “Bên cạnh Minh Vương” [tức là] ở bên
cạnh ngài Đại Thế Chí. Kế đó, lại vẽ Mạn-đồ-la của ngài Mã Đầu, đặt trong hình
tam giác. Ba tầng bên ngoài Mạn-đồ-la cũng đều vẽ hình tam giác. Khi làm, ngài
Ha Da (Mã Đầu) ở giữa, tức là dời ngài Quán Âm thế chỗ đức Thế Chí, các quyến
thuộc khác đều vây quanh. Các vị khác đều hỗ tương thay thế như vậy, có thể suy
ra mà biết!
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Kim thuyết đệ nhị đàn, chánh đẳng tứ
phương tướng, kim cang ấn vi nhiễu, nhất thiết diệu kim sắc, nội tâm liên hoa
phu. Đài hiện ca la xa, quang sắc như tịnh nguyệt, diệc dĩ Đại Không điểm, châu
táp tự trang nghiêm. Thượng biểu đại phong ấn, ái đãi do huyền vân. Cổ động
tràng phan tướng, Không điểm vi tiêu xí. Kỳ thượng sanh mãnh diễm, đồng ư kiếp
tai hỏa, nhi tác tam giác hình. Tam giác dĩ vi chi, quang man tướng châu phổ.
Thần triêu nhật huy sắc. Thị trung Bát Đầu Ma, châu chẩn do kiếp hỏa. Bỉ thượng
kim cang ấn, lưu tán phát diễm huy. Trì dĩ Hồng tự thanh, thắng diệu chủng tử tự.
Tiên Phật thuyết thị pháp. Cần Dũng Mạn-đồ-la, Bộ Mẫu, Thương Khế La, cập Kim
Cang Bộ Chủ, Kim Cang Câu Sách Chi, đại đức trì Minh Vương, nhất thiết giai ư
thử, đại Mạn-đồ-la trung, ấn đàn chư Phật tử, hình sắc các như thứ, tùy loại
nhi tương ứng, chư nghiệp thiện thành tựu.
(經)復次,祕密主!今說第二壇。正等四方相,金剛印圍繞,一切妙金色,內心蓮華敷。臺現迦羅奢,光色如淨月,亦以大空點,周匝自莊嚴。上表大風印,靉靆猶玄雲,鼓動幢旛相,空點為幖幟。其上生猛焰,同於劫災火,而作三角形,三角以圍之。光鬘相周普,晨朝日暉色,是中鉢頭摩,朱黰猶劫火。彼上金剛印,流散發焰暉,持以吽字聲,勝妙種子字。先佛說是法,勤勇漫荼羅,部母商憩羅,及金剛部主,金剛鉤索支,大德持明王,一切皆於此,大漫荼羅中。印壇諸佛子,形色各如次,隨類而相應,諸業善成就。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Nay nói đàn thứ hai, tướng vuông vắn
bốn cạnh. Ấn kim cang vây quanh, hết thảy sắc vàng tốt, chính giữa sen nở xòe.
Trên đài đặt một bình, quang sắc như trăng sạch, cũng dùng chấm Đại Không, giáp
vòng tự trang nghiêm. Trên vẽ ấn đại phong, như mây đen nặng dày, tướng tràng
phan lay động. Chấm Đại Không tiêu biểu. Trên ấy sanh lửa mạnh, giống như lửa
kiếp tai, vẽ trong hình tam giác. Vây quanh tướng tam giác, tướng lửa sáng trọn
khắp, sắc mặt trời mới mọc. Trong ấy, Bát Đầu Ma (Padma: Hoa sen đỏ), đỏ rực
như kiếp hỏa. Trên đó, ấn kim cang, tỏa ra ánh lửa rực. Tiếng chữ Hồng duy trì,
chữ chủng tử thắng diệu. Cổ Phật nói pháp này. Cần Dũng Mạn-đồ-la, Bộ Mẫu (Māmakī,
Mang Mãng Kê), Thương Khế La (Vajraśṛṅkhalā)[8],
và Kim Cang Bộ Chủ, Kim Cang Câu (Vajrāṅkuśī), Sách Chi (Vajrasūcī, Kim Cang Châm), đại đức trì Minh Vương, hết thảy đều trong ấy.
Trong đại Mạn-đồ-la, ấn, đàn, các hình sắc, của Phật tử như thế, tùy loại mà
tương ứng, các nghiệp khéo thành tựu).
Kế đó, làm Mạn-đồ-la thứ
hai, tức là tính từ Liên Hoa Bộ, Liên Hoa Bộ là thứ nhất, tức Kim Cang Bộ là bộ
thứ hai. “Ngã chánh tuyên thuyết chi”
(Ta nay chánh tuyên nói) tức là khéo nói, chẳng trước, chẳng sau, nói theo
thứ tự, tức là bộ thứ hai. Mạn-đồ-la này làm thành hình vuông, đều dùng chày
kim cang [vây quanh], tức là dùng [chày kim cang] ba nhánh đặt liên tiếp vây
quanh để làm ranh giới. Trong vòng vây có màu vàng, chính giữa đặt hoa sen.
Trên hoa có cái bình. Bình [có sắc] trắng như ánh trăng. Hoặc dùng chày kim
cang đặt vây quanh, hoặc dùng vật khác vây quanh (tức là tùy theo ấn của Bổn
Tôn lần lượt đặt chính giữa) thì cũng vây quanh [ấn ấy] bằng các vật giống như ấn
ấy). Trên bình có [biểu tượng của] “đại
phong”, tức là hình bán nguyệt. Hình ấy như dạng mây đen (như khi mưa,
mây giăng bủa, sà xuống thấp, đen ngòm), có hình dạng rủ xuống như lá phan,
dáng vẻ như bị gió lớn thổi lay động. Trong hình bán nguyệt, vẽ hình tam giác
như ngọn lửa cháy hừng hực. Hình tam giác ấy cũng dùng chày kim cang vây quanh.
Trong tam giác có màu đỏ như màu mặt trời mới mọc. Trong ấy, vẽ hình hoa sen.
Sen cực đỏ như màu đại hỏa lúc kiếp tai (tức là màu đỏ đậm, hoặc có thể là đỏ
pha sắc đen). Trên hoa, vẽ kim cang (tức là hoặc vẽ hình Bổn Tôn, hoặc vẽ hình
chày kim cang năm nhánh, hoặc vẽ chữ). Từ kim cang ấy, lưu xuất đủ loại quang
minh sáng rực như lửa.
Nếu vẽ hình [tôn thánh] thì
nơi tâm [của vị tôn thánh ấy], đặt chữ chủng tử, tức là chữ Hồng. Nếu vẽ ấn (tức
vật biểu trưng của vị tôn thánh ấy, như chày kim cang chẳng hạn) thì tưởng chữ
Hồng để tụng gia trì. Trên ấn đặt chữ. “Đấy là Mạn-đồ-la của ông”, Phật đích
thân nói với ngài Kim Cang Thủ. Vì thế bảo là “Mạn-đồ-la của ông”. Chư Phật thuở trước đều nói, ta cũng nói giống
như thế. Các Minh Vương đều được vẽ dựa theo [vị trí của] tòa ngồi, hình, sắc của
các Ngài, tức là Kim Cang Mẫu, Kim Cang Châm, Kim Cang Tỏa v.v… Rất nhiều vị
Kim Cang quyến thuộc đều dựa theo hình sắc Bổn Tôn sai biệt mà hoặc vẽ hình, hoặc
vẽ ấn, hoặc đặt chữ chủng tử. Mỗi vị đều dựa theo thứ tự tương ứng trong pháp ấy,
tức là nhằm thành tựu Tất Địa mầu nhiệm. Đặt ngài Kim Cang Thủ ở trung đài, các
[vị tôn thánh trong cùng] bộ loại thuộc viện thứ hai. Ở đây luôn nói là “trung đài”, chuyển thành vô lượng
đàn: Vị được nói trước thì đặt bên phải, vị được nói sau thì đặt bên trái, tùy
theo phương hướng mở cửa [của đàn tràng] để phân định trái và phải.
(Kinh) Phục thứ, ngã sở thuyết, Kim Cang Tự Tại giả, vị Hư Không Vô Cấu,
Kim Cang Luân cập Nha, Diệu Trụ dữ Danh Xưng, Đại Phẫn cập Tấn Lợi, Tịch Nhiên
Đại Kim Cang, tịnh cập Thanh Kim Cang, Liên Hoa cập Quảng Nhãn, Diệu Kim Cang
Kim Cang, cập Trụ Vô Hý Luận, Vô Lượng Hư Không Bộ. Thị đẳng Mạn-đồ-la, sở thuyết
bạch, hoàng, xích, nãi chí hắc sắc đẳng, ấn hình cập sở dư, tam kích, nhất cổ ấn.
Nhị thủ giai ngũ phong, hoặc chấp kim cang man, tùy sắc loại khu biệt, nhất thiết
tác chủng tử. Đại Phước Đức đương tri, Bất Động Mạn-đồ-la, phong luân dữ hỏa
câu. Y Niết Rị Để phương, Đại Nhật Như Lai hạ, cập chủng tử vi nhiễu, vi diệu đại
huệ đao, hoặc phục quyến sách ấn, cụ huệ giả an bố. Hàng Tam Thế thù dị, vị tại
phong luân trung, nhiễu dĩ kim cang ấn, nhi trụ ư tam xứ.
(經)復次,我所說,金剛自在者,謂虛空無垢,金剛輪及牙,妙住與名稱,大忿及迅利,寂然大金剛,并及青金剛,蓮華及廣眼,妙金剛金剛,及住無戲論,無量虛空步,是等漫荼羅,所說白黃赤,乃至黑色等,印形及所餘,三戟一股印,二首皆五峯,或執金剛鬘,隨色類區別,一切作種子。大福德當知。不動漫荼羅,風輪與火俱,依涅哩底方,大日如來下,及種子圍繞,微妙大慧刀,或復羂索印,具慧者安布。降三世殊異,謂在風輪中 ,繞以金
剛印,而住於三處。
(Kinh: Lại nữa, ta sẽ nói, đấng Kim Cang Tự Tại, là Hư Không Vô
Cấu (Gaganāmala), Kim
Cang Luân (Vajracakra) và Nha
(Vajradaṃṣṭra), Diệu
Trụ (Sūrata) với
Danh Xưng (Vikhyāta), Đại
Phẫn (Mahābhāga) và Tấn
Lợi (Vajrāgra), Tịch
Nhiên (Śivavajra), Đại Kim
Cang (Mahāvajra), cùng
với Thanh Kim Cang (Nīlavajra), Liên
Hoa (Vajrapadma) cùng Quảng
Nhãn (Viśālanetra), Diệu
Kim Cang (Su-vajradhara),
Kim Cang (Vajra), và Trụ Vô Hý Luận (Aprapañca-vihārin), Vô Lượng Hư Không Bộ (Gaganānantavikrama). Các Mạn-đồ-la ấy, nói là trắng, vàng, đỏ, cho đến sắc
đen thảy. Ấn, hình, các thứ khác, tam kích, chày một nhánh. Hai đầu đều năm
nhánh, hoặc cầm tràng kim cang. Tùy sắc loại sai biệt, hết thảy vẽ chủng tử. Đại
Phước Đức nên biết: Bất Động Mạn-đồ-la, phong luân cùng hỏa luân. Ở phương Niết
Rị Để (Tây Nam), dưới Đại Nhật Như Lai, có chủng tử vây quanh, đại huệ đao vi
diệu, hoặc là ấn dây trói, bậc huệ trọn an bài. Hàng Tam Thế khác lạ, ngự ở
trong phong luân, ấn kim cang vây quanh, trụ ở trong ba chỗ).
Lại nữa, trong phần trước
ta đã nói nhiều danh hiệu khác biệt của
các vị Kim Cang. “Tự tại”
là đạt được tự tại nơi kim cang. Lại nữa, ở đây nói “ta là Kim Cang Chấp Tự Tại”, như trong Đại Bi Tạng đại hội thuộc
phần trước, phía dưới đức Tỳ Lô Giá Na là Bất Động và Hàng Tam Thế, chính giữa
[hai vị ấy] vẽ các vị Kim Cang, đều không nêu tên, nay mới liệt kê. Vì thế nói
là “phục thứ” (lại nói), [các vị
ấy] chính là Hư Không Vô Cấu Kim Cang, Kim Cang Luân, Kim Cang Nha, Tô Lạt Đa
Kim Cang (Sūrata, tức Diệu Trụ, hàm nghĩa “cùng trụ
nơi an ổn”), Danh Xưng Kim Cang Đại Phần[9]
(ý nói là phần lớn, tức là thể phần của bậc đại tâm chúng sanh), Kim Cang Lợi
([chánh kinh] dịch danh hiệu vị này là Tấn Lợi], nghĩa là ca ngợi Ngài cực bén
nhạy). Đàn này đều dùng ấn để làm. Tịch Nhiên Kim Cang (có nghĩa là “tịch
tĩnh”, có ý nghĩa như Niết Bàn), Đại Kim Cang (đây là danh xưng của một vị Kim
Cang), Thanh Kim Cang, Liên Hoa Kim Cang, Quảng Nhãn Kim Cang, Chấp Diệu Kim
Cang (Suvajradhara), Kim Cang Kim Cang (Vajravajra, trí huệ chỉ dùng kim cang làm danh xưng),
Vô Trụ Hý Luận Kim Cang (chánh kinh ghi tên vị này là Trụ Vô Hý Luận), Hư Không
Vô Biên Du Bộ Kim Cang (chánh kinh ghi tên vị này Vô Lượng Hư Không Bộ. Trên
đây là liệt kê danh xưng. Mỗi vị đều được an trí nơi đại đàn). Các đàn vuông
hay tròn như thế giống như trong phần trên, thuận theo hình sắc cũng giống như
thế. Dựa theo danh xưng mà vẽ theo thứ tự, hết một vòng lại trở về khởi đầu. “Bạch, hoàng, xích, hắc v.v…” (Trắng, vàng, đỏ, đen) tức là thuận theo thứ tự [được nói trong kinh văn], đầu
tiên là màu trắng, kế đó là vàng, kế đó là đỏ, kế đó là đen, theo thứ tự như thế.
Và những chỗ không nói, hãy chuẩn theo lệ này để hiểu, tùy theo hình sắc từng
loại của các Ngài mà làm. Các vị Kim Cang ấy số nhiều vi trần trong mười cõi nước.
Trong phần trước, khi nói về các Ngài, có khi nêu ra, có khi không nhắc tới, hoặc
là đoạn này có, đoạn kia không có, có thể biết [như vậy].
Lại nữa, ấn (tức các pháp
khí) do các vị Kim Cang ấy cầm, hoặc là [chày kim cang] ba nhánh, hoặc một
nhánh (tức kim cang châm), chuẩn theo thứ tự trong phần trước. Đầu tiên là ba
nhánh, [vị kế đó là một nhánh], giáp vòng trở lại từ đầu. Hoặc là [chày kim
cang] hai đầu, “hai đầu” tức là
[chày] năm nhánh. Ấn này giáp vòng như hình bốn lưỡi liềm, như bốn chày kim
cang. Trong đó, có một cái hình dạng như chày năm nhánh, nhưng không tách ra.
Hoặc là nói “man” (tràng hoa),
hoặc là cầm kim cang man. Các vị Kim Cang ấy, mỗi vị đều dùng tên của chính
mình làm chân ngôn, tức là dùng chữ tối thượng trong tên gọi ấy làm chữ chủng tử.
Kế đó, tùy theo từng chữ riêng hay dùng chung mà đều đặt chữ Hồng nơi tim [các
vị Kim Cang]. Thủ ấn của các Ngài thì thông dụng là Ngũ Cổ Kim Cang Ấn. Bất Động
Tôn Mạn-đồ-la thì phong và hỏa đều có, “phong”
là hình bán nguyệt, “hỏa” là
tam giác. Tức là trong đàn bán nguyệt, vẽ hình tam giác. Trong hình tam giác, vẽ
Bất Động Tôn. Ở phương Nê Lý Để (Niết Rị Để, Nairṛti), tức là vẽ ở phương Tây Nam của đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Hoặc “tam thế thắng dị”, tức là [ngài Hàng
Tam Thế ngự] ở phương Phong (Tây Bắc), coi đó là chỗ khác biệt, những điều khác
đều giống như ngài Bất Động. Ba chỗ đều dùng chày kim cang vây quanh (tức là ấn
được [các vị tôn thánh] cầm). “Ba chỗ”
tức là hoặc vẽ hình, hoặc vẽ ấn, hoặc vẽ chữ, nhưng nếu Bất Động Tôn Mạn-đồ-la
được vẽ riêng thì ngài Bất Động ở chính giữa, đức Tỳ Lô ở phương Đông của trung
viện, các vị Kim Cang quyến thuộc khác đều vây quanh trọn khắp.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tiên thuyết Mạn-đồ-la, chư Phật, Bồ Tát mẫu,
an trí đàn hình tượng, phương chánh, chân kim sắc, kim cang ấn vi nhiễu, tối thắng
Mạn-đồ-la, kim đương thị tôn tướng. Bỉ trung đại liên hoa, huy diễm biến hoàng
sắc, trung trí Như Lai Đảnh, siêu việt ư trung phần. Nhi chí tam phần vị, ưng
tác Như Lai Nhãn, tự trụ quang diễm trung. Biến bố bỉ chủng tử. Thứ nhất thiết
Bồ Tát, Đại Như Ý Bảo Tôn, vị bỉ Mạn-đồ-la, viên bạch nhi tứ xuất, biến tịch cực
thanh tịnh, mãn nhất thiết hy nguyện.
(經)復次,祕密主!先說漫荼羅,諸佛菩薩母,安置壇形像。方正真金色,金剛印圍繞,最勝漫荼羅,今當示尊相。彼中大蓮華,暉焰遍黃色,中置如來頂,超越於中分。而至三分位,應作如來眼,自住光焰中,遍布彼種子。次一切菩薩,大如意寶尊,謂彼漫荼羅,圓白而四出,遍寂極清淨,滿一切希願。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Trước nói Mạn-đồ-la, chư Phật, Bồ
Tát mẫu, xếp đặt đàn, hình tượng, vuông vắn, màu vàng ròng, ấn kim cang vây
quanh. Mạn-đồ-la tối thắng, nay chỉ bày tôn tướng: Hoa sen to trong ấy, sáng rực,
khắp sắc vàng. Giữa đặt Như Lai Đảnh. Vượt khỏi các phần giữa, đến phần vị thứ
ba, nên vẽ Như Lai Nhãn, trụ trong vầng lửa sáng. Xếp chủng tử trọn khắp. Kế, hết
thảy Bồ Tát, Đại Như Ý Bảo Tôn, tức Mạn-đồ-la ấy, tròn trắng mà tứ xuất, trọn
thanh tịnh tột bậc, thỏa hết thảy mong nguyện).
Kế đó, nói đến Phật Mẫu Mạn-đồ-la.
Trong phần trước, sắp xếp mạn-đồ-la, đã biết các vị này kim sắc, chỉ nêu tên,
chứ chưa biện định hình dạng và ấn, nay nêu ra. Trước hết, kinh dạy tạo Mạn-đồ-la
kim sắc, bốn phía dùng chày kim cang vây quanh làm ranh giới. “Tối thượng” ở đây có nghĩa là so
sánh với các hình dạng của các vị tôn thánh trước đó, tức là sẽ nói từ điều này
[để so sánh], chính là Phật Mẫu Mạn-đồ-la thắng thượng nhất trong các đàn. Kế
đó, trong Mạn-đồ-la vẽ hoa sen màu vàng có ngọn lửa. Trên sen, vẽ hình Phật Đảnh
Ấn. Ấn ấy có hình như búi tóc trên đỉnh đầu đức Phật, vẽ sao cho đỉnh đầu cao
trội. Bên cạnh đó, vẽ hình hai con mắt. Nếu vẽ hình Phật Mẫu, thì hãy nên vẽ
hình Ngài như thiên nữ, nơi tim [của Phật Mẫu] đặt chữ chủng tử. Hoặc có thể chỉ
vẽ ấn (tức là hình búi tóc trên đỉnh đầu), hoặc chỉ viết chữ cũng được. Nếu Phật
Đảnh được xếp ở trung thai, các vị quyến thuộc như Phật Nhãn v.v… vây quanh. Phật
luôn ngự trong vầng lửa sáng rực, các chữ chủng tử xếp quanh. Tức là ấn ấy đặt
trong lửa rực, ở giữa đặt chủng tử là được. “Xả tam phần vị” tức là [từ tọa vị của Phật Mẫu], bỏ qua ba tọa
vị để đặt Phật Nhãn. Trong phần trước đã nói xếp đặt trọn khắp các chữ trong Bồ
Tát Bộ, tức là xếp trọn khắp trong đàn. Những điều chưa nói, nay sẽ nói. Phàm
là các vị Bồ Tát ấy, đều nên tạo Mạn-đồ-la. Hãy nên tạo hình tượng viên minh,
sao cho cực trắng sạch. Trong ấy, tạo đài chữ thập. Trên đài là Đại Chân Đà Mạt
Ni (Đại Như Ý Bảo Châu), hãy nên đặt các cọc như thể chúng nâng đỡ viên châu.
Trên đầu [các cọc ấy], đều đặt Như Ý Châu, đều có quang minh sáng rực như lửa.
Vị Bổn Tôn Bồ Tát đặt ở chính giữa chữ thập, các vị Bồ Tát khác được xếp đặt
theo thứ tự trong viện kế tiếp. Phía ngoài đặt tám bộ. Cực trắng là màu tịch
tĩnh, hãy nên làm sao cho sáng sạch, vắng lặng mà trụ. Các vị Bồ Tát này đều có
thể ban cho hết thảy các nguyện.
(Kinh) Phục thứ, ưng đế thính. Thích Ca sư tử đàn, vị Đại Nhân Đà La,
diệu thiện chân kim sắc, tứ phương tương quân đẳng, như tiền kim cang ấn. Thượng
hiện Ba Đầu Ma, châu biến giai hoàng huy. Đại bát cụ quang diễm, kim cang ấn vi
nhiễu. Ca Sa, Tích Trượng đẳng, trí chi như thứ đệ. Ngũ chủng Như Lai đảnh, đế
thính kim đương thuyết. Bạch Tán dĩ tán ấn. Cụ huệ giả Thắng Đảnh, vi dĩ đại huệ
đao, phổ biến giai lưu quang. Tối Thắng Đảnh luân ấn. Trừ Chướng Đảnh câu ấn. Đại
sĩ đảnh kế tướng. Thị danh Hỏa Tụ Ấn. Quảng Sanh Bạt-chiết-la, Phát Sanh dĩ
liên hoa, Vô Lượng Thanh thương-khư, quán sát tri tượng loại. Hào tướng Ma-ni
châu, Phật Nhãn thứ đương thính. Đảnh kế biến hoàng sắc, vi dĩ Bạt-chiết-la. Vô
Năng Thắng Phi ấn, dĩ thủ trì liên hoa. Vô Năng Thắng đại khẩu, nhi tại hắc
liên thượng.
(經)復次,應諦聽,釋迦師子壇。謂大因陀羅,妙善真金色,四方相均等,如前金剛印。上現波頭摩,周遍皆黃暉,大鉢具光焰,金剛印圍繞。袈裟錫杖等,置之如次第,五種如來頂,諦聽今當說。白傘以傘印,具慧者勝頂,圍以大慧刀,普遍皆流光。最勝頂輪印,除障頂鉤印,大士頂髻相,是名火聚印。廣生跋折羅,發生以蓮華,無量聲商佉,觀察知像類。毫相摩尼珠,佛眼次當聽,頂髻遍黃色,圍以拔折羅。無能勝妃印,以手持蓮華,無能勝大口,而在黑蓮上。
(Kinh: Lại nữa, nên lắng nghe! Đàn Thích Ca sư tử, tức Đại Nhân
Đà La, khéo đẹp, sắc vàng ròng. Vuông vắn bốn phương đều,
như ấn kim cang trước. Trên vẽ Ba Đầu Ma, sắc vàng chói trọn khắp. Bát to,
quang minh rực, kim cang ấn vây quanh. Ca Sa, Tích Trượng thảy, xếp đặt theo thứ
tự. Năm loại Như Lai Đảnh, lắng nghe, nay sẽ nói: Bạch Tán dùng ấn lọng. Thắng
Đảnh bậc đủ huệ, đao đại huệ vây quanh, tỏa quang minh trọn khắp. Tối Thắng Đảnh:
Luân ấn. Trừ Chướng Đảnh: Ấn móc. Búi tóc của đại sĩ, là ấn Hỏa Tụ Đảnh. Quảng
Sanh: Chày kim cang. Phát Sanh: Dùng liên hoa. Vô Lượng Thanh: Thương-khư. Quán
sát biết hình tượng. Hào tướng, Ma-ni châu, Phật Nhãn kế nên nghe. Búi tóc sắc
vàng trọn, chày kim cang vây quanh. Ấn Vô Năng Thắng Phi, là tay cầm hoa sen.
Vô Năng Thắng: Miệng rộng, ở trên hoa sen đen).
Kế đó, làm Thích Sư Tử Mạn-đồ-la
(tức là [Mạn-đồ-la của] Phật Thích Ca, các Phật tử hãy lắng nghe). Hãy nên làm
đàn kim cang bốn cạnh sao cho vuông vắn (“kim
cang” ở đây chính là kim cang luân đàn hình vuông trong ngũ luân được
nói ở phần trên, “phổ” (普) có nghĩa là
“vuông vắn”). Đàn ấy màu vàng,
hãy làm sao cho tột bậc tươi đẹp. Trong ấy, vẽ chày kim cang (ba nhánh); trên
chày đặt hoa sen. Hoa sen màu vàng. Trên hoa đặt bát. Bốn phía của bát đều có
quang minh hình ngọn lửa. Nếu vẽ hình Phật thì nên vẽ Phật Thích Ca cầm bát, lại
vẽ chày kim cang vây quanh. Bên phải đặt ca-sa (tức áo tăng-già-lê), bên trái đặt
tích trượng.
Kế đó là năm vị Phật Đảnh:
Đặt tòa của Bạch Tán Phật Đảnh (Sitātapatra), trên tòa đặt ấn. Lại dựa theo bổn
bộ, giống như Phật Bộ trong hết thảy các phương; hoặc dựa theo sự, tức là như Tức
Tai thì làm đàn hình tròn v.v… Dùng lọng làm ấn (vẽ hình) [của Bạch Tán Phật Đảnh].
Thắng Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa) thì dùng đao vây quanh bốn phía [để làm ấn]. Nếu chỗ nào (kinh điển
khác) có nói [cặn kẽ hơn] thì hãy y theo kinh văn [của bản kinh đó mà vẽ vời].
Quang minh đều túa ra ngoài, ví như sắt nung có ánh lửa chói rực (tức là có ánh
sáng nóng đỏ). Tối Thắng Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa) dùng luân (bánh xe) làm ấn. Trừ
Chướng Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa) dùng cái móc làm ấn ([hàm ý] đập
tan). Hỏa Tụ Phật Đảnh (Tejorāśi, vị này đôi khi được phiên âm là Đế Thù La Thí) thì vẽ hình búi tóc trên đỉnh đầu Phật (Đại sĩ hiệu là Kim Cang) [để làm
ấn]. Hội Thông Đại Phật Đảnh (Mahodgata) dùng chày kim cang làm ấn, [vị
này] chính là A Tỳ Phát Sanh Phật Đảnh. Yết Đa Phật Đảnh (Abhyudgata, có nghĩa là “tối thắng, siêu việt hết thảy”) dùng hoa sen làm ấn. Vô Lượng
Âm Phật Đảnh (Anantasvaraghoṣa)
dùng kha bối (tức là thương-khư) [làm ấn]. Hãy nên xem xét để
biết sắc và loại (tức là như trong phần trước đã nói). Phật Hào Tướng (Ūrṇā) dùng Như Ý Châu làm ấn. Đó gọi là Ấn Mạn-đồ-la.
Các ấn pháp ấy, quán đảnh,
các vật dùng để thành tựu, tức tai v.v… sẽ tùy theo hình sắc mà chuyển biến, chẳng
được dùng ở đây. Thành tựu thì đều là dựa theo Bổn Tôn để quan sát hình sắc,
tánh loại, tức là các màu trắng, vàng, đỏ v.v… Đối với Phật Nhãn, hãy nên làm [ấn
tượng trưng cho Ngài] có hình búi tóc trên đỉnh đầu đức Phật, hai bên vẽ mắt. Vị
Phật Đảnh ấy có màu vàng, dùng chày kim cang vây quanh. Ấn của Vô Năng Thắng
Minh Phi (Aparājitā) là “cầm hoa sen” (tức dùng ngón cái và ngón trỏ để nắm lấy hoa, các ngón
khác duỗi ra, hai ngón chụm vào nhau nắm hoa thì đặt trước ngực). Nếu các vị
tôn thánh có ấn riêng, hãy theo đúng kinh văn mà vẽ. Nếu kinh văn chẳng nói,
hãy dùng ấn chánh yếu của bổn bộ (bộ của vị tôn thánh đó, [chẳng hạn Đại Thế
Chí Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ]), đặt chữ chủng tử trong ấn ấy. Vô Năng Thắng
Minh Vương (Aparājita) thì vẽ ấn là cái miệng đặt trên hoa sen màu đen, tức là vẽ cái miệng có
dáng vẻ phẫn nộ, có hai răng nanh chĩa lên. Đối với các vị ấy, nếu đặt Phật
Thích Ca ở giữa, các vị như Phật Đảnh v.v… sẽ đặt ở viện kế tiếp. Nếu đối với mỗi
vị Bổn Tôn, hễ chọn một vị làm Mạn-đồ-la chủ thì dời Phật Thích Ca ra ngoài. Những
trường hợp khác có thể phỏng theo đó mà biết.
(Kinh) Tịnh cảnh giới chi hạnh, sở vị Tịnh Cư Thiên, trí bỉ chư ấn tướng,
Phật tử ưng đế thính. Sở vị Tư Duy Thủ, Thiện Thủ, cập Tiếu Thủ, Hoa Thủ, Hư
Không Thủ, họa chi như pháp tắc.
(經)淨境界之行,所謂淨居天,置彼諸印相,佛子應諦聽。所謂思惟手,善手及笑手,華手虛空手,畫之如法則。
(Kinh: Hạnh cảnh giới thanh tịnh, tức là Tịnh Cư Thiên, đặt ấn
tướng của họ. Phật tử nên lắng nghe. Chính là Tư Duy Thủ, Thiện Thủ, và Tiếu Thủ,
Hoa Thủ, Hư Không Thủ, vẽ theo đúng pháp tắc).
Lại theo thứ tự nói ấn của
Tịnh Cư Thiên (Śuddhāvāsa). Kinh nói “tịnh cảnh hạnh”
(hạnh cảnh giới thanh tịnh) tức là dùng Thiền Định làm vị, dùng tịnh làm hạnh.
Nay theo thứ tự, liệt kê các ấn:
- Tư Duy Thủ tức là hơi
cong ngón út và ngón áp út hướng vào lòng bàn tay, ba ngón kia duỗi xòe ra, theo thế dựa nhau, hơi nghiêng
đầu. Co tay hướng vào phía trong, dùng ngón trỏ chỉ vào má.
- Thiện Thủ thì [kết ấn]
Thí Vô Úy, dùng tay phải hay trái đều được, có ý nghĩa “diệu hảo”.
- Tiếu Thủ tức là xoay ấn
Tư Duy Thủ trong phần trước đặt trước tim, sao cho ba ngón hướng lên trên.
- Hoa Thủ: Dùng ngón trỏ bấm
lấy ngón cái như cầm hoa, duỗi ba ngón kia. Ba ngón ấy hoặc ngửa lòng bàn tay
duỗi ra, hoặc dựng bàn tay hướng thẳng lên đều được.
- Hư Không Chưởng (tức Hư
Không Thủ trong chánh kinh) thì nghiêng tay phải, xòe các ngón ra hướng lên
không trung.
Pháp tắc để vẽ là dựa theo
cách [được nói] ở đây để vẽ. Các vị trời vẽ thành dáng vẻ tươi cười hoặc suy
nghĩ, hoặc [trong tư thế] ban cho các ước nguyện đều được!
(Kinh) Địa Thần ca la xa, viên bạch kim cang vi. Thỉnh triệu Hỏa Thiên ấn,
đương dĩ Đại Tiên Thủ. Ca Nhiếp, Kiều Đáp Ma, Mạt Kiến Noa, Kiệt Già, Bà Tư,
Nghê Lạt Bà, các như kỳ thứ đệ. Ưng họa Vi Đà thủ, nhi cư hỏa đàn nội. Diễm Ma
Đản Trà ấn, thường xử phong luân trung. Một Lật Để linh ấn. Hắc Dạ kế-đô ấn, Lạo
Đạt La thâu-la, Đại Phạm Phi liên hoa, Câu Ma Lợi thước-để, Tỳ Sắt Nữ luân ấn.
Đương tri Diễm Ma Hậu, dĩ một-yết-la ấn. Kiều Phệ Ly Da Hậu, dụng kiếp-bạt-la ấn.
Như thị đẳng giai tại, Phong Mạn-đồ-la trung. Ô, thứu, cập Bà Thê, dã can đẳng
vi nhiễu. Nhược dục thành Tất Địa, y pháp dĩ đồ chi. Niết Rị Để đại đao, Tỳ Nữu
thắng diệu luân, Cưu Ma La thước-để, Nan Đồ, Bạt Nan Đà, mật vân dữ điện câu,
giai cụ thanh đàm sắc, giáp phụ môn sương vệ, tại Thích Sư Tử đàn. Thương Yết
La tam kích, Phi tác bát chi ấn. Nguyệt Thiên ca la xa, tịnh bạch liên hoa phu.
Nhật Thiên kim cang luân, biểu dĩ dư lộ tượng. Xã Da, Tỳ Xã Da, đương tri đại lực
giả, câu dĩ đại cung ấn, tại Nhân Đà La luân. Phong phương phong tràng ấn. Diệu
Âm nhạc khí ấn. Phược Rô Noa quyến sách, nhi tại viên đàn trung. Nhữ Đại Ngã ưng
tri, chủng tử tự hoàn nhiễu. Như thị đẳng tiêu chí, như thứ Mạn-đồ-la, Thích Sư
Tử quyến thuộc, kim dĩ lược tuyên thuyết.
(經)地神迦羅奢,圓白金剛圍,請召火天印,當以大仙手。迦攝驕答摩,末建拏竭伽,婆私倪剌婆,各如其次第。應畫韋陀手,而居火壇內。閻摩但茶印,常處風輪中。沒栗底鈴印,黑夜計都印,澇達羅輸羅,大梵妃蓮華。俱摩利鑠底,毘瑟女輪印,當知焰摩后,以沒揭羅印。嬌吠離耶后,用劫跋羅印。如是等皆在,風漫茶羅中,烏鷲及婆栖,野干等圍繞。若欲成悉地,依法以圖之,涅哩底大刀,毘紐勝妙輪。鳩摩羅爍底,難徒跋難陀,密雲與電俱,皆具清潭色,夾輔門廂衛,在釋師子壇。商羯羅三戟,妃作鉢胝印。月天迦羅奢,淨白蓮華敷。日天金剛輪,表以輿輅像。社耶毘社耶,當知大力者,俱以大弓印。在因陀羅輪,風方風幢印,妙音樂器印,縛嚕拏羂索,而在圓壇中。汝大我應知,種子字環繞,如是等標誌,如次漫荼羅,釋師子眷屬,今已略宣說。
(Kinh: Địa Thần: Bình làm ấn, trắng, sạch, kim
cang quanh. Ấn thỉnh vời Hỏa Thiên, nên dùng tay Đại Tiên. Ca Nhiếp (Kāśyapa), Kiều Đáp Ma (Gautama), Mạt Kiến Noa (Mārkaṇḍa), Kiệt Già (Garga), Bà Tư (Vasiṣṭha), Nghê Lạt Bà (Aṅgira), đều theo đúng thứ tự. Nên vẽ tay Vi Đà (Veda), đều ở
trong đàn lửa. Diễm Ma: Ấn Đản Trà (daṇḍa: gậy), thường ở trong phong luân. Một Lật Để (Mṛtyu): Linh ấn. Hắc Dạ (Kālarātri): Tràng làm ấn. Lao Đạt La (Rudra): Thâu-la (śūla:
chĩa ba), Đại Phạm Phi (Brahmāṇī): Hoa sen. Câu Ma Lợi (Kaumārī): Thước-để (śakti: giáo), Tỳ Sắt Nữ (Vaiṣṇavī): Luân ấn. Nên biết Diễm Ma Hậu (Yamī), dùng ấn một-yết-la (mudgara, chùy). Kiều Phệ Ly Da Hậu
(Kauberī), dùng ấn
kiếp bạt la (kapāla: Chén làm bằng xương đầu lâu). Như thế đều ngự tại, trong Phong Mạn-đồ-la. Quạ, ưng
và kên kên, chó rừng thảy vây quanh. Nếu muốn thành Tất Địa, theo đúng pháp vẽ
vời. Niết Rị Để (Nairṛti): Đao lớn.
Tỳ Nữu (Viṣṇu): Luân
thắng diệu. Cưu Ma La (Kumāra): Thước-để.
Nan Đồ, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): Mây dầy cùng tia chớp. Thân đều màu đầm
trong. Canh giữ bên cạnh cửa, trong đàn Thích Sư Tử. Thương Yết La (Śaṃkara): Tam kích. Phi hậu: Ấn Bát Chi (paṭṭiśa,
cái giáo có ba mũi nhọn). Nguyệt
Thiên (Candra) dùng cái bình, sen trắng sạch nở xòe. Nhật Thiên (Āditya): Kim cang luân, biểu thị bằng xe cộ. Xã Da, Tỳ Xã Da
(Jayā, Vijayā), hãy
biết bậc đại lực, dùng cung to làm ấn, trong Nhân Đà La luân. Phương Phong (Tây
Bắc): Ấn tràng gió. Diệu Âm (Sarasvatī): Nhạc khí ấn. Phược Rô Noa (Varuṇa): Dây trói, ở trong đàn hình tròn. Đại Ngã, ông nên biết:
Chữ chủng tử vờn quanh. Các tiêu chí như thế, thứ tự Mạn-đồ-la, quyến thuộc
Thích Sư Tử, đã tuyên nói đại lược).
Kế đó là ấn của Địa Thần, làm bình báu, đặt trong vòng tròn màu trắng.
Bình ấy cắm các thứ báu, hạt lương thực, hoa, quả v.v… để trang nghiêm, vẽ chày
kim cang vây quanh. Ấn thỉnh triệu Hỏa Thiên thì nên duỗi nghiêng tay phải, đốt
thứ ba của ngón trỏ hơi cong, lại cong đốt trên cùng của ngón cái hướng vào
lòng bàn tay. Nếu trước là để thẳng rồi gập ngón thì là Thỉnh Triệu. Nếu trước
đó là cong gập, sau đó bèn duỗi thẳng, tức là Tống Tiễn. Hãy nên vẽ các vị đại
tiên vây quanh, tức là như Ca Diếp, Cù Đàm Tiên v.v… đều vẽ kế đó, đều thuộc
vào Hỏa Viện. Hỏa Viện chính là đàn tam giác, phía trong là màu đỏ, còn gọi là
Xích Viện (viện màu đỏ). Ấn ấy giống như trong phần trước khi nói đến ngũ thông
tiên nhân có nhắc tới Tứ Vi Đà ấn. Đấy là ghi chép bí mật của bậc phạm hạnh. Nếu
người tụng Vi Đà thấy thủ ấn đó, sẽ biết là luận nào, bộ nào v.v…
Cù Đàm Tiên
(hành dục trong hư không, có hai giọt tinh [rơi xuống] làm bẩn đất, sanh ra hai
con là Địa Cam Giá (Ikṣvāku) và Nhật Chích (Sūryavaṁśa), tức là [thủy tổ] của hoàng tộc họ Thích Ca). Mạt Kiến Noa (vị này tọa
Thiền, kiến làm tổ bên thân. Sợ tổn thương kiến, lại nhập Định). Kiệt Già Tiên
(tên núi, do dựa theo chỗ ở mà thành tên). Phạ Tư Tiên (Vasiṣṭha, chánh kinh phiên là
Bà Tư, tức “Bà Tẩu tiên
nhân” trong các bản dịch cũ), Ương Kiệt La
Tư (Aṅgira, chánh
kinh phiên âm là Nghê Lạt Bà, có nghĩa là “mồ hôi nơi thân”. Vị
tiên này chẳng sanh bằng bào thai, mà sanh từ mồ hôi, nên có tên gọi như vậy).
Diêm Ma Vương ở phương Nam, hãy nên làm phong đàn. Trong đàn, vẽ Đản Đồ ấn (Daṇḍa, như đối với ấn, đàn ấy, một góc hướng về thân [của vị A-xà-lê], một góc hướng
ra ngoài, hoặc thuận tiện cho vị ấy mà xếp đặt). Bên phải của nhà vua, vẽ Tử Hậu
(Mṛtyu), dùng linh (chuông lắc) làm ấn. Nếu vẽ hình thì [hãy vẽ tay vị ấy] cầm
linh. Bên trái, vẽ Hắc Ám Hậu (Kālarātri), dùng tràng làm ấn. “Tràng” trong tiếng Phạn là Kế Đô
(ketu, cũng là một loại cờ).
Đại Tự Tại Phẫn
Nộ thì vẽ ấn thâu-la (śūla: chĩa ba). Phía sau Đại Tự Tại Tử, vẽ thước-để ấn. Đại Phạm
Thiên Minh Phi Ấn thì cầm ấn hoa sen, tức là búp sen chưa nở. Na La Diên thì là
luân ấn (bánh xe). Thất Mẫu cùng dùng Một Nghiệt La ấn. Ấn này chính là [ấn Một-yết-la
(Mudgaram, chùy) được nói trong chánh kinh]. Câu Phệ Ly Da có ấn là miếng xương
hình vuông trên đỉnh đầu Tỳ Sa Môn. Đối với miếng xương đầu ấy, dùng dáng vẻ của
Tiếu Thủ để giữ (tức là cong các ngón áp út và ngón út vào lòng bàn tay, duỗi
ba ngón kia như hình dạng của Tiếu Thủ Ấn để cầm mảnh xương đầu, như dáng vẻ
đang cầm bát). Quyến thuộc của Thất Mẫu là chim kên kên, cáo, và quạ Bà Thê (Bhāsa, giống như chim Chí (diều hâu), màu đất vàng nhạt, mỏ cũng vàng, thuộc loài
Kên Kên. Loại chim này có pháp ẩn thân). Bọn chúng đều ở trong phong luân, vây
quanh Thất Mẫu (Phàm thuộc bộ loại Diêm Vương thì đều ở trong phong luân). Nếu
cầm hoa [tán rải để cúng dường Bổn Tôn mà hoa rơi trúng] các loài chim ấy thì
cũng trì chân ngôn của Thất Mẫu. Các vị này đều có pháp trì tụng riêng, nay vào
trong hội Mạn-đồ-la này, cố nhiên đều dùng để trang nghiêm.
Ở phương Nê Rị
Để (Niết Rị Để: Tây Nam), hãy nên vẽ đại đao ấn. Na La Diên Thiên (Tỳ Nữu
Thiên) thì vẽ luân ấn (giống như trên). Câu Ma La thì vẽ Thước Để ấn (vị này là
con của Đại Tự Tại Thiên). Anh em rồng Nan Đà thì vẽ vân ấn (ấn có hình đám
mây, trong mây có tia chớp, lại có hình nước. Họ đều ở bên cạnh cửa đàn).
Thương Yết La [thì ấn] là tam kích (cái kích có ba nhánh). Thương Yết La Hậu có
ấn là bát-trí (paṭṭiśa, cái
giáo có ba mũi nhọn). Nguyệt Thiên thì ấn là cái bình
trắng có cắm hoa sen. Nhật Thiên thì ấn là cỗ xe, ở trong kim luân (tức là cái
đàn hình vuông). Xã Da và Tỳ Xã Da, vẽ ấn là cái cung (cũng ở trong kim cang
luân. Bên cạnh cung phải có mũi tên). Phong Thiên thì vẽ ấn là phong tràng. Diệu
Âm Thiên thì vẽ ấn là đàn tỳ bà. Rồng Phạ Rô (Varuṇa) thì ấn là dây trói. Giống như trên, làm Mạn-đồ-la, dùng chủng tử của
chính vị tôn thánh ấy vây quanh. “Đại
Ngã” tức là [danh xưng đức Phật dùng để] gọi ngài Chấp Kim Cang vậy.
Trên đây là nêu đại lược các ấn ký. Nếu thực hiện đầy đủ thì như trong pháp đã
nói, tức là mỗi vị đều có chân ngôn và hành pháp riêng. Trên đây là hành pháp
thuộc bộ loại Thích Ca đã xong.
(Kinh) Phật tử thứ đế thính, Thí Nguyện Kim
Cang đàn, tứ phương tương quân phổ, vệ dĩ kim cang ấn. Đương ư bỉ trung tác, Hỏa
Sanh Mạn-đồ-la. Nội tâm phục an trí, diệu thiện thanh liên ấn, trí giả Mạn Thù
Âm, bổn chân ngôn vi chi, như pháp bố chủng tử, nhi dĩ vi chủng tử. Phục ư kỳ tứ
bàng, nghiêm sức dĩ thanh liên, đồ tác Cần Dũng chúng, các như kỳ thứ đệ. Quang
Võng dĩ câu ấn. Bảo Quan trì bảo ấn. Vô Cấu Quang đồng tử, thanh liên nhi vị
phu, Diệu Âm cụ đại huệ. Sở thuyết chư sứ giả, đương tri bỉ mật ấn. Các như kỳ
sở ưng. Kế Thiết Ni đao ấn, Ưu Ba thâu-la ấn. Chất Đát La trượng ấn, Địa Huệ dĩ
tràng ấn. Bỉ chiêu triệu sứ giả, dĩ ương-câu-thi ấn. Nhất thiết như thị tác, vi
dĩ thanh liên hoa. Sở hữu chư phụng giáo, giai Khương Yết Lê ấn.
(經)佛子次諦聽,施願金剛壇,四方相均普,衛以金剛印。當於彼中作,火生漫荼羅,內心復安置,妙善青蓮印。智者曼殊音,本真言圍之,如法布種子,而以為種子。復於其四傍,嚴飾以青蓮,圖作勤勇眾,各如其次第。光網以鉤印,寶冠持寶印,無垢光童子,青蓮而未敷。妙音具大慧,所說諸使者,當知彼密印,各如其所應。髻設尼刀印,優波輸羅印,質怛羅杖印,地慧以幢印,彼招召使者,以鴦俱尸印,一切如是作,圍以青蓮華。所有諸奉教,皆羗揭梨印。
(Kinh: Phật tử! Kế lắng nghe, đàn Thí
Nguyện Kim Cang: Bốn phía đều vuông vắn. Chày kim cang bảo vệ. Hãy nên làm
trong ấy, Hỏa Sanh Mạn-đồ-la. Chính giữa lại xếp đặt, hoa sen xanh đẹp khéo.
Trí giả Mạn Thù Âm (Mañjughoṣa), chân ngôn Ngài vây quanh, đúng pháp xếp chủng tử,
dùng để làm chủng tử. Lại ở khắp bốn mặt, dùng sen xanh trang hoàng. Vẽ các vị
Cần Dũng, đều theo đúng thứ tự: Quang Võng ấn là móc, Bảo Quan cầm ấn báu. Vô Cấu
Quang đồng tử, sen xanh còn chưa nở. Diệu Âm đủ đại huệ. Nói tới các sứ giả,
nên biết ấn của họ, mỗi mỗi đều đúng lẽ. Kế Thiết Ni: Đao ấn, Ưu Ba: Thâu-la ấn.
Chất Đát La: Trượng ấn, Địa Huệ: Tràng làm ấn. Vị Chiêu Triệu Sứ Giả, dùng móc
câu làm ấn. Làm hết thảy như thế, đều dùng hoa sen xanh. Tất cả các phụng giáo,
ấn là Khương Yết Lê[10]).
Tiếp đó, nói về Bồ Tát Mạn-đồ-la
(Đây là các tọa vị Bồ Tát thuộc tầng thứ hai của đại đàn). Văn Thù Mạn-đồ-la
hình vuông, dùng chày kim cang vây quanh giống như trên (túa ra lửa). Ở bên
trong là hình tam giác. Trong hình tam giác, vẽ ấn hoa sen xanh, có chữ chủng tử.
Tụng niệm, tưởng chữ trọn khắp trong đó. Đặt chữ chân ngôn trong ấy (chẳng phải
chỉ là đặt bên trong, mà còn đặt ở bốn bên). Phía bên trong hình tam giác, gần
rìa của đàn, vẽ hoa sen xanh nhạt giáp vòng để bao quanh ấn hoa sen xanh to. Sở
dĩ vẽ ấn là để biết nghĩa thú nơi pháp môn của vị tôn thánh ấy, đều tùy theo
hình sắc của mỗi ấn mà quán, hòng biết ý nghĩa bí mật. Đúng như pháp, chọn lấy
chữ chủng tử để làm chủng tử, tức là xếp đặt các chữ ấy để làm chữ chủng tử. Ở
trong ấy (tức chính giữa các chữ chủng tử tương ứng), vẽ ấn đó. Theo thứ tự mà
lần lượt vẽ. Cần Dũng tức là Văn Thù (chánh kinh nói “Cần Dũng chúng” tức là các quyến thuộc của ngài Văn Thù, như
Quang Võng đồng tử, Bảo Quan đồng tử, Vô Cấu Quang đồng tử, sứ giả Kế Thiết Ni
v.v…), nói là “thanh liên chủng tử”
v.v… theo đúng pháp mà lần lượt làm, đều tùy theo hình sắc mà quán, hòng biết ý
nghĩa bí mật.
Quang Võng đồng tử (Jālinīprabha) thì vẽ ấn là cái móc (nếu vẽ hình tượng của Ngài, thì vẽ tay Ngài cầm cái
móc). Bảo Quan đồng tử (Ratnamukuṭa) cầm báu làm ấn. Vô Cấu Quang đồng
tử (Vimalaprabha) cầm hoa sen xanh chưa nở. “Sở
thuyết sứ giả” tức là [nhắc đến] các vị sứ giả được nói trong Văn Thù Bộ.
Người trì tụng hãy tương ứng mà biết ấn của mỗi vị ấy. Dùng pháp tương ứng để
làm, tức là [nói các Ngài có hình dạng như] đồng nữ trong phần sau. “Trí giả” tức là bản thân ngài Văn
Thù, cũng có thể gọi là “bậc đủ đức”.
Kế Thiết Ni (Keśinī) dùng đại đao làm ấn. Tiểu Kế Thiết Ni (tức Ưu Ba Kế Thiết Ni, Upakeśinī) thì ấn là Thâu-la (śūla, chĩa ba). Tạp Sắc Sứ Giả (Citrā, chánh kinh phiên âm là
Chất Đát La) dùng trượng làm ấn. Địa Huệ (Vasumatī) dùng tràng làm ấn. Chiêu Triệu Sứ Giả (Ākarṣaṇī) dùng cái móc làm ấn. Trên đây đều [vẽ hình dạng các ngài] như đồng nữ (bé
gái). Các vị phụng giáo sứ giả đều vẽ ấn là tiểu đao (như trong kinh nói và đồ
hình). Đao ấy vẽ thành hình răng cưa; nói là “tiểu đao” thì chẳng phải là dịch sát nghĩa. Những vị được vẽ
trên đây đều được vẽ ấn trong cái đàn hình vuông, dùng hoa sen xanh vây quanh.
Trên đây là quyến thuộc của bộ loại Văn Thù thuộc phương Đông. Nếu ngài Văn Thù
ở trung thai, các vị Bồ Tát khác sẽ ở tầng thứ hai, bát bộ thuộc tầng thứ ba;
những điều khác đều phỏng theo lệ này.
(Kinh) Phục thứ, Nam phương ấn, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, đại tinh tấn
chủng tử, vị Chân Đà Ma Ni, trụ ư hỏa luân trung, dực tùng đoan nghiêm chúng.
Đương tri bỉ quyến thuộc, bí mật chi tiêu chí. Thứ đệ ưng đồ họa, ngã kim quảng
tuyên thuyết. Trừ Nghi dĩ bảo bình, trí nhất cổ kim cang. Thánh giả Thí Vô Úy,
tác Thí Vô Úy thủ. Trừ Nhất Thiết Ác Thú, phát khởi thủ vi tướng. Cứu Ý Huệ Bồ
Tát, bi thủ thường tại tâm. Đại Từ Sanh Bồ Tát, ưng dĩ chấp hoa thủ, Bi Niệm tại
tâm thượng, thùy khuất hỏa luân thủ. Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não, tác thí chư nguyện
thủ. Cam lộ thủy lưu chú, biến tại chư chỉ đoan, cụ bất tư nghị huệ, trì Như Ý Châu thủ, giai trụ liên hoa
thượng, tại Mạn-đồ-la trung.
(經)復次,南方印,除一切蓋障,大精進種子,謂真陀摩尼,住於火輪中,翼從端嚴眾,當知彼眷屬,祕密之標誌。次第應圖畫,我今廣宣說。除疑以寶瓶,置一股金剛,聖者施無畏,作施無畏手,除一切惡趣,發起手為相。救意慧菩薩,悲手常在心。大慈生菩薩,應以執華手,悲念在心上,垂屈火輪手;除一切熱惱,作施諸願手,甘露水流注,遍在諸指端;具不思議慧,持如意珠手,皆住蓮華上,在漫荼羅中。
(Kinh: Lại, ấn ở phương Nam. Trừ Nhất Thiết Cái Chướng,
chủng tử đại tinh tấn, là Chân Đà Ma Ni, trụ ở trong vòng lửa. Chúng đoan
nghiêm chầu hầu. Nên biết các biểu trưng, bí mật quyến thuộc Ngài. Thứ tự nên vẽ
theo, ta nay rộng tuyên nói. Trừ Nghi dùng bình báu, cắm kim cang một nhánh.
Thánh giả Thí Vô Úy, kết ấn Thí Vô Úy. Trừ Nhất Thiết Ác Thú: Dùng tướng tay
phát khởi. Cứu Ý Huệ Bồ Tát, tay Bi thường tại tim. Đại Từ Sanh Bồ Tát, nên
dùng tay cầm hoa. Bi Niệm tay nơi tim, rủ cong gập ngón giữa. Trừ Nhất Thiết
Nhiệt Não, kết ấn Thí Chư Nguyện. Nước cam lộ tuôn rót, trọn khắp các đầu ngón.
Đủ huệ chẳng nghĩ bàn, tay cầm Như Ý Châu, đều ở trên hoa sen, ngự trong Mạn-đồ-la).
Phương Nam là Trừ Cái Chướng
Bồ Tát, dùng châu Như Ý làm ấn, cũng làm kim cang luân hình vuông. Trong đó, lại
làm đàn hình tam giác (bèn gọi là “hỏa
luân”), nói là tương đương báu Như Ý. “Tận đại tinh tấn” (trọn hết sự tinh tấn to lớn) là chủng tử. Đã
nói là “báu Như Ý” thì hãy nên ở
trong hình tam giác, vẽ Như Ý Châu, quyến thuộc vây quanh. Đối với các vị Bồ
Tát dưới đây, đều nên dùng quyến thuộc để vây quanh, hãy nên biết ấn tướng của họ.
Nay nói rộng về các quyến thuộc. Đối với các vị quyến thuộc trong ấy, hãy nên vẽ
ấn của các Ngài theo thứ tự thì sẽ đúng pháp.
Ấn của Trừ Nghi Quái Bồ Tát
(tức Kiều Đô, Kautūhala) là kim cang ấn (tức chày kim cang), nói “bình” tức là vẽ cái bình, trên có cắm chày kim cang một nhánh,
một nửa chày ở trong bình. Vô Úy Thí Bồ Tát (Abhayaṃdada) thì kết Thí Vô Úy ấn (giống như ấn của Phật Thích Ca trong Du Già). Trừ
Ác Thú Bồ Tát (Sarvāpāyaṃjaha)
thì vẽ tay Phát Khởi (tức là duỗi tay, ngửa lòng bàn tay hướng
xuống dưới, nâng cánh tay lên). Cứu Ý Huệ Bồ Tát (Paritrāṇāśayamati) thì vẽ Bi thủ đặt ở nơi tim, tức là ngón áp út bấm vào ngón cái, đặt ngang
tim. Các ngón khác xòe ra, hai ngón bấm vào nhau thì hướng vào tim). Đại Từ Bi
Khởi Bồ Tát (Mahāmaitryabhyudgata)
thì vẽ Chấp Hoa Ấn (tức là ngón cái bấm vào ngón trỏ như đang
cầm hoa, các ngón khác duỗi ra dựng lên). Bi Niệm Bồ Tát (Karuṇām-ṛḍita), gập ngón giữa hướng vào tim, các ngón khác đều xòe ra). “Tri giả” là nói tới danh xưng của vị
Bồ Tát này. Trừ Nhiệt Não Bồ Tát (Sarvadāhapraśāmin) kết Dữ Nguyện Ấn (duỗi tay cho
lòng bàn tay ngửa lên, đưa tay hướng xuống dưới, tuôn rót nước cam lộ. Nói “chỉ đẳng” tức là các ngón tay). Bất
Tư Nghị Cụ Huệ Giả Bồ Tát (Acintyamati) kết Tư Duy Ấn (giống như thế tay của
Như Ý Luân Bồ Tát, cũng giống như ấn [Tư Duy Thủ] của Tịnh Cư Thiên trong phần
trước), trọn đủ trí huệ chẳng thể nghĩ bàn! Trên đây đều làm thành đàn vuông, đặt
trên hoa sen (tức là vẽ các thủ ấn ấy [đều ở trên hoa sen]). Đó là quyến thuộc
của ngài Trừ Cái Chướng, các nghĩa khác như đã nói trong đàn Văn Thù.
(Kinh) Bắc phương Địa Tạng Tôn, mật ấn thứ đương thuyết. Tiên tác trang
nghiêm tòa, tại Nhân Đà La đàn, đại liên phát quang diễm, gián thác bị chúng sắc.
Ư bỉ kiến đại tràng, đại bảo tại kỳ đoan. Thị danh vi tối thắng. Mật ấn chi
hình tượng. Phục đương ân cần tác, thượng thủ chư quyến thuộc, vô lượng vô số
chúng, bỉ chư Mộ Đạt La. Bảo Tác ư bảo thượng, tam cổ kim cang ấn. Bảo Chưởng ư
bảo thượng, nhất cổ kim cang ấn. Trì Địa ư bảo thượng, nhị thủ kim cang ấn. Bảo
Ấn Thủ bảo thượng, ngũ cổ kim cang ấn. Kiên Ý ư bảo thượng, Yết Ma kim cang ấn.
Nhất thiết giai ưng trụ.
(經)北方地藏尊,密印次當說,先作莊嚴座,在因陀羅壇,大蓮發光焰,間錯備眾色。於彼建大幢,大寶在其端,是名為最勝,密印之形像。復當慇懃作,上首諸眷屬,無量無數眾,彼諸慕達羅。寶作於寶上,三股金剛印;寶掌於寶上,一股金剛印;持地於寶上,二首金剛印;寶印手寶上,五股金剛印;堅意於寶上,羯麼金剛印;一切皆應住。
(Kinh: Phương Bắc Địa Tạng Tôn, mật ấn kế sẽ
nói. Trước làm tòa trang nghiêm, trong Nhân Đà La đàn[11],
sen to tỏa sáng rực, nhiều màu sắc xen kẽ. Trong đó, dựng tràng lớn, báu lớn đặt
đầu tràng. Đó gọi là “tối thắng”. Hình tượng của mật ấn. Lại nên ân cần làm,
các quyến thuộc thượng thủ, vô lượng vô số chúng, Mộ Đạt La (mudra: Thủ ấn) của
họ: Bảo Tác ngự trên báu, ấn kim cang ba nhánh. Bảo Chưởng ngự trên báu, ấn kim
cang một nhánh. Trì Địa ở trên báu, ấn kim cang hai đầu. Bảo Ấn Thủ trên báu, chày
kim cang năm nhánh. Kiên Ý ở trên báu, ấn chày kim cang kép. Hết thảy đều nên
trụ).
Ấn của Địa Tạng Bồ Tát ở phương Bắc, ở trong Nhân Đà La Luân. Trong kim
cang luân, vẽ báu, đó gọi là “trước hết
đặt tòa ở trong ấy”. Trang nghiêm mặt đất. Trên mặt đất, vẽ hoa sen có đủ
màu sắc. Trên hoa, vẽ tràng, đầu tràng đặt báu. Chẳng vẽ hình tướng, chỉ vẽ
tràng. Nếu vẽ ấn này, [hãy vẽ sao cho] màu sắc đẹp đẽ nhất. Đó là hình tướng,
được gọi là “tối thượng hình”, đáng
tán thán. Trong các ấn, đó là tối thượng thù thắng, mầu nhiệm nhất. Vị Bồ Tát
này có vô lượng quyến thuộc, nay nói đại lược các vị thượng thủ của Ngài. Như
phía bên trái là ấn của Bảo Tác Bồ Tát (Ratnākara), vẽ ấn trong ấy, hết sức trân trọng
mà vẽ chày kim cang ba nhánh nằm ở phía trên bảo châu. Chỉ vẽ ấn trên đất báu.
Nếu vẽ hình tượng [toàn thân Bồ Tát] thì cũng là ngồi trên hoa sen, giống như
cách vẽ Địa Tạng Bồ Tát. Bảo Chưởng Bồ Tát (Ratnapāṇi) thì vẽ chày kim cang một nhánh. Đặt chày kim cang ấy ở phía trên bảo
châu. Trì Địa Bồ Tát (Dharaṇiṃdhara) thì vẽ chày kim cang hai đầu đặt
trên bảo châu (trong mỗi đầu lại có năm nhánh, hình dạng như ấn trước). Bảo Ấn
Thủ Bồ Tát (Ratnamudrāhasta) thì vẽ ấn là chày kim cang năm nhánh, đặt trên bảo châu (tức là chày kim
cang Ngũ Phật). Kiên Ý Bồ Tát (Dṛḍhādhyāśaya) thì là chày kim cang chữ thập (tức
Yết Ma Kim Cang, chày kim cang kép). Hết thảy các vị trên đây đều được an trí
trong Mạn-đồ-la ấy, đều là ở trong phạm vi của hình vuông, vẽ đất báu. Trên mặt
đất, đặt bảo châu, trên bảo châu có ấn vậy!
(Kinh) Bỉ Mạn-đồ-la trung, Tây phương Hư
Không Tạng, viên bạch, duyệt ý đàn, đại bạch liên hoa tòa, trí đại huệ đao ấn.
Như thị kiên lợi nhẫn, phong nhuệ do băng sương, tự chủng tử vi chủng, trí giả
đương an bố, cập họa chư quyến thuộc. Ấn hình như pháp giáo, Hư Không Vô Cấu
Tôn, ưng đương dĩ luân ấn. Luân tượng tự vi nhiễu, cụ túc tại phong đàn. Hư
Không Huệ thương-khư, tại Phong Mạn-đồ-la. Thanh Tịnh Huệ bạch liên, tại Phong
Mạn-đồ-la. Hạnh Huệ chi ấn tướng, đương dĩ xa cừ bình, thượng sáp thanh liên
hoa, tại Phong Mạn-đồ-la, An Huệ kim cang liên, tại Phong Mạn-đồ-la. Lược thuyết
Phật bí tạng, chư tôn mật ấn cánh.
(經)彼漫荼羅中。西方虛空藏,圓白悅意壇,大白蓮華座,置大慧刀印。如是堅利刃,鋒銳猶氷霜,自種子為種,智者當安布,及畫諸眷屬,印形如法教。虛空無垢尊,應當以輪印,輪像自圍繞,具足在風壇;虛空慧商佉,在風漫荼羅;清淨慧白蓮,在風漫荼羅;行慧之印相,當以車𤦲瓶,上插青蓮華,在風漫荼羅;安慧金剛蓮,在風漫荼羅。略說佛祕藏。諸尊密印竟。
(Kinh: Trong Mạn-đồ-la ấy, phương Tây, Hư Không
Tạng, đàn tròn trắng, đẹp ý. Tòa hoa sen trắng to, đặt ấn đại huệ đao. Mũi cứng
bén như thế, nhọn sắc như băng, sương. Chủng tự Ngài làm chủng, người trí nên xếp
đặt. Hình ấn như pháp dạy, và vẽ các quyến thuộc. Ấn hình như pháp giáo, Hư
Không Vô Cấu Tôn, nên dùng luân làm ấn. Hình luân tự vây quanh. Trọn đủ trong
phong đàn, Hư Không Huệ: Thương-khư, trong Phong Mạn-đồ-la. Thanh Tịnh Huệ: Sen
trắng, trong Phong Mạn-đồ-la. Ấn tướng của Hạnh Huệ, nên là bình xa cừ, trên cắm
hoa sen xanh, trong Phong Mạn-đồ-la. An Huệ: Sen kim cang, trong Phong Mạn-đồ-la.
Lược nói Phật bí tạng, mật ấn chư tôn xong).
Kế đó, Hư Không Tạng Bồ Tát
ở phương Tây, tức là Bộ Chủ ở phương Tây của hội Văn Thù. Làm đàn tròn, sao cho
sáng sạch, tươi tắn. [Hư Không Tạng Bồ Tát] ngồi trên sen trắng, tay cầm đao. Nếu
không vẽ hình Bồ Tát thì chỉ vẽ đao, đao ấy cực bén như sương. Nói “hựu như thị” (lại như thế) tức là
nói “cứng chắc, bén nhọn như thế”. Lại còn kiên cố, dùng chữ chủng tử để
vây quanh [đao ấy]. Trí giả dùng chữ chủng tử để làm chủng tử, tức là xếp đặt
chữ chủng tử gốc. Kế đó, liệt kê các vị thượng thủ Bồ Tát quyến thuộc, tức là vẽ
hình ấn của các Ngài đúng như trong pháp giáo, tức là đều theo đúng lời dạy mà
làm.
Hư Không Vô Cấu Bồ Tát (Gaganāmala) cũng dùng “bổn” vây
quanh, lại dùng “luân” để vây
quanh. “Bổn” tức là chính mình.
Ấn vẽ thành luân (tức là vòng tròn do bốn lưỡi đao ghép thành), dùng luân vây
quanh [các chữ]. Ở trong phong đàn là ấn của Hư Không Huệ Bồ Tát (Gaganamati), tức là đặt thương-khư trong phong đàn (tức cái đàn có hình bán nguyệt).
Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddhamati), thì vẽ ấn là hoa sen trắng, đặt ở
trong phong đàn. Kế đó là ấn của Hạnh Huệ Bồ Tát (Cāritramati), trong phong luân đặt thương-khư, trong thương-khư cắm hoa sen xanh. Ấn của
An Huệ Bồ Tát (Sthiramati) thì trong phong luân vẽ hoa, trên hoa đặt chày kim cang,
Các vị này đều ở trong Đại
Bi Tạng Đại Đàn. Hội Văn Thù gồm bốn vị Bồ Tát, tùy ý dùng vị Bồ Tát nào làm chủ
để đặt trong trung đàn [cũng được]. Các vị khác sẽ dựa theo phương vị mà xếp ở
viện thứ hai, còn viện thứ ba thì đặt tám bộ. Lại nữa, nếu là viện thứ hai
trong Đại Bi, giả sử lấy Quán Âm làm Bộ Chủ thì Kim Cang Bộ và Phật Đảnh đều dựa
theo phương vị mà xếp vào viện thứ hai. Kế đó, hãy nên biết, viện thứ ba để đặt
tám bộ, chớ nên đặt các vị Bồ Tát thuộc hội Văn Thù tại đó. Nếu là hội Thích Ca
thì giống như trên đã nói. Các điều đã nói này chính là ý nghĩa nhất định, chuyện
này lại cần phải thẩm định. Phẩm Bí Mật Mạn-đồ-la đã xong.
[1] Trí chấp
vào một bên, hoặc hai bên, rơi vào nhị biên (có, không, thật, giả, tốt, xấu…)
nên gọi là Biên Trí.
[2] Vua Tỳ
Lưu Ly là con trai của vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La (Kośala). Vua Ba Tư Nặc
xin dòng họ Thích Ca gả cho mình một hoàng nữ làm vợ. Hoàng tộc Thích Ca cho rằng
vua Ba Tư Nặc không xứng với họ, bèn chọn một cô nữ tỳ xinh đẹp, đặt tên là Phược
Sa Bà Sát Lợi (Vāsabhakhattiyā, có thuyết nói bà này tên là Mạt Lợi - Mallika),
nói dối đó là con gái của hoàng tử Ma Ha Nam (vị này là anh trai của ngài A Nậu
Lâu Đà, và là vị vua cuối cùng của dòng họ Thích Ca). Khi còn bé, Tỳ Lưu Ly về
thăm quê ngoại, bị đám vương tôn trong dòng họ Thích Ca dè bỉu, khinh bỉ là con
của tỳ nữ, là hạng hạ tiện. Tỳ Lưu Ly căm tức, thề khi làm vua, sẽ tuyệt diệt
toàn bộ dòng Thích Ca để trả hận. Khi tròn hai mươi tuổi, ông ta đã đảo chánh,
đuổi vua cha lưu vong, giết chết anh là thái tử Kỳ Đà để lên ngôi vua, phát động
chiến tranh, tấn công Ca Tỳ La Vệ, tiêu diệt dòng họ Thích Ca. Sau đó, Tỳ Lưu
Ly đắm say tửu sắc, say rượu ngủ mê bên bờ sông (có thuyết nói là đang ngủ trên
du thuyền) thì bị mưa bão nhấn chìm. Từ đó, nước Kiều Tát La bị vua A Xà Thế nước
Ma Kiệt Đà xóa tên trên bản đồ.
[3] Theo Phật
Quang Sơn Đại Từ Điển, ấn này có tên gọi đầy đủ là Như Lai Nhất Thiết Chi Phần
Sanh Ấn. Ấn này cũng chính là ấn của Phổ Hiền Bồ Tát. Chi Phần Sanh có nghĩa là
sanh từ thân thể của chư Phật, tức là nói đến Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền chính
là nội đức của Bồ Tát tâm, là trưởng tử của Như Lai, nên Ngài được gọi là Chi
Phần Sanh. Ấn này có hình dạng như đóa sen nở xòe, tức là chắp hai tay lại,
dùng hai ngón tay cái duỗi ra, dựng lên, đầu ngón hơi cong. Chân ngôn của ấn
này là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám ác sa ha”. Đây cũng là ấn thứ năm được
nói trong phẩm Bí Mật Bát Ấn của kinh này.
[4] Theo
sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, trên cõi trời có cây Như Ý, thuận theo ý muốn của chư
thiên mà khiến họ thỏa nguyện. Do vậy, cây này được gọi là Thiên Ý Thụ.
[5] Do chỗ
này hơi khó hiểu, xin mạn phép giải thích như sau: Trong ngoại hộ-ma (tức là hộ-ma
thuộc về sự tướng) sẽ gồm có ba yếu tố cấu thành: Bổn Tôn (tức đối tượng mà
hành nhân sẽ dâng cúng), chân ngôn (phải hiểu là lò lửa dùng để hộ-ma), và ấn
(chỗ ngồi của vị A-xà-lê thực hiện pháp hộ-ma). Chứ không phải là chân ngôn và ấn
theo nghĩa thông thường. Chánh kinh gọi ba thứ ấy là “tam vị”. Mỗi vị trong tam
vị, lại có ba thứ là Bổn Tôn, chân ngôn và ấn (trong trường hợp này, chân ngôn
và ấn lại hiểu theo nghĩa thông thường, tức là minh chú và thủ ấn).
[6] Biểu
nghiệp là nghiệp có thể biểu thị ra ngoài, như những động tác nơi thân, người
khác có thể trông thấy, nhận biết, đó là thân biểu nghiệp. Những lời lẽ thốt ra
rõ ràng khiến cho người khác nghe thấy, đó là ngữ biểu nghiệp. Câu Xá Tông cho
rằng chỉ có hai loại biểu nghiệp nơi thân và ngữ, nhưng Đại Thừa Pháp Tướng
Tông cho rằng ý cũng có biểu nghiệp, tuy người khác không thể thấy khởi tâm động
niệm của ta, nhưng do những ý niệm đó hiển hiện rành rẽ trong tự tâm nên cũng gọi
là ý biểu nghiệp.
[7] E rằng
đây là sai sót trong khi khắc ván, vì bốn vị Bồ Tát nằm ở bốn góc, chứ không ở
chính phương (tức các phương Đông, Tây, Nam, Bắc). Do ba vị kia đã lần lượt ở
ba góc Đông Nam, Tây Nam, và Tây Bắc, Di Lặc Bồ Tát chỉ có thể ở góc Đông Bắc,
tức tương ứng với phương Chấn trong Hậu Thiên Bát Quái.
[8] Kim Cang
Thương Khế La tức là Kim Cang Tỏa. Đây là một vị nữ Bồ Tát hóa thân của Bất
Không Thành Tựu Phật. Thân Ngài có màu xanh, có tám tay và ba mặt. Mặt chính giữa
tươi cười, mặt bên phải có màu nâu, mặt bên trái có màu đỏ thể hiện vẻ phẫn nộ.
Các tay Ngài lần lượt cầm dây xích có hai đầu là hình chày kim cang, kết ấn Thí
Vô Úy, chày kim cang, mũi tên, chén kappala (chén làm bằng xương đầu lâu chứa đầy
máu), dây thòng lọng, và cây cung.
[9] Chánh
kinh gọi vị này là Đại Phẫn.
[10] Khương
Yết La (khaṅgari) là một loại dao. Trong Mật giáo, loại dao này được vẽ hoặc tạc
thành hình dạng có cán là chày kim cang, lưỡi to, cong vòng như hình trăng khuyết.
[11] Nhân Đà
La Đàn là đàn tràng hình vuông.
Comments
Post a Comment