Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
18. Phẩm thứ mười tám: Bồ Tát
Giới Phẩm Thọ Phương Tiện Học Xứ
Bồ Tát Giới Phẩm Thọ Phương Tiện
Học Xứ Phẩm Đệ Thập Bát
菩薩戒品受方便學處品第十八[1]
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Nguyện thuyết chư Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng cụ trí huệ phương tiện sở tu học cú,
linh quy y giả ư chư Bồ Tát Ma Ha Tát, vô hữu nhị ý, ly nghi hoặc tâm, ư sanh tử
lưu chuyển trung, thường bất khả hoại.
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:世尊!願說諸菩薩摩訶薩等具智慧方便所修學句,令歸依者於諸菩薩摩訶薩無有二意、離疑惑心,於生死流轉中常不可壞。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Xin hãy
nói câu tu học trọn đủ phương tiện trí huệ của các Bồ Tát Ma Ha Tát, khiến cho
người quy y đối với các vị Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng có hai ý, lìa tâm ngờ vực, ở
trong sanh tử lưu chuyển thường chẳng thể hoại).
Đầu kinh, ngài Kim Cang Thủ đã hỏi Phật
về ý nghĩa của giới Bồ Tát. Trước đó, đức Phật đã nói khi [A-xà-lê] nhập Mạn-đồ-la,
truyền giới cho đệ tử, hãy nên nói pháp yếu của giới ấy. Trước hết, [đệ tử] đã
được thọ giới ấy xong, trụ trong Học Xứ ấy, sau đó mới thích hợp nghe hạnh bí mật
của Như Lai. Trước khi chưa tạo Mạn-đồ-la, phải nên nói giới ấy. Trong phần trước,
khi đức Phật giảng về chuyện nhập Mạn-đồ-la, liền nói ngay vào phương tiện của
Mạn-đồ-la, nên chưa nói tới giới. Vì thế, ngài Kim Cang Thủ nhắc lại chuyện trước
để hỏi lần nữa. Do vậy, kinh nói: “Lúc
bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Nguyện đức Thế Tôn nói câu
[tu học trọn đủ phương tiện] của hàng Bồ Tát Đại Hữu Tình…” trọn đủ các
ý nghĩa [thị hiện] dấu tích, trụ xứ, tức là Học Xứ. “Câu tu học trọn đủ phương tiện trí huệ” tức là chỗ để các đức
quy hướng, tiến nhập. Người đó trọn đủ giới ấy, tức là các thứ như phương tiện
v.v… đạt được ngay nơi thân, có ý nghĩa “tới
trọn khắp”. Huệ phương tiện v.v… đều tiến nhập thân này; đó là dịch sát
nghĩa. “Ly nghi hoặc” (Lìa ngờ vực), tức là [lìa khỏi] “nhị ý”, [nhị ý] giống như ở nơi ngõ
rẽ, chẳng thể tiến tới được. Lìa ác ý, ngờ lo, khiến cho lưu chuyển trong sanh
tử mà bất hoại. Trên đây đều là kinh văn. Do vị Bồ Tát này trụ trong Học Xứ, có
thể khiến cho [vị ấy] chẳng xả đại bi, lìa ác ý. “Ác ý” tức là nghi hoặc. Tức là do dùng giới này, dẫu ở trong
sanh tử lưu chuyển mà chẳng thể hoại. “Bất
hoại” tức là thường trụ, chẳng thể hại. Ý của lời hỏi là: Làm thế nào để
đạt được giới ấy, dẫu ở trong lưu chuyển sanh tử mà thường chẳng hủy hoại, chẳng
thể phá hoại?
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dĩ Như Lai nhãn quán nhất
thiết pháp giới, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang Thủ!
Kim thuyết thiện xảo tu hành đạo. Nhược Bồ Tát Ma Ha Tát trụ ư thử giả, đương ư
Đại Thừa nhi đắc thông đạt. Bí Mật Chủ! Bồ Tát trì bất đoạt sanh mạng giới sở bất
ưng vi, trì bất dữ thủ, cập dục tà hạnh, hư cuống ngữ, thô ác ngữ, lưỡng thiệt
ngữ, vô nghĩa ngữ giới, tham dục, sân khuể, tà kiến đẳng, giai bất ưng tác. Bí
Mật Chủ! Như thị sở tu học cú, Bồ Tát tùy sở tu học, tắc dữ Chánh Giác Thế Tôn
cập chư Bồ Tát đồng hạnh, ưng như thị học!
(經)如是說已,毘盧遮那世尊以如來眼觀一切法界,告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!今說善巧修行道。若菩薩摩訶薩住於此者,當於大乘而得通達。祕密主!菩薩持不奪生命戒所不應為,持不與取及欲邪行、虛誑語、麁惡語、兩舌語、無義語戒,貪欲、瞋恚、邪見等皆不應作。祕密主!如是所修學句,菩薩隨所修學 ,則與正覺世尊
及諸菩薩同行,應如是學。
(Kinh:
Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn dùng Như Lai nhãn quán hết thảy các pháp
giới, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, Kim Cang Thủ! Nay nói đạo
tu hành thiện xảo. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trụ trong đạo này, sẽ được thông đạt Đại
Thừa. Này Bí Mật Chủ! Bồ Tát trì giới chớ nên đoạt sanh mạng, trì giới chẳng
cho mà lấy, giới chẳng làm hạnh dục tà, nói lời hư dối, lời thô ác, lời đôi chiều,
lời vô nghĩa, tham dục, sân khuể, tà kiến đều chớ nên làm. Bí Mật Chủ! Đối với
câu để tu học như thế, Bồ Tát thuận theo tu học thì chính là có cùng hạnh với đức
Chánh Giác Thế Tôn và các Bồ Tát. Hãy nên học như thế).
Khi đó, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn ngự trong
hết thảy, dùng Phật nhãn quán hết thảy pháp giới, bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ rằng: “Lắng nghe!” [Đó là
răn truyền] ngài Kim Cang Thủ vậy. Đức Phật dùng Phật nhãn quán pháp giới rồi bảo
Kim Cang Bí Mật Chủ “lắng nghe”
là vì đại sĩ đã thỉnh Phật nói hạnh căn bản của hết thảy Bồ Tát, đức Phật sắp
giải đáp, trước tiên, Ngài dùng Như Lai nhãn quán trọn khắp đại hội. Đấy chính
là quán trọn khắp pháp giới. Nói “các
pháp giới” ở đây chính là quán Phật giới, pháp giới, và chúng sanh giới.
Quán ba pháp giới ấy, nên nói là “các
pháp giới”. Quán pháp giới tức là hết thảy cảnh giới của Như Lai. Chúng
sanh giới chính là nhân duyên của hết thảy chúng sanh đáng nên độ, đều là pháp
giới. Đã quán trọn khắp xong, biết có kẻ kham nghe giới hạnh sâu xa này; do vậy,
trả lời ngài Kim Cang Thủ.
Kế đó, đức Phật bảo: - Kim Cang Thủ,
hãy lắng nghe! Nay ta nói đạo tu hành thiện xảo. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát trụ trong
đạo này, tức là đã thông đạt đạo tu hành thiện xảo trong Đại Thừa. Đạo tu hành ấy
chính là Bồ Tát Giới. Tam thế chư Phật đều do đạo này mà đạt tới Bồ Đề, nên gọi
là “tu hành đạo”. Do trụ trong “đạo tu hành” này của chư Phật, chư Bồ
Tát lập tức có thể thông đạt Đại Thừa. Vì sao vậy? Nay giới này chính là giới cội
nguồn trong tự tánh của hết thảy chúng sanh. Nếu trụ trong kim cang giới thanh
tịnh nơi tánh này, tự nhiên sẽ thông đạt hết thảy các pháp. “Trì bất sát sanh giới sở bất ưng vi”
(Trì giới chẳng sát sanh chẳng đáng nên
làm) tức là trì giới “chẳng sát hại
sanh mạng”. Thêm vào chữ “chư
sanh mạng” tức là chẳng được đoạn mạng.
Kế
đó, đức Phật dạy bảo giới tướng, tức là chẳng sát hại sanh mạng, chớ nên không
cho mà lấy, chớ nên hành hạnh tà dục, chớ thốt lời dối gạt, thô ác, nói đôi chiều,
nói thêu dệt, và tham, sân, tà kiến thảy; đó chính là Bồ Tát giới. Trong ấy, “chẳng sát sanh” tức là đối với các
loài có sanh mạng, thậm chí chẳng sanh một niệm sát tâm. Do chẳng có sát tâm,
nên gọi là “giới bất sát”. Những
giới khác cứ phỏng theo đây mà nói.
Khi mới truyền trao giới này, trước
đó, A-xà-lê nên truyền trao Tam Quy. Tam Quy ở đây chính là [quy y] Tam Bảo thường
trụ bí mật, chẳng phải là Pháp, Tăng biệt trụ giống như trong các kinh chẳng liễu
nghĩa khác. [Ý nghĩa Tam Bảo thường trụ bí mật ấy] như trong kinh Niết Bàn,
Ương Quật v.v… [đã giảng giải], hãy nên trích dẫn để rộng nói. Lại như kinh văn
trong phần trên [đã nói], thầy truyền trao pháp Tam Quy. Đã truyền Tam Quy
xong; kế đó, A-xà-lê hãy nên khuyên họ phát tâm, khiến cho họ sanh đại thệ quyết
định, thọ mười vô tận tạng rồi mới ba lượt trao truyền. Thọ xong, dạy họ tự
thưa bày: “Con tên là… nay nương theo
mười phương chư Phật và A-xà-lê đã được thọ giới. Ngày nay, giờ này, con là… đã
được gọi là Bồ Tát”. Giới ấy chẳng có thời tiết, thọ cho đến khi hết thọ
mạng, cho đến cùng tột đời vị lai, chẳng có ý nghĩa “xả lìa”. Nếu đối với giới
vừa nói trên đây, khi nhập đạo tràng mà hành phương tiện này trong một tháng, một
năm v.v… Xong chuyện bèn thôi [chẳng giữ giới ấy nữa], tức là có thời hạn.
Nhưng nói theo nghĩa sâu, cũng là đạt tới “kiến chân” (thấy được lẽ chân, kiến đạo) rồi mới ngưng nghỉ
(ngưng giữ giới). Bồ Tát Giới đại lược có hai loại: Một là tại gia, hai là xuất
gia. Trong hai chúng ấy, lại có hai loại giới: Một là tự tánh tu hành, hai là
chế giới.
[Thứ nhất], nay mười giới này chính là
giới để tu hành của Bồ Tát. Do là thiện tánh, hết thảy các Bồ Tát phải nên
hành, tức là “tánh tự năng trì giới”
(giới mà tánh có thể tự trì) như kinh Niết Bàn đã dạy, hoặc gọi là “tự tánh giới”. Sở dĩ nói là “trì” là vì [để ngăn ngừa
hành nhân] sanh tâm phỉ báng, cần phải thủ hộ ý của họ. Lại cần phải thuận theo
ý họ, lại cần phải trì. Vì cớ sao vậy? Hết thảy chư thiên và Luân Vương trong
thế gian cũng có pháp Thập Thiện, hết thảy ngoại đạo cũng có mười thiện giới, hết
thảy Nhị Thừa cũng có giới Thập Thiện. Nếu Bồ Tát chẳng thọ trì như thế, bọn họ
liền sanh tâm khinh mạn, hủy báng: “Chúng ta đều có thiện pháp như thế. Nay kẻ
này tự nói là Đại Sĩ, hành hạnh tôn quý, mầu nhiệm, mà chẳng có giới thanh tịnh,
liền biết sở học của hắn chẳng thật!” Do sanh tâm nghi hoặc, bất thiện cho họ,
tức là làm chuyện chẳng có nghĩa lợi cho những người trên đây, chẳng phải là bậc
thiện tri thức! Vì thế, cần phải giữ giới này.
Thứ hai, giới do đức Phật chế, chính
là tự trọn đủ phương tiện. Như trong pháp Thanh Văn, vì muốn tu phạm hạnh để dứt
hết nguồn khổ, đức Phật lập ra phương tiện này để ngăn ngừa, thủ hộ! Do vậy, được
mau thành tựu cái quả. Nay trong Đại Thừa cũng có chế giới, đó gọi là “trọn đủ phương tiện trí thiện xảo”.
Do có phương tiện thiện xảo, nay pháp Thập Thiện này trở thành giới bất cộng,
chẳng cùng chung với Thanh Văn, ngoại đạo v.v… Vì thế, kinh nói là “thiện xảo tu hành”. Đại Bổn của kinh
này gồm mười vạn bài kệ, có các phương tiện truyền giới này v.v… Tuy vậy, [bản
kinh ấy] chưa truyền sang cõi này (Trung Hoa); nhưng trong kinh Kim Cang Đảnh
có pháp truyền trao, chẳng khác với Đại Bổn của kinh này. Hãy nên tìm xem. Như
Thanh Văn có bốn trọng cấm (giết, trộm, dâm, dối), còn trong kinh này, các tội ấy
là Thâu Lan Giá[2],
chẳng phải là trọng cấm. Vì lẽ nào vậy? Thập Thiện Giới này chính là tùy thuận,
thủ hộ Nhị Thừa, ngoại đạo, dùng phương tiện thiện xảo để trì trọn vẹn. Nhưng Bồ
Tát luôn có trọng cấm căn bản, ở đây, các tội “giết, trộm, dâm, dối” chỉ là
Thâu Lan Giá, chẳng phải là tội cực trọng của Bồ Tát. Như trong phần giới tam
thế vô chướng ngại thuộc phần trước, trước hết dạy chẳng xả Tam Bảo, lại dạy chẳng
xả tâm Bồ Đề. Đấy chính là bốn trọng cấm thật sự của hàng Bồ Tát. Nếu Bồ Tát
sanh tâm như thế, xả lìa Phật, bèn gọi là “phá trọng cấm”. Vì sao vậy? Như Lai là chỗ để hết thảy các thiện
pháp sanh khởi. Bồ Tát do tự quy y Phật, mới có vạn hạnh thành tựu nơi các Ba
La Mật trong hết thảy các địa, giống như do chủng tử thì mới sanh thành cái quả.
Nếu bỏ trí chữ A vốn sẵn tự nhiên, hết thảy các điều thiện sẽ chẳng sanh. Do vậy,
bỏ Phật tức là đoạn mạng của hết thảy các vị Bồ Tát, dứt bặt cội rễ thành Phật
của họ. Nếu hành “giết, trộm, dâm, dối”,
tuy gây trở ngại nơi đạo, nhưng chẳng dứt tuyệt căn bản thành Phật. Do đó, chỉ
thành tội Thâu Lan Giá.
Do Phật chẳng thể xả, Pháp và Tăng
cũng thế. Như trong kinh Thanh Văn còn nói: “Bỏ một quyển kinh giới, bỏ một người trong bảy loại chúng sanh, tức là
đoạn nghĩa hòa hợp, chẳng thành Cụ Giới”. Huống hồ hết thảy Bồ Tát cùng
nương theo một đạo để tới đạo tràng, Phật Phật chẳng sai, chẳng khác! Vì thế,
hãy nên biết: “Hễ xả thì chính là đoạn hết thảy các mạng!” Bồ Đề tâm cũng thế,
là cội gốc của hết thảy các hạnh. Nếu lìa Bồ Đề tâm, sẽ chẳng có hết thảy các
pháp Bồ Tát. Vì thế, bỏ [Bồ Đề tâm] cũng là phạm trọng giới! Như kinh Thanh Văn
[đã dạy] “phạm trọng giới, sẽ chẳng phải
là sa-môn, chẳng phải là Thích tử, chẳng dự vào tăng chúng!” Nay ở đây,
nếu xả Phật, Pháp, Tăng, và Bồ Đề tâm, tức là chẳng thuộc đại chúng, giống như
hàng Nhị Thừa hủy phạm bốn giới trọng. Nhưng hành giả tự biết phạm giới, phải
nên gột rửa cái tâm, rồi thọ lại, sẽ lại có giới, chẳng giống như giới Nhị Thừa:
[Hễ phạm bốn giới trọng] sẽ là đá vỡ, hoặc đứt đầu, chẳng còn có nghĩa “lại đạt
được” nữa!
Lại nữa, Bồ Tát tự có mười giới trọng,
các tội như chẳng giết v.v… trong phần trước chẳng thuộc vào số ấy (mười giới
trọng của Bồ Tát), mà là tội Thâu Lan Giá. Những gì là mười? Bốn tội như vừa
nói trên đây, lại có sáu giới trọng, cùng hợp thành mười. Giới trọng thứ năm
chính là “chẳng báng hết thảy kinh
pháp tam thừa”. Nếu hủy
báng, sẽ chính là báng Phật, Pháp, Tăng, báng đại Bồ Đề tâm. Vì thế, phạm giới
trọng. Do hết thảy các phương tiện trong tạng bí mật đều là phương tiện của Phật;
vì lẽ đó, hủy báng mỗi pháp chính là hủy báng hết thảy các pháp! Cho đến đối với
hết thảy các chuyện thuộc về phương diện mưu sinh, sản xuất, nghệ thuật v.v…
trong thế gian, nếu tùy thuận chánh lý thì đều là điều Phật dạy, cũng chẳng được
hủy báng, huống hồ các pháp thuộc tam thừa ư?
Giới thứ sáu là “chớ nên sanh tâm keo tiếc đối với hết thảy
các pháp”. Nếu phạm, chính là hủy báng giới trọng. Do Bồ Tát tu tập hết
thảy các pháp, vốn vì hết thảy chúng sanh. Nếu có giấu diếm, tiếc nuối chút
nào, chính là xả Bồ Đề, cho nên phạm giới trọng!
Giới thứ bảy là “không được tà kiến”, tức là các tà
kiến báng bổ “chẳng có nhân quả, chẳng có Phật, chẳng có người thấy đạo” v.v… Nếu
sanh tà kiến, tự nhiên là xả Phật, Pháp, Tăng và Bồ Đề, cho nên phạm giới cấm.
Nhưng [giới trọng của] Thanh Văn chỉ là Thâu Lan Giá [nếu xét theo giới của
hàng Bồ Tát]. Do vậy biết là [trong giới Thanh Văn], phương tiện không trọn đủ,
chỉ nói theo một lối.
Giới thứ tám là “đối với người phát đại tâm, phải đón trước
mà khuyên họ phát tâm, khiến cho họ chẳng thoái thất, ngưng dứt”. Nếu thấy
người giải đãi, thoái thất, mà chẳng khuyên răn, phát khởi, hoặc ngăn trở cái
tâm ấy, hoặc khiến cho người ấy lìa đạo Vô Thượng Bồ Đề, tức là trái nghịch hết
thảy chuyện đáng nên làm của hết thảy các đức Như Lai. Do vậy, phạm trọng tội.
Điều thứ chín là “đối với người Tiểu Thừa, chẳng quán căn cơ
của họ trước mà cứ nói đại pháp, hoặc đối với người đại căn, chẳng quán căn cơ,
cứ nói tiểu pháp hạnh”, [làm như vậy] bèn phạm giới trọng. Đấy chính là
phương tiện không đầy đủ! Do trái nghịch phương tiện của Như Lai, thuyết pháp
sai căn cơ, trở thành kẻ oán của trời, người, cho nên phạm trọng tội.
Thứ mười là “Bồ Tát thường nên hành bố thí, nhưng chẳng được đem vật dụng gây hại
cho chúng sanh để thí cho người khác”, tức là thí rượu, thí thuốc độc,
đao, trượng, hết thảy các vật chẳng lợi ích cho người khác. [Hễ bố thí các thứ
gây hại], tức là phạm giới trọng. Do Bồ Tát thường hành hạnh lợi tha, nay trái
nghịch, cho nên phạm giới trọng. Hãy nên biết các giới như chẳng giết v.v… là
thuận theo ý người khác, lại là giới để người mới nhập pháp vâng giữ. Mười chuyện
được nói ở đây chính là giới chánh hạnh của hết thảy các Bồ Tát. Nếu Bồ Tát thật
sự thuận theo mười giới sau (tức mười giới của Bồ Tát), dẫu hành mười chuyện
trước kia, vẫn chẳng là phạm giới!
Kế đó, đức Phật nói: “Bí Mật Chủ! Câu tu học như thế, nếu Bồ Tát
thuận theo đó để tu học, sẽ có cùng hạnh với chư Phật, Bồ Tát. Hãy nên học như
thế”. Thanh Văn do gần với Phật giới, nên gọi là “cận đồng” (gần giống), nay [Bồ Tát giới] này bằng với chư Phật.
Bồ Tát tu học thuận theo “câu tu học”,
chư Phật Thế Tôn và Bồ Tát đồng sự, hãy nên học theo. Thân ba điều, miệng bốn
điều, ý ba điều, chính là “câu tu học”
của hết thảy các Bồ Tát, là Học Xứ của hết thảy Bồ Tát. Đây chính là hết thảy
các Bồ Tát tùy thuận chúng sanh giới, “tùy
thuận” tức là đồng sự. Lại nữa, hết thảy Phật, Bồ Tát đều hành như thế,
do pháp của hết thảy các Bồ Tát vốn sẵn nên hành như thế, nay ta cũng hành như
thế, tức là có cùng sự nghiệp với hết thảy Phật, Bồ Tát. Do hành xử tự nhiên ứng
hợp với bản tánh giới, nên kinh Niết Bàn bảo “tự tánh có thể trì giới”.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Bạc
Già Phạm ư Thanh Văn thừa diệc thuyết như thị thập thiện nghiệp đạo, thế gian
nhân dân, cập chư ngoại đạo diệc ư thập thiện nghiệp đạo, thường nguyện tu
hành. Thế Tôn! Bỉ hữu hà sai biệt? Vân hà chủng chủng thù dị?
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:世尊!薄伽梵於聲聞乘亦說如是十善業道 ,世間人民及諸外道亦於十善業道
常願修行。世尊!彼有何差別?云何種種殊異?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Trong
Thanh Văn Thừa, đức Bạc Già Phạm cũng nói mười thiện nghiệp đạo như thế, nhân
dân và các ngoại đạo trong thế gian cũng thường nguyện tu hành mười thiện nghiệp
đạo. Bạch Thế Tôn! Giới ấy có sai biệt gì? Các thứ khác biệt là như thế nào?)
Kế đó là ý hỏi của ngài Kim Cang Thủ.
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật rằng: “Trong Thanh Văn Thừa, đức Thế Tôn cũng nói
mười thiện nghiệp đạo này. Bạch Thế Tôn! Nhân dân và các ngoại đạo trong thế
gian cũng thường nguyện tu học mười thiện nghiệp đạo này”. “Thường nguyện” tức là tâm phải thường
trì. Đó là danh xưng khác của thọ giới. “Chuyển
cụ”: “Cụ” tức là trọn đủ
giới này, “chuyển” nghĩa là đều.
[Chuyển cụ] tức là “đều hành trọn đủ”. Thưa Thế Tôn! Giới ở đây có gì sai khác?
Có các thứ khác biệt như thế nào? Thanh Văn và Duyên Giác cũng có giới Thập Thiện,
cũng nói vì dứt sự chê bai trong thế gian và do tánh thiện mà trì. Hết thảy các
ngoại đạo và chư thiên trong thế gian cũng có giới Thập Thiện. Nay đức Phật lại
nói Bồ Tát Giới, nhưng chỉ là Thập Thiện, như vậy thì có khác gì đâu?
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện
tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ phục thiện tai, năng vấn Như Lai như thị nghĩa.
Bí Mật Chủ! Ưng đương đế thính, ngô kim diễn thuyết sai biệt đạo nhất đạo pháp
môn. Bí Mật Chủ! Nhược Thanh Văn Thừa Học Xứ, ngã thuyết ly huệ phương tiện,
giáo linh thành tựu, khai phát biên trí, phi đẳng hành Thập Thiện Nghiệp Đạo. Bỉ
chư thế gian phục ly chấp trước ngã cố, tha nhân sở chuyển. Bồ Tát tu hành Đại
Thừa, nhập nhất thiết pháp bình đẳng, nhiếp thọ trí huệ phương tiện, tự tha câu
cố, chư sở tác chuyển. Thị cố, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ư thử nhiếp trí phương tiện,
nhập nhất thiết pháp bình đẳng, đương cần tu học.
(經)如是說已,佛告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝復善哉,能問如來如是義。祕密主!應當諦聽,吾今演說差別道一道法門。祕密主!若聲聞乘學處,我說離慧方便,教令成就開發邊智,非等行十善業道,彼諸世間復離執著我故,他因所轉。菩薩修行大乘入一切法平等,攝受智慧方便,自他俱故,諸所作轉。是故,祕密主!菩薩於此攝智方便入一切法平等,當勤修學。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Phật bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay, lành
thay! Bí Mật Chủ! Ông lại có thể lành thay, có thể hỏi Như Lai nghĩa như thế
đó. Bí Mật Chủ! Hãy nên lắng nghe, ta nay diễn thuyết pháp môn sai biệt đạo, nhất
đạo. Bí Mật Chủ! Như trong Học Xứ của Thanh Văn Thừa, ta nói phương tiện ly huệ,
dạy họ thành tựu, khai phát biên trí (trí chấp vào một bên), chẳng phải là bình
đẳng hành Thập Thiện Nghiệp Đạo. Các thế gian kia dẫu lìa chấp ngã, lại bị các
nhân khác xoay chuyển. Bồ Tát tu hành Đại Thừa, nhập hết thảy các pháp bình đẳng,
nhiếp thọ phương tiện trí huệ, thực hiện các sự đều nhằm chuyển biến cho mình lẫn
người. Vì thế, Bí Mật Chủ! Bồ Tát do phương tiện nhiếp trí này, nhập hết thảy
các pháp bình đẳng, hãy nên siêng tu học).
Vì thế, tiếp đó đức Phật lại vì ngài
Kim Cang Thủ mà phân biệt, Ngài tán thán: - Lành thay, lành thay Bí Mật Chủ!
Ông lại có thể tốt lành hỏi Như Lai nghĩa như thế. Hãy nên lắng nghe, nay ta sẽ
vì ông phân biệt. Phân biệt thì có vô lượng điều, nay kết hợp thành một, bèn
nói pháp môn này. Do ông có thể hỏi Như Lai nghĩa như thế, ta sẽ theo thứ tự của
từng chuyện mà giải đáp. Hãy nên lắng nghe “phân biệt đạo, nhất đạo thuyết pháp môn” tức là hết thảy các
pháp chẳng ra ngoài môn chữ A; đó chính là “nhất đạo”. “Đạo”
có nghĩa là “dựa trên pháp này thì sẽ có thể đạt tới”. “Nhất đạo” chính là đạo khiến cho hết thảy mọi người vô ngại,
cùng thoát khỏi sanh tử, tiến thẳng tới đạo tràng. Nói là “nhất” tức là đạo Như Như, là pháp giới
độc nhất, cho nên nói là Nhất. Trong một đạo ấy, phân biệt đủ thứ sai khác. Ví
như vô lượng ngõ rẽ đều dẫn tới chỗ có của báu, tuy khác lối mà cùng về một chỗ!
Lại như dùng một môn chữ A để phân biệt
hết thảy các chữ, hãy nên biết: Tuy sai biệt mà chẳng khác môn chữ A. Nay Thập
Thiện cũng thế, thuận theo trí quán thượng, trung, hạ mà tự thành đủ loại, chẳng
phải là giới nguồn cội của hết thảy chúng sanh có sai biệt! Nhưng đức Phật vì
phá nỗi nghi của đại chúng, trả lời câu hỏi của ngài Kim Cang Thủ, cũng là từ
trong một đạo mà phân biệt, giải đáp tướng sai biệt. Ý phân biệt ấy là như thế
nào? Đức Phật nói đồng nhất: Như ta đã nói phương tiện ly huệ trong Học Xứ của
Thanh Văn, dạy họ thành tựu, khai phát Biên Trí[3],
nhưng chẳng phải là bình đẳng hành Thập Thiện Nghiệp Đạo, chứ chẳng có gì khác!
Vì thế, kế đó Ngài nói: Nếu là Học Xứ của Thanh Văn Thừa, ta nói ra phương tiện
ấy, nhằm dạy họ thành tựu, khai phát Biên Trí, chẳng phải là hạnh Thập Thiện
Nghiệp Đạo bình đẳng. Đó là giải đáp chỗ khác biệt [giữa Tiểu Thừa] và Đại Thừa.
Thập Thiện của Thanh Văn chỉ nhằm dạy bảo khiến cho [hành nhân] thành tựu, giống
như các mạng lệnh ước định, sắc truyền của quốc vương: Từ nay trở đi, nếu kẻ
nào làm các chuyện như thế đó, sẽ có tội giống như thế. Bọn họ do sợ tội, sẽ
vâng theo, chẳng dám đối nghịch, chẳng dám trái vượt. Thanh Văn cũng thế. Do
giáo mạng Ba La Đề Mộc Xoa oai đức được chế định bởi đức Phật, do được đấng
pháp vương đáng tôn trọng chế định, [các đệ tử và tín chúng] chẳng dám hủy phạm.
Đó chẳng phải là phương tiện trọn đủ “tự
tánh có thể trì”. Lại chỉ là tự trì, chẳng phải là tùy thuận trọn khắp hết
thảy chúng sanh. Do vậy, chỉ là trí một bên, chẳng phải giới thuộc Trung Đạo Thật
Tướng. Đó là sự sai biệt.
[Chánh kinh nói] các ngoại đạo chấp
ngã, chẳng chấp vào cái nhân nào khác. Lại nữa, thế gian do lìa chấp trước vào
Ngã, nên bị xoay chuyển. Tức là kế đó, đức Phật nói về sự khác biệt so với ngoại
đạo. Bọn họ chấp trước Ngã hoặc Thần sanh ra hết thảy. [Họ cho rằng] nay thân
này của ta chẳng phải là ta, mà là do Đại Ngã sanh ra. Nếu sanh bởi Ngã thì thiện
ác nhân quả đều do đó mà ra, [vậy thì] thân tâm này tự vô ngã, cái quả của trì
giới sẽ vì ai mà chuyển tu? Ai tiếp nhận quả báo ấy? Hãy nên biết [vì chấp trước
như vậy], nghĩa nhân quả chẳng thành. Giống như hoa, quả không có chủng tử, và
đứa con của thạch nữ[4],
có thể dùng hoa đốm trên hư không làm tràng hoa, chẳng hề có lẽ ấy! Đối với thí
dụ về thạch nữ, hãy kiểm trong Phật Tánh Luận[5]
có trọn đủ ý nghĩa. Lại có kẻ do chấp Đoạn hay Thường mà hành pháp Thập Thiện.
Nếu là thường thì chẳng có quả báo, nay trì Thập Thiện, nương vào gì mà trụ? Nếu
là đoạn thì cũng chẳng có quả báo, cũng là nương vào gì vậy? Vì thế, tuy cùng
là một danh xưng Thập Thiện, nhưng [Thập Thiện của thế gian và ngoại đạo] như
trùng đục gỗ ngẫu nhiên thành chữ, chẳng thể so sánh được!
Kế đó, nói đến tướng sai biệt của Thập
Thiện trong Đại Thừa. Nếu là Bồ Tát giới, sẽ dùng trí phương tiện để nhiếp hết
thảy các pháp bình đẳng mà nhập, hãy nên siêng tu tập; tức là nói giới này nhập
hết thảy các pháp bình đẳng, lìa khỏi tự và tha, nhưng trọn khắp tự và tha. Tự
mở mang hết thảy tri kiến của Như Lai cũng thế, hết thảy đều bằng với ta, và do
nhập hết thảy các pháp bình đẳng mà tu giới này, bất cộng với hết thảy.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục dĩ đại từ bi nhãn quán chư chúng sanh giới,
cáo Kim Cang Thủ Bồ Tát ngôn: - Bí Mật Chủ! Bỉ chư Bồ Tát tận hình thọ trì bất
đoạt sanh mạng giới, ưng xả đao, trượng, ly sát hại ý, hộ tha thọ mạng do như kỷ
thân. Hữu dư phương tiện, ư chư chúng sanh loại trung, tùy kỳ sự nghiệp, vị giải
thoát bỉ ác nghiệp báo cố, hữu sở thi tác, phi oán hại tâm.
(經)爾時,世尊復以大慈悲眼觀諸眾生界,告金剛手菩薩言:祕密主!彼諸菩薩盡形壽持不奪生命戒,應捨刀杖、離殺害意,護他壽命猶如己身。有餘方便,於諸眾生類中隨其事業,為解脫彼惡業報故,有所施作非怨害心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại dùng mắt đại từ bi quán các chúng sanh giới, bảo
Kim Cang Thủ Bồ Tát rằng: - Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát ấy cho đến hết tuổi thọ, trì
giới chẳng đoạt sanh mạng, hãy nên bỏ đao, gậy, lìa ý giết hại, thủ hộ mạng của
kẻ khác giống hệt như thân mình. Đối với các loài chúng sanh, tùy theo sự nghiệp,
vì để giải thoát các ác nghiệp báo cho họ, hễ có thực hiện điều gì, đều chẳng
có tâm oán hại).
Kế đó, đức Phật lại muốn rộng nói giới
tướng Thập Thiện của Bồ Tát, khiến cho Chân Ngôn hạnh Bồ Tát chẳng nghi hoặc.
Do vậy, dùng mắt đại từ đại bi để quán sát chúng sanh giới rồi bảo ban Kim Cang
Thủ. Do mắt trong tiếng Phạn có hai âm (tức Netra), nay đều giữ đầy đủ. Do mắt
từ và mắt bi, mà nhắc lại cả hai tên. Trước hết, nói về tướng “bất sát”, tức là [hành nhân] cho đến
hết tuổi thọ, thậm chí bỏ hết thảy dao, gậy. Cách giết, duyên giết, cái nhân
gây nên giết, nghiệp giết v.v… Phàm những gì tương ứng với sát hại tánh mạng đều
xa lìa. Quán cái tâm oán hận bên trong hết thảy chúng sanh, đều giống như chính
mình, thậm chí đối với loài hữu hình, đều vĩnh viễn chẳng có ý gây hại, chứ
không phải chỉ là chẳng giết mới thành trì giới. Tức là nói do phương tiện huệ,
quán người ấy ắt tạo các duyên Ngũ Vô Gián, báng pháp v.v… sẽ tăng thêm trọng
chướng, chẳng do đâu mà được thoát lìa. [Bồ Tát] dùng tâm đại bi để suy tính, nếu
hại người ấy mà có thể tạo lợi ích cho nhiều người, hoặc khiến cho kẻ đó có
nhân duyên thoát lìa, [sẽ quyết định] thà chính mình vào ác đạo, nhằm thủ hộ
người ấy mà dùng đại bi tâm để gia hại [người ấy]. Đấy chính là phương tiện bất
cộng với Nhị Thừa.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát trì bất dữ thủ giới, nhược tha sở
nhiếp chư thọ dụng vật, bất khởi xúc thủ chi tâm, huống phục dư vật bất dữ nhi
thủ. Hữu dư phương tiện, kiến chư chúng sanh xan lận tích tụ, bất tu thí phước,
tùy kỳ tượng loại, hại bỉ xan cố, ly ư tự tha, vị bỉ hành thí, nhân tán thời
thí, hoạch diệu sắc đẳng. Bí Mật Chủ! Nhược Bồ Tát phát khởi tham tâm nhi xúc
thủ chi, thị Bồ Tát thoái Bồ Đề phần, việt vô vi Tỳ Nại Da pháp.
(經)復次,祕密主!菩薩持不與取戒,若他所攝諸受用物,不起觸取之心,況復餘物不與而取。有餘方便,見諸眾生慳悋積聚不修施福,隨其像類害彼慳故,離於自他為彼行施,因讚時施獲妙色等。祕密主!若菩薩發起貪心而觸取之,是菩薩退菩提分,越無為毘奈耶法。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới “chẳng cho
mà lấy”, đối với các vật thọ dụng thuộc về người khác, chẳng dấy tâm chạm vào
hay lấy, huống hồ đối với các vật khác, chẳng cho mà lấy ư? Lại có phương tiện
khác, [tức là] thấy các chúng sanh keo kiệt, cứ tom góp, chẳng tu phước bố thí,
bèn tùy theo từng loại, do phá keo tham, mà lìa khỏi [chấp trước] ta và người,
vì người đó mà hành bố thí, do đó, tán thán “bố thí đúng thời sẽ đạt được sắc
tướng mầu nhiệm” v.v… Bí Mật Chủ! Nếu Bồ Tát phát khởi cái tâm đụng chạm, hoặc
lấy [vật của người khác], Bồ Tát ấy thoái thất Bồ Đề phần, trái vượt pháp Tỳ Nại
Da vô vi).
Kế đó, đối với trộm cắp cũng thế. Đối
với hết thảy các thứ, dẫu một lá cỏ cũng chẳng lấy, đó cũng là nhân duyên để
phá trừ túng thiếu. Quán kẻ tích tụ chẳng chán, do vậy tự tổn, tạo thành nghiệp
ngăn chướng to lớn, thậm chí do phương tiện mà lấy [vật của người khác] để tu đủ
loại công đức. Sau đấy, bảo họ tùy hỷ. Các thứ phương tiện như thế do chỉ tùy
thuận hạnh hành mười giới sâu xa, dùng đại Bồ Đề tâm để dẫn dắt, [do vậy] hết
thảy chẳng phạm. Đấy là tướng trì phạm. Phần trên đã lược nói sát giới; kế đó,
nhắc lại để nói cặn kẽ: “Bí Mật Chủ! Bồ
Tát cho tới hết thọ mạng, giữ giới chẳng giết, hãy nên bỏ đao, gậy, ý sát hại,
thủ hộ mạng của người khác như mạng của chính mình”. Ngoài ra, nói đến “dị phương tiện” tức là các phương tiện
khác. Tùy theo các loại chúng sanh, tùy theo sự nghiệp mà khích lệ họ. Vì thế
nói “tùy bỉ nghiệp nhi tác chi”
(thuận theo nghiệp của họ mà làm). Ân cần tu tập, khiến cho họ tránh khỏi báo ứng,
lìa ý oán hại. “Hình loại”
nghĩa là “nhiều thứ”, như những
kẻ tạo chuyện cực ác, tạo nghiệp cực nặng, vì muốn khiến cho họ tránh khỏi [gây
tạo những nghiệp đó], giả sử dùng đao, trượng v.v.. [để ngăn chặn họ, Bồ Tát vẫn]
chẳng phạm lỗi! Giới Thanh Văn cũng dùng chuyện chấp nhận tội nhỏ để trừ tội lớn,
dùng nhẹ đổi nặng. Vì vậy, nay [Bồ Tát giới] cũng thế, như cứu người nữ [bị
chìm] trong nước[6]
v.v… mà suy ra. Bồ Tát giới chuẩn theo đó mà biết. Trọn hết tuổi thọ, giữ giới “không giết hại mạng sống”. Hãy nên bỏ
đao, trượng, sát hại. Thủ hộ sanh mạng của người khác giống như [thủ hộ sanh mạng]
của chính mình. Hãy nên lìa ý oán ác, đấy là giới tướng bậc nhất.
“Tận
hình” nghĩa là chẳng phải [trì giới] trong một giai đoạn mà thôi! Bồ Tát
từ sơ phát tâm cho đến khi thành Bồ Đề, đối với hết thảy các loài có mạng sống,
đều chẳng sanh một tâm niệm sát hại, huống hồ khởi thân, miệng [để thực hiện
hành vi sát hại] ư? Đối với tất cả các vật dụng để tùy duyên sát hại, như trong
giới sát đã nói cặn kẽ các tướng, cũng chẳng cất chứa, dẫu chỉ trong một niệm,
huống hồ thực hiện phương tiện giết chóc ư? Tâm não hại đại lược có chín loại,
tức là ghen ghét thân ta, và ghét bạn lành của ta, thích kẻ oán của ta, [ba điều
ấy ghép tương ứng với] quá khứ, vị lai, hiện tại, tạo thành chín điều. Lại có một
loại, [tức là] đối với thứ chẳng phải là hữu tình mà sanh sân. Như trong thời
Phật Ca Diếp, có một tỳ-kheo đi kinh hành, vấp phải gốc cây cụt mà ngã, hết sức
giận dữ, vác cuốc đào nó lên, bị cạnh sắc gây bị thương đến nỗi chết mất, liền
trong khoảnh khắc, thọ thân làm rắn độc. Khi đó, các đệ tử, đồng học vừa mới
thiêu thân ông ta. Thân sau [của ông ta] là rắn độc, gặp Phật ở chỗ thiêu xác,
do sanh tâm ác, toan hại Phật. Lúc đó, đức Phật răn nhắc ông ta: “Ông trong đời trước do phẫn hận đối với thứ
chẳng phải hữu tình mà đến nỗi tự thọ báo này. Nay lại quá đáng hơn nữa, sẽ lại
thọ thân ác”. Chẳng lâu sau, có các trẻ nhỏ, do thấy rắn hại người, liền
cùng nhau giết chết, đem đốt xác. Ông ta lại do thấy bị hại mà phẫn nộ, và do
nhân duyên muốn làm hại, liền vào trong đại địa ngục. Tức là trong lúc thân cũ
chưa thiêu xong, hai thân thọ báo sau đó đồng thời bị thiêu đốt. Hãy nên biết đấy
chính là do đối với chẳng phải hữu tình mà sanh sân, phải thọ lấy quả báo ấy.
Lại như trong Luật có chép chuyện một
vị tỳ-kheo đi kinh hành, bị gai cây Y Lan đâm vào trán chảy máu, tức giận nói:
“Vì sao đức Phật chế giới này, có nghĩa lợi gì đâu?” Do nẩy sanh dị kiến, vì
duyên ấy, sanh làm thân mãng xà hết sức khổ sở. Năm trăm thương nhân vì thủ hộ
ông ra, dùng lòng đại từ bi hại rắn, khiến cho rắn thoát tội, sanh lên trời,
các thương nhân thảy đều chẳng mắc tội. Sự phán định như thế như trong đại luật
của Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ) đã nói. Đối với thứ chẳng phải hữu tình còn như
thế, huống hồ là hữu tình ư? Bồ Tát do quán chuyện này, tự chẳng sanh tâm, mà
cũng khuyên người khác lìa bỏ. Những điều khác như trong phần trước đã nói. Cái
duyên ngọn thương vàng[7]
như đã nói rộng. Lại như nhân duyên sư tử do cứu người lái buôn mà hại rắn được
nói trong các kinh Bảo Tạng, kinh Đại Phương Tiện v.v…
Lại nữa, Bồ Tát trì giới “chẳng cho mà lấy”, đối với vật thuộc
về người khác còn chẳng dấy tâm muốn lấy, huống hồ đối với vật khác chẳng cho
mà lấy ư? Nhưng có các hữu tình khác keo kiệt, chẳng bố thí, chẳng làm phước,
[tức là] chúng sanh bị keo tham làm hại, đã xa lìa bố thí. [Đối với các hữu
tình như thế], bèn có các phương tiện khác (tuy chẳng nói phương tiện, nhưng có
ý nghĩa ấy), do thấy các hữu tình tột bậc keo kiệt, cứ tích tụ mà chẳng bố thí,
chẳng tạo phước, bèn tùy theo loại chúng sanh, nhằm phá trừ lòng keo tham của họ,
tâm lìa khỏi quan niệm chấp trước mình lẫn người, vì họ mà hành bố thí, [khi bố
thí lại tán thán do công đức của sự bố thí mà] đạt được diệu sắc v.v.. (tức là
khuyên lơn, [dùng công đức của sự bố thí] để phát khởi người ấy hãy bố thí).
“Nhược thời Bồ Tát khởi tham
tâm nhi thủ chi, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hữu thoái Bồ Đề phần, ư vô vi pháp Tỳ Ni hữu
quá dã” (Nếu lúc Bồ Tát phát khởi
tâm tham mà lấy, này Bí Mật Chủ! Bồ Tát sẽ thoái thất Bồ Đề phần, phạm lỗi đối
với pháp Tỳ Ni vô vi): Bồ Tát phát khởi tâm tham mà lấy, tức là [phạm] giới thứ
hai (giới “chẳng cho mà lấy”).
Đối với hết thảy các vật thuộc về người khác, ý nghĩa [phạm giới] như trong Tỳ
Ni đã rộng nói. Cho đến chẳng sanh một niệm tâm chạm vào hay lấy, thậm chí đối
với Bồ Đề còn chẳng sanh tâm ham muốn, huống hồ tạo phương tiện để đụng chạm
hay giữ lấy [vật dụng của người khác] ư? Nhưng Bồ Tát có phương tiện đụng chạm
hay lấy [vật thuộc về người khác], tức là thấy có chúng sanh chẳng tin nhân quả,
chẳng chịu xả thí, đối với tất cả mọi vật đều khăng khăng giữ chặt, chẳng thể tự
lìa, lại còn sanh tâm như thế này: “Chỗ nào mà có phước bố thí chớ!” Do vì như
vậy, [Bồ Tát dùng] đủ loại phương tiện để hướng dẫn, khuyến hóa [kẻ ấy hành bố thí],
mà đều chẳng thể được. Lúc đó, Bồ Tát dùng phương tiện, lấy trộm các vật ấy,
cũng chẳng sanh tâm gom [các thứ ấy] về mình, chỉ vì kẻ đó mà [dùng những món vật
ấy để] làm đủ loại phước sự, dùng phương tiện để chèo kéo, khiến cho kẻ đó
trông thấy, khiến cho kẻ đó phát tâm hy hữu: “Vị đại sĩ này chẳng tiếc nuối các món vật, có thể đem cho người khác.
Ta tự xét mình chẳng sánh bằng!” Dần dần như thế, Bồ Tát lại phương tiện
nói lợi ích do bố thí cho chúng sanh, có quả báo như thế này, như thế nọ. Kẻ đó
dần dần có thể tin phục, cũng đối với vật mà chính mình chẳng thể xả [mà khởi
tâm bố thí]. Sau đó, Bồ Tát xét thấy tâm kẻ đó đã dần dần thông thái, bèn
đúng như pháp, bảo rằng: “Vật trước kia ta dùng để bố thí chính là vật của ông!
Do ông chẳng thể tự dùng, giống như thâu hoạch ngũ cốc mà chẳng gieo trồng nữa,
ắt sẽ dẫn đến túng thiếu. Phước trước đã hết, lại chẳng có gì để trông mong, cho
nên ta vì ông mà sử dụng. Nay phước do bố thí trước kia đều là của ông. Như cổ
Phật đã nói: ‘Hễ thí, sẽ đạt được các
thứ lợi ích to lớn như sắc, lực mầu nhiệm, an ổn, vô ngại biện tài v.v…’
Chớ bảo là vô phước!” Do nhân duyên ấy, khiến cho người đó thoát khỏi nạn ngạ
quỷ, ác đạo, tạo thành cái nhân Bồ Đề.
Hãy nên biết: Bồ Tát do trọn đủ huệ
phương tiện, có thể làm chuyện ấy, chứ Nhị Thừa và ngoại đạo chẳng có! “Tùy loại” là có một loại chúng sanh
như thế, hãy nên dùng cách ấy để giáo hóa. Lại còn tùy theo từng loại, không chỉ
là phương tiện ấy, mà cũng có phương tiện vô ngại hay khéo. Nói tóm lại, do có
thể khai tri kiến của Phật cho họ mà có sự hướng dẫn, chứ chẳng vì chuyện gì
khác. Tướng này rất nhiều, chẳng thể nói trọn! Hãy nên dựa theo trường hợp này
để suy ra, nêu lên một trường hợp để đại diện cho nhiều trường hợp; [từ đó], sẽ
có thể suy ra các trường hợp tương tự.
“Bồ
Tát hại kỳ xan” (Bồ Tát hại lòng keo tham của kẻ ấy): “Hại” có nghĩa là “đối trị”, như nói “vĩnh hại tùy miên” (vĩnh viễn trừ khử
tùy miên)[8].
Nay cũng giống như thế, “hại”
lòng keo kiệt của kẻ đó. Nhưng vị Bồ Tát ấy thật sự chẳng sanh tâm tham vật, tự
lấy. Nếu lấy, tức là gây hại cho chi phần Bồ Đề. Do tâm tham ấy, gây hại cho
cái duyên thành Chánh Giác, khiến cho các chi phần chẳng trọn đủ. Vì thế nói là
“hại”. Đó là “vượt Tỳ Nại Da của Bồ Tát” vậy! Tỳ-kheo
Thảo Kết[9]
nói: “Giới do đức Phật chế, ta chẳng
dám tháo lỏng”. Hữu vi giới là phương tiện tu hành, nên nói là “hữu vi giới”, nhưng vô vi giới chính
là bản tánh giới, chẳng phải do tu thành! Do đối ứng với phương tiện có tạo tác
ấy, nên gọi là hữu vi, nhưng quán sâu xa thì sẽ giống như vô vi giới, do chẳng
lìa môn chữ A.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát trì bất tà dâm giới, nhược tha sở
nhiếp, tự thê, tự chủng tộc tiêu tướng sở hộ, bất phát tham tâm, huống phục phi
đạo nhị thân giao hội, hữu dư phương tiện, tùy sở ưng độ, nhiếp hộ chúng sanh.
(經)復次,祕密主!菩薩持不邪婬戒,若他所攝,自妻、自種族標相所護,不發貪心,況復非道二身交會。有餘方便,隨所應度攝護眾生。
(Kinh:
Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng tà dâm, nếu là người thuộc sở hữu của
người khác, vợ của chính mình, người được thủ hộ bởi chủng tộc của chính mình,
hay có dấu hiệu thủ hộ, bèn chẳng khởi tâm tham, huống hồ lại còn đôi bên ăn nằm
trái đạo! Nhưng cũng có các phương tiện khác, do thuận theo lẽ đáng độ mà nhiếp
thọ, thủ hộ chúng sanh).
Kế đó, giới “bất tịnh hạnh”, tức là Bồ Tát trì giới “chẳng tà hạnh” (trong ấy có phạm tội trọng, đều là có ý nghĩa “giữ gìn chẳng phạm”. Do chẳng khác,
nên chẳng chú thích). Đối với kẻ thuộc về người khác, người được chủng tộc của
chính mình thủ hộ, hoặc đặt dấu hiệu thủ hộ (tức là như ni chúng chính là những
người được chủng tộc của chính mình thủ hộ), chẳng sanh lòng tự tham (đó là nói
chuyện trong tâm), huống hồ hai thân hòa hợp (ăn nằm) trái đạo ư? Có phương tiện
lạ thuộc về chuyện hình sắc, chủng loại, chuẩn theo cách nói trong phần trên [đối
với các giới kia], cũng như cách đối đãi với các loại sắc tướng khác như nhị
hình (người có hai căn). Đây là giới thứ ba.
[Giải thích cặn kẽ thì] “tha sở nhiếp” (thuộc về người khác)
tức là như tất cả vợ, con gái, chị em gái của người khác, như mười loại thủ hộ[10]
được nói trong Luật v.v… Nhưng Bồ Tát có hai thứ: Nếu là người xuất gia, hết thảy
dục tâm còn chẳng được sanh khởi, còn bàn gì đến [các trường hợp] được người
khác thủ hộ và phi thời[11]
v.v… Nhưng cũng vì để hiểu rõ giới tướng, nên luật nói cặn kẽ. Nếu là tại gia Bồ
Tát, đối với vợ của chính mình mà [ăn nằm] phi thời, liền gọi là “tà hạnh”, trong phần Thi La Ba La Mật
của Trí Độ Luận đã nói cặn kẽ.
Lại nữa, “phi thời, phi xứ” (chẳng đúng lúc, chẳng đúng chỗ) là như [hành
dâm ở] gần tháp, hoặc chỗ của bậc đáng tôn trọng, ở chỗ lộ
rõ thì đều là [“phi xứ”]. Do ở
chỗ sáng rõ chính là đối trước thiên thần v.v… Do vậy, cũng ngăn cấm. “Tự chủng tộc” tức là cùng họ thì chẳng
lấy nhau v.v… Lại nữa, Tộc (族,
Zú) đọc như âm Sở (楚,
Chǔ), cũng có nghĩa là “tiêu xí”
(標幟, biểu tượng, tượng
trưng, cờ quạt). Như trong pháp của phương Tây (Ấn Độ), nếu người nữ buôn bán nữ
sắc, do được quan chức chấp thuận, có người cho kẻ đó ngần ấy vật dụng, [ước hẹn]
chừng bao lâu đó, cô ta sẽ thuộc về người đó. Khi cô ta đã có người
[đặt mua rồi], liền đặt biển hiệu nơi cửa nhà cho người khác biết. Người khác
trông thấy, liền biết cô ta đã có người che chở. Nếu cố ý xâm phạm, sẽ giống
như tà hạnh. [Trường hợp này được chánh kinh gọi là “tiêu tướng”]. “Tự chẳng
phát lòng tham” nghĩa là chẳng nên tương ứng với ý niệm tham nhiễm, huống
hồ hành dâm trái đạo, khác hẳn chuyện hòa hợp chánh đáng [giữa vợ chồng] ư?
Nhưng có phương tiện lạ nhằm thành tựu
cái nhân Đại Bồ Đề cho người khác, bèn có ý nghĩa “phạm giới”, chẳng giống với Thanh Văn. Như Đại Bổn Bồ Tát Giới
nói có Bồ Tát từ lúc sanh ra đã hành hạnh Đồng Chân, chưa từng trông thấy nữ sắc
mà sanh tâm chấp trước, tu đạo trong núi rừng. Mười tám năm sau, do Ngài vào
thôn khất thực, có đứa bé gái trông thấy vị ấy đoan nghiêm, đẹp đẽ, sanh dục
tâm, bảo rằng: “Tôi sanh lòng ham muốn sâu đậm đối với nhân giả. Nhân giả hành
diệu hạnh chính vì lợi ích hết thảy. Nếu tôi chẳng được thỏa nguyện, sợ rằng sẽ
đến nỗi mất mạng, tức là trái bổn nguyện của nhân giả, làm hại chúng sanh vậy”.
Vị Bồ Tát ấy quở trách đủ mọi lỗi hại của dục, cô ta trọn chẳng bỏ [ý niệm ấy].
Do chẳng được thỏa nguyện, cô ta bèn chết ngất. Khi đó, thân thuộc của cô ta
nghĩ rằng: “Gã này ắt là Dạ Xoa, tướng mạo khác người, con gái ta trông thấy liền
ngã lăn ra đất, chẳng phải là hắn đoạt mất tinh khí của nó ư?” Họ cùng cầm đao,
gậy bắt trói, sắp làm hại [vị Bồ Tát tỳ-kheo ấy]. Cô gái chốc lát tỉnh lại, thấy
vậy, thưa với cha mẹ trọn đủ nhân duyên. Họ nói: “Là lỗi của con gái, chẳng phải
là tội của tỳ-kheo”. Họ liền thả tỳ-kheo đi. Cô gái lại truy đuổi không ngừng.
Tỳ-kheo nghĩ rằng: “Nếu cô ta không được thỏa mong cầu, ắt sẽ tự táng mạng mà đọa
ác đạo”. Liền thuận theo ý nguyện của cô ta, dành nhiều thời gian hòa hợp. Tìm
lúc cô ta ít ham muốn, bèn dùng pháp để khuyên lơn, dẫn dắt, thuyết pháp nhằm tạo
lợi ích cho cô gái đó. Do yêu kính [tỳ-kheo] sâu xa, [cô ta] liền vâng mạng,
cùng tu phạm hạnh, thành tựu pháp lợi to lớn.
Vị Bồ Tát ấy chỉ vì phương tiện đại
bi, có thể nhẫn nại sự hèn kém ấy, chẳng phải do tham dục lôi kéo mà làm hạnh
phi pháp. Nếu chẳng do đại bi, chỉ dùng tâm dục tà hạnh để làm, sẽ chính là phạm
giới này. [Bồ Tát có thể hành phương tiện như thế] tức là do trọn đủ phương tiện
trí. “Tùy loại” tức là nói tới
nghĩa trước, giống như giới trộm cắp, cho nên chẳng nói rộng, cứ phỏng theo đó
mà biết. Như kinh nói: “Quần tặc tróc
đắc Khẩn Na La nữ thí Bồ Tát, thọ chi, nhân thử đắc tài, vô lượng thời hành
thí” (Lũ giặc bắt được Khẩn Na La nữ, thí cho Bồ Tát, [Bồ Tát] nhận lấy.
Do vậy, được tài vật, trong vô lượng thời hành bố thí). Lại như Mỹ Phát Bồ Tát
(Bồ Tát tóc đẹp) khất thực, nữ nhân trông thấy ngất xỉu, vì bảo vệ người nữ đó
(trong trường hợp trước là do cái nhân bị nghi là Dược Xoa, còn ở đây là do
nghĩ tới Bồ Đề tâm, chẳng xả chúng sanh), sợ [cô ta] lìa Bồ Đề tâm, bèn nhận cô
ta làm vợ. Lâu sau, khuyên dạy [cô ta] cùng phát đạo tâm, quyến thuộc cũng phát
tâm sanh lên trời (đó là hạnh phương tiện thiện xảo để diệt tội).
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tận hình thọ trì bất vọng ngữ giới,
thiết vị hoạt mạng nhân duyên, bất ưng vọng ngữ, tức vị khi cuống chư Phật Bồ Đề.
Bí Mật Chủ! Thị danh Bồ Tát trụ ư tối thượng Đại Thừa. Nhược vọng ngữ giả, việt
thất Phật Bồ Đề pháp. Thị cố, Bí Mật Chủ! Ư thử pháp môn, ưng như thị tri, xả
ly bất chân thật ngữ.
(經)復次,祕密主!菩薩盡形壽持不妄語戒 ,設為活
命因緣,不應妄語,即為欺誑諸佛菩提。祕密主!是名菩薩住於最上大乘。若妄語者,越失佛菩提法。是故祕密主!於此法門應如是知,捨離不真實語。
(Kinh:
Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát trọn hết tuổi thọ giữ giới “chẳng nói dối”, dẫu vì
nhân duyên để sống sót, chớ nên nói dối. [Vì nói dối] chính là lừa dối Bồ Đề của
chư Phật. Bí Mật Chủ! Đó gọi là Bồ Tát trụ trong Đại Thừa tối thượng. Nếu nói dối
sẽ là trái vượt, đánh mất pháp Bồ Đề của Phật. Vì thế, Bí Mật Chủ! Trong pháp
môn này, hãy nên biết như thế, bỏ lìa lời chẳng chân thật).
Kế đó, trì giới “chẳng nói dối”. Cho đến hết tuổi thọ,
chẳng vì giữ mạng mà nói dối. Trì giới “chẳng
nói dối” hãy nên là giữ cho đến hết tuổi thọ. Dẫu vì để sống sót, vẫn chớ
nên nói dối, [vì nói dối] sẽ trở thành lừa dối Phật Bồ Đề. Bí Mật Chủ! Đó gọi
là Bồ Tát trụ trong Đại Thừa tối thượng. Nếu nói dối, tức là trái vượt Bồ Đề của
Phật. Do vậy, Bí Mật Chủ! Hãy nên biết pháp môn này như thế. Xả nghiệp vọng ngữ,
chớ nên làm! [Vì nếu nói dối], sẽ là lừa dối Bồ Đề của chư Phật. Bí Mật Chủ! Đại
Thừa tối thượng của Bồ Tát, nếu nói dối, sẽ là vượt khỏi, đánh mất Bồ Đề của Phật.
Này Bí Mật Chủ! Hãy nên biết pháp môn như thế, chớ bỏ lời thật! Đó là giới thứ
tư.
“Hoạt
mạng nhân” (Cái nhân để sống
còn) chính là các sự như danh lợi v.v… Hoặc do các điều khác như thức ăn, y phục,
tù tội, khổ ách v.v… như thế đó. [Trong các trường hợp đó], nếu nói dối, sẽ giữ
được thân mạng. Chẳng nói dối, có thể là thân hình chẳng tồn tại được! Vì thế gọi
là “hoạt mạng duyên” (cái duyên
để sống sót). Bồ Tát có nhân duyên như thế, lúc đó, còn chẳng sanh một niệm muốn
dối gạt người khác, huống hồ khởi phương tiện ư? Nhưng nói đại lược, có tám lời
nói chẳng phải thánh ngữ, và tám lời nói hiền thánh. Tức là: Chẳng thấy nói thấy,
chẳng “nghe, chạm, biết” mà nói là “nghe, chạm, biết”, thấy mà nói là chẳng thấy,
và “nghe, chạm, biết” mà nói không nghe, không chạm, không biết. Đó là tám lời
nói chẳng phải thánh ngữ. Tương phản với các điều này, được gọi là tám lời hiền
thánh, tức là “thấy bèn nói thấy”, ba điều kia cũng thế, như đã nói trong năm
phần của giới “đại vọng ngữ”
thuộc Tỳ Ni. Nếu Bồ Tát phạm như thế tức là báng Bồ Đề của Phật. Vì sao vậy? Bồ
Đề có nghĩa là “một mực chân thật”,
mà nay lại tạo cái nhân nói dối ấy, hoàn toàn trái nghịch với Bồ Đề. Vì thế gọi
là “phá Bồ Đề”.
Lại nữa, Như Lai trong vô lượng kiếp
tu chân thành, lời Ngài nói ra, ai nấy đều tin nhận. Thậm chí Ngài nói pháp chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng phải là tâm lượng sở hành của họ, khó tin, khó hiểu, nhưng
do Phật vô lượng kiếp thành thật, người khác vẫn tin tưởng. Nay nếu Bồ Tát lừa
dối chúng sanh, tức là sanh khởi nhân duyên lừa gạt pháp cho họ, cũng là phá Bồ
Đề. Vì thế, Bồ Tát trụ trong hạnh chân ngôn tối thượng Đại Thừa địa này, chẳng
được sanh một niệm tâm lừa gạt người khác, và các thứ duyên [dối gạt] như trong
Luật đã nói cặn kẽ. Nếu vi phạm, tức là trái vượt Phật, Bồ Tát.
Ở đây, cũng phải nên có phương tiện ngữ
theo từng loài, nhưng kinh văn chẳng nói là vì lược đi. Như trong Bồ Tát Giới Đại
Bổn có nói: Có một nữ nhân giết hại cha mẹ. Đã tạo nghiệp vô gián ấy, tự nghĩ:
“Ta do ác nghiệp này, chắc chắn đọa vào địa ngục Vô Gián. Điều cực ác đã thành,
còn có thiện pháp nào tới gần ta nữa ư?” Do nhân duyên ấy, cô ta chẳng sửa lỗi
tu thiện, cứ lặng lẽ khoanh tay đợi tội. Bồ Tát dùng đủ mọi cách khuyên lơn để
bà ta sám hối, tu thiện; thậm chí bảo rằng: “Trong pháp Đại Thừa có phương tiện
có thể diệt tội ấy”. Bà ta trọn chẳng tin nhận. Bồ Tát sanh tâm đại bi, lại hóa
thành một người đàn bà tới nương nhờ chỗ bà ta; do vậy, tự nói: “Tôi cũng tạo
nghiệp như thế”. Bà kia tự nghĩ: “Cũng có kẻ khác làm chuyện này ư? Ta nay có bạn,
có thể cùng ở với nhau”. Thời gian lâu sau, hóa nhân ấy dần dần dùng phương tiện,
muốn cùng nhau hối cải, làm lành. Bà ta chẳng nghe theo lời người ấy nói, bảo:
“Bà cứ muốn làm thì cứ làm đi, tôi tự nghĩ rốt cuộc vô ích”. Hóa nhân liền ở
chung với bà ta, thị hiện làm thiện sự, dần dần đạt được pháp lợi, trọn đủ đại
thần thông cho bà ta thấy, bảo rằng: “Tôi nay làm việc thiện, tội trước đã diệt,
nay đắc pháp này. Nếu pháp chẳng diệt tội, do đâu mà có thể đạt được chuyện như
thế?” Bà ta sanh tâm hy hữu, nói: “Bà ta và mình cùng phạm tội. Bà ta còn có thể
trừ tội, sao ta không làm?” Do vậy, cùng hành theo. Bồ Tát dùng huệ phương tiện
của Bồ Tát, có thể trì giới như thế, bất cộng với Nhị Thừa và người đời!
Kinh Tăng Già Trá[12]
lại nói: Có một thầy thuốc. Vợ ông ta diễm lệ, xinh xắn, [nên ông ta] yêu
thương rất sâu đậm. Về sau, bà ta qua đời, ông ta chẳng buông được, luôn cõng
xác mà đi. Thậm chí xác đã khô mục mà chẳng chịu vứt bỏ. Bồ Tát giáo hóa không
được; do vậy, hóa thành một phụ nữ, cũng cõng xác chồng, bảo: “Ta yêu mến người
này, nhưng chàng đã chết, chẳng nỡ lòng bỏ, cho nên luôn cõng theo”. Thầy thuốc
bèn nghĩ: “Đây chính là đồng bạn của ta, đồng sự với ta”. Vì thế, ở chung. Về
sau, Bồ Tát tìm lúc thuận tiện, vứt cả hai cái xác xuống nước sông Hằng. Người
đàn bà đó và ông ta cùng tìm xác, bỗng đều chẳng tìm thấy, liền than oán rằng:
“Chúng ta cõng xác họ cho tới khi xác khô mục. Nay họ thấy bạn khác, liền kết
ái với nhau, vứt bỏ chúng ta. Do vậy biết tình cảm chẳng thể giữ mãi. Quỷ còn
như thế, huống là kẻ còn sống ư!” Người đó (ông thầy thuốc) thấy chuyện này,
tâm luyến ái nhanh chóng dứt hẳn, liền phát tâm chán dục, tu đạo. Bồ Tát do có
phương tiện huệ ấy bèn dối gạt kẻ cuồng, chẳng phải là do ác tâm mà làm!
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ trì bất thô ác mạ giới, ưng
đương dĩ nhu nhuyễn tâm ngữ, tùy loại ngôn từ, nhiếp thọ chư chúng sanh đẳng.
Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Bồ Đề Tát Đỏa sơ hạnh, lợi lạc chúng sanh, hoặc dư Bồ Tát
kiến trụ ác thú nhân giả, vi chiết phục chi, nhi hiện thô ngữ.
(經)復次,祕密主!菩薩受持不麁惡罵戒,應當以柔軟心語、隨類言辭攝受諸眾生等。何以故?祕密主!菩提薩埵初行,利樂眾生。或餘菩薩見住惡趣因者,為折伏之而現麁語。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ trì giới chẳng chửi mắng thô ác. Hãy nên dùng lời
thốt từ tấm lòng mềm mỏng, tùy theo ngôn từ của từng loại để nhiếp thọ các
chúng sanh. Vì sao vậy? Bí Mật Chủ! Sơ hạnh của Bồ Đề Tát Đỏa là lợi lạc chúng
sanh, hoặc các Bồ Tát khác do thấy chúng sanh trụ trong cái nhân dẫn đến đường
ác, vì chiết phục họ mà hiện lời thô ác).
Kế đó là giới về lời thô ác. Bồ Tát
tâm mềm mỏng, tinh tế, tin nhận, nhiếp thọ chúng sanh. “Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát do trì giới
chẳng mắng chửi thô ác, hãy nên dùng cái tâm nhu nhuyễn để nhiếp thọ các chúng
sanh. Tùy theo ngôn ngữ của từng loại (đây là cách nói để liên tưởng các ý
nghĩa trong phần trước, tức là lời tùy thuận). Bí Mật Chủ! Sơ hạnh của Bồ Tát
chính là tạo nghĩa lợi cho chúng sanh (hạnh này đứng đầu)”. Hoặc các Bồ Tát
khác trụ trong đường ác, do chúng sanh mà nói lời thô ác tùy theo ngôn ngữ của
từng loài [để chiết phục họ lìa ác]. Vì lẽ nào vậy? Đấy là sơ hạnh của Bồ Tát.
Vì chúng sanh, Bồ Tát có thể ở trong đường ác, vì chúng sanh mà nói lời thô ác.
Đây là giới thứ năm. “Thô” là lời
nói thốt ra có thể khiến cho kẻ khác trái ý, khiến cho họ sanh tâm bất thiện,
hoặc nói năng rổn rảng, thường nói là thô tháp, hung hăng; đó đều là như các tướng
được nói trong Tỳ Ni. Bồ Tát thường nên nhu hòa, thiện thuận, chẳng bộp chộp,
hung hăng, tuyên nói điều gì cũng đều đẹp lòng người đối diện. Do nhân duyên ấy,
có thể dần dần nhiếp thọ họ, khiến cho họ nhập Phật đạo. Nhưng nay kẻ [nói lời
thô ác] gây ra cái nhân trái nghịch, phiền não, tức là trái nghịch phương tiện
Tứ Nhiếp, cho nên phạm tội.
Nhưng cũng có phương tiện mà nói lời
thô ác. Như Bồ Tát Giới Đại Bổn có nói: Có một người thường nói lời thô ác đã
thành thói quen, hết thảy mọi người đều chẳng thể uốn nắn hắn được. Bồ Tát liền
hóa thành một người làm chuyện hung hiểm, táo bạo, độc ác hơn gã đó vô lượng lần!
Gã đó thấy vậy, hoan hỷ: “Người này cái nết còn vượt xa ta, ta phải tự nói là
không thể sánh bằng được. Chuyện người ấy làm đáng làm thầy của ta”. Do vậy, thỉnh
rằng: “Xin làm đệ tử của ông”. Đồng sự đã lâu, Bồ Tát dần dần thị hiện chán
lìa, hơi ca ngợi hạnh nhu thuận, quở trách chuyện thô bạo. Sau đó, tự sửa đổi,
khuyên hắn ta sửa đổi, nhưng hắn vẫn chẳng nghe theo. Về sau, Bồ Tát thị hiện:
Do bỏ ác hạnh, tự tu đạo đôi chút, liền đạt được pháp lợi to lớn, thị hiện thần
thông. Gã đó phát tâm hy hữu: “Người này hành vi trước kia vượt xa ta, còn có
thể tự sửa đổi để đạt được pháp này. Sao ta chẳng làm?” Lại tôn người ấy làm thầy
để nhập pháp lợi. Tức là Bồ Tát do huệ phương tiện mà thị hiện thô ác vậy.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ trì bất lưỡng thiệt ngữ giới,
ly gián khích ngữ, ly não hại ngữ. Phạm giả, phi danh Bồ Tát. Bất ư chúng sanh
khởi ly xích chi tâm. Hữu dị phương tiện, nhược bỉ chúng sanh tùy sở kiến xứ
sanh trước, như kỳ tượng loại, thuyết ly gián ngôn ngữ, linh trụ ư nhất đạo, sở
vị Nhất Thiết Trí trí đạo.
(經)復次,祕密主!菩薩受持不兩舌語戒,離間隙語、離惱害語,犯者非名菩薩。不於眾生起離坼之心,有異方便,若彼眾生隨所見處生著,如其像類說離間言語令住於一道,所謂一切智智道。
(Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ trì giới chẳng
nói lời đôi chiều, lìa lời ly gián, khích bác, lìa lời não hại. Kẻ phạm [lỗi
này], sẽ chẳng gọi là Bồ Tát. Chẳng đối với chúng sanh mà khởi tâm chia rẽ.
Nhưng có phương tiện lạ, nếu chúng sanh nẩy sanh chấp trước đối với chỗ thấy,
[Bồ Tát] sẽ [thị hiện] giống như họ mà nói lời ly gián, khiến cho họ trụ trong
nhất đạo, tức là đạo trí Nhất Thiết Trí).
Kế đó, không nói đôi chiều. Lại này,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên giữ “giới
không nói đôi chiều”, lìa lời ly gián, lìa lời não hại. Nếu phạm phải, sẽ
chẳng gọi là Bồ Tát. Bồ Tát chẳng sanh tâm ly gián chúng sanh. Hoặc có phương
tiện lạ khác, [tức là] thấy có chúng sanh thuận theo chỗ thấy mà sanh chấp trước,
sẽ thuận theo chủng loại của họ mà nói lời ly gián, khiến cho người ấy trụ
trong nhất đạo. Đó gọi là “trụ trong đạo
Nhất Thiết Trí”. Bồ Tát chẳng nói lời ly gián, chẳng nói lời não loạn; hễ
phạm, sẽ chẳng phải là hạnh Bồ Tát. Đối với các chúng sanh, chẳng sanh tâm chia
rẽ. Nếu hữu tình thuận theo chỗ thấy mà nẩy sanh chấp trước Chúng Sanh Kiến, Bồ
Tát sẽ tùy theo từng loài mà thốt lời ly gián, khiến cho chúng sanh trụ trong một
đạo, tức là trụ trong đạo Nhất Thiết Trí. Đây là giới thứ sáu. Tướng “nói đôi chiều” như trong Tỳ Ni đã
nói cặn kẽ, cho tới nhân duyên làm chó rừng, sư tử v.v… Nhưng Bồ Tát thường tu
hạnh chẳng não hại, tùy theo từng loại thượng, trung hạ, đều khiến cho họ hoan
hỷ, hòa hợp, chẳng tạo nhân duyên khác lạ cho họ.
Nhưng do thấy chúng sanh có đủ loại dị
kiến, ai nấy đều chấp chặt điều họ tôn sùng, chẳng thể tự thoát, do nhân duyên
này mà chịu khổ to lớn. Lúc bấy giờ, Bồ Tát vì dẫn dắt, khiến cho họ bỏ ác tri
thức, mà thốt lời ly gián. Như quá khứ có vị thầy ngoại đạo, suất lãnh đồ chúng
cả ngàn người, nói pháp tà đạo. Bồ Tát quán người ấy có nhân duyên kham hóa độ,
bèn gia nhập pháp của người ấy để làm đệ tử. Học pháp chẳng lâu đã thấu đạt chỗ
uyên áo, huệ ngộ tuyệt luân. Vị thầy ấy tán thán “kẻ này đã hoàn toàn truyền
pháp của ta”, bèn chia năm trăm đồ chúng cho vị ấy suất lãnh. Khi đó, Bồ Tát dần
dần dùng phương tiện, dựa theo kiến giải của họ mà hóa độ đôi chút. Lâu sau, do
biết họ đã sanh lòng tin phục sâu đậm, bèn dần dần dạy pháp sâu. Khi đó, năm
trăm đệ tử tâm kiến giải dần dần chánh đáng, thành tựu huệ tánh. Bấy giờ, thầy
nghe [trò truyền dạy] pháp khác lạ, đến xem xét, nghe giảng. Nhân đó, Bồ Tát
khai thị đủ mọi cách, thầy cũng giải ngộ. Ngay lập tức, năm trăm người cũng tôn
Bồ Tát làm thầy, tiếp nhận tân pháp. Do vậy, một ngàn người đều nhập chánh
pháp. Các [phương tiện] giống như thế chính là phương tiện để phá sự hòa hợp của
họ. Bồ Tát hạnh rất rộng, chẳng thể nói trọn. Nêu ra một trường hợp để suy ra
nhiều trường hợp tùy theo từng loại.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát trì bất ỷ ngữ giới, dĩ tùy loại
ngôn từ, thời phương hòa hợp, xuất sanh nghĩa lợi, linh nhất thiết chúng sanh
phát hoan hỷ tâm, tịnh nhĩ căn đạo. Hà dĩ cố? Bồ Tát hữu sai biệt ngữ cố, hoặc
dư Bồ Tát dĩ hý tiếu vi tiên, phát khởi chúng sanh dục lạc, linh trụ Phật pháp,
tuy cụ xuất vô nghĩa lợi ngữ, như thị Bồ Tát bất trước sanh tử lưu chuyển.
(經)復次,祕密主!菩薩持不綺語戒,以隨類言辭時方和合出生義利,令一切眾生發歡喜心、淨耳根道。何以故?菩薩有差別語故。或餘菩薩以戲笑為先,發起眾生欲樂,令住佛法。雖具出無義利語,如是菩薩不著生死流 轉。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới “chẳng nói thêu dệt”, dùng ngôn từ tùy
theo từng loại, thời gian, nơi chốn hòa hợp, mà xuất sanh nghĩa lợi, khiến cho
hết thảy chúng sanh phát tâm hoan hỷ, thanh tịnh nhĩ căn. Vì sao vậy? Do Bồ Tát
có cách nói sai biệt, hoặc các Bồ Tát dùng cười đùa để trước hết phát khởi dục
lạc cho chúng sanh, khiến cho họ trụ trong Phật pháp. Tuy nói trọn các lời chẳng
có nghĩa lợi, Bồ Tát như thế chẳng chấp vào sanh tử lưu chuyển).
Kế đó là giới “nói thêu dệt”. Kinh nói: Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng nói
thêu dệt. Tùy theo ngôn ngữ của từng loại, thời gian, nơi chốn hòa hợp, hãy nên
trì giới “chẳng nói thêu dệt”.
Nói năng thuận theo ngôn ngữ của từng loại, [phù hợp] thời điểm và nơi chốn thì
mới có lợi ích. [Chẳng hạn như] ở nơi kia có lời đáng nên nói, những lời trái
luật chớ nên nói, bèn thuận theo nơi ấy mà hòa hợp tương ứng. “Xuất kỳ nghĩa lợi” tức là khiến cho
họ đạt được nghĩa lợi. “Xuất”
có nghĩa là “làm”, tức là thực hiện sự nghĩa lợi ấy. Tùy nơi chốn, tùy thời điểm
mà thực hiện, khiến cho hết thảy chúng sanh tâm đều hoan hỷ, thanh tịnh “nhĩ đạo”, tức là nhĩ căn thanh tịnh.
Vì sao vậy? Bồ Tát có lời khác lạ, tức đủ loại lời nói sai khác thuận theo ý của
kẻ khác. Bồ Tát có phương tiện lạ: Chú trọng cười đùa, vì muốn khiến cho chúng
sanh hoan hỷ trụ trong Phật pháp. Do vì chúng sanh, tuy thốt lời chẳng lợi ích,
ở trong sanh tử để tạo lợi ích cho chúng sanh. Tức là [Bồ Tát] lưu chuyển trọn
khắp trong sanh tử, nhưng chẳng chấp trước. Hòa hợp tạo lợi ích, khiến cho tâm
hết thảy hữu tình vui sướng, nhĩ căn được tịnh hóa. Vì sao vậy? Do có lời lẽ
khác lạ. Có Bồ Tát dùng sự cười cợt, trước là khiến cho chúng sanh sanh lòng
hoan hỷ, an trụ trong Phật pháp, ngõ hầu họ sẽ trừ bỏ lời vô ích, chẳng thốt
ra! Bồ Tát lưu chuyển trong sanh tử như thế đó. Đấy là giới thứ bảy.
“Ỷ
ngữ” tức là các sự nói năng vô ích trong thế gian. Như trong Tỳ Ni đã
nói các loại vương luận, tặc luận, do kiếm sống mà vào biển, nữ nhân giữ thân
nghiêm cẩn v.v… Hoặc chuyện thị phi trong thành, ấp, nước nhà, phê bình chuyện
thế gian. Nói tóm lại, hết thảy các pháp tùy thuận thế gian đều là nhân duyên
khiến cho [hành nhân] chẳng xuất ly thì đều là “ỷ ngữ”, nhưng Bồ Tát phải nên thốt lời hòa hợp lợi ích phù hợp
với thời điểm và nơi chốn. Nói “thời”
tức là tuy muốn hướng dẫn họ, nhưng do họ đều chưa có cơ duyên tín nhập, niềm
vui chân thành chưa phát sanh, nếu vội vàng nói, sẽ khiến cho họ chẳng tin,
khinh mạn, hủy báng, thì cũng chẳng hóa độ được. Đó tức là “phi thời”. Tương phản với điều này
thì là “thời ngữ” (lời nói đúng
thời). Hoặc ở chỗ đại chúng náo nhiệt, rộn ràng, đông đảo, cái tâm chẳng tĩnh,
mà bảo ban cặn kẽ, sẽ chẳng lọt vào tâm họ được. Do đánh mất đạo duyên, cũng chẳng
phải là “đúng thời”. “Phương” là nói [đến nơi chốn. Khi
thuyết pháp phải chú ý tránh nơi] chẳng phải là nơi chốn [thích hợp], tức là
ngay trong khi họ đang làm ác, [nếu không suy xét], liền ở ngay chỗ họ đang làm
ác mà thuyết pháp cho họ. Do họ chấp vào chuyện đang làm tại đó, đâm ra nẩy
sanh tâm ngang bướng, chống trái. Bởi đó, khiến cho họ nẩy sanh tâm bất thiện.
Tương phản với điều ấy thì gọi là “tùy
phương ngữ” (lời phù hợp nơi chốn). “Lợi” là nói [lời lẽ của Bồ Tát] một mực không có các điều bất lợi,
khiến cho họ tu thiện, thuận theo tình kiến, căn cơ của họ mà nói năng. Nếu Bồ
Tát hành như thế, sẽ có thể khiến cho hữu tình hoan hỷ, tin phục, lợi ích chính mình lẫn người khác. Do họ nghe mà chính họ được lợi, chính mình
cũng chẳng uổng phí công sức.
Nhưng Bồ Tát có “sự khác lạ” (tức là phương tiện khác
lạ, hàm nghĩa “khác với những điều trên đây”), tức là khởi đầu bằng cười đùa.
Như cười đùa, cho đến đàm luận tuồng tích, ca múa, âm nhạc, nghệ thuật, tức là
các thứ vốn có trong thế gian như phần trên đã nói. Bồ Tát vì khiến cho họ hoan
hỷ, [bèn cười giỡn, bàn luận những chuyện ấy]. Họ đã hoan hỷ, sẽ khéo thuận
theo, vui sướng. Do vậy, [Bồ Tát] khéo léo dựa theo tình kiến của họ mà phương
tiện dẫn dắt, khiến cho họ an trụ trong Phật huệ. Tuy biết rõ [những đàm luận
kiểu ấy] là vô ích, tâm chẳng sanh chấp trước, nhưng do xét theo thời, xét theo
nơi chốn, xét theo nghĩa lợi, mà làm như thế. Tuy làm điều chẳng có lợi ích,
nhưng do vô lợi ích mà trừ khử chuyện vô ích ấy. Do họ khi trước đã tạo ác, ác
tương phản với đạo, nếu thẳng thừng gác bỏ phương tiện mà gấp gáp giữ giới, đâm
ra họ sẽ kinh sợ, chống đối. Vì thế, dùng phương tiện đồng sự với họ; sau đó, sẽ
khiến cho họ nhập Phật đạo. Do vậy, chuyện vô lợi ích ấy chính là cái nhân để tạo
ra lợi ích, như đại lương y biến chất độc thành thuốc. Nếu làm như thế, chính
là cái nhân để Bồ Tát thoát khỏi lưu chuyển sanh tử, đừng nên như Thanh Văn
không có phương tiện huệ, luôn luôn câu nệ, hạn cuộc, chỉ ngăn che các lỗi, chẳng
có hạnh khai thông. Vì thế, huệ chẳng đầy đủ.
[Bồ Tát] tự thoát khỏi lưu chuyển, và
cũng khiến cho người khác thoát ra. Vì thế gọi là “lìa lưu chuyển”. Như
người nữ tên Thiện Kiến được nói trong kinh Hoa Nghiêm là một trường hợp. Vì muốn
dẫn dắt, nhiếp thọ chúng sanh, cô ta sanh trong nhà dâm nữ, làm thượng thủ của
năm trăm dâm nữ, mỹ lệ tuyệt luân, trọn đủ các phẩm đức của nữ giới, sáu mươi bốn
tư thái, hết thảy phương tiện diệu xảo, thảy đều trọn đủ. Do nữ nhân bổn tánh
khéo thu hút lòng người, mà cô gái này lại không gì chẳng trọn đủ. Do nhân
duyên ấy, người hướng đến rất đông. Bồ Tát trước hết dùng sức phương tiện, cùng
có nhân duyên tà hạnh với họ, khiến họ sanh lòng ái niệm tột bậc, cô ta nói
năng gì cũng không ai trái nghịch. Cô quán tình kiến, căn cơ của họ để tùy
duyên khơi gợi, hướng dẫn, khiến cho họ thấy thật tánh của dục, liền từ ngay
môn ấy mà nhập Phật huệ. Khi đó, những kẻ ấy do tin yêu cô ta, liền có thể tin
nhận chắc thật lời đó. Do nhân duyên ấy, lợi lạc người khác vô lượng. Tuy ở
trong [hoàn cảnh] chẳng có lợi ích, mà có thể thành tựu đại lợi ấy, tức là trọn
đủ huệ phương tiện trì giới. Loại này được nói rất rộng trong kinh.
(Kinh) Phục thứ,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương trì bất tham giới, ư bỉ thọ dụng tha vật trung, bất khởi nhiễm tư. Hà
dĩ cố? Vô hữu Bồ Tát sanh trước tâm cố. Nhược Bồ Tát tâm hữu nhiễm tư, bỉ ư Nhất
Thiết Trí môn vô lực, nhi đọa nhất biên. Hựu, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng phát khởi hoan hỷ, sanh như thị tâm:
Ngã sở ưng tác, linh bỉ tự nhiên nhi sanh, cực vi thiện tai! Sổ tự khánh ủy, vật
linh bỉ chư chúng sanh tổn thất tư tài cố.
(經)復次,祕密主!菩薩應當持不貪戒,於彼受用他物中不起染思。何以故?無有菩薩生著心故。若菩薩心有染思,彼於一切智門無力而墮一邊。又,祕密主!菩薩應發起歡喜,生如是心:我所應作。令彼自然而生 。極為善
哉。數自慶慰,勿令彼諸眾生損失資財故。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên trì giới chẳng tham. Đối với các vật thuộc
sự thọ dụng của người khác, chẳng dấy lên ý tưởng đắm nhiễm. Vì sao vậy? Do chẳng
có Bồ Tát nào sanh tâm chấp trước. Nếu Bồ Tát tâm có ý niệm ô nhiễm, kẻ đó sẽ
không có sức nơi Nhất Thiết Trí môn, đọa vào một bên. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ
Tát hãy nên phát khởi lòng hoan hỷ, sanh tâm như thế này: “Ta hãy nên làm chuyện
khiến cho người khác tự nhiên mà sanh, đó là tốt lành tột bậc”. Nhiều lượt tự
vui vẻ an ủi, đừng khiến cho chúng sanh bị hao tổn mất mát của cải).
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên
trì giới “chẳng tham”. Đối với các vật thuộc quyền thọ dụng của người khác, chẳng
khởi ý nghĩ đắm nhiễm. Vì sao vậy? Bồ Tát hãy nên thường giữ tâm chẳng chấp trước.
Nếu Bồ Tát có cái tâm [tham chấp] ấy, sẽ vô lực đối với Nhất Thiết Trí. “Vô lực” tức là “lui dứt”. Do pháp ấy, vô lực đối với
Nhất Thiết Trí, trụ vào một bên; tức là ý nghĩa “chẳng đầy đủ”. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên phát tâm
hoan hỷ, hãy sanh tâm như thế ấy. Ở đây, cũng giống như thế, ta nay cũng nên tự
nhiên sanh khởi [tâm hoan hỷ chẳng tham], lành thay, cực thiện, nhiều lượt tu
phương tiện khác, chẳng khiến cho các chúng sanh bị tổn thất tài vật, trì giới
chẳng tham.
Lại này, Bí Mật Chủ! Trì giới chẳng
tham, đối với vật thuộc sự thọ dụng của người khác, chẳng dấy lên ý niệm ô nhiễm.
Vì sao vậy? Bồ Tát chẳng có tâm hưởng thụ. Hễ Bồ Tát có tâm ô nhiễm, sẽ vô lực
đối với Nhất Thiết Trí, sẽ trụ một bên. Cũng vậy, Bí Mật Chủ! Bồ Tát khởi hoan
hỷ và phát tâm như thế. Nếu ta tự nhiên mà sanh tâm như thế, điều thiện ấy sẽ
là cực thiện, nhiều lượt hoan hỷ, chẳng khiến cho các chúng sanh bị tổn thất
tài vật. Đấy là giới thứ tám. Trong phần trước là nói về giới thuộc khẩu; nay
tiếp theo, một mực nói về giới nơi tâm. Đây chính là tâm sanh khởi lòng tham.
Nếu Bồ Tát thấy người khác có các chuyện
thù thắng, tức là sắc lực, của cải, có vô lượng môn, Bồ Tát chẳng nẩy sanh ý niệm:
“Kẻ đó có các sự như thế mà ta chẳng có”. Do nhân duyên ấy, sanh lòng hâm mộ,
ham muốn, tham chấp, tìm cầu, thì cũng đều thuộc vào phạm vi của giới này. Do
nghĩ các điều ấy, sẽ là cái nhân để lại hứng chịu khổ não trong đời sau. Vì thế,
chẳng làm! Bồ Tát chớ nên như thế. Nếu có kẻ vô lực, ví như có người trọn đủ vô
lượng phương tiện, tài nghệ, kỹ năng, nhưng gặp khi bệnh hoạn thì sẽ chẳng thể
làm được. Bồ Tát cũng thế, nếu do tham ái mà cái tâm bị bệnh, khiến cho vô lượng
sức lực, oai thế của Bồ Đề tâm đều trở thành vô lực. Nhất Thiết Trí nghĩa là vạn
đức đều trọn đủ, chẳng bị khuyết giảm. Do khởi tâm ấy, khiến cho các chi phần
nơi cái Thể vạn đức vốn chẳng thiếu khuyết trở thành chẳng đầy đủ. Vì vậy, vô lực
đối với hết thảy các trí môn. Nhưng Bồ Tát thấy người khác có đủ loại sự hơn
mình, hãy nên tự vui mừng, nghĩ như thế này: “Ta vốn lập đại thệ nguyện, vì hết
thảy chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, đều khiến cho họ vạn đức kiêm trọn. Nếu bọn
họ bị thiếu khuyết, ta còn mong chẳng tiếc thân mạng để thực hiện hạnh khó, hạnh
khổ hòng tạo lợi lạc, mà nay họ có thể tự thực hiện, tức là điều lợi to lớn của
ta, thật đáng nên vui mừng!” Bồ Tát dùng điều này để tự an ủi cái tâm, chuyện
ta đáng nên làm đã tự nhiên đạt được; vì thế hoan hỷ. Ta vì chúng sanh, còn muốn
dùng vô số tinh tấn để cầu tác dụng tự nhiên của hiền bình hoặc kiếp thụ, hòng
phá cái nghiệp nghèo túng của họ. Huống hồ họ có thể tự đạt được, mà ta lại tổn
hại họ để tự lợi chính mình ư?” Do ngộ tâm ấy, chẳng còn sanh chấp trước; đó
chính là tướng trì giới.
Như kinh Trường A Hàm nói: Trong quá
khứ, vào thời Câu Lưu Tôn Phật, quốc vương xứ Ba La Nại tên là Tư Lợi (hoặc dịch
là Tư Ích), do thường nghĩ lợi ích hết thảy. Vì thế, có tên như thế. Khi đó, có
năm trăm đại thần tâu vua rằng: “Nay quốc độ tột bậc giàu vui, lòng người rộng
rãi, không có tâm lo lắng hoạn nạn, sợ chẳng thể chống lại kẻ đối địch được. Bệ
hạ hãy nên dùng chuyện [gian khổ] để dạy bảo, để họ tập quen với lao khổ, sẽ có
thể ngăn nạn, bảo vệ đất nước của vua”. Khi đó, vua Tư Ích nhân từ, hết sức từ
nhẫn, nghĩ như thế này: “Vì sao ta đem chuyện phi thời áp đặt lên người khác vậy?
Trái nghịch bổn tâm ta, chẳng có lý ấy”. Khi đó, quần thần biết ý vua, đều chẳng
vừa ý. Đế Thích nhận biết, nghĩ như thế này: “Vị vua này hành Bồ Tát đạo, chẳng
biết có kiên cố hay không? Ta có thể thử xem”. Do vậy, bảo vua nước lân cận là
Trường Thủ, sai khiến ông ta chinh phạt nước ấy. Chỗ vua Trường Thủ cai trị còn
gọi là Ngũ Chi Thành, do phạm vi thống nhiếp của xứ ấy chỉ có năm tòa thành, là
một nước nhỏ.
Vua đó nghe Đế Thích nói, nghĩ như thế
này: “Ta nghe nói đàn bà nhân từ, chẳng biết lo xa. Nay vị vua này quá mức nhân
ái, giống như đàn bà, nay ta thôn tính, chiếm lấy”. Liền dấy bốn đội binh đi
chinh phạt nước đó. Các đại thần tâu với vua Tư Ích rằng: “Trước kia bọn thần
do lòng trung mà can gián, bệ hạ không chấp thuận. Nay người dân chẳng tập vũ
nghệ, lại chẳng chuẩn bị, tai nạn xảy ra bất ngờ, sẽ làm như thế nào đây?” Vua
liền tư duy, đáp rằng: “Hắn ta muốn có được đất nước và kho tàng, ta chẳng
tranh chấp với hắn, sẽ chẳng có hại cho nhân dân. Các khanh đừng lo!” Vua liền
náu mình ra khỏi cung, vào trong núi sâu tu phạm hạnh. Khi đó, Trường Thủ chẳng
tốn xương máu mà có được nước ấy. Trải qua một thời gian dài, [Trường Thủ] treo
thưởng tìm bắt vua Tư Ích mà chẳng thể được!
Lúc ấy, ở phương Nam có phạm hạnh
Bà-la-môn do gia sản đời trước để lại tột bậc túng thiếu, chẳng có gì để phụng
dưỡng cha mẹ, sư trưởng, nghe nói vua Tư Ích chuộng bố thí rộng rãi; vì thế,
tìm đến nhà vua xin giúp đỡ. Ông ta đi sang nước đó, tới chốn núi rừng, gặp được
vị vua cũ nơi vua tu đạo. Khi đó, vua Tư Ích trước hết hỏi han, sắp đặt chỗ nghỉ
ngơi cho ông ta, cấp cho thức ăn, ôn tồn thăm hỏi nỗi nhọc nhằn: “Nay ông vì
sao mà đến đây?” Vị phạm hạnh ấy đáp cặn kẽ nguyên do. Vị vua cũ nghe xong,
thương xót, không vui: “Khi ta làm vua, thế lực tự tại, có thể tùy ý ban cấp
cho người khác. Nay thân nghèo, mất nước, sao có thể mãn nguyện cho người này
được!” Nghĩ ngợi như thế xong; nhân đó, bảo Bà La Môn: “Ta chính là vua Tư Ích,
nay đã mất nước, nên ở tại nơi đây”. Khi đó, Bà La Môn ngất đi hồi lâu, nghĩ rằng:
“Ta do bạc phước, đi xa mong thỏa nguyện, nay lại gặp gỡ [như thế này], há chẳng
phải là bất hạnh ư?” Lúc ấy, vua an ủi rằng: “Ông đừng quá lo buồn! Ta có
phương tiện có thể thu xếp. Vua kia coi ta là oán địch, thường treo giải bắt
ta: ‘Nếu ai lấy được đầu hắn, sẽ ban thưởng trọng hậu’. Ông nay có thể đem đầu
ta đi, ắt sẽ được ban thưởng to lớn”. Ông ta đáp: “Tôi là người tịnh hạnh, sao
lại giết người? Hết sức chẳng thể!” Vua nói: “Nếu vậy, chỉ lấy dây trói ta dẫn
đi, sẽ chẳng trái lý!”
Khi đó, ông ta liền trói [vua Tư Ích],
dẫn tới cửa cung. Lúc bấy giờ, các vị cựu thần trông thấy, đều cùng ghét bỏ, quở
trách Bà La Môn: “Ngươi là bậc tịnh hạnh, chẳng nên mưu hại bậc hiền vương để cầu
lợi ích cho chính mình, hết sức trái đạo. Đã phá tịnh pháp rồi, còn có đạo chi
nữa!” Ông ta bèn đáp cặn kẽ: “Chẳng phải là lỗi của tôi. Vị đại vương này hành
Bồ Tát đạo, sai tôi làm như thế”. Các quan vào tâu với vua. Vua [Trường Thủ] vừa
nghe nói, hết sức kinh hãi, tưởng cựu vương đến đoạt lại nước. Tới khi nghe tâu
từ đầu đến cuối, sanh tâm hổ thẹn, khâm phục: “Người hành Bồ Tát đạo như thế,
mà ta đoạt nước của ông ta, có điểm nào hơn người để làm vua thiên hạ ư?” Do vậy,
bảo vua Tư Ích: “Nhà vua có thể trở lại ngôi, tự tại hành bố thí lợi ích, an
vui vạn người. Ta sẽ quay về nước cũ, ai nấy ở yên, chẳng xâm hại lẫn nhau”.
Khi ấy, hai nước giao hảo, chẳng còn nỗi lo oán địch. Những điều như thế trong
kinh Bổn Sanh đã rộng nói. Đấy chính là nhân duyên chẳng
tham vậy!
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương trì bất sân giới, biến nhất
thiết xứ thường tu an nhẫn, bất trước sân hỷ, ư oán cập thân, kỳ tâm bình đẳng
nhi chuyển. Hà dĩ cố? Phi Bồ Đề Tát Đỏa nhi hoài ác ý. Sở dĩ giả hà? Dĩ Bồ Tát
bổn tánh thanh tịnh cố. Thị cố, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng trì bất sân khuể giới.
(經)復次,祕密主!菩薩應當持不瞋戒,遍一切處常修安忍、不著瞋喜,於怨及親其心平等而轉。何以故?非菩提薩埵而懷惡意。所以者何?以菩薩本性清淨故。是故,祕密主!菩薩應持不瞋恚戒。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên trì giới chẳng
sân. Trọn khắp hết thảy mọi chỗ, thường tu an nhẫn, chẳng chấp trước giận hay mừng.
Đối với kẻ oán và người thân, tâm đều bình đẳng mà chuyển. Vì sao vậy? Chẳng phải
là Bồ Đề Tát Đỏa thì mới ôm ác ý. Vì cớ sao vậy? Do Bồ Tát bổn tánh thanh tịnh.
Do vậy, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên trì giới chẳng sân khuể).
Kế đó là giới “chẳng sân”. Bí Mật Chủ!
Bồ Tát trì giới chẳng sân. “Lại này,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên trì giới chẳng sân. Trong hết thảy chỗ, hãy thường
nên an nhẫn, chẳng chấp trước đối với giận hay mừng, tâm bình đẳng, coi bạn và
người oán bình đẳng như nhau mà chuyển”. Vì sao vậy? Bồ Tát chớ nên nghĩ
nhớ ác ý, tức là công đức nơi thân, gọi là “tam ma da phược yết đa”. Câu “đại đức tồn niệm” (đại đức nghĩ nhớ) trong Luật cũng có ý nghĩa
tương đồng. Vì sao vậy? Do Bồ Tát bản tánh thanh tịnh. Bản tánh [giới] được nói
trong phần trước là giới đạt được nơi tánh. Phần sau nói tới cái tâm thì là
pháp biến hiện từ cái tâm. Do trong bản tánh thường thanh tịnh; bởi đó, Bồ Tát
thường nên trì giới chẳng sân. Vị ấy nhẫn trong trọn khắp hết thảy, thường chẳng
chấp trước đối với mừng và giận, tâm bình đẳng, đối xử với bạn bè và kẻ oán như
nhau. Vì sao vậy? Bồ Tát chẳng có ý niệm ác. Do vậy, Bồ Tát trì giới chẳng sân.
Đấy là giới thứ chín.
“Sân”
tức là đối với hết thảy chúng sanh phát khởi cái tâm làm hại, từ tâm dấy lên hạnh
chẳng tạo lợi ích. Sở dĩ trì giới này là nếu có kẻ đến dùng đủ mọi cách để gia
hại Bồ Tát, thậm chí cắt đứt các chi phần, [Bồ Tát] vẫn chẳng sanh tâm hại kẻ
đó, huống hồ coi rẻ ư? Nếu chẳng phải vậy, sẽ chẳng phải là Bồ Tát. Hãy nên
trong hết thảy mọi nơi mà hành đại nhẫn. Nếu lúc kẻ khác gia hại đủ mọi cách,
hãy nên tự nghĩ: “Đời trước ta do nhân duyên vô minh, mà sanh ra cái thân vướng
phải hoạn nạn này. Lại từ vô lượng đời tới nay, thường não hại kẻ đó, nay nghiệp
đã chín muồi, phải chịu báo này, liên can gì đến kẻ này mà oán hận ư?” Chánh
quán đủ mọi cách như thế. Lại nghĩ thân này từ duyên mà sanh, chẳng có tự tánh,
chẳng có ta, người, ai hại? Ai hứng chịu? Do quán Thật Tướng như vậy, chẳng
sanh tâm hại kẻ đó. Ý niệm sân phẫn ấy chính là công cụ của mọi điều ác. Do có
thể hoan hỷ như vậy, tâm thường vui sướng, tốt lành, vắng lặng, từ bi, nhẫn nại,
chẳng chấp các pháp nhân ngã, thường bình đẳng. Sự bình đẳng ấy chính là oán
thân chẳng hai, đối với hết thảy các thứ như “hữu ích, vô ích, nhẹ, nặng”, tâm bình đẳng, chẳng có tăng, giảm,
chẳng sanh tâm tạo các vật dụng ác, thường hành hạnh lợi ích người khác, bình đẳng
quán thế gian ví như con một, do Bồ Tát chánh quán Thật Tướng, chiếu tỏ bổn
tánh của cái tâm này là thanh tịnh.
Như kinh nói: Trong đời quá khứ, tại
phương Nam, có vua tên là Sư Tử. Thành tên là Phong Lạc. Vua dùng chánh pháp
cai trị đất nước, chẳng hại người khác. Do phép nước, vua ra khỏi thành săn bắn
nhằm thể hiện sự oai vũ. Tuy không có ý hại người, vì thủ hộ quốc độ, an vạn
người, muốn khiến cho nước lân cận ngưỡng mộ đức, sợ oai. Khi đó, vua săn bắn,
thấy có con nai đang rảo chạy bèn tự đuổi theo, noi theo đường hiểm núi thẳm, sắp
đuổi kịp nó. Do không có tâm làm hại, khi đuổi kịp, lấy roi quất vào sừng nó liền
thả đi. Vì sao? Muốn phô bày võ nghệ để lập oai với vạn người. Đã vào núi sâu,
chỗ không có người, do người hầu theo không kịp, vua nghỉ mệt trong núi. Có con
sư tử cái, thấy vua tướng mạo khác người, nẩy sanh dục tâm. Do vậy, nó ép vua
thị hiện dục tướng. Vua do sợ nó, liền ăn nằm với nó. Khi đó, lúc kiếp sơ, loài
thú cũng hiểu tiếng người. Nhưng tánh của thú vật cái là nếu có trí huệ, khi thọ
thai liền có thể biết rõ; do vậy, bảo vua rằng: “Ta đã hoài thai con vua. Sau
này nếu sanh ra, sẽ nên làm như thế nào?” Vua để lại chiếc ấn đang cầm trong
tay, bảo rằng: “Nếu sanh con, có thể buộc ấn này, đặt bên cạnh cửa [cung điện]
của ta”.
Về sau, [sư tử] sanh con, thân thể, diện
mạo [đứa bé] giống người, nhưng hết sức mạnh mẽ, kiên nghị, lại còn có thú
tánh. Mẹ nó theo ước hẹn trước đó, ban đêm vượt qua tường thành, đặt con bên cửa
cung điện của nhà vua rồi đi. Sáng hôm sau, người canh cửa trông thấy, tâm lấy
làm lạ: “Cớ sao giống như người mà lại hơi khác? Ta nên tâu vua”. Tâu xong, vua
im lặng suy nghĩ, chẳng nói với ai. Nhân đó, sắc truyền coi đứa trẻ như con của
chính mình, đặt tên nó là Sư Tử Thiện Nô. Về sau, vua chán cai trị đất nước, do
vậy, sai con nhiếp chánh đất nước.
Do bản tánh, [thái tử] thích ăn thịt
tươi. Có một lúc, vua đòi ăn gấp, đầu bếp tìm thịt chẳng ra, gặp đứa trẻ vừa mới
chết, liền dùng làm thức ăn để dâng lên… [Chi tiết] như kinh Hiền Ngu và Trí Độ
Luận đã nói. Thậm chí, [nhà vua] hằng ngày đòi ăn thịt người, đã ăn trẻ nhỏ hơn
năm trăm đứa. Trong thành, cùng bảo nhau rằng: “Ắt có Dạ Xoa vào đất nước, phải
nên bảo vệ cẩn thận trẻ nhỏ”. Trời chưa đến tối, [mọi người] đều đưa trẻ vào
phòng, canh giữ rất nghiêm. Đầu bếp bắt chẳng được, lại tới nhà các đại thần bắt
trẻ, lại mất năm trăm đứa nữa. Về sau, lúc hắn bắt giết một đứa nhỏ, lấy vòng
tay của nó đeo trên cánh tay, do gặp người khác trông thấy, nhận biết, bắt trói
hắn, [tra vấn]: “Ai sai khiến ngươi? Gã này bắt trộm trẻ nhỏ, chắc chắn là trẻ
nhỏ mất tích từ trước tới nay ắt do gã này làm”. Do vậy, hắn phủ phục thưa: “Do
lỗi của vua, chẳng phải do tôi”. Quần thần tâu chuyện ấy với vua cha: “Nay thái
tử còn có thú tánh. Có thú tánh thì chẳng thể làm chủ. Xin vua tự xử lý quốc
chánh”. Vua nói: “Ta đã quán đảnh trao ngôi vị cho nó, sao lại đoạt lấy?” Chẳng
nghe theo lời thỉnh cầu!
Quần thần bèn mưu tính làm hại [thái tử].
Do vậy, thái tử bèn cầm đao bén, trốn vào trong núi. Thoạt đầu, lấy xác chết nướng
ăn. Sau dần dần ăn thịt người, cho đến bắt cóc năm trăm vương tử, thường tìm thịt
để nuôi họ hòng dần dần sẽ bắt họ đem ăn. Khi đó, người trong nước lập em hắn
làm vua, đặt tên là Thiện Nô. [Thiện Nô] nhân từ đối với mọi người, rộng rãi,
nhu hòa, dùng chánh pháp để giáo hóa. Về sau, có bốn người phạm hạnh cầu pháp
thượng thiện. Vua nghĩ rằng: “Những người này làm lợi cho ta không ít, phải nên
báo đáp trọng hậu”. Chưa kịp ban thưởng cho họ mà đã phải đi săn. Quần thần can
gián: “Vua loài thú sống gần trong núi, có thể gây hại, bệ hạ chớ đi”. Vua nghĩ
rằng: “Ta muốn lợi lạc hết thảy, chẳng yêu mến tấm thân này. Nay nếu hắn bắt ta
ăn thịt, tức là bổn nguyện của ta được mãn”. Vua bèn rời cung vào rừng.
Thú vương nghe em trai ra khỏi cung,
liền đến bắt. Do hắn dũng mãnh, các thể nữ đều chạy tứ tán, những kẻ bị hắn bắt
được đều buồn khóc như trong Trí Độ Luận đã nói. Do có ý niệm chưa báo đáp các
vị phạm hạnh, vua bèn ước hẹn với thú vương, xin tha về. Vua nói: “Lửa của ông
chưa cháy hết, tôi ắt sẽ quay lại” (do thú vương trước đó đã đốt củi, đợi hết
khói mới nướng người để ăn). Thú vương nghĩ: “Do bởi pháp nào mà có thể khiến
cho hắn chẳng tiếc thân mạng, đến phó thác tánh mạng [vào tay ta]?” Do vậy hỏi
han, vua liền dùng các pháp như hạnh chẳng giết v.v… để rộng nói. Thú vương tuy
hung tợn, dũng mãnh, nhưng có huệ tánh, nghe xong liền được ngộ giải điều chưa
từng có, nghĩ rằng: “Ngươi là thầy của ta, muốn thỏa ước nguyện gì?” Vua nói:
“Nay ông ở trong rừng hoang giống như mãnh thú, sao có thể mãn nguyện của tôi
được?” Thú vương đáp: “Ta do nghĩ tới ơn thầy, hễ [điều gì ta] có thể báo đáp, ắt
thầy có thể nói ra”. Vua nói: “Nếu xét đến ước nguyện, điều tôi ấp ủ chỉ là chẳng giết
chóc, sở nguyện là đấy”. Thú vương bèn hứa, thề chẳng hại mạng. Lại thả năm
trăm vương tử để tu thiện pháp. Thả xong, theo vua trở về. Vua biết hắn đã làm
thiện hạnh, lại lập hắn làm vua, bảo hắn dùng chánh pháp giáo hóa cõi đời,
chính mình thì xuất gia. Hãy nên biết Bồ Tát trong sự kinh hãi như thế, vẫn chẳng
sanh lòng sân, mà còn tạo hạnh lợi ích, huống hồ trong các chuyện khác! Chuyện
như thế trong các kinh như Bổn Sanh v.v… đã nói rộng.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương xả ly tà kiến, hành ư
chánh kiến, bố úy tha thế, vô hại, vô khúc, vô siểm, kỳ tâm đoan trực, ư Phật,
Pháp, Tăng, tâm đắc quyết định. Thị cố, Bí Mật Chủ! Tà kiến tối vi cực đại quá
thất, năng đoạn Bồ Tát nhất thiết thiện căn, thị vi nhất thiết chư bất thiện
pháp chi mẫu. Thị cố, Bí Mật Chủ! Hạ chí hý tiếu, diệc đương bất khởi tà kiến
nhân duyên.
(經)復次,祕密主!菩薩應當捨離邪見、行於正見,怖畏他世,無害無曲無諂,其心端直,於佛法僧心得決定。是故,祕密主!邪見最為極大過失,能斷菩薩一切善根,是為一切諸不善法之母。是故,祕密主!下至戲笑,亦當不起邪見因緣。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên lìa bỏ tà kiến, hành chánh kiến, sợ hãi
đời khác, chẳng hại, chẳng cong vạy, chẳng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng, đối với
Phật, Pháp, Tăng, tâm được quyết định. Vì vậy, Bí Mật Chủ! Tà kiến là lầm lỗi
to lớn bậc nhất, có thể đoạn hết thảy thiện căn của Bồ Tát, là mẹ của hết thảy
các pháp bất thiện. Do vậy, Bí Mật Chủ! Dẫu là cười đùa, cũng chớ nên khởi
duyên của tà kiến).
Giới thứ mười là giới tà kiến. Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hãy nên bỏ lìa tà kiến, trụ trong chánh kiến, quán đời
mai sau mà sanh lòng sợ hãi. Hãy nên không có, trừ khử món tùy phiền não này,
[tức là đừng] hỏi Đông mà đáp Tây, hỏi Tây nói Đông. Hãy kiểm điểm, tự vấn, đừng
cong vạy, đừng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng, đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm được
quyết định, cho đến quy mạng Tam Bảo. Vì thế, Bí Mật Chủ! Tà kiến là lỗi họa to
lớn bậc nhất, có thể đoạn hết thảy các thiện căn của Bồ Tát, là mẹ của các pháp
bất thiện. Như mẫu tự Tất Đàm có thể sanh ra các chữ; tà kiến cũng thế, có thể
sanh hết thảy các pháp bất thiện. Vì thế, Bí Mật Chủ! Cho tới nhân duyên cười
nói, hãy nên đừng dấy tâm tà kiến. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát xả lìa tà kiến,
có chánh kiến, thấy biết đời khác, chẳng có tâm gây hại, chẳng cong vạy, chẳng
hư huyễn, mà ngay thẳng. Tâm quyết định đối với Phật, Pháp, Tăng. Vì thế, Bí Mật
Chủ! Bồ Tát lìa các lỗi tà kiến, vì nó đoạn hết thảy thiện căn, là mẹ của các
pháp bất thiện như thế. Do vậy, Bí Mật Chủ! Thậm chí cười đùa, xem ngó, cũng chẳng
dấy lên tà kiến. Đó là giới tướng thứ mười. Kinh dạy trì giới “chẳng tà kiến”,
do tà kiến là cội gốc của bất thiện, tức là do trừ khử tà kiến ấy mà trì giới.
Vì thế nói là “trì giới chẳng tà kiến”.
Chín giới trước đó cũng phỏng theo đấy mà biết [mục đích vì sao trì giới]. Hãy
nên nói là trì giới “bất sát” cho đến “trì sát giới” [cũng là để trừ khử tâm
sát hại mà trì giới], cũng chuẩn theo đấy mà nói.
Tà kiến là đối với mỗi pháp, thấy lý bất
chánh, thuận theo tà đạo. Đấy là gây hại cho căn bản của điều lành trong ba đời,
tức là do hạnh nghiệp quá khứ mà có cái quả y chỉ vào Ngũ Ấm trong đời này. Lại
do hạnh nghiệp trong đời này mà có quả báo trong vị lai. Do trước đó đã hiểu rõ
pháp nhân duyên này, mà được nhập các môn như vô thường, vô ngã v.v… Từ cái trí
vô thường, vô ngã ấy, được nhập pháp Không, đúng như Thật Tướng. Hãy nên biết
lìa ngoài nhân quả thế gian chân chánh ấy, sẽ chẳng có chánh kiến, chánh huệ
nào khác. Nếu nói là “chẳng có quả, chẳng
có nhân” sẽ là hoại Tam Bảo và pháp Tứ Đế. Do hoại Tam Bảo và pháp Tứ Đế,
chẳng có tứ sa-môn quả v.v… [cũng như chẳng có] hết thảy các thánh pháp và thiện
pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Nay bác bỏ hết sạch các sự ấy, chính là điều đề
cao, chấp trước của ngoại đạo. Hãy nên trụ trong chánh kiến, tức là sửa đổi lỗi
sai trước đó, quyết định chánh tín nhân quả và pháp “đế thật” (chân thật). “Đế”
tức là câu chân thật của Như Lai; nếu báng bổ điều này, chính là gây hại hết thảy
các điều thiện. “Hại” trong “vô hại” nghĩa là phiền não chi phần.
Do điều ấy nên có thể chướng hết thảy các thiện. Do chướng ngại hết thảy các điều
thiện, nên gọi là “hại”.
Kế đó, lần lượt giải thích “vô hại” là như thế nào? Tức là chẳng
siểm khúc. “Khúc” tức là tà kiến,
giống như rắn chưa vào trong ống tre, sẽ bò ngoằn ngoèo. Thấy cái tâm cũng thế.
Nếu chưa vào trong đạo Thật Tướng của các pháp, sẽ là cong vạy, bất chánh. Kế
đó, lần lượt giải thích “chẳng siểm
khúc” là thế nào? Tức là giống như huyễn v.v… Quán Thật Tướng của cái
tâm này từ duyên mà sanh, giống như huyễn. Do liễu đạt Thật nên lìa cười đùa,
lìa cười đùa tức là vô huyễn. Nếu như thế, tức là trụ trong cái tâm ngay thẳng,
đối với cảnh giới Tam Bảo, tâm thường quyết định. Do nhập đạo ngay thẳng của Thật
Tướng, tức là thường đạt được tánh quyết định trong Tam Bảo. Vì thế, khuyên các
Bồ Tát lìa căn bản của các lỗi, do “bất
thiện” được gọi là căn bản có thể hại hết thảy các thiện pháp. Do “thiện”, Bồ Tát trì giới sẽ lìa lỗi
ác ấy. “Chuyển” là dời ác thành
thiện, như kinh nói “nếu vô minh chuyển”
tức là biến thành minh. Nay tà kiến cũng như thế, toàn thể chính là huệ tánh, tức
là nếu chuyển thành ngay thẳng thì chính là chánh kiến, chẳng giống như Thanh
Văn chán ngán các phiền não, riêng cầu thánh pháp.
Bất thiện cũng thế, chuyển thiện tánh
thành bất thiện, như nước đông thành băng, chẳng có tánh riêng. “Mẫu” có nghĩa là “có thể sanh ra”. Ý nói tà kiến có thể
sanh ra hết thảy các pháp bất thiện, giống như mẹ vậy. Do bởi nghĩa này, Bồ Tát
ngay cả cười đùa, xem ngó, cũng chẳng sanh tà kiến. Nói tóm lại, chẳng sanh một
niệm tâm phạm giới tà kiến ấy, huống hồ nhiều [tâm niệm] ư? Như trong kinh
Thanh Văn, nói đùa, cười giỡn v.v… chẳng tự phạm Học Xứ. Ở đây, chẳng giống như
vậy, thậm chí làm chuyện tà kiến trong khi cười đùa v.v… cũng chẳng được, huống
hồ cố ý thực hiện nghiệp ấy ư? Nhưng Bồ Tát có huệ phương tiện, tức là có thể bất
động đối với các kiến, tu ba mươi bảy đạo phẩm, tức là từ tà tướng mà nhập
chánh tướng. Vì sao vậy? Do chúng sanh từ vô thỉ tới nay, đã quá quen với pháp
này, rất khó trở thành chánh. Như vị lương y kia, trước hết có cùng sự nghiệp với
họ, sau đoạt lấy quyền, như kinh Niết Bàn đã nói.
Lại như trong Bồ Tát Tạng Bổn Sanh có
nói: Trong đời quá khứ, có thành tên Ba La Nại, vua tên là Phạm Thí. Đây chính
là chuyện lâu xa kia, mà tên thành hiện thời chính là đất cũ xưa kia. Hãy nên
biết trong thế gian có rất nhiều nơi vẫn ở nơi chốn cũ mà giữ được tên xưa.
Thành Ba La Nại được nhắc tới trong thời gần đây, vua cũng tên là Phạm Thí, tức
là một trong các trường hợp trùng tên với thuở trước. Khi đó, vị Bà La Môn là đại
thần của nhà vua ấy sanh được một trai. Khi đứa con đó sanh ra, bốn phương trên
không trung, mây có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi thứ bao phủ rực rỡ ở một
phương, cho đến tuôn mưa trọn khắp Diêm Phù Đề. Theo pháp Bà La Môn, nếu lúc
sanh con, ắt thỉnh bậc thiên tiên thánh trí xem tướng trước rồi mới đặt tên.
Khi đó, đại thần cầu được một vị tiên đến xem tướng đứa con ấy. Vị tiên hỏi khi
đứa con sanh ra có thụy tướng gì, sẽ dựa theo đó mà đặt tên. Cha kể lại chuyện
trước đó, tiên nhân nói: “Trong kinh điển Vi Đà của ta, nếu lúc sanh mà có tướng
ấy, ắt sẽ thông suốt kinh điển Tứ Vi Đà, lưu diễn ân trạch pháp thí trọn khắp bốn
phương”. Do vậy, đặt tên là Khánh Vân. Nhưng chủng tộc của đại thần học tập
kinh điển Tứ Vi Đà thuộc về tông Ma Nạp Bà (Mānava)[13];
do vậy, nương theo bổn tông mà đặt tên là Ma Nạp Bà.
Đứa trẻ ấy tuổi dần khôn lớn, chuyên học
tập môn ấy, đối với tông chỉ của Tứ Vi Đà không gì chẳng hiểu thấu suốt, nhưng
nghĩ như thế này: “Chẳng chỉ do thông hiểu mà sẽ đạt được nghĩa lợi, hãy nên
suy nghĩ, chọn lựa để hành, truy tìm tông chỉ trước sau của kinh văn để nương
theo pháp nào mà được thoát ly”. Vì sao vậy? Do đứa trẻ ấy đời trước đã gieo cội
đức, vun bồi huệ tánh đã lâu, tuy sanh trong tông phái tôn sùng dị kiến, mà có
thể tự sanh khởi cái tâm giác ngộ ấy. Nhưng nghiên cứu mỗi điều được kinh [Vedas]
đề cao, chỉ là sanh vào Phạm Thiên, chẳng có đạo xuất thế, liền thưa với cha rằng:
“Nay trong những điều con học tập, chẳng có đạo xuất thế, còn có pháp gì tăng
thượng hơn chăng?” Cha nói: “Ta được truyền thừa từ tổ tông, chỉ có pháp này là
mầu nhiệm nhất. Lại là pháp do Phạm Vương nói, chỉ nên tuân hành, há nên cầu
pháp thù thắng hơn ư?” Con lại nghĩ rằng: “Nay con sở học chưa hoàn tất, lẽ nào
giải đãi? Ắt phải nên cầu huệ thù thắng”. Cha nói: “Ta nghe nói trong Tuyết Sơn
có đại tiên nhân, ngoài Tứ Vi Đà, riêng có nghĩa sâu quyết trạch, tên là Kế
Trách Bà (tên này có nghĩa là Vấn Đáp Tùy Tâm). Ngài dùng pháp ấy để dạy, nên vị
tiên này được gọi là Kế Trách Bà Tiên”. “Con nay sẽ đến hỏi Ngài”. Cha nói: “Vị
tiên ấy trụ trong chỗ hiểm trở, cách tuyệt, không dấu chân người lui tới, sao
con có thể đến đó được?” Khi đó, [đứa trẻ ấy] chẳng nguôi ý định ra đi, liền tới
đó. Khi ấy, các thiên thần thấy đứa trẻ này ắt có thể tạo lợi ích cho mọi người;
do vậy, cùng gia hộ, khiến cho nó đến được chỗ của tiên nhân. Vị tiên ấy thấy đứa
trẻ này dung mạo kỳ đặc, biểu hiện hơn người, liền hỏi han, [cho nó] ngồi gần
nơi ngài.
Khi đó, vị tiên ấy có năm ngàn tiên
nhân, Ngài làm thượng thủ, thường diễn pháp sâu, liền hỏi đồng tử: “Vì sao đến
tận nơi đây?” Đồng tử thưa cặn kẽ chuyện trên đây; nhân đó, bạch đại tiên: “Con
ở trong nhân gian, học bốn thánh điển, sợ có chỗ hiểu sai lệch, chẳng phù hợp ý
chỉ vốn có của kinh. Xin tiên nhân hãy giảng dạy”. Đại tiên hứa khả: “Được!” Đồng
tử lập tức trần thuật cặn kẽ kiến giải. Đại tiên than rằng: “Đứa trẻ này huệ ngộ
hơn người. Ta chẳng hiểu bằng nó được! Nhưng đứa trẻ này nói đến đạo xuất thế,
thì ta đích thân nghe Phạm Vương nói, sẽ có bậc đại tiên xuất thế, hiệu là Nhất
Thiết Trí Giả Kiến Giả, chỉ người ấy mới có thể diễn pháp này, chí hướng của bọn
ta chẳng thể sánh bằng được”. Lại tùy theo những ý chỉ mình hiểu biết, phân biệt
mà dạy bảo đầy đủ. Khi đó, đồng tử do thiện căn đời trước, nay nghe danh hiệu
Nhất Thiết Trí đạt được điều chưa từng có; do vậy, đội ân thầy sâu xa, nghĩ muốn
báo ân. Nhưng cách báo đáp thầy của Phạm Chí thì cần phải dùng áo bằng da nai,
dùng chỉ màu vàng làm thành hình Phạm Thiên và Na La Diên, và năm trăm đồng
vàng. Nghĩ xong, muốn tìm cầu.
Nghe nói phương Nam có vị vua sắp lên
ngôi, muốn phô bày oai đức, tiếp nhận địa vị Quán Đảnh, rộng thí cho bậc phạm hạnh,
liền muốn tới đó cầu xin. Nhưng trước đó, đã có các Phạm Chí bảo vua chuẩn bị
dê, ngựa, và người, mỗi loại một ngàn đem giết để thị uy, dùng làm lễ Quán Đảnh,
mong được danh tiếng lan xa. Sau đó, đồng tử tìm tới. Khi ấy, nhà vua nghe tên
đồng tử, hết sức hoan hỷ: “Ta sắp lên ngôi mà cảm được vị hiền nhân này, tức là
đại cát tường”. Liền mời làm khách quý, truyền cùng bàn định nghi lễ, pháp tắc
[trong lễ Quán Đảnh]. Đồng tử triệu tập các Bà La Môn, đối với mỗi người đều
truy hỏi: “Nay chuyện sát sanh để cúng tế căn cứ từ kinh văn nào?” Truy tìm ráo
riết, bọn họ đều đuối lý. Do vậy, đồng tử bảo vua rằng: “Quán đảnh kiểu này chẳng
phải là chân đạo. Vua hãy nên trong một ngày, ở bốn cửa thành, sắp đặt hết thảy
các vật cúng, hễ có ai xin, đều ban cho. Phước ấy vô lượng, thanh danh cũng lan
xa”. Vua cũng có thiện căn từ trước, nghe nói liền ngộ giải, kính vâng theo lời
dạy, tạ lễ trọng hậu. Đồng tử chỉ lấy năm trăm đồng vàng, da nai và chỉ thêu rồi
rời đi.
Giữa đường, đến thành Bảo Định (thành
này gần biên giới của nước Kiện Đà La). Vua tên là Quân Thắng (do [nhà vua] hễ
giao chiến, ắt thắng trận, nên đặt tên như thế), do Nhiên Đăng Phật vừa mới xuất
thế, bèn trang hoàng thành ấp, mong nghênh tiếp, dọn sạch sẽ đường phố, xếp đặt
đủ loại hoa, hương khác lạ thường nhật. Đồng tử thấy vậy, hỏi người khác: “Vì
sao như thế? Do tôi đến thành này ư? Hay là vì duyên nào khác?” (Khi đó, tiếng
tăm của đồng tử lan xa, ở nơi đâu cũng được tiếp đại trọng hậu, tôn kính. Vì thế,
tự nghi). Người trong thành đáp rằng: “Có Phật xuất thế, hiệu là Nhiên Đăng.
Vua muốn nghênh tiếp Phật”. Đồng tử nghe danh hiệu Phật, bỗng dưng hết sức mừng
rỡ: “Nay danh hiệu này vượt ngoài kinh điển, chẳng phải là vị mà đại tiên đã nhắc
tới ư?” Do vậy, dùng vật có được để sắm sửa vật cúng, muốn tới dâng lên Phật.
Khi đó, thiên ma thấy tâm đồng tử to lớn,
sợ sẽ dẫn dắt vô lượng chúng sanh vượt khỏi cõi mình, bèn phủ lấp hết thảy mọi
người, [khiến cho đồng tử thấy] chẳng có vật nào có thể mua được. Khi đó, có nữ
nhân do phước đời trước, có nhân duyên lâu xa với đồng tử, ma chẳng thể che lấp
được. Đồng tử muốn mua hoa từ chỗ cô, cô ta đáp rằng: “Tôi muốn dâng lên đức Phật.
Dẫu dùng một trăm đồng vàng mua một bông, tôi cũng chẳng bán”. Đồng tử nói: “Cô
đã ước định bán rồi”. Liền dùng một trăm đồng để mua một bông, cho đến năm
cành, tốn năm trăm đồng tiền vàng. Cô gái liền đòi hỏi: “Ta chẳng cho ngươi; nếu
ngươi có thể đời đời làm chồng ta thì sẽ được [hoa này]!” Đồng tử suy nghĩ sâu
xa: “Nữ nhân phương hại Bồ Tát đạo, ta thà chẳng mua hoa này”. Liền muốn bỏ đi.
Cô gái nói: “Ta muốn đời đời giúp đỡ nhau thành chân đạo, trọn chẳng trở ngại
nhau…” như trong kinh luật đã nói. [Đồng tử liền chấp thuận] và cầm hoa đến chỗ
Phật, rải lên để cúng dường. Hoa ở trong hư không, kết thành cái lọng, theo Phật
vào thành. Đồng tử đạt được điều chưa từng có. Đức Phật vì đồng tử thuyết pháp,
đồng tử đạt được pháp lợi sâu xa.
Lại ở chỗ bùn lầy trên đường, [đồng tử]
muốn trải áo da nai để Phật bước qua. Ma vương năm lượt quăng đi, bảo đồng tử rằng:
“Đồng tử! Ngươi hành chân đạo, trong hết thảy các thế gian, ngươi là tối thượng,
sao lại tự vứt bỏ chân đạo để học theo pháp tà đạo của sa-môn vậy?” Đồng tử trọn
chẳng để ý tới hắn. Phía trước có con đường hẹp bùn lầy, Phật ắt sẽ theo đó mà
đi qua. Do vậy, [đồng tử] chờ đến lúc ấy, bèn trải áo và tóc để lót cho Phật đi
qua. Kế đó, đệ tử muốn theo Phật bước qua, đức Phật bảo: “Đừng nên! Đối với bậc
đại tâm này, nếu các thầy đạp lên, sẽ bị tổn phước to lớn”. Nhân đó, đức Phật
xoa đỉnh đầu đồng tử thọ ký. Ngay trong lúc ấy, đồng tử liền thấy mười phương
các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, đều xoa đỉnh đầu đồng tử mà thọ ký. Đồng
tử liền dự vào hàng Đệ Cửu Địa Bồ Tát. Khi đó, vô lượng trăm ngàn chúng trời,
người, do nhân duyên của vị đại sĩ ấy, đều bỏ tà kiến, nhập chánh đạo. Đó chính
là thị hiện huệ phương tiện của Bồ Tát: Trước hết, nhập tà đạo, thấu đạt tận
cùng tông chỉ của họ, tạo phương tiện khiến cho họ hồi tâm để có thể dẫn dắt vô
lượng người cùng hàng. Vì thế, gọi là “huệ
phương tiện trọn đủ”. Hãy nên kiểm trong kinh có nói cặn kẽ chuyện
này[14].
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Nguyện thuyết thập thiện đạo giới, đoạn cực căn đoạn. Vân hà Bồ Tát vương vị tự
tại, xử ư cung điện, phụ mẫu, thê tử, quyến thuộc vi nhiễu, thọ thiên diệu lạc,
nhi bất sanh quá?
(經)爾時,執金剛祕密主白佛言:世尊!願說十善道戒,斷極根斷。云何菩薩王位自在、處於宮殿,父母妻子眷屬圍繞,受天妙樂而不生過?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Xin
hãy nói thập thiện đạo giới, đoạn trừ tột cùng cội rễ [của mười điều bất thiện].
Bồ Tát như thế nào mà tự tại nơi ngôi vua, ở trong cung điện, cha mẹ, vợ con,
quyến thuộc vây quanh, hưởng niềm vui mầu nhiệm cõi trời, mà chẳng sanh lầm lỗi?)
Tức là như cắt trụi cỏ, nó lại sanh
ra; còn như chặt cụt cây Đa La, nó sẽ chẳng mọc lại nữa, đó gọi là “cực đoạn”. Ở đây nói về công lực của
giới. Bồ Tát làm thế nào để tự tại nơi vương vị, ngự trong cung điện, cha mẹ,
thân thích vây quanh, hưởng niềm vui mầu nhiệm của cõi trời mà chẳng sanh lầm lỗi?
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện tai, thiện
tai! Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi. Ngô kim diễn thuyết Bồ
Tát Tỳ Ni quyết định thiện xảo. Bí Mật Chủ! Ưng tri Bồ Tát hữu nhị chủng, vân
hà vi nhị? Sở vị tại gia, xuất gia. Bí Mật Chủ! Bỉ tại gia Bồ Tát thọ trì ngũ
giới cú, thế vị tự tại, dĩ chủng chủng phương tiện đạo, tùy thuận thời phương,
tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất Thiết Trí. Sở vị cụ túc phương tiện, thị lý vũ kỹ,
thiên từ chủ đẳng, chủng chủng nghệ xứ, tùy bỉ phương tiện, dĩ Tứ Nhiếp Pháp
nhiếp thủ chúng sanh, giai sử chí cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị trì bất
đoạt sanh mạng giới, cập bất dữ thủ, hư vọng ngữ, dục tà hạnh, tà kiến đẳng. Thị
danh tại gia ngũ giới cú. Bồ Tát thọ trì như sở thuyết thiện giới, ưng cụ đế
tín, đương cần tu học, tùy thuận vãng tích chư Như Lai Học Xứ, trụ hữu vi giới,
cụ túc trí huệ phương tiện, đắc chí Như Lai vô thượng cát tường vô vi giới uẩn.
(經)如是說已,佛告執金剛言:善哉善哉!祕密主!汝當諦聽,善思念之,吾今演說菩薩毘尼決定善巧。祕密主!應知菩薩有二種。云何為二?所謂在家、出家。祕密主!彼在家菩薩受持五戒句,勢位自在,以種種方便道隨順時方自在攝受求一切智,所謂具足方便示理舞伎天祠主等種種藝處,隨彼方便以四攝法攝取眾生,皆使志求阿耨多羅三藐三菩提。謂持不奪生命戒及不與取、虛妄語、欲邪行、邪見等,是名在家五戒句。菩薩受持如所說善戒,應具諦信當勤修學,隨順往昔諸如來學處,住有為戒,具足智慧方便,得至如來無上吉祥無為戒蘊。
(Kinh:
Nói như thế xong, đức Phật bảo ngài Chấp Kim Cang rằng: - Lành thay! Lành thay!
Bí Mật Chủ! Ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta nay diễn nói thiện xảo quyết
định trong Tỳ Ni của Bồ Tát. Bí Mật Chủ! Hãy nên biết Bồ Tát có hai loại, thế
nào là hai? Tức là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Hàng tại gia Bồ Tát thọ trì
câu ngũ giới, oai thế, địa vị tự tại, dùng đủ loại đạo phương tiện, tùy thuận
thời điểm và nơi chốn, tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất Thiết Trí, tức là trọn đủ
phương tiện, phô bày các thứ nghệ thuật của các vũ công hoặc chủ các đền thờ trời
v.v… Thuận theo phương tiện ấy, dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thủ chúng sanh, khiến
cho họ đều dốc chí mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là giữ giới chẳng
tước đoạt sanh mạng, và giới chẳng cho mà lấy, nói lời hư vọng, làm hạnh tà dục,
tà kiến v.v… Đó gọi là câu Ngũ Giới của tại gia. Bồ Tát thọ trì thiện giới như
vừa nói đó, hãy nên giữ trọn lòng tin chắc thật, nên siêng tu học, tùy Học Xứ của
các vị Như Lai xưa kia, trụ trong hữu vi giới, trọn đủ phương tiện trí huệ, đạt
được giới uẩn vô vi cát tường vô thượng của Như Lai).
Nói như thế xong, đức Phật bảo Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, Bí Mật Chủ! Hãy nên lắng
nghe, cực khéo suy nghĩ. Ta sẽ diễn nói thiện xảo quyết định của Bồ Tát Tỳ Nại
Da (giới luật của hàng Bồ Tát). Bí Mật Chủ! Hãy nên biết có hai loại Bồ Tát, những
gì là hai? Đó là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Tại gia Bồ Tát thọ nhận lãnh
câu Ngũ Giới, tự tại nơi vương vị, trọn đủ phương tiện đạo, tùy theo thời và
nơi chốn mà tự tại nhiếp thọ (tùy theo nơi chốn và thời gian mà tự tại làm, như
chỉ bày tà kiến để đối trị đại tà v.v…), cầu Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “trọn đủ phương tiện”, thị hiện các
loại nghệ thuật của các vũ công, chủ các đền thờ trời v.v… Thuận theo phương tiện
ấy, dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ dốc chí cầu Vô Thượng
Bồ Đề. Người ấy trì giới “chẳng giết hại
sanh mạng, chẳng cho mà lấy, nói dối, hạnh dục tà, tà kiến” v.v… Đó gọi
là câu tại gia Ngũ Giới. Bồ Tát thọ trì thiện giới như đã nói, hãy khéo nên tu
học, hãy nên tin tưởng trọn vẹn, tùy thuận Học Xứ của chư Phật xưa kia, tức là
thuận theo chư cổ Phật mà học. Do trụ trong hữu vi, trọn đủ huệ phương tiện, sẽ
có thể đạt được giới uẩn vô vi cát tường vô thượng của Như Lai. Người học do
suy nghĩ, học tập mà đạt được.
[Khi đức Phật] đã nói mười giới tướng
xong, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật: “Xin hãy nói Thập Thiện Nghiệp Đạo giới đoạn
trừ tột cùng tận cội rễ [của các pháp bất thiện]. Bồ Tát làm thế nào để tự tại
nơi vương vị, ngự trong cung điện, nam nữ thân thuộc, cha mẹ vây quanh, hưởng
niềm vui mầu nhiệm cõi trời, chẳng nẩy sanh lầm lỗi?” Ý hỏi ở đây là: Có pháp
nào có thể trừ khử tận cội gốc [các điều bị răn cấm] trong các giới ấy, khiến
cho thiện pháp chẳng sanh hay không?[15]
“Cực” có nghĩa là “hại” trọn hết
thảy các điều thiện. Hàm ý: Làm thế nào để ở trong pháp thế gian mà chẳng bị
nhiễm ô? Bồ Tát vì chúng sanh mà thường cần phải ở trong thế gian, ắt phải có
giới phương tiện, ngõ hầu chẳng làm hại các điều thiện. Đức Phật khen ngợi
xong, dạy [ngài Kim Cang Thủ] hãy lắng nghe, Ngài liền nói “quyết định thiện xảo điều phục của Bồ Tát”.
“Quyết định” tức là tự “hại” (đoạn trừ) hết thảy các điều
ác, hết thảy các điều thiện đều do đó mà sanh, tức là các điều thiện trong tự
tánh.
Bồ Tát có hai loại là tại gia và xuất
gia. Nếu là tại gia, nhận lãnh câu Ngũ Giới, sẽ giống như trên, tự tại nơi ngôi
vua, chẳng trở ngại hành Bồ Tát đạo nhờ vào năm sự ấy. Các thứ phương tiện đạo,
nhiếp thọ tự tại trong các thời điểm và nơi chốn, cầu Nhất Thiết Trí, tức là
phương tiện trọn đủ, thị hiện đủ loại nghệ thuật của các vũ công, chủ các đền
thờ trời v.v… chính là thuận theo phương tiện của họ mà dùng Tứ Nhiếp Pháp để
nhiếp thủ chúng sanh. Kinh văn dạy như thế. “Thời” tức là quán đúng thời hay phi thời, chẳng chần chờ, chẳng
lỡ dịp, [mà đúng thời] như sóng biển. “Phương”
là nói đến nơi chốn. Đáng nên dùng pháp nào để nhập đạo, tức là tùy thuận Thế
Giới Tất Đàn. Do trọn đủ phương tiện huệ, đủ loại thực hiện tự tại, nhiếp thủ
chúng sanh, đặt họ trong Nhất Thiết Trí. Chẳng giống như Ngũ Giới [theo Nhị Thừa]
chẳng có phương tiện, chỉ tự câu nệ, hạn cuộc, dốc chí cầu thủ hộ chính mình.
Do quán lợi ích nhiếp hết thảy, vào đủ loại đạo, cho đến người hay ta vào miếu
thờ trời, thị hiện cùng học giống như họ, dần dần dùng chánh kiến để hướng dẫn
họ. Dùng các phương tiện vô biên như thế đó, lợi ích vô hạn, dùng Tứ Nhiếp Pháp
để dẫn dắt họ nhập Phật đạo. Tứ Nhiếp thì như trong Bảo Vân Bồ Tát Tạng v.v… đã
nói cặn kẽ. Nếu tại gia Bồ Tát trì năm giới như thế, tức là chẳng “giết, trộm, dâm, dối, tà kiến”, trong năm giới ấy, dùng phương tiện
để trì, hết thảy các điều khác vô ngại, chủ yếu nhằm dẫn nhập Phật đạo đó thôi!
Dùng năm giới ấy làm đầu, sẽ có thể thành tựu Nhất Thiết Trí Địa, tức địa vị
Như Lai; do vậy nói là “được thành tựu
vô lậu tánh giới”. Do trụ trong phương tiện trọn đủ huệ này, tức là Học
Xứ. Đấy là giới trọn đủ thuộc vạn đức trong bản tánh, tức là vô vi giới. Lại giải
thích thêm (chẳng khác với phần trước, đã giảng xong rồi lại nhắc lại, vì trong
phần trước chưa nói rõ). Trong phần trước đã nói có hai loại Bồ Tát, tức tại
gia và xuất gia. Câu ngũ giới này chính là pháp để hàng tại gia Bồ Tát hành
trì. Do trong thế gian có đủ loại sự vụ, do trì câu ngũ giới này, do giới ấy mà
có thể trọn đủ huệ phương tiện, các phiền não ác nghiệp chẳng thể làm hại. Do
nhân duyên ấy mà được thành Phật. Vì thế, kinh nói: “Như thị thiện giới, thiện tu học cụ tín” (Thiện giới như thế
hãy nên khéo tu học, tin tưởng trọn đủ). Đấy là khuyên trì. Đối với ý “khuyến trì”, đức Phật dẫn cổ Phật
làm chứng. Quá khứ chư Phật do trì năm giới này, ở trong thế gian, cùng làm đủ
loại sự nghiệp giống như chúng sanh để nhiếp thủ họ, nhưng chẳng trở ngại tự hạnh.
Do vậy, [các Ngài] được thành Phật, vạn đức đầy đủ trọn vẹn. Vô lậu tự tánh giới
cũng do vậy mà sanh.
“Phương
tiện trí đầy đủ”: Phương tiện ấy chính là thân kết ấn, miệng niệm chân
ngôn, tâm quán Bổn Tôn tam-muội; dùng đó làm phương tiện, lại có diệu huệ. Do
quán ba sự ấy đều sanh từ duyên, bèn nhập vào Thật Tướng. Vì vậy, vạn hạnh nhanh
chóng trọn đủ, được thành Phật. Trong kinh Thanh Văn, sở dĩ tục nhân trì ngũ giới
là để phòng hộ thân khẩu, hòng nhập kiến Đế. Nay ở đây cũng thế, dùng câu ngũ
giới này làm phương tiện để phòng hộ, khiến cho hạnh chân ngôn được thành tựu
mà kiến Đế. Không chỉ là tại gia Bồ Tát, mà người xuất
gia cũng đều cùng
hành năm câu này.
(Kinh) Hữu tứ chủng căn bản tội, nãi chí hoạt mạng nhân duyên, diệc bất
ưng phạm. Vân hà vi tứ? Vị báng chư pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận, não hại
chúng sanh. Sở dĩ giả hà? Thử tánh thị nhiễm, phi trì Bồ Tát giới. Hà dĩ cố?
Quá khứ chư Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại Nhân Trung Tôn, cụ túc trí
phương tiện, tu hành Vô Thượng Giác, đắc vô lậu Tất Địa, diệc thuyết dư Học Xứ,
ly ư phương tiện trí, đương tri Đại Cần Dũng, dụ tấn chư Thanh Văn.
(經)有四種根本罪,乃至活命因緣亦不應犯。云何為四?謂謗諸法、捨離菩提心、慳悋、惱害眾生。所以者何?此性是染,非持菩薩戒。何以故?過去諸正覺,及與未來世,現在仁中尊,具足智方便,修行無上覺,得無漏悉地,亦說餘學處,離於方便智。當知大勤勇,誘進諸聲 聞。
(Kinh:
Có bốn loại tội căn bản, thậm chí dù vì nhân duyên sống sót, cũng chớ nên phạm!
Những gì là bốn? Tức là báng các pháp, xả lìa Bồ Đề tâm, keo kiệt, não hại
chúng sanh. Vì sao vậy? Tánh của chúng là nhiễm, [hễ phạm bốn tội ấy], sẽ chẳng
phải là trì Bồ Tát giới. Vì sao? Quá khứ các Chánh Giác, cùng với đời vị lai,
hiện tại Nhân Trung Tôn, trọn đủ trí phương tiện, tu hành Vô Thượng Giác, đắc
vô lậu Tất Địa, cũng nói Học Xứ khác, lìa khỏi trí phương tiện, hãy biết Đại Cần
Dũng, khuyên, sách tấn Thanh Văn).
Lại có bốn căn bản trọng nghiệp, hành
giả tu Chân Ngôn dẫu gặp cái nhân mất mạng, cũng chớ nên phạm! Những gì là bốn?
Tức: Một là báng các pháp, hai là xả ly Bồ Đề tâm, ba là keo kiệt, bốn là não hại
chúng sanh. Vì sao vậy? Do tánh của bốn tội ấy là nhiễm; đấy chẳng phải là Bồ
Tát giới. Phần kệ tiếp đó nói: “Phi
trì Bồ Tát giới, thử tánh thị nhiễm” (Chẳng phải là trì Bồ Tát giới, vì
tánh của bốn món ấy là nhiễm). Bồ Tát Chân Ngôn hạnh nếu phạm bốn trọng cấm ấy,
sẽ giống như Thanh Văn phạm bốn tội căn bản. Nếu phạm các tội ấy, chính là đoạn
căn bản thiện nghiệp, hết thảy công đức đều chẳng thể sanh, như các thí dụ về
cây Đa La[16]
v.v… trong kinh Thanh Văn. Nhưng trong Đại Thừa, chẳng có ý nghĩa [thiện căn] “vĩnh viễn đoạn dứt”! Hễ chịu tự sửa
đổi, [thiện căn] sẽ liền sanh. Nếu phạm các tội ấy, sẽ chẳng phải là Bồ Tát, giống
như Thanh Văn phạm trọng giới, sẽ chẳng phải là tỳ-kheo! Vì lẽ nào vậy? Do
trong pháp Bồ Tát, bốn sự ấy có tánh gây nhiễm, có thể chướng ngại hết thảy các
công đức, khiến cho chúng chẳng thể sanh. Dẫu gặp nhân duyên mất mạng, cũng chớ
nên hủy phạm [bốn trọng giới ấy]. Kế đó, đức Phật lại dẫn chứng: Do quá khứ, vị
lai, hiện tại hết thảy chư Phật đều vì trọn đủ huệ phương tiện, do tu hành giới
này mà được tu học Vô Thượng Bồ Đề, đắc đại Tất Địa. Đại Tất Địa tức là cái quả
của diệu hạnh, tức là thành Bồ Đề.
“Vô
hữu lậu” tức là tánh giới. Phương tiện ly trí Học Xứ cũng là nói về
Thanh Văn. Kinh văn nói “Bậc đại dũng
đó” ngụ ý: Đức Phật vì hàng Thanh Văn cũng nói giới cụ túc và tứ trọng
v.v…, nhưng các pháp ấy nhằm thâu nhiếp một loại tiểu căn tánh, quyền biến mà
nói như thế, chưa phải là rốt ráo! Do vậy, giới này lìa phương tiện, phương tiện
và trí đều chưa trọn đủ. Nếu có thể hướng theo Đại Thừa, học thêm diệu giới,
bèn có thể trọn đủ Bồ Tát giới vậy! [Kinh nói] bậc Đại Dũng là chỉ ngài Kim
Cang Thủ để bảo ban. Đức Phật do thấy hữu tình hèn kém, chẳng có chí nguyện Đại
Thừa, muốn thâu nhiếp họ vào nhà của bậc trưởng giả, chẳng để họ ở trong xóm
nghèo, phí công nhọc nhằn, khổ sở mà chẳng đạt được gì. Vì thế, thâu nhiếp vào
trong pháp này, chẳng phải là bổn ý xuất thế của Phật. Vì vậy, giới này chẳng
phải là giới vô lậu chẳng nghĩ bàn thuộc Phật huệ. Nếu đã nhập trí vô lậu của
Phật, sẽ tự chứng biết!
[1] Chánh
kinh chỉ ghi tên phẩm này là phẩm Thọ Phương Tiện Học Xứ.
[2] Thâu Lan
Giá (Sthūlātyayas) có nghĩa là Đại Chướng Thiện Đạo, Đại Tội, Thô Ác Tội v.v… Tức
các tội chẳng thuộc vào năm loại kia (Ba La Di, Tăng Tàn, Bất Định, Xả Đọa, Đơn
Đọa). Do các điều này thuộc về giới luật của Tăng Sĩ, nên không ghi chi tiết!
[3] Trí giải
thoát hãy còn có chấp trước một bên, chẳng hạn như bậc Thanh Văn biết các pháp
khổ, không, vô thường, vô ngã, bèn chấp vào đó, chứng Thiên Chân Niết Bàn, chưa
giải ngộ Chân Không Diệu Hữu, thường, lạc, ngã, tịnh, nên gọi là Biên Trí.
[4] Thạch nữ:
Người đàn bà không có khả năng sanh nở.
[5] Phật
Tánh Luận là một bộ luận do Thiên Thân Bồ Tát soạn, được ngài Chân Đế dịch sang
tiếng Hán dưới đời Trần. Luận này nhằm giải thích cặn kẽ từ phẩm năm đến phẩm bảy
của Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận, xiển minh ý chỉ “hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh”, cũng như luận định tỉ mỉ thể tướng của Phật tánh, phân định Phật
tánh gồm ba loại, tức:
- Trụ tự
tánh tánh, tức là Phật tánh sẵn có của hết thảy phàm phu.
- Dẫn xuất
tánh, tức Phật tánh được hiển hiện bởi sự tu hành.
- Chí đắc
tánh, tức Phật tánh trọn đủ khi đã đắc Phật quả.
[6] Đây là
nêu một thí dụ, như cứu người chết đuối, tuy tỳ-kheo không được va chạm, tiếp
xúc thân người nữ, nhưng vì để cứu lên, có thể ôm, ẵm người ấy đem ra khỏi nước.
[7] Đây là
câu chuyện về nghiệp báo tiền thân của đức Phật. Khi đức Phật đi vào rừng giáng
hương, có một cái gai nhọn (có bản chép là mũi thương bằng gỗ hay vàng) đuổi
theo toan đâm đức Phật, cho đến khi đức Phật duỗi chân cho mũi thương (mũi gai)
ấy đâm vào thân Phật chảy máu, nó mới biến mất. Nhân đó, đức Phật kể chuyện tiền
kiếp: Trong vô số A-tăng-kỳ kiếp trước, có hai thương chủ (người cầm đầu các
lái buôn), mỗi người dẫn theo năm trăm thương nhân vào biển tìm của báu. Sau
khi đến được hòn đảo chứa nhiều của báu, thu nhặt của báu xong, một thương chủ
muốn quay về, thương chủ kia không chịu. Khi đó, có thiên nữ hiện ra bảo họ hãy
rời đi, vì sau bảy ngày, hòn đảo sẽ hoàn toàn bị nhấn chìm dưới sóng biển. Lại
có một ma nữ hiện ra bảo họ: “Nơi này hết sức vui sướng, thứ gì cũng đều có,
sao bị chìm đắm cho được? Thiên nữ nói bịa đấy”. Vị thương chủ muốn quay về,
nghe lời thiên nữ, thu thập hành lý, chuẩn bị giong buồm trở về. Bảy ngày sau,
quả nhiên hòn đảo bị nhấn chìm. Mọi người đều phải lên thuyền. Vị thương chủ
trước đó không muốn đi, do thiếu chuẩn bị, mất sạch các thứ của báu đã thâu nhặt,
muốn giành thuyền và của báu của vị thương chủ muốn rời đi trước đó. Trong khi
tranh chấp, người đó bị vị thương chủ đã chuẩn bị vô ý giết chết. Vị thương chủ
đã chuẩn bị chính là tiền thân đức Phật. Do oán hận, kẻ bị giết chết cứ đuổi
theo thân Phật từ kiếp này sang kiếp khác để tìm cơ hội báo thù.
[8] Tùy Miên
(Anuśaya), còn gọi là Sử, hoặc Sử Phiền Não, nhưng giới hạn trong hiện hành phiền
não, nó ẩn ngầm trong nội tâm như bóng theo theo hình, nhỏ nhiệm khó nhận biết
như “đang ngủ say”. Do vậy gọi là Tùy Miên, gồm ba loại là Tham Tùy Miên, Sân
Tùy Miên và Si Tùy Miên. Tức là tập tánh trong ý thức. Nói đại lược thì là Thập
Sử (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới
thủ kiến), còn nếu phân tích tỉ mỉ thì gồm hai loại lớn là Phiền Não Tùy Miên
và Hiện Hành Tùy Miên, mỗi loại lại có hai mươi tiểu loại như Hiển Dương Thánh
Giáo Luận đã nói.
[9] Vị này
còn được gọi là Thảo Hệ tỳ-kheo (Kusavandhana). Theo Đại Trang Nghiêm Kinh Luận
quyển ba, có tỳ-kheo gặp phải đạo tặc, đạo tặc liền dùng cỏ tươi trói lại. Do sợ
làm hại sanh mạng của cỏ, tỳ-kheo chẳng dám tự cởi trói. Kinh thường dẫn chuyện
này để ca ngợi người nghiêm trì giới cấm, như quyển hạ của kinh Phạm Võng có
câu: “Nhược Phật tử hộ trì cấm giới, hành, trụ, tọa, ngọa, nhật dạ lục thời độc
tụng thị giới, do như kim cang, như đới trì phù nang dục độ đại hải, như thảo hệ
tỳ-kheo” (Nếu Phật tử hộ trì giới cấm, đi, đứng, nằm, ngồi, ngày đêm sáu thời đọc
tụng giới này, ví như kim cang, như đeo phao nổi muốn vượt biển cả, như tỳ-kheo
bị cỏ trói).
[10] Theo Tứ
Phần Luật, mười loại nữ nhân được thủ hộ là mẫu hộ (được mẹ bảo vệ), phụ hộ (được
cha bảo vệ), phụ mẫu hộ (cha mẹ bảo vệ), huynh hộ (anh bảo vệ), tỷ hộ (chị bảo
vệ), huynh tỷ hộ, tự hộ, pháp hộ, tánh hộ, tông thân hộ. Hai loại đầu là khi
cha mất, mẹ còn, hoặc ngược lại. Loại thứ ba là cha mẹ còn đầy đủ. Ba loại kế
đó là khi cha mẹ đã mất, cô gái được anh, chị bảo bọc. Tự hộ là không có thầy bạn,
nhưng tánh tình đoan trinh, không bị nhuốm bẩn. Pháp hộ là được thủ hộ bởi luật
pháp như các quy định của quốc gia nghiêm cấm xâm phạm gái góa, gái độc thân, nữ
tu v.v… Tánh hộ là các cô gái xuất thân từ thế gia vọng tộc, được dòng họ bảo vệ.
Tông thân hộ là như khi cha mẹ, anh chị không còn, sẽ được họ hàng bảo vệ.
[11] Phi thời
là như vợ chồng ăn nằm không đúng lúc, đúng chỗ như đang ngày giỗ, đang lúc bệnh
tật, vợ đang có kinh nguyệt, đang lúc có tang, nhằm ngày vía của Phật, Bồ Tát,
hoặc nhằm lúc trai giới, lúc kết thất tu tập, tụng giới, đang trong lúc cử hành
pháp hội v.v…
[12] Kinh
Tăng Già Trá (Ārya Saṃghāṭa sūtra) do vương tử nước Ưu Thiền Ni (Ujjeni) là
ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūna) dịch. Đây là bản dịch khác của Đại Tập Hội
Chánh Pháp Kinh (bản này do ngài Thí Hộ (Danāpāla) dịch). Kinh chép các câu
chuyện thực hiện Bồ Tát đạo và hồi hướng công đức do hành Bồ Tát đạo hòng thành
tựu Phật quả.
[13] Ma Nạp
Bà dịch nghĩa là Thắng Ngã, tức là một tông phái Bà La Môn đặc biệt tôn sùng thần
Tỳ Sắt Nữu (Vishnu), cho rằng trong thân người tồn tại một chân ngã thắng diệu,
là một điểm linh quanh tách ra từ Đại Ngã.
[14] Đây
chính là chuyện tiền thân của Phật Thích Ca. Ma Nạp Bà dịch nghĩa là Nho Đồng
(đứa bé trẻ tuổi thông minh), do dâng hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng mà được thọ
ký sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
[15] Câu này
hơi khó hiểu, theo ngu ý, ngài Nhất Hạnh muốn nói: Ngài Kim Cang Thủ muốn hỏi
pháp nào để có thể giữ giới mà chẳng nẩy sanh sự chấp trước vào các thiện pháp.
[16] Tức là
thí dụ cây Đa La bị chặt cụt sẽ không thể mọc lại.
Comments
Post a Comment