Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
10. Phẩm
thứ mười: Tự luân
Tự Luân Phẩm Đệ Thập
字輪品第十
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: - Đế thính, Bí Mật Chủ! Hữu Biến Nhất Thiết Xứ pháp môn. Bí Mật Chủ! Nhược
Bồ Tát trụ thử tự môn, nhất thiết sự nghiệp giai tất thành tựu.
(經)爾時,薄伽梵毘盧遮那告持金剛祕密主言:諦聽。祕密主!有遍一切處法門。祕密主!若菩薩住此字門,一切事業皆悉成就。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na bảo
Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, này Bí Mật Chủ! Có pháp môn trọn khắp
hết thảy mọi nơi. Bí Mật Chủ! Nếu Bồ Tát trụ trong tự môn này, hết thảy các sự
nghiệp thảy đều thành tựu).
Đức Phật lại bảo ngài Kim
Cang Thủ vì trước đó ngài Kim Cang Thủ thưa hỏi, đức Phật đã giải đáp theo thứ
tự. Nhưng kinh văn trong phần trước chưa nói trọn hết, nay lại nói thêm; vì thế,
răn “hãy lắng nghe!” Có pháp
môn tên là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp hết thảy mọi nơi), khi Bồ Tát trụ
trong vị trí của các chữ, hết thảy các việc làm sẽ đều được thành tựu, tức là
pháp môn tự luân này chính là pháp môn trọn khắp hết thảy mọi nơi. Nếu Bồ Tát
trụ trong pháp môn tự luân này, khởi đầu từ phát diệu Bồ Đề tâm cho tới khi
thành Phật, trong khoảng ấy, tất cả hết thảy các loại sự nghiệp tự lợi và lợi
ích người khác đều do nhập pháp môn này mà hết thảy đều được thành tựu, chẳng hề
vướng mắc, ngăn ngại. Lại nữa, đối với những điều đã nói trước đó, đối với chuyện
A-xà-lê trụ trong Phật địa, ý nghĩa vẫn chưa trọn hết, sẽ được nói trong tự môn
này.
(Kinh) Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a. Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
sa. Nam ma tam mạn đa phạt chiết ra nạn, phạ. Ca khư nga già, giá xa nhã xã,
trá trá noa đồ, đa tha na đà, ba phả ma bà, dã ra la phạ, xa sa sa ha, cật-sái.
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, a. Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sa. Nam ma tam mạn
đa phạt chiết ra nạn, phạ. Ca khư nga già, giá xa nặc xã, trá trá noa đồ, đa
tha na đà, ba phả ma bà, dã ra la phạ, xa sa sa ha, cật-sái. Nam ma tam mạn đa
bột đà nẫm, ám. Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, tảm. Nam ma tam mạn đa phạt chiết
ra nạn, vãm. Kiếm khiếm nghiễm kiệm. Chiêm xiêm nhiễm chiêm. Chiếm siểm nẫm trạm.
Đảm thám nạm đạm. Biêm phiếm vãm phạm, diêm ram lam vãm, thiểm sam sâm hàm, cật-sam.
Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, á. Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, sách. Nam ma tam
mạn đa phạt chiết ra nạn, mạc. Kiêu khước ngược cự, chước xước nhược thược,
trách sách nạch trạch, đát thác nặc đạc, bác bạc mạc bạc, dược lạc lạc mạc, thước
sách sách hoắc, cật-sách. Y ải ổ ô, rị lý lý ly, ế ái ô áo, ngưỡng nhưỡng noa nẵng
mãng, ngưỡng nhưỡng nĩnh nang mang, nghiễm nhiêm nẫm nam vãm, ngược nhược nạch
nặc mạc.
(經)南麼三曼多勃馱喃阿。南麼三曼多勃馱喃娑。南麼三曼多伐折囉𧹞嚩。迦佉哦伽。遮車若社。吒咤拏荼。多他娜馱。波頗麼婆。野囉邏嚩。奢沙娑訶。吃灑。南麼三曼多勃馱喃阿。南麼三曼多勃馱喃娑。南麼三曼多伐折囉𧹞嚩。迦佉誐伽。遮車惹社。吒咤拏荼。多他娜馱。波頗麼婆。野囉邏嚩。奢沙娑訶。吃灑。南麼三曼多勃馱喃暗。南麼三曼多勃馱喃糝。南麼三曼多伐折囉𧹞鑁。劍欠儼儉。占襜染瞻。𪗦𭌂喃湛。擔探腩淡。𠷖𭈠𭍊𭊃。閻㘕藍𭍊。睒衫參頷吃衫。南麼三曼多勃馱喃噁。南麼三曼多勃馱喃索。南麼三曼多伐折囉𧹞莫。𭕷却虐噱。灼綽弱杓。磔坼搦擇。呾託諾鐸。博泊漠簿藥𡀩落嗼。鑠嗦索臛吃索。伊縊塢烏。哩𭉜里狸。翳藹汙奧。仰壤𠸎曩莽。𠵫穰儜囊忙。噞髯喃南鑁虐弱搦諾莫。
(Kinh: Namaḥ
samantabuddhānāṃ, a. Namaḥ samantabuddhā-nāṃ, sa. Namaḥ samantavajrāṇāṃ, va. Ka kha ga gha, ca
cha ja jha, ṭa ṭha ḍa ḍha, ta tha da dha, pa pha ba bha, ya ra la va, śa ṣa sa
ha, kṣa. Namaḥ samantabuddhānāṃ, ā. Namaḥ samantabuddhānāṃ, sā. Namaḥ
samantavajrāṇāṃ, vā. Kā khā gā ghā, cā chā jā jhā, ṭā ṭhā ḍā ḍhā, tā thā dā
dhā, pā phā bā bhā, yā rā lā vā, śā ṣā sā hā, kṣā. Namaḥ samantabuddhānāṃ, aṃ.
Namaḥ samantabuddhānāṃ, saṃ. Namaḥ samantavajrāṇāṃ, vaṃ. Kaṃ khaṃ gaṃ ghaṃ, caṃ
chaṃ jaṃ jhaṃ, ṭaṃ ṭhaṃ ḍaṃ ḍhaṃ, taṃ thaṃ daṃ dhaṃ, paṃ phaṃ baṃ bhaṃ, yaṃ raṃ
laṃ vaṃ, śaṃ ṣaṃ saṃ haṃ, kṣaṃ. Namaḥ samantabuddhānāṃ, aḥ. Namaḥ
samantabuddhānāṃ, saḥ. Namaḥ samantavajrāṇāṃ, vaḥ. Kaḥ khaḥ gaḥ ghaḥ, caḥ chaḥ
jaḥ jhaḥ, ṭaḥ ṭhaḥ ḍaḥ ḍhaḥ, taḥ thaḥ daḥ dhaḥ, paḥ phaḥ baḥ bhaḥ, yaḥ raḥ laḥ
vaḥ, śaḥ ṣaḥ saḥ haḥ, kṣaḥ. I ī u ū ṛ ṝ ḷ ḹ e ai o au. Ṅa ña ṇa na ma, ṅā ñā ṇā
nā mā, ṅaṃ ñaṃ ṇaṃ naṃ maṃ, ṅaḥ ñaḥ ṇaḥ naḥ maḥ).
Chữ A đầu tiên chính là Bồ
Đề tâm. Nếu quán chữ này mà được tương ứng, sẽ giống như cái Thể nơi Pháp Thân của
Tỳ Lô Giá Na Phật. Tức là quán luân chữ A này, sẽ giống như đuôi chim công có
quang minh nhiễu quanh; hành giả trụ trong đó, tức là trụ trong địa vị Phật. Tự
luân này được chia thành ba tầng, các chữ khác là quyến thuộc bên ngoài. Chữ A
lại có năm loại, [tức là]: A, a âm dài, ám, á, á âm dài (a, ā, aṃ, aḥ, āḥ). Trước mỗi tự luân, lại có chân ngôn tâm ba tầng quy mạng Tam Bảo, tức là
chữ A, chữ Sa, và chữ Phạ (Va), nghĩa là ba chữ ấy hiển lộ ý nghĩa của ba bộ.
Chữ A là Như Lai bộ, chữ Sa là Liên Hoa bộ, chữ Phạ là Kim Cang bộ. Mỗi bộ
trong ba bộ đều thuận theo năm tự luân (a, ā, aṃ, aḥ, āḥ) mà chuyển, có tướng tương ứng thuận theo nghĩa. Trong phần trước gọi là Mạn-đồ-la,
nay gọi là Luân, tức là nói theo ý nghĩa của chữ Mạn-đồ-la[1].
Trong phần trước, trung tâm của đàn pháp là Đại Nhật Như Lai, tức là giống với
chữ A ở đây. Phía Bắc [của Mạn-đồ-la] đặt Liên Hoa (tức Bộ Chủ của Liên Hoa Bộ
là Quán Thế Âm Bồ Tát) và các quyến thuộc đều ở cùng một chỗ, tức là chữ Sa ở
đây. Phía Nam [của Mạn-đồ-la] đặt Chấp Kim Cang và các quyến thuộc, tức là chữ
Phạ ở đây. Nay từ chữ A mà sanh ra bốn chữ (a, ā, aṃ, aḥ) tức là “lá” của Đại Bi
Thai Tạng vậy! Từ một chữ Phạ, chuyển sanh nhiều chữ; vì thế gọi là Luân. Chữ A
thứ nhất chính là cái Thể của Bồ Đề tâm. Kế đó có năm âm là Ca, Khư, Nga, Già
(ka, kha, ga,
gha, कखगघ), đều dùng bốn chữ (a, ā, aṃ, aḥ) [để tạo
thành bốn tầng tự luân], trừ chữ thứ năm (āḥ). Lại nữa, từ chữ Ra (र) cho đến Khất-xoa (क्ष, kṣa) đều là nam thanh (các tiếng thuộc giống đực), đều nhập
trong A tự luân. Hành giả đã phát Bồ Đề tâm, hãy nên tấn tu Như Lai hạnh. Vì thế
kế đó, nói tự luân Ā. Đó là hạnh, ba bộ (Phật bộ, Liên Hoa bộ, Kim Cang bộ) của
chữ ấy chính là ba chữ A, Sa, Phạ (Ā, Sā, Vā). Kế đó, từ chữ Ca (क, Ka), cho đến Khất-xoa, cũng đều
thêm cái vạch bên cạnh để tạo thành tự luân có âm dài (tức là का - Kā). Đã trọn đủ Như Lai hạnh, sẽ thành Bồ Đề. Vì thế, kế đó nói các tự luân
Ám, Tảm, Vãm (Aṃ, Saṃ, Vaṃ
- अं, सं, वं); đó là ba bộ. Trên chữ A (अ) có chấm (अं), tức là nghĩa Đại Không. Do Bồ Đề
tâm ấy, lìa hết thảy các tướng, liền gọi là “chư Phật”, tức là thành Bồ Đề.
Kế đó, từ chữ Ca cho đến Khất-xoa,
đều thêm một chấm, tức là Ám tự luân. Đã thành Bồ Đề, sẽ tới chỗ nào? Tức là Đại
Niết Bàn; vì thế, kế đó nói các tự luân ác, sách, mạc (aḥ, saḥ, vaḥ, अः, सः, वः) v.v… trong ấy là ba bộ. Như từ chữ Ca cho đến Khất-xoa, bên
cạnh đều thêm hai chấm, tức là Niết Bàn luân. Một chữ Á (āḥ, âm dài) là phương tiện luân; do vậy, không có ở đây (không được nói đến ở
đây). Đó là Thích Ca Phật luân (Yết Ma Bộ[2]
vào trong hết thảy các luân; do vậy, chẳng có đàn riêng. Du Già nói như vậy).
Phàm tự luân đại lược chia
thành ba phần:
- Chữ A đầu tiên chính là một
phần.
- Kế đó, từ chữ Ca (Ka) trở
đi, gồm hai mươi chữ (ka, kha, ga, gha, ca, cha, ja, jha, ṭa, ṭha, ḍa, ḍha, ta, tha, da, dha,
pa, pha, ba, bha - क, ख, ग, घ, च, छ, ज, झ, ट, ठ, ड, ढ, त, थ, द, ध, प, फ, ब, भ) là phần thứ hai.
- Kế đó, từ chữ Dã (Ya) cho
đến chữ Ha là phần thứ ba (tức ya, ra, la, va, śa, ṣa, sa, ha - य, र, ल, व, श, ष, स, ह). Ngoại trừ chữ Khất-xoa (kṣa), do chữ này đã là trùng âm (tức
là có hai âm Ca và Sa ghép lại, nên nói là trùng âm).
Trên đây đều là các chữ trí
huệ. Kế đó, có tám chữ Y, Y, Ổ, Ô, Ế, Ái, Ố, Áo (i, ī, u, ū, e, ai, o, au - इ, ई, उ, ऊ, ए, ऐ, ओ, औ). Thêm tám chữ này, tức là thành tựu tam-muội, đều là âm thanh tam-muội.
Cũng thuận theo năm luân mà luôn luôn chuyển, ý nghĩa dễ thấy.
Kế đó có các chữ Nga, Nhã,
Trá, Nang, Mạc (ṅa, ña, ṇa,
na, ma) trọn khắp hết thảy các xứ, tức là trọn khắp trong Định Huệ. Nhưng
năm chữ này cũng tùy theo năm luân mà chuyển, tức là thêm cái chấm bên cạnh, hoặc
thêm cái chấm tròn phía trên, hoặc thêm hai chấm bên cạnh, thì năm chữ ấy đều
thành năm chữ. Được gọi là “tự luân”,
tức là từ các luân ấy sanh ra các chữ. “Luân”
có nghĩa là “sanh”, như từ một
chữ A sanh ra bốn chữ, tức A là Bồ Đề tâm, A (ā) là hành, Ám (aṃ) là thành tựu Bồ Đề, Á (aḥ) là Đại Tịch Niết Bàn, Á (âm dài, tức āḥ) là phương tiện.
Giống như chữ A, hãy nên biết
chữ Ca (Ka) cũng có năm chữ (tức ka, kā, ka, kaṃ, kaḥ, kāḥ), cho đến hai mươi chữ như Khư (Kha), cũng nên biết là giống như vậy. Kế
đó, có mười hai chữ, tức là Ý, Y, Ổ, Ô, Rô, Lưu, Lô, Lưu, Ế, Ái, Ô, Áo (I, ī, u, ū, ṛ, ṝ, ḷ, ḹ, e, ai,
o, au (इ, ई, उ, ऊ, ऋ, ॠ, ऌ, ॡ, ए, ऐ, ओ, औ) chánh kinh phiên âm là “Y, ải, ổ, ô, rị, lý, lý, ly, ế, ái, ô, áo”) là các chữ phía trên cùng có cái chấm, được gọi là tam-muội. Ngưỡng, nhưỡng,
noa, nẵng, mãng (ṅa, ña, ṇa,
na, ma, ङ, ञ, ण, न, म) cũng có năm chữ, tức là giống như trên, phía trên đều có chấm. Tám chữ
như Dã, Ra (yaḥ, raḥ - यः, रः) v.v… đều là các chữ bên cạnh có hai chấm, có nghĩa là “trừ khử”. Hãy nên biết các tự luân
này trọn khắp trong hết thảy các chân ngôn.
Nếu thấy chữ A, hãy nên biết
nghĩa là Bồ Đề tâm. Nếu thấy chữ A âm dài (ā, आ), hãy nên biết là “tu Như Lai hạnh”. Nếu thấy chữ Ám (aṃ, अं), hãy nên biết là “thành Tam Bồ Đề”. Nếu thấy chữ Á (aḥ, अः), hãy nên biết là “chứng Đại Niết Bàn”. Nếu thấy chữ Á âm dài (āḥ, आः), hãy nên biết là “sức phương tiện”. Nếu thấy hai mươi chữ như Ca v.v…,
cũng tùy theo từng loại mà diễn nói. Hãy nên biết các chữ ấy đều là huệ. Nếu thấy
tám chữ như Ra v.v… hãy nên biết là cùng có cái chấm bên cạnh, cũng tùy loại
tương ứng (tức Ra là “vô cấu”
v.v…) Nếu thấy các chữ như Y (इ) v.v… hãy nên biết là hiển thị tam-muội. Nếu thấy năm chữ
như Ngưỡng (ङ, ṅa) v.v… hãy nên biết chính là cái chấm Đại Không. Đại Không lìa hết thảy các
tướng, tức là nghĩa “thành Phật”.
Nếu hành giả liễu đạt như thế, liền có thể nhập hết thảy các nghĩa Đà-la-ni,
xoay chuyển vô ngại. Do vậy, gọi là “tự
luân”!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị tự môn đạo, thiện xảo pháp môn thứ đệ trụ
Chân Ngôn đạo, nhất thiết Như Lai thần lực chi sở gia trì, thiện giải Chánh Biến
Tri đạo Bồ Tát hành vũ, quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật Thế Tôn dĩ thuyết,
kim thuyết, đương thuyết. Bí Mật Chủ! Ngã kim phổ quán chư Phật sát độ, vô bất
kiến thử Biến Nhất Thiết Xứ pháp môn, bỉ chư Như Lai vô hữu bất tuyên thuyết giả.
Thị cố, Bí Mật Chủ! Nhược dục liễu tri Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát,
ư thử Biến Nhất Thiết Xứ pháp môn, ưng cần tu học.
(經)祕密主!如是字門道、善巧法門次第住真言道,一切如來神力之所加持,善解正遍知道菩薩行舞,過去未來現在諸佛世尊已說當說今說。祕密主!我今普觀諸佛剎土,無不見此遍一切處法門,彼諸如來無有不宣說者。是故祕密主!若欲了知真言門修菩薩行諸菩薩,於此遍一切處法門應勤修學。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Tự môn đạo như thế, pháp môn
thiện xảo theo thứ tự trụ trong đạo Chân Ngôn, được thần lực của hết thảy Như
Lai gia trì, Bồ Tát khéo hiểu đạo Chánh Biến Tri hóa hiện thần biến, quá khứ, vị
lai, hiện tại chư Phật Thế Tôn đã nói, nay nói, sẽ nói. Bí Mật Chủ! Nay ta quán
trọn khắp các cõi Phật, không đâu chẳng thấy pháp môn Trọn Khắp Hết Thảy Các Chỗ
này, các đức Như Lai ấy, không vị nào chẳng tuyên nói. Vì thế, này Bí Mật Chủ!
Nếu muốn biết rõ các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, hãy nên ở trong
pháp môn Biến Nhất Thiết Xứ này mà siêng năng tu học).
Kinh nói như thế chính là nói về tự luân trên đây. Như phần trên đã nói Định,
Huệ, Không v.v… Đó chính là cửa nẻo trong Phật đạo, là đạo có thể thành Chánh
Giác. Nếu hiểu rõ ý nghĩa của chữ, sẽ có thể trụ trong đạo Chân Ngôn, và cũng đều
hiểu rõ thứ tự pháp tắc, tướng trạng chứng nhập, giai vị sai khác, thấu hiểu
thông tắc, chẳng bị ngờ vực, trầm trệ. Nhưng các tự mẫu Tất Đàm này, thậm chí
các đứa trẻ trong thế gian cũng thường tu tập[3],
sao lại có thể nhanh chóng hoàn thành chuyện như thế? Các chữ ấy đều được thần
lực gia trì, lưu xuất từ thể tánh nội chứng của Như Lai, cho nên có thể có nghiệp
dụng chẳng thể nghĩ bàn ấy. Nếu ai hiểu rõ ý thú và phương tiện trong ấy, tức
là thông đạt đạo Tam Bồ Đề.
“Thiện năng thông đạt” (Có thể khéo thông đạt) nghĩa là liễu
đạt các căn và tánh tình ham muốn của hết thảy chúng sanh, nên dùng pháp gì để
họ được nhập đạo, sẽ nên dùng môn gì để họ được hiểu ngộ, vô lượng vô biên như
thế đều có thể biết rõ, tùy thuận chúng sanh mà trao cho diệu pháp, đều khiến
cho họ đạt đến địa vị Như Lai. “Vũ”
là như người đời nhảy múa; nhưng ở trong đại chúng, các thứ thân nghiệp cử động
như co, duỗi, cúi, ngửa, [đều gọi là “vũ”],
lại phát ra đủ loại âm khúc phương tiện vi diệu. Thuận theo sự ưa muốn của
chúng sanh, đại chúng sẽ hoặc hoan hỷ, hoặc suy nghĩ buồn bã, hoặc hoảng sợ.
Dùng cùng một phương tiện do thân và miệng phát ra, mà các chúng sanh đạt được
lợi ích bất đồng, do khéo biết phù hợp với họ, do có thể thuận theo cái tâm của
chúng sanh. Bồ Tát cũng thế, hiện ra đủ loại oai nghi, không gì chẳng trở thành
ấn, thốt ra đủ loại pháp âm mầu nhiệm đều là chân ngôn, ứng hợp trọn vẹn không
ngằn mé, đều đạt được lợi ích to lớn. Do vậy gọi là “Bồ Tát vũ”. “Tam thế
Như Lai đều nói như thế, đã nói, nay nói, sẽ nói tự môn chân ngôn tịnh đạo như
thế”: Mười phương chư Phật đạo giống nhau, đều hiện trọn khắp các sắc
thân như thế, dùng đủ loại môn để khai thị Phật đạo, giống như khúc múa ấy thuận
theo tình cảm của con người.
“Chẳng có ta và người khác”: Ta dùng Phật nhãn để quán trọn khắp
hết thảy các cõi Phật trong ba đời, [chư Phật đều] cùng nói môn này, hết thảy
chư Phật chẳng khác ta. Hết thảy chư Phật và các đức Như Lai ấy cũng giống như
thế, chẳng nói khác biệt. Vì thế nói là “không
có ta hay người khác”. Đấy chính giáo pháp của hết thảy chư Phật, hãy
nên tu như thế. Nếu khác với điều ấy, tức là phương tiện chẳng trọn đủ. Do bởi
điều này, Như Lai kết thành nghĩa ấy để bảo ngài Kim Cang Thủ. Nếu bảo với ngài
Kim Cang Thủ, hãy nên biết chính là bảo hết thảy các đại hội, tức là Bồ Tát tu
Chân Ngôn hạnh nếu muốn nhanh chóng đạt được pháp của cổ Phật, hãy nên tu học
pháp môn Biến Nhất Thiết Xứ như thế, tâm siêng năng lắng nghe tư duy, tu tập.
Do bởi lẽ ấy, trong một đời mà sẽ đạt được các thứ múa may, ca vịnh của hết thảy
Như Lai, khiến cho chúng sanh vui thích.
(Kinh) Ư Khả Giá Trá Đa Ba, sơ, trung, hậu tương gia, dĩ Đẳng Trì phẩm
loại tương nhập, tự nhiên hoạch đắc Bồ Đề tâm hạnh, thành Đẳng Chánh Giác, cập
bát Niết Bàn. Hữu thử đẳng sở thuyết tự môn tướng dữ hòa hợp Chân Ngôn giáo
pháp sơ, trung, hậu cụ. Chân Ngôn giả nhược như thị tri, tùy kỳ tự tâm nhi đắc
tự tại, ư thử nhất nhất cú, quyết định ý dụng chi, dĩ huệ giác tri, đương thọ
vô thượng thù thắng cú. Như thị nhất luân, luân chuyển tự luân, Chân Ngôn giả
liễu tri thử cố, thường chiếu thế gian, như Đại Nhật Thế Tôn nhi chuyển pháp
luân.
(經)於舸遮吒多波初中後相加,以等持品類相入,自然獲得菩提心行,成等正覺及般涅槃。有此等所說字門相與和合真言法教初中後俱,真言者若如是知,隨其自心而得自在,於此一一句決定意用之,以慧覺知,當授無上殊勝句。如是一輪,輪轉字輪。真言者了知此故,常照世間,如大日世尊而轉法輪。
(Kinh: Đối với các chữ Khả, Giá, Trá, Đa, Ba (ka,
ca, ṭa, ta, pa), thêm vào sơ phần, trung phần, hậu phần, dùng các phẩm loại của
Đẳng Trì để nhập, tự nhiên sẽ đạt được Bồ Đề tâm hạnh, thành Đẳng Chánh Giác, và nhập Niết Bàn. Có các tướng tự
môn như đã nói ấy hòa hợp với giáo pháp Chân Ngôn, trọn đủ sơ phần, hậu phần,
trung phần, nếu người hành Chân Ngôn biết như thế, sẽ thuận theo tự tâm mà đạt
được tự tại. Đối với mỗi câu ấy, sẽ dùng ý quyết định để vận dụng, dùng huệ để
nhận biết, sẽ trao truyền câu thù thắng vô thượng. Một luân như thế xoay chuyển
tự luân, người hành Chân Ngôn do biết rõ điều này, sẽ thường chiếu thế gian, giống
như Đại Nhật Thế Tôn mà chuyển pháp luân).
“Sơ trung hậu tương gia” (Thêm vào sơ phần, trung phần, hậu
phần): Năm chữ như A v.v… là Sơ. Hai mươi chữ như Ca v.v… là Trung. Tám chữ như
Ra v.v… đều có cái chấm bên cạnh, các chữ ấy đều giúp hoàn thành ý nghĩa của
các chữ [trước đó], nên thuộc về hậu phần. Phàm các chữ như Ca, Giá, Trá, Đa,
Ba (ka, ca, ṭa,
ta, pa) v.v… đều thuộc vào môn chữ A. Chữ A là Bồ Đề tâm, “thêm vào đó sơ, trung, hậu” tức là
riêng chữ A (अ) thì là Bồ Đề tâm. Nếu thêm một vạch
ở bên góc, [sẽ thành A âm dài (ā, आ)]. Đấy chính là Bồ Đề tâm và hành. Nếu thêm cái chấm (thành aṃ, अं), tức là Bồ Đề tâm và Đại Không lìa hết thảy các tướng, thành Bồ Đề. Nếu
chữ A thêm hai chấm vào bên cạnh (tức là aḥ, अः) thì chính là Bồ Đề tâm và trừ
hết thảy các chướng, đắc Niết Bàn. Các chữ khác đều phỏng theo đây mà lần lượt
thêm vào, hoặc chỉ một nghĩa, hoặc hai, hoặc ba nghĩa,
đều đáng nên biết. Hoặc có khi trên chữ A tuy không có chấm, nhưng chữ kế đó là
trọng tự, tức là có các âm ngưỡng, nhưỡng, noa, nẵng, mãng (ṅa, ña, ṇa, na, ma) v.v… thì sẽ nối với chữ trước đó thành âm Ám. Vì cớ sao vậy? Do các chữ
như Ngưỡng có chấm, thêm vào chữ trước đó, chữ A liền thành âm Ám. Hoặc chữ A
không có chấm, nhưng chữ tiếp theo là trọng tự lại có, như thêm trọng tự vào
các chữ Ca, Khư, Nga, Già (ka, kha, ga, gha), dùng chữ Ngưỡng làm cái chấm.
Giá, Xa, Xà, Xã (ca, cha, ja,
jha) dùng chữ Nhưỡng (ña) làm chấm. Các chữ khác phỏng theo
lệ này. Các thanh như Ra v.v… đều phối ứng với chữ trước đó, liền thành chữ Á.
Vì cớ sao vậy? Các chữ như Ra v.v… đều có hai điểm bên cạnh, nay nối liền [chữ
sau] với chữ trước, A liền thành âm Á. Pháp thể vô ngôn, lìa các phân biệt, hý
luận, lại được hết thảy Như Lai dùng thần lực tự tại gia trì, nên thành tự luân
này. Do vậy, có thể hành Như Lai sự để lợi ích các phẩm. Ca, Giá, Trá, Đá, Bả
(Ka, Ca, Ṭa, Ta, Pa)
[chính là] chứng Bồ Đề tâm hạnh do Phật truyền trao và Niết Bàn trong
phẩm, Tam Muội (tức phẩm Vô Tướng Tam Muội trong phần sau). Thêm vào tướng các
chữ đã nói ấy, bèn có Chân Ngôn giáo sơ, trung, hậu trọn đủ (đây là phần kinh
văn đã được giải thích xong). Người biết tùy ý trì tụng như thế, quyết ý thấu
hiểu tác dụng của mỗi câu.
“Đương thọ dữ vô thượng thù thắng cú” (Sẽ trao truyền câu vô thượng
thù thắng): Biết như thế thì chính là tên gọi khác của trí Nhất Thiết Trí. Nếu
hành giả biết rõ nghĩa tự luân như thế, những điều mong muốn đều được thành tựu.
Nói tóm lại, nói “hết thảy đều tùy ý
thành tựu” tức là thành tựu hết thảy các sự nghiệp của Như Lai. Nếu
thành tựu điều ấy, sẽ giống như đấng pháp vương có thể tự tại trong hết thảy
các pháp, cũng thuận theo bổn nguyện mà vì hết thảy chúng sanh khơi mở tri kiến
thanh tịnh, khiến cho họ đạt được Phật huệ. Ai sẽ đạt được lợi ích ấy? Chính là
người đúng như lý, trọn đủ duyên, khéo trì tụng. Vì thế, kế đó nói đến người
trì tụng. Ai đạt được ý quyết định ấy? Chính là người có huệ. Do khéo nhận biết
ý nghĩa của tự luân, thuận theo các chữ như A v.v… mà tu hành từng tự môn một,
quyết định đều đạt được thành tựu cái quả Bồ Đề, chớ sanh nghi hoặc!
Nhận biết pháp gì trong ấy?
Chính là như chữ A là Bồ Đề tâm, thêm cái chấm tức là Bồ Đề hạnh. Thêm Đại
Không tức là thành Phật. Nếu Bồ Đề tâm thanh tịnh, trừ hết thảy cái chướng, thì
chính là Đại Bát Niết Bàn, chẳng còn ý nghĩa nào khác. Mỗi mỗi đều thông đạt,
biết rõ như thế đó, tức là nhận được câu thù thắng vô thượng. “Câu vô thượng” chính là “thành Bồ Đề”. Cái tâm Vô Thượng Bồ Đề
ấy chính là Tự Nhiên Trí của chư Phật, thật sự chẳng thể truyền trao, nhưng
hành giả trọn đủ phương tiện, khéo biết ý nghĩa của tự luân, sẽ tự nhiên đạt được,
đó chính là “truyền trao Vô Thượng Bồ
Đề”. Mỗi tự luân chuyển một tự luân như thế, người biết trì tụng thường
hiểu rõ thế gian, giống như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na.
“Luân chuyển”: Giống như bánh xe trong thế gian, nếu lúc nó xoay
chuyển, sẽ chẳng thể biết đâu là đầu, đâu là cuối, chẳng có ngằn mé, chẳng thể
cùng tận. Hãy nên biết mỗi tự luân ấy cũng lại giống như thế: Từ chữ A xoay
chuyển, sanh ra hết thảy các chữ. Tự luân ấy gồm trọn danh tự của hết thảy các
chân ngôn trong đó, xoay chuyển tổng trì chẳng có ngằn mé, chẳng thể tận cùng
nguồn cội, trọn hết thảy các nơi, tức là trăm ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Nếu
hành giả có thể biết rõ ý nghĩa của tự luân như thế, sẽ có thể thường sáng suốt
chiếu thế gian. Sự sáng suốt thường trụ chính là cái thể của Đại Nhật Như Lai,
giống như đức Tỳ Lô Giá Na mà chuyển pháp luân. Sự thường sáng suốt trong ấy
chính là đại huệ nhật; vầng mặt trời ấy chính là cái Thể của chữ A trong Bồ Đề
tâm, vô sanh, vô tác, chẳng hề biến đổi, chẳng do tạo thành. Do trí huệ Thật Tướng
thường trụ như thế, nên gọi là “thường
sáng suốt”.
Nếu hành giả siêng năng tu lâu ngày, chẳng biếng nhác, lui sụt, chắc chắn
sẽ đạt được. Nhưng đối với phương quỹ và pháp dụng của Mạn-đồ-la như đã nói trên
đây, dùng rải hoa, quán đảnh, cho đến trao cho gương sáng, như dùng đũa vàng nạo
màng mộng trong mắt, các thứ như thế đều nhằm khai sáng, phát khởi Bồ Đề tâm,
dùng pháp dụng để phương tiện gia trì theo thứ tự nhằm thành tựu cái tâm kiên cố
cho học nhân, tạo thành thềm bậc để họ dần dần tiến nhập Phật pháp, nhưng bí chỉ
(ý chỉ bí mật) trong ấy vốn nằm trong tự luân. Vì lẽ nào vậy? Nếu hành giả làm
A-xà-lê cho người khác, muốn tạo lập Mạn-đồ-la, trước hết trụ trong địa vị Thế
Tôn, chính là dùng các tự môn này để kết hợp thành thân, tức là thân giống như
chư Phật. Đó gọi là Du Già A-xà-lê quán hạnh thành tựu, tùy tâm vận dụng, đều
được tùy ý thành tựu. Quán các tự luân ấy trải khắp thân phần giống như thấy
rõ. Vì thế, giống như Phật và Phật có cùng địa vị.
Nhưng khi sắp xếp các chữ,
hãy nên chia thành bốn phần, tức là bốn tầng Mạn-đồ-la:
- Đầu là sơ phần, là vị trí
của chữ A Bồ Đề tâm. Từ Ca, Khư, Nga, Già, Ngưỡng v.v… cho đến Xa, Sa, Ha, hễ
là thanh âm thứ nhất đều thuộc về Bồ Đề tâm. Từ tướng bạch hào giữa mày của
hành giả, hãy quán chữ Ca, từ chữ Khư trở đi, hãy nên xoay theo chiều phải,
chuyển theo hướng mặt trời, trọn hết một vòng, khiến cho [các chữ ấy] xoay chuyển
theo một vòng tròn khép kín.
- Kế đó, từ yết hầu trở xuống
là phần thứ hai, thuộc môn chữ A âm dài (ā), cũng nên trên dưới nối liền với
tướng bạch hào, xoay theo chiều phải, sắp xếp nối tiếp thành một vòng. Đấy
chính là Bồ Đề hạnh.
- Kế đó, từ tim trở xuống
là phần thứ ba, thuộc vào môn chữ Ám. Từ nơi tim, bèn xếp chữ Khiếm, lần lượt xoay
theo chiều phải nối tiếp nhau trọn hết một vòng.
- Kế đó, từ rốn trở xuống,
thuộc vào môn chữ Á, là Đại Niết Bàn, cũng từ đó mà đặt chữ Ca, xoay theo chiều
phải nối tiếp nhau trọn một vòng.
Đầu là thượng phần, từ cổ họng
đến tim là trung phần, rốn là hậu phần (tôi cho rằng phát Bồ Đề tâm là Sơ, hành quả là Trung, Đại Tịch
(Đại Niết Bàn) là Hậu). Chữ thứ năm là Á (âm dài, āḥ) trọn khắp hết thảy mọi nơi, tùy ý thực hiện đều đạt được. Chữ ấy ở ngoài
thân, như quang minh nơi thân Phật, tùy ý sử dụng, chẳng thuộc vào vị trí sắp xếp
các chữ trong thân. Chữ Ám cũng thế, giống như chữ Á. Thầy đã thành tựu thân
như thế, Mạn-đồ-la này cũng sắp xếp như thế, cũng nghĩ sẽ khiến cho đệ tử làm
như thế, ba sự đều thành, đó là Bí Mật Mạn-đồ-la. Nếu chẳng liễu đạt ý nghĩa
trong ấy, tuy nương theo các sự pháp trên đây để làm, chẳng gọi là “thiện tác” (khéo làm), uổng phí công
phu, trọn chẳng thành tựu gì! Lại nữa, cách sắp chữ này chính là Bí Mật Mạn-đồ-la,
nếu chính mình là người có hạnh tu tập đã lâu, thật sự hiểu rõ, kham truyền
trao thì mới dùng ý để truyền dạy, chẳng thể dùng văn tự để ghi chép được. Vì
thế, thầy trò khẩu truyền, chứ kinh chẳng nói, chỉ nói “như Tỳ Lô Giá Na luân chuyển”.
Lại nữa, hành giả cần biết
màu sắc của các chữ. Tức là từ chữ đầu tiên là chữ A và hai mươi lăm chữ như Ca
v.v…. cùng với Dã, Ra cho đến chữ Ha, đều thuộc về môn chữ A, đều có màu vàng.
Đó gọi là màu kim cang. Chữ A thứ hai (A âm dài, आ) chuyển thành màu vàng pha trắng,
đó gọi là Tịch Tĩnh Sắc. Thể của chữ A (अ) màu vàng, vạch tam-muội (cái vạch thẳng đứng bên phải chữ
A) là màu trắng. Do hai màu hợp lại, nên có sắc vàng pha trắng. Chữ thứ ba là
thêm chấm trên đầu, cũng là vàng và trắng, tức chữ Ám. Chữ A màu vàng, [cái chấm]
Đại Không màu trắng. Vì thế, nên là vàng và trắng. Kế đó, chữ thứ tư là Á chuyển
thành màu vàng pha đen, chữ A màu vàng, hai chấm Niết Bàn màu đen, cho nên là
vàng và đen. Cũng có thể hiểu hai chấm có nghĩa là “hàng phục”, giống như Niết Bàn hoại diệt, phá tan hết thảy các
pháp gây chướng ngại. Chữ này cũng giống như thế; do đó, hai chấm có màu đen.
Chữ thứ năm là Á (âm dài), chữ A màu vàng, chấm trên đó màu trắng, cái vạch bên
cạnh màu đen, hãy nên biết là [chữ này] có nhiều màu.
Phàm sắp xếp Mạn-đồ-la cũng
là ba tầng:
- Tầng thứ nhất là từ chữ
Ca cho đến chữ Ha, giáp vòng trong tầng đó, gọi là kim cang luân. Kim cang luân
ấy nắm giữ hết thảy các pháp, giống như trong thế giới, kim cang luân duy trì
thế giới, tức là Bồ Đề tâm luân tối sơ của hành giả. Ý nói: Muốn kiên cố Bồ Đề
tâm, trước hết, vẽ tầng bên trong.
- Luân thứ hai kế đó là A
và Ám. Đấy chính là hai luân A âm dài (ā) và Ám, cùng là trung phần. Nếu
dùng chữ Ca làm luân, thì chẳng cần dùng luân chữ Khiếm (Tôi cho rằng Ca là cái
nhân của hành giả, Khiếm là chứng cái quả ấy).
- Luân thứ ba sử dụng tự
luân Á, cũng theo đúng như trên mà sắp xếp, sao cho thành một vòng khép kín. Mười
hai chữ như Y v.v… xếp rải rác bên ngoài, giống như quang minh hình ngọn lửa.
Đấy chính là ý nghĩa “tam chuyển pháp luân”. Sắp xếp như
thế xong, người trì tụng chính là thân Trì Minh, giống hệt như được thần lực của
Đại Nhật Như Lai gia trì, chẳng có gì khác! Luân ấy cũng gọi là “nhân duyên luân”. Thầy và đệ tử cùng
với Mạn-đồ-la đều là luân bí mật như thế. Lại nữa, các chữ ấy chính là chân
ngôn luân, cho nên có bốn loại luân. Lại nữa, tự luân trong tiếng Phạn là Á Sát
Ra Luân (Aksaracakra), Á Sát Ra nghĩa là bất động. “Bất động” được gọi là “Bồ
Đề tâm chữ A”. Như đức Tỳ Lô Giá Na trụ trong thể tánh của Bồ Đề tâm, thị
hiện đủ loại phổ môn lợi ích, biến hiện đủ loại vô lượng vô biên. Tuy thị hiện
dấu tích chẳng cùng tận như thế, mà có thể thật sự thường trụ bất động, cũng chẳng
có tướng khởi diệt (dấy lên hay diệt mất). Giống như bánh xe tuy vận chuyển vô
cùng, nhưng chính giữa bánh xe chưa hề dao động. Do bất động, nên có thể tạo
thành các thứ chuyển động chẳng có cùng cực! Chữ A ở đây cũng lại giống như thế,
do vô sanh nên chẳng động, chẳng thoái, sanh ra hết thảy tự luân xoay chuyển vô
cùng. Do đó, gọi là “bất động luân”.
Nếu hành giả có thể liễu đạt cái luân bất động như thế, sắp xếp các Minh (thần
chú), tức là dùng cái Thể tự nhiên, những điều biểu thị bởi thân sẽ không gì chẳng
phải là mật ấn, những điều miệng nói đều là chân ngôn. Hễ có ai thấy, nghe, tiếp
xúc, nhận biết, nhất định sẽ đều thành tựu phước lợi nơi Vô Thượng Bồ Đề, chân
thật chẳng dối. Nếu có thể làm như thế, sẽ giống như đức Tỳ Lô Giá Na thực hiện
Phật sự, thường chiếu thế gian.
Khi hành giả trì tụng, hãy
nên quán tự luân, hoặc là cú luân. Cái được gọi là “cú luân” chính là quán nơi tâm Bổn Tôn có vầng tròn sáng, trong
ấy sắp xếp các chữ chân ngôn luân chuyển, tiếp nối, khiến cho [các chữ ấy] rành
rẽ hiện tiền. Khi trì tụng, quán các chữ ấy giống như sữa trắng, theo thứ tự chảy
rót vào miệng hành giả, hoặc xối vào đỉnh đầu, liên tục chẳng dứt, trọn khắp
thân thể, cho đến trọn khắp các chi phần. Chữ trong vầng tròn sáng ấy thường rõ
rệt, như nước thường chảy, chẳng có cùng tận. Trì tụng như thế đã mệt rồi, liền
chỉ trụ trong tâm tịch tĩnh, tức là quán các chữ chủng tử. Cách quán đã được
nói đầy đủ trong phần trước. Nếu đã được thấy chữ chủng tử, sẽ từ chữ chủng tử
mà trông thấy Bổn Tôn. Đã thành như thế xong, liền có thể sắp đặt trọn khắp các
tự luân, tạo thành cái thể Trì Minh, mới có thể kham làm các sự nghiệp. Chữ A
như thế nghĩa là “bất động”, là
kim cang thể. Phàm muốn cho sự việc kiên cố bất động, hoặc khiến cho đạo tâm của
mình lẫn người đều bất động v.v… đều dùng chữ A để gia trì. Hết thảy các chữ
khác cũng tùy theo từng sự tương ứng mà dùng!
[1] Mạn-đồ-la
(Maṇḍala) có nghĩa gốc là “vòng tròn”.
[2] Yết Ma Bộ
chính là một trong năm bộ của Kim Cang (tức Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Bảo Bộ, Kim
Cang Bộ và Yết Ma Bộ). “Bộ” có nghĩa là tập hợp các vị tôn thánh thể hiện các
khía cạnh thuộc về công đức, phẩm chất, thuộc tánh của một trong ngũ trí của
Như Lai. Yết Ma Bộ biểu thị phẩm đức nghiệp dụng hóa độ người khác, tức là Phật
vì độ chúng sanh mà rủ lòng bi mẫn, thành tựu hết thảy các sự nghiệp. Bộ này lấy
Bất Không Thành Tựu Phật làm Bộ Chủ, Bộ Mẫu là Nghiệp Ba La Mật Bồ Tát, thể hiện
lực dụng của Thành Sở Tác Trí. Bộ này bao gốm các vị Bồ Tát như Kim Cang Câu,
Kim Cang Tỏa, Kim Cang Sách, Kim Cang Linh v.v… Do trong Thai Tạng Giới chỉ có
ba bộ (Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, và Kim Cang Bộ) nên không nói đến Bảo Bộ và Yết Ma
Bộ. Tuy chỉ có ba bộ, nhưng vẫn trọn đủ ý nghĩa của ngũ bộ.
[3] Ý nói:
Khi chữ Tất Đàm còn thông dụng, đứa trẻ đi học đều phải học các tự mẫu này. Để
ghi nhớ, chúng nó cũng phải xướng bốn mươi hai chữ cái và ghép với bốn âm a, ā,
aṃ, aḥ để nhớ cách đọc, giống như phần tự luân ở đây. Có một số vùng tại Ấn Độ
khi dạy mẫu tự Hindi cho trẻ vẫn áp dụng cách này.
Comments
Post a Comment