Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
27. Phẩm thứ hai mươi bảy: Hộ-ma
thế gian và xuất thế gian
Thế Xuất Thế Hộ-ma Phẩm Đệ Nhị Thập Thất
世出世護摩品第二十七
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Vãng tích nhất thời, ngã vi Bồ Tát, hành Bồ
Tát hạnh, trụ ư Phạm Thế. Thời hữu Phạm thiên lai vấn ngã ngôn: - Đại Phạm! Ngã
đẳng dục tri hỏa hữu kỷ chủng?
(經)復次,祕密主!往昔一時我為菩薩,行菩薩行住於梵世,時有梵天來問我言:大梵!我等欲知火有幾種?
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Xưa kia, có một lúc ta là Bồ Tát, hành Bồ Tát hạnh, trụ
trong cõi trời Phạm Thế[1].
Khi đó, có Phạm thiên tới hỏi ta rằng: - Thưa Đại Phạm! Chúng tôi muốn biết có
mấy loại lửa?)
Trong Tịnh Hạnh Vi Đà Luận thuộc kinh
điển của ngoại đạo, có phương pháp cúng tế bằng lửa, nhưng trong Chân Ngôn môn
của Đại Thừa cũng có hỏa pháp. Vì lẽ nào vậy? Vì nhiếp phục một loại [chúng
sanh], dùng chuyện thuộc pháp Vi Đà để nhiếp phục họ. Nhưng nghĩa thú của chúng
(nghĩa thú của Vi Đà hỏa pháp và nghĩa thú của hỏa pháp trong Chân Ngôn môn) giống
như trời và đất, chẳng thể đặt cùng một chỗ! Nay muốn phân biệt tướng “tà,
chánh” ấy, khiến cho hành giả chẳng còn ngờ vực chi khác! Vì thế, trong phẩm
này, người truyền pháp đã nêu rộng duyên khởi. Đức Phật muốn trừ tâm ngã mạn
cho những người tịnh hạnh trong đời vị lai, tự nói bản thân Ngài khi làm Phạm
Vương, diễn bày pháp của Vi Đà ngoại đạo, khiến cho những kẻ thuộc tà tông tâm
phục; sau đấy mới nói chánh hạnh thuộc Chân Ngôn môn.
(Kinh) Thời, ngã như thị đáp ngôn: - Sở vị Đại Phạm Thiên, danh Ngã Mạn Tự
Nhiên. Thứ Đại Phạm thiên tử, bỉ danh Bả Phạ Cú, thế gian chi hỏa sơ. Kỳ tử
danh Phạm Phạn, tử danh Tất Đát Ra, Phệ Thấp Bà Nại La. Phục sanh Ha Phạ Nô, Hợp
Tỳ Phạ Ha Na, Bả Thuyết Tam Tỵ Đổ, cập A Thát Mạt Noa. Bỉ tử Bát Thể Đa, Bổ Sắc
Ca Lộ Đào. Như thị chư hỏa thiên, thứ đệ dĩ tương sanh.
(經)時,我如是答言:所謂大梵天,名我慢自然,次大梵天子,彼名簸嚩句。世間之火初,其子名梵飯,子名畢怛囉,吠濕婆捺羅。復生訶嚩奴,合毘嚩訶那,簸說三鼻覩,及阿闥末拏。彼子鉢體多,補色迦路陶,如是諸火天,次第以相生。
(Kinh: Khi đó, ta đáp như thế này: - Nói tới Đại Phạm
Thiên, tên Ngã Mạn Tự Nhiên. Kế đó, con Đại Phạm, tên là Bả Phạ Cú, khởi đầu lửa
thế gian. Con hắn tên Phạm Phạn, sanh con Tất Đát Ra, Phệ Thấp Bà Nại La. Lại
sanh Ha Phạ Nô, Hợp Tỳ Phạ Ha Na, Bả Thuyết Tam Tỵ Đổ, và A Thát Mạt Noa. Con hắn
Bát Thể Đa, Bổ Sắc Ca Lộ Đào. Các hỏa thiên như thế, lần lượt sanh ra nhau).
“Thời ngã như thị thuyết ngôn” (Khi
đó, ta nói như thế này) tức là đối với vị ấy (vị Phạm Thiên thưa hỏi có mấy loại
lửa) mà nói như thế này. Lửa [bắt nguồn từ vị Đại Phạm Thiên] có tên là Ngã Mạn
Tự Nhiên (Abhimānin-svayaṃbhū). Kế đó, con của vị
Phạm Thiên ấy sanh ra lửa tên là Bả Phạ Cú (Pāvaka), đó chính là lửa tối sơ của thế gian. Tức
là đời trước, khi ta hành Bồ Tát đạo, thị hiện làm Phạm vương. Lúc bấy giờ, có
các học nhân Phạm hạnh tới hỏi ta: “Trong pháp cúng tế lửa, có mấy loại lửa?”
Ta nói cặn kẽ. Nay thành Chánh Giác, bèn chứng biết lời nói trước kia là sai, lời
nói hiện thời là đúng. Vì thế, hành giả hãy nên vâng theo hỏa pháp thuộc chánh
hạnh trong hiện thời, chớ nên dùng pháp bất chánh, hư vọng trước kia. Kế đó, liệt
kê pháp cúng tế lửa thuộc tà tông, đều là những điều được nói trong kinh điển
Vi Đà (Vedas). Trước hết, nói đến cái gốc của hỏa thần. Tối sơ là Đại Phạm
vương, do ông ta chấp trước như thế này: “Hết
thảy đều sanh từ ta”, có lòng ngã mạn như thế đó. Lại còn chấp trước nói
“ta là thường hằng”, nên có tên
là Ngã Mạn (Abhimānin), và hiệu là Tự
Nhiên (Svayaṃbhū). Đó chính là Đại
Phạm Vương. Kế đó là con của Phạm Thiên, tức là Phạm Vương mang ý niệm muốn có
chúng sanh, họ bèn ứng theo ý niệm ấy mà sanh. Phạm Vương cho đó là con do
chính mình sanh ra. Đó là lửa tối sơ của vị trời ấy, được sanh ra tự nhiên.
Kế đó, từ chữ “Đại Phạm Thiên tử” trở đi là kệ tụng. “Sở sanh Bả Phạ Cú” (Sanh ra Bả Phạ Cú), đó là tên của lửa trong
thế gian. Từ đó trở đi lần lượt sanh ra nhau, đều là các Hỏa Thần trong pháp ấy
(pháp Vi Đà), nhưng cúng dường họ vô ích! Phạm Phạn Tử (Brahmodana) là tên của Hỏa Thiên, tức là con của
Phạm Tử (tức là con của Bả Phạ Cú). Tất Đát Ra (Pitara) lại là con của vị ấy.
Phệ Thuế Bà Nang Ra (Vaiśvānara,
chánh kinh phiên âm tên vị này là Phệ Thấp Bà Nại La) lại là con của vị ấy.
Ha Phạ Nô (Havana) lại là con của vị ấy. Hợp Tỳ Phạ Ha Nang (Havyavāhana, chánh kinh phiên âm
là Hợp Tỳ Phạ Ha Na) lại là con của vị ấy. Bả Thuyết Tam Tỵ Đổ (Pārśvasaṃvīta) lại là con của vị ấy.
A Thát Mạt Noa (Atharvaṇa) lại là con của vị
ấy. Bát Thể Đa (Prathita) lại là con của vị ấy. Bổ Sắc Ca Lộ Đào (Puṣkaroda) lại là con của vị ấy.
Trên đây đều là những vị được [các Bà La Môn] thờ phụng.
(Kinh) Phục thứ, trí thai tạng, dụng Mang Lộ Đa hỏa. Dục hậu táo quán thân,
Phạ Ha Mang Nang hỏa. Dục thê chi sở dụng, dĩ Mông Nghiệt Lô hỏa. Nhược sanh tử
chi hậu, dụng Bát Già Bổ hỏa. Vị tử sơ lập danh, dụng Bả Thể Vô hỏa. Ẩm thực thời
sở dụng, đương tri Thú Chỉ hỏa. Vị tử tác kế thời, ưng dụng Sát Tỳ hỏa. Thứ thọ
cấm giới thời, Tam Mô Bà Phạ hỏa. Cấm mãn thí ngưu thời, dụng Tố Rị Da hỏa. Đồng
tử hôn cấu thời, dĩ Du Giả Ca hỏa.
(經)復次,置胎藏,用忙路多火;欲後澡盥身,嚩訶忙囊火;浴妻之所用,以瞢蘖盧火;若生子之後,用鉢伽蒲火;為子初立名,用簸體無火;飲食時所用,當知戍脂火;為子作髻時,應用殺毘火;次受禁戒時,三謨婆嚩火;禁滿施牛時,用素哩耶火;童子婚媾時,以瑜赭迦火。
(Kinh: Lại nữa, khi có thai, dùng lửa Mang Lộ Đa (Māruta). Sau
đó, muốn tắm rửa, lửa Phạ Ha Mang Nang (Vahamāna). Để
tắm gội cho vợ, dùng lửa Mông Nghiệt Lô (Maṅgala). Sau khi đã sanh con,
dùng lửa Bát Già Bổ (Pragalbha). Để đặt tên cho con,
dùng lửa Bả Thể Vô (Pārthiva). Để dùng khi ăn uống, nên biết lửa Thú Chỉ (Śuci). Lúc búi tóc cho con, nên dùng lửa Sát Tỳ (Śadbhi). Khi lãnh nhận
cấm giới, lửa Tam Mô Bà Phạ (Samudbhava). Giới mãn, lúc thí bò, dùng lửa Tố Rị Da (Sūrya). Khi con
trai kết hôn, dùng lửa Du Giả Ca - Yojaka).
Khi có thai thì sử dụng (tức là bậc tịnh
hạnh lúc cưới vợ, khi vợ có nghén, dùng hỏa thần Mang Lộ Đa, tức là dùng tên của
hỏa thần để gia trì [trong khi làm hộ-ma trong pháp Vi Đà]. Tên của hỏa thần
[được nói] trong kinh [Vi Đà của ngoại đạo]; ở đây [kinh Đại Nhật] không nêu
ra, phần dưới cũng vậy). Khi đã có thai, lúc tắm gội (tức là khi đã mang thai
sáu tháng, chồng tắm cho vợ, [tắm xong] búi tóc [cho vợ], dùng tên và chân ngôn
của hỏa thần, tức là hỏa thần Phạ Ha Mang Nang để gia trì). Lúc tắm cho vợ [sau
khi sanh], dùng tên hỏa thần Mông Nghiệt Lô (sanh con được bảy ngày, tắm cho vợ.
Mẹ lại tháo búi tóc, dùng vị hỏa thần ấy [để gia trì], [tức là dùng danh hiệu
và chân ngôn của hỏa thần] Bát Già Bổ). Khi đặt tên cho con (con đã sanh ra,
khi thỉnh tiên nhân tác pháp đặt tên, thì dùng hỏa thần Bả Thể Vô). Khi ăn thì
dùng vị thần lửa ấy (tức là khi con có thể tự ăn, cha mẹ trước hết dùng chú của
hỏa thần để gia trì các chất tô v.v… rồi mới cho trẻ ăn. Trong pháp Vi Đà, mỗi
mỗi đều có cách sử dụng. [Trong trường hợp này], dùng hỏa thần Thú Chỉ). Khi cắt
tóc cho con (tức là khi con lớn dần, cạo tóc máu[2],
để lại chùm tóc Châu Đồ[3],
dùng vị hỏa thần này, tức hỏa thần Sát Tỳ).
Khi thọ giới cấm (tức là khi trẻ trai
lớn dần, cho trẻ giữ giới của tộc mình. Có loại cỏ Văn Đồ (Muñja), tương tự trúc Phật
Tiễn ở phương này, bện thành dây, dùng ba sợi buộc quanh lưng, cầm gậy cong, tức
loại gậy ba chạc[4]
thời cổ, dùng hỏa thần Tam Mô Bà Phạ), [cầm bình] Quân Trì, khoác da nai, nương
theo đó tuân giữ giới. Trì giới suốt mười hai năm thường khất thực, cầm bát bằng
đồng đỏ để khất thực. Nói như thế này: “Có
người thí thì đứng lại”. Trong chốc lát, nếu chẳng được [ai bố thí], liền
rời đi. [Khất thực xong], trở về chỗ lò lửa, chia thức ăn [đã xin được] ra làm
ba phần. Tự tắm gội xong, lấy một phần thức ăn cúng dường lửa, dùng tro chấm
lên ba chỗ. Tới gặp cha mẹ và thầy xong, dùng một phần thức ăn dâng cho họ, tùy
ý họ ăn hay không; sau đấy mới tự ăn phần của mình. Trong mười hai năm, siêng
khổ học pháp Vi Đà. Tròn mười hai năm rồi mới thoát khỏi Phạm chủng, tức là cưới
vợ.
Khi giới cấm đã mãn, thí trâu bò, tức
là khi đã [hành phạm hạnh] đủ mười hai năm, nhằm báo ân thầy, cũng dùng vật để
báo đền, và đem con bê hay con nghé biếu thầy. Thầy đã nhận rồi, lại bảo người ấy
kết hôn, vì thế nói nhân duyên cưới xin. Bảo rằng: “Trong kiếp sơ thời quá khứ, Sách Lý Da Hỏa đại phạm vương, giáng hạ thế
gian, dùng hình thể con trâu để làm chuyện dâm dục; nhờ đó, sanh ra các chủng
loại. Do vậy, có chủng tánh Bà La Môn. Con nghé này chính là di thể của Ngài,
ngươi nên gắng sức nối tiếp khiến cho Phạm chủng tồn tại”. Cho tới nói rộng
[các chi tiết về nguồn gốc các chủng tánh]. Lúc bấy giờ, [thầy] dùng lửa để gia
hộ người ấy, đều là tên của các Hỏa Thần. Khi chàng trai trẻ kết hôn, nhưng
trong pháp tắc hôn nhân của họ, khi cưới vợ thì tụng chú của Hỏa Thần và Phạm
Thiên, nói đại ý về bổn ý của Phạm Thiên v.v… cho tới chuyện [Phạm Thiên] hành
ngưu hạnh ([tức Phạm Thiên hiện thân bò vừa nói trên đây], dùng [danh hiệu và
chân ngôn của] hỏa thần Du Giả Ca).
(Kinh) Tạo tác chúng sự nghiệp, Bạt Na Dịch Ca hỏa. Cúng dường chư
thiên thần, dĩ Bả Phạ Cú hỏa. Tạo phòng dĩ Phạm hỏa. Huệ thí Phiến Đô hỏa. Phược
dương chi sở dụng, A Phược Hạ Ninh hỏa. Xúc uế chi sở dụng, dĩ Vi Phệ Chỉ hỏa.
Thục thực chi sở dụng, dĩ Sa Ha Sa hỏa. Bái Nhật Thiên thời dụng, Hợp Vi Thệ Da
hỏa. Bái Nguyệt Thiên thời dụng, sở vị Nhĩ Địa hỏa. Mãn thiêu chi sở dụng, A Mật
Lật Đa hỏa. Bỉ ư tức tai thời, dụng Na Rô Noa hỏa. Tác Tăng Ích pháp thời, Ngật
Lật Đán Đa hỏa. Hàng phục oán đối thời, đương dĩ Phẫn Nộ hỏa. Triệu nhiếp chư
tư tài, dụng Ca Ma Nô hỏa. Nhược phần thiêu lâm mộc, ưng dụng Sứ Giả hỏa. Sở thực
linh tiêu hóa, dụng Xã Trá Lộ hỏa. Nhược thọ chư hỏa thời, sở vị Bạc Xoa hỏa. Hải
trung hữu hỏa danh, Phược Noa Bà Mục Khư. Kiếp thiêu tận thời hỏa, danh viết Du
Càn Đa. Vị nhữ chư nhân giả, dĩ lược thuyết chư hỏa. Tu tập Vi Đà giả, Phạm hạnh
sở truyền độc. Thử tứ thập tứ chủng, nhĩ thời ngã tuyên thuyết.
(經)造作眾事業,跋那易迦火;供養諸天神,以簸嚩句火;造房以梵火,惠施扇都火;縛羊之所用,阿縛賀寧火;觸穢之所用,以微吠脂火;熟食之所用,以娑訶娑火;拜日天時用,合微誓耶火;拜月天時用,所謂爾地火;滿燒之所用,阿密栗多火;彼於息災時,用那嚕拏火;作增益法時,訖栗旦多火;降伏怨對時,當以忿怒火;召攝諸資財,用迦摩奴火;若焚燒林木,應用使者火;所食令消化,用社咤路火;若授諸火時,所謂薄叉火;海中有火名,縛拏婆目佉;劫燒盡時火,名曰瑜乾多。為汝諸仁者,已略說諸火,修習韋陀者,梵行所傳讀。此四十四種,爾時我宣說。
(Kinh:
Tạo tác các sự nghiệp, lửa Bạt Na Dịch Ca (Upanāyika). Cúng dường các thiên thần, dùng lửa Bả Phạ Cú (Pāvaka). Xây nhà dùng lửa Phạm (Brahmā). Bố thí: Lửa Phiến Đô (Śānta). Sử dụng khi trói dê, lửa A Phược Hạ Ninh (Avahanika). Sử dụng khi chạm uế, dùng lửa Vi Phệ Chỉ (Viveci). Sử dụng
khi nấu ăn, dùng lửa Sa Ha Sa (Sāhasa). Lúc lạy Nhật
Thiên dùng, lửa Hợp Vi Thệ Da (Haviṣya). Lúc lạy
Nguyệt Thiên dùng, chính là lửa Nhĩ Địa (Nidhi). Lửa dùng thiêu đầy muỗng, là A
Mật Lật Đa (Amṛta). Còn trong lúc Tức Tai, dùng lửa Na Rô Noa (Dāruṇa). Khi làm pháp Tăng Ích, lửa Ngật Lật Đán Đa (Kṛtānta). Khi hàng phục oán đối, nên dùng lửa Phẫn Nộ (Krodha). Triệu
vời các tài vật, dùng lửa Ca Ma Nô (Kāmada). Nếu đốt gỗ
trong rừng, nên dùng lửa Sứ Giả (Parivara). Khiến thức ăn tiêu hóa, dùng lửa Xã
Trá Lộ (Jaṭhara). Nếu lúc nhận các lửa, dùng loại lửa Bạc Xoa (Bhakṣa). Trong biển có lửa tên, Phược Noa Bà Mục Khư (Vaḍabāmukha). Lửa lúc kiếp thiêu sạch, tên là Du Càn Đa (Yugānta). Vì nhân giả các ngài, nói đại lược các lửa. Người tu tập
Vi Đà, Phạm hạnh được truyền đọc. Khi đó, ta tuyên nói, bốn mươi bốn loại ấy).
Khi tạo tác, tức là các sự nghiệp như
cúng dường v.v… trong phần sau. Khi mới thọ pháp này, tên của hỏa thần khác biệt.
Sau đó, tạo tác, lại tùy theo từng sự mà có chú riêng của từng hỏa thần. Dùng lửa
Ổ Ba Na Ca (Upanāyika, tức Bạt Na Dịch
Ca trong chánh kinh) để cúng dường thiên thần. Nhưng khi cúng dường theo pháp ấy
(pháp Vi Đà của Bà La Môn), dùng đồng làm thành cái chén có cán, lấy hoa, quả,
lá, và các thứ thức ăn chứa đầy trong đó. Pháp ấy nói: “Hết thảy thiên thần đều cùng cúng dường”. Dùng lửa Bả Phạ Cú, tức
là như trong nhà: [Đối với mỗi chỗ như] giếng, bếp lò, cửa nẻo, phòng ốc, mỗi mỗi
đều [cúng dường] trọn khắp. Mỗi chỗ đều cầm một nắm thức ăn để thí, tụng thần
chú của vị thần đó. Cho tới thí thực ở trong nhà cửa đã xong, thức ăn còn dư
thì đặt trên nóc nhà để thí cho tổ tiên và các ngạ quỷ. Kế đó, tạo nhà cửa,
dùng Phạm hỏa (tạo lập phòng v.v… cũng cần), [sử dụng] lửa Bát La La. Dùng pháp
gia trì khiến cho [nhà cửa, phòng ốc ấy] trở thành tịnh pháp. Nếu không, sẽ là
bất tịnh. Khi hành huệ thí (bố thí rộng rãi), liền thí cho “bổn loại” (những người cùng chủng
tánh với mình), [tức là] người tịnh hạnh ấy chẳng nói với ba chủng tánh kia,
cũng chẳng thí cho đồ vật, chỉ hành bố thí trong chủng loại của chính mình. Khi
thí, xưng tên vị Hỏa Thần ấy, dùng chú để gia trì. Bổn ý là nói dùng lửa Phiến
Đô, do vật ấy từ Phạm Thiên mà có, nay lại thí ngược cho Phạm Thiên, “ngươi cũng thí cho Phạm Thiên”. Câu
kế tiếp cũng nói là Sa Ha.
Khi
trói dê (tức là [thời gian giữ] giới đã mãn, đã ra khỏi Phạm chủng (tức là thôi
tu khổ hạnh, trở về với đời thường), tứ tánh đã đầy đủ, được quyền giết dê để
ăn. Pháp ấy nói: Do Phạm Thiên sanh ra tứ chủng, nên cưới vợ, lấy con gái thuộc
bốn chủng tánh, mỗi mỗi đều sanh con, tức là Phạm Thiên sanh ra bốn chủng tánh,
sử dụng lửa A Phược Hà Ninh. Sanh con có hơn, kém. Khi giết dê, con của chủng
tánh Thủ Đà (Śūdra) chầu hầu, con của chủng
tánh Sát Lợi (Kṣatriya, Sát Đế Lợi) giết
dê, con của chủng tánh Tỳ Xá (Vaiśya) xẻ
thịt. Con của chủng tánh Bà La Môn ăn. Trong khi đó, cũng dùng chân ngôn để gia
trì. Đấy chính là pháp do Bà Tẩu (Vasu) tiên nhân lập ra). Khi xúc uế (chạm phải
đồ dơ), tức là pháp khiến cho [người tu tịnh hạnh] đánh mất thanh tịnh, như
sa-môn phạm giới. Hoặc là có lúc buông lung mà chẳng hay biết, bị người khác cắt
tóc, hoặc dây đeo quanh thân bị đứt, hoặc gậy ba nhánh bị gẫy, hoặc trong khi
ăn bị chủng tánh Thủ Đà chạm vào v.v… Muốn sám hối, tự phạt, bèn nhóm họp
hai, ba trăm người cùng chủng tánh, ở giữa đại chúng, dùng lửa Vi Tiếu Chí
(Viveci, chánh kinh phiên âm là Vi Phệ Chỉ) để tự sám hối. Lúc bấy giờ, các vị
tịnh hạnh đồng thanh nói: “Nhật, nguyệt,
chư thiên chứng biết người này, từ nay trở đi, lại thanh tịnh như cũ”.
Khi đó, người sám hối dùng lửa cúng dường họ. Lúc bấy giờ, dùng thần chú của vị
Hỏa Thiên ấy (Viveci) để làm pháp gia trì.
Khi
nấu chín thức ăn (pháp của họ là hễ muốn nấu thức ăn, trước hết, phải đem rau,
thức ăn v.v… còn sống, dùng tên và thần chú của vị Hỏa Thiên ấy để gia trì cho
thanh tịnh rồi mới nấu. Nếu lầm lẫn chẳng làm, sẽ thành trái pháp, chẳng thành
thức ăn thanh tịnh. Dùng lửa Sa Ha Sa để làm). Lễ bái Nhật Thiên (trong pháp Phạm
Hạnh, lúc mặt trời chưa mọc thì chắp tay hướng về phương Đông chờ mặt trời. Khi
mặt trời mọc, liền lễ bái, đọc kệ, tụng chú, dùng pháp của vị Hỏa Thần này để
làm, tức là dùng lửa Hợp Vi Thệ Da. Tới khi mặt trời sắp lặn, lại hướng về
phương Tây đưa tiễn, pháp giống như trên. Mỗi ngày đều làm như thế. Lại có khi
tụ tập nhiều người để cùng làm). Lễ bái Nguyệt Thiên, trở về xong, tới khi mặt
trăng mọc, lại ở nhà đón trăng, lễ kính, sử dụng thần chú cũng khác biệt. Dùng
lửa Nễ Địa (chánh kinh phiên âm là Nhĩ Địa) để thiêu trọn (Đấy là pháp thí thực
bằng lửa. Lấy thức ăn chứa đầy trong
đồ đựng, thiêu trong lò. Dùng lửa A Mật
Lật Đa).
Tức
Tai (dứt trừ tai nạn. Hễ muốn dứt trừ chuyện tai nạn, dùng thần chú của vị hỏa
thần này, tức là dùng lửa Na Rô Noa). Tăng Ích (dùng các thần chú tức tai v.v…
Ý nói oai mãnh như lửa lúc kiếp tai, thế lực oai mãnh. Dùng lửa Ngật
Lật Đán Đa, tức là dùng chân ngôn và danh hiệu của hỏa thần). Trừ Chướng (tức
hàng phục. Dùng lửa Nhật Phẫn Nộ. Nhật Phẫn Nộ là tên của hỏa thần). Nhiếp Triệu
(tức là phàm chuyện mong cầu muốn thành tựu, và khiến cho người khác hoan hỷ
v.v… dùng lửa Ca Ma Nô). Đốt rừng cây (trong pháp ấy, không được đốt rừng. Nhưng
có khi rừng rậm tàn rụi, muốn thiêu rừng để cây mới mọc lên thì dùng pháp này,
dùng lửa Sứ Giả). Ấm bụng (tức là đã ăn xong, Hỏa Đại trong thân tiêu hóa thức
ăn ấy để vô bệnh v.v… Chân ngôn dùng lửa Xã Trá Lộ. Ý nói: Dùng để duy trì thân
ta, nếu từ thân ta mà ra, tức là con của ta). Kế đó là lửa Bạc Xoa, liền trao
cho các thứ hỏa thực mà sử dụng. Kế đó là lửa trong biển, gọi là Phược Noa Bà Mục
Khư. Lửa lúc kiếp hoại tên là Du Càn Đa. Chỉ nêu ra tên gọi, không có cách dùng
(tịnh hạnh có tại gia và xuất gia. Nếu sanh con, từ lúc thơ ấu đã vào núi học đạo,
cho đến khi đắc Ngũ Thông, không có các pháp như cưới vợ v.v…) Trên đây đều là
các pháp tà hộ-ma của hàng phạm hạnh thờ lửa. Đức Phật “vị nhữ chư nhân giả, dĩ lược thuyết chư hỏa, tu hành Phệ Đà giả, Phạm hạnh
sở truyền độc. Thử tứ thập tứ chủng, ngã nhĩ thời sở tuyên thuyết” (vì
hàng nhân giả các vị, ta đã nói đại lược các thứ lửa mà hàng tu hành theo pháp
Vệ Đà đã được truyền đọc theo phạm hạnh. Lúc ấy, ta đã tuyên nói bốn mươi bốn
loại lửa ấy). Do hiển chánh mà nêu ra phương cách để biện định chân pháp.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Ngã ư vãng tích thời, bất tri chư hỏa tánh, tác
chư hộ-ma sự. Bỉ phi hộ-ma hạnh, phi năng thành nghiệp quả. Ngã phục thành Bồ Đề,
diễn thuyết thập nhị hỏa.
(經)復次,祕密主!我於往昔時,不知諸火性,作諸護摩事,彼非護摩行,非能成業果。我復成菩提,演說十二火。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Ta trong thuở xưa kia, chẳng
biết tánh các lửa, làm các chuyện hộ ma, chẳng phải hạnh hộ-ma, chẳng thể thành
nghiệp quả. Ta lại thành Bồ Đề, diễn nói mười hai lửa).
Ta trong lúc ấy, chẳng
biết tánh của các thứ lửa ấy,
làm các hộ-
ma, cũng chẳng phải
là hạnh hộ-ma. Kế đó là phần kệ tụng ([cho biết: Do làm các hạnh tà hộ-ma ấy],
chẳng đạt được nghiệp quả). Mười hai loại lửa sau đó được lần lượt nói ra. “Ngã phục thành Bồ Đề, thuyết thập nhị chủng
hỏa” (Ta lại thành Bồ Đề,
nói mười hai loại lửa). Lại nói
như thế nào? “Trí hỏa tối vi sơ, danh
Đại Nhân Đà La” (Loại lửa trí huệ đầu
tiên nhất, tên là Đại Nhân Đà La). Ý đức Phật là: Thuở đó, ta làm Đại Phạm
Vương, do các Phạm chúng tới hỏi kinh điển Vi Đà, bèn diễn nói, khiến cho họ
nương theo đó tu hành, đạt được các chuyện như Ngũ Thông trong thế gian. Nhưng
ta thuở đó chưa hiểu rõ tự tánh của lửa và nghiệp dụng của nó. Do chẳng biết,
các chuyện thực hiện thuở đó chẳng gọi là “khéo làm”, mà cũng chẳng được gọi là hộ-ma, chẳng phải hạnh, chẳng
phải nghiệp, mà cũng chẳng đạt được cái quả ấy. Tới khi ta thành Bồ Đề, mới thấu
hiểu tự tánh của lửa, và các phương tiện để đạt được cái quả v.v… Nói “tự tánh của lửa” tức là quang minh
Nhất Thiết Trí của Như Lai. Sở dĩ đức Phật nói như vậy là vì muốn chiết phục
các ngoại đạo, phân biệt tà, chánh, khiến cho họ biết có pháp hộ-ma thật sự. Bởi
lẽ, các hàng tịnh hạnh đối với kinh điển Vi Đà mà họ tôn sùng, tự cho là bí mật,
sanh tâm ngạo mạn. Nay đức Phật tự nói cội gốc nguyên thủy của Vi Đà, từ trong
đó mà hiển lộ pháp hộ-ma chân thật, đúng chánh lý. Hãy nên biết Vi Đà của Phật
chính là tạng bí mật tột bậc đệ nhất. Họ nghe xong, sanh tâm hy hữu, liền sanh
tín giải. Ta trước kia chưa thành Chánh Giác, chẳng hiểu biết, bèn nói đại lược
bốn mươi bốn loại hỏa pháp như trên, nói rộng ra thì là vô lượng, như trong
kinh điển Vi Đà đã nói cặn kẽ. Nay thành Chánh Giác, lại nói mười hai pháp nơi
lửa chân huệ, có thể thành tựu đại sự, trừ sạch hết thảy các tối tăm cấu chướng,
thành tựu đại sự, chẳng giống hạnh tà đạo phi pháp xưa kia!
(Kinh) Trí Hỏa tối vi sơ, danh Hỏa Nhân Đà La. Đoan nghiêm tịnh kim tướng,
tăng ích thí oai lực, diễm man trụ tam-muội. Đương tri trí viên mãn.
(經)智火最為初,名火因陀羅,端嚴淨金相,增益施威力,焰鬘住三昧,當知智圓滿。
(Kinh: Lửa trí huệ đầu tiên, tên Hỏa Nhân Đà La. Đoan
nghiêm tướng vàng sạch, tăng ích, ban oai lực, rực lửa trụ tam-muội. Nên biết
trí viên mãn).
[Loại lửa] thứ nhất tên là Trí Hỏa, có
tên ứng với hình vuông (Đại
Nhân Đà La), màu
vàng, đoan nghiêm, tăng thêm oai lực, ứng với Hỏa Quang Diễm tam-muội, trụ
trong trí viên mãn. Loại lửa tối sơ ở đây chính là huệ quang của Bồ Đề tâm.
Hình vuông, màu vàng, tức là biểu thị kim cang tòa. “Đoan nghiêm” là nội trang nghiêm. Ý nói loại lửa trí huệ này,
có hình tượng Bổn Tôn, trọn đủ hết thảy các công đức của Phật. Tăng thêm oai đức
là chuyện bên ngoài, tức là các tác dụng của Thập Lực v.v…. Tánh của trí hỏa ấy
là như thế đó, công đức trong ngoài trang nghiêm viên mãn, có thể ban cho sức mạnh,
nên gọi là Tăng Oai. Do biết lửa này, đốt củi vô minh tích tụ từ vô thỉ đến nay
chẳng còn thừa sót, như lửa lúc kiếp thiêu, tro lửa đều hết sạch, chẳng còn nhơ
bẩn, hết thảy công đức của Như Lai tự nhiên thành tựu. Vị hỏa thần này tên là
Trí, hình tướng đoan nghiêm, màu kim cang, tự vây quanh bằng quang minh viên
mãn sáng rực như lửa. Ngài ở trong quang minh ấy, vắng lặng chánh thọ tam-muội.
Do trụ trong tam-muội ấy, trí tánh trọn đủ. Trí quang ấy chính là biệt danh của
đức Tỳ Lô Giá Na, tức là dùng vị tôn thánh này để biểu thị trí đó. Nếu lúc mới
quán thì quán vị hỏa thần này, sẽ có thể thành tựu hết thảy các sự. Nếu thấu hiểu
sâu xa tánh ấy, sẽ giống như trên đã nói. Cái đàn hình vuông ở đây có tên trong
tiếng Phạn là Ma Ha Nhân Đà La (Mahendra), đó chính là biệt danh của Đế Thích,
lại còn là tên gọi khác của kim cang luân. Trí là nội chứng, sự biểu lộ ra
ngoài là hình chày kim cang, tương tự với hình thể của tòa vuông. Nhưng chỉ
quán bốn góc đàn có Bổn Tôn là được rồi (đầu chày ấy có hình tứ giác).
Trong phần trên có nói “tăng oai”. Nếu luận định về hình tượng
biểu thị, tức là nói hình thể viên mãn, trọn đủ. Nói theo lý thì chính là tâm
pháp môn.
Nhưng hỏa có hai pháp:
- Nếu là người có thể tu Du Già, chỉ
quán tướng được biểu thị bởi vị tôn thánh ấy, tụng chân ngôn (tên của Ngài
chính là chân ngôn vậy), liền gọi là “nội
tâm hỏa pháp”.
- Nếu do thuận nhiếp thế gian mà làm
đàn, hãy nên làm lò hình vuông, có quang minh như hình ngọn lửa vây quanh. Bản
thân [người tác pháp] cũng mặc áo màu vàng. Tưởng lửa trong lò có vị tôn thần ấy,
trụ trong tam-muội như trên. Sau đấy, thực hiện pháp sự thành tựu. Nếu không, sẽ
chẳng thành.
Pháp này tương ứng với pháp Tức Tai,
là pháp kiên cố. Pháp này tương ứng với môn chữ A của sơ Bồ Đề tâm; do nhân
duyên này, trí trọn đủ!
(Kinh) Đệ nhị danh Hạnh Mãn, phổ quang thu nguyệt hoa. Cát tường viên
luân trung, châu man tiễn bạch y.
(經)第二名行滿,普光秋月花,吉祥圓輪中,珠鬘鮮白衣。
(Kinh: Thứ hai, tên Hạnh Mãn, sáng khắp, hoa
trăng thu. Trong vầng tròn cát tường, chuỗi ngọc, áo trắng tinh).
Loại lửa thứ hai
tên là Hạnh Mãn (Pratipatti-saṃpad), tức là dựa theo danh mà biểu thị ý
nghĩa. Tên trong tiếng Phạn của loại lửa này cũng chính là chân ngôn. Sơ phát Bồ
Đề tâm, kế đó tu nơi hạnh. Hạnh ấy viên mãn liền gọi là Phật. Vị này tức là “đại bi làm căn, Bồ Đề tâm làm chủng tử”.
Hình tượng vị này như trăng đêm Thu, quang minh tỏa sáng rạng ngời trọn khắp bốn
phía. Thân Ngài mặc áo trắng, có đủ loại đức (tức là thân đoan nghiêm, tròn đầy,
đáng ưa). Tay phải cầm xâu chuỗi, tay trái nắm bình Quân Trì, giống như trụ
trong nguyệt luân. Như trong phần trước đã nói, đó chính là ý nghĩa “tâm tánh viên minh thanh tịnh”. Dùng
lửa diệu hạnh này để đốt củi hý luận trong cái tâm nhơ bẩn. Nếu khi tác quán,
đó là quán sự viên minh ấy là hình tượng của Bổn Tôn. Kinh văn trong phần trên
đã nói “đều thấu hiểu đức nội chứng của
Như Lai”, nay tiếp đó là ngoại đức. Vì thế, dùng pháp môn để biểu thị vậy.
Nếu thực hiện bên ngoài thì làm lò hình tròn, dùng bạch đàn bôi trát, dùng hoa
trắng v.v… để cúng dường. Chính mình mặc áo trắng. Đó là pháp Tức Tai.
Tai họa có vô lượng, các thứ thuộc thế
gian bên ngoài như nước, lửa, côn trùng, sương rơi, châu chấu v.v… các thứ hao
tổn, và hết thảy các loại bệnh gây não hại nơi thân, muôn hình vạn trạng, nơi
thân chính mình và thân người khác, đều có thể trừ sạch [các tai ương ấy]. Lại
từ vô thỉ tới nay có tâm nghi, tức là đối với pháp sâu mà sanh lòng do dự, chẳng
có lòng tin quyết định; đấy chính là chướng. Lửa này có thể tịnh trừ chướng ấy,
cũng có ý nghĩa “tức tai” (dứt
trừ tai nạn). Tức Tai hộ-ma cũng có hai loại: Chỉ là Du Già tương ứng mà niệm tụng,
hoặc là ngoại hộ-ma mà thực hiện hỏa pháp. Nhưng nếu là người có thể lo liệu vật
cúng, sẽ có thể kiêm làm [cả hai]. Nếu chẳng lo liệu nổi, tâm tưởng là được! Có
vật dụng để có thể làm mà không làm, chỉ dùng tâm tưởng thì chẳng đúng pháp!
(Kinh) Đệ
tam Ma Rô Đa, hắc sắc, phong táo hình.
(經)第三摩嚕多,黑色風燥形。
(Kinh:
Thứ ba, Ma Rô Đa (Māruta), sắc đen,
thân khô khan).
Vị hỏa tôn thứ ba
tên là Phong Táo (bị hun khô bởi gió). Do sanh từ gió, là con của gió, hình dạng
khô khan, đen đúa. Đấy chính là: Trong là sắc đen, ngoài thì thêm hình thể khô
khan, như bôi than tro vậy. Vị tôn thần này ngự trong phong luân, tức hình bán
nguyệt; cũng vẽ Ngài ngồi đoan nghiêm trong tư thế tam-muội, tức là hành nhân
sơ phát Bồ Đề tâm tuy muốn hành trì để tiến cao hơn, nhưng do căn bản vọng Hoặc
phiền não từ vô thỉ chưa trừ, chúng sẽ nhiều lượt lôi kéo, phá hoại quán tâm,
khiến cho [cái tâm của hành nhân] càng bị tối tăm, che lấp, [đức Phật] bèn bảo
hãy hành pháp này. Gió có nghĩa là “chẳng
trụ”. Lại như gió trong thế gian có thể xua tan mây dày. Lửa “chẳng trụ” này cũng giống như thế,
có thể tan hoại các chướng. Vị tôn thánh này ngự trong phong đàn, tay cầm lụa,
giơ khỏi đầu chừng dăm ba tấc, nắm hai đầu dải lụa, như dáng vẻ [đang cầm áo trời],
thân sắc Ngài màu xanh (đấy là biểu thị ý nghĩa của gió). Đó là pháp A Tỳ Xà Rô
Ca (Abhicāraka, điều phục,
hàng phục), cũng có hai pháp nội và ngoại.
(Kinh) Đệ tứ Lô Hế Đa, sắc như triêu nhật huy.
(經)第四盧醯多,色如朝日暉。
(Kinh: Thứ tư, Lô Hế Đa (Rohita), sắc như nắng ban
mai).
Vị thứ tư màu đỏ như mặt trời mọc, trụ
trong hình tam giác. Tay phải cầm đao, ngồi đoan nghiêm. Đao biểu thị trí
huệ nhạy bén, đoạn kết sử. Như mặt trời trong thế gian lúc mới mọc, đêm tan,
ngày hiện, tối hết, ánh sáng hiện ra. Vì thế, dùng màu sắc ấy [để biểu thị]. Hỏa
thần có hình sắc như thế, quang minh sáng rực như lửa cũng thế. Thân tướng đoan
nghiêm, viên mãn. Giống như trên, trụ trong tam-muội, hiện hình dạng hơi phẫn nộ.
(Kinh) Đệ ngũ Một
Lật Noa, đa thử, thiển hoàng sắc, tu cảnh, đại oai quang. Biến nhất thiết ai mẫn.
(經)第五沒栗拏,多髭淺黃色,脩頸大威光,遍一切哀愍。
(Kinh: Thứ năm, Một Lật Noa (Mṛḍa), râu nhiều, màu vàng nhạt, cổ dài, oai quang lớn, thương
xót khắp hết thảy).
Vị thứ năm là Một Lật
Noa, nghĩa là “hòa hợp”. Vị tôn
thánh này màu vàng nhạt, tức là màu vàng có sắc lửa. “Hòa hợp” là kiêm hai pháp. Hình tượng Ngài thì bên trái có dáng
vẻ giận dữ, bên phải là dáng điệu vui vẻ, mỉm cười, mỗi dáng điệu chiếm nửa người.
Mỉm cười là chẳng sân, chẳng quá mừng, trụ trong tĩnh lặng. Trên thân có lông,
tức các loại râu ria, tóc mai, và tóc khá nhiều, nhưng không thể quá nhiều. Nếu
quá nhiều, sẽ chẳng đoan nghiêm. Cổ Ngài dài, có oai quang to lớn. Màu sắc nơi
thân thì một bên đỏ, một bên vàng (bên giận phải nên là màu đỏ). Tòa ngồi của
Ngài cũng là phía bên phải là vuông (nửa tòa kim cang), bên trái là tam giác (nửa
hỏa tòa). Tay trái cầm đao, tay phải cầm bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang).
Có hai pháp nội và ngoại, phỏng theo lệ trên đây. Vị [hỏa thiên] hòa hợp này có
thể triệu vời và tức tai trọn khắp, đều thành tựu. Nội dụng chính là trí quang,
phiền não liền diệt, chẳng sanh. Nếu lúc thực hiện bên ngoài, thì hương, hoa, y
phục nơi thân cũng cần phải có hai loại, khi niệm tụng cũng làm hình tượng giống
như Bổn Tôn, vẫn là một mắt giận, mắt kia tĩnh lặng. Tai trừ, nguyện mãn, cùng
lúc được thành tựu. Dùng cái lý trọn khắp ấy để có tác dụng như thế, chẳng giống
giáo pháp thiên lệch một bên!
(Kinh) Đệ lục
danh Phẫn Nộ, diểu mục, phi yên sắc. Tủng phát nhi chấn hống, đại lực hiện tứ
nha.
(經)第六名忿怒,眇目霏烟色,聳髮而震吼,大力現四牙。
(Kinh: Thứ sáu tên Phẫn Nộ (Krodha), nheo mắt, màu
khói cuộn. Tóc dựng, rống vang rền. Đại lực, hiện bốn nanh).
Vị hỏa thần thứ sáu
tên là Phẫn Nộ, tức là dùng danh nghĩa ấy để làm chân ngôn giống như trong phần
trên. Thân Ngài màu khói, tức là chẳng phải rất sẫm màu, chẳng phải rất trắng.
Nhắm một mắt (giống như ngài Bất Động Minh Vương), tóc tán loạn, tua tủa như vẻ
đầu tóc rối bù, hiện dáng vẻ rống lớn, tức là như đang há miệng để rống to. Miệng
có bốn răng nanh, đều chìa ra ngoài, hai nanh chĩa lên, hai nanh quặp xuống.
Pháp này cũng gồm hai sự: Một là lửa, hai là gió.
(Kinh) Đệ thất
Xà Trá La, tấn tật bị chúng thái.
(經)第七闍吒羅,迅疾備眾綵。
(Kinh: Thứ bảy, Xà Trá La (Jaṭhara), nhanh chóng, đủ các màu).
Vị thứ bảy tên là Ôn Phúc (溫腹, ấm bụng). Như lửa trên thế
gian, tức là lửa trong thân có thể tiêu hóa thức ăn để nuôi thân. Trong chánh
pháp, ý nghĩa chẳng phải vậy. “Lửa
trong bụng” chính là trí nội chứng. “Tấn tật” (Nhanh chóng) nghĩa là vị này hình tướng càng thêm phẫn nộ, còn hơn vị trước
đó. Cực phẫn nộ, tức là chữ Á (आः, Aḥ). Có đủ loại màu, tức hình tướng trọn đủ năm màu. Ý nghĩa chuẩn theo phần
trước.
(Kinh) Đệ bát Cật Sái Da, do như điện quang tụ.
(經)第八迄灑耶,猶如電光聚。
(Kinh: Thứ tám, Cật Sái Da (Kṣaya), ví như ánh chớp tụ).
Vị thứ tám tên là
Phí Hao (費耗, dịch nghĩa của chữ Cật Sái Da), nghĩa là “trừ bỏ”, tức là khiến cho hết thảy
các nghiệp cấu chẳng còn sót. Vị này có thể trừ hết thảy các chướng nơi thân, tức
loài Tỳ Na Dã Ca (Vināyaka) v.v… cũng đều khiến cho tiêu mất. Màu sắc
của Ngài giống như tụ tập nhiều ánh chớp, chẳng thể nhìn ngắm được! Vị này cũng
thuộc loại kim cang luân.
(Kinh) Đệ cửu
danh Ý Sanh, đại thế xảo sắc thân.
(經)第九名意生,大勢巧色身。
(Kinh: Thứ chín tên Ý Sanh (Manomaya), thế lớn, thân sắc
khéo).
Vị thứ chín tên là Ý Sanh, tức là pháp
được sanh bởi ý, tùy ý mà thành. Các thứ hình dạng đều có, sở niệm (những điều
nghĩ tưởng) đều có thể thành tựu. “Xảo”
(Hay khéo) là như Tỳ
Thủ Yết Ma (Vishvakarman)[5], tức là ý nghĩa “tùy loại hiện thân, thành tựu trọn khắp, huệ
tự tại, hễ làm gì cũng đều thành”. Vị này có đại lực.
(Kinh) Đệ thập
Yết La Vi, xích sắc Án tự ấn.
(經)第十羯攞微,赤黑唵字印。
(Kinh: Thứ mười, Yết La Vi (Kravyāda), ấn chữ Án (Aum, ॐ) sắc đỏ).
Vị thứ mười tiếp nhận
hỏa thực tên là Kiếp Vi (tức Yết La Vi như trong chánh kinh phiên âm), có nghĩa
là khi hỏa thí thì sẽ tiếp nhận thức ăn. “Thọ
thực” nghĩa là khi hỏa thí thức ăn thì vị này sẽ nhận lấy mà ăn. Vị này
trì ấn chữ Án, tức là nghi pháp của phạm chí. Bậc tịnh hạnh hễ có nói năng, đều
nghiêng tay phải, kết hình ấn rồi nâng tay lên, dùng âm chữ Án để tạo tư thế vậy.
(Kinh) Đệ thập
nhất hỏa thần (Phạn bổn khuyết kỳ danh). Thập nhị Mô Hạ Na, chúng sanh sở mê hoặc.
(經)第十一火神(梵本闕其名)。十二謨賀那,眾生所迷惑。
(Kinh:
Hỏa thần thứ mười một (bản Phạn thiếu tên Ngài). Mười hai: Mô Hạ Na (Mohana),
chúng sanh bị mê hoặc).
Vị thứ mười một bị thiếu bài kệ. Vị thứ
mười hai tên là Tất Thành (悉成 (đều thành tựu), dịch nghĩa của chữ Mohana), tức là “có thể đều thành tựu hết thảy”,
nghĩa là “việc làm đã xong”, ngự nơi Tịch Diệt Đạo Tràng để chế phục ma. Lại
như có một loại chúng sanh làm ác chẳng thể ngăn dứt; giả sử khuyên dạy, họ
càng tăng thêm sự ác. Nếu mặc kệ, họ sẽ lại tiến hướng ác đạo. Do phương tiện
nên hàng phục thân họ, khiến cho đều nhắm mắt chẳng hay biết gì; bởi nhân duyên
ấy, thiện lẫn ác đều chẳng thể tạo. Kế đó, hướng dẫn dần dần, khiến cho họ nhập
chánh pháp như kinh Kim Cang Đảnh [đã dạy]. Lại nữa, ý nghĩa ngài Kim Cang Thủ
hàng phục Đại Tự Tại Thiên được nói như trên đây. Đấy đều là trụ trong phương
tiện đạo để làm.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Thử đẳng, hỏa sắc chi sở trì, tùy kỳ tự hình sắc, dược
vật đẳng đồng bỉ, nhi tác ngoại hộ-ma, tùy ý thành Tất Địa. Phục thứ ư nội tâm,
nhất tánh nhi cụ tam, tam xứ hợp vi nhất. Du Kỳ nội hộ-ma, đại từ đại bi tâm,
thị vị Tức Tai pháp. Bỉ kiêm cụ ư hỷ, thị vi Tăng Ích pháp. Phẫn nộ tùng thai tạng,
nhi tạo chúng sự nghiệp. Hựu bỉ Bí Mật Chủ! Như kỳ sở thuyết xứ, tùy tương ứng
sự nghiệp, tùy tín giải phần thiêu.
(經)祕密主此等,火色之所持,隨其自形色,藥物等同彼,而作外護摩,隨意成悉地。復次於內心,一性而具三,三處合為一,瑜祇內護摩。大慈大悲心,是謂息災法,彼兼具於喜,是為增益法,忿怒從胎藏,而造眾事業。又彼祕密主!如其所說處,隨相應事業,隨信解焚燒。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Bọn họ, duy trì các màu lửa, tùy hình sắc chính mình, dược vật thảy
giống vậy, để làm ngoại hộ-ma, tùy ý thành Tất Địa. Lại còn trong nội tâm, một
tánh đủ ba thứ, ba chỗ hợp thành một. Du Kỳ nội hộ-ma, đại từ đại bi tâm, chính
là pháp Tức Tai. Pháp kiêm thêm hoan hỷ, sẽ là pháp Tăng Ích. Từ Thai Tạng phẫn
nộ, để tạo các sự nghiệp. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Đúng như chỗ đã nói, tùy sự nghiệp
tương ứng, theo tín giải mà thiêu).
Bí Mật Chủ! Màu sắc được duy trì bởi
các thứ lửa ấy tùy thuộc màu sắc của hỏa thần. Dược vật (các thứ dùng để hộ-ma,
cũng như các vật được dùng để làm pháp thành tựu) v.v… cũng giống như thế, tức
là thuận theo sắc loại của vị hỏa thần ấy [mà chọn lựa các vật để đốt và vật được
thành tựu có màu sắc tương ứng]. Kệ lại nói “nhi tác ngoại hộ-ma, tùy ý thành Tất Địa” (để thực hiện pháp
ngoại hộ-ma hòng tùy ý thành tựu Tất Địa). Lại này, Bí Mật Chủ! Kế đó, nói về nội
pháp:
“Nhất
tánh nhi cụ tam, tam xứ hợp vi nhất, Du Kỳ nội hộ-ma. Đại từ đại bi tâm, thị vi
Tức Tai pháp. Bỉ kiêm cụ ư hỷ,
thị vi Tăng Ích pháp. Phẫn nộ tùng thai tạng, nhi tạo chúng sự nghiệp. Hựu bỉ
Bí Mật Chủ! Như kỳ sở thuyết xứ, tùy tương ứng sự nghiệp, tùy tín giải phần
thiêu” (Một tánh mà trọn đủ
ba thứ, ba chỗ hợp thành một. Trong pháp nội hộ-ma của Du Kỳ (Yogi), nếu dùng
tâm đại từ đại bi thì đó là pháp Tức Tai. Nếu pháp ấy kiêm thêm lòng hoan hỷ
thì là pháp Tăng Ích. Nếu do lòng phẫn nộ phát xuất từ Đại Bi Thai Tạng để tạo
tác các sự nghiệp [thì là pháp Hàng Phục]. Lại này, Bí Mật Chủ! Theo đúng như
những điều đã nói, tùy theo tương ứng với sự nghiệp nào, vận dụng lòng tín giải
để thực hiện hộ-ma): Chính là nói về sắc của chính mình (tức màu sắc của vị Hỏa
Thiên) và màu sắc của dược vật, giống như ngoại hộ-ma. “Tác thử Tất Địa tùy ý” (Tùy ý thực hiện môn Tất Địa ấy): Nói đến mười hai loại hình
sắc và các vật được cầm (được sử dụng để làm hộ-ma), nhận biết tánh chất của
chúng. Trong phần trước là luận định gộp chung nội và ngoại, nay nói về ngoại. “Tam hòa hợp” tức là lửa chẳng khác
thần, thần chẳng khác tự thân. “Đồng”
tức là ta lẫn người đều như nhau. “Nội
tác” (Thực hiện nội hộ-ma)
thì Bổn Tôn chính là lửa, lửa chính là tự thân. Nay giải thích theo lý, thì Bổn
Tôn chính là đức Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na chẳng khác huệ hỏa tự nhiên. Lửa ấy
chẳng khác thân ta, tức là dùng một tự tánh mà có ba thứ hòa hợp, gọi là nội hộ-ma.
“Hòa hợp” thì Bổn Tôn chính là
lửa, lửa giống như chính mình, ba sự bình đẳng. “Như ý Tất Địa” trong phần kinh văn trước đó, tùy thuộc chuyện
thượng, trung, hạ trong thế gian, tùy ý liền thành. Nếu chẳng hiểu hỏa pháp
này, không do đâu mà thành được!
Nội pháp cũng giống như thế đó. Nếu hiểu
rõ huệ hỏa này, tùy theo chuyện xuất thế thượng, trung, hạ, tùy tâm liền thành
tựu. Lại nữa, “tam hòa hợp” tức
là thân, khẩu, ý, thân kết ấn, miệng tụng chân ngôn, tâm tưởng Bổn Tôn. Ba sự ấy
hòa hợp rốt ráo bình đẳng, đó là “tam
hòa hợp”. Nếu có thể quán Bổn Tôn thì tự thân sẽ dần dần tịnh. Hễ tịnh,
liền giống với Bổn Tôn. Nếu thấy một tánh thì ba sự đều tịnh, đều là bình đẳng.
Kế đó, nói về pháp nội hộ-ma, tức là đối
với ba sự bình đẳng ấy, làm Tức Tai thì dùng tâm đại từ đại bi. Trong ba thứ
bình đẳng ấy, khi đại từ đại bi hòa hợp, hết thảy các vị tôn thánh thuộc Tức
Tai là đệ nhất bi. Nếu làm Tăng Ích, thì dùng bi và đại hỷ hòa hợp. Nếu phẫn nộ,
dùng hỏa làm “thai” để thực hiện, “thai” tức là tâm. Có nghĩa là có nhân duyên
cần phải làm chuyện phẫn nộ để hàng phục kẻ khác, liền từ trong nội tâm khởi phẫn
nộ. Sự phẫn nộ ấy chẳng giống với sự phẫn nộ của thế gian, tức là từ trong tâm
đại bi chiếu tỏ thật tánh của phẫn, dùng phương tiện để khởi lên, dùng đó để
hàng phục ác pháp. Như thế thì chỉ làm nội hộ-ma liền có thể hoàn tất các sự.
Vì thế, ý nghĩa của hộ ma là dùng huệ hỏa để đốt củi phiền não sao cho hết sạch,
chẳng còn sót. Nhưng ở đây, nói đại lược các vị hỏa thần được sử dụng và các tướng
[hộ-ma] nội ngoại, hãy nên biết trong các giáo pháp khác, đều có hỏa pháp, tùy
theo sự nào đáng nên làm, đều chuẩn theo pháp ấy, trụ trong tam-muội, tùy theo
lẽ tương ứng mà thực hiện, liền được thành tựu. Nếu chẳng như thế, chỉ là đốt củi
gỗ suông để thiêu sạch vật cúng dường. Nếu không, xen lạm pháp của ngoại đạo, lại
càng chẳng thể thành tựu. Lại nữa, kinh nói “các vật” tức là các thứ như củi, chất tô, thức ăn, các vật dụng
được dùng trong hỏa pháp.
(Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà hỏa lô
tam-ma-địa? Vân hà nhi dụng tán sái? Vân hà thuận phu cát tường thảo? Vân hà cụ
duyên chúng vật?
(經)爾時,金剛手白佛言:世尊!云何火爐三摩地?云何而用散灑?云何順敷吉祥草?云何具緣眾物?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Thế nào
là hỏa lô tam-ma-địa? Dùng cách tưới rảy như thế nào? Trải cỏ cát tường theo
chiều thuận như thế nào? Thế nào là các vật đầy đủ duyên?)
Trên đây, ngài Kim Cang Thủ đã hỏi Phật,
trước đó, đức Phật đã nhiều lượt nói hỏa pháp này, nhưng con vẫn chưa biết chắc:
Nên đặt lửa ở nơi nào? Đặt lò ở chỗ nào v.v… Lại còn có pháp nào, tức là tưới rảy,
trải cỏ, và các vật [dùng để hộ-ma] v.v… đều thưa hỏi Phật.
(Kinh) Phật cáo Bí Mật Chủ, Trì Kim Cang Giả ngôn: - Hỏa lô như trửu lượng,
tứ phương tương quân đẳng, tứ tiết vi duyên giới, châu táp kim cang ấn. Tịch
chi dĩ sanh mao, nhiễu lô nhi hữu toàn. Bất dĩ mạt gia bổn. Ưng dĩ bổn gia mạt.
Thứ trì cát tường thảo, y pháp nhi hữu sái. Dĩ đồ hương, hoa, đăng, thứ hiến ư
hỏa thiên. Hành nhân dĩ nhất hoa, cúng dường Một Lật Đồ, an trí ư tòa vị. Phục
đương dụng quán sái, ưng đương tác mãn thí. Trì dĩ bổn chân ngôn. Thứ Tức Tai hộ-ma,
hoặc dĩ Tăng Ích pháp, như thị thế hộ-ma, thuyết danh vi ngoại sự.
(經)佛告祕密主,持金剛者言:火爐如肘量,四方相均等,四節為緣界,周匝金剛印。藉之以生茅,繞爐而右旋,不以末加本,應以本加末。次持吉祥草,依法而右灑,以塗香華燈,次獻於火天。行人以一華,供養沒栗荼,安置於座位,復當用灌灑。應當作滿施,持以本真言,次息災護摩,或以增益法。如是世護摩,說名為外事。
(Kinh:
Đức Phật bảo Bí Mật Chủ, Trì Kim Cang Giả rằng: - Lò lửa bằng khủy tay, bốn
phía vuông bằng nhau. Đường gờ rộng bốn lóng. Chày kim cang xếp quanh. Dùng cỏ
tươi để trải, quanh lò theo chiều phải. Đừng đè ngọn lên gốc, nên dùng gốc đè
ngọn. Kế, cầm cỏ cát tường, theo pháp rải bên phải. Dùng hương bôi, hoa, đèn,
dâng cúng cho hỏa thiên. Hành nhân dùng một hoa, cúng dường Một Lật Đồ (Mṛḍa), xếp đặt nơi tòa vị. Lại nên dùng tưới rảy, hãy nên thí đầy
muỗng. Trì chân ngôn hỏa thần. Kế, Tức Tai hộ-ma, hoặc làm pháp Tăng Ích, như hộ-ma
trong đời, gọi đó là ngoại sự).
Kế đó, đức Phật bảo ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí
Mật Chủ rằng:
- Bí Mật Chủ! Lò lửa
ấy to bằng khủy tay, bốn cạnh vuông vắn đều nhau. Đường ranh (đường gờ ở miệng
lò) to bốn ngón, dùng hình chày kim cang vây quanh. Kế đó là hai bài kệ; chính
là tiếp đó đức Phật giải đáp. Lò ấy to bằng khủy tay, đường ranh rộng bốn ngón,
dùng chày kim cang vây quanh [trên đường ranh ấy]. Tức là tùy theo chỗ trụ, đào
sâu xuống một khủy tay, [bốn phía] vuông vắn [cũng có kích thước] như vậy. Trên
miệng lò, lập đường gờ, [đường gờ ấy] cao rộng bốn ngón. Dùng ngón cái [của
chính hành nhân] để [làm mẫu] đo lường. Quanh đường gờ, dùng chày kim cang vây
quanh. Bốn mặt tiếp giáp nhau, giống như đã nói trong phần tám ấn trên đây. “Đẳng” tức là độ sâu [của lò] và [lò
có hình dáng] vuông, tròn v.v… [tùy theo pháp sự sẽ làm, như Tăng Ích, Tức Tai
v.v…] Như lò vuông, và lò tam giác, bán nguyệt, lò tròn, đều to như nhau, có thể
suy ra mà biết. Kệ ghi: “Tịch chi dĩ
sanh mao, nhiễu lô nhi hữu toàn, vật dĩ mạt gia bổn, ưng dĩ bổn gia mạt”
(Dùng cỏ tươi để trải, quanh lò theo chiều phải. Đừng dùng ngọn đè gốc, nên xếp
gốc đè ngọn), tức là chớ [xếp các nhánh cỏ Cát Tường] ngọn đè lên gốc, hãy nên
xếp cỏ sao cho gốc [của ngọn cỏ này] đè lên ngọn cỏ kia. Xếp cỏ tranh xong, tán
sái theo chiều phải, pháp giáo phải nên như thế. Dâng hương bôi, hoa, đèn. Hãy
nên cúng cho Hỏa Thiên Một Lật Noa, dùng một đóa hoa để cúng dường ở chỗ đặt
tòa. Xếp đặt xong, người trì chân ngôn lại sái tịnh. Bậc trí dùng chân ngôn của
vị hỏa thiên ấy để “mãn thí” (tức
là dùng muỗng to múc đầy ắp vật cúng đổ vào lửa).
“Thứ
Tức Tai hộ-ma, hoặc dĩ Tăng Ích pháp, như thị thế hộ-ma, thuyết danh vi ngoại sự.
Phục thứ, nội hộ-ma, diệt trừ ư nghiệp sanh” (Kế đó, thực hiện pháp Tức
Tai hộ-ma, hoặc làm pháp Tăng Ích. Như pháp hộ-ma trong cõi đời, được gọi là
ngoại sự (tức ngoại hộ-ma). Lại nữa, thực hiện pháp nội hộ-ma để diệt trừ các
thứ sanh bởi nghiệp): Tức là tướng nghiệp sanh diệt. Biết rõ Mạt Na tức là [hiểu
rõ] Ý (Mạt Na thức). Xa lìa sắc, thanh v.v… Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ngữ, ý
v.v… [vì các trần và các căn] thảy đều từ tâm khởi, nương tựa nơi tâm vương. “Cỏ cát tường” ngụ ý hiển lộ rõ ràng.
“Trải cỏ theo chiều phải” tức
là cách xếp cỏ trên đường gờ quanh miệng lò. Hãy nên xếp sao cho gốc [của nhánh
cỏ này] đè lên ngọn [của nhánh cỏ kế tiếp]. “Ngọn” tức là phần chót lá xanh của
cỏ. Giả sử khi trải cỏ ở phương Đông thì gốc ở phương Bắc, ngọn ở phương Nam, vẫn
[là gốc] đè lên ngọn. Kế đó, cái gốc ở phương Nam, chẳng được dùng gốc đè lên
ngọn[6].
Theo thứ tự rải vòng quanh, tới phương Nam, tức là gốc ở phương Đông, đầu cỏ hướng
về Tây. Cho tới phương Bắc, thứ tự đều chuẩn theo đó.
“Sái
thủy” (Rưới nước) tức là nước
Át-già (Argha). Át-già có pháp tắc riêng như trong phần Tất Địa đã nói, nhưng
rưới nước có hai cách: Nếu dùng cỏ để kết thành một bó nhỏ, đặt trong chén đựng
Át-già để vẩy. Khi vẩy thì vẩy [vòng quanh đàn tràng hoặc vật được sái tịnh]
thuận theo chiều phải, hoặc trực tiếp dùng tay để rưới cũng được. Nhưng “rải
theo chiều thuận” lại có hai loại:
- Nếu lúc mới tịnh hỏa thì thuận theo
chiều phải mà rưới.
- Nếu là lúc sái tịnh để cúng dường,
hãy nên rảy thẳng, chẳng cần xoay vòng quanh, như trong phần Tất Địa đã biện định.
Nhưng khi chưa rảy, để thỉnh hỏa tôn,
bèn có chân ngôn và ấn như trong phẩm trước đã nói, chính là để sử dụng ở đây.
Rảy xong, dâng cúng hoa, theo thứ tự cúng dường các vật. Lúc bấy giờ, hãy nên
quán hình tượng Bổn Tôn ở trong lò ấy, dùng chân ngôn trong phần trước để tưới
rải trọn khắp. “Mãn thí” là
dùng muỗng múc vật phẩm đổ vào trong lửa. Muỗng có hai loại:
- Loại thứ nhất là muỗng to, gọi là
Mãn Thí. Hãy nên múc đầy muỗng rồi đổ vào trong lửa.
- Kế đó là muỗng nhỏ, tức là liên tục
đổ [các vật phẩm cúng như tô, sữa, bột thơm v.v…] vào trong lửa, cũng cần phải
múc đầy.
Có pháp riêng, cũng như trong Tất Địa
đã chỉ bày đại lược. Đối với ba sự Tức Tai, Tăng Ích, Chiết Phục, hãy nên biết
hết thảy các sự đều chuẩn theo đây mà làm. Lại nữa, nội hộ-ma [trừ diệt] nghiệp
sanh diệt, “biết rõ ý ấy” tức
là muốn hiểu ý thì phải nên lìa cảnh. Đã lìa cảnh, cũng biết lìa căn. Nhưng ngữ
thuộc về lưỡi, thân và ý từ tâm sanh, nương vào tâm vương mà khởi. Mắt, tai
v.v… do phân biệt mà sanh, và cảnh giới như sắc v.v… do lúc huệ chưa sanh, bèn
nương vào tâm vương mà có hư vọng! Muốn dứt bặt những điều ấy, hãy dùng lửa gió
khô nóng để diệt, tức là dùng “trí
phong hỏa” (lửa sanh khởi từ gió trí) để đốt. Thiêu trừ vọng chấp, khiến
cho [hành nhân] đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh, sẽ có tịnh ngữ. Vì thế, pháp này
được gọi là “nội hộ-ma”, vì các
Bồ Tát mà nói. Do huệ là lửa sanh bởi gió, huệ là Chỉ, tịnh tâm là Quán. Từ
trên tới đây là nói về chuyện thế gian.
(Kinh) Phục thứ, nội hộ-ma, diệt trừ ư nghiệp sanh, liễu tri tự mạt-na, viễn
ly sắc thanh đẳng, nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, cập dữ ngữ, ý nghiệp, giai tất
tùng tâm khởi, y chỉ ư tâm vương. Nhãn đẳng phân biệt sanh, cập sắc đẳng cảnh
giới. Trí huệ vị sanh chướng, phong táo hỏa năng diệt, thiêu trừ vọng phân biệt,
thành tịnh Bồ Đề tâm. Thử danh nội hộ-ma, vị chư Bồ Tát thuyết.
(經)復次,內護摩,滅除於業生,了知自末那,遠離色聲等。眼耳鼻舌身,及與語意業,皆悉從心起,依止於心王,眼等分別生,及色等境界,智慧未生障,風燥火能滅。燒除妄分別,成淨菩提心,此名內護摩,為諸菩薩 說。
(Kinh:
Tiếp đó, nội hộ-ma, diệt trừ sanh bởi nghiệp, thấu hiểu tự mạt-na, xa lìa sắc,
thanh thảy, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, cùng với ngữ, ý nghiệp, thảy đều từ tâm
khởi, y chỉ nơi tâm vương. Mắt thảy sanh phân biệt, và cảnh giới sắc thảy. Chướng
vì huệ chưa sanh, lửa gió khô trừ diệt, đốt sạch vọng phân biệt, thành Bồ Đề
tâm tịnh. Đó gọi nội hộ-ma, vì các Bồ Tát nói).
[1] Phạm Thế
(Brahmaloka) còn dịch là Phạm Sắc Giới, Phạm Thế Thiên, Phạm Thế Giới, hay chỉ
gọi gọn là Phạm Giới, có thể hiểu theo ba nghĩa:
- Đây là
danh xưng chung chỉ toàn bộ các cõi được cai quản bởi Đại Phạm Thiên Vương, tức
là Sắc Giới và Dục Giới trong một tam thiên đại thiên thế giới.
- Chỉ riêng
ba cõi trời thuộc Sơ Thiền Thiên của Sắc Giới, tức Đại Phạm Thiên, Phạm Phụ
Thiên, và Phạm Chúng Thiên.
- Danh xưng
để gọi chung Sắc Giới, vì người trong Sắc Giới đã lìa dâm dục, được gọi là bậc
Phạm hạnh.
[2] Tóc máu:
Tức là lớp tóc đầu tiên của trẻ sơ sinh đã được hình thành khi trẻ còn trong bụng
mẹ. Theo phong tục, khi trẻ đủ lớn, người ta thường tin phải cắt hay cạo bỏ lớp
tóc máu để trẻ có tóc dày, đẹp, mọc nhanh hơn. Thông thường, tóc máu sẽ được cạo
hay cắt bỏ khi trẻ được ba tháng tuổi hay chậm hơn, nhưng luôn được thực hiện
trước khi trẻ thôi nôi.
[3] Đây là một
phong tục của Ấn Độ Giáo, chùm tóc Châu Đồ (Juṭṭu) để lại sau đầu, hoặc trên đỉnh
đầu, sau khi cạo tóc, còn được gọi là Choti, Tiki, Kudumi, Choin, Shendi, hoặc
Śikhā, được coi là dấu hiệu đặc trưng của giai cấp Bà La Môn, nhất là những người
phục vụ trong các đền thờ Ấn giáo. Họ cho rằng chùm tóc này nhắc nhở hành nhân
nhất tâm tin tưởng thần, cũng như là dấu hiệu tuân phục, và tiếp nhận ân sủng của
thần.
[4] Đây là một
loại gậy Daṇḍa-kāṣṭha của hành giả tu tịnh hạnh trong Bà La Môn giáo. Theo
phong tục Bà La Môn thời cổ, trẻ trai thuộc giai cấp Bà La Môn phải phát nguyện
tu tịnh hạnh một khoảng thời gian trước khi đạt tới hai mươi tuổi. Đã hoàn
thành giai đoạn tu khổ hạnh ấy rồi mới trở về lập gia đình.
[5] Tỳ Thủ Yết
Ma còn gọi là Xảo Diệu Thiên, Tự Tại Thiên Vương, Công Xảo Thiên v.v… được coi
là người sáng tạo vạn vật trong vũ trụ theo Bà La Môn giáo. Vị này là thuộc hạ
của Đế Thích, nổi tiếng về tài khéo trong các thứ kiến trúc, và chế tác vật dụng.
[6] Không biết câu này có bị khắc in sai hay không, vì mâu thuẫn với chánh kinh yêu cầu không để ngọn đè lên gốc!
Comments
Post a Comment