Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

大毘盧遮那成佛經疏


 

1. Phẩm thứ nhất: Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm

Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm Phẩm Đệ Nhất

入真言門住心品第一



1.1. Lược giải tựa đề kinh

 

          “Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì”: Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) theo âm tiếng Phạn là tên gọi khác của mặt trời, tức là ý nghĩa “trừ tối tăm, sáng sủa trọn khắp”. Nhưng mặt trời trong thế gian có nơi chốn, giới hạn. Nếu chiếu bên ngoài, sẽ chẳng thể chiếu bên trong, chiếu sáng tại một bên này, sẽ chẳng chiếu sáng bên kia. Lại chỉ chiếu sáng ban ngày, chẳng soi sáng ban đêm. Ánh sáng từ vầng mặt trời trí huệ của Như Lai chẳng giống như vậy, trọn khắp hết thảy mọi nơi đều chiếu sáng bừng, chẳng có nơi chốn “trong, ngoài”, hay đêm, ngày sai khác.

          Lại nữa, mặt trời vận hành trong cõi Diêm Phù Đề, hết thảy cỏ cây, rừng lùm, tùy theo tánh chất của chúng đều được tăng trưởng, các sự việc trong thế gian bởi đó mà được hoàn thành. Ánh sáng từ vầng mặt trời Như Lai chiếu trọn khắp pháp giới, cũng có thể bình đẳng khai phát các thứ thiện căn của vô lượng chúng sanh, cho đến sự nghiệp thù thắng trong thế gian và xuất thế gian, không gì chẳng do vậy mà được hoàn thành. Lại như lúc mây mù âm u che lấp mặt trời, nó cũng chẳng bị hoại diệt; gió mạnh thổi tan mây, ánh mặt trời chiếu rạng, cũng chẳng phải là [tới lúc đó, mặt trời] mới sanh. Vầng mặt trời Phật tâm cũng giống như thế, tuy bị mây dày vô minh, phiền não, hý luận chướng lấp, nhưng nó chẳng giảm. Trong các pháp, Thật Tướng tam-muội viên minh rốt ráo không ngằn mé, nó chẳng tăng! Do các nhân duyên như thế, mặt trời của thế gian chẳng thể sánh ví [vầng mặt trời nơi Phật tâm], chỉ lấy chút phần tương tự. Vì thế, thêm vào đó chữ Đại, mà nói là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na vậy!

          “Thành Phật”: Nói đầy đủ theo âm tiếng Phạn sẽ là “thành Tam Bồ Đề”, [Tam Bồ Đề] có nghĩa là Chánh Giác Chánh Tri, tức là dùng Như Thật Trí để biết quá khứ, vị lai, hiện tại, chúng sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v… hết thảy các pháp đều hiểu biết rành rành, vì thế gọi là Giác. Nhưng Phật chính là Giác Giả (đấng giác ngộ); do nói tỉnh lược, chỉ nói là “thành Phật”.

           “Thần biến gia trì”: Dịch theo lối cũ, sẽ là Thần Lực Sở Trì, hoặc Phật Sở Hộ Niệm. Nhưng sự tự chứng Tam Bồ Đề này vượt ngoài hết thảy các tâm địa, hiện tiền giác ngộ các pháp từ thoạt đầu vốn bất sanh, tức là ngôn ngữ đều dứt bặt, tâm hạnh cũng vắng lặng. Nếu lìa khỏi sức oai thần của Như Lai, dẫu bậc Thập Địa Bồ Tát còn chưa thuộc vào cảnh giới ấy, huống hồ những kẻ khác còn đang ở trong sanh tử ư? Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do nguyện đại bi từ xưa kia, nghĩ như thế này: “Nếu ta chỉ trụ trong cảnh giới như thế này, các hữu tình sẽ chẳng thể do vậy mà đạt được lợi ích”. Vì thế, Ngài trụ trong tam-muội được gia trì bởi thần lực tự tại, vì khắp hết thảy các chúng sanh, nêu bày đủ loại thân tướng mà [chúng sanh trong] các đường thích thấy, nói đủ loại pháp đáng nên nghe ứng hợp với căn tánh và lòng ưa thích [của từng loại chúng sanh], tùy thuận các thứ tâm hạnh mà mở ra môn quán chiếu. Nhưng sự ứng hóa ấy chẳng sanh từ thân, ngữ, hoặc ý của đức Tỳ Lô Giá Na. Trong hết thảy thời, xứ, khởi lên, hay diệt mất, đều chẳng thể tìm được ngằn mé! Ví như huyễn sư (người thực hiện huyễn thuật, ảo thuật gia) do sức chú thuật gia trì dược thảo, có thể hiển hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, ứng với ngũ tình[1], khiến đại chúng đẹp lòng. Nếu rời bỏ sự gia trì, sau đó [các huyễn sự ấy] sẽ ẩn mất. Kim cang huyễn của Như Lai cũng giống như thế, hễ duyên hết bèn diệt, cơ duyên hưng khởi bèn sanh, mọi chuyện hễ tiếp xúc đều là chân thật, chẳng có cùng tận. Vì thế nói là Thần Lực Gia Trì Kinh. Nếu xét theo Phạn bổn, tựa đề đầy đủ phải là Đại Quảng Bác Kinh Nhân Đà La Vương. Nhân Đà La Vương chính là Đế Thích. Ý nói kinh này là tạng bí yếu của hết thảy các đức Như Lai, oai đức đặc biệt tôn quý trong các giáo thuộc Đại Thừa, ví như Thiên Mục là chúa trời Đế Thích. Nay sợ tựa đề kinh rộng lớn, cho nên chẳng gọi đủ [theo danh xưng ấy]!

 

1.2. Lược giải tên phẩm

 

          Đối với phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm, bản tiếng Phạn có hai tựa đề:

          - Một là Tu Chân Ngôn Hạnh Phẩm.

          - Hai là Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm Phẩm.

          Tôi trộm cho rằng ý nghĩa của chữ Nhập Trụ đã kèm thêm ý Tu Hành, cho nên bỏ lối nói rườm rà, chỉ chọn lấy một tựa đề.

          Chân Ngôn tiếng Phạn là Mạn-đát-la (Mantra), tức là chân ngữ, như ngữ (lời nói đúng như sự thật), là tiếng chẳng quên, chẳng khác. Thích Luận[2] của ngài Long Thọ gọi đấy là “phù hiệu bí mật”, dịch theo lối cũ là Chú (); đó chẳng phải là cách dịch chánh xác. Phẩm này luận định chung đại ý của kinh, tức là nói: “Tự tâm của chúng sanh chính là trí Nhất Thiết Trí”. Hiểu rõ đúng như thật thì gọi là Nhất Thiết Trí. Vì thế, kinh này dạy các Bồ Tát lấy chân ngữ làm môn, tự tâm phát Bồ Đề chính là “tâm trọn đủ muôn hạnh, thấy Chánh Đẳng Giác trong tâm, chứng Đại Niết Bàn trong tâm, phát khởi phương tiện nơi tâm, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật trong tâm”. Từ nhân tới quả, đều dùng “vô sở trụ” (không trụ vào đâu) để trụ cái tâm. Vì thế nói là phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm.

          Nhập Chân Ngôn môn, đại lược có ba sự:

          - Một là thân mật môn.

          - Hai là ngữ mật môn.

          - Ba là tâm mật môn, trong phần sau sẽ nói cặn kẽ điều này.

          Hành giả dùng ba phương tiện ấy để tự tịnh hóa ba nghiệp, tức là được tam mật của Như Lai gia trì, cho đến trong đời này có thể trọn vẹn Địa Ba La Mật, chẳng còn phải trải qua nhiều kiếp tu trọn các hạnh đối trị. Vì thế, kinh Đại Phẩm [Bát Nhã] nói: “Hoặc hữu Bồ Tát sơ phát tâm thời, tức thượng Bồ Tát vị, đắc bất thoái chuyển. Hoặc hữu sơ phát tâm thời, tức đắc Vô Thượng Bồ Đề, tiện chuyển pháp luân “ (Có Bồ Tát khi sơ phát tâm, liền dự vào địa vị Bồ Tát bậc thượng, đạt được bất thoái chuyển. Hoặc có vị khi mới phát tâm, liền đắc Vô Thượng Bồ Đề, liền chuyển pháp luân). Ngài Long Thọ bảo là như đi xa, nếu cưỡi dê thì lâu thật lâu mới đến. Ngựa thì nhanh hơn một tí. Nếu nương vào người có thần thông, trong khoảng vừa dấy lên ý niệm là đã đến nơi, chẳng thể nói “trong khoảng dấy lên một ý niệm, sao có thể đến được?” Thần thông giống như thế đó, chớ nên sanh nghi! Đấy chính là ý chỉ sâu xa của kinh này vậy.

 

1.3. Giải thích kinh văn

 

          (Kinh) Như thị ngã văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia trì quảng đại kim cang pháp giới cung. Nhất thiết trì kim cang giả giai tất tập hội.

          ()如是我聞一時薄伽梵住如來加持廣大金剛法界宮。一切持金剛者皆悉集會

          (Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già Phạm trụ trong Như Lai gia trì kim cang pháp giới cung rộng lớn. Hết thảy các vị trì kim cang thảy đều nhóm họp).

         

          Khởi đầu của một bộ kinh luôn có năm nghĩa như Đại Trí Độ Luận đã nói cặn kẽ, nhưng bản tiếng Phạn của kinh này thiếu phần Thông Tự. A-xà-lê (tức ngài Thiện Vô Úy) nói: “Tỳ Lô Giá Na đại bổn có mười vạn bài kệ, do to rộng khó trì, bậc thánh nhân truyền pháp chọn lấy phần tông yếu gồm hơn ba ngàn bài tụng. Tuy văn, nghĩa của chân ngôn và hành pháp nói chung là trọn vẹn, nhưng do không phải là bản gốc của đại kinh, cho nên thiếu phần Thông Tự “. Nay theo lệ, thêm vào thì ý nghĩa cũng chẳng bị ảnh hưởng gì.

          Bạc Già Phạm (Bhagavān) theo giải thích của bậc luận sư thì có sáu nghĩa. Nay dựa theo điều được đề cao trong kinh này, thì Bạc Già Phạm có nghĩa là Năng Phá (có thể phá trừ), như người cầm vũ khí sắc bén, sẽ dẹp yên được nhiều [oán địch]! Đầu đuôi của danh xưng ấy là do thế gian bàn luận, xem xét sự tích, cho nên gọi người ấy là Năng Phá Giả (người có thể phá). Đức Thế Tôn cũng thế, dùng ánh sáng đại trí phá hết thảy vô minh phiền não trong thức tâm. Các thứ vô minh vốn tự vô sanh mà cũng chẳng có tướng mạo, nhưng mặt trời trí huệ vừa mọc thì tối tăm, mê hoặc tự trừ. Do vậy, dựa theo ý nghĩa ấy mà gọi là Phá. Thích Luận cũng nói: “Bà Già là Phá, Bà là có thể phá. Có thể phá dâm, giận, si, nên gọi là Bà Già Bà. Nhị Thừa tuy phá Tam Độc, nhưng trọn chẳng sạch hết, như đồ đựng hương vẫn còn sót lại mùi hương. Lại như thảo mộc đem đốt, do sức lửa yếu, tro than chẳng hết. Như Lai như lửa lúc kiếp thiêu, [vạn vật] thảy đều cháy hết sạch chẳng có khói, chẳng còn than! Vì thế, gọi là Bà Già Bà”.

          Lại nữa, Thanh Luận của Đế Thích nói nữ nhân là Bạc Già, tức là ý nghĩa “mong cầu nhân duyên để có thể dứt phiền não”. Lại còn có nghĩa là “sở tùng sanh” (được sanh bởi), tông chỉ của kinh Kim Cang Đảnh chính là được dịch theo nghĩa này. Nói “nữ nhân” thì tức là Bát Nhã Phật Mẫu[3], là bậc tri kiến vô ngại, thảy đều từ đó mà sanh. Do dốc chí mong cầu nhân duyên, sẽ được tương ứng, phiền não và hý luận thảy đều vĩnh viễn dứt bặt, chẳng như sức nóng dục vọng của thế gian tuy tạm ngưng dứt, mà thật ra càng tăng trưởng! Do Mật Giáo không thể nói thẳng, có nhiều khi giống như ẩn ngữ, người học hễ tiếp xúc phải suy tưởng.

          Hơn nữa, Bạc Già Phạm tức là “có thanh danh”, như người có nhiều tài vật được gọi là Trì Tư Tài Giả (người nắm giữ tài vật), do có vàng nên gọi là Trì Kim Giả. Do Như Lai trọn đủ đức hạnh thù thắng, nên gọi là Trì Chúng Đức Giả (người nắm giữ các đức). Thích Luận cũng nói: “Bà Già là đức, Bà là Có, tức [Bà Già Bà] là Có Đức. Bà Già là thanh danh, Bà là có, [Bà Già Bà] tức là người có thanh danh”. Hết thảy thế gian, chẳng ai có thanh danh, đức hạnh như Phật; đó chính là ý nghĩa này vậy. Trong kinh, [từ ngữ này] phần nhiều được dịch thành Thế Tôn, tức là danh xưng chung để tán thán phẩm đức. Trong cách nói của phương Tây (Ấn Độ), hễ nói đến bậc tôn quý, chẳng dám réo thẳng tên, ắt là phải trước đó tán thán công đức của vị ấy, như nói Đại Trí Xá Lợi Phất, Thần Thông Mục Kiền Liên, Đầu Đà Đại Ca Diếp, Trì Luật Ưu Bà Ly v.v… Vì vậy, trong kinh, theo lệ ấy, bèn nói Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na. Nay thuận theo cách hành văn của phương này, có thể dùng Thế Tôn trong các phần sau vậy.

          Kinh nói “Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia trì”, Bạc Già Phạm tức là bổn địa Pháp Thân của Tỳ Lô Giá Na Phật. Kế đó, nói Như Lai, tức là thân gia trì của Phật. Trụ xứ ấy được gọi là Thọ Dụng Thân của Phật. Tức là dùng thân ấy làm trụ xứ được Phật gia trì. Đối với Như Lai tâm vương, chư Phật hễ trụ bèn trụ trong đó. Từ đó, sanh ra sức gia trì trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là chẳng hai, chẳng khác với vô tướng Pháp Thân, nhưng do thần lực tự tại, khiến cho hết thảy chúng sanh trông thấy sắc tướng nơi Thân Mật, nghe âm thanh của Ngữ Mật, ngộ pháp nơi Ý Mật, tùy thuộc căn tánh của họ mà chia thành đủ loại bất đồng, tức là chỗ để trụ ấy được gọi là “gia trì xứ “.

          Kế đó, lại nhằm giải thích, tán thán trụ xứ được gia trì, bèn nói là “quảng đại kim cang pháp giới cung”. “Đại” là chẳng có ngằn mé. “Quảng” là chẳng thể tính đếm. “Kim cang” là sánh ví trí Thật Tướng, vượt khỏi hết thảy các phương cách diễn tả, suy lường của ngôn ngữ và tâm hạnh, tương ứng với “chẳng nương tựa vào đâu”, chẳng chỉ bày các pháp, chẳng có đầu, giữa, sau, chẳng tận, chẳng hoại, lìa các tội lỗi, chẳng thể biến đổi, chẳng thể phá hủy, nên gọi là Kim Cang. Như chất báu kim cang trong thế gian có ba sự tối thắng: Một là chẳng thể phá hoại, hai là bậc thượng trong các báu, ba là thù thắng trong các khí cụ để chiến đấu. Điều này đại lược tương đồng với ý nghĩa của thí dụ sánh ví ba loại Kim Cang tam-muội trong Thích Luận.

          “Pháp giới” chính là cái Thể của trí kim cang rộng lớn. Trí thể ấy được gọi là trí thân Thật Tướng của Như Lai. Do được gia trì, nó chính là chỗ được trang nghiêm bởi công đức chân thật, là cảnh diệu trụ, là cốt lõi của tâm vương; vì thế nói là Cung. Cung ấy chính là chỗ cổ Phật thành Bồ Đề, được gọi là Ma Hê Thủ La Thiên Cung. Thích Luận nói: “Năm loại trụ xứ của A Na Hàm thuộc Đệ Tứ Thiền Thiên gọi là Tịnh Cư Thiên. Qua khỏi nơi đó, có trụ xứ của bậc Thập Trụ Bồ Tát, cũng gọi là Tịnh Cư, hiệu là Đại Tự Tại Thiên Vương”. Nay ý nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở đây là “dùng cái tâm thần diệu gia trì tự tại để làm chỗ cư trụ”, bèn gọi là Tự Tại Thiên Vương Cung. Ý nói: Hễ chỗ nào Như Lai đáng nên ngự thì không gì chẳng phải là cung điện ấy, chẳng phải chỉ biểu thị riêng [một nơi chốn nhất định] trong tam giới.

          “Nhất thiết Trì Kim Cang giả giai tất tập hội” (Hết thảy các vị Trì Kim Cang thảy đều nhóm họp): Kế đó, nói về quyến thuộc mầu nhiệm. Như Lai ngự trong cung ấy là ở một mình, hay là có quyến thuộc? Vì thế, bèn nói trong ấy có vô biên quyến thuộc thường nhóm họp, tức là các vị như Chấp Kim Cang v.v… [Chấp Kim Cang trong] tiếng Phạn là Phạt Chiết La Đà La (Vajradhara), Phạt Chiết La (Vajra) tức là kim cang chử (chày kim cang), còn Đà La (Dhara) nghĩa là “chấp trì” (nắm giữ). Vì thế, lối xưa dịch [danh hiệu này] thành Chấp Kim Cang, nay nói là Trì Kim Cang. Giải thích theo hai lối cạn và sâu, xét về ý nghĩa [thì cách dịch mới] thù thắng hơn, cho nên trong kinh văn sẽ tùy thuộc thuận tiện mà sử dụng lẫn nhau. Nếu biểu thị theo lối thông thường trong Thế Đế, thì sẽ nói “sanh thân của Phật thường có năm trăm vị Chấp Kim Cang Thần chầu hầu, bảo vệ”. Nhưng [xét theo] mật ý được đề cao ở đây thì Phạt Chiết La là Kim Cang Trí Ấn[4] của Như Lai. Trí ấn như thế số nhiều vô lượng, người có thể trì ấn ấy cũng là vô biên! Vì cớ sao vậy? Chỗ trụ của tâm vương ắt có tâm số (tâm sở) nhiều như cát bụi làm quyến thuộc. Nay tâm vương Tỳ Lô Giá Na thành tựu tự nhiên giác, lúc bấy giờ, hết thảy tâm số không gì chẳng vào trong kim cang giới, thành trí ấn nội chứng công đức sai biệt của Như Lai. Trí ấn như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể nắm giữ. Xét theo ý nghĩa Bồ Đề, tức là có vô lượng vô biên kim cang ấn. Xét theo ý nghĩa Phật Đà, sẽ có vô lượng vô biên vị Trì Kim Cang. Do các đức đều là một tướng, một vị, quy vào Thật Tế, nên gọi là “tập hội” (nhóm họp). Nếu có chút phần chẳng bằng, hoặc một pháp chưa viên mãn, sẽ chẳng gọi là “nhất thiết tập hội” (hết thảy nhóm họp). Nhưng do dùng thần lực tự tại gia trì, từ tâm vương Tỳ Lô Giá Na bèn hiện ra thân gia trì tôn quý, đặc biệt. Lúc đó, vô lượng pháp môn quyến thuộc, mỗi mỗi đều hiện thân Chấp Kim Cang, hòng hiển lộ, phát khởi thế lực to lớn oai mãnh của Như Lai, ví như Đế Thích tay cầm chày kim cang phá quân Tu La. Nay các vị Chấp Kim Cang ở đây cũng giống như thế, mỗi vị đều từ một môn, cầm vũ khí Đại Không[5] có thể phá hoại phiền não vô tướng của chúng sanh. Vì thế, dùng hình tướng ấy để sánh ví.

 

          (Kinh) Như Lai tín giải du hý thần biến sanh đại lâu các bảo vương, cao vô trung biên, chư đại diệu bảo vương chủng chủng gián sức, Bồ Tát chi thân vi sư tử tòa.

          ()如來信解遊戲神變生大樓閣寶王高無中邊諸大妙寶王種種間飾菩薩之身為師子座

          (Kinh: Do thần biến du hý tín giải của Như Lai, sanh ra lầu gác lớn là vua trong các báu, cao vời, chẳng có chặng giữa hay ngằn mé, các loại vua chất báu mầu nhiệm quý nhất [dùng để] xen kẽ trang hoàng, dùng thân của Bồ Tát làm tòa sư tử).

          Đại chúng đã nhóm họp, phải nên có chỗ thuyết pháp. Vì thế, kế đó nói đến lầu gác để trụ và tòa sư tử. “Tín giải”: Bắt đầu từ thật sự phát tâm cho đến khi thành Phật, trong khoảng giữa đó, gọi chung là Tín Giải Địa (địa vị tín giải). [Tín Giải trong] tiếng Phạn là Vi Cật Rị Nê Đa (Vikriḍita), có nghĩa là “hăng hái, du hý, thần biến”, ý nói: Từ sơ phát tâm cho tới nay, đã gieo sâu căn lành, dấy lên các thứ nguyện hạnh để trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh, luôn tiến lên thù thắng, chẳng ngưng nghỉ, tức là ý nghĩa “siêu thăng, vọt lên”. Như người được thúc đẩy, cổ vũ, có thể dùng ba nghiệp thiện xảo khiến cho trọn khắp mọi người đều đẹp dạ. Vì vậy, “vọt lên” bèn được gọi là “du hý”. Du hý như thế chính là thần thông tự tại của Bồ Tát. [Chánh kinh có ý] nói đức Tỳ Lô Giá Na khi hành Bồ Tát đạo, đã dùng Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội, cúng dường vô lượng thiện tri thức, hành trọn khắp vô lượng các Độ môn (các Ba La Mật môn), pháp tự lợi và lợi tha đều trọn đủ, có thể đạt được điện đài pháp giới bí mật trang nghiêm do các chất báu trí huệ của Như Lai hợp thành như thế, là cao tột bậc nhất trong hết thảy các thứ được sanh bởi Thật Báo, ví như Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ý Bảo Châu) là vua của các chất báu. Vì thế nói là “du hý thần biến sanh đại lâu các bảo vương”. Điện đường ấy cao vô cùng, phải biết là nó cũng rộng không ngằn mé, do chẳng thể tìm được giới hạn. Cũng lại không có trung gian, do là chỗ trụ của thân trong hết thảy các xứ. Hãy nên biết: Điện đường như thế cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi.

          Kế đó, nói về tướng trạng trang nghiêm của điện đường: Giống như có người dùng đủ loại kim cang nhiều màu để trang nghiêm kim cang, nhưng thể tánh của chúng chẳng có sai biệt. Nay ở đây cũng như thế: Lại dùng các thứ công đức bảo vương của Như Lai để xen kẽ trang hoàng lâu các bảo vương. Vì sao vậy? Chẳng có pháp nào khác xuất sanh tánh báu như thế. Nhưng tướng tịch diệt bậc nhất ấy, do được thần lực của Như Lai gia trì, khiến cho người đáng được độ sẽ tùy theo các biểu tượng của các pháp môn, nếu có thể thấy, nghe, tiếp xúc, liền dùng môn ấy để nhập pháp giới, như nhân duyên Thiện Tài đồng tử vào cung điện của ngài Di Lặc.

          Ở đây, phải nên nói cặn kẽ về chuyện dùng thân Bồ Tát làm tòa sư tử: “Kim cang pháp giới cung” vừa nói trên đây chính là thân của Như Lai. Kế đó, nói tới “đại lâu các bảo vương”, đấy cũng chính là thân của Như Lai. Nay nói “tòa sư tử”, hãy nên biết cũng như thế. Sở dĩ nói “thân của Bồ Tát” tức là nói khi hành Bồ Tát đạo, lần lượt tu hành Ba La Mật thuộc mỗi địa vị, cho đến địa vị thứ mười một. Hãy nên biết: Địa vị sau dùng địa vị trước làm nền tảng. Vì thế nói “Như Lai dùng thân Bồ Tát làm tòa sư tử”. Thích Luận viết: “Ví như sư tử là vua trong các loài thú, đi một mình chẳng sợ hãi. Phật cũng giống như thế, trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, hàng phục hết thảy vô úy. Vì thế, gọi là ‘nhân trung sư tử’ (sư tử trong loài người). Chỗ Ngài ngồi, dù là giường hay mặt đất, đều gọi là sư tử tòa”. Đối với ý nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở đây, nói “sư tử” tức là nói tới tâm Bồ Đề dũng kiện. Từ sơ phát ý tới nay, đạt được thế lực tinh tấn to lớn, chẳng hề khiếp nhược, giống như sư tử tùy ý bắt giữ, ắt đều đạt được chẳng sót, tức là ý nghĩa “tự tại độ người khác chẳng bỏ sót” vậy! Nếu giải thích nông cạn, đại lược, sẽ là có ý nói các Bồ Tát thâm tâm kính pháp, cho đến dùng thân để gánh đội tòa sư tử của Phật. Vì thế nói: “Thân Bồ Tát làm tòa sư tử”.

 

          (Kinh) Kỳ kim cang danh viết Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Như thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Trì Kim Cang chúng câu, cập Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát đẳng, chư đại Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu, nhi diễn thuyết pháp.

          ()其金剛名曰虛空無垢執金剛虛空遊步執金剛虛空生執金剛被雜色衣執金剛善行步執金剛住一切法平等執金剛哀愍無量眾生界執金剛那羅延力執金剛大那羅延力執金剛妙執金剛勝迅執金剛無垢執金剛刃迅執金剛如來甲執金剛如來句生執金剛住無戲論執金剛如來十力生執金剛無垢眼執金剛金剛手祕密主如是上首十佛剎微塵數等持金剛眾俱及普賢菩薩慈氏菩薩 妙吉祥菩薩 除一切蓋障菩薩等諸大

菩薩前後圍繞而演說法

          (Kinh: Danh hiệu kim cang của các vị ấy là: Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Các vị thượng thủ như thế, các vị Trì Kim Cang nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật nhóm đến, và Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát v.v… Các vị đại Bồ Tát trước sau vây quanh, diễn nói pháp).

 

          Kế đó, nói về đại chúng cùng nghe pháp.

          Hỏi: Đức Phật nói kinh, vì lẽ gì mà nói trụ xứ và quyến thuộc trước hết?

          Đáp: Ví như quốc vương, nếu có chánh lệnh, ắt trước hết công bố tới các khu vực quản lý để chế định, quyết đoán hình phạt, và tưởng thưởng. Khi đó, sử quan sẽ chép: “Vào lúc nào đó, vua ở chỗ nào đó, cùng với các đại thần nào đó tụ tập, bàn bạc, có mạng lệnh như thế này…” muốn khiến cho [toàn dân] trong nước tin phục, thực hiện theo, chẳng còn nghi ngờ! Pháp vương cũng thế, sắp nói đại pháp, ắt ngự trong đại quyến thuộc là các vị Bồ Tát để họ chứng minh. Do bởi nhân duyên ấy, người nghe sẽ sanh lòng tin. Do tín tâm, sẽ có thể từ trong pháp như thế mà tu hành, chứng đắc, tín tâm càng nẩy sanh gấp bội. Vì thế, trước hết liệt kê đại chúng.

          Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimalākāśa-vajradhāra) tức là tâm thể Bồ Đề lìa hết thảy chấp trước, tranh cãi, hý luận, như hư không thanh tịnh chẳng có chướng ngại, ngăn lấp, vô cấu, vô nhiễm, mà cũng chẳng phân biệt. Cái tâm như thế chính là Kim Cang trí ấn. Có thể nắm giữ cái ấn như thế, thì gọi là Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang.

          Kế đó, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang (Ākāśavicaraṇa-vajradhāra). “Du bộ” (Vicaraṇa) có nghĩa là “chẳng trụ, tiến lên thù thắng, thần biến”. Do tâm Bồ Đề thanh tịnh đối với hết thảy các pháp đều chẳng trụ, thường tấn tu vạn hạnh, khởi đại thần thông. Vì thế, nói là Hư Không Du Bộ. Lại nữa, Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, tức là chủng tử bình đẳng của môn chữ A[6], tu vô trụ hạnh, ví như phương tiện gieo trồng thì rễ, mầm dần dần nẩy sanh. Vì thế, kế đó nói tới chuyện phát khởi, thực hiện kim cang ấn.

          Vị thứ ba là Hư Không Sanh Chấp Kim Cang (Ākāśasaṃbhava-vajradhāra). Như mầm mộng đã nẩy sanh, Tứ Đại và thời tiết làm duyên, hư không vô ngại vun quén trong mỗi niệm. Tâm Bồ Đề cũng giống như thế, dùng “vô sở đắc” làm phương tiện, vạn hạnh làm duyên, đạt được sự sanh khởi chân thật. Đó gọi là Đại Không Sanh; vì thế gọi là Hư Không Sanh.

          Vị thứ tư là Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang (Citravasadhṛk-vajradhāra), như mầm mộng tăng trưởng, thân, lá, hoa, quả lần lượt trổ sum suê. Bồ Đề tâm thụ vương vạn đức nở xòe cũng giống như thế. Vì thế nói là “đầy đủ các thứ sắc”. Lại dùng các thứ pháp giới sắc để nhuộm tâm Bồ Đề vô cấu này thành Đại Bi Mạn-đồ-la; nên gọi là Bị Tạp Sắc Y (mặc áo nhiều màu).

          Vị thứ năm là Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang (Vicitracaraṇa-vajradhāra). Chữ Thiện này trong tiếng Phạn là Tỳ Chất Đa La (Vicitra), có nghĩa là “đoan nghiêm, chủng tử”. Ví như đã có được quả, hạt, lại còn là chủng tử. Thiện Hành Bộ tức là oai nghi của chư Phật, tức là khéo biết các thứ “thông, tắc” như “có thể độ, không thể độ” v.v… Dùng phương tiện nơi thân miệng, ý ứng hợp các căn cơ, khéo léo uốn nắn, khiến cho họ đều thành tựu Phật sự. Vì thế, dùng đó để đặt tên.

          Vị thứ sáu là Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang (Sarva-dharma-samatasthita-vajradhāra), tức là trụ trong tánh bình đẳng của hết thảy chư Phật, ý nói hết thảy các pháp như nhân, quả, tự, tha, hữu vi, vô vi v.v… nhập trong Như Thật Trí ấy, rốt ráo bình đẳng, cùng là một Thật Tế. Do có thể nắm giữ trí ấn ấy, nên dùng đó để đặt tên.

          Nhưng cả năm câu trên đây cũng đều là công đức chân thật của Như Lai, chẳng có cạn hay sâu sai khác; chỉ vì muốn phân biệt cho dễ hiểu mà nói theo thứ tự vậy.

          Vị thứ bảy là Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang (Apramana-sattvadhat-vonukampana-vajradhāra). Ai Mẫn (xót thương) ở đây còn gọi là Cứu Độ, ý nói đã trụ trong pháp tánh bình đẳng, tự nhiên phát khởi cái tâm đồng thể bi mẫn đối với hết thảy chúng sanh. Do các chúng sanh giới vô lượng, đại bi như thế cũng chẳng có hạn lượng! Đấy là một công đức của Như Lai; vì thế, người có thể trì [công đức ấy] bèn lấy đó làm tên.

          Vị thứ tám là Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Nārāyaṇabala-vajradhāra). Đã phát tâm thương xót, nếu có oai thế lớn, sẽ có thể cứu vớt, che chở; do vậy, kế tiếp bèn nói đến [điều này]. Trong kinh đã so lường, sức của sáu mươi con voi không bằng sức của một hương tượng, cho đến cuối cùng, sức của Na La Diên là tối thắng. Mỗi lỗ chân lông nơi sanh thân của đức Phật đều có sức bằng Na La Diên. Vì thế, dùng sức Na La Diên để sánh ví pháp giới thân.

          Vị thứ chín là Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Mahānārāyaṇabala-vajradhāra), ý nói vị này nắm giữ sức thần thông bí mật. Như Nhất Xiển Đề (Icchāntika)[7] là căn bệnh ắt phải chết, hàng Nhị Thừa dùng Thật Tế để xác chứng người ấy đã chết, chư Phật y vương do thấy [kẻ đó có] Như Lai tánh, bèn có thể thực hiện sư tử hống nhất định, đối với nhân duyên cứu chữa, tâm chẳng khiếp nhược. Các vị Bồ Tát còn chẳng thể làm như thế, cho nên lại nói sức bất cộng của hết thảy Ma Ha Na La Diên.

          Vị thứ mười là Diệu Chấp Kim Cang (Su-vajradhāra). Diệu nghĩa là “không có gì sánh bằng, không có gì hơn được”, giống như đề hồ đã tinh luyện mầu nhiệm tối cực, chẳng thể tăng thêm nữa, thường chẳng biến đổi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp. Như Lai cũng thế, hết thảy các công đức đều không sánh bằng, vô thượng, tất cả các việc làm cũng đều chỉ vì một đại sự nhân duyên. Vì thế, gọi là Diệu Chấp Kim Cang.

          Vị thứ mười một là Thắng Tấn Chấp Kim Cang (Paramavega-vajradhāra), Thắng là nói tới Đại Không, Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì thế, có thể khởi lên thần thông nhanh chóng. Trụ trong thừa ấy, lúc mới phát tâm, liền thành Chánh Giác, bất động sanh tử mà đạt tới Niết Bàn. Vì thế, gọi là Thắng Tấn.

          Vị thứ mười hai là Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimala-vajradhāra), tức là tâm Bồ Đề lìa hết thảy các chướng. Ví như vàng ròng, thể tánh thuần tịnh, nếu nung luyện đủ mọi cách, dùng các thứ báu mài bóng, sẽ rạng ngời gấp bội, sẽ biết thoạt đầu thể chất của vàng còn lẫn các chất nhơ nhỏ nhiệm. Do có thể trì kim cang ấn rốt ráo thanh tịnh ấy, nên lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười ba là Nhận Tấn Chấp Kim Cang (Balavega-vajradhāra). Chữ Nhận này, bản tiếng Phạn ghi là Phẫn như trong phẫn nộ, hàm nghĩa “sắc bén nhất trong các thứ sắc bén”, có nghĩa là giống như mũi đao bén. Trì Kim Cang lợi trí này, hết thảy các chỗ khó đoạn đều đoạn, chỗ khó diệt đều diệt. Vì thế, lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười bốn là Như Lai Giáp Chấp Kim Cang (Tathāgatakavaca-vajradhāra). Áo giáp của Như Lai chính là đại từ. Do dùng đó để trang nghiêm thân, nhiếp thủ, bảo vệ chúng sanh thực hiện Phật sự, chẳng bị hết thảy phiền não gây thương tổn, chẳng thể bị chúng nó (các phiền não) hàng phục, ngăn trở, phá hoại, nên dùng đó làm tên.

          Vị thứ mười lăm là Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang (Tathāgatapādobhava-vajradhāra). “Cú” là trụ xứ, tức Đại Không Sanh. Công đức tự chứng của chư Phật sanh từ Như Lai tánh. Thân gia trì ấy sanh từ công đức tự chứng của Như Lai. Do chẳng lìa môn chữ A, nên gọi là Như Lai Cú Sanh.

          Vị thứ mười sáu là Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang (Niḥprapanca-pratiṣṭha-vajradhāra), tức là trụ trong Đại Không Huệ. Ý nói quán duyên khởi Thật Tướng, vô sanh, vô diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, cũng chẳng phải là “đến, đi, một, khác”, tức là ở trong sự dứt bặt các hý luận, pháp như Niết Bàn. Trì trí ấn như thế, nên có thể lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười bảy là Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang (Tathāgata-daśabalodbhava-vajradhāra), tức là phương tiện trí của Phật. Sự quyền xảo khéo léo như thế sanh từ chỗ nào? Chính là sanh từ mười trí lực của Như Lai. Trì cái ấn như thế, cho nên có thể lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười tám là Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang (Vimalanetra-vajradhāra). Ngũ nhãn của Như Lai do Bồ Tát tâm rốt ráo thanh tịnh, dùmg hết thảy các phép Quán để quán hết thảy các pháp; thấy, nghe, hay, biết rành rành, chẳng hề vướng mắc. Có thể trì kim cang ấn như thế, cho nên lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười chín là Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ (Vajrapāṇi Guhyanātha). Bá Ni (Pāṇi) trong tiếng Phạn là bàn tay. “Chưởng trì kim cang” (Bàn tay nắm giữ chày kim cang) có nghĩa tương đồng với “thủ chấp” (tay cầm). Vì thế, kinh dùng lẫn lộn hai danh xưng ấy. Phương Tây coi Dạ Xoa là bí mật, do thân, miệng, ý của chúng nhanh chóng, bí ẩn, khó biết rõ! Dịch theo lối xưa, sẽ là Mật Tích (密迹). Nếu nói theo ý nghĩa nông cạn, sơ lược, thì Bí Mật Chủ chính là Dạ Xoa vương. Vị này thường cầm chày kim cang, theo hầu cận, bảo vệ đức Phật. Do vậy, gọi là Kim Cang Thủ. Nhưng [xét theo] ý nghĩa sâu xa ở đây, nói Dạ Xoa tức là thân ngữ ý mật của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Thậm chí các vị như Di Lặc Bồ Tát v.v… đối với sức thần thông bí mật như thế, vẫn chẳng thể biết. Bí mật nhất trong các điều bí mật, đó gọi là điều chủ yếu trong tâm mật; vì thế nói là Bí Mật Chủ. Có thể trì cái ấn ấy, nên nói là Chấp Kim Cang.

          “Như thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Trì Kim Cang chúng câu” (Các vị thượng thủ như thế, các vị Kim Cang chúng nhiều như số lượng vi trần trong mười cõi Phật cùng nhóm họp): Nếu xét theo bản tiếng Phạn đầy đủ, đối với mỗi danh xưng được liệt kê, đều có chữ Đa (nhiều), phải nên nói “Hư Không Cấu đẳng, Hư Không Du Bộ đẳng” (các vị Hư Không Vô Cấu, các vị Hư Không Du Bộ), cho đến “Bí Mật Chủ đẳng”. Vì lẽ nào vậy? Các vị thượng thủ Chấp Kim Cang ấy, mỗi mỗi đều có vô lượng quyến thuộc bộ loại, Đại Bổn thì ghi trọn vẹn, [bản này] chỉ nêu ra những nét cương yếu, thì cành, nhánh đều thuận theo. Đối với tác dụng đề xướng nói chung, chẳng đáng coi là thiếu khuyết. Nói “thập Phật sát vi trần số”, tức là Như Lai trí ấn sai biệt, số nhiều vô lượng, chẳng thể dùng toán, số, thí dụ mà hòng biết được. Lại do mười loại trí lực của Như Lai, mỗi trí đều đối ứng với số lượng vi trần trong một cõi Phật để biểu thị số lượng trong chúng hội, mang ý nghĩa thế giới hải, thế giới tánh và một Phật sát, như trong Thích Luận đã nói cặn kẽ. Nhưng các đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na này, do được gia trì, từ mỗi một trí ấn, đều hiện ra thân Chấp Kim Cang, hình sắc, tánh loại đều có biểu tượng, mỗi vị đều thuận theo tánh bổn duyên, hòng dẫn dụ, nhiếp thọ chúng sanh. Nếu các hành nhân ân cần tu tập, sẽ có thể khiến cho ba nghiệp cùng quy vào Bổn Tôn, từ một môn mà nhập pháp giới, tức là nhập trọn khắp hết thảy các pháp giới môn.

          Kế đó, liệt kê các vị Bồ Tát, lấy bốn vị thánh nhân làm thượng thủ. Các vị Chấp Kim Cang được nói trước đó, nhất loạt là trí ấn của Như Lai. Nay các vị Bồ Tát này có ý nghĩa vừa là Định, Huệ, lại vừa là từ bi. Vì thế, nhận lấy các danh hiệu sai biệt, nhưng vẫn là công đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na. Như các vị Chấp Kim Cang nhiều bằng số lượng vi trần trong mười cõi Phật, hãy nên biết là đối ứng với các pháp môn của các vị Bồ Tát, cũng có số lượng bằng số vi trần trong mười cõi Phật. Do được gia trì, mỗi vị đều từ một môn pháp giới mà hiện ra thân một vị thiện tri thức. Theo Bát Nhã Thích Luận, khi Sanh Thân Phật (tức thân Phật Thích Ca trong thế giới Sa Bà này) thành đạo, A Nan, Mật Tích Lực Sĩ v.v… được gọi là “nội quyến thuộc”, còn các vị thánh nhân như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… và các vị A-tỳ-bạt-trí (Bất Thoái Chuyển) Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù v.v… thì được gọi là “đại quyến thuộc”. Nay nói thân gia trì của Phật cũng giống như thế. Các vị Chấp Kim Cang ai nấy trì mật ấn của Như Lai thì được gọi là “nội quyến thuộc”, các vị Bồ Tát dùng phương tiện đại bi phổ môn nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, phù tá đấng pháp vương hành Như Lai sự, gọi là “đại quyến thuộc”. Vì thế, Đại Phẩm [Bát Nhã] nói: “Dục vi chư Phật nội quyến thuộc, dục đắc đại quyến thuộc giả, đương học Bát Nhã Ba La Mật dã” (Muốn làm nội quyến thuộc của chư Phật, muốn có đại quyến thuộc, hãy nên học Bát Nhã Ba La Mật).

          “Phổ Hiền Bồ Tát”: Phổ có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”; Hiền nghĩa là “điều thiện mầu nhiệm nhất”, tức là do tâm Bồ Đề khởi lên nguyện hạnh và thân, khẩu, ý, thảy đều bình đẳng trọn khắp hết thảy mọi nơi, diệu thiện thuần nhất trọn đủ các đức. Do vậy, đặt tên như thế.

          “Từ Thị Bồ Tát”: Ý nói trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, nay xưng tụng Từ làm đầu. Lòng Từ ấy sanh từ chủng tánh Như Lai, có thể khiến cho hết thảy thế gian chẳng đoạn Phật gia, nên nói là Từ Thị. Phổ Hiền được nói trong phần trước là đức tự chứng, bổn nguyện đã mãn. Do muốn giáo hóa chúng sanh khiến cho họ đắc đạo ấy, nên kế đó nói đến Từ.

          “Diệu Cát Tường Bồ Tát” (Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát): “Diệu” là vô thượng huệ của Phật, giống như đề-hồ thuần tịnh bậc nhất. Chữ Thất Lợi (Śrī) [trong tiếng Phạn] được dịch nghĩa thành Cát Tường, tức là ý nghĩa “trọn đủ các đức “. Hoặc dịch là Diệu Đức, và cũng dịch là Diệu Âm. Ý nói: Do sức đại từ bi, diễn nói pháp âm mầu nhiệm, khiến cho hết thảy đều nghe. Cho nên Ngài được nêu ra kế tiếp Di Lặc Bồ Tát.

          “Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát” (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin): Nói Chướng là nói đến các thứ tâm cấu của chúng sanh, chúng có thể che lấp, khiến cho tịnh nhãn của Như Lai chẳng thể mở sáng. Nếu dùng pháp vô phân biệt để diệt các hý luận, như mây mù tiêu trừ, vầng mặt trời chiếu rạng. Vì thế nói là Trừ Cái Chướng. Tất cả việc làm của Như Lai thảy đều vì một đại sự nhân duyên này. Do vậy, vị Bồ Tát này được kể tên sau ngài Diệu Âm. Hơn nữa, hành nhân tuy học Bát Nhã Ba La Mật, nhưng nếu chẳng có Thiền Định, sẽ giống như kẻ mù, tuy gặp ánh sáng mặt trời, chẳng thể làm được gì. Vì thế, sau diệu huệ của ngài Văn Thù, bèn nói Trừ Cái Chướng tam-muội.

          Bốn vị Bồ Tát này chính là Tứ Đức nơi thân Phật, hễ thiếu khuyết đức nào, sẽ chẳng thể thành Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy, xếp các Ngài thành bậc thượng thủ, để thống lãnh các đức nhiều như cát bụi. “Chư đại Bồ Tát”: Nói đầy đủ theo tiếng Phạn thì phải là Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa (Mahabodhisattva). Thích Luận nói: “Bồ Đề là đạo của chư Phật, Tát Đỏa là chúng sanh, hoặc là tâm dũng mãnh. Người ấy muốn đắc trọn hết công đức của chư Phật, tâm người ấy chẳng thể đoạn, chẳng thể phá, như núi kim cang, được gọi là Tát Đỏa. Lại nữa, tâm người ấy có thể làm đại sự, chẳng lui sụt, chẳng chuyển, do tâm đại dũng mãnh. Trong nhiều chúng sanh, [người ấy] khởi đại từ bi, thành lập Đại Thừa, có thể hành đại đạo, đạt được chỗ lớn nhất. Vì thế, ắt có thể thuyết pháp, phá các thứ phiền não như tâm đại tà kiến, đại ái, đại ngã v.v… của hết thảy chúng sanh. Vì thế gọi là Ma Ha Tát Đỏa”.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu xét theo chánh nghĩa, phải nói là Bồ Đề Sách Đá. Sách Đá ở đây có nghĩa là nhẫn lạc tu hành, giữ vững, chẳng xả”. Nhưng Thanh Minh[8] có pháp tắc như thế này, nếu luận theo văn tự, nghĩa ấy tuy đúng, nhưng nếu âm vận không trôi chảy, liền sử dụng cách nói thuận tiện. Vì thế, các luận sư trong cõi đời nói là Tát Đỏa, người lưu truyền, tu tập cũng thuận dùng từ ngữ ấy. Theo Du Già Tông, Tát Đỏa đại lược có ba loại:

          - Một, ngu đồng Tát Đỏa (chúng sanh giống như trẻ thơ ngu muội), tức là lục đạo phàm phu, chẳng biết nhân quả nơi Thật Đế, tâm hành tà đạo, tu tập khổ nhân (cái nhân gây tạo nỗi khổ), luyến đắm tam giới, chấp trước chặt chẽ chẳng xả. Vì thế gọi tên như thế.

          - Hai là hữu thức Tát Đỏa, tức Nhị Thừa, vừa mới nhận biết lỗi hại của sanh tử, tự cầu xuất ly để đạt tới Niết Bàn, chấp trước “hóa thành”[9], khởi lên ý tưởng diệt độ. Đối với công đức của Như Lai, chưa sanh tâm mong muốn, ưa thích.

          - Ba là Bồ Đề Tát Đỏa. Vô Thượng Bồ Đề vượt khỏi hết thảy các thứ lỗi lầm như suy đoán, hý luận, có ý nghĩa “một mực thuần thiện, trắng sạch, vi diệu”, chẳng thể dùng thí dụ để sánh ví tương tự được! Đấy chính là cái tâm bổn tánh chẳng thể nghĩ bàn của chúng sanh. Có thể nhẫn chuyện thành đạo như thế, mong cầu, nguyện vui thích tu hành kiên cố bất động, cho nên gọi là Bồ Đề Sách Đá (Bồ Tát). Người như thế công nghiệp lớn nhất, kham có thể chuyển giao [pháp vi diệu của Phật] cho hết thảy chúng sanh, nên gọi là Ma Ha Tát Đỏa.

          Các đại chúng như thế trước sau vây quanh Đại Nhật Thế Tôn, tức là dùng vô lượng thân, khẩu, ý để cúng dường, cung kính vì nghe pháp vậy!

 

          (Kinh) Sở vị việt tam thời Như Lai chi nhật gia trì cố, thân, ngữ, ý bình đẳng cú pháp môn.

          ()所謂越三時如來之日加持故身語意平等句法   

          (Kinh: Tức là pháp môn “câu thân ngữ ý bình đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia trì).

         

          Kế đó, nói về các căn cơ cùng nghe pháp trong hội tốt đẹp ấy, tức là như kinh nói “việt tam thời Như Lai chi nhật gia trì cố, thân, ngữ, ý tam cú bình đẳng cú pháp môn” (pháp môn “câu thân, ngữ, ý bình đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia trì). Kinh này được lưu truyền trong Diêm Phù Đề, đại lược có mười vạn kệ[10]. Nếu đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật, ai nấy đều rộng diễn pháp môn sai biệt nơi thân, khẩu, ý, sẽ là chẳng có hạn lượng, Khi thuyết pháp ấy, lại nên như thế nào? Vì thế, người kết tập nói: “Nhĩ thời, trụ ư Phật nhật, nhi diễn thuyết pháp” (Lúc bấy giờ, trụ nơi Phật nhật mà diễn nói pháp). Như thời phần (từng phân đoạn thời gian) trong thế gian, ắt có quá khứ, vị lai, hiện tại, số lượng kiếp dài, ngắn, các thứ bất đồng. Lại xét theo mặt trời đi quanh tứ thiên hạ một vòng, trong một ngày đêm bèn có sơ phần, trung phần, hậu phần, cho đến ba mươi thời v.v… Chẳng trụ trong sát-na nào, đắp đổi, thúc đẩy nhau. Dùng mắt thanh tịnh để xem, [sẽ thấy] tướng của ba đời trọn chẳng thể được! Không khởi đầu, không kết thúc, mà cũng chẳng đến, chẳng đi. Tức vầng mặt trời Thật Tướng ấy viên minh, thường trụ, tĩnh lặng như hư không, chẳng có thời phần dài, ngắn sai khác! Nhưng do thần lực của Phật, khiến cho hành giả Du Già coi vô lượng kiếp như trong khoảng một bữa ăn, hoặc kéo dài [thời gian] một bữa ăn thành vô lượng kiếp. Kéo dài hay rút gọn tự tại, đều phù hợp các căn cơ, chẳng có tướng nhất định để có thể đạt được. Vì thế nói là “Như Lai nhật” (vầng mặt trời Như Lai). Trong thời gian như thế, đức Phật nói pháp gì? Chính là pháp môn câu “thân, ngữ, ý bình đẳng”. Nói tới các thứ ba nghiệp của Như Lai thì đều là đạt tới cảnh Đệ Nhất Thật Tế mầu nhiệm tột bậc. Thân bằng với ngữ, ngữ bằng với tâm, khác nào biển cả trọn hết thảy mọi nơi đều có cùng một vị mặn. Vì thế nói là “bình đẳng”.    

          “Cú” (câu) trong tiếng Phạn là Bát-đàm (Pāda), dịch sát nghĩa là Túc (chân). Nếu luận định theo Thanh Minh, sẽ có nghĩa là “tiến hành, trụ xứ”. Như người tiến bước, chỗ giở chân, hạ chân in dấu được gọi là Bát-đàm. Mỗi câu trong ngôn từ cũng có ý nghĩa tương ứng như thế; vì thế, được gọi bằng cùng một danh xưng. Nay xét theo điều được đề cao ở đây, sẽ có nghĩa là tu theo “đạo tích” (dấu vết đạo, ý nói: Trình tự tu tập) như thế, lần lượt tấn tu, sẽ trụ trong ba chỗ bình đẳng, nên gọi là Cú. Tức là dùng thân khẩu ý gia trì bí mật bình đẳng để làm chỗ nhập môn, nghĩa là dùng mật ấn nơi thân bình đẳng, chân ngôn nơi ngữ bình đẳng, và diệu quán nơi tâm bình đẳng làm phương tiện hòng thấy được Gia Trì Thọ Dụng Thân. Gia Trì Thọ Dụng Thân như thế chính là thân trọn khắp hết thảy của Tỳ Lô Giá Na Phật. Thân trọn khắp hết thảy chính là trí thân bình đẳng của hành giả. Vì thế, người trụ trong thừa ấy, do chẳng hành mà hành, do chẳng đến mà đến, nên gọi là “bình đẳng cú” (câu bình đẳng). Hết thảy chúng sanh đều nhập vào trong ấy, nhưng thật ra chẳng thể nhập, không có chỗ để nhập, nên gọi là “bình đẳng”. Pháp môn bình đẳng chính là đại ý của kinh này vậy!

          (Kinh) Thời bỉ Bồ Tát, Phổ Hiền vi thượng thủ, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ. Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì cố, phấn tấn thị hiện thân vô tận trang nghiêm tạng, như thị phấn tấn thị hiện ngữ ý bình đẳng vô tận trang nghiêm tạng, phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ý sanh, nhất thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc, nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ý nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu tình giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp. Hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm, nãi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh mãn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng, hữu tình loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi.

          ()時彼菩薩普賢為上首諸執金剛祕密主為上首毘盧遮那如來加持故奮迅示現身無盡莊嚴藏如是奮迅示現語意平等無盡莊嚴藏非從毘盧遮那佛身或語或意生一切處起滅邊際不可得而毘盧遮那一切身業一切語業一切意業一切處一切時於有情界宣說真言道句法又現執金剛普賢蓮華手菩薩等像貌普於十方宣說真言道清淨句法所謂初發心乃至十地次第此生滿足緣業生增長有情類業壽種除復有牙種生起

          (Kinh: Khi ấy, Phổ Hiền làm thượng thủ của các vị Bồ Tát ấy, Bí Mật Chủ làm thượng thủ của các vị Chấp Kim Cang. Do Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì, bèn dũng mãnh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm nơi thân, dũng mãnh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm bình đẳng nơi ngữ và ý như thế, chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ý của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ý nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu tình giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân ngôn. Lại hiện các hình tướng như Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói cú pháp chân ngôn đạo thanh tịnh, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt được trọn đủ [các địa vị ấy] trong đời này, đoạn trừ nghiệp và thọ mạng do nương theo nghiệp mà sanh khởi và tăng trưởng nghiệp của các loài hữu tình, lại còn sanh khởi mầm  mống  [giải

thoát]).

         

          Do sắp nói pháp môn bình đẳng này, trước hết, dùng tự tại gia trì để cảm động đại chúng, đều hiện cảnh giới Phổ Môn bí mật trang nghiêm, và chuyện chưa từng có, chẳng thể nghĩ bàn. Do họ nghi vấn mà [đức Phật] diễn nói, khiến cho người nghe tin ưa gấp bội, thâm nhập ý nghĩa nơi ngôn từ, như các nhân duyên trong Tự Phần và phẩm Tùng Địa Dũng Xuất của kinh Pháp Hoa; ở đây sẽ nói rộng. Lại nữa, các vị nhân giả thượng thủ như Phổ Hiền, Bí Mật Chủ v.v… chính là trí thân sai biệt của đức Tỳ Lô Giá Na, đã thông đạt cảnh giới như thế từ lâu. Nhưng các vị thiện tri thức hiển hiện trong các môn giải thoát ấy, mỗi vị đều dẫn dắt vô lượng người đương cơ cùng nhập pháp giới Mạn-đồ-la. Vì tạo lợi ích cho các Bồ Tát bắt đầu nhập pháp môn, thật sự tu hành, được Như Lai gia trì, mà dũng mãnh thị hiện sức đại thần thông. Như sư tử chúa sắp rống vang, ắt trước hết sẽ vươn duỗi thân mình, thể hiện năng lực, sau đó mới phát ra tiếng. Như Lai cũng thế, do sắp nhất định sư tử hống để tuyên nói hết thảy trí môn, trước hết bèn dũng mãnh thị hiện vô tận trang nghiêm tạng. Nói “trang nghiêm” chính là nói từ một thân bình đẳng mà hiện trọn khắp hết thảy các oai nghi. Các oai nghi như thế, không gì chẳng phải là mật ấn. Từ một bình đẳng ngữ, hiện trọn khắp hết thảy các âm thanh. Các âm thanh như thế, không gì chẳng phải là chân ngôn. Từ một tâm bình đẳng, hiện trọn khắp hết thảy Bổn Tôn. Các vị Bổn Tôn như thế, không gì chẳng phải là tam-muội. Nhưng mỗi một tướng sai biệt trong ba nghiệp đều là không có ngằn mé, chẳng thể đo lường, nên gọi là “vô tận trang nghiêm”.

          Kinh Như Lai Bí Mật Huệ chép: “Trừ Cái Chướng Bồ Tát ư pháp hội trung, dục tri Phật thân lượng cố, lệnh Đại Mục Kiền Liên tầm chi. Mục Liên thượng chí Phạm cung, do đổ Như Lai nhược đối mục tiền. Phật thân oai nghi, thuyết pháp âm thanh, dữ bổn vô dị, nãi chí tận kỳ thần lực, vãng nghệ tha phương Phật độ, diệc bất dị Phạm cung. Nhĩ thời, Trừ Cái Chướng Bồ Tát cập dĩ Mục Liên bất năng trắc cố, tự vãng quán sát, quá thập phương các như Hằng hà sa thế giới, giai kiến Như Lai bất khởi vu tòa, nhi diễn thuyết pháp. Nãi chí châu cực thập phương, tận kỳ thần thông thế lực, diệc phục như thị. Nhiên hậu hoàn quy, phương kiến Trừ Nghi thiên nữ khứ Phật bất viễn, kiến nhập ư tam-muội, tiện tác thị niệm: ‘Ngã văn thử thiên nữ, thông đạt vô lượng tam-muội môn. Ngã đương quán chi, kim trụ hà định dã’. Hựu tận tâm lực quán chi, bất trắc kỳ tâm sở hành chi xứ, tụ tập vô lượng thiên cổ, nhất nhất giai như Tu Di sơn vương, dĩ thần lực đồng thời phát thanh, dục linh xuất định, nhi bất năng đắc, nãi chí Phật ngôn: - Ngã vị phát Bồ Đề tâm thời, thị thiên nữ dĩ năng trụ thử tam-muội” (Trừ Cái Chướng Bồ Tát ở trong pháp hội, muốn biết thân lượng của đức Phật, bèn sai Đại Mục Kiền Liên tìm kiếm. Ngài Mục Liên lên tới cung điện của Phạm vương, vẫn thấy Như Lai như ở ngay trước mắt. Oai nghi nơi thân Phật, âm thanh thuyết pháp chẳng khác gì ở ngay nơi đây. Cho đến trọn hết thần lực, qua tới cõi Phật ở phương khác, cũng chẳng khác gì nơi cung điện Phạm vương. Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát do thấy Mục Liên chẳng thể đo lường, bèn tự đi quán sát, qua khỏi các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mỗi phương thuộc mười phương, đều thấy Như Lai chẳng rời khỏi tòa mà diễn nói pháp. Thậm chí trọn khắp cùng cực mười phương, trọn hết thế lực thần thông của chính mình, cũng vẫn là như thế. Sau đó, Ngài trở về, mới thấy thiên nữ Trừ Nghi ở cách đức Phật chẳng xa, thấy cô ta đang nhập tam-muội, liền nghĩ thế này: ‘Ta nghe nói vị thiên nữ này thông đạt vô lượng tam-muội, ta hãy nên quán xem cô ta đang trụ trong môn Định nào’. Lại tận hết tâm lực để quán, chẳng thể dò lường chỗ tâm hạnh của cô ta, bèn tụ tập vô lượng trống trời. Mỗi cái trống đều to như núi chúa Tu Di, dùng thần lực khiến trống cùng lúc phát ra tiếng, toan ép cho cô ta xuất định, nhưng chẳng thể được. Cho đến khi đức Phật nói: - Khi ta chưa phát Bồ Đề tâm, vị thiên nữ này đã có thể trụ trong môn tam-muội ấy). Đấy chính là ý nghĩa “vô biên tế “ (không có ngằn mé vậy).

          Đức Tỳ Lô Giá Na nhập trọn khắp hết thảy các thế giới trong mười phương như thế, mỗi mỗi đều hiện thân gia trì của Phật. Mỗi thân ấy đều có đại chúng Bồ Tát và Kim Cang nhiều bằng số vi trần trong mười cõi Phật. Các căn và tướng hảo của đại chúng cũng lại vô biên, như dầu mè đầy khắp pháp giới. Trong ấy, chẳng có khe hở nào! Lại như quốc vương có kho tàng lớn, nếu cần phô bày cho người khác thấy, sẽ tự tại mở toang để phô bày. Vì thế nói là “trang nghiêm tạng”.   

          Lại nữa, các đại chúng ấy chỉ do sức oai thần của Phật mà được thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế. Nếu Như Lai chẳng gia trì, sẽ chẳng hiện tiền, [vì cảnh giới ấy] chẳng thuộc vào hạn lượng mà tự tâm có thể biết được! Như hành giả trong thì tu tập Ban Châu tam-muội, ngoài thì được thần lực hộ trì, sẽ có thể từ cái thân do cha mẹ sanh ra mà thấy mười phương chư Phật, như đêm quang đãng, không mây, ngửa mặt lên, trông thấy các ngôi sao, lắng nghe pháp âm, rành rẽ vô ngại. Nhưng cảnh giới ấy sanh từ tâm thanh tịnh của hành giả ư? Hay do Phật gia hộ mà sanh ra ư? Nếu do nội tâm [của hành giả], tức là sanh từ tự tánh. Nếu từ Phật lực, tức là sanh từ tha tánh. [Nếu vậy] sẽ đều chẳng khác luận nghĩa của ngoại đạo! Do tự lẫn tha đều không có, hòa hợp cũng không có. Lại chẳng phải là không có nhân duyên mà được thành tựu. Vì lẽ nào? Hễ nội nhân và ngoại duyên có đằng nào thiếu khuyết, sẽ chẳng hiện tiền. Hãy nên biết tướng trang nghiêm như thế, khi hiển hiện thì chẳng từ đâu tới, lúc ẩn thì cũng chẳng đi về đâu, do rốt ráo bình đẳng chẳng ra ngoài Như! Kinh dạy: “Phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ý sanh, nhất thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc. Nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ý nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu tình giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp” (Chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ý của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ý nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu tình giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân thật). Đấy là lần lượt giải thích vì sao tạng trang nghiêm của Phật vô tận, chẳng có ngằn mé, do chẳng khác thân thường trụ bất diệt, trọn khắp hết thảy mọi chỗ của Như Lai. Tuy thường chẳng khởi lên hay diệt mất, nhưng có thể dùng hết thảy ba nghiệp để trong trọn khắp mười phương ba đời, hết thảy thời, hết thảy xứ, nói đạo tối chân thật hòng giáo hóa quần sanh, uốn nắn tâm họ cho tới khi đạt đến Phật đạo.

          Kinh lại nói “hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm nãi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh mãn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng hữu tình loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi” (lại hiện tướng mạo của Chấp Kim Cang Thủ, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói pháp chân ngôn đạo thanh tịnh cú, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt viên mãn [các địa vị ấy] ngay trong một đời này, đoạn trừ nghiệp, thọ mạng do duyên theo nghiệp mà sanh khởi, tăng trưởng của các loài hữu tình, lại có mầm mống sanh khởi [đạo giải thoát]) chính là nói rộng tướng trên đây. [Đoạn kinh văn trên đây] ý nói không chỉ thị hiện thân Phật đầy khắp hết thảy các thế giới trong mười phương, mà còn hiện thân Kim Cang, Bồ Tát v.v… cũng lại trọn khắp hết thảy mọi nơi. Hơn nữa, các vị Chấp Kim Cang, Bồ Tát v.v… nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật, thân khẩu tâm ấn sai biệt bất đồng. Tướng loại, quyến thuộc của các Bổn Tôn như thế, đều như đức Tỳ Lô Giá Na đầy khắp hết thảy các thế giới trong mười phương, như lưới Nhân Đà La (lưới bảo châu của Đế Thích, các viên châu soi bóng lẫn nhau) chẳng trở ngại nhau. Nay nêu đại lược ba vị thánh (Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ), gọi là các vị cầm đầu. Chấp Kim Cang tương ứng với Kim Cang trí huệ môn, là phương tiện hàng phục. Phổ Hiền tương ứng Pháp Thân môn Như Như, là phương tiện dứt trừ tai ương. Quán Âm (Liên Hoa Thủ) tương ứng với Liên Hoa tam-muội môn, là phương tiện tăng ích. Nêu ra ba điểm ấy, vô lượng diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn đều được thâu nhiếp trong ấy. Vì thế, đặc biệt nhắc đến.

          Nói là “đẳng”, tức là cho đến chư thiên, tám bộ, ngũ thông thần tiên, các điều được biểu thị bằng Mạn-đồ-la hiện ra bên ngoài, cũng chuẩn theo đó mà suy ra. Các thứ nhân duyên, vô số phương tiện phổ môn ứng hiện nhằm giáo hóa quần sanh như thế, tuy sâu hay cạn khác nhau, thô hay tế khác biệt, nhưng xét theo sự thật, không gì chẳng phải là được bí mật gia trì, mỗi mỗi đều có thể khai thị tri kiến thanh tịnh của Như Lai. Nếu lìa khỏi ấn Thật Tướng như thế, các thứ khác đều do ái kiến sanh ra, là bè lũ của thiên ma ngoại đạo, há đáng gọi là “câu nghĩa thanh tịnh” ư? Kế đó, lại giải thích rằng: Cái gọi là “thanh tịnh cú” (câu thanh tịnh) chính là “đốn giác thành Phật thần thông thừa”. Nếu Bồ Tát thuộc các thừa khác, chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, siêng khổ đủ mọi lẽ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vô số A-tăng-kỳ kiếp, nhưng có vị thành Phật, có vị chẳng thành! Nay Bồ Tát thuộc Chân Ngôn môn, nếu có thể tu hành chẳng thiếu khuyết pháp tắc, phương tiện, thậm chí ngay trong một đời này, sẽ thấy cảnh giới gia trì vô tận trang nghiêm, không chỉ là hiện tiền mà thôi! Nếu muốn siêu thăng lên địa vị Phật, giống như Đại Nhật Như Lai, thì cũng có thể đạt đến.

          Hơn nữa, hành giả lúc sơ phát tâm, được nhập môn chữ A (), chính là từ kim cang tánh của Như Lai mà nẩy mầm. Hãy nên biết khi cái mầm ấy vừa sanh, sẽ có ý nghĩa “lần lượt tăng tấn, chẳng còn lui sụt”, cho đến khi thành Bồ Đề, không có hạnh nào để tăng thêm. Sau đấy mới dừng nghỉ, nên nói là “thứ đệ thử sanh mãn túc” (lần lượt viên mãn [các địa vị ấy] trong một đời này). Chữ “thứ đệ” ở đây trong tiếng Phạn có các ý nghĩa “chẳng trụ, tinh tấn, hành trọn khắp”. Tức là nói sơ phát tâm do muốn nhập địa vị Bồ Tát, đối với pháp yếu và phương tiện chân ngôn này bèn tu hành, đạt tới Sơ Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ tăng tấn chẳng ngưng nghỉ để viên mãn Đệ Nhị Địa. Lại nương vào pháp yếu và phương tiện của chân ngôn để tu hành, đạt tới Đệ Tam Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ tăng tấn không ngừng để viên mãn Đệ Tứ Địa, lại nương vào pháp yếu và phương tiện của chân ngôn, được nhập Ngũ Địa. Theo thứ tự như thế, cho đến viên mãn Thập Địa, chỉ dùng một hạnh, một đạo để thành Chánh Giác. Nếu đối với phương tiện môn khác mà khai hiển mật ý, cũng đều chẳng lìa thừa báu như   thế.

          “Duyên nghiệp sanh” tức là nói tới nhân duyên si ái của hữu tình, tạo thành các thứ nghiệp chẳng thanh tịnh, hư vọng nơi thân, khẩu, ý. Nương vào các nghiệp như thế mà sanh làm các thân trong sáu đường, tăng trưởng luân hồi, hứng chịu đủ mọi nỗi khổ! Nay tu tam nghiệp thanh tịnh bình đẳng huệ môn, hết thảy các chủng tử của nghiệp và thọ mạng trong Uẩn A Lại Da Thức đều bị đốt sạch, trừ diệt, đạt được hư không vô cấu đại Bồ Đề tâm. Chủng tử bình đẳng của hết thảy Như Lai từ trong bi tạng sẽ nẩy sanh mầm pháp tánh, cho đến thân, lá, hoa, quả trọn khắp các pháp giới, trở thành Bồ Đề thụ vương vạn đức nở xòe. Nhưng dùng nghĩa Tứ Bất Sanh để quán, sẽ đều là “chẳng có gì khởi lên” mà cũng “chẳng có chỗ để khởi lên”. Hãy nên biết cái Sanh ấy chính là Đại Không Sanh. Vì thế nói: Chủng tử của nghiệp và thọ mạng của loài hữu tình đã trừ diệt, lại có mầm mộng [pháp tánh giải thoát] sanh khởi.

          Lại nữa, các vị thiện tri thức và pháp giới môn nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật do Như Lai đã hiện, nếu theo thứ tự xem nghe, sẽ là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp chẳng thể [thấy, nghe] trọn khắp được! Do Phật nhật gia trì, trong khoảnh khắc ngồi nơi pháp hội mà thảy đều hiện tiền. Tức là khi sắp nói kinh này, bèn phơi bày thụy tướng thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Như ngài Văn Thù Sư Lợi thấy [quang minh phát ra từ tướng] bạch hào [của đức Phật] chiếu thấu các thứ nhân duyên của các vị Bồ Tát trong một vạn tám ngàn cõi đều là hành Bồ Tát đạo, liền biết rõ chư Phật sắp khai Quyền hiển Thật, nói kinh Pháp Hoa. Hãy nên biết các vị như Kim Cang Thủ v.v… cũng giống như thế, thấy thế giới được gia trì trọn khắp, chỉ nói pháp môn bình đẳng, liền biết Như Lai sắp diễn nói giáo pháp “tự tâm thành Phật” trọn khắp hết thảy các thừa. Vì thế, lời thưa hỏi trong phần kinh văn tiếp theo chính là dựa theo đấy mà sanh khởi vậy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, ư bỉ chúng hội trung tọa, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí? Bỉ đắc Nhất Thiết Trí trí, vị vô lượng chúng sanh, quảng diễn phân bố, tùy chủng chủng thú, chủng chủng tánh dục, chủng chủng phương tiện đạo, tuyên thuyết Nhất Thiết Trí trí, hoặc Thanh Văn thừa đạo, hoặc Duyên Giác thừa đạo, hoặc Đại Thừa đạo, hoặc ngũ thông trí đạo, hoặc nguyện sanh thiên, hoặc sanh nhân trung, cập long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, nãi chí thuyết sanh Ma Hầu La Già pháp. Nhược hữu chúng sanh ưng Phật độ giả, tức hiện Phật thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Duyên Giác thân, hoặc Bồ Tát thân, hoặc Phạm thiên thân, hoặc Na La Diên, Tỳ Sa Môn thân, nãi chí Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, các các đồng bỉ ngôn âm, trụ chủng chủng oai nghi, nhi thử Nhất Thiết Trí trí đạo nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị.  

          ()爾時執金剛祕密主於彼眾會中坐白佛言世尊云何如來應供正遍知得一切智智彼得一切智智為無量眾生廣演分布隨種種趣種種性欲種種方便道宣說一切智智或聲聞乘道或緣覺乘道或大乘道或五通智道或願生天或生人中及龍夜叉乾闥婆乃至說生摩睺羅伽法若有眾生應佛度者即現佛身或現聲聞身或現緣覺身或菩薩身或梵天身或那羅延毘沙門身乃至摩睺羅伽人非人等身各各同彼言音住種種威儀而此一切智智道一味所謂如來解脫味

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngồi ở trong chúng hội ấy bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào? Đã đắc trí Nhất Thiết Trí, vì vô lượng chúng sanh rộng diễn, lưu truyền, tùy theo các loại đường [thọ sanh], các loại tánh tình ưa thích, các thứ phương tiện đạo mà tuyên nói trí Nhất Thiết Trí, hoặc đạo Thanh Văn thừa, hoặc đạo Duyên Giác thừa, hoặc đạo Đại Thừa, hoặc đạo ngũ thông trí, hoặc nguyện sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, và rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cho đến nói pháp sanh làm Ma Hầu La Già. Nếu có chúng sanh đáng nên dùng [thân] Phật để độ, liền hiện thân Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc thân Bồ Tát, hoặc thân Phạm Thiên, hoặc thân Na La Diên, Tỳ Sa Môn, cho đến các thân Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… Mỗi thân đều giống với ngôn âm của từng loài, trụ trong các thứ oai nghi, nhưng đạo trí Nhất Thiết Trí ấy chỉ có một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai).         

          Trí do Như Lai tự chứng, dẫu dùng thần lực gia trì, vẫn chẳng thể chỉ bày cho kẻ khác. Phần trước đã nói “dũng mãnh thị hiện vô tận trang nghiêm tạng” đều là dấu tích thuộc tác dụng bên ngoài mà thôi! Người trí trông thấy các cành nhánh ấy, liền biết đó là để sánh ví điều cốt lõi. Như nhìn vào dấu chân voi vượt trội các loài thú khác, [do thấy] vết giẫm đạp sâu rộng gấp bội, tuy chẳng thấy hình vóc của nó, vẫn biết con voi ấy ắt có sức mạnh to lớn. Lại như sấm rền, tuôn mưa, có thể khiến cho chim, thú bị chấn động mà chết, trăm sông ồ ạt chảy, núi vỡ nghiêng sụp. Tuy chẳng dò lường cội gốc, vẫn biết oai thế của con rồng [tuôn mưa] ấy ắt to lớn. Nay các đại chúng cũng giống như thế, do quán thân, khẩu, ý vô tận của Như Lai có thể cùng lúc ứng hiện trọn khắp các chúng sanh trong pháp giới, khéo phù hợp căn tánh, cơ nghi, uyển chuyển thành tựu Phật sự, sẽ biết trí lực của Như Lai ắt trong một niệm xét soi trọn khắp nhân duyên gốc ngọn của các căn cơ rốt ráo vô ngại. Quyền xảo chiếu Tục Đế mà còn như thế, vậy thì cảnh giới khế Thật sẽ là như thế nào? Nếu pháp chẳng vậy, ắt sẽ có dấu vết nhỏ nhiệm để dò tìm. Tôi đã nhìn trọn hết, nhưng chẳng biết pháp ấy do đâu mà đạt được! Vì thế, do chúng hội có lòng nghi, ngài Chấp Kim Cang Thủ bèn hỏi đức Phật rằng: “Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí?” (Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào?)

          Bản tiếng Phạn ghi [Như Lai] là Đát Tha Yết Đa (Tathāgata), Đát Tha (Tathā) nghĩa là Như, Yết Đa (Gata) nghĩa là Lai (đến), nghĩa là “hiểu biết, nói, đi”. Như chư Phật nương vào đạo Như Thật mà đến thành Chánh Giác, nay đức Phật cũng đến như thế, nên gọi là Như Lai. Hết thảy chư Phật đều đã hiểu biết đúng như Thật Tướng của các pháp, lại cũng đúng như Thật Tướng của các pháp mà nói cho chúng sanh. Nay đức Phật cũng như thế, nên gọi là Như Thật Tri Giả (đấng biết đúng như thật), cũng gọi là Như Thật Thuyết Giả (đấng nói đúng như sự thật). Hết thảy chư Phật đạt được tánh an lạc như thế, mãi cho đến khi nhập Niết Bàn, nay đức Phật [Thích Ca] cũng đi như thế, cho nên gọi là Như Khứ. Thích Luận nêu trọn đủ bốn nghĩa, nhưng các bản dịch theo lối cổ phần nhiều nói là Như Lai. Giới bổn của Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ) thì ghi là Như Khứ. Theo ý của A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) thì giữ thêm các ý nghĩa Như Khứ, Như Thuyết. Nay tôi vẫn thuận theo cách ghi của cổ nhân vậy.

          Bản tiếng Phạn ghi [Ứng Cúng] là A La Ha (Arhat), A La là phiền não, Ha nghĩa là “làm hại, trừ bỏ”. Thích Luận giảng [A La Ha] là Sát Tặc (giết giặc). Phật dùng áo giáp Nhẫn, Tấn (nhẫn nhục và tinh tấn), cưỡi ngựa Trì Giới, cầm cung Định, tên Huệ, ngoài là phá quân ma vương, trong là diệt giặc phiền não. Do vậy, có tên như thế. Lại nữa, A là Bất, La Ha là Sanh. Ý nói: Chủng tử trong Phật tâm chẳng sanh trong ruộng đời sau[11], do đã tróc vỏ trấu vô minh. Lại nữa, A La Ha có nghĩa là “đáng nhận cúng dường” (do vậy, dịch là Ứng Cúng). Do có công đức như thế, đáng nhận sự cúng dường tối thượng của trời, người. Vì vậy, có tên như thế.

          Bản tiếng Phạn ghi [Chánh Biến Tri] là Tam Miệu Tam Phật Đà (Samyak-saṃbuddha), Tam Miệu (Samyak) là Chánh, Tam (Saṃ) là Biến (trọn khắp), Phật Đà (Buddha) là Tri. Vì thế nói là Chánh Biến Tri. Thích Luận nói: “Nếu có người nói vì cớ sao chỉ có Phật là như thật nói như lai, như khứ, đáng nhận cúng dường tối thượng? Do Phật đắc chánh biến trí huệ. Chánh tức là tướng bất hoại, bất động của các pháp. Biến là do chẳng là một hoặc hai pháp, mà là đều biết trọn khắp hết thảy các pháp chẳng sót, nên gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà”. Nhưng điều được đề cao ở đây, Phật Đà là giác, có nghĩa là “khai phu” (nở xòe), ý nói: Do trí huệ tự nhiên mà giác ngộ trọn khắp hết thảy các pháp, như hoa sen nở rộ, chẳng có chút nhuốm bẩn nào, và cũng có thể khiến cho [hoa giác ngộ của] hết thảy chúng sanh xòe nở. Vì thế, gọi là Phật.

          Tiếng Phạn là Tát Bà Nhã Na (Sarvajña), tức là trí Nhất Thiết Trí. Thích Luận giảng: “Tát Bà Nhã Na tức là Nhất Thiết Trí. Nhất Thiết tức là nói vô lượng pháp môn như danh, sắc v.v… Mỗi môn đều thâu nhiếp hết thảy các pháp. Như thế vô lượng ba, bốn, năm, sáu v.v… cho đến A-tăng-kỳ pháp môn đều thâu nhiếp hết thảy các pháp. Trong hết thảy các pháp ấy, đối với nhất tướng, dị tướng, lậu tướng, phi lậu tướng, tác tướng, phi tác tướng v.v… mỗi một tướng, mỗi một lực, mỗi một nhân duyên, mỗi một quả báo, mỗi mỗi tánh, mỗi mỗi ưu khuyết của từng pháp, do sức của Nhất Thiết Trí Huệ, đều hiểu biết cùng tận trọn khắp hết thảy các đời, hết thảy các loại. Đó gọi là Tát Bà Nhã”. Nay nói “trí Nhất Thiết Trí”, tức là trí cao tột nhất trong các trí. Không chỉ do hết thảy các loại mà biết trọn khắp hết thảy các pháp, mà còn là biết tướng thường, rốt ráo bất hoại Thật Tế của các pháp ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, giống như kim cang. Đối với cảnh tự chứng như thế, người nói sẽ không có ngôn từ [nào để diễn tả được], người quán chẳng thấy, chẳng giống như quả Am Ma Lặc (Āmalakī)[12] trong tay có thể chuyển giao cho người khác được! Nếu có thể dùng ngôn ngữ để trao truyền cho người khác, khi Thích Ca Bồ Tát được Phật Định Quang (Nhiên Đăng Phật) thọ ký, phải nên lập tức thành Phật. Vì sao phải tu đủ mọi phương tiện, phải đợi tới khi “không thầy mà tự giác ngộ” mới gọi là Phật ư? Lại như mắt thấy người đời bị đao, gậy gây thương tổn, tuy vẫn tin họ chịu khổ chẳng còn ngờ vực, nhưng dẫu nói đủ mọi cách, [tự thân người nghe nói hay chứng kiến] trọn chẳng chứng biết [nỗi đau khổ ấy]! Nếu tự thân tiếp xúc, hứng chịu, sẽ hiểu rõ ngay!

          Ý của lời hỏi là: Làm thế nào để chúng con cũng sẽ đạt được trí huệ tự giác như thế? Làm thế nào để đắc huệ ấy rồi, sẽ có thể vì vô lượng chúng sanh rộng diễn nói, lưu truyền, tùy thuộc các thứ căn tánh và ý thích của [chúng sanh trong] các đường, mà dùng đủ loại phương tiện để tuyên nói trí Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “an lập vô lượng thừa, thị hiện vô lượng thân”, mỗi thân có cùng ngôn âm với họ (chúng sanh được hóa độ), trụ trong oai nghi của họ, nhưng đạo Nhất Thiết Trí ấy vẫn có cùng một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai. Phương tiện mầu nhiệm ấy lại làm như thế nào để có thể đạt được? Các loại đường trong ấy, tiếng Phạn là Na Diễn, cũng gọi là Hành, hoặc gọi là Đạo. Kế đó nói Đại Thừa đạo v.v… có ý nghĩa tương đồng. Luận Tỳ Bà Sa nói có năm đạo, người theo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) phần nhiều nói là “lục đạo”. Rộng diễn nói như thế, cho đến trong thế giới này, đã có ba mươi sáu câu-chi các đường chúng sanh, huống hồ mười phương thế giới ư?

          “Tánh dục”: “Dục” là tin ưa, yêu thích. Như Tôn Đà La Nan Đà yêu thích ngũ dục, Đề Bà Đạt Đa chuộng tiếng tăm v.v… Cho đến những người đắc đạo, ai nấy cũng đều có ưa thích riêng: Ngài Đại Ca Diếp chuộng hạnh Đầu Đà, ngài Xá Lợi Phất ưa thích trí huệ, ngài Ly Ba Đa chuộng tọa Thiền, ngài Ưu Bà Ly thích Tỳ Ni (giới luật), A Nan chuộng đa văn v.v… hãy nên nói rộng. Tánh là “tích tập”. Tướng sanh từ tánh, Dục là thuận theo tánh mà thực hiện hạnh. Hoặc có lúc thuận theo dục là tánh, hoặc do thói quen ưa chuộng mà thành tánh. Tánh [ở đây] là tâm ô nhiễm. Cái tâm ô nhiễm vì sự ưa chuộng nơi mặt Sự thì gọi là “tùy duyên khởi” (thuận theo duyên mà dấy lên). Trong Thích Luận đã nói cặn kẽ chuyện này.

          “Chủng chủng phương tiện đạo” (Các thứ đạo phương tiện): Ngài Long Thọ nói: “Bát Nhã và phương tiện có cùng một bản thể, nhưng tác dụng sai khác. Ví như thợ kim hoàn do phương tiện khéo, dùng vàng chế thành đủ mọi vật khác nhau, tuy đều là vàng mà mỗi món có tên gọi khác biệt”. Nay đức Tỳ Lô Giá Na cũng lại như thế, có thể trong hết thảy mọi nơi, dùng vàng “trí thể” để tạo đủ mọi thừa.

          Lại nữa, trong ý hỏi ở đây chính là nhằm phát khởi Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong tâm địa Tát Bà Nhã bình đẳng, vẽ thành bốn loại pháp giới viên đàn của chư Phật, Bồ Tát, cho tới Nhị Thừa, tám bộ v.v… Thân, ngữ, tâm ấn của mỗi vị Bổn Tôn ấy đều là một loại thừa sai biệt. Lại như có người chí cầu ngũ thông trí đạo, liền từ Đại Bi Thai Tạng mà hiện hình tướng Vi Đà phạm chí[13], vì người đó nói chân ngôn và hành pháp của các vị như Cù Đàm Tiên[14] v.v… Hành giả siêng ròng chẳng lâu bèn thành thân vị tiên ấy, lại chuyển phương tiện, liền thành thân Tỳ Lô Giá Na. Như thế thì hoặc là hiện thân Phật để nói các thứ thừa, cho đến hiện thân phi nhân để nói các thứ thừa. Tùy từng loại mà hình tướng và âm thanh đều là chân ngôn, mật ấn, hoặc đã lâu, hoặc gần đây, không gì chẳng phải là “nhân duyên cái trống bôi thuốc độc”[15]. Vì thế, kinh dạy: “Giai đồng nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị” (Đều cùng một vị, chính là vị giải thoát của Như Lai). Vì lẽ nào vậy? Sắc, tâm, Thật Tướng của hết thảy chúng sanh từ Bổn Tế đến nay, thường luôn là trí thân bình đẳng của Tỳ Lô Giá Na Phật, chẳng phải là khi đắc Bồ Đề sẽ cưỡng ép các pháp đều là Không mà thành pháp giới! Phật từ tâm địa bình đẳng để khai phát vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la rồi, lại còn dùng đó để khai phát sự diệu cảm, diệu ứng trong vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la nơi tâm địa bình đẳng của chúng sanh, đều không ra ngoài môn chữ A. Hãy nên biết phương tiện được sanh khởi bởi nhân duyên cảm ứng cũng chẳng vượt ngoài môn chữ A. Ví như trong biển cả, sóng mòi va đụng lẫn nhau, lần lượt làm năng và sở, nhưng vẫn là cùng một vị, tức là vị mặn vậy!

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thí như hư không giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí trí ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Thế Tôn! Thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y. Thế Tôn! Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân vô yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân vô yếm túc. Thế Tôn! Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền não trần. Thế Tôn! Dụ như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên, thế nhân lợi lạc. Thế Tôn! Như thị trí huệ, dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà cứu cánh?

          ()世尊譬如虛空界離一切分別無分別無無分別如是一切智智離一切分別無分別無無分別世尊譬如大地一切眾生依如是一切智智阿脩羅依世尊譬如火界燒一切薪無厭足如是一切智智燒一切無智薪無厭足世尊譬如風界除一切塵如是一切智智除去一切諸煩惱塵世尊喻如水界一切眾生依之歡樂如是一切智智為諸天世人利樂世尊如是智慧以何為因云何為根云何究竟

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Ví như hư không giới, lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lìa hết thảy phân biệt, không phân biệt, chẳng không phân biệt. Bạch Thế Tôn! Ví như đại địa, hết thảy chúng sanh nương vào. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào. Bạch Thế Tôn! Ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi không chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như phong giới trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền não. Bạch Thế Tôn! Ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời. Bạch Thế Tôn! Trí huệ như thế lấy gì làm nhân? Gì là căn? Gì là rốt ráo?)

 

          Lại nữa, ngài Chấp Kim Cang nương vào thần lực của Phật, vì muốn phát khởi phương tiện bí mật trong Đại Bi Thai Tạng, lại nói năm loại thí dụ, tức là hư không, đất, nước, lửa, và gió. Câu thứ nhất nói “thí như hư không giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí trí, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt” (ví như hư không giới lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt). Như thế chính là nghĩa lý theo Tỳ Bà Sa, hư không chẳng có lầm lỗi, chẳng có đức. Nay trí thân của Như Lai lìa hết thảy lỗi, thành tựu vạn đức, sao lại dùng hư không để sánh ví? Chỉ là lấy chút phần tương tự để mường tượng Đại Không đó thôi! Trong sự sánh ví tương tự ấy, có ba nghĩa:

          - Một, do hư không rốt ráo thanh tịnh.

          - Hai, do hư không chẳng có ngằn mé.

          - Ba, do [hư không] vô phân biệt.

          Tâm tánh Nhất Thiết Trí cũng giống như thế; vì thế, dùng hư không mà thế gian dễ hiểu để sánh ví cái Không khó hiểu. Trước hết, nói “lìa hết thảy phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả (Vikalpa). Kế đó là “vô phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả-dạ-đế (Kalpa-kapayati). Sở dĩ nói lặp lại, là vì trên phân biệt lại nẩy sanh ý nghĩa phân biệt. Chẳng hạn như Tầm Tứ, khi nhìn đại lược thì là Tầm, khi suy xét kỹ càng thì là Tứ. Lại như khi nhãn thức sanh khởi bèn có thô phân biệt. Kế đó, ý thức sanh khởi thì là tế phân biệt. Dịch theo lối cũ, có khi dịch Kiếp-bả là “vọng chấp” (chấp trước hư vọng). Thí dụ ấy mang ý nghĩa: Giống như hư không chẳng hư vọng chấp trước, phân biệt, cho nên vô phân biệt mà cũng chẳng có vô phân biệt. Lại như hư không lìa các thứ sắc tướng, hình dạng hiển hiện, chẳng có tạo tác, mà có thể chứa đựng muôn vàn hình tượng, hết thảy thảo mộc nhờ đó mà sanh trưởng, sự nghiệp của hữu tình nương vào đó mà được hoàn thành. Hư không Phật trí cũng lại như thế, tuy lìa hết thảy các tướng, thường vô phân biệt khởi tác dụng, nhưng vô lượng Độ môn, các thứ diệu nghiệp đều được hoàn thành. Vì thế, dùng đó để thí dụ.

          Câu thứ hai là “thí như đại địa, nhất thiết  chúng  sanh  y. Như  thị

Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y” (ví như đại địa, hết thảy chúng sanh nương vào đó. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào). Như trăm loại hạt lương thực, các thứ cỏ thuốc, thảo mộc, rừng lùm trong thế gian, tùy theo tánh chất vô lượng sai biệt, đều từ đại địa mà trổ mầm, đâm rễ, cho đến thân, lá, hoa, quả, lần lượt thành tựu. [Đại địa] làm chỗ nương cậy cho hết thảy chúng sanh, nuôi nấng họ, nhưng vẫn chẳng nghĩ thế này: “Ta nay gánh vác hết thảy thế gian”. Chẳng nghĩ tới ân đức, chẳng hề mệt nhọc, tăng cũng chẳng mừng, giảm cũng chẳng sầu, sâu rộng khó lường, chẳng thể khuynh động. Đất Nhất Thiết Trí cũng lại như thế. Đại Bi Mạn-đồ-la là nơi hết thảy chủng tử xuất sanh, tức là chỗ y chỉ của vô lượng sự nghiệp trong các thừa, ở trong sanh tử và Niết Bàn, cái tâm bình đẳng. Tám gió thế gian chẳng thể dao động. Do có chút phần tương tự như thế, dùng đất làm thí dụ.

          Câu thứ ba nói: “Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân, vô hữu yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân, vô yếm túc” (Ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi chẳng hề chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ). Ví như hỏa chủng, giả sử tích tụ củi đầy khắp thế giới, đều to như núi chúa Tu Di, lửa sẽ lần lượt đốt sạch, chẳng hề khiếp nhược, chẳng khởi lên ý niệm này: “Ta đốt củi như thế này, chẳng đốt củi như thế kia”. Hừng hực chẳng ngừng, mạnh mẽ tiến cao hơn chẳng chán nhàm, phải là thứ bị đốt đã hết sạch rồi thì sau đó lửa mới diệt theo. Trí hỏa của Như Lai cũng giống như thế, đốt hết sạch củi hý luận, phiền não, cho tới khi các duyên đối đãi đều tận, tức là huệ quang ấy cũng không có chỗ nương. Lại như lửa trong thế gian, sang hèn đều cùng sử dụng, có thể chiếu sáng trong đêm tối, kẻ rơi vào mê hoặc điên đảo đều tìm được đường ngay, lại đều có thể thành tựu hết thảy các vật. Lửa Nhất Thiết Trí như thế, bậc thánh và dị sanh (phàm phu) đều bình đẳng cùng có, từ trong đêm sâu vô thỉ khiến cho các hành nhân thấy đạo như thật, lần lượt thành tựu hết thảy Phật pháp. Vì thế, dùng nó làm thí dụ.

          Câu thứ tư là nói: “Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền não trần” (Ví như phong giới, trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền não). Như lúc gió to bốc lên, khói, mây, bụi mù, hết thảy đều tiêu trừ. Thái hư tĩnh lặng, mênh mông, tam thần (mặt trời, mặt trăng, tinh tú) hiện ra rạng rỡ, chúng sanh bị bứt rứt vì nóng bức đều được mát mẻ, có thể khiến cho thảo mộc, rừng lùm đều tăng trưởng sum suê, và cũng có thể phá tan hết thảy muôn vật. Lại như tánh của gió là trọn khắp, không chỗ nương, tự tại xoay vần, chẳng bị vướng mắc. Huệ phong của Như Lai cũng lại như thế, quét sạch hết thảy vẩn bụi phiền não ngăn che, khiến cho [chúng sanh] chứng pháp tánh Niết Bàn mát mẻ. Lại có thể khiến cho hết thảy thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng, đập tan cây to vô minh, nhổ bật gốc rễ của nó; nhưng sức vô chướng ngại ấy chẳng nương vào đâu. Vì thế, dùng nó để sánh ví.

          Câu thứ năm là nói: “Thí như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên thế nhân lợi lạc” (Ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời). Như Thủy Đại từ trên cao chảy xuống thấp, tạo nhiều lợi ích, có thể tươi nhuận thảo mộc, sanh ra hoa quả. Lại nữa, bản tánh của nước là thanh khiết, không chất nhơ, không vẩn đục, đều có thể khiến cho chúng sanh đói khát được no đủ, gột bỏ các cặn nhơ, trừ sạch nhiệt não, lặng trong, sâu thẳm khó nhập, chẳng thể dò lường. Nơi chỗ hầm hố, tánh nước đều bình đẳng. Trí thủy của Như Lai cũng lại giống như thế, từ chân pháp giới tuôn nhập thế gian, tươi nhuận các Đẳng Trì, sanh khởi các pháp trợ đạo, thành tựu quả hạt to lớn lợi ích quần sanh. Do bản thể của nó chẳng có phiền não, nên thanh khiết. Do có thể lìa các Hoặc, nên vô cấu. Do là một tướng, chẳng khác, nên không nhơ bẩn. Hễ ai đạt được [trí thủy ấy], thì các tư duy đều dứt sạch, đạt được thanh lương định, gột trừ trần lao, lặng trong khó nghĩ tưởng, chứng tánh bình đẳng. Vì thế, dùng nước để thí dụ.

          Lại nữa, ngài Kim Cang Thủ nói năm thí dụ, nhằm phát khởi năm tự nghĩa (năm ý nghĩa của các chữ thường dùng trong chân ngôn) trong phần sau:

          - Môn chữ A () là đất.

          - Môn chữ Phược (, Va) là nước.

          - Môn chữ La (, Ra) là lửa.

          - Môn chữ Ha (, Ha) là gió.

          - Môn chữ Khư (, Kha)[16] là hư không.

          Lại như chủng tử trong thế gian, đất, nước, lửa, gió làm duyên, hư không vô ngại, sau đấy mới được sanh trưởng. Hễ thiếu một duyên, trọn chẳng thể tăng trưởng. Chủng tử Như Lai trong hết thảy trí tánh cũng giống như thế, sử dụng năm nghĩa trong hết thảy trí môn để làm các duyên, sẽ có thể đạt tới diệu quả Bồ Đề thường trụ. Đó gọi là “nhân duyên bất sanh, bất diệt chẳng thể nghĩ bàn”. Ngài Kim Cang Thủ quán biết tướng gia trì pháp giới độc nhất của Như Lai, tâm suy nghĩ, ắt biết [đức Phật] sẽ nói pháp môn như thế. Vì thế, trước đó, Ngài sánh ví công đức ấy để phát khởi cơ duyên sanh giải cho chúng hội, sau đấy mới hỏi đức Phật: “Như thị trí huệ dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà vi cứu cánh?” (Trí huệ như thế, lấy gì làm nhân? Lấy gì làm căn? Lấy gì làm rốt ráo?) Từ đấy trở đi, Như Lai trí ấn khiến cái tâm đã định, sẽ rộng nói phân biệt. Chẳng hạn như Di Lặc Bồ Tát trông thấy các tướng lành do thần thông của đức Phật, tâm liền bồi hồi suy tưởng: “Đấy là đức Phật sẽ vì đại chúng nói pháp đạt được nơi đạo tràng, hay là thọ ký Bồ Đề?” Ngài Văn Thù nêu rõ danh thể (bản thể của danh xưng), chỉ ra [đức Thế Tôn] sẽ nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau đấy, Như Lai mới dùng Thật Tướng để ấn khả, thừa dịp diễn nói, khiến cho các đồ đệ vì chấp trước mà dấy lên nghi hoặc sẽ lìa khỏi lưới nghi. Ví như khởi đầu tiết Xuân, hạt giống nứt mầm, do sấm, gió thôi thúc, mưa đúng thời tưới đẫm, mầm cây sẽ được thoát khỏi vỏ bọc mà nẩy sanh. Nếu chẳng có căn cơ phù hợp, dẫu được gặp gỡ, chẳng thể phát khởi lợi ích sâu thẳm được!

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Phật tức cáo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Chấp Kim Cang! Thiện tai, Kim Cang Thủ! Nhữ vấn ngô như thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ý, ngô kim thuyết chi”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Bồ Đề tâm vi nhân, Bi vi căn bản, phương tiện vi cứu cánh. Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm. Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc. Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố. Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng!

          ()如是說已毘盧遮那佛告持金剛祕密主言善哉善哉執金剛善哉金剛手汝問吾如是義汝當諦聽極善作意吾今說之金剛手言如是世尊願樂欲聞佛言菩提心為因悲為根本方便為究竟祕密主云何菩提謂如實知自心祕密主是阿耨多羅三藐三菩提乃至彼法少分無有可得何以故虛空相是菩提無知解者亦無開曉何以故菩提無相故祕密主諸法無相謂虛空相

          (Kinh: Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Phật liền bảo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Chấp Kim Cang! Lành thay Kim Cang Thủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế, ông hãy nên lắng nghe, cực khéo tác ý, nay ta sẽ nói”. Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nguyện vui thích mong được nghe”. Đức Phật dạy: - Bồ Đề tâm làm nhân, Bi là căn bản, phương tiện là rốt ráo. Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Chính là nói như thật biết tự tâm. Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến chút phần của pháp ấy, chẳng có gì để có thể đạt được. Vì cớ sao? Tướng của hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng khai hiểu, vì cớ sao? Do Bồ Đề vô tướng. Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).

 

          Do ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đoán biết thâm ý gia trì của Như Lai, lại có thể phát khởi làm nhân duyên tạo sự thấu hiểu cho đại chúng thuở ấy, đoán biết thánh tâm [mà kịp thời thưa hỏi], chẳng bỏ lỡ cơ hội. Vì thế, [đức Phật] lặp lại “thiện tai, thiện tai!”, [hàm ý] ta quán trời, người, sa-môn, bà-la-môn, cho đến các vị Bồ Tát hạnh cạn, không ai có thể đối trước đức Thế Tôn nêu câu hỏi như thế. Vì cớ sao vậy? Do ba cú nghĩa ấy đều thâu nhiếp hết thảy các sự rất sâu trong thần lực bí mật của Phật pháp. Vì thế, [đức Phật] lại tán thán rằng: “Thiện tai Kim Cang Thủ! Nhữ năng vấn ngô như thị nghĩa dã” (Lành thay Kim Cang Thủ! Ông có thể hỏi ta nghĩa như thế). Do âm thanh [tán thán] “lành thay” của Như Lai gia trì, lúc bấy giờ, vô lượng công đức của Kim Cang Thủ tăng lên gấp bội, lại hiểu rõ pháp được trao truyền, trọn chẳng để sơ sót, mất đi.

          Kế đó, đức Phật răn bảo: “Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ý, ngô kim thuyết chi” (Ông nên lắng nghe, cực khéo tác ý, ta nay sẽ nói). Đấy cũng là vì hàng đệ tử vị lai mà nêu rõ lời căn dặn như thế, tức là nghi thức thâm tâm thọ pháp vậy. Do đó, Thích Luận viết: “Nếu ai thiện tâm, lòng tin chất trực, người ấy có thể nghe pháp. Nếu chẳng có tướng ấy, sẽ chẳng thể hiểu!” Như nói kệ rằng: “Thính giả đoan thân như khát ẩm, nhất tâm nhập ư ngữ nghĩa trung, dũng dược văn pháp tâm bi hỷ, như thị chi nhân ưng vị thuyết” (Người nghe đoan chánh cái thân như khát bèn uống nước, nhất tâm nhập vào trong ý nghĩa của lời nói. Hớn hở nghe pháp tâm buồn vui xen lẫn, người như thế mới nên vì họ thuyết pháp), và như kinh Vô Tận Ý có hai mươi ba câu nói cặn kẽ về công đức do dụng tâm nghe pháp.

          Kinh dạy: “Phật cáo Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm vi nhân, bi vi căn, phương tiện vi cứu cánh” (Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm là nhân, bi là căn, phương tiện là rốt ráo). Giống như chủng tử trong thế gian, nhờ vào các duyên Tứ Đại, cho nên theo thứ tự như thế ấy mà mọc rễ, cho đến khi quả hạt chín muồi thì gọi là “rốt ráo”. Nhưng dùng Trung Trí để quán, [sẽ thấy là] rốt ráo bất sanh, bất diệt. Do đó, nghĩa nhân quả được thành. Nếu pháp chẳng phải vậy, sẽ có tướng “sanh, diệt, đoạn, thường”, sẽ đọa vào hý luận, đều có thể phá, nghĩa nhân quả sẽ chẳng thành! Nay hành giả quán Thật Tướng của cái tâm cũng lại như thế, vượt ngoài hết thảy các hý luận, như hư không thanh tịnh. Trong việc hành nội chứng, đạt được tín lực sâu đậm, tâm Tát Bà Nhã kiên cố, bất động, lìa nghiệp thọ sanh, thành tựu chân tánh sanh. Từ đấy trở đi, vạn hạnh công đức tăng trưởng. Vì thế nói: “Bồ Đề tâm làm nhân”. Cái tâm Bồ Đề ấy làm nhân cho hai câu sau đó. Nếu đối ứng với thiện căn được gieo trong sanh tử thì gọi là quả, do thấy tiền tướng trong Phật pháp. Ví như có người nghe thiện tri thức nói: “Nay trong nhà ông có kho báu vô tận, hãy nên tự siêng tu phương tiện để khai quật, sẽ có thể châu cấp cho cả một nước mà thường chẳng thiếu hụt”. Người đó nghe xong, sanh lòng tin chắc chắn, hành đúng như lời dạy, cho đến dốc sức không ngừng, sẽ dần dần thấy tiền tướng. Lúc bấy giờ, đối với công đức của kho báu, lìa tâm nghi hoặc, có thể kham phát khởi gia hạnh thù thắng. Vì thế, Bồ Đề tâm có nghĩa là “tín tâm trắng sạch”. Thích Luận cũng nói: “Biển cả Phật pháp, do tín có thể nhập”. Như khi Phạm thiên vương thỉnh chuyển pháp luân, đức Phật đã nói kệ rằng: “Ngã kim khai cam lộ vị môn, nhược hữu sanh tín giả đắc hoan hỷ” (Ta nay mở cửa cam lộ vị, nếu ai tin tưởng, sẽ hoan hỷ). Trong lời kệ ấy, chẳng nói người hành Thí, Giới, Đa Văn, Nhẫn, Tấn, Thiền, Huệ có thể đạt được hoan hỷ, chỉ nói riêng người tin tưởng. Ý Phật là như thế này: Pháp của ta vi diệu, rất sâu bậc nhất, vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, là pháp bất động, không dựa dẫm, chẳng dính mắc, vô sở đắc, chẳng phải là người Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu. Vì thế, lấy tín lực làm đầu, chẳng do các môn như Huệ v.v… mà thoạt đầu có thể tiến nhập Phật pháp, vì khiến cho tín tâm thanh tịnh như thế được kiên cố, tăng trưởng.

          Tiếp đó, kinh nói “đại bi làm căn”. “Căn” có nghĩa là “có thể chấp trì”. Giống như rễ cây duy trì thân, lá, hoa, quả, khiến cho cây chẳng bị nghiêng đổ, trốc gốc. Bi trong tiếng Phạn là Ca Lô Noa (Karuṇā), Ca có nghĩa là Khổ, Lô Noa nghĩa là “cắt bỏ”. Từ như gieo trồng mạ tốt rộng khắp, Bi như cuốc bỏ cỏ dại. Vì thế, Bi được nói ở đây có kèm theo ý nghĩa “đại từ”. Lại như khi hành giả tu cúng dường, nếu dâng một đóa hoa, hoặc hương bôi v.v… tức là trọn khắp hết thảy mọi nơi đều dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh để dấy mây cúng dường, thực hiện Phật sự trọn khắp, phát khởi bi nguyện hồi hướng quần sanh, dẹp trừ hết thảy khổ, thí vô lượng lạc. Do thiện căn của chính mình và sức gia trì pháp giới của Như Lai, các diệu nghiệp thực hiện đều được thành tựu. Tức là trong trọn khắp hết thảy các trí địa, cho đến vô dư hữu tình giới, thảy đều “mọc rễ”. Tùy thuộc hành giả dùng cái tâm vô trụ để tu vạn hạnh; tức là do được đại bi địa giới chấp trì, đại bi hỏa giới ủ ấm, đại bi thủy giới nhuần thấm, đại bi phong giới khai phát sanh trưởng, đại bi hư không chẳng chướng ngại. Lúc bấy giờ, vô lượng Độ môn tùy ý khai phát, giống như rễ, cành, lá theo thứ tự trang nghiêm, tức là ý nghĩa “trọn đủ nhân duyên” trong hết thảy các tâm pháp.

          “Phương tiện là rốt ráo” tức vạn hạnh viên mãn cùng cực, chẳng thể tăng thêm. Quyền xảo ứng hợp chúng sanh xét đến tận cùng chuyện có thể thực hiện chính là nguồn cội của diệu quả Tam Mật đề-hồ. Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh giống như vàng ròng, bản tánh sáng sạch, lìa các lầm lỗi. Đại bi như học tập nghề khéo, dùng các thứ thuốc, các thứ nung luyện, cho đến [vàng được tinh luyện] thấu triệt như gương, mềm mại, co duỗi tự tại. Phương tiện như nghề khéo đã thành tựu, tất cả các tạo tác đều tùy ý mà thành, từ trong quy chế mà quyền biến lưu xuất các tài khéo. Sự hay khéo đắc ý ấy khó thể truyền cho người khác được. Như Ma Ha Bát Nhã giảng về Lục Độ, mười tám môn Không, các môn tam-muội, đạo phẩm, tổng trì v.v… đều thuộc vào câu “đại bi”, tức là cái quả của trí Nhất Thiết Trí do vạn hạnh tạo thành, được gọi là “phương tiện”, vì trong đó có đủ các phương tiện. Nghiệp của phương tiện là lợi tha, do Ổ-ba-da (Upāya, phương tiện) trong tiếng Phạn cũng là “phát khởi”. Như từ chủng tử sanh ra quả, quả lại trở thành hạt giống; vì thế, dùng đó để đặt tên.

          Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm” (Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Tức là như thật biết tự tâm), tức là khai thị chỗ có chất báu công đức của Như Lai. Như người tuy nghe nói kho báu, khởi ý niệm siêng năng mong cầu, nếu chẳng biết nó ở đâu, sẽ không có cách nào đến được. Vì thế, lại chỉ rõ pháp vi diệu rất sâu bậc nhất như đã nói trên đây, cho đến nói “chẳng phải là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu”. Pháp ấy từ nơi nào mà đắc? Chính là từ tự tâm của hành giả. Nếu có thể như thật quán sát, chứng biết rành rành, thì gọi là “thành Bồ Đề”; thật ra, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng từ điều gì khác mà đạt được!

          Hỏi rằng: Nếu ngay nơi cái tâm chính là đạo, vì sao chúng sanh luân hồi sanh tử, chẳng được thành Phật?

          Đáp: Do chẳng biết đúng như thật! Đó gọi là “ngu đồng phàm phu” (愚童凡夫, phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội). Nếu nghe pháp này, ít kẻ có thể tin tưởng. Thức tánh Nhị Thừa tuy tự quán sát, nhưng chưa biết đúng như thật. Nếu tự biết đúng như thật, tức là lúc sơ phát tâm liền thành Chánh Giác. Ví như đứa con nghèo túng của ông trưởng giả [được nói trong phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa], nếu khi đã nhận biết cha, há có còn là người khách nghèo hèn nữa chăng? Lúc ấy, hành giả do thật sự biết Thật Tướng của cái tâm, thấy hết thảy các pháp đều là rất sâu, vi diệu, vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ bàn, bất động, chẳng dựa dẫm, chẳng chấp trước, đều là vô sở đắc, rốt ráo như tướng Bồ Đề.

          Kinh lại nói “Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc” (Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dẫu chỉ chút phần của pháp ấy cũng chẳng có thể đạt được). Ý nghĩa của Vô Thượng Chánh Biến Tri đã được nói trong phần trước. Ở đây nói chút phần. A Nậu (Anu, cực vi trần) trong tiếng Phạn chính là do bảy vi trần hợp thành, là phần nhỏ nhất của Sắc sanh từ các duyên, cho nên dùng nó làm thí dụ. Nói “bỉ pháp” (pháp đó) tức là lìa ngoài vô tướng Bồ Đề tâm ấy ra, chẳng có một pháp nào nữa!

          Kế đó, trong kinh nói đến nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố” (Vì sao vậy? Tướng hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng thấu hiểu. Vì sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Thí như hư không trọn khắp hết thảy mọi nơi, rốt ráo thanh tịnh, lìa hết thảy các tướng, bất động, vô phân biệt, chẳng thể thay đổi, chẳng thể phá hoại. Do có chút phần tương tự như thế, bèn dùng nó để sánh ví Bồ Đề tâm. Nhưng trong ấy lại có vô lượng vô biên chuyện bí mật rất sâu, thật sự chẳng thể dùng hư không trong thế gian để thí dụ trọn khắp được, chỉ mong người học lãnh hội được ý mà quên lời vậy! Lại như hư không xa lìa hý luận, phân biệt, nên chẳng có tướng hiểu biết, chẳng có tướng vỡ lẽ. Chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề (Chánh Giác), hãy nên biết cũng thế, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự giác tâm. Trong ấy, không có pháp để hiểu biết, mà cũng chẳng có người hiểu biết, chẳng phải là mới thấu hiểu, mà cũng chẳng phải là không thấu hiểu. Nếu phân biệt chút phần năng sở chừng bằng vi trần, tức là chấp lấy tướng “pháp, phi pháp”, chẳng lìa “ta, người, chúng sanh, thọ mạng”, há có thể đáng gọi là Kim Cang Huệ ư?

          Kinh lại còn tự giải thích rằng: “Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố” (Vì sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Như Thích Luận nói: “Do trí huệ của Phật thanh tịnh, vượt ngoài các phép Quán, chẳng quán tướng thường, tướng vô thường của các pháp, tướng hữu biên, tướng vô biên, tướng có đi, tướng chẳng đi, hữu tướng, vô tướng, tướng hữu lậu, tướng vô lậu, tướng hữu vi, tướng vô vi, tướng sanh diệt, tướng chẳng sanh diệt, tướng không, tướng bất không, thường thanh tịnh, vô lượng như hư không. Do vậy, Phật trí vô ngại”. Nếu quán sanh diệt, sẽ chẳng thể quán không sanh diệt. Quán không sanh diệt, sẽ chẳng thể quán sanh diệt. Nếu sanh diệt là thật, thì “chẳng sanh diệt” sẽ không thật. Nếu “chẳng sanh diệt” là thật, sanh diệt sẽ chẳng thật! Các phép Quán như vậy đều như thế đó. Dùng cái tâm Bồ Đề thanh tịnh như thế, do vượt khỏi các cách Quán, lìa các tướng, sẽ được chẳng vướng mắc nơi hết thảy các pháp. Ví như do tướng của hư không cũng là vô tướng, muôn hình tượng đều nương vào hư không, nhưng hư không chẳng nương tựa vào đâu! Vạn pháp như thế đều nương vào tịnh tâm, nhưng tịnh tâm trọn chẳng nương tựa. Đấy chính là các pháp ấy cũng như tướng Bồ Đề, tức là tướng hư không thanh tịnh. Vì thế, kinh lại nói: “Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng” (Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thùy tầm cầu Nhất Thiết Trí? Thùy vị Bồ Đề thành Chánh Giác giả? Thùy phát khởi bỉ Nhất Thiết Trí trí? Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố, tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ.  

          ()爾時金剛手復白佛言世尊誰尋求一切智誰為菩提成正覺者誰發起彼一切智智佛言祕密主自心尋求菩提及一切智何以故本性清淨故心不在內不在外及兩中間心不可得祕密主如來正等覺非青非黃非赤非白非紅紫非水精色非長非短非圓非方非明非暗非男非女非不男女

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ai tìm cầu Nhất Thiết Trí? Ai vì Bồ Đề mà thành Chánh Giác? Ai phát khởi trí Nhất Thiết Trí ấy?” Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa hai chỗ đó, tâm đều chẳng thể được. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tím, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải không nam nữ).

 

          Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nghe nghĩa lý do đức Phật nói, “trí huệ Tát Bà Nhã chỉ là tự tâm”, cho đến “chẳng có chút pháp nào ra ngoài cái tâm ấy”, vì đoạn nghi hoặc cho chúng sanh trong vị lai, nên Ngài hỏi đức Phật rằng: “Bồ Đề tâm gọi là một mực dốc chí để cầu trí Nhất Thiết Trí. Nếu trí Nhất Thiết Trí chính là Bồ Đề tâm thì trong ấy, ai là người cầu? Gì là pháp được cầu? Ai có thể giác? Ai là người được giác? Lại nữa, lìa ngoài tâm, đều chẳng có một pháp nào; ai có thể phát khởi cái tâm ấy để đạt tới diệu quả? Nếu pháp chẳng có nhân duyên mà được thành tựu, hết thảy chúng sanh đáng lẽ cũng chẳng cần nhờ vào phương tiện mà tự nhiên thành Phật”.

          Vì thế, đức Phật trả lời: “Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố” (Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh). Tuy Thật Tướng nơi tự tâm của chúng sanh chính là Bồ Đề, dẫu có Phật hay không có Phật, nó vẫn thường nghiêm tịnh, nhưng chẳng tự biết đúng như thật. Do vậy, nó chính là vô minh. Do vô minh điên đảo chấp tướng, bèn sanh ra các phiền não như Ái v.v… Do phiền não mà dấy đủ loại nghiệp, nhập đủ loại đạo, đạt được đủ loại thân, thọ đủ loại khổ, lạc. Như tằm nhả tơ chẳng có nguyên nhân, do chính mình đã nhả tơ ra mà bị quấn bó, hứng chịu nỗi khổ bị đốt nấu! Ví như nước sạch trong nhân gian, tùy thuộc cái tâm của chư thiên hay quỷ mà thấy là của báu, hoặc coi là lửa, tự tâm tự thấy khổ hay lạc! Do vậy, biết rằng: “Lìa ngoài tâm, sẽ chẳng có pháp!” Nếu hành nhân Du Già chánh quán Thật Tướng của ba pháp, tức là thấy Thật Tướng của tâm. Thật Tướng của tâm chính là Vô Tướng Bồ Đề, cũng gọi là trí Nhất Thiết Trí. Tuy lại lìa các nhân duyên, cũng chẳng phải là không có nhân mà được thành tựu. Lại nữa, đức Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh như thật biết tự tâm, lại dùng phương tiện để phân biệt, diễn nói. Do nguyên do nào? Nếu chỉ nói “tự tâm bất sanh, bất diệt”, do chẳng có nhân, [chúng sanh] sẽ khó hiểu ý nghĩa đó. Vì thế, trước hết, Ngài chỉ bày chỗ căn cứ [để nói như thế].

          Kinh dạy: “Tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc” (Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và giữa hai chỗ đó, tâm chẳng thể được). Như Ma Ha Bát Nhã dùng vô lượng môn để nhập Thật Tướng của các pháp. Nay muốn nêu ra điều tông yếu, chỉ quán mười hai xứ trong và ngoài, là đã thâu tóm hết thảy các pháp. Từ vô thỉ tới nay, tâm hành giả phần nhiều chấp trước tâm tướng của nội pháp. Vì thế, trước hết đối với sáu chỗ bên trong, liền dùng các phương tiện như ly tướng v.v… để mỗi mỗi quán kỹ “tâm chẳng thể được, vô sanh, vô tướng, chẳng có xứ sở”, mà nghĩ như thế này: “Có lẽ tâm này ở ngoài đấy chăng?” [Do vậy], lại đối với sáu chỗ bên ngoài, bèn quán như thật: Tâm cũng chẳng có sanh tướng, chẳng có xứ sở. Do sợ lầm lạc, bèn gộp lại để quán, đối với chặng giữa của hai thứ đó (trong và ngoài) cũng chẳng thể được, tức là ngộ thật tánh của cái tâm này vốn tự vô sanh, vô diệt, rốt ráo thường tịnh, nhưng bị mây hý luận phủ lấp. Ví như do sức của [thủy thanh] châu khiến cho nước trong; do nước trong nên châu hiện ra. Chắc chắn chẳng do từ nơi nào khác mà có!

          Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ” (Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tía, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải là không nam nữ). Trong phần trước, đã dựa theo hết thảy các pháp để nói rõ Thật Tướng của cái tâm. Nay lại xét theo chân ngã để nêu tỏ Thật Tướng của cái tâm. Ý nghĩa được đề cao biện định ở đây chính là coi tâm là Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác; đó gọi là “đại ngã” trong nội tâm. Như có một loại ngoại đạo, do chẳng liễu giải tự tâm, bèn nói như thế này: “Ta quán chân ngã có màu xanh biếc, người khác chẳng thể thấy!” Hoặc nói là màu vàng tươi, màu đỏ tươi, hoặc nói như màu yên chi[17], nay nói theo ý nghĩa [trong kinh này] là như màu hồng tía. Hoặc nói “ta thấy chân ngã có tướng cực dài hay cực ngắn”, cho đến “như tướng nam tử v.v... Chỉ có đấy là thật, những thứ khác đều là nói dối”. Nhưng các tướng ấy đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh, sao có thể gọi là cái Ngã chân thật cho được? Đối với các thứ chấp trước ấy, đức Phật nói “Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải là màu xanh” v.v… Vì cớ sao vậy? Do tướng xanh ấy rốt ráo chẳng sanh, cho nên chẳng phải là xanh. Do Thật Tướng của màu xanh bất hoại, nên cũng chẳng phải không là xanh. Hãy nên biết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác không có tướng nhất định để có thể nói, và cũng chẳng lìa các tướng như thế. Như có ngoại đạo A-xà-lê trong ban đêm của hắc nguyệt[18], dẫn các đệ tử tới trước con voi to mà bảo như thế này: “Ta nay chỉ chân ngã cho các ngươi”. Khi ấy, bọn họ hoặc dùng mắt nhìn, hoặc dùng thân chạm. Người thấy hình dáng [con voi] bèn nói: “Ta nay đã biết chân ngã, sắc nó rất trắng, to lớn cồng kềnh”. Người sờ ngà nói: “Chân ngã như cây giáo”. Người sờ tai nói giống như cái ky, người sờ chân nói giống như cây cột, người sờ đuôi nói giống như sợi thừng. Ai nấy đều dựa theo tình kiến chấp trước do tiếp xúc bất đồng. Dẫu tranh cãi đúng sai với nhau, trọn chẳng thể biết chân thể của voi! Nếu lúc hành giả Du Già khai phát cái tâm, hiểu rõ đạo, chiếu kiến Như Lai trong tâm vương, như trong chỗ sáng bừng, mắt thấy các sắc, sẽ chẳng nẩy sanh tranh luận như thế.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân thú đồng tánh.

          ()祕密主心非欲界同性非色界同性非無色界同性非天龍夜叉乾闥婆阿脩羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人趣同性

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng phải cùng một tánh với các đường trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân).

 

          Kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, nãi chí nhân phi nhân thú đồng tánh” (Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng cùng tánh với đường trời, rồng, Dạ Xoa, cho đến nhân phi nhân) cũng nhằm đối trị các chấp trước hư vọng, hiển thị tự tâm không thay đổi. Vì thế nói cái tâm chẳng có cùng một tánh với tam giới. Có các ngoại đạo chấp ngã có cùng một tánh với Dục Giới, hoặc cùng một tánh với Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cho đến cho rằng Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ là Niết Bàn. Hoặc nói Phạm Vương, Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) v.v… sanh ra hết thảy các pháp. Nhưng tam giới này thảy đều từ các duyên mà sanh, cầu tự tánh của chúng chẳng thể được, huống hồ khiến cho tâm tánh có cùng một tánh với các tánh ấy ư? Kế đó, rộng phân biệt vô lượng các đường chúng sanh, mỗi mỗi đều chỉ ra, [tánh của mỗi đường ấy] đều chẳng giống với tâm tánh. Ví như hư không mưa nước tám công đức, một vị thuần tịnh, tùy thuộc vào đồ đựng đủ mọi sai biệt mà hoặc cay, hoặc chua, hoặc ấm, hoặc đục, nhưng tánh tám công đức chẳng giống như chúng nó. Khi hết nóng, hết đục, thì trong mát như cũ, chưa từng đổi khác!

          Lại như Chân Đà Ma Ni (Như Ý Bảo Châu) vốn chẳng có tướng nhất định, gặp vật nào liền có cùng màu với vật ấy, nhưng tánh của báu ấy chẳng giống như các vật đó. Nếu cùng một tánh, do khi sắc ấy thuận theo duyên mà sanh diệt, tánh của chất báu cũng phải nên sanh diệt. Lại nữa, do đức Thế Tôn sắp khai thị Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la, trước hết bèn khai thị môn Thật Tướng của tâm. Vì sao vậy? Như trong Bổn Tôn tam-muội của hành giả nói có hiển hiện hình tướng nam, nữ v.v… và phổ môn thị hiện thân trong sáu đường, sợ các hành nhân chẳng liễu giải “tâm do duyên mà sanh”, đối với chân tánh của bảo vương sẽ nẩy sanh hý luận. Vì thế, đức Phật nói Như Lai chẳng phải là xanh, vàng, cho đến tâm chẳng có cùng một tánh với sáu đường trong tam giới. Nếu có thể quan sát như thế, sẽ chẳng ngăn chướng Bồ Đề tâm.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm bất trụ nhãn giới, bất trụ nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, phi kiến, phi hiển hiện. Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư phân biệt, vô phân biệt. Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm. Tánh đồng ư tâm, tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, phương tiện Ba La Mật mãn túc.

          ()祕密主心不住眼界不住耳鼻舌身意界非見非顯現何以故虛空相心離諸分別無分別所以者何性同虛空即同於心性同於心即同菩提如是祕密主虛空界菩提三種無二此等悲為根本方便波羅蜜滿足

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng trụ trong nhãn giới, chẳng trụ trong nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thấy, chẳng hiển hiện. Vì sao vậy? Tâm có tướng như hư không lìa các phân biệt, chẳng phân biệt. Vì lẽ nào vậy? Tánh giống như hư không, tức là giống tâm. Tánh giống tâm tức là giống Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, phương tiện Ba La Mật trọn đủ).

 

          Trong phần trên đã nói không trụ trong ba chỗ (trong, ngoài, chặng giữa), đã gồm thâu hết thảy các pháp; vì người chưa ngộ mà lại phân biệt rành rẽ từng pháp. [Do có kẻ đã nghe các nghĩa trên đây, cho rằng]: Nếu tâm chẳng có cùng một tánh với các đường, nó sẽ trụ trong nhãn giới ư? Cho đến trụ trong ý giới ư? [Phá chấp trước ấy như sau]: Nếu tâm trụ trong nhãn giới, do mắt sanh từ các duyên, tánh tướng tự không, chẳng có trụ xứ, há Thật Tướng của tâm lại ở trong mắt ư? Giống như nhãn giới, [từ nhĩ giới, tỵ giới v.v…] cho tới các pháp Ấm, Nhập, đều nên rộng nói như thế.

          Lại nữa, trong phần trên đã phá các loại ngoại đạo, nay nói chẳng trụ vào các pháp, nhằm phá Biên Kiến của Thanh Văn. Như trong Độc Tử A Tỳ Đàm (A Tỳ Đàm Luận của Độc Tử Bộ) nói: “Ví như Tứ Đại hòa hợp mà có nhãn pháp, cũng như thế, ngũ tượng do hòa hợp mà có nhân và pháp, tức là nhân và pháp thuộc vào bất khả thuyết tạng”. Người tu theo Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Thần và người trong hết thảy các pháp môn đều chẳng thể cầu được! Như sừng thỏ, lông rùa vô thường, mà Ấm, Giới, Nhập thật sự có tự tánh”. Do các pháp hý luận như thế, chẳng biết cái tâm. Nếu có thể quán tâm chẳng trụ trong các pháp, tâm sẽ chẳng có hành xứ, hý luận đều hết sạch.

          “Phi kiến, phi hiển hiện” (Chẳng thấy, chẳng hiển hiện): Như có người nói: “Hết thảy chúng sanh vốn có tánh tri kiến của Phật, nhưng khi màng mộng vô minh trừ khử, sẽ tự có thể thấy Lý”. Hoặc có người nói: “Thường lý như thế chẳng thể tạo tác, nhưng khi trừ khử mây mù triền cái, vầng mặt trời sẽ tự hiện”. Đấy đều là lời lẽ của Thế Đế. Nếu Bồ Đề tâm thanh tịnh là pháp có thể thấy, có thể hiện, thì tức là có tướng. Phàm những gì có tướng, đều là hư vọng! Sao có thể thấy Vô Thượng Bồ Đề? Hơn nữa, trong kinh tự nói nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư vọng chấp, diệc vô phân biệt, do như hư không tất cánh tịnh pháp. Nhất thiết sắc tượng vô năng nhiễm ô chi giả, tâm tánh diệc nhĩ, nhất thiết phân biệt vô năng nhiễm ô chi giả” (Vì lẽ nào? Tâm có tướng như hư không lìa các vọng chấp, cũng chẳng phân biệt, giống như hư không là pháp rốt ráo thanh tịnh, hết thảy hình sắc chẳng thể nhiễm ô. Tâm tánh cũng thế, hết thảy phân biệt chẳng thể nhiễm ô [tâm tánh]). Nếu vô phân biệt, tức là lìa hết thảy các tướng.

          Kinh dạy: “Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm, tánh đồng ư tâm tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, Phương Tiện Ba La Mật mãn túc” (Vì sao vậy? Tánh giống như hư không tức là giống như tâm, tánh giống như tâm tức giống như Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, Phương Tiện Ba La Mật trang nghiêm trọn đủ): Nhập các môn thanh tịnh như trên đều vì nêu tỏ ý nghĩa “tự tâm cầu Bồ Đề”. Nay lại kết luận rằng hư không vô cấu chính là tâm, tâm tức là Bồ Đề, tướng vốn là cùng một tướng, mà có ba tên gọi. Từ ngay nơi cái tâm pháp giới này, tuy nhân duyên rốt ráo chẳng sanh, nhưng chẳng hoại nhân duyên Thật Tướng. Do bất sanh, cho nên chẳng có năng và sở sai khác. Do bất hoại, nên cũng lấy Bi làm căn bản, Phương Tiện Ba La Mật trọn đủ, tức là ý nghĩa Trung Đạo rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thị cố Bí Mật Chủ! Ngã thuyết chư pháp như thị, linh bỉ chư Bồ Tát chúng Bồ Đề tâm thanh tịnh, tri thức kỳ tâm. Bí Mật Chủ! Nhược tộc tánh nam, tộc tánh nữ dục thức tri Bồ Đề, đương như thị thức tri tự tâm.

          ()是故祕密主 我說諸法如是 令彼諸菩薩眾菩提

心清淨知識其心祕密主若族姓男族姓女欲識知菩提當如是識知自心

          (Kinh: Vì thế, Bí Mật Chủ! Ta nói các pháp như thế, khiến cho Bồ Đề tâm của các Bồ Tát đó thanh tịnh, hiểu biết cái tâm. Bí Mật Chủ! Nếu tộc tánh nam, tộc tánh nữ muốn hiểu biết Bồ Đề, hãy nên hiểu biết tự tâm như thế).

 

          Đức Phật đã khai thị Bồ Đề thanh tịnh, nêu ra cốt lõi chánh yếu của ba câu xong, liền kết lại: Toàn bộ vô lượng phương tiện từ đầu đến cuối đều nhằm khiến cho Bồ Đề tâm của các vị Bồ Tát thanh tịnh, nhận biết cái tâm ấy. Giống như trong kinh này, hãy nên biết hết thảy Tu Đa La đều có cùng ý nghĩa này. Như pháp do Thích Ca Như Lai đã nói, hãy nên biết các thứ pháp do mười phương ba đời hết thảy Như Lai tùy thuận cơ nghi và nhân duyên đã nói, không gì chẳng là ba câu pháp môn ấy, rốt ráo đồng quy về gốc, chẳng có đường lối nào khác! Vì thế nói “ngã thuyết chư pháp như thị, nãi chí tri thức kỳ tâm” (ta nói các pháp như thế… hiểu biết cái tâm).

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà tự tri tâm? Vị nhược phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới, nhược sắc, nhược thọ, tưởng, hành, thức, nhược ngã, nhược ngã sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh, nhược giới, nhược xứ, nãi chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc.

          ()祕密主云何自知心謂若分段或顯色或形色或境界若色若受想行識若我若我所若能執若所執若清淨若界若處乃至一切分段中求不可得

          (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Tự biết cái tâm như thế nào? Tức là dù phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc ngã sở, hoặc chủ thể chấp trước, hoặc đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh, hoặc giới, hoặc xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng thể cầu được).

 

          Trong phần trên, đức Thế Tôn đã rộng nói tướng như thật của Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do chúng sanh chưa thể thấu hiểu ý, lãnh ngộ, Ngài lại phương tiện nói môn đốn giác nhập Thật Tướng của Phật tâm này, cũng vì quyết liễu[19] pháp của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Như trong hết thảy các kinh, hoặc nói “trong các Uẩn hòa hợp, ngã chẳng thể được”, hoặc nói “các pháp sanh từ duyên đều không có tự tánh”, đều là các môn lần lượt khơi mở Thật Tướng. Thật Tướng của các pháp được nói trong các kinh ấy chính là Thật Tướng của cái tâm trong kinh này. “Thật Tướng của tâm” tức là Bồ Đề, trọn chẳng có lý nào khác. Chỉ vì chúng sanh phước mỏng, chẳng thể tin chính mình sẽ thành Phật, cho rằng “chính mình thành Phật” là chuyện rất khó đạt được. Vì thế, đức Thế Tôn dạy họ lìa các cấu chướng, thủ hộ cái tâm, phải giữ sao cho thời và nghĩa khế hợp, sau đấy mới nói ấn “tức tâm”. Nay kinh này chẳng phải vậy, thẳng thừng dựa trên các pháp khiến cho họ biết cái tâm. Do vậy là tạng bí yếu! Câu thứ nhất nói “dù là phần đoạn” tức là nêu chung “pháp sanh từ nhân duyên”. Do pháp phải nhờ vào nhân duyên mới thành, ắt có tướng sai biệt. Hành giả hãy nên biết quán sát như thế! Nay trong sự phần đoạn ấy, cái gì là tâm? Cho đến phân tích, suy cầu, đều chẳng thể được! Tức là biết tâm này vượt ngoài các tướng, lìa các nhân duyên. Do biết tâm tánh thường như thế, lúc bấy giờ, hết thảy các pháp tự nhiên chẳng khác với tâm!

           “Hiển sắc” là xanh, vàng v.v… “Hình sắc” là như vuông, tròn v.v… Cảnh giới, tức là cái đối ứng với sáu tình (sáu căn), tức sáu trần. Vì để cho kẻ khác dễ hiểu, lại lần lượt quan sát các pháp. Nay trong các thứ hiển sắc và hình sắc đó, gì là tâm? Sắc vốn chẳng phải là tình, chẳng có tướng hay biết, huống là có tâm trong ấy để có thể đạt được ư? Giống như hiển sắc và hình sắc, hãy nên biết hết thảy các sắc trần cũng như thế. Giống như sắc trần, cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp, cũng đều như thế. Hành giả chẳng thể tìm được tâm trong ngoại trần, lại quán Ngũ Uẩn trong nội thân cũng như bọt nước, bong bóng, ngọn lửa, cây chuối huyễn hóa, tự cầu tánh thật [trong ấy] còn chẳng thể được, huống hồ có được tâm trong đó ư? Như thế từ thô tới tế, bỏ rộng theo lược, cho đến khi một niệm thức trong hiện tại cũng chẳng trụ. Lại do từ các duyên mà sanh, tức Không, tức Giả, tức Trung, xa lìa hết thảy hý luận, cho tới ngằn mé vốn chẳng sanh. “Ngằn mé vốn chẳng sanh” chính là tự tánh thanh tịnh tâm, tự tánh thanh tịnh tâm tức là môn chữ A. Do dùng tâm để nhập môn chữ A, hãy nên biết hết thảy các pháp đều vào trong môn chữ A.

          Đã nói quán Thật Tướng của các pháp; kế đó, nói về quán ngã tướng, cho nên nói “nhược ngã, nhược ngã sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh” (hoặc là ngã, hoặc là cái của ta, hoặc là chủ thể chấp trước, hoặc là đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh). Như trong các Ấm thuộc phần trước, các thứ phương tiện quán tâm đều chẳng thể được, huống hồ các pháp “ta, người, thọ giả” v.v… vốn chỉ có giả danh, trong ấy há có tâm để đạt được hay chăng? “Thanh tịnh” tức là chỗ tối cực thanh tịnh mà ngoại đạo chấp trước, ngỡ đó là Niết Bàn. Như Trường Trảo Phạm Chí chẳng thọ hết thảy các pháp, mà lại chấp nhận cách nhìn ấy. Nay cũng giống như thế, do chấp trước trí huệ quán Không, mà sanh khởi ý tưởng ngỡ là thanh tịnh ấy, liền từ trong tâm tưởng như thế để chánh quán tự tâm “chẳng có chỗ sanh”, liền được nhập Bồ Đề tâm chân tịnh.

          Trên đây đã rộng đối ứng với Ngũ Ấm [để phá các chấp trước đối với ngã]; kế đó, lại nói mười tám giới, mười hai xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng thể cầu được. Ý nghĩa của Ấm, Giới, Nhập thì như trong A Tỳ Đàm đã giảng cặn kẽ. Ba pháp ấy (Ấm, Giới, Xứ) đã thâu nhiếp hết thảy các pháp. Lại nói “nãi chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc” (cho đến trong hết thảy phần đoạn đều chẳng thể cầu được), tức là như trong kinh Ma Ha Bát Nhã đã lần lượt nói rộng các pháp. Như đối với Ấm, Giới, Nhập mà phân tích, tìm cầu cái tâm, sẽ chẳng thể tìm được tâm. Hãy nên biết từ lục độ vạn hạnh, cho tới trong hết thảy các môn tổng trì tam-muội, dùng đủ mọi cách cầu tâm, đều chẳng thể được. Do tâm chẳng thể được, tướng thường, lạc, ngã, tịnh, hoặc tướng chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh v.v… của cái tâm ấy cũng giống như thế, đều là chẳng thể được!

          Lại nữa, như hàng Thanh Văn khi mới quán Ấm, Nhập, Giới, liền từ Ấm mà cầu ngã, hoặc lìa Ấm để cầu ngã, đều chẳng thể được. Dùng cả hai cách, cũng đều chẳng thể được. Lúc ấy, từ trong Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo), viễn trần ly cấu, chánh pháp nhãn sanh khởi. Bồ Tát trong Chân Ngôn Môn cũng giống như thế, khi mới quán Ấm, Giới, Nhập, do từ Ấm mà cầu tâm, và lìa Ấm để cầu tâm đều không thể được, [vận dụng cả] đôi bên cũng chẳng được, cho nên ngay lập tức liễu ngộ “ngằn mé bất sanh” của tự tâm, từ trong đại Bồ Đề đạo thuộc tri kiến của Như Lai, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Nếu chẳng tạo phương tiện như thế, trước hết từ chấp vào nơi chốn để quán, chỉ nói là “tâm trọn hết thảy mọi nơi, rốt ráo vô tướng”, chúng sanh sẽ chẳng thể do đâu mà ngộ nhập. Hãy nên biết cách Quán này là một pháp môn bí yếu nhất. Như các Bồ Tát vận dụng các phương tiện viễn ly khác, lần lượt tu tập Giới, Định, trí huệ trong vô lượng kiếp, dùng đủ mọi môn để quán Nhân Không và Pháp Không, vẫn chưa thể xa lìa hình bóng [của Nhân Pháp và NPháp] trong tâm. Nay hành giả Chân Ngôn khi sơ phát tâm, quán thẳng vào Thật Tướng của tự tâm, biết rõ nó vốn bất sanh, ngay lập tức các hý luận về Nhân và Pháp đều trừ sạch như hư không, thành tựu tự nhiên giác, chẳng do điều gì khác mà giác ngộ. Hãy nên biết pháp quán này lại là đạo pháp minh (hiểu rõ đạo, giác ngộ pháp), là pháp môn đốn ngộ vậy!

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Thử Bồ Tát tịnh Bồ Đề tâm môn, danh sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nhược đắc thử giả, tắc dữ chư Phật, Bồ Tát đồng đẳng trụ, đương phát ngũ thần thông, hoạch vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, tri chúng sanh tâm hạnh, chư Phật hộ trì, tuy xử sanh tử, nhi vô nhiễm trước, vị pháp giới chúng sanh bất từ lao quyện, thành tựu trụ vô vi giới, ly ư tà kiến, thông đạt chánh   kiến.

          ()祕密主此菩薩淨菩提心門名初法明道菩薩住此修學不久勤苦便得除一切蓋障三昧若得此者則與諸佛菩薩同等住當發五神通獲無量語言音陀羅尼知眾生心行諸佛護持雖處生死而無染著為法界眾生不辭勞倦成就住無為戒離於邪見通達正見   

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Môn Bồ Đề tâm thanh tịnh của Bồ Tát này gọi là sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ vào đấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, sẽ đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nếu đắc môn ấy, sẽ cùng trụ giống như chư Phật, Bồ Tát, sẽ phát sanh năm món thần thông, đạt được vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, biết tâm hạnh của chúng sanh, được chư Phật hộ trì, tuy ở trong sanh tử mà chẳng nhiễm đắm, vì pháp giới chúng sanh chẳng nề hà mệt nhọc, thành tựu trụ trong vô vi giới, lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến).

 

          Để nhập trí huệ của Phật, có vô lượng môn phương tiện; nay tông này dùng ngay Bồ Đề tâm thanh tịnh làm môn. Nếu nhập môn này, tức là sơ nhập cảnh giới của hết thảy Như Lai. Ví như [trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm], ngài Di Lặc mở cửa lâu các, từ trong đó, Thiện Tài thấy trọn vô lượng chuyện chẳng nghĩ bàn, khó thể diễn nói được, chỉ có người nhập tự biết mà thôi!

          “Pháp minh”: Do giác ngộ “ngằn mé bất sanh” của cái tâm, tâm ấy tịnh trụ, sanh ra đại huệ quang minh, chiếu khắp vô lượng pháp tánh, thấy đạo do chư Phật hành. Vì thế nói là “pháp minh đạo”. Khi Bồ Tát trụ trong đạo ấy, tất cả phiền não nghiệp khổ sanh từ nhân duyên vọng tưởng thảy đều trừ diệt thanh tịnh. Ví như có người ở trong chỗ tối, bị chất báu sắc bén gây thương tổn, cho là rắn độc. Do nghĩ là độc, nên cái tâm chấp trước ấy liền trở thành khí độc lan khắp chi thể. Khi người ấy sắp mạng chung, có lương y chẩn đoán, hiểu rõ đầu đuôi, lập tức dẫn [kẻ đó] đến chỗ bị thương, dùng đèn sáng để soi, vẫn thấy chất báu gây nên thương tổn hãy còn vết máu hoen ố. Người ấy biết rõ chẳng phải là độc, độc khí cũng trừ, phân biệt vật đẹp đẽ đáng ưa chuộng mà sanh lòng vui sướng. Hành nhân cũng lại giống như thế, do Bồ Đề tâm thanh tịnh chiếu sáng các pháp, tốn ít công sức mà đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, thấy Thật Tướng của tám vạn bốn ngàn phiền não thành tám vạn bốn ngàn môn khối báu. Vì thế, kế đó, kinh nói: “Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội” (Bồ Tát trụ trong ấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, liền đạt được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội). Nếu đắc môn ấy, sẽ bình đẳng trụ cùng chư Phật Bồ Tát. Trong ấy, có năm loại chướng:

          - Một là phiền não chướng, tức từ căn bản phiền não cho đến tám vạn bốn ngàn thượng, trung, hạ phẩm chướng che lấp tịnh tâm, và do tập khí đã quen từ đời trước, gây trở ngại đạo cơ (cơ duyên chứng đạo), chẳng nhập Phật pháp.

          - Hai là nghiệp chướng, tức là do trong đời quá khứ và hiện tại đã tạo các tội nặng, cho đến báng bổ kinh Phương Đẳng, người ấy tuy có nhân duyên đắc đạo, nhưng do nghiệp chướng cũ chưa trừ, bị các thứ gây chướng nạn, chẳng nhập Phật pháp.

          - Ba là sanh chướng, tức là người đã được sanh vào chỗ thắng thượng, không hoạn nạn, ắt sẽ ngộ đạo, nhưng do nghiệp trước mà thọ thân không rảnh rỗi, coi báo sanh là chướng, chẳng nhập Phật pháp.

          - Bốn là pháp chướng, tức là người đã được sanh vào chỗ không chướng ngại, lại có cơ duyên ngộ đạo, do đời trước đã từng có duyên gây chướng ngại pháp, bèn chẳng gặp thiện hữu, chẳng nghe chánh pháp.

          - Năm là sở tri chướng, tức là người ấy đã gặp thiện tri thức, được nghe chánh pháp, nhưng có các thứ nhân duyên khiến cho đôi bên chẳng hòa hợp, trở ngại tu Bát Nhã Ba La Mật, như kinh Đại Phẩm [Bát Nhã] đã nói cặn kẽ về ma sự, chắc là cũng do đời trước đã từng cố ý khiến cho đạo cơ của người khác bị sai lệch, cho nên sanh ra món chướng này.

          Hành giả đã trừ sạch năm món gây chướng ngại cho tam-muội, lúc bấy giờ, trong tự tâm thường thấy diệu tướng tĩnh lặng của mười phương hết thảy chư Phật như nhìn vào gương sáng, cho đến đối với các oai nghi đi, lại, ngủ, thức, đều chẳng lìa nhân duyên [trông thấy] chúng hội của chư Phật như thế. Khi đó, các vị thánh thường dùng phương tiện thù thắng nhiệm mầu để khơi gợi tâm giác ngộ của người ấy, dùng Phạm âm an ủi, khuyên dụ, khiến cho [người ấy] dứt trừ lưới nghi. Hành giả vừa nghe liền tùy hỷ, ngộ nhập, lưới chướng liền trừ, chẳng lâu sau sẽ thành tựu hết thảy Phật pháp. Vì thế nói: “Nếu đạt được môn tam-muội này, sẽ bình đẳng trụ với Phật, Bồ Tát”. Hãy nên biết hành nhân có địa vị giống như bậc Đại Giác. Do cái tâm tự giác mà được gọi là Phật, nhưng chẳng phải là địa vị Đại Mâu Ni diệu giác rốt ráo. Ví như mặt trăng thanh tịnh, bản thể tuy chẳng tăng, giảm, nhưng cũng rõ ràng là dần dần tăng, cho tới ngày Rằm thì mới có thể ảnh hưởng đến thủy triều nơi biển cả.

          Lại nữa, hành giả do cùng trụ bình đẳng với Như Lai, tức là có thể dùng sức phương tiện khởi năm món thần thông, chẳng động bổn tâm mà dạo các cõi Phật, hiện các thứ thân, ngữ, ý, dấy lên các thứ mây cúng dường, dùng vô tận đại nguyện để rộng tu các Độ (Ba La Mật). Lại do ý căn thanh tịnh; kế đó, đắc Giải Vô Lượng Ngữ Ngôn Âm Thanh Đà-la-ni, như ba mươi sáu câu-chi đường [thọ sanh] trong thế gian, tùy theo chủng loại, căn tánh của họ là thượng, trung, hạ, đối với bao nhiêu phong tục, ngôn ngữ địa phương, mỗi mỗi đều sai biệt, đều hiểu rõ chỉ thú, đáng nên dùng âm thanh theo từng loại [để thuyết pháp giáo hóa họ]. Như trong một thế giới, hết thảy các thế giới cũng đều là như thế. Trong bản tiếng Phạn, Rô Đa (Ruta) là tiếng lớn, La Vĩ Đa (Ravita) là tiếng nhỏ, Niết Cù Sam (Dīrghāghoṣa) là “âm dài”, lại còn có nghĩa là “nhiều âm”. Do vậy, nói đầy đủ, muốn hiển thị cảnh giới tổng trì, không gì chẳng hiểu rõ, đối với ngôn ngữ của phương này (Trung Hoa), khó thể phiên dịch trọn hết. Do đắc đà-la-ni, nên có thể biết tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, tức là chúng sanh như thế này sân hạnh đặc biệt nhiều, nhưng tánh tham mỏng ít, hoặc chúng sanh như thế kia tánh tham đặc biệt nhiều, mà tánh sân mỏng ít. Cho đến tướng “thông, tắc” vô lượng sai biệt, như phần Đạo Chủng Trí trong Thích Luận đã nói cặn kẽ. Vị Bồ Tát ấy không chỉ là biết bằng ý căn, mà thậm chí [các giác quan để] thấy, nghe, ngửi, chạm, cũng đều có thể dùng lẫn nhau vô ngại. Lại có thể quán căn duyên của họ để trừ cái chướng cho họ, dùng đủ mọi phương tiện để thành thục chúng sanh, trang nghiêm cõi Phật, hành Như Lai sự. Hãy nên biết hành giả Chân Ngôn thậm chí có thể hoàn thành ngay trong một đời.

          Lại nữa, các công đức như đã nói trên, hết thảy chúng sanh thảy đều đúng như bổn tánh mà bình đẳng cùng có. Chỉ vì vô minh chướng lấp nên chẳng tự biết rõ, chưa thể khởi phát sức thần thông bí mật như thế. Nay các Bồ Tát tu hành Chân Ngôn môn này, do thấy pháp, hiểu rõ đạo, ngay trong đời này đạt được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Do đắc môn tam-muội ấy, có thể cùng ở với chư Phật, Bồ Tát, phát khởi năm món thần thông. Do năm thần thông, nên đắc Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn đà-la-ni. Do đạt được môn đà-la-ni ấy, có thể biết tâm hạnh của hết thảy chúng sanh để làm Phật sự. Do có thể rộng làm Phật sự, chẳng đoạn dòng giống Như Lai, cho nên trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, thường được mười phương chư Phật hộ trì. Giống như trẻ thơ vừa mới sanh ra, cha mẹ cưng chiều, thường chẳng lìa bỏ. Hãy nên biết các câu như thế, đều theo thứ tự mà giải thích lẫn nhau.

          Lại nữa, hành giả do bên trong có đủ công đức như trên, ngoài thì được chư Phật hộ trì. Vì thế, ở trong sanh tử mà chẳng đắm nhiễm, giống như hoa sen nổi vượt khỏi mặt nước, chẳng bị bùn lầy nhuốm bẩn. Thường dùng phương tiện Tứ Nhiếp để dẹp khổ cho chúng sanh, cho đến trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp thường ở trong địa ngục Vô Gián, thân tâm tinh tấn, hừng hực chẳng ngơi, chẳng lui sụt, chẳng nài mệt nhọc. Vì cớ sao? Tánh của Bồ Đề tâm thanh tịnh vốn sẵn như kim cang. Tánh cực kiên cố như thế chẳng do thầy mà đạt được! Trụ trong vô vi giới, vô cấu, vô trược, chẳng thể phá hoại, tổn thương. Giới trong tiếng Phạn là Thi La (Śīla), có nghĩa là “trong trẻo, mát lạnh”. Ví như tánh nước thường lạnh, dẫu gặp nhân duyên củi lửa bèn có thể nấu nát nhừ các vật, nhưng tự tánh của nó trọn chẳng thể đổi dời. Nếu rút củi, dập lửa, tự nhiên nước sẽ trong mát như cũ. Hành giả Chân Ngôn cũng giống như thế, khi đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, bổn tánh của cái tâm chính là Thi La, chẳng phải là pháp tạo tác, chẳng do gì khác mà đạt được. Vì thế nói là “trụ vô vi giới”. Như tịnh giới của Thanh Văn phải do bạch tứ yết-ma[20] và các duyên trọn đủ thì mới sanh khởi, lại cần phải phương tiện thủ hộ như ngăn ngừa gai nhọn, tới khi tuổi thọ của một đời người đã hết, giới ấy cũng mất theo. Còn giới ở đây chẳng phải là như thế, đời đời kiếp kiếp thường cùng sanh theo, chẳng cần phải thọ trì, thường chẳng bị mất mát, vi phạm. Lại do trụ trong giới ấy, thật trí sáng thêm, được thấy duyên khởi Trung Đạo rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, ngăn chặn tám món điên đảo, xa lìa nhị biên. Vì thế, tiếp đó, kinh nói: “Viễn ly tà kiến, thông đạt chánh kiến” (Xa lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến). [Trong kinh Pháp Hoa], ngài Ca Diếp cũng nói: “Tự thử dĩ tiền, ngã đẳng giai danh tà kiến nhân “ (Từ trước đến nay, chúng con đều đáng gọi là kẻ tà kiến). Do huệ trong ấy bất chánh, nên nói là “tà kiến”.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, tín giải lực cố, bất cửu cần tu, mãn túc nhất thiết Phật pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân vô lượng công đức giai đắc thành tựu.

          ()復次祕密主住此除一切蓋障菩薩信解力故不久勤修滿足一切佛法祕密主以要言之是善男子善女人無量功德皆得成就

          (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị Bồ Tát trụ trong Trừ Nhất Thiết Cái Chướng này, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ viên mãn hết thảy Phật pháp. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vô lượng công đức đều được thành tựu).

 

          Do phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể quyết trạch, biết chánh đáng Thật Tướng của tự tâm, đối với lý đế thật, thậm chí đối với Không mà nói là chẳng Không, đối với chẳng Không mà nói là Không, chẳng thấy con đường đại Bồ Đề do chư Phật đã hành. Nay các vị Bồ Tát này, do chiếu kiến cái tâm, hiểu rõ đạo, ngay lập tức vô ngại trí phát sanh. Trong hết thảy các pháp, thảy đều hiện tiền thông đạt, chẳng sai lệch, giống như người sáng mắt do ánh sáng mặt trời mà thấy các thứ sắc. Tuy vô lượng thiên ma đều hóa thành thân Phật, đều nói tương tự Ba La Mật, trọn chẳng thể lay động chút phần lưới nghi trong tâm họ. Vì thế, kinh nói: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát tín giải lực cố, bất cửu cần tu, mãn túc nhất thiết Phật pháp” (Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát trụ trong tam-muội Trừ Nhất Thiết Cái Chướng ấy, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ trọn đủ hết thảy Phật pháp). Do chánh kiến như thế ví như Kim Cang, tức là sức tín giải kiên trì tối thượng, nương theo đó mà tấn tu Như Thật Xảo Độ, cho nên đạt được Chư Phật Lực Vô Sở Úy Giải Thoát tam-muội, và vô lượng Phật pháp khác thảy đều thành tựu. Ngài Long Thọ bảo: Ví như người nung luyện, dùng các thứ phương tiện để làm tan chảy khoáng thạch, sau đó thành vàng. Giống như người có thần thông, có thể khiến cho các loài đất, gỗ đều thành chất vàng. Vì thế nói “siêng tu chẳng bao lâu, liền được viên mãn hết thảy Phật pháp”. Do vậy, Bồ Tát khi mới phát tâm, liền được gọi là Phật. Công đức chân thật không thể đo lường, giả sử Như Lai trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phân biệt diễn nói, vẫn chẳng thể cùng tận!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục dĩ kệ vấn Phật: - Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề sanh? Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm? Nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết, Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh. Tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn. Công đức tụ diệc nhiên, cập bỉ hành tu hạnh, tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết.

          ()爾時執金剛祕密主復以偈問佛:云何世尊說,此心菩提生?復以云何相知發菩提心?願識心心勝,自然智生說,大勤勇幾何,次第心續生,心諸相與時,願佛廣開演。功德聚亦然,及彼行修行,心心有殊異,惟大牟尼說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ hỏi đức Phật: - Cớ sao Thế Tôn nói, tâm này Bồ Đề sanh? Lại do tướng thế nào, biết phát Bồ Đề tâm? Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi. Thưa đấng Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào? Các tâm tướng và thời, nguyện Phật rộng khai diễn. Khối công đức cũng thế, và hành hạnh tu hành, mỗi tâm đều mỗi khác, mong Đại Mâu Ni nói).

          Như trong phần trên, đức Phật đã nói ý chỉ đại cương của bộ kinh này, môn Thật Tướng của cái tâm đã được [nêu bày] đại lược trọn vẹn. Khi đó, ngài Kim Cang Thủ vì khiến cho chúng sanh trong vị lai sẽ được trọn đủ phương tiện, chẳng còn nghi nữa, nên dùng kệ để hỏi đức Phật, thỉnh cầu đức Thế Tôn rộng diễn nghĩa ấy. Trong ấy, đại lược có chín câu hỏi. “Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề sanh?” (Vì sao đức Thế Tôn nói, Bồ Đề sanh từ cái tâm này?) tức là [thắc mắc chuyện làm thế nào để] sanh khởi Bồ Đề tâm. Trong các kinh như Hoa Nghiêm [chẳng hạn], đã tán thán cặn kẽ công đức phát Bồ Đề tâm; nay ở đây, hỏi thẳng về mật ấn của tâm. Làm thế nào để biết rõ chủng tử Bồ Đề phát sanh từ tâm này? Nếu đã phát sanh thì tánh của nó là như thế nào?

          Câu thứ hai: “Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm?” (Lại do tướng như thế nào mà biết là phát Bồ Đề tâm): “Tướng” là do tánh đã thành tựu bên trong, ắt sẽ có tướng biểu lộ ra ngoài, như trong Bát Nhã đã nói cặn kẽ tướng mạo của A-tỳ-bạt-trí (Avaivarti, bất thoái chuyển), nay ở đây cũng hỏi “tâm Bồ Đề đã sanh thì có tướng mạo gì?”

          Kinh nói “nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết” (Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi): Đúng như thật tán thán công đức của Phật, xin Ngài hãy phô diễn ý nghĩa của hai câu trước đó. Đầu tiên nói đến “thức tâm” tức là cái trí tự giác trong tâm. Kế đó lại nói “tâm” tức là Thật Tướng của cái tâm. Ý nói: Cảnh và trí đều diệu, chẳng hai, chẳng khác, cho nên lặp lại. “Tự nhiên trí” là thường trí của Như Lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, chẳng do ai khác mà ngộ! Ý nói: Phật đã là người hiểu cái tâm bậc nhất, ắt có thể biết Bồ Đề tâm phát sanh và tướng vi tế của nó, kính mong đức Phật hãy nói.

          Câu thứ ba “Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh” (Thưa đấng Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào?): Đại Cần Dũng (bậc siêng năng mạnh mẽ to lớn) chính là tên gọi khác của đức Phật. Tán thán phẩm đức rồi lại thưa hỏi: “Do có mấy tâm theo thứ tự mà đạt được cái tâm ấy?”

          Câu thứ tư và câu thứ năm là “tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn “ (các tướng tâm và thời, nguyện Phật rộng khai diễn), nhằm hỏi về các tướng sai biệt của tâm và sự thắng tấn (tiến cao hơn) liên tục, phải trải qua bao lâu thì mới rốt ráo đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?

          Câu thứ sáu “công đức tụ diệc nhiên” (khối công đức cũng thế), nói về công đức vi diệu của cái  tâm  này, cũng  mong  đức  Thế  Tôn  sẽ

rộng khai diễn. Vì thế nói “diệc nhiên” (cũng thế).

          Câu thứ bảy là “cập bỉ hành tu hạnh” (và hành hạnh tu đó), tức là kế đó, hỏi nên dùng hạnh nào? Tu hành như thế nào để có đạt được Vô Thượng Tất Địa (thành tựu vô thượng)? Cũng có thể chia đoạn này thành hai câu.

          Câu thứ tám và câu thứ chín “tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết” (mỗi tâm mỗi khác biệt, mong Đại Mâu Ni nói), tức là cũng mong đức Thế Tôn nói cặn kẽ về tâm thức dị thục của chúng sanh và tâm thức đặc biệt khác lạ của hành giả Du Già. Mâu Ni có nghĩa là Tịch Mặc, ý nói: Thân, ngữ, tâm của đức Phật đều rốt ráo tịch diệt, vượt ngoài khả năng diễn tả của ngôn ngữ. Do sự tịch diệt nhỏ nhoi của Tiểu Thừa chẳng thể sánh ví, cho nên nói là Đại Mâu Ni.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Chín câu như thế hoặc có thể chia thành mười câu. Từ đây trở đi cho đến hết kinh, đều mang ý nghĩa Như Lai đối ứng chín câu hỏi ấy mà nói phân biệt cặn kẽ. Nhưng đức Phật quán chúng hội thuở ấy, chú trọng khiến cho họ lãnh hội ý, tìm cầu điều cốt lõi, cho nên có thể là đáp trước, hỏi sau, kinh văn không có tiêu chuẩn nhất định. Kế đó, hoặc chuyển thành sanh khởi nghi vấn để [giải đáp] cùng tận các chi tiết. Như kinh văn trong phần sau nói về nhập Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la v.v… tức là trả lời câu hỏi về tu hành. Phần nói về cái quả của một trăm chữ v.v… chính là giải đáp câu hỏi về tâm đặc biệt khác lạ và công đức. Các đoạn khác đều có chỗ tương ứng (tức là nhằm giải đáp các nghi vấn), đều có thể theo từng loại mà xét, ý nghĩa dễ thấy”.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích, thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngã kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính.

          ()如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:善哉佛真子,廣大心利益。勝上大乘句,心續生之相,諸佛大祕密, 外道不能識;我今悉開示,一心應諦聽。

          (Kinh: Nói như thế xong, đức Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích rộng lớn, câu Đại Thừa thắng thượng, tướng tâm liên tục sanh, chư Phật bí mật lớn, ngoại đạo chẳng thể biết. Ta nay  đều  chỉ  bày, nên  nhất  tâm  lắng

nghe).

 

          Kế đó, trong phần kệ giải đáp cho Kim Cang Thủ của Như Lai, “thiện tai Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích” (lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích rộng lớn): Do sanh từ chủng tánh của Như Lai, do sanh từ thân, ngữ, tâm của Phật, nên gọi là “chân tử” (con thật sự). Như trong phần trước, Đại Nhật Thế Tôn hiện cảnh giới gia trì rộng lớn, nay Bí Mật Chủ cũng muốn vì trọn khắp vô lượng chúng sanh đáng độ như thế, khiến cho họ nhanh chóng thành tựu đại hạnh, xé rách lưới nghi to lớn, cùng đạt được ba câu bình đẳng vô tận trang nghiêm, cho nên đức Phật tán thán rằng: “Lành thay Phật tử! Nay ông có thể dùng cái tâm rộng lớn để tạo lợi ích cho vô lượng chúng sanh, mà thốt ra lời hỏi như thế”.

          Tiếp đó, Ngài nói: “Thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức “ (Câu Đại Thừa thắng thượng, tướng liên tục sanh của tâm, là bí mật to lớn của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết). Nói đại lược thì do có bảy nghĩa nên gọi là Đại Thừa:

          - Một, do pháp to lớn, tức là tạng bí mật rộng lớn rất sâu của chư Phật được bậc đại nhân là Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi vận dụng.

          - Hai, do phát tâm to lớn, tức là một mực dốc chí mong cầu đại huệ bình đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thề sẽ truyền trao trọn khắp pháp giới chúng sanh.

          - Ba, do tín giải to lớn, tức là khi mới thấy tâm, hiểu đạo, trọn đủ vô lượng công đức, có thể tới trọn khắp các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, dùng đại sự nhân duyên thành tựu chúng sanh.

          - Bốn, do tánh to lớn, tức là tự tánh thanh tịnh tâm kim cang bảo tạng chẳng hề khuyết giảm, hết thảy chúng sanh đều bình đẳng cùng có.

          - Năm, do y chỉ to lớn, tức là diệu thừa như thế chính là chỗ y chỉ to lớn của pháp giới chúng sanh, giống như trăm sông đổ vào biển, cỏ cây nương vào đất mà sanh.

          - Sáu, do thời to lớn, tức là thọ lượng dài lâu vượt ngoài ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai), tác dụng sư tử phấn tấn bí mật thần thông chưa từng ngưng nghỉ.

          - Bảy, do trí to lớn, tức là do các pháp vô biên, tự tâm giống như hư không, tự nhiên diệu huệ cũng lại là vô biên, cùng tột nguồn cội Thật Tướng, ví như nắp khít với hộp.

          Do bảy nhân duyên như thế, trong các pháp môn, Đại Thừa  giống

như đề hồ thuần vị bậc nhất. Vì thế gọi là “Đại Thừa tối thắng”. Thừa là “tiến nhập”, Cú là “chỗ ngưng nghỉ”. Vì thế nói là “Đại Thừa cú” (câu Đại Thừa). “Tâm tục sanh chi tướng” (Tướng sanh liên tục nơi tâm): Tuy tâm ấy rốt ráo thường tịnh, ví như hư không lìa hết thảy các tướng, cũng từ nhân duyên dấy lên mà có tâm tướng sanh ra. Ví như sóng mòi trong biển cả, chẳng phải là thường có, mà cũng chẳng phải là thường không. Nếu là thường có, chẳng nên khi gió lặng, sóng bèn ngưng lặng, yên tĩnh. Nếu là thường không, chẳng nên gió mạnh vừa thổi, biển sẽ liên tục sóng trào. Hãy nên biết tâm thuận theo duyên mà khởi, tức là chẳng sanh mà sanh, sanh mà chẳng sanh, là tướng vô tướng, tướng thường vô tướng, rất sâu vi diệu, khó thể biết rõ. Ấn bí mật của chư Phật chẳng thể tuyên bày bừa bãi; vì thế, hai loại phàm phu và ngoại đạo không chỉ chẳng biết “tâm vô sanh diệt”, mà cũng chẳng biết tâm sanh diệt. Vì thế nói: “Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngã kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính” (Đại bí mật của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết, ta nay đều chỉ bày, hãy nhất tâm lắng nghe).

 

          (Kinh) Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức. Kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, bất nhiễm ô thường trụ. Chư pháp bất năng động, bổn lai tịch vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm.

          ()越百六十心,生廣大功德,其性常堅固,知彼菩提生。無量如虛空,不染污常住,諸法不能動,本來寂無相。無量智成就,正等覺顯現,供養行修行,從是初發   心。

          (Kinh: Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn. Tánh luôn thường kiên cố, nhận biết Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, chẳng nhiễm ô thường trụ. Các pháp chẳng thể động, vốn sẵn tịch, vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường tu hành hạnh, từ đấy sơ phát tâm).

         

          Bài kệ kế tiếp nói: “Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức, kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh” (Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn, tánh nó thường kiên cố, biết là Bồ Đề sanh) nhằm giải đáp câu hỏi thứ nhất: “Vì sao biết là Bồ Đề tâm đã sanh?” Nay đức Phật bảo rằng: “Vượt ngoài một trăm sáu mươi cái tâm liên tục thì chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh”. Như có người hỏi: “Vì sao biết là đề hồ sanh từ sữa này?” Đáp rằng: Nếu các tướng thô trược, đổi khác của sữa, lạc, sanh tô, và thục tô đều đã thuần nhất, chẳng còn cặn nhơ, sẽ biết là đề hồ đã sanh. Hành giả thoạt đầu khi khai phát tạng báu kim cang, thấy tâm tánh thanh tịnh như hư không, vượt ngoài số lượng; khi đó, lìa nghiệp sanh bởi cái nhân, cây Phật nẩy mầm. Khi cái mầm ấy đã sanh, sẽ trọn khắp pháp giới, huống hồ lá, hoa, quả? Vì thế nói là “sanh quảng đại công đức” (sanh công đức rộng lớn). Do vượt ngoài hý luận nơi tâm hạnh, sẽ chẳng thể phá, chẳng thể chuyển, giống như vàng Diêm Phù Đàn, chẳng thể nói lỗi ác (khuyết điểm) của nó được! Vì thế nói “kỳ tánh thường kiên cố” (tánh nó thường kiên cố). Nếu biết tự tâm có ấn như thế, hãy nên biết đó là Bồ Đề sanh.

          Kế đó là một bài kệ rưỡi, giải đáp đại lược tướng mạo của Bồ Đề tâm. Do thế gian trọn chẳng có pháp nào để có thể biểu thị tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh, chỉ trừ đại hư không có chút phần tương tự, nên nói “vô lượng như hư không”. Thí như hư không chẳng bị khói, mây, bụi bặm, sương mù ô nhiễm, tánh nó thường trụ, lìa các nhân duyên. Giả sử gió to từ tám phương thổi cùng tận thế giới, vẫn chẳng thể lay động [hư không] được! Từ bổn sơ cho tới nay, nó thường tự tịch diệt, vô tướng, chẳng phải đến nay mới vậy! Tâm tướng cũng thế, từ vô thỉ tới nay vốn tự bất sanh. Do vốn bất sanh, chẳng có một pháp nào có thể ô nhiễm, dao động. Nó thường trụ, bất biến, vĩnh viễn tịch tĩnh, vô tướng. Vì thế nói: “Chẳng ô nhiễm, thường trụ, các pháp chẳng thể động, vốn tịch tĩnh, vô tướng”. Lúc bấy giờ, hành nhân do được tịch quang ấy chiếu soi, vô lượng tri kiến tự nhiên khai phát, như hoa sen nở xòe. Vì thế nói “vô lượng trí thành tựu”. Trí ấy thành tựu chính là Tỳ Lô Giá Na tâm Phật hiện tiền. Do vậy nói “Chánh Đẳng Giác hiển hiện”. Bản tiếng Phạn ghi là “Tam Miệu Tam Phật Đà Bồ Đề hiện”. Đức Phật đã nói đại lược ấn Thật Tướng của cái tâm như thế, nếu hành giả tương ứng với nó, hãy nên biết là đã trọn đủ tín lực kiên cố. Nhưng tín lực ấy, vốn do đúng như lời dạy mà tu hành nghi quỹ hành pháp cúng dường trong Chân Ngôn môn, đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh, cho nên nói: “Cúng dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm “ (Cúng dường, hành hạnh tu hành, từ đấy sơ phát tâm). Nhưng sự cúng dường ấy có hai thứ: Một là ngoại cúng dường, hai là nội cúng dường, trong kinh văn thuộc phần sau sẽ nói [chi tiết hơn].

          Có lẽ sẽ có người nói rằng: “Chỉ quán tâm tánh vô tướng, vô vi, chẳng nên dùng các thứ hành động lăng xăng để hành Bồ Tát đạo!” Cách nói ấy không đúng! Như dùng bốn loại bất sanh để quán tánh của vàng trong quặng. Tuy dù là nhân hay quả, [tánh của vàng] đều là thường tự “chẳng giảm, chẳng tăng”, nhưng nếu chẳng dùng phương tiện để tiêu trừ chất cặn nhơ, sẽ chẳng có cách nào đạt được chất vàng bất sanh ấy! Hành nhân cũng giống như thế, nếu chẳng dùng ba loại phương tiện hạnh môn bí mật cúng dường để tiêu trừ chất nhơ “một trăm sáu mươi tâm” nơi khoáng thạch, sẽ do gì mà đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?

          Trong Trung Đạo Chánh Quán của Long Thọ A-xà-lê, [Ngài đã nói] chính là do từ duyên khởi mà nghĩa Vô Sanh được thành, nhưng quý vị cho rằng “lông rùa, sừng thỏ là Vô Sanh” sẽ phạm lỗi! Lại như người đời thấy vàng ròng tinh luyện trăm lần chẳng thay đổi, ngỡ đó là diệu tánh cùng cực. Nhưng ngũ thông tiên nhân dùng các thứ dược vật, đủ cách nung luyện, sẽ có thể hóa các thứ như đất, đá v.v… đều thành chất vàng báu. Nếu có ai ăn vào, sẽ thọ dài lâu, thần thông biến hóa không ngằn mé! Hãy nên biết trong tánh chân thật của vàng, luôn có lực dụng như thế, nhưng người đời do chẳng có phương tiện bí mật, chẳng thể đạt được như thế! Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại như thế: Nếu dùng đại bi vạn hạnh nung luyện đủ mọi cách, sẽ thành tựu nghiệp thần biến gia trì chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, chớ nên chưa đắc mà nói là đã đắc, giữ khư khư sơ tâm, ngỡ đó là cực quả!

           

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vô thỉ sanh tử ngu đồng phàm phu chấp trước ngã danh, ngã hữu, phân biệt vô lượng ngã phần. Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngã chi tự tánh, tắc ngã, ngã sở sanh. Dư phục kế hữu thời, địa đẳng biến hóa. Du Già ngã kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh, nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời, nhược tôn quý, nhược tự nhiên, nhược nội ngã, nhược nhân lượng, nhược biến nghiêm, nhược thọ giả, nhược Bổ Đặc Già La, nhược thức, nhược A Lại Da, tri giả, kiến giả, năng chấp, sở chấp, nội tri, ngoại tri, Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, thanh, phi thanh.

          ()祕密主!無始生死愚童凡夫執著我名我有,分別無量我分。祕密主!若彼不觀我之自性,則我我所生。餘復計有時地等變化,瑜伽我建立淨、不建立無淨,若自在天、若流出及時、若尊貴、若自然、若內我、若人量、若遍嚴、若壽者、若補特伽羅、若識、若阿賴耶、知者見者、能執所執、內知外知、社怛梵、摩奴闍摩納婆 、常定

生、聲非聲。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Phàm phu ngu muội như trẻ nhỏ sanh tử từ vô thỉ chấp trước danh xưng Ta, ta có, phân biệt vô lượng điều thuộc về ngã. Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngã, thì ngã và ngã sở (cái thuộc về ta) sẽ sanh ra. Ngoài ra còn chấp trước có thời, địa v.v… biến hóa, Du Già ngã, kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh, hoặc [chấp trước ngã là] Tự Tại Thiên, hoặc ngã là lưu xuất và thời, hoặc là tôn quý, hoặc [cho rằng các pháp là] tự nhiên, hoặc là chấp nội ngã, chấp [ngã có] phân lượng tùy thuộc thân người, hoặc chấp ngã trang nghiêm trọn khắp, hoặc chấp ngã là thọ giả, chấp ngã là Bổ Đặc Già La, hoặc chấp ngã là thức, hoặc chấp ngã là A Lại Da, hoặc là cái có thể biết, có thể thấy, là cái có thể chấp trước, hoặc là cái bị chấp trước, nội tri (nhận biết các pháp trong thân tâm), ngoại tri (nhận biết ngoại cảnh), là Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, là âm thanh, hoặc chẳng phải âm thanh).

 

          Kế đó, giải đáp ý nghĩa “tâm tương tục”. Muốn giảng rõ nguyên do sanh khởi tối sơ của tịnh tâm, trước hết bèn nói về cái tâm trái nghịch lý của phàm phu giống như trẻ nít ngu muội! Đối với “vô thỉ sanh tử”, Trí Độ Luận nói: “Thế gian dù chúng sanh hay pháp, đều chẳng có khởi đầu”. Trong kinh, đức Phật dạy: - Vô minh phú ái sở hệ, vãng lai sanh tử, thỉ bất khả đắc, nãi chí Bồ Tát quán vô thỉ diệc Không, nhi bất đọa hữu thỉ kiến trung” (Vô minh che lấp, ái ràng buộc, qua lại sanh tử, chẳng thể tìm được chỗ khởi đầu, cho đến Bồ Tát quán vô thỉ cũng là Không, chẳng đọa trong kiến chấp có khởi đầu). Từ ngữ “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội) như trong phần trên đã nói. Từ ngữ “phàm phu” dịch sát nghĩa thì phải là “dị sanh”, ý nói: Do vô minh bèn theo nghiệp thọ báo, chẳng được tự tại, đọa trong đủ mọi đường, hình dạng, sắc tâm mỗi mỗi đều sai khác. Vì thế nói là “dị sanh”. Cái Ngã được chấp trước ấy chỉ là ngôn ngữ, chẳng có sự thật; vì thế nói là “chấp trước ngã danh”. Nói “ngã hữu” (ta có) tức là “ngã sở” (cái thuộc về ta). Đối với cái Ngã như thế, các điều chấp trước bởi ngã, như mười sáu món tri kiến v.v… theo từng sự mà sai biệt vô lượng bất đồng; do vậy, gọi là “phần”.

          Kế đó, giải thích nguyên do của phân biệt hư vọng, cho nên nói: “Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngã chi tự tánh, tắc ngã, ngã sở sanh” (Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngã, thì ngã và ngã sở sẽ nẩy sanh). Nếu họ quan sát các Uẩn thảy đều từ các duyên mà sanh, trong ấy gì là ngã? Ngã trụ ở chỗ nào? Chính là ở nơi uẩn khác với uẩn tướng ư? Nếu có thể tìm cầu kỹ càng, cặn kẽ như thế, sẽ đắc chánh nhãn. Nhưng họ chẳng tự quan sát, chỉ lần lượt truyền bảo nhau, từ lâu xa đến nay đã quen vâng theo cách nhìn ấy, cho rằng Ngã ở trong thân, có thể tạo tác và trưởng dưỡng, thành tựu các căn, [chấp chặt rằng]: “Chỉ có như thế mới là đạo rốt ráo, những điều khác đều là vọng ngữ!” Do bởi lẽ này, họ được gọi là “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội).

          Kinh nói “phục kế hữu thời” (lại chấp trước có thời gian), ý nói: Hết thảy các thứ tốt xấu trong trời đất đều lấy thời làm nhân. Như có bài kệ rằng: “Thời lai chúng sanh thục, thời chí tắc thôi xúc, thời năng giác ngộ nhân, thị cố thời vi nhân” (Thời đến [căn cơ của] chúng sanh sẽ chín muồi, thời tới liền thúc giục, thời có thể giác ngộ con người, vì thế thời làm nhân). Cũng có kẻ nói: “Tuy hết thảy người và vật chẳng phải do thời tạo ra, nhưng thời là cái nhân bất biến, là pháp thật sự có, do vi tế nên chẳng thể thấy. Do có cái quả như hoa, trái v.v… mà có thể biết là có thời. Vì lẽ nào? Do thấy quả, liền biết là có nhân. Do thời pháp bất hoại, nên nó là thường”. Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của Thời mà sanh chấp trước hư vọng như thế.

          Kinh nói “địa đẳng biến hóa” (các thứ như đất, nước v.v… biến hóa), tức là đối với đất, nước, lửa, gió, hư không, mỗi mỗi đều chấp là chân thật. Hoặc nói đất là cái nhân của vạn vật, do hết thảy chúng sanh và vạn vật nương vào đất mà sanh thành. Do chẳng quán tự tánh của đất chỉ từ các duyên hòa hợp mà có, nên sanh ra kiến chấp ấy, tưởng rằng “cúng dường đất, sẽ được giải thoát”. Kế đó, có người chấp nước có thể sanh ra vạn vật, đối với gió và lửa cũng thế. Hoặc chấp “vạn vật sanh từ hư không”, cho rằng hư không là nhân của sự giải thoát thật sự, phải nên cúng dường, thừa sự. [Đối với mỗi loại kiến chấp như thế], đều phải nên nói rộng [như trong phần biện định về kiến chấp đối với đất].

          Kinh nói “Du Già ngã” tức là nói về người học Định chấp trước “lý tương ứng với nội tâm là chân ngã. Chân tánh lặng trong, thường trụ bất động. Chỉ có điều này mới là đạo rốt ráo lìa khỏi nhân quả”. Do chẳng quán tự tánh của tự tâm, mới sanh kiến chấp như thế, ngỡ đó là chân ngã, [khăng khăng cho rằng] chỉ trụ trong lý ấy thì gọi là giải thoát!

          Kinh nói “kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh” (kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh) tức là trong ấy có hai thứ so đo:

          - Câu trước có ý nói kiến lập hết thảy các pháp, nương vào đó tu hành thì gọi là “tịnh”.

          - Câu sau ý nói “kiến lập pháp chẳng rốt ráo”. Nếu chẳng kiến lập cái được gọi là “vô vi” thì gọi là chân ngã, cũng  tức  lìa  khỏi  cái “tịnh”

được tu tập trong câu trước, cho nên nói là “bất tịnh”.

          Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của ngã, mà sanh kiến giải như thế, nói rộng thì như trong phần trên.

          Kinh nói “nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời” (hoặc chấp Tự Tại Thiên là chân ngã, hoặc chấp lưu xuất và thời [là chân ngã]), ý nói: Có một loại ngoại đạo chấp trước Tự Tại Thiên là thường, là đấng tự tại có thể sanh ra vạn vật. Như trong Thập Nhị Môn Luận gạn rằng: “Nếu chúng sanh là con của Tự Tại Thiên, [Tự Tại Thiên] sẽ chỉ nên dùng lạc để ngăn chặn khổ [cho chúng sanh], chẳng nên ban cho khổ, và cũng phải là chỉ cần cúng dường Tự Tại Thiên thì sẽ diệt khổ, được vui. Nhưng thật ra chẳng phải vậy, chỉ do chính mình tự tạo nhân duyên khổ lạc mà tự thọ báo, chẳng phải do Tự Tại Thiên tạo ra. Lại nữa, nếu Tự Tại Thiên tạo ra chúng sanh, ai sẽ lại tạo ra Tự Tại Thiên? Nếu Tự Tại Thiên tự tạo thì chẳng đúng, như các vật chẳng thể tự tạo. Nếu lại có người tạo ra [Tự Tại Thiên] thì [vị trời ấy] chẳng phải là Tự Tại nữa!” Như luận ấy đã nói cặn kẽ [để đả phá kiến chấp ấy]. Chấp trước “lưu xuất” đại lược giống như [chấp trước] kiến lập. “Kiến lập” là do tâm mà tạo thành hết thảy các pháp, còn “lưu xuất” ở đây thì giống như do sức thực hiện mà xuất hiện hết thảy các pháp. Ví như thợ gốm nặn đắp không ngừng mà sanh ra đủ loại hình tướng sai biệt. Kế đó nói về “thời”, sai khác chút ít với “thời” được ngoại đạo đề cao, chấp trước trong phần trên. [Để đả phá các kiến chấp này, đều có thể luận định] giống như [phần bác bỏ kiến chấp về] Đại Tự Tại Thiên.

          Kinh nói “tôn quý”, đó là nói về Na La Diên Thiên (Nārāyaa, tức thần Viṣṇu). Ngoại đạo chấp trước vị trời này tĩnh lặng, thường trụ, bất động, nhưng có kẻ phù tá, tạo thành muôn vật, ví như vị quốc vương “vô vi nhi trị”, quan lại vâng mạng mà hành xử. Do [ngoại đạo tin vị trời này] là vị chủ tể có thể tạo tác, không ai tôn quý hơn được, nên gọi là “tôn quý”. Lại nữa, trong loại kiến chấp đề cao này, “tôn quý” bao gồm trọn khắp đất, nước, gió, lửa, hư không. Xưa kia, có vị luận sư muốn khuất phục kẻ chấp trước, đề cao kiểu này, bèn đến miếu thờ vị trời ấy, ngồi trên thân của tượng vị trời ấy mà ăn uống. Phương Tây (Ấn Độ) coi thức ăn còn sót lại là thứ bất tịnh nhất, [các tín đồ] đều cùng phẫn nộ. Luận sư nói: “Đấng được các vị tôn sùng há chẳng phải là trọn khắp các tướng đất, nước, gió, lửa, hư không ư?” Họ đáp: “Đúng như vậy”. Luận sư nói: “Ngài chính là đất, nước, gió, lửa, tôi cũng như thế. Nhập vào lẫn nhau, có gì chẳng thể mà lại phẫn nộ vậy?” Bọn họ nín lặng, chẳng thể đáp gì được nữa! [Kiến chấp ấy] cũng do chẳng  quán  tự  tánh  của  ngã,

cho nên sanh ra chấp trước hư vọng như thế.

          Kinh nói “tự nhiên”, tức là có một loại ngoại đạo chấp trước “hết thảy các pháp đều tự nhiên mà có, chẳng có người tạo tác”. Như hoa sen sanh ra màu sắc tươi sạch là do ai nhuộm màu? Gai góc nhọn đầu, do ai vạt đẽo? Vì thế biết các pháp đều tự như thế. Có vị thầy vặn rằng: “Nay mắt thấy người đời tạo tác các thứ tàu, thuyền, nhà cửa v.v… đều từ các duyên mà có, chẳng do tự nhiên mà thành, sao lại nói tự sẵn như thế? Nếu bảo là ‘tuy có, nhưng chưa rõ ràng, cho nên cần phải có sức người phát khởi’ thì cũng chẳng đúng! Đã cần sức người phát khởi, tức là [được tạo thành] bởi các duyên, chẳng phải là tự nhiên mà có!”

          Kinh nói “nội ngã” tức là có kẻ chấp trong thân, ngoài tâm ra, còn có riêng một ngã tánh, có thể vận động cái thân này, tạo tác các sự nghiệp. Vặn rằng: “Nếu là như thế, ngã tức là vô thường. Vì sao vậy? Nếu pháp là nhân và từ nhân mà sanh, thì đều là vô thường. Nếu ngã vô thường, thì tội phước, quả báo thảy đều đoạn diệt”. Các luận nghĩa như thế tới phần So Lường sẽ nói cặn kẽ!

          Kinh nói “nhân lượng” tức là nói về kẻ chấp trước lượng của thần ngã to bằng thân người. Thân nhỏ thì [thần ngã] cũng nhỏ, thân lớn thì thần ngã cũng lớn. Trí Độ Luận nói: “Có kẻ chấp trước thần ngã lớn hay nhỏ tùy theo thân người, lúc chết đi thì thần ngã cũng xuất ra trước”, tức là tương đồng với chấp trước ở đây. Nhưng bọn họ đề cao ngã là pháp tự tại thường trụ, nay đã tùy theo cái thân mà lớn hay nhỏ, tức [ngã kiểu đó] là vô thường. Vì thế biết chẳng đúng!

          Kinh nói “biến nghiêm” (trang nghiêm trọn khắp) tức là nói về kẻ chấp trước “thần ngã có thể tạo các pháp, nhưng các sự trong thế gian được trang nghiêm tôn quý, thù thắng trọn khắp là do ngã tạo ra”, cũng chỉ hơi khác đôi chút với kiến chấp về Tự Tại Thiên! Như trong luận đã phá [chấp trước về] Tự Tại Thiên rằng: “Vì sao Tự Tại Thiên chẳng khiến cho con người đều vui hết, hoặc đều khổ hết, mà có kẻ khổ, người vui? Hãy nên biết đó là do yêu ghét mà sanh, nên chẳng tự tại”. Nay [chấp rằng] “trang nghiêm trọn khắp”, [vậy thì thần ngã] đã có thể tạo ra các phước lạc, nhưng chẳng thể dùng lạc để ngăn khổ, sao có thể gọi là “tự tại trọn khắp” cho được?

          Kinh nói “nhược thọ” (hoặc chấp vào thọ mạng) tức là có ngoại đạo chấp trước: “Hết thảy các pháp cho đến Tứ Đại, cỏ cây v.v… đều có thọ mạng. Như cỏ cây chặt rồi lại mọc, hãy nên biết là có mạng. Lại nữa, cỏ cây ban đêm bèn khép cuộn [lá], cũng nên biết chúng cũng có tình thức, do chúng ngủ nghê vậy”. Vặn rằng: “Nếu thấy đẵn chặt rồi lại mọc, cho là [thảo mộc] có mạng. Con người hễ bị chặt một chi, sẽ chẳng mọc lại nữa, há có phải là vô mạng ư? Như [cho rằng] cây xếp lá ban tối là có ngủ nghê, vậy thì nước chảy suốt đêm há là thường thức giấc ư?” Đều do chẳng quán tự tánh của ngã, cho nên nẩy sanh đủ mọi kiến chấp hư vọng!

          Kinh nói Bổ Đặc Già La (Pudgala), tức là có kẻ chấp trước cho rằng “hễ có Sổ Thủ Thú Giả[21] thì đều là một ngã, chỉ là tùy theo sự việc mà tên gọi khác nhau. Nếu có từ kiếp này sanh sang đời sau, tức thức thần là thường”. [Vặn rằng]: Nếu thức thần là thường, sao lại có tử sanh? Tử là từ chỗ này diệt, sanh là xuất hiện tại chỗ kia, cho nên chẳng thể nói thần thức là thường được! Nếu là vô thường thì sẽ chẳng có ngã. Như người theo bộ phái Độc Tử[22] và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ trong Phật pháp, hai bộ phái ấy chấp có pháp tam thế. Nếu chắc chắn có quá khứ, vị lai và hiện tại, thì sẽ giống như kẻ [chấp trước] Sổ Thủ Thú Giả [là thường hằng], đánh mất ba loại pháp ấn của Phật. Các vị Bồ Tát ở phương Tây đã lập ra các thứ lượng luận để phá các chấp trước ấy!

          Kinh nói “nhược thức” là nói có kẻ chấp trước “thức trọn khắp hết thảy mọi nơi, cho đến đất, nước, lửa, gió, hư không giới, thức đều trọn khắp trong đó”. Điều này cũng chẳng đúng. Nếu thức thần thường hằng, trọn khắp, nó có thể tự mình thấy, nghe, hay, biết; nhưng nay cần phải do căn và trần hòa hợp thì mới có thức sanh, tức là thần thức của ông vô dụng! Lại nữa, nếu thức thần trọn khắp trong năm đường, sao lại có sống chết vậy? Vì thế, biết chẳng phải là như thế!

          Kinh nói “A Lại Da” tức là có nghĩa “chấp trì, chứa đựng”, mà cũng có nghĩa là “phòng ở”. Có kẻ đề xướng “A Lại Da có thể duy trì cái thân này, có thể tạo tác, chứa đựng muôn vàn hình tượng, thâu lại thì chẳng có gì, tỏa ra thì đầy ắp thế gian”, chẳng giống ý nghĩa của thức thứ tám trong Phật pháp. Nhưng đối với mật ý của đức Thế Tôn nói “Như Lai Tạng là A Lại Da”, nếu trong Phật pháp mà chẳng quán Thật Tướng của tự tâm, cứ phân biệt, chấp trước thì cũng giống như ngã kiến vậy!

          Kinh nói “tri giả, kiến giả” tức là nói có ngoại đạo chấp “trong thân có cái thấy, cái biết, có thể biết các chuyện khổ, lạc v.v…” Lại có kẻ chấp “cái có thể thấy thì chính là chân ngã”. Luận Trí Độ nói: “Mắt thấy sắc là thấy, năm thức nhận biết là biết, đều chấp đó là ngã, tùy theo sự việc mà có tên gọi khác nhau”. Vặn rằng: “Ông nói ‘có thể thấy’ là ngã, vậy thì có thể nghe, có thể chạm, có thể biết, có phải là ngã hay không? Nếu đều là ngã, cảnh giới của sáu căn chẳng hề biết lẫn nhau. Một chẳng thể thành sáu, sáu chẳng thể gộp thành một. Nếu có phi ngã thì cũng ngờ giống như thế. Vì thế biết: Do căn và trần hòa hợp mà có cái được thấy biết, chẳng phải là có một cái ngã khác nữa!”

          Kinh nói “năng chấp, sở chấp” tức là có ngoại đạo nói: “Trong thân, ngoài thức tâm, riêng có một cái có thể chấp, đó chính là chân ngã, có thể vận động thân, khẩu, ý, tạo tác các sự nghiệp”. Hoặc có kẻ nói: “Cái có thể chấp chỉ là thức tâm, cảnh giới được chấp mới là chân ngã. Cái ngã ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Nhưng “trong, ngoài, thân, thọ, tâm, pháp”, tánh của chúng đều do duyên sanh, chẳng có tự tánh. Năng chấp và sở chấp trong ấy còn chẳng thể chấp, huống hồ có ngã ư? Cũng do chẳng quán tự tánh của ngã nói như thế.

          Kinh nói “nội tri, ngoại tri” cũng chính tên khác của “tri giả” (có thể biết) mà chia thành hai thứ chấp trước:

          - Có kẻ chấp nội tri là ngã, tức trong thân riêng có cái nội chứng, đó là chân ngã.

          - Hoặc coi ngoại tri là ngã, tức là cái có thể biết cảnh giới ngoại trần chính là chân ngã.

          Kinh nói Xã Đát Phạm (Jatāvat) tức là gần giống như ngoại đạo chấp trước tri giả, chỉ là do bộ phái nên khác biệt. Vì thế, đặc biệt nêu ra đó thôi.

          Kinh nói “nhược Ma Nô Xà” (hoặc chấp Ma Nô Xà, Mānusa), Trí Độ Luận dịch là Nhân, tức là chấp trước về con người, nếu dịch đầy đủ phải là Nhân Sanh. Đây là một bộ phái ngoại đạo tôn sùng Tự Tại Thiên, chấp trước con người do con người sanh ra, cho nên lấy đó làm tên. Đường Tam Tạng dịch thành Ý Sanh, chẳng đúng. Mạt Na (Manas) là Ý; ở đây nói Mạt Nô, âm thanh khác thì nghĩa cũng khác, do lầm lẫn [mà dịch như thế]!

          Kinh nói “Ma Nạp Bà” (Mānava), tức là thuộc bộ loại ngoại đạo tôn sùng Tỳ Nữu Thiên, dịch nghĩa chánh xác thì phải là Thắng Ngã, ý nói “ngã thù thắng nhiệm mầu nhất trong thân tâm”. Họ thường quán trong tâm, ngã to chừng một tấc. Trí Độ Luận cũng nói: “Có kẻ chấp thần ngã ở trong tâm, vi tế bằng hạt cải, thanh tịnh nên gọi là tịnh sắc, hoặc to bằng hạt đậu, hạt lúa mạch, cho đến chừng một tấc. Khi mới thọ thân, liền thọ ngã trước hết, ví như khung đỡ của cái tượng vậy. Tới khi thành thân, như tượng đã được trang hoàng”. Đường Tam Tạng dịch là Nho Đồng (儒童) cũng là sai. Nho Đồng trong tiếng Phạn là Ma Noa Bà, ở đây là Nạp, nghĩa khác hẳn, lầm mất rồi! (Hai danh hiệu này đều do Bồ Đề xà-lê (ngài Kim Cang Trí) giảng).

          Kinh nói “thường định sanh” tức ngoại đạo chấp ngã là thường trụ, chẳng thể phá hoại, tự nhiên thường sanh, chẳng có lại sanh nữa; cho nên lấy đó làm tên.        

Kinh nói “thanh, phi thanh”, Thanh tức là Thanh Luận ngoại đạo. Nếu âm thanh hiển hiện, họ chấp Thể của âm thanh vốn sẵn có, đợi duyên bèn hiển lộ, thể tánh thường trụ. Nếu thanh sanh khởi thì chấp thanh vốn sanh sẵn, đợi duyên mới sanh (hiển hiện), đã sanh bèn thường trụ. Bọn họ lại tự chia thành chấp trước khác biệt, như các kinh luận khác đã nói rộng. “Phi thanh” khác với chấp trước trên đây. Loại trước thì chấp thanh là thường hằng, trọn khắp, còn loại này đề xướng, bác bỏ thanh là không có, đọa vào [tà kiến] “chẳng có pháp thiện hay ác”, cũng coi “chẳng có âm thanh hay từ ngữ” là chân thật.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ngã phần, tự tích dĩ lai, phân biệt tương ứng, hy cầu thuận lý giải thoát. Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do như đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị trì trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh. Phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng. Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng. Phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng. Phục dĩ thử thí hoan hỷ, thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng, cập hiến tôn túc, thị đệ ngũ phu hoa. Phục dĩ thử thí phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử.

          ()祕密主!如是等我分,自昔以來分別相應,希求順理解脫。祕密主!愚童凡夫類猶如羝羊,或時有一法想生,所謂持齋。彼思惟此少分,發起歡喜,數數修習。祕密主!是初種子善業發生,復以此為因,於六齋日施與父母男女親戚,是第二牙種。復以此施授與非親識者,是第三疱種。復以此施與器量高德者,是第四葉種。復以此施歡喜授與伎樂人等及獻尊宿,是第五敷華。復以此施發親愛心而供養之,是第六成果。復次祕密主!彼護戒生天,是第七受用種子。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Các thứ kiến chấp thuộc về ngã như thế từ xưa tới nay, phân biệt tương ứng, mong cầu thuận lý giải thoát. Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội giống như con dê đực, hoặc là có lúc nẩy sanh một pháp suy tưởng, tức là trì trai. Họ tư duy pháp ấy chút phần, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó là chủng tử thiện nghiệp ban sơ phát sanh. Lại dùng đấy làm nhân, trong sáu ngày trai, bố thí cho cha mẹ, nam nữ thân thích. Đó là thuộc loại thứ hai, tức nẩy mầm. Lại dùng đó để thí cho người chẳng phải là thân thích, quen biết, đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ. Lại dùng đó để thí cho bậc có khí lượng cao cả, đức hạnh, thì đó là loại thứ tư, tức mọc lá. Lại dùng đó để thí cho người hoan hỷ, tấu nhạc v.v…và dâng lên bậc tôn túc, thì là loại thứ năm, tức trổ hoa. Lại dùng đó để thí cho người mà [chính mình] phát sanh tâm thân ái cúng dường, đấy là loại thứ sáu, tức kết quả. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Người giữ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy: Thọ dụng chủng tử).

 

          Trong kinh, nêu đại lược ba mươi sự, nếu [luận định cặn kẽ] theo từng loại sai biệt, ắt có vô lượng vô biên. Như người tĩnh tọa đắc Tứ Thiền, bèn chấp trước pháp ấy là thường lý chân thật, hoặc nẩy sanh ý niệm: “Ta là người đắc Thiền”. [Các chấp trước] như thế đều tương ứng với ngã phần, cứ theo đó mà suy, đều do chẳng quán Thật Tướng của ngã. Chỉ do từ lâu xa tới nay đã quen vâng theo kiến chấp ấy, ai nấy đều tự nói là “có bậc đại sư Bạc Già Phạm, thấy biết hết thảy, do khéo tu Du Già mà nay giác ngộ pháp ấy, bèn vì thế gian mà nói. Chỉ có đạo này là rốt ráo, chẳng có đạo nào khác nữa!” Như lúc kiếp sơ, riêng có một vị trời sanh trước hết vào Phạm giới (các tầng trời thuộc Phạm thiên), bèn nghĩ thế này: “Nếu có chúng sanh nào khác đến ở cùng ta, chẳng phải là tốt lắm ư?” Khi đó, có các vị trời ở cõi trên mạng chung, sanh vào cõi trời ấy. Vị đã sanh trước bèn bảo họ: “Do niệm lực của ta, ngươi được sanh vào nơi đây. Ngươi chính là do ta sanh ra”. Nhưng các vị trời kia cũng nghĩ thế này: “Vị này có thể sanh ra chúng ta”, liền tùy thuận, chấp là tối sơ có ngã. Từ đó trở đi, cho rằng Phạm thiên vương có thể tạo ra thế gian, lần lượt như thế sanh ra dị kiến, không thể ghi trọn. “Hy cầu thuận lý giải thoát”: Thuận lý theo âm tiếng Phạn là Du Kỳ (Yogi), tức là hành giả tu Du Già xưa kia, cho rằng người ấy đạt được chân giải thoát, là cốt lõi của vạn vật. Nay thuận theo đó để mong cầu giải thoát, cho nên nói như thế.

          Trên đây đều nhằm phá hoại các tâm trái nghịch lý đối với nhân quả trong và ngoài. Kế đó, nói đến cái tâm thuận lý tối sơ. Thuận thiện (điều thiện thuận theo chánh lý) tức là tám cái tâm của thế gian.

          Kinh nói “Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị trì trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội, giống như con dê đực có thể là có lúc nẩy sanh một pháp, tức là trì trai. Họ tư duy pháp ấy đôi chút, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó chính là chủng tử thiện nghiệp ban đầu phát sanh). “Đê dương” (羝羊, con dê đực) là loài súc sanh có bẩm tánh hèn kém nhất, chỉ nghĩ tới cỏ, nước, và chuyện dâm dục, ngoài ra chẳng biết gì nữa! Vì thế, thuận theo cách nói của phương Tây (Ấn Độ), dùng nó để sánh ví “ngu đồng phàm phu” (phàm phu như trẻ nít ngu muội) chẳng biết thiện ác nhân quả. Thế gian từ lâu xa tới nay đã lần lượt truyền thừa danh tự thiện pháp, nhưng do cái tâm trái lý, dẫu đủ cách truy cầu mà vẫn chẳng thể đạt được. Sau đó, bỗng dưng nẩy sanh ý niệm: “Ta nay bớt ăn, trì trai”, tức là thiện pháp, nhưng vẫn chưa phải là Bát Quan Trai Giới trong Phật pháp. Họ do bớt ăn, tự răn dè, cảm thấy duyên vụ giảm ít, khiến cho ta ăn uống dễ no đủ, chẳng sanh tâm nhọc nhằn truy cầu. Lúc bấy giờ, họ liền sanh chút phần tâm chẳng chấp trước, cõi lòng hoan hỷ, đạt được an ổn. Do thấy lợi ích ấy, bèn nhiều lượt tu tập, tức là thoạt ban sơ, hơi biết thiện ác nhân quả. Vì thế gọi là “chủng tử tâm”.

          Kinh nói “phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng” (Lại dùng điều ấy làm nhân, trong sáu ngày trai, thí cho cha mẹ và nam nữ thân thích, đó là loại thứ hai, tức nẩy mầm). “Lục trai nhật” tức là như Trí Độ Luận nói: “Ngũ thông tiên nhân thuở trước khuyên nhịn ăn trong những ngày đó, vừa thuận theo thiện pháp, lại tránh khỏi quỷ thần gây tai ương bất ngờ”, như trong luận ấy đã nói cặn kẽ! Do thấy ngưng dứt tham cầu, trong tâm đạt được lợi lạc, muốn tu tập pháp ấy cho được tăng trưởng, trong ngày trì trai bèn xả tài vật của chính mình để thí cho lục thân, tự nghĩ: “Ta chẳng còn lo âu gìn giữ, khiến cho người khác yêu kính, đạt được tiếng thơm hiếu nghĩa”. Do thấy nhân quả ấy, sanh ra hoan hỷ, thiện tâm tăng thêm đôi chút, giống như từ hạt giống nẩy mầm vậy.

          Kinh dạy: “Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng” (Lại dùng các thứ ấy để thí cho người chẳng phải thân thích, quen biết. Đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ), ý nói muốn thành tựu thiện pháp mà vâng giữ trai giới ấy, bèn tu tập tâm vô tham, huệ xả. Do nhiều lượt tu tập, thiện tâm dần dần tăng trưởng, lại có thể thí cho người chẳng phải là thân thuộc, quen biết. Do thấy lợi ích công đức của tâm bố thí bình đẳng, lúc bấy giờ, mầm thiện lại tăng rộng gấp bội, giống như khi nhánh mầm tươi tốt, nhưng chưa sanh trưởng. Vì thế gọi là “pháo chủng”.

          Kinh dạy “phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng” (lại dùng đó để thí cho bậc độ lượng, cao đức, tức là loại thứ tư, tức mọc lá), nghĩa là đã có thể tu tập huệ xả, nhờ vào cái nhân ấy, dần dần có thể thật sự chọn lựa cảnh bố thí: “Người như thế đức hạnh cao thắng, ta nay hãy nên thân cận để cúng dường”, tức là huệ tánh dần dần mở mang, dần dần gặp thiện tri thức vậy!

          Kinh dạy “phục dĩ thử thí, hoan hỷ thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng cập hiến tôn túc” (lại dùng sự bố thí ấy, hoan hỷ trao cho người tấu nhạc v.v… và dâng hiến bậc tôn túc), tức là huệ tánh dần dần mở mang, lại soi xét, biện định cảnh để thí, thấy lợi ích do lợi tha, vì người tấu nhạc có thể khuyến hóa đại chúng, nhằm khiến cho họ hoan hỷ, bèn thưởng công cho họ. Phàm các loại như thế nhiều lắm, cho nên nói là “đẳng”. Bậc tôn túc kỳ cựu, học rộng nghe nhiều, học hạnh cao thượng, xứng làm bậc thầy khuôn mẫu cho cõi đời, do có nhiều lợi ích đáng tuân phụng, bèn thúc giục cái tâm hoan hỷ bố thí, cũng do điều này khiến cho khi ta bố thí, tâm sanh hoan hỷ gấp bội. Đấy chính là loại “đơm hoa”.

          Kinh nói “phục dĩ thử thí, phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả” (lại dùng sự bố thí ấy, phát sanh tâm thân ái để cúng dường, đó là loại thứ sáu, tức kết thành quả): Tu tập thuần thục, không chỉ là hoan hỷ mà thôi, lại còn có thể dùng cái tâm thân ái để tôn kính, thực hiện bố thí cho người khác. Lại do nhân duyên bố thí trước đó, được nghe lợi ích bởi pháp, biết người ấy vốn sẵn có đức thù thắng, tức là có thể thoát lìa dục v.v… bèn thân cận để cúng dường. So với chủng tử ban đầu thì đây chính là cái tâm đã kết quả.

          “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử” (Lại nữa, Bí Mật Chủ! Người thủ hộ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy, thọ dụng chủng tử), tức là đã có thể trì trai, bố thí, thấy lợi ích đó, liền biết tam nghiệp bất thiện đều là nhân duyên gây suy não, ta hãy nên bỏ đi, trụ trong việc thủ hộ giới. Do thủ hộ giới, đời này đạt được các thiện lợi, có tiếng tốt to lớn, thân tâm an lạc, hiền thiện tăng trưởng gấp bội. Mạng chung, được sanh lên trời. Ví như trồng quả đã thành công, bèn hưởng thụ kết quả; vì thế gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại nói từ một hạt giống mà sanh thành trăm ngàn quả, hạt; mỗi quả, hạt lại sanh ra ngần đó [quả, hạt], lần lượt vun bồi chẳng thể kể xiết. Cái tâm thọ dụng quả trong hiện thời lại thành chủng tử cho tâm sau cũng giống như thế. Vì thế nói là “thọ dụng chủng tử”.

 

           (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Dĩ thử tâm sanh tử lưu chuyển, ư thiện hữu sở, văn như thị ngôn: ‘Thử thị thiên đại thiên, năng dữ nhất thiết lạc giả. Nhược kiền thành cúng dường, nhất thiết sở nguyện giai mãn, sở vị Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn đẳng, cập Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, thế sở tông phụng Hỏa Thiên, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên, Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà đẳng long, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, các các ưng thiện cúng dường”. Bỉ văn như thị, tâm hoài khánh duyệt, ân trọng cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Thị danh ngu đồng dị sanh sanh tử lưu chuyển vô úy, y đệ bát anh đồng tâm.

          ()復次祕密主!以此心生死流轉,於善友所聞如是言:此是天大天,與一切樂者。若虔誠供養,一切所願皆滿。所謂自在天、梵天、那羅延天、商羯羅天、黑天、自在子天、日天、月天、龍尊等,及俱吠濫、毘沙門、釋迦、毘樓博叉、毘首羯磨天,閻魔閻魔后、梵天后,世所宗奉火天、迦樓羅子天、自在天后、波頭摩、德叉迦龍、和修吉、商佉、羯句劍、大蓮俱里劍、摩訶泮尼、阿地提婆、薩陀難陀等龍,或天仙、大圍陀論師,各各應善供養。彼聞如是,心懷慶悅 ,殷重恭敬隨順修行 。祕密主!

是名愚童異生生死流轉無畏依第八嬰童心。

          (Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Do cái tâm ấy, sanh tử lưu chuyển, từ nơi bạn lành, nghe nói như thế này: “Các vị trời này to lớn trong các vị trời, có thể ban cho hết thảy sung sướng. Nếu kiền thành cúng dường, hết thảy điều ước nguyện sẽ đều thỏa, tức là nói tới Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn v.v… và Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca (Đế Thích), Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, Hỏa Thiên được cõi đời tôn thờ, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà v.v… các rồng, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, đối với mỗi vị ấy đều nên khéo cúng dường”. Người ấy nghe như thế, ôm lòng vui mừng, trân trọng, cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Đó gọi là cái tâm trẻ thơ thứ tám nương cậy vô úy của dị sanh như trẻ nhỏ ngu muội đang lưu chuyển trong sanh tử).

 

          Đã biết bậc đức hạnh tôn quý, đáng nên thân cận, cúng dường, lại thấy trì giới có thể sanh ra lợi lành, tức là dần dần biết nhân quả. Nay lại nghe thiện tri thức nói có vị đại thiên có thể ban cho hết thảy vui sướng, nếu kiền thành cúng dường, sở nguyện đều được mãn, ắt sẽ có thể khởi tâm quy y. Dẫu chưa nghe Phật pháp, nhưng biết các vị trời ấy do tu thiện hạnh mà đạt được thiện báo ấy. Lại dần dần tín giải, biện định tường tận phước đức thù thắng, lại nghe Phật pháp đặc biệt nhiệm mầu, ắt có thể quy y, tin nhận, cho nên là cái tâm tối thượng trong thế gian.

          Hỏi: Trong phần trước đã nói “Tự Tại Thiên đều là chấp trước tà vạy”, nay lại nói “quy y họ (các vị trời ấy) chính là cái tâm thế gian thù thắng”, có gì khác trước hay không?

          Đáp: Trước đó là tâm chẳng biết nhân quả, chỉ chấp trước các pháp do Tự Tại Thiên v.v… tạo tác. Nay do thiện căn chín muồi, ở trong sanh tử lưu chuyển mà cầu nương cậy, không sợ hãi, muốn phỏng theo hạnh nhân của họ (chư thiên) để cầu thành tựu cái quả thù thắng, cho nên chẳng giống [loại người] chấp trước trong phần trước.

          Thương Yết La (Śaṃkara) là tên gọi khác của Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara). Hắc Thiên (Mahākāla) có tên trong tiếng Phạn là Lỗ Nại La (Rudra), là quyến thuộc của Tự Tại Thiên. Long Tôn là các đại long. Câu Phệ Lạm (Kubera, Đa Văn thiên vương) v.v… đều là các vị đại thiên được thế gian tôn thờ. Phạm Thiên Hậu (vợ của Phạm Thiên) là tôn thần được thế gian tôn thờ. Nhưng trong Phật pháp, Phạm vương ly dục, chẳng có hậu phi. Từ Ba Đầu Ma (Padma) trở đi, tức là rồng Đắc Xoa Ca (Takṣaka), và rồng Hòa Tu Cát (Vāṣuki), rồng Thương Khư (Śaṅkha), rồng Yết Cú Trích Kiếm (Karkoṭaka), rồng Đại Liên Hoa (Mahāpadma), rồng Câu Lý Kiếm (Kulika), rồng Ma Ha Phán Ni (Mahāphaṇi), rồng A Địa Đề Bà (Ādideva), rồng Tát Đà, rồng Nan Đà v.v… đều là các tôn thần được thế gian thờ phụng. “Thiên tiên” là nói ngũ thông thần tiên, số nhiều vô lượng, do vậy chẳng kể tên. Vi Đà (Vedas) là bốn loại minh luận do Phạm vương diễn nói. Đại Vi Đà Luận Sư là người thọ trì các kinh đó, có thể dạy bảo, do có thể khai thị hạnh xuất dục. Vì thế đáng nên quy y. Trong các bộ loại ấy, Phạm vương giống như Phật, bốn kinh Vi Đà giống như mười hai bộ kinh, người truyền pháp ấy giống như hòa hợp tăng. Khi đó, họ nghe thế gian Tam Bảo như thế đó, hoan hỷ quy y, tùy thuận tu hành. Đó là tám chỗ quy y vô úy của phàm phu sanh tử vậy.

          Kinh nói “Bí Mật Chủ! Phục thứ, thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh” (Bí Mật Chủ! Lại nữa, đối với hạnh thù thắng, thuận theo lời nói ấy trụ trong thù thắng, sanh trí huệ cầu giải thoát) v.v… Tức là trong loại quy y vô úy thứ tám ấy, lại có tâm thù thắng. Đã nghe nói các loại Bạc Già Phạm thế gian như đã nói trên đây đáng nên cúng dường, quy y; sau đó, [người ấy] bèn sanh tâm: “Trong các loại Tam Bảo ấy, loại nào là tối thắng? Ta sẽ chọn đấng tốt lành để tùy thuận tu hành”. Do sức thiện căn trước đó, sẽ thuận theo pháp do họ đã nói mà trụ trong sự thù thắng, sanh trí huệ cầu giải thoát. Nhưng do chưa biết pháp duyên khởi, tất cả trí huệ quán Không đều chẳng rời khỏi đoạn và thường. Vì thế nói là “thường, vô thường, không”, chỉ tùy thuận lời nói như thế mà siêng năng tu học. Trong ấy, lại hai thứ:

          - Nếu cầu sanh trí giải thoát thì gọi là tâm thù thắng.

          - Đã chứng pháp Không thì gọi là tâm quyết định.

          Nếu tách ra để nói, gộp chung với các điều trước đó, sẽ thành mười tâm. Đức Thế Tôn muốn đối ứng với các điều đó để nói rõ trí huệ quán Không xuất thế, cho nên kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải Không, phi Không nghĩa, liễu tri đoạn thường, tuy tác phi hữu phi vô bình đẳng quán, tuyệt chư hý luận, nhiên diệc bất năng song ly thị kiến, do bỉ vị giải chánh nhân duyên cố” (Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó đã hiểu biết nghĩa “Không, phi Không”, biết rõ đoạn và thường, tuy đã quán “chẳng phải có, chẳng phải không, bình đẳng, dứt bặt các hý luận”, nhưng vẫn chẳng thể cùng lìa kiến giải ấy, do chưa thật hiểu nhân duyên chánh yếu). Nhưng trong Phật pháp, do biết có nhân duyên, nên lìa khỏi cái thấy “không có”. Do quán tự tánh là Không, cho nên chẳng sanh khởi cái thấy Có. Nếu ai lìa khỏi cái thấy “có, không”, tức là chẳng đọa trong “đoạn, thường”. Nếu chẳng liễu đạt nghĩa Không như thế, dẫu chẳng chấp trước “có, không”, lìa ngôn tuyệt tướng, rốt cuộc vẫn ngỡ phân biệt là cái tâm “chẳng phân biệt”! Giống như Trường Trảo Phạm Chí quán Thật Tướng của các pháp, chẳng thọ hết thảy các pháp, mà chấp nhận kiến chấp ấy. Chân Không lìa phân biệt, sao lại phân biệt Không? Nếu chẳng hiểu nghĩa Không, dẫu nhất tâm tinh tấn siêng cầu giải thoát, kẻ đó chẳng thể biết Niết Bàn! Vì thế, đức Phật nói: “Nhữ dục cầu Niết Bàn giả, ưng liễu tri duyên khởi chi Không, ly ư đoạn thường” (Ông muốn cầu Niết Bàn, hãy nên biết rõ cái Không trong duyên khởi, lìa khỏi đoạn và thường). Do cái tâm chủng tử ban sơ của người đó giảm bớt chút phần tham cấu (bụi nhơ do tham lam), tức là tùy thuận chút phần tịnh tâm. Từ đấy trở đi, trai giới và bố thí dần dần tăng thêm, tức là thế lực của tịnh tâm dần dần nẩy nở. Do sự huân tập ấy, sẽ có thể thật sự chọn lựa, biện định chỗ quy y, sanh khởi trí huệ cầu giải thoát. Nếu chẳng gặp thiện duyên, lại từ đoạn thường Không, lui vào tà kiến! Nhưng chủng tử của tám tâm ấy trọn chẳng hư mất! Nếu nghe Phật pháp, chỉ đối với đoạn thường Không, [nhằm đối trị], bèn dạy họ quán duyên khởi Không, liền nhập chánh đạo. Nếu là người chưa sanh chủng tử, chẳng có căn cơ, dẫu nói đủ mọi cách, kẻ đó trọn chẳng thể tin hiểu.

          Lại như hành giả đối với cái tâm thứ tám, khi cầu quy y chỗ chẳng sợ hãi trong sanh tử, nếu gặp thiện tri thức vì họ nói chỗ quy y Tam Bảo chân thật, do kẻ ấy dần dần biết nhân quả trong hiện đời, liền có thể tin nhận. Để chuyện ấy lại đó, như khi người ấy tu trai giới, nếu gặp thiện tri thức bảo rằng: “Ngươi do thấy điều lợi nào mà thực hiện trai giới, bố thí?” Người ấy liền trả lời: “Vì tôi quán do nhân duyên tham cầu, gìn giữ, mà có các thứ ưu khổ. Hễ thiểu dục hành thí, sẽ được trụ trong hoan hỷ, an lạc”. Khi đó, thiện tri thức bảo rằng: “Lành thay, thiện nam tử! Như đức Phật đã nói, chúng sanh do keo tham mà trong đời hiện tại có đủ mọi nỗi ưu khổ. Mạng chung, do nhân duyên ấy, đọa vào đường ác. Do tâm lìa khỏi cấu nhơ keo tham, hiện đời an lạc, có thanh danh to lớn, mạng chung sanh lên trời, về sau đắc Niết Bàn. Vì thế, ngươi nay càng phải nên dùng cái tâm thắng thượng để thọ pháp Bát Quan Trai”. Người đó nghe xong, liền tin nhận, tu hành đúng như lời dạy. Nếu là kẻ chẳng có cơ duyên, chỉ nói khổ hay lạc trong thế gian đều do Tự Tại Thiên tạo, hoặc từ các thứ như đất v.v… biến hóa, coi thời là nhân, nghe chút phần an tịnh của Bát Quan Trai Giới còn chẳng thể tin, huống hồ các chuyện sâu xa khác ư?

          Hỏi: Chủng tử tối sơ của tám cái tâm như thế lại dùng gì làm nhân?

          Đáp: Do thế gian từ lâu xa đến nay có danh xưng thiện ác, chủng tử từ đó mà sanh. Như chúng sanh trong thuở kiếp sơ tham ăn chất béo nơi đất. Lúc bấy giờ, nếu nghĩ ăn nhiều là bất thiện, ăn ít là thiện, hoặc thấy do nhân duyên ăn nhiều mà dấy lên lầm lỗi, liền nghĩ thế này: “Ta nay ít ăn vị này, thường tự ngăn dè, cũng chẳng phải là tốt lắm hay sao?” Nhưng chúng sanh ấy cũng chẳng biết nhân quả và hậu thế báo, chỉ lần lượt truyền dạy, coi nhân, nghĩa, hổ thẹn v.v… là các thứ thiện pháp. Hành giả có thể hành như thế, sẽ được thế gian cùng khen ngợi.

          Lại như lúc tiểu kiếp sắp chấm dứt, chúng sanh bỗng dưng phát tâm, biết lỗi hại của ác pháp thế gian, bèn khuyên bảo lẫn nhau cùng làm thiện sự. Lúc bấy giờ, cũng chẳng có thiện tri thức khuyên dạy khiến họ làm như thế! Hãy nên biết đó đều là vì sức nhân duyên do Thật Tướng của tự tâm huân tập. Như tối sơ chủng tử, khi lìa tâm cấu chừng bằng vi trần, liền hiển lộ thế lực của tịnh tâm như vi trần. Tuy nói là “sanh chủng tử thiện”, thật ra, chính là chẳng sanh mà sanh, do nó có tánh kiên cố, vẫn ở trong tâm thức của chúng sanh, trọn chẳng hư mất, chưa đạt tới khoảng giữa của đại kim cang luân nơi Thật Tế của tự tâm, lại chẳng có chỗ trụ. Lìa quả lại trở thành hạt, lần lượt vun bồi lẫn nhau, nhưng chẳng ra ngoài môn chữ A.  

Vì thế “tối thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng. Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng tri” (câu tối thượng Đại Thừa, tướng tương sanh của tâm, là đại bí mật của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết). Phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp Hoa cũng có ý nghĩa này.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Phục thứ, thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh, sở vị thường, vô thường, Không, tùy thuận như thị thuyết. Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải không, phi không, thường, đoạn, phi hữu, phi vô, câu bỉ phân biệt. Vô phân biệt, vân hà phân biệt Không? Bất tri chư Không, phi bỉ năng tri Niết Bàn. Thị cố, ưng liễu tri Không, ly ư đoạn thường.

          ()祕密主!復次殊勝行,隨彼所說中殊勝住求解脫慧生,所謂常無常空,隨順如是說。祕密主!非彼知解空非空、常斷、非有非無,俱彼分別。無分別云何分別空?不知諸空,非彼能知涅槃。是故應了知空離於斷常。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng là thuận theo lời người đó nói mà trụ thù thắng, cầu sanh trí huệ giải thoát, tức là nói thường, vô thường, Không, tùy thuận lời nói như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó hiểu không, phi không, thường, đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, mà đều là phân biệt. Vô phân biệt thì sao có thể phân biệt Không? Chẳng biết các thứ Không, sẽ chẳng thể biết Niết Bàn. Vì thế, phải nên hiểu rõ lìa đoạn, thường).

 

          Lại nữa, hành giả quy y Tam Bảo, tùy thuận luật nghi của Như Lai, thọ pháp Bát Quan Trai Giới trong một ngày, do được thánh giới che chở, bèn tịch tĩnh, an lạc. Do an lạc, bèn tin vào hạnh của hiền thánh, nhiều lượt tu tập, gọi là “sơ chủng tử”. Vì khiến cho chủng tử ấy tăng trưởng mà tu các điều thiện, cho đến do giới thuần tịnh mà quyết định sanh thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, được gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại do thân cận thiện tri thức, được lợi ích do nghe chánh pháp, chẳng khởi tâm quy y chi khác, sẽ là chỗ quy y chân thật vô úy thứ tám của phàm phu đang lưu chuyển trong sanh tử. Lại trụ trong sự thù thắng ấy, sanh trí huệ cầu giải thoát, quan sát, sanh ý tưởng quyết định. Từ đấy trở đi, liền phát khởi tâm sơ chủng tử của Thanh Văn Bồ Đề, đều nên nói theo phần phân biệt cặn kẽ đã nói trong phần trước. Cho đến tam thừa, mỗi địa đều trọn đủ mười tâm, đạt đến Đệ Thập Địa cũng trọn đủ chủng tử mầm, vỏ, lá, hoa quả v.v… sanh trí huệ cầu Phật địa, quán Tất Cánh Không, đạt tới kim cang tế.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn thuyết bỉ tâm”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ! Đế thính tâm tướng, vị tham tâm, vô tham tâm, sân tâm, từ tâm, si tâm, trí tâm, quyết định tâm, nghi tâm, ám tâm, minh tâm, tích tụ tâm, đấu tâm, tránh tâm, vô tránh tâm, thiên tâm, A Tu La tâm, long tâm, nhân tâm, nữ tâm, tự tại tâm, thương nhân tâm, nông phu tâm, hà tâm, bi trì tâm, tỉnh tâm, thủ hộ tâm, xan tâm, cẩu tâm, ly tâm, Ca Lâu La tâm, thử tâm, ca vịnh tâm, vũ tâm, kích cổ tâm, thất trạch tâm, sư tử tâm, hưu lưu tâm, ô tâm, La Sát tâm, thích tâm, quật tâm, phong tâm, thủy tâm, hỏa tâm, nê tâm, hiển sắc tâm, bản tâm, mê tâm, độc dược tâm, quyến sách tâm, giới tâm, vân tâm, điền tâm, diêm tâm, thế đao tâm, Di Lô đẳng tâm, hải đẳng tâm, huyệt đẳng tâm, thọ sanh tâm.           

()爾時金剛手復請佛言惟願世尊說彼如是佛告金剛手祕密主言祕密主諦聽心相謂貪心無貪心瞋心慈心癡心智心決定心疑心暗心明心積聚心鬪心諍心無諍心天心阿修羅心龍心人心女心自在心商人心農夫心河心陂池心井心守護心慳心狗心狸心迦樓羅心鼠心歌詠心舞心擊鼓心室宅心師子心鵂鶹心烏心刺心窟心風心水心火心泥心顯色心板心迷心毒藥心羂索心械心雲心田心鹽心剃刀心彌盧等心海等心穴等心受生心     

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn nói các tâm đó”. Nói như thế xong, đức Phật bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe tướng trạng của tâm, tức là tâm tham, tâm chẳng tham, tâm sân, tâm từ, tâm si, tâm trí, tâm quyết định, tâm nghi, tâm tối, tâm sáng, tâm tích tụ, tâm đấu đá, tâm tranh chấp, tâm không tranh chấp, tâm trời, tâm A Tu La, tâm rồng, tâm người, tâm nữ, tâm tự tại, tâm con buôn, tâm nông phu, tâm sông, tâm ao chuôm, tâm giếng, tâm thủ hộ, tâm keo kiệt, tâm chó, tâm chồn, tâm Ca Lâu La, tâm chuột, tâm ca vịnh, tâm múa, tâm đánh trống, tâm nhà cửa, tâm sư tử, tâm cú vọ, tâm quạ, tâm La Sát, tâm châm chích, tâm hang hốc, tâm gió, tâm nước, tâm lửa, tâm bùn, tâm hiển sắc, tâm như miếng ván, tâm mê, tâm thuốc độc, tâm như dây trói, tâm cùm, tâm mây, tâm ruộng, tâm muối, tâm dao cạo, tâm bằng Di Lô (núi Tu Di), tâm như biển, tâm như hố, tâm thọ sanh).

 

          Đây là giải đáp câu hỏi về tướng trạng của các tâm trong lời hỏi trước đó. Trước hết, [đức Phật] nêu ra sáu mươi cái tâm rồi giải thích tướng của chúng.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ vân hà  tham  tâm? Vị  tùy  thuận  nhiễm

pháp. Vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp.

          ()祕密主彼云何貪心謂隨順染法云何無貪  謂隨順無染法

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là tâm tham? Tức là tâm tùy thuận nhiễm pháp).

 

          Ý nói đắm nhiễm tiền cảnh[23], tức là ô nhiễm tịnh tâm. Nếu tùy thuận tu hành pháp ấy, sẽ gọi là “có tâm tham”. Do tâm pháp vi tế khó biết, nhưng quán các sự nghiệp do người ấy đã làm, ắt có tướng lộ rõ ra ngoài. Ví như nhìn vào tướng trạng của khói, sẽ có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa. Vì thế, các câu [nói về tướng trạng các tâm ở đây] phần nhiều dựa theo sự tùy thuận tu tập để giải nghĩa, cho nên có thể phỏng theo nghĩa đó. Các tâm ấy đều do [hành nhân] chưa đắc tâm xuất thế, chúng chính là các thứ tâm dấy lên xen tạp với điều thiện. Nếu hành giả khéo biết chân ngụy, giống như nông phu chú trọng trừ cỏ dại để giúp cho lúa tươi tốt, thế lực của tịnh tâm sẽ dần dần tăng trưởng. Chớ nói đó là nhân duyên sự tướng, thốt lời coi thường, khiến cho cái tâm bị chìm đắm trong đó mà chẳng hay biết!

          Thứ hai, “vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp” (Thế nào là tâm chẳng tham? Tức là tùy thuận pháp vô nhiễm). Trái nghịch tâm trước đó, cho đến đối với chỗ tốt lành đáng nên tiến nhập, mong cầu, cũng chẳng sanh lòng mong ưa. Vì thế, chẳng nhiễm thiện pháp sẽ chướng ngại mầm thiện. Tuy [cái tâm này] có cùng tên gọi với tâm chẳng nhiễm ô, nhưng là hai chuyện khác biệt, cần phải quán sát rất kỹ. Vì thế, hành giả chỉ quán Thật Tướng của tâm tham, tự nhiên lòng tham chẳng ô nhiễm cái tâm được, chớ nên khởi hạnh “chẳng tham” không có trí huệ như vậy!

 

          (Kinh) Vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp. Vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp. Vân hà si tâm? Vị tùy thuận tu bất quán pháp. Vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp. Vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng như thuyết phụng hành. Vân hà nghi tâm? Vị thường thâu trì bất định đẳng sự. Vân hà ám tâm? Vị ư vô nghi lự pháp, sanh nghi lự giải. Vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành. Vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất, vi tánh. Vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh. Vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sanh thị phi. Vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả.  

()云何瞋心謂隨順怒法云何慈心謂隨順修行慈法云何癡心謂隨順修不觀法云何智心謂順修殊勝增上法云何決定心教命如奉行云何疑心謂常收持不定等事云何闇心謂於無疑慮法生疑慮解云何明心謂於不疑慮法無疑慮修行云何積聚心謂無量為一為性云何鬪心謂互相是非為性云何諍心謂於自己而生是非云何無諍心謂是非俱捨

          (Kinh: Thế nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ. Thế nào là tâm từ? Tức là tùy thuận pháp tu hành lòng từ. Thế nào là tâm si? Tức là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát. Thế nào là tâm trí? Tức là tùy thuận tu tập pháp tăng thượng thù thắng. Thế nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy, phụng hành đúng như đã nói. Thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp các sự, phân vân chẳng quyết định được. Thế nào là tâm tối tăm? Tức là tâm đối với pháp chẳng đáng lo ngờ mà sanh sự hiểu biết lo ngờ. Thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng lo ngờ, bèn tu hành chẳng lo ngờ. Thế nào là tâm tích tụ? Tức là có tánh gom vô lượng pháp vào một pháp. Thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau. Thế nào là tâm tranh chấp? Tức là đối với chính mình mà sanh thị phi. Thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ).

         

          Thứ ba, “vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp” (thế nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ). “Giận” tức là sân tâm dấy động, sự được lộ rõ ra ngoài. Do tâm pháp khó biết, nên dùng chuyện tùy thuận, tu theo pháp giận dữ để giải thích. Nếu nhiều lượt dấy lên tướng chẳng tịch tĩnh như thế, biết ngay là tướng sân tâm. Nhưng đối với các duyên ấy, hễ quán sát sân tâm tự chẳng trụ vào đâu, thì chướng ấy chẳng    sanh!

          Thứ tư, “vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp” (thế nào là từ tâm? Tức là tùy thuận tu hành pháp thuộc lòng Từ). Lòng Từ này cũng trái nghịch tướng sân. Lòng Từ mà có tâm cấu ái kiến, thì chẳng phải do thiện chủng tử sanh khởi. Chữ Từ trong câu trước là xét theo nội tâm, chữ Từ trong câu sau là sự nghiệp tạo tác thuộc tướng bên ngoài. Đã nhận biết rồi, chỉ cần đối trị lỗi lầm gây trở ngại cho đạo, dần dần chuyển thành tu Từ vô lượng tâm. Đó chính là cách đối trị.

          Thứ năm, “vân hà si tâm? Vị thuận tu bất quán pháp” (thế nào là tâm si? Chính là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát), ý nói: Chẳng xem xét thiện, ác, đúng, sai như đã nói trong phần trên; hễ gặp gỡ [bất cứ pháp nào], đều liền tin nhận. Phàm đối với sự nghiệp tạo tác, chẳng thể trước hết dùng huệ tâm để phân biệt, so lường đúng, sai. Do có nhiều lầm lạc như thế, đều là tướng si tâm vậy!

          Thứ sáu, “vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp” (thế nào là trí tâm? Tức là thuận tu pháp tăng thượng thù thắng), ý nói: Người ấy đối với các thứ [do người khác] đã nói, đều dùng trí để phán định, chọn lựa điều này khá, điều kia kém, điều này nên thọ, điều kia chẳng nên thọ, chọn lấy điều thù thắng, tăng thượng để hành, tức là tướng vô si. Nhưng đối với pháp vượt ngoài khả năng suy lường của con người, chẳng thể dùng trí lực để suy tính, cân nhắc, chỉ có kẻ tin thì mới có thể nhập. Vì thế, quán sát nạn Thế Trí Biện Thông là cách để đối trị cái tâm này.

          Thứ bảy, “vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng, như thuyết phụng hành” (thế nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy bảo, phụng hành đúng như đã nói).

Thứ tám, “vân hà nghi tâm? Vị thường thâu trì bất định sự đẳng” (thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp, nắm giữ các sự bất định). Nay trước hết giải thích cái tâm nghi, hòng dễ dàng hiểu rõ tâm tướng quyết định. [Điều thứ tám có ý nói] người ấy hễ nghe điều gì, đều sanh tâm chẳng quyết định. Như khi thọ giới, tự sanh tâm nghi: “Ta nay nhất định đắc giới, hay là chẳng đắc giới?” Hoặc ngờ thầy, nghi pháp, mọi chuyện đều là như vậy. Như người hành đạo, do cái tâm nghi hoặc, chẳng thể tiến lên được. Trí Độ Luận có bài kệ rằng: “Nãi chí thí như quán kỹ lộ, hảo lợi giả ưng trục” (Cho đến ví như thấy ngõ rẽ, nên theo ngả nào có lợi hơn) để đối trị cái tâm ấy. Lại nữa, tâm quyết định tức là hễ nghe bậc thiện hữu đúng pháp dạy bảo, liền lập tức chẳng sanh ngờ lo, chí tâm phụng hành; nhưng cũng nên dùng trí huệ để quán sát hòng sanh tâm quyết định chân chánh.

          Thứ chín, “vân hà ám tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, sanh nghi lự giải” (thế nào là tâm tối tăm? Tức là đối với pháp chẳng ngờ lo mà sanh kiến giải ngờ vực, lo lắng), ý nói: Như đối với Tứ Đế, bất tịnh, vô thường v.v… người trí trong thế gian chẳng nên sanh nghi, nhưng người ấy nghe [các pháp đó], ôm lòng do dự, như ban đêm trông thấy gốc cây cụt, nẩy sanh đủ thứ tâm suy đoán. Nếu thấy có tướng như thế, hãy nên biết là do tâm tối tăm khiến thành ra như vậy!

          Thứ mười, “vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành” (thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng ngờ lo, bèn tu hành chẳng ngờ lo). Ý nói: Đối với pháp thuộc loại quyết định pháp ấn, chẳng thể ngờ lo, hễ được nghe bèn thấu hiểu, tin tưởng. Hãy nên biết đó là tâm sáng suốt. Nhưng trong ấy, nếu có pháp nào vượt ngoài khả năng lãnh hội của người ấy, sẽ trở thành cái tâm chướng đạo. Trụ trong huệ sẽ là cách đối trị.

          Thứ mười một, “vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất vi tánh” (thế nào là tâm tích tụ? Tức là người ấy có tánh gom vô lượng pháp thành một pháp), ý nói: Người ấy do đối với một chuyện đã sanh tín giải, lại nghe các thứ pháp khác lạ, đều gom chung thành một. Như người đã học được một môn tam-muội, thấy các chuyện thù thắng sai biệt trong vô lượng pháp môn nơi các kinh giáo khác, đều nói “các pháp ấy nhằm định tâm. Lìa ngoài pháp này, sẽ chẳng có pháp nào khác”, nên gọi là tâm “tích tụ”.

          Thứ mười hai, “vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh” (thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau). Tức là nghe ngôn giáo do người khác nói ra, thường chuộng biện luận đúng, sai, bảo “nghĩa ấy phải nên như thế này, chuyện ấy chẳng phải vậy!” Giả sử [người khác nói lời hợp lý], cũng dùng đủ mọi phương tiện để bới móc ưu khuyết, muốn khiến cho người đó thất bại. Nếu người khác tới hỏi, cũng bới móc ưu khuyết [của lời hỏi ấy], bảo: “Câu hỏi này kỳ quái, ta chẳng nên đáp!” Hễ có tướng như thế hiện, hãy nên biết đó là tâm đấu đá vậy.

          Thứ mười ba, “vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sinh thị phi” (thế nào là tâm tranh chấp? Tức là sanh thị phi đối với chính mình), ý nói: Ôm lòng thị phi, như chính mình tư duy một nghĩa xong, lại tự tiện lập ra dị đoan, tìm cầu khuyết điểm. Dẫu có thiện tâm học hỏi từ người khác, nhưng đã được lãnh nhận rồi, lại tự mình bới móc ưu khuyết, bảo là “chuyện này phù hợp, chuyện kia chẳng hợp lý”. Hễ có nhiều tướng hiện như thế, hãy nên biết là tâm tranh chấp vậy!

          Thứ mười bốn, “vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả” (thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ). Chuẩn theo cách đọc trong bản tiếng Phạn, sau sáu mươi tâm đều nên có chữ Tánh, phỏng theo đó có thể biết. Ở đây có ý nói: Chẳng ôm lòng ủng hộ, hay phản đối. Tuy trước đó đã đề cao, tu tập, có kiến giải như thế, nay nghe nói khác đi, dẫu phi lý hay hợp lý, liền chấp nhận làm theo. Hoặc trước kia cho [điều nào đó] là đúng, nghe người khác nói điều đó là bất thiện, liền có thể sửa đổi. Tình chẳng chấp trước, đúng, sai đều bỏ. Hễ có tướng như thế, biết là tâm không tranh chấp. Đã nhận biết cái tâm vô ký, vô tránh [như thế đó], bèn tu tâm không tranh chấp nơi Thật Tướng của các pháp để đối trị nó.

 

          (Kinh) Vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu. Vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử. Vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài. Vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha. Vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp. Vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngã nhất thiết như ý. Vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu, tụ hậu, phân tích pháp. Vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn nhi hậu cầu pháp.

          ()云何天心謂心思隨念成就云何阿修羅心謂樂處生死云何龍心謂思念廣大資財云何人心謂思念利他云何女心謂隨順欲法云何自在心謂思惟欲我一切如意云何商人心謂順修初收聚後分云何農夫心謂隨順初廣聞而後求法

          (Kinh: Thế nào là tâm trời? Tức là tâm tư thuận theo ý niệm mà thành tựu. Thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử. Thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn. Thế nào là tâm người? Tức là nghĩ nhớ lợi lạc người khác. Thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp. Thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn cho ta được hết thảy đều như ý. Thế nào là tâm con buôn? Tức là thuận theo thói thâu gom, tích tụ các pháp rồi mới phân tích. Thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu rộng nghe rồi sau đó mới cầu pháp).

 

          Thứ mười lăm, “vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu” (thế nào là tâm trời? Tức là tâm suy tư thuận theo ý nghĩ mà đều thành tựu). Như chư thiên do quả báo đời trước, nếu có gì cần, sẽ chẳng cần phải đổ công dốc sức, nhưng đều tùy tâm mà sanh. Nhiều lượt khởi lên ý ưa thích như thế, hãy nên biết đó là “tâm trời”. Cũng do từng sanh trong cõi trên, cho nên có tập khí ấy. Như hành nhân Chân Ngôn chẳng mong mỏi quả báo to xa, chỉ để tự tâm dẫn dắt, sẽ có thể chướng ngại Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hãy nên tự hiểu biết, chớ tham Tất Địa[24] của thế gian; đó là cách đối trị cái tâm này!

          Thứ mười sáu, “vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử” (thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử). A là Phi (chẳng phải), Tu La là Thiên, do họ có quả báo giống như chư thiên, nhưng hạnh nghiệp và trụ xứ bất đồng, nên gọi như thế. Loại người này biết có lợi ích giải thoát, nhưng yêu thích sâu đậm quả báo vui sướng trong sanh tử, chẳng thể tăng tấn. Nếu hành nhân có tướng mạo này, sẽ gọi là “tâm A Tu La”. Cũng do đời trước đã từng sanh vào đường này, cho nên có tập khí ấy. Quán sát vô thường, khổ v.v… chính là cách đối trị cái tâm này.

          Thứ mười bảy, “vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài” (thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn). Tức là nhiều lượt nghĩ thế này: “Ta nên dùng phương tiện nào để của cải rộng lớn, trân bảo thù thắng nhiệm mầu?” Có nhiều ý tưởng tham lam chẳng chán như thế; đó chính là cái tâm của loài rồng. [Người ấy] cũng vốn từ loài rồng mà ra, nên sanh ra tập khí ấy, khiến cho hành nhân nguyện cầu Tất Địa thế gian, chướng ngại tịnh tâm xuất thế. Tư duy thiểu dục, tri túc, vô thường v.v… chính là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ mười tám, “vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha” (thế nào làm tâm người? Tức là suy nghĩ lợi lạc người khác). Tức là thích truy cầu ý niệm: “Kẻ nào đó có ân với ta, ta hãy nên dùng phương tiện như thế để khiến cho kẻ đó được lợi ích to lớn. Kẻ nào đó từng chẳng tạo lợi ích cho ta, nay phải trả đũa”, và các thứ toan tính so đo với người khác, lợi lạc chúng sanh như thế, đều là “nhân tâm”. Hãy tự nên nghĩ quán sát tâm hạnh, sớm cầu pháp lợi, đừng nên lăng xăng tư lự các duyên khác. Đó là cách đối trị cái tâm này!

          Thứ mười chín, “vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp” (thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp), cũng là cái tâm thuộc về loài người, nhưng chỉ khác ở chỗ đa dục. Như kinh dạy rằng: “Nữ nhân đa dục, bách bội ư nam tử, thường niệm sở kinh lạc sự, hoặc tưởng tha dung sắc, tư thái đẳng” (Người nữ đa dục gấp trăm lần nam nhân, thường nghĩ tới chuyện vui sướng đã trải qua, hoặc tưởng dung sắc, thần thái của người khác v.v…). [Cái tâm này] có thể ngăn chướng tịnh tâm. Đó cũng là do nhiều đời làm nữ nhân, bèn sẵn có tập khí ấy. Trong ấy, dùng các cách như Bất Tịnh Niệm Xứ v.v… để quán Thật Tướng nơi thân; đó là cách là đối trị cái tâm ấy.

          Thứ hai mươi, “vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngã nhất thiết như ý” (thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn ta hết thảy đều như ý): Tự Tại Thiên (Maheśvara) chính là thiên thần được ngoại đạo thờ phụng. Họ chấp trước rằng Tự Tại Thiên có thể tùy ý tạo tác các chúng sanh và chuyện khổ, lạc v.v… Người tu pháp này cũng thường hệ niệm, nguyện được như Bổn Tôn. Nếu hành nhân Chân Ngôn nhiều lượt nghĩ tới Tất Địa, mong điều gì hễ ta nghĩ tới sẽ đều thành tựu. Hãy nên biết đó là tâm tự tại, cũng là do tập khí trước kia khiến thành ra như vậy. Hãy nên quán các pháp đều thuộc các loại nhân duyên, chẳng hề tự tại để đối trị.

          Thứ hai mươi mốt, “vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu tụ, hậu phân tích pháp” (thế nào là tâm con buôn? Tức là tu theo kiểu trước thì thâu thập, tích tụ, sau đó phân tích pháp): Như con buôn trong cõi đời, trước là lo chú trọng tích trữ hàng hóa, sau đấy mới suy nghĩ, phân tích: “Vật này sẽ dùng ở chỗ nào, vật kia nên dùng ở xứ nọ, sẽ được lợi to”. Nếu hành nhân trước hết chú trọng học vấn trong, ngoài sao cho trọn vẹn rồi mới lại trù tính: “Đây là sách vở thế gian, hãy nên dùng ở chỗ như thế này. Đây là pháp Nhị Thừa, nên dùng tiếp độ kẻ nào đó. Đây là tư lương Đại Thừa, do duyên nào đó sẽ cần”. Đó gọi là cái tâm con buôn, cũng do tập khí trước kia khiến thành ra như thế. Tu trí “nhanh chóng” là cách đối trị cái tâm này, tức là hễ nghe pháp nào, liền quán nhân duyên sử dụng của nó, há phải chờ tích tụ cho nhiều rồi mới tìm cầu tác dụng ư?

          Thứ hai mươi hai, “vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn, nhi hậu cầu pháp” (thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu nghe pháp rộng rãi rồi mới cầu pháp). Như người học trồng trọt hỏi nông dân giàu kinh nghiệm: “Làm thế nào để biết đất tốt, phì nhiêu? Làm thế nào cày, bừa, cuốc, trồng? Thời tiết như thế nào? Thâu hoạch, cất giữ như thế nào?” Mỗi mỗi đều biết như thế rồi mới đổ công. Cái tâm này cũng thế, trước là chú trọng thưa hỏi người trí để rộng nghe các đạo phẩm, sau đấy mới hành, đều là do tập khí cũ sai khiến. Dùng lợi trí để đối trị, như nghe “các Uẩn vô thường”, liền biết Giới, Nhập duyên khởi v.v… đều cũng theo lệ đó. Lại như mũi tên độc ghim vào thân, há đợi ba

tháng hỏi han rộng khắp rồi mới nhổ ra ư?

 

          (Kinh) Vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp. Vân hà bi trì tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp. Vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm.

          ()云何河心謂順修依因二邊法云何陂池心謂隨順渴無厭足法云何井心謂如是思惟深復甚深

          (Kinh: Thế nào là tâm sông? Tức là tu thuận theo cái nhân thuộc pháp nhị biên. Thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp, chẳng chán đủ. Thế nào là tâm giếng? Tức là tư duy như thế đã sâu lại còn rất sâu).

 

          Thứ hai mươi ba, “vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp” (thế nào là tâm sông? Tức là tâm thuận tu nương theo nhân nơi pháp nhị biên). Tâm tánh này nương vào cả hai bên, hoặc lúc tu Thường, lúc tu Đoạn, hoặc lại tin tưởng cả tà lẫn chánh, như nước sông nương vào cả hai bờ, cuốn trôi mọi vật chẳng hề chắc chắn thuộc vào bên nào! Trong ấy, để đối trị, hành nhân chuyên tâm nơi một cảnh thì sẽ có thể đạt tới. Nếu tâm chẳng giữ chắc, sẽ chẳng có cách lẽ nào khiến cho sự nghiệp được hoàn tất!

          Thứ hai mươi bốn, “vân hà bi trì tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp” (thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp không chán đủ). Ví như ao chuôm, dù các giòng nước chảy vào, trọn chẳng chán đủ! Tâm này cũng thế, dù các chuyện như danh lợi, quyến thuộc v.v… tụ tập nơi thân này, trọn chẳng chán đủ, cho đến các pháp đã học cũng như thế. Như đã có được cháo sữa, chẳng chú trọng ăn liền, cứ khát vọng các vị khác. Trong ấy, dùng thiểu dục tri túc để đối trị [cái tâm này].

          Thứ hai mươi lăm, “vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm” (thế nào là tâm giếng? Tức là tư duy đã sâu lại càng rất sâu), ý nói: Cúi nhìn nước giếng, ước lượng cạn hay sâu khó biết. Tâm tánh này cũng giống như thế. Phàm tư duy điều gì, cũng đều ham chuộng sâu xa, tất cả chuyện thiện hay bất thiện đều mong sao kẻ khác chẳng thể dò lường được; các đồng sự cùng sống đều chẳng biết tâm hạnh của người ấy. Hãy nên biết đấy là tâm giếng. Tướng của pháp môn duyên khởi và thiện nhân đều cùng rõ ràng, dễ biết. Đó là cách đối trị.

 

          (Kinh) Vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật.

Vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp. Vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp. Vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc.

          ()云何守護心謂唯此心實餘心不實云何慳心謂隨順為己不與他法云何狸心謂順修徐進法云何狗心謂得少分以為喜足

          (Kinh: Thế nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, tâm khác chẳng thật. Thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận pháp ích kỷ, chẳng ban cho người khác. Thế nào là tâm chồn? Tức là thuận theo cách tấn tu thong thả. Thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần liền vui mừng cho là đủ).

 

          Thứ hai mươi sáu, “vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật” (thế nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, các tâm khác chẳng thật). Như người đời vì thủ hộ thân thể, tài vật v.v… của chính mình, cho đến thủ hộ các thứ như tường vây, lầu cao nhiều tầng, chẳng để cho chúng nó bị thương tổn. Tâm này cũng thế, thường thủ hộ thân tâm, cho đến như con rùa giấu kín sáu chi, chẳng để ngoại cảnh gây thương tổn. Tức là [quan niệm] chỉ có hạnh này là quý báu, các việc phải làm khác đều chẳng quý. Người học Thanh Văn phần nhiều sanh cái tâm này. Dùng kiêm thủ hộ người khác để đối trị [cái tâm này]. Lại có người tự bảo vệ kiến giải của chính mình, chẳng muốn bị các thứ dị luận của người khác gây thương tổn, bảo “các kiến giải khác thảy đều không thật”, cũng thuộc loại tâm này!

          Thứ hai mươi bảy, “vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp” (thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận ích kỷ, chẳng cho người khác), ý nói: Người ấy tất cả việc làm thảy đều vì bản thân. Do đó, đối với của cải, tài khéo, cho đến thiện pháp đều ưa giấu diếm, tiếc nuối, chẳng ban cho người khác. Hễ có các tướng ấy thì biết là tâm keo kiệt. Hãy dùng niệm Thí và vô thường v.v… để đối trị. Hãy nghĩ của cải, kỹ năng, nếu lúc vô thường xảy đến, chẳng có gì theo ta ra đi, nhưng cái thân này, niệm nào cũng đều chẳng thể tự bảo vệ, có gì đáng để tiếc nuối đâu nhỉ?

          Thứ hai mươi tám, “vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp” (thế nào là tâm chồn? Tức là tùy thuận cách thong thả tấn tu): Như mèo, chồn rình bắt chim chóc, nín thở, ngồi yên, chẳng cần phải đi lại nhanh nhẹn, chờ tới khi nó lọt vào tầm của mình rồi mới bắt. Người này cũng thế, được gặp, được nghe các thứ pháp yếu, nhưng chỉ để tâm lãnh nhận, ghi nhớ, chẳng chịu tiến hành (thật sự tu tập), mong đợi duyên tốt hội hợp rồi mới mạnh mẽ thực hiện. Lại như mèo, chồn, dẫu được nhân từ nuôi nấng đủ mọi lẽ, cũng chẳng hề biết ân. Nếu ai chỉ nhận lòng từ bi ban bố, lời lẽ tốt lành của người khác, mà chẳng nghĩ báo đáp; đó là cái tâm chồn. Hãy dùng [tâm tình] chẳng đợi thời, hễ được nghe liền hành ngay, thường nghĩ tới ân đức để đối trị.

          Thứ hai mươi chín, “vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc” (thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần đã vui mừng, cho là đủ). Do chó có nhân duyên phước mỏng, mong mỏi hèn kém, gặp được chút phần thức ăn thô lậu liền sanh tâm vui mừng, cho là đủ. Nếu hơi quá mức đó, sẽ chẳng phải là điều nó mong mỏi. Tâm này cũng thế, nghe chút phần thiện pháp, liền cho là hành chẳng thể hết được, chẳng còn cầu sự thù thắng hơn. Đấy là do tập khí của chủng tánh Thanh Văn sanh ra. Hãy dùng ý nhạo tăng thượng để đối trị, cho tới “tâm như biển cả, ít cũng chẳng cự tuyệt, nhiều cũng chẳng tràn đầy!”

 

          (Kinh) Vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp. Vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược. Vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngã đương thượng thăng chủng chủng thần biến. Vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngã đương kích pháp cổ. Vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp. Vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp. Vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm. Vân hà ô tâm? Ư nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm. Vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện. Vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, phát khởi ác tác vi tánh.

          ()云何迦樓羅心謂隨順朋黨羽翼法云何鼠心謂思惟斷諸繫縛云何舞心謂修行如是法我當上昇種種神變云何擊鼓心謂修順是法我當擊法鼓云何室宅心謂順修自護身法云何師子心謂修行一切無怯弱法云何鵂鶹心謂常暗夜思念云何烏心謂一切處驚怖思念云何羅謂於善中發起不善云何刺心謂一切處發起惡作為性

          (Kinh: Thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận pháp phe phái, kết bè kéo cánh. Thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy đoạn các trói buộc. Thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp như thế, ta sẽ đạt được các thứ thần thông biến hóa. Thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp. Thế nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu theo pháp để tự bảo vệ thân. Thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy các pháp chẳng khiếp nhược. Thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường suy nghĩ đen tối. Thế nào là tâm quạ? Trong hết thảy các chỗ, đều nghĩ kinh hoảng. Thế nào là tâm La Sát? Tức là trong các điều thiện, phát khởi bất thiện. Thế nào là tâm châm chích? Tức là trong hết thảy các chỗ, phát khởi tánh làm ác).

 

          Thứ ba mươi, “vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp” (thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận phương cách bè đảng, kéo bè kết cánh). Loài chim này thường cậy vào hai cánh để nâng đỡ thân, qua lại tùy ý, trở thành thế lực to lớn. Giả sử thiếu bớt lông vũ, sẽ chẳng thể làm được! Tâm này cũng thế, thường nghĩ có nhiều bè đảng và kẻ chầu hầu giúp cho mình thành tựu sự nghiệp. Lại do người khác làm rồi mình mới phát tâm, chẳng thể một mình tiến hành. Như thấy người khác làm lành, liền nghĩ: “Hắn còn có thể làm, sao ta chẳng làm?” Hãy nên nghĩ “tâm Bồ Đề dũng mãnh, như sư tử chúa chẳng nhờ vào bầu bạn giúp đỡ” để đối trị.

          Thứ ba mươi mốt, “vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược” (thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy cắt đứt các trói buộc). Như chuột thấy rương, tráp của người khác được buộc dây v.v… liền ưa phi lý tổn hại, cũng chẳng nghĩ: “Do làm đứt cái này, ta sẽ được lợi như thế!” Chỉ chẳng nghĩ ngợi gì mà làm. Tâm này cũng thế, đối với tất cả những điều liên quan và thành tựu, cứ thích chọc gậy bánh xe để phá hoại!

          Thứ ba mươi hai là “tâm ca vịnh”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn giải thích cái tâm này. A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) nói: “Đây là thí dụ truyền pháp âm. Như người đời sáng tác nhạc cho người khác, đã hay khéo rồi, lại vì người khác diễn tấu, phát ra đủ mọi âm thanh du dương, người nghe hoan hỷ. Tâm này muốn cho người khác nghe chánh pháp, ta sẽ đổi thành dùng đủ loại câu chữ trang nghiêm để phân biệt, diễn thuyết, khiến cho nơi nơi đều được nghe biết âm thanh mầu nhiệm ấy”. Phần nhiều là tập khí từ xưa của Thanh Văn, cũng có thể gây chướng ngại tịnh tâm. Hãy nghĩ “khi ta đã đắc nội chứng trí huệ tự nhiên rồi mới hiện trọn khắp sắc thân để diễn thuyết”. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi ba, “vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngã đương thượng thăng chủng chủng thần biến” (thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp thế, ta sẽ đạt được đủ thứ thần thông biến hóa): Như người đời khi các chi thể lay động thì gọi là “vũ” (múa). Thần biến cũng thế, hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, khiến cho người xem tâm tịnh, đẹp mắt. Đây phần nhiều là tập khí còn sót lại của Ngũ Thông (năm món thần thông). Nếu riêng chuộng nguyện cầu phương tiện Tất Địa như thế, thì cũng sẽ chướng ngại tịnh tâm. Hãy nên nghĩ tới Trừ Cái Chướng tam-muội, tâm chẳng tán loạn, dao động, thần thông chẳng khởi lên hay diệt mất để gia trì thần thông biến hóa, đừng tham chút hiệu nghiệm thế gian. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi bốn, “vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngã đương kích pháp cổ” (thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp). Trống có thể cảnh tỉnh, răn nhắc chúng sanh, khiến họ được giác ngộ. Như hành nhân nghĩ như thế này: “Chúng sanh ngủ say trong đêm dài, ta nên tập luyện đủ mọi thứ biện tài, gióng trống đại pháp để cảnh tỉnh họ giác ngộ”. [Tâm niệm ấy] cũng có thể chướng ngại tịnh tâm. Hãy nên nghĩ “sớm chứng vô lượng Ngữ Ngôn Đà-la-ni, dùng âm thanh mầu nhiệm của cái trống trời để bảo trọn khắp hết thảy đại chúng”, chớ để lợi ích nhỏ nhoi của thế gian ngăn ngại đại sự nhân duyên. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ ba mươi lăm, “vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp” (thế nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu tập pháp tự bảo vệ thân). Như người xây cất nhà cửa để bảo vệ thân này, tránh khỏi các thứ chuyện chẳng lợi ích như lạnh nóng, mưa, gió, đạo tặc, trùng ác v.v… Tâm này cũng thế: “Ta nên trì giới, tu thiện để tự phòng hộ, khiến cho đời này và đời sau xa lìa các nỗi khổ trong ác đạo”. Đấy phần nhiều là tập khí Thanh Văn. Hãy nên nghĩ cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh, chẳng riêng một mình ta. Đấy là cách đối trị.

          Thứ ba mươi sáu, “vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp” (thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy pháp chẳng khiếp nhược). Như trong các loài thú, sư tử tới đâu cũng đều vượt trội, chẳng hề khiếp nhược. Cái tâm này cũng thế, trong hết thảy các sự, đều muốn vượt xa hết thảy mọi người, tâm chẳng khiếp nhược. Tự tâm cho rằng chẳng có nạn sự, chẳng có gì có thể tranh đua hơn kém cùng ta được. Nếu đã tự nhận biết, hãy nên phát Thích Ca sư tử tâm, khiến cho hết thảy chúng sanh thù thắng trọn khắp, chẳng có hơn kém. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi bảy, “vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm” (thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường nghĩ nhớ đêm tối). Loài chim này ở chỗ sáng bừng sẽ chẳng thể làm gì, ban đêm thì sáu căn nhanh nhẹn. Nếu hành giả ban ngày tuy được nghe, tụng niệm, tu tập, nhưng mờ mịt, chẳng đạt được thiện xảo, đến tối nghĩ nhớ chuyện đã làm, suy tính lần nữa, sẽ liền hiểu rõ. Cho đến tu Thiền Quán v.v… cũng coi chỗ tối tăm là chỗ thù thắng. Nếu đã nhận biết, hãy nên nghĩ “sáng tối bình đẳng”, khiến cho tâm ý chẳng dấy lên phân biệt ngày đêm. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi tám, “vân hà ô tâm? Vị nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm” (thế nào là tâm quạ? Tức là trong hết thảy chỗ, nghĩ nhớ kinh sợ). Như chim quạ, nếu có người do tâm tốt lành mà gần gũi, nuôi nấng, hoặc kẻ tìm cách lợi dụng, nó đều sanh lòng ngờ vực, sợ hãi. Cái tâm này cũng giống như thế, đối với bạn lành muốn tạo lợi ích và kẻ hãm hại, gây khốn đốn, đều nhất loạt ôm lòng dò xét, xa cách, ngờ vực, sợ hãi. Cho tới khi trì giới, tu điều thiện, cũng ôm lòng kinh sợ đối với sanh tử. Nếu đã nhận biết, hãy nên tu tâm an định vô úy. Đấy là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ ba mươi chín, “vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện” (thế nào là tâm La Sát? Tức là ở trong điều thiện, phát khởi bất thiện). Như người thấy làm việc thiện, luôn nghĩ là bất thiện. Đức Phật nói “tạo các tháp miếu, đắc vô lượng phước”, nhưng kẻ đó nói ngược lại như thế này: “Do chuyện này, đâm ra tổn hại vô lượng trùng nhỏ, phiền nhiễu thí chủ, lợi ích chỗ nào? Sẽ chịu khổ báo”. “Phát khởi” là nói sanh khởi các tâm bất thiện như thế đó. Trong ấy, chỉ quán công đức lợi ích, chẳng nghĩ tới khuôn khổ để đối trị.

          Thứ bốn mươi, “vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, ác tác vi tánh” (thế nào là tâm đâm chọc? Trong hết thảy các chỗ, quen tánh làm ác). Giống như rừng gai, ở mọi nơi đều gây nhiều tổn hại, khiến cho người gần nó bất an. Tâm này cũng thế. Nếu làm thiện sự như bố thí to lớn v.v…, đã làm xong liền sanh tâm hối tiếc. Nếu làm chuyện ác xong, lại tự suy nghĩ, cũng ôm lòng thẹn thùng, sợ hãi. Vì thế, thường ôm lòng làm ác, lo lắng chẳng yên. Ở đây, cách đối trị là nếu có sai phạm, liền nhanh chóng sám trừ, đừng sanh hối tiếc. Hành thiện sự, cũng nên tự tư duy, sanh tâm vui mừng.

 

          (Kinh) Vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp. Vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ, phát khởi vi tánh. Vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp. Vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt tánh. Vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh. Vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, xả khí dư thiện cố. Vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị. Vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp. Vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngã phược vi tánh. Vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh.

          ()云何窟心謂順修為入窟法云何風心謂遍一切處發起為性云何水心謂順修洗濯一切不善法云何火心謂熾盛炎熱性云何顯色心謂類彼為性云何板心謂順修隨量法捨棄餘善故云何迷心謂所執異所思異云何毒藥心謂順修無生分法云何羂索心謂一切處住於我縛為性云何械心謂二足止住為性

          (Kinh: Thế nào là tâm hang hốc? Tức là thuận theo, tu pháp vào hang. Thế nào là tâm gió? Tức là tâm có tánh phát khởi trọn khắp hết thảy mọi nơi. Thế nào là tâm nước? Tức là tùy thuận tu tập để gột rửa hết thảy các pháp chẳng lành. Thế nào là tâm lửa? Tức là tánh nóng bức hừng hực. Thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác. Thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp vừa sức mình, vứt bỏ các điều thiện khác. Thế nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ. Thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp chẳng còn lẽ sống. Thế nào là tâm như dây trói? Tức là trong hết thảy mọi nơi, tánh trụ trong sự trói buộc của ngã. Thế nào là tâm cùm? Tức có tánh chất kìm hãm hai chân [chẳng thể tiến cao hơn  được]).

 

          Thứ bốn mươi mốt, “vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp” (thế nào là tâm hang hốc? Tức là tùy thuận tu tập pháp để vào hang hốc), ý nói các loài rồng, A Tu La v.v… đều ở trong hang sâu dưới mặt đất, hoặc đáy biển, có nhiều thần tiên, các loại thuốc có thể khiến cho họ trường thọ, tự tại. Có lẽ hành giả nghĩ trong số đó có nhiều mỹ nữ, đoan chánh giống như chư thiên, có thể chẳng lo chết yểu, mặc sức hưởng ngũ dục. Hoặc nghĩ lưu lại trong đó để thọ trọn kiếp hòng thấy chư Phật trong vị lai. Đấy đều là cái tâm hang hốc. Hãy nên nghĩ đúng như pháp tu hành, có thể ngay trong đời này thấy pháp, hiểu đạo, cho đến thành Phật, chớ nên lần chần, quẩn quanh nghĩ tưởng pháp thiên tiên thế gian ấy. Đó là cách đối trị.     

          Thứ bốn mươi hai, “vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ phát khởi vi tánh” (thế nào là tâm gió? Tức là có tánh phát khởi trọn hết thảy mọi nơi). Tánh gió là tán loạn, vì nó chẳng trụ. Tâm người này cũng thế, gieo thiện căn hết thảy mọi nơi, tức là trong ngoại đạo thế gian, các thứ thiên tôn, và các người hành tam thừa đều có phần, nghĩ như thế này: “Như nhiều hạt giống [được gieo] trọn khắp mọi nơi, sẽ có hạt trưởng thành”. Như thế chính là tâm gió. Hãy nên nghĩ ruộng khô cằn, hao phí hạt giống; hãy nên cầu ở chỗ ruộng tốt màu mỡ, chuyên tâm cày bừa, ắt thu hoạch được nhiều. Đó là cách đối trị.

          Thứ bốn mươi ba, “vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp” (thế nào là tâm nước? Tức là thuận theo cách tu gột rửa hết thảy pháp chẳng lành). Như tánh của nước là thanh khiết, tuy tạm bị các chất nhơ nhuốm bẩn, hễ lắng trong bèn thanh tịnh, lại có thể gột trừ cấu uế. Tâm người này cũng vậy, thường muốn bộc lộ xấu ác, sám hối gột rửa các tội nơi ba nghiệp. Do thấy cái này là nhơ, cái kia là tịnh, [bèn nghĩ] “ta hành như thế”, như vậy thì có thể chướng ngại tịnh tâm. Chỉ nên quán Thật Tướng của cái tâm, hiểu rõ cấu pháp vốn chẳng sanh, sẽ tự có thể trừ hết thảy cái chướng. Đó là hạnh để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi bốn, “vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt vi tánh” (thế nào là tánh lửa? Tức nóng bức hừng hực làm tánh). Như tánh của lửa là chói lòa, hừng hực. Tâm người này cũng thế. Nếu khi làm lành thì trong khoảnh khắc có thể thành tựu vô lượng công đức, tạo ác thì cũng trong một ít thời gian mà thành nghiệp cực nặng. Hạnh đối trị ở đây là phải nên tư duy cái tâm mạnh bạo sẽ gây ra nhiều thất bại, tổn thương, dùng nước phương tiện “nhu hòa, từ thiện” để diệt, chú trọng hăm hở làm lành lâu dài để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi lăm là “tâm bùn”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn giải thích [cái tâm này]. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đây chính là cái tâm một mực vô minh. Thậm chí đối với chuyện gần ngay trước mắt, cũng chẳng thể phân biệt, ghi nhớ. Vì thế, luật nói [cái tâm ấy] giống như viên bùn. Lại như bùn lầy, do nhão nhoét, khó thể vượt qua được. Phải có thứ khác để nhờ cậy, tức là nhờ vào cầu, bến v.v… thì mới có thể vượt qua. Nếu nhận biết có phương tiện ấy, ắt phải quay về nương tựa bạn lành, khiến cho phương tiện khai phát, mới có thể dần dần trừ khử vô tri, huệ tánh sanh trở lại”.

          Thứ bốn mươi sáu, “vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh” (thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác). Ví như màu nhuộm xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Nếu thả sợi tơ trắng vào đó, nó sẽ có cùng màu. Tâm người ấy cũng giống như thế! Thấy, nghe thiện pháp cũng hành theo hạnh đó; thấy nghe chuyện ác cũng thuận theo mà tu học. Cho tới đối với vô ký (chẳng thiện, chẳng ác) cũng thế. Đối với các thứ cảnh giới, đều tùy theo sự mà đổi dời. Hành nhân đã nhận biết rồi, hãy nên nghĩ chuyên cầu pháp tự chứng, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng bị duyên khác xoay chuyển. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi bảy, “vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, khí xả dư thiện cố” (thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp xứng với tâm lượng, vứt bỏ các thiện pháp khác). Như miếng ván thả vào nước, tùy theo phân lượng mà chở các vật. Quá mức đó, nó sẽ không duy trì được, rốt cuộc phải nghiêng đổ đi. Tâm người này cũng thế, chọn lựa nghiệp thiện pháp, tùy sức mình hành được một pháp, liền nói như thế này: “Từ trước tới nay, ta chỉ hành pháp này, chẳng biết chi khác”. Thậm chí tu tập, hành trì Bát Quan Trai liền chẳng xả lìa, lại chẳng hâm mộ hành theo các điều thiện khác. Hãy dùng phát tâm rộng lớn để học Bồ Đề hạnh; đó là cách đối trị.

          Thứ bốn mươi tám, “vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị” (thế nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ). Như người vì mê, ý muốn đi qua Đông mà lại hướng về Tây. Tâm người này cũng giống như thế, ý muốn học Bất Tịnh Quán mà đâm ra chấp tướng tịnh, tự cho rằng ta nay tu Bất Tịnh Quán. Nếu khi tu vô thường, vô ngã, đâm ra hành “thường, ngã điên đảo”, cho rằng “ta nay tu vô thường, vô ngã”. Do tâm tán loạn, nên khiến thành ra như vậy. Hãy nên niệm chuyên nhất cái tâm, quán sát kỹ càng, cặn kẽ, an tường, chẳng điên đảo để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi chín, “vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp” (thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp không có lẽ sống). “Độc” là các thứ chất độc từ rồng, rắn, dược thảo. Như người trúng độc mê ngất, chuyển sang cái chết, chẳng có lẽ sống! Tâm người này cũng thế, chẳng sanh thiện tâm, mà cũng chẳng sanh ác tâm, cho tới hết thảy các tâm đều chẳng thể sanh khởi, chỉ tùy ý mà hành, dần dần nhập vào vô nhân, vô quả. Vì thế, gọi là “chẳng có lẽ sống”. Hành nhân đã tự hiểu biết rồi, hãy nên phát khởi các điều thiện đại bi, lìa đoạn diệt Không; đấy được gọi là “cam lộ diệu dược”.

          Thứ năm mươi, “vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngã phược vi tánh” (thế nào là tâm dây trói? Tức là trong hết thảy chỗ, trụ trong sự trói buộc của cái ngã làm tánh). Như người bị dây thừng trói chặt, thậm chí tay, chân, chi phần đều chẳng thể chuyển động. Tâm này giống như thế, đọa vào đoạn kiến ngã phược. Kiến chấp ấy có thể trói buộc cái tâm của hành giả, thậm chí trong hết thảy mọi chỗ, thường bị trói buộc, chẳng thể tự thoát ra, là loại chướng nặng nhất. Đã nhận biết rồi, hãy nên mau chóng dùng đao “duyên khởi chánh huệ” để chặt phăng chướng cái. Đó là cách đối trị.

          Thứ năm mươi mốt, “vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh” (thế nào là tâm cùm? Tức là có tánh chất ngăn chặn hai chân). [Hình cụ] nơi tay là Sửu (, còng), nơi chân là Giới (, cùm). Như người bị cùm, hai chân bị chặn lại chẳng thể tiến lên. Tâm này cũng thế, thường chuộng ngồi ngay ngắn, hoặc đứng lặng mà tu định tâm và quán sát pháp nghĩa. Vì bị câu thúc như thế, nên gọi là “tâm cùm”. Hạnh để đối trị là hãy nên trong hết thảy các thời, xứ, đều tư duy tu tập, khiến cho tĩnh và loạn chẳng cách biệt. Đó là cách đối trị.

 

          (Kinh) Vân hà vân tâm? Vị thường tác giáng vũ tư niệm. Vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân. Vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục tăng gia tư niệm. Vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp. Vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy, tâm cao cử vi tánh. Vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ. Vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải vi tánh. Vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp, bỉ sanh tâm như thị đồng tánh.

          ()云何雲心謂常作降雨思念云何田心謂常如是修事自身云何鹽心謂所思念彼復增加思念云何剃刀心謂唯如是依止剃除法云何彌盧等心謂常思惟心高舉為性云何海等心謂常如是受用自身而住云何穴等心謂先決定彼後復變改為性云何受生心謂諸有修習行業彼生心如是同性

          (Kinh: Thế nào là tâm mây? Tức là thường suy nghĩ tuôn mưa. Thế nào là tâm ruộng? Tức là thường tu tập phụng sự tự thân như thế. Thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều được suy nghĩ, bèn tăng thêm ý niệm suy nghĩ. Thế nào là tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp trừ bỏ như thế. Thế nào là tâm bằng với núi Di Lô (Tu Di)? Tức là tâm thường suy nghĩ, có tánh chất cao ngạo. Thế nào là tâm như biển? Tức là thường thọ dụng tự thân như thế mà trụ. Thế nào là tâm như hầm hố? Tức là trước đó đã quyết định như thế, về sau lại biến đổi. Thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp trong các cõi, người ấy bèn sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế).

          Thứ năm mươi hai, “vân hà vân tâm? Vị thường tác vũ tư niệm” (thế nào là tâm mây? Tức là thường nghĩ tuôn mưa). Như tại phương Tây, trong ba tháng Hạ, mưa dầm đặc biệt nhiều. Do [mưa dầm] thường dẫn đến trời ẩm ướt, âm u, nên trong khi ấy, cái tâm theo lệ thường buồn, vui, lo nghĩ chen chúc tăng trưởng rất nhiều. Vì thế nói là “tác giáng vũ thời tư niệm” (suy tưởng khi tuôn mưa). Đã nhận biết, hãy nên hành xả tâm, lìa buồn vui thế gian, tùy thuận pháp hỷ; đó là cách đối trị.

          Thứ năm mươi ba, “vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân” (thế nào là tâm ruộng? Tức là thường chăm sóc bản thân như thế): Như người có ruộng tốt, thường chăm sóc, cày cuốc, trừ cỏ dại, dùng các thứ phương tiện khiến cho ruộng được sạch sẽ. Người này cũng thế, thường chuộng tu sửa cái thân, dùng hương, hoa, vị ngon v.v… để tưới tắm, bôi trét, phụng dưỡng nó, chú trọng sao cho [thân thể] sáng sạch, trang nghiêm đẹp đẽ. Đã nhận biết [cái tâm này] rồi, hãy nên thường niệm hồi hướng công đức ấy để chăm chút cái tâm. Dùng các thứ vật cúng dường như thế để vun bồi phước điền, giúp thành tựu quả thù thắng. Đó là đối trị cái tâm ấy.

          Thứ năm mươi bốn, “vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục gia tăng tư niệm” (thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều suy nghĩ lại tăng thêm sự suy niệm). Như tánh của muối là mặn. Hễ thêm muối vào, sẽ luôn tăng thêm vị mặn. Tâm người này cũng giống như thế, đối với chuyện suy nghĩ, lại càng thêm nghĩ nhớ. Như lúc nhớ tưởng sắc dục, vừa sanh khởi ý ấy, lại tự truy cầu: “Tâm này do ai mà sanh? Thành tướng mạo gì?” Quán tâm này chưa xong, lại tìm tòi suy nghĩ có nhân duyên gì? Như thế bèn vô cùng tận! Đã nhận biết [cái tâm này] rồi, hãy nên một mực an tâm nơi đế lý, chú trọng sao cho thấu triệt. Tâm tánh lại ly niệm, chẳng phải là phỏng đoán mà có thể biết được, chẳng từ trên phân biệt, lại tăng thêm tâm số (tâm sở)!

          Thứ năm mươi lăm, “vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp” (thế nào tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp cạo bỏ như thế): Cạo bỏ râu tóc là hình tướng lìa tục xuất gia. Ý nói người này tâm chỉ nghĩ như thế này: “Ta đã gạt bỏ tướng thế tục, khiến cho ác pháp chẳng còn nẩy sanh nữa, còn có gì để cầu?” Hãy nên biết cái tâm ấy xấu nhất, do tự lập ngằn hạn, có thể tước bỏ tất cả thiện căn, khiến cho chúng nó chẳng thể sanh! Hãy nên nghĩ tới điều đáng nên đoạn của hết thảy thánh hiền, tức Vô Minh Trụ Địa là cái gốc của Tam Độc. Nếu có thể cạo bỏ nó, khiến cho vọng tưởng chẳng sanh, thì mới gọi là xuất gia thật sự.

          Thứ năm mươi sáu, “vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy tâm cao cử vi tánh” (thế nào là tâm bằng với núi Tu Di? Tức là tâm thường tư duy, mang tánh cao ngạo). Như núi Tu Di cao vượt các ngọn núi khác, không gì có thể cao hơn được. Tâm người này cũng thế, thường có tánh cao ngạo, thậm chí đối với sư tăng, cha mẹ v.v… là các bậc đáng tôn kính, đều chẳng thể nhún mình, khác nào tràng cao chẳng thể uốn cong. Nếu muốn uốn cong, ắt sẽ gãy, trọn chẳng thể thay đổi thái độ thường nhật. Dùng nhẫn nhục, khiêm tốn, nhún mình, tưởng hết thảy chúng sanh là đại sư; [đó là cách] để đối trị [cái tâm này].

          Thứ năm mươi bảy, “vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ” (thế nào là tâm bằng biển? Tức là tự thân thường trụ trong thọ dụng như thế): Ví như biển cả, trăm sông đổ vào, dung nạp vô hạn. Tâm này cũng thế, hết thảy các sự thù thắng đều quy vào chính mình, tức là tỵ hiềm kẻ khác chẳng có ai sánh bằng mình, thường tự chấp [chính mình] có nhiều sở trường như thế, tự hưởng thụ điều đó mà trụ. Cái tâm trước (tâm bằng núi Tu Di) chú trọng cao ngạo, còn tâm này chú trọng rộng nhiều. Vì thế nói là “bằng với biển”. Hành giả đã nhận biết, hãy nên nghĩ tới biển công đức lớn vô lượng của Tam Hiền Thập Thánh lần lần sâu rộng, tự nhắc nhở tâm hạnh của chính mình chưa thể bằng một mảy trần, một giọt nước, chớ nên khởi tâm đại mạn!

          Thứ năm mươi tám, “vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải vi tánh” (thế nào là tâm như hang hốc? Tức là bản tánh trước đó đã quyết định, sau lại thay đổi): Ví như đồ đựng nguyên vẹn, cứng chắc, sau này nếu gặp duyên đục thủng một lỗ, sẽ chẳng thể kham dùng được nữa. Tâm này cũng thế, thoạt đầu thì thọ trì nhiều, về sau rò rỉ đôi chút. Hoặc lúc sơ phát tâm thọ giới thì trọn đủ chẳng thiếu, chẳng lâu sau, dần dần sanh ra pháp rò rỉ, giống như đồ đựng đã hư, chẳng thể giữ được pháp thủy. Phàm những trường hợp như thế, đều gọi là “huyệt tâm”. Vì thế, hành giả thường giữ sao cho mọi việc đã làm đều đến đầu đến đũa. Lại biết tánh mình hay thay đổi, đó chính là điều chướng ngại nhất cho Bồ Đề tâm kiên cố; dùng đó để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ năm mươi chín, “vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp bỉ sanh tâm như thị đồng tánh” (thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp trong các cõi, sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế). Như người do bạch nghiệp và hắc nghiệp mà hứng chịu quả báo thiện hay ác, do đã tạo đủ mọi thứ xen tạp, bèn thọ vô lượng thân sai biệt này nọ. Tâm này cũng thế, các hạnh đã tu đều muốn hồi hướng thọ sanh; hãy nên biết cái quả đạt được cũng kiêm thiện ác. Vì thế, hành giả hãy nghĩ thật sự chọn lựa thiện ác, trừ khử điều bất thiện, thuần tu bạch pháp. Trong các điều thiện như thế, lại chọn lấy huệ, bỏ đi những quặng thô. Lần lượt như thế, cho đến được thành tựu diệu quả đề hồ thanh tịnh thuần nhất. Đó là cách đối trị.

          Tâm thứ sáu mươi, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Thiếu phần nói về tâm khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn là thân tâm tán loạn, thường chẳng thể tạm yên. Hành nhân cũng thế, tánh xáo động, chẳng yên, cho nên nắm níu nhiều thứ, giống như khỉ vượn nắm cái này, buông cái kia”. Nói đại lược, chúng sanh toàn là như thế cả, ở đây nói riêng về kẻ tâm này quá thịnh. Trong ấy, dùng tâm tưởng “chẳng thuận theo động mà tán loạn, buộc duyên nơi một cảnh” để đối trị. Giống như nếu buộc khỉ vượn vào cột, nó chẳng còn tùy hứng nhảy nhót, quăng ném, nhào lộn; đó là cách đối trị. Nhưng sáu mươi cái tâm ấy, có thể là có lúc bản tánh của hành giả đặc biệt nhiều, hoặc do hành đạo mà dấy động tập khí từ trước, hoặc có lúc tưng bừng dấy lên, hoặc lần lượt sanh khởi; hãy nên trong hết thảy mọi lúc đều lưu tâm nhận biết, quán sát, tự nhiên sẽ đạt được cái tâm Bồ Đề thuần tịnh. Nếu bậc A-xà-lê vì đệ tử bình ổn cái tâm thì cũng nên nhất nhất chọn lựa để trừ khử vậy.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, phàm bách lục thập tâm, việt thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh, vị như thị giải duy Uẩn vô Ngã, Căn, Cảnh, Giới, yêm lưu tu hành, bạt nghiệp phiền não chu ngột, vô minh chủng tử, sanh thập nhị nhân duyên ly kiến lập tông đẳng. Như thị trạm tịch, nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri. Tiên Phật tuyên thuyết, ly nhất thiết quá.

          ()祕密主一二三四五再數凡百六十心越世間三妄執出世間心生謂如是解唯蘊無我根境界淹留修行拔業煩惱株杌無明種子生十二因緣離建立宗等如是湛寂一切外道所不能知先佛宣離一切過  

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần [năm căn bản phiền não], sẽ thành một trăm sáu mươi tâm, vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng thuộc thế gian, tâm xuất thế gian sanh ra, tức là hiểu “chỉ có Uẩn, không có Ngã, Căn, Cảnh, Giới” như thế, tu hành dằng dai[25] hòng nhổ trừ cội gốc của nghiệp và phiền não, chủng tử vô minh, sanh, mười hai nhân duyên, lìa các thứ đề xướng kiến lập v.v… Sự tĩnh lặng sâu lắng như thế, hết thảy ngoại đạo đều chẳng thể biết. Điều được Phật tuyên nói trên đây lìa hết thảy lỗi).

 

          Đây cũng là giải đáp [câu hỏi] về các tâm tướng và các sự khác lạ của tâm. Do có vô minh, sanh ra năm món tâm phiền não căn bản, tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Sở dĩ chẳng nói tới ngũ kiến, do chúng thuộc về Kiến phiền não, phần nhiều thuộc vào sáu mươi tâm. Năm căn bản phiền não ấy, gấp đôi lần thứ nhất thành mười, gấp đôi lần thứ hai thành hai mươi, gấp đôi lần thứ ba thành bốn mươi, gấp đôi lần thứ tư thành tám mươi, gấp đôi lần thứ năm thành một trăm sáu mươi tâm. Vì thế nói: “Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, thành bách lục thập tâm” ([Lần lượt] gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần, [năm tâm căn bản phiền não] sẽ thành một trăm sáu mươi tâm). Do tâm phiền não của chúng sanh thường nương vào hai pháp, chẳng đạt được Trung Đạo. Vì thế, tùy theo sự, do khác tên, liền tách thành hai. Từ trong cái “hai” ấy, lại lần lượt chia nhỏ hơn, danh tướng của chúng thì như trong mười vạn bài kệ đã nói cặn kẽ. Nếu lại xét theo chín phẩm thượng, trung, hạ v.v… sẽ thành tám vạn bốn ngàn trần lao, nói rộng ra bèn thành vô lượng. Ví như từ một hạt giống, sanh ra năm thứ căn bản, từ một gốc cây mà tách thành hai nhánh, [lần lượt tách nhánh như thế] tới lần thứ năm thì thành một trăm sáu mươi cành “tâm” nhỏ. Từ đấy trở đi, lại càng tách ra nhiều hơn, tức là cành lá chẳng thể kể xiết!

          Lại như thuở kiếp sơ, con người đều là hóa sanh, dùng niệm làm thức ăn, thân quang tự nhiên an lạc vô ngại. Nhưng do chẳng biết Thật Tướng của cái tâm, hơi tham đắm chất béo nơi đất. Do tham vị ấy nhiều hay ít, mà hình sắc, dung mạo theo đó đổi khác, cái tâm “đúng, sai, thắng, thua” do vậy mà nẩy sanh. Do có tâm kiêu mạn, phước lợi suy giảm, chất béo nơi đất ẩn mất, cho đến địa phu tràn trề cũng ẩn chẳng hiện[26]. Kế đó, do ăn gạo tẻ, tự nhiên mới có nam, nữ v.v… Dâm, trộm, giết, dối trá v.v… các thứ phi pháp lần lượt khởi lên. Chuyện này được nói cặn kẽ trong kinh A Hàm. Từ đấy tới nay, có đủ loại dòng họ, đủ loại phong tục địa phương, dấy lên đủ mọi nghiệp phiền não kết, tạo thành đủ mọi đường chúng sanh, tạo ra đủ loại thân Ngũ Ấm, nếu chẳng phải là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể biết rõ cành nhánh! Sở dĩ các vị A-xà-lê dùng chuyện này để khuyên dạy con người, là vì muốn biểu thị từ một cái tâm vô minh, do thuận theo sự việc mà chia nhỏ ra, trở thành A-tăng-kỳ chấp trước hư vọng.

          “Việt thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh” (Vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng, cái tâm xuất thế gian nẩy sanh): Nếu dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh làm tâm xuất thế gian, chính là siêu việt hạnh Du Kỳ trong ba kiếp. [Kiếp] trong tiếng Phạn là Kiếp-bả (Kalpa), có hai nghĩa: Một là thời phần (một khoảng thời gian nhất định), hai là vọng chấp (chấp trước hư vọng). Nếu giải thích theo cách thông thường, thì vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Chánh Giác. Nếu giải thích theo lối bí mật, vượt thoát hạnh Du Kỳ trong một kiếp, tức là: Vượt thoát một tầng chấp trước thô thiển trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ được gọi là “một A-tăng-kỳ kiếp”. Vượt khỏi hai kiếp hành Du Kỳ hạnh, lại vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, thì gọi là “hai A-tăng-kỳ kiếp”. Hành giả Chân Ngôn môn lại vượt một kiếp, vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng cực vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ đạt tới sơ tâm trong Phật huệ. Vì thế nói là “ba A-tăng-kỳ kiếp thành Phật”. Nếu trong một đời mà vượt thoát ba tầng chấp trước hư vọng, sẽ thành Phật ngay trong một đời, còn luận định thời phần chi nữa? Nhưng ngay trong tầng thứ nhất, lúc tối sơ đã liễu giải “chỉ có Uẩn, vô ngã”, liền gọi là “tâm xuất thế gian sanh”. Vượt thoát khỏi sáu mươi tâm thế gian [như đã nói trên đây], lìa khỏi căn bản Tam Độc do ngã điên đảo sanh ra, thì gọi là “việt tam trùng chấp” (vượt khỏi ba tầng chấp trước).

          Lại còn có ba thứ chấp trước hư vọng, tức là tu hành dằng dai nơi căn, cảnh, giới. “Căn” là sáu căn, “cảnh” là sáu trần, “giới” là sáu thức giới. Do trong ngoài mười hai giới[27] tức là “căn, cảnh”, nên nói gộp chung. Đấy chỗ vướng mắc của học nhân Tam Quả; vì thế nói là “yêm lưu tu hành” (tu hành dằng dai).

          Lại có ba thứ vọng chấp, tức là nghiệp, cội gốc phiền não, và chủng tử vô minh, tức là chỗ khó đoạn nhất của bậc thánh nhân Vô Học. Cho nên có “ba thứ chấp trước hư vọng” vậy.

          Người học Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt đầu đạt được sơ tâm xuất thế, bằng với Kiến Đạo của Tiểu Thừa, nhưng chẳng đọa trong chánh vị của Thanh Văn. Vì lẽ nào vậy? Do họ từ sơ phát tâm đã biết: Tâm tánh chỉ vì bị cái ngã điên đảo che lấp mà chưa thể hiện tiền. Lúc bấy giờ, quán kỹ Ấm, Giới, Nhập v.v… đều từ duyên sanh, biến đổi vô thường; trong ấy, cái gì là Thần? Suy tìm như thế, liền hiểu rõ Thần vốn bất sanh, vượt thoát vô lượng lưới kiến chấp, Bồ Đề tâm thanh tịnh sáng thêm ít phần. Do đạt được thế lực của Bồ Đề tâm, cho nên chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa; nhưng do tâm hành giả có Pháp Chấp, nếu lúc tu Thiền Định đạo phẩm và các thứ Độ, tuy chẳng từ đó khởi lên các thứ điên đảo về ngã, nhưng do tâm trụ trong các pháp như Thiền, Huệ v.v… dùng dằng, trì trệ, chẳng thể nhanh chóng đạt tới Bồ Đề. Do chẳng như thật khéo vượt thoát, nên gọi là “yêm lưu tu hành” (dằng dai tu hành); nhưng cũng đã lìa đôi chút ba thứ chấp thuộc địa vị thấp hơn, có thể dẹp trừ chủng tử của căn bản vô minh trong nghiệp phiền não, sanh khởi sự hiểu biết về mười hai nhân duyên. Pháp rất sâu như thế, dù có Phật hay không có Phật [xuất thế], tánh và tướng vẫn thường như vậy. Như trong phần trước đã nói, các thứ chấp trước so đo như “kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh” v.v… đều chẳng tương ứng. Thậm chí trong tự tâm của các vị đại luận sư như Trường Trảo, Tiên Ni v.v… dùng trí huệ lợi căn để suy tìm Thật Tướng của các pháp, cũng đều chẳng thể suy lường được! Nghĩa của mười hai nhân duyên như trong các kinh Đạo Can v.v… đã nói tỉ mỉ.

          Nói “trạm tịch” thì Tịch nghĩa là bất sanh, tức năm căn bản phiền não và một trăm sáu mươi tùy phiền não v.v… đều rốt ráo chẳng sanh, nên gọi là Tịch. “Trạm” nghĩa là rất sâu. Ví như đầm nước trong, sâu vạn nhận[28], lặng trong xuyên thấu như gương. Người đến nhìn, chẳng lường được đầm sâu hay cạn. Vì thế, nói “ba con thú vượt sông, xét theo vết chân mà mỗi con thú đạp tới, chỉ riêng đại hương tượng vương có thể từ cạn tới sâu, đạp thấu tận đáy sông”. Ở đây, người thuộc tam thừa cùng dùng đạo vô ngôn thuyết để thấu đạt Thật Tướng của các pháp, nhưng Thanh Văn nhập pháp tánh cạn nhất. Do vậy, họ chán sợ sanh tử, tự nói là “đã đắc Niết Bàn”, sanh ý tưởng diệt độ. Bích Chi Phật nhập sâu hơn, cho nên đối với sanh tử chẳng e ngại cho lắm, nhưng chưa thể dùng sức phương tiện để phát khởi đại bi. Khi Bồ Tát ngộ pháp như thế, biết là tâm cấu đã dần dần trừ. Do vậy, tịnh tâm dần hiện. Lúc bấy giờ, liền dốc sức nơi Bồ Đề tâm, có thể chẳng trụ đạo, mà học các thứ Độ môn. Vì thế, cùng trong một pháp như trên đây mà thăng trầm khác biệt!

          Kinh dạy “nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri” (hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết): Trong tông này nói có hai loại ngoại đạo:

          - Ngoại ngoại đạo, ví như kẻ đích thân thấy cái đầm trong vắt, đâm ra sanh lòng sợ hãi, chẳng dám đến gần.

          - Nội ngoại đạo: Tuy có thể bơi lội trong đó, vừa khéo trừ nóng bức, hưởng niềm vui mát mẻ, nhưng chẳng biết trong ấy có vô lượng bảo vương.

          Một đằng là do chẳng nhập nên không biết, một đằng là tuy nhập mà chẳng biết. Vì thế, nói là “hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết”.

          “Tiên Phật tuyên thuyết ly nhất thiết quá” (Điều được chư Phật tuyên nói trên đây lìa hết thảy lỗi): Ý nói mười phương ba đời chư Phật chỉ có một môn này, khuyên dụ quần mê thoát khỏi nhà lửa. Chỗ ấy chẳng còn chướng ngại, các hý luận chẳng sanh. Vì thế, các loại luận sư theo các loại thuyết Nhân Lượng chẳng thể vượt khỏi lỗi ấy.

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung, hữu như thị huệ tùy sanh. Nhược ư Uẩn đẳng, phát khởi ly trước, đương quán sát tụ mạt, phù bào, ba tiêu, dương diễm, huyễn đẳng, nhi đắc giải thoát, vị Uẩn, Xứ, Giới, năng chấp, sở chấp, giai ly pháp tánh. Như thị chứng tịch nhiên giới, thị danh xuất thế gian tâm. Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền não võng, thị siêu việt nhất kiếp Du Kỳ hạnh.

          ()祕密主彼出世間心住蘊中有如是慧隨生若於蘊等發起離著當觀察聚沫浮泡芭蕉陽焰幻等而得解謂蘊處界能執所執皆離法性如是證寂然界是名出世間心祕密主彼離違順八心相續業煩惱網是超越一劫瑜祇行

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Cái tâm xuất thế gian ấy trụ trong Uẩn, có huệ như thế tùy thuận sanh khởi. Nếu đối với các thứ như Uẩn v.v… mà phát khởi cái tâm lìa chấp trước, hãy nên quán sát bọt nước đọng, bong bóng nước, cây chuối, ánh nắng gợn, huyễn v.v… để được giải thoát, nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới, cái có thể chấp, cái bị chấp trước đều lìa khỏi pháp tánh. Chứng cảnh giới vắng lặng như thế, gọi là “tâm xuất thế gian”. Bí Mật Chủ! Tâm ấy lìa khỏi tám tâm tiếp nối trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền não, thì gọi là siêu việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp).

         

          Nhưng chưa vượt thoát pháp chướng, sẽ chẳng thể gọi là “Bồ Đề tâm thật sự thanh tịnh” được! Như hoa sen tuy đã lìa bùn nhơ, nhưng chưa nổi trên mặt nước. Vì thế, kinh nói: “Xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung” (Tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn). Do hành giả trong Du Già, tuy cái tâm lặng trong đã hiển lộ rõ ràng, nhưng khi dính líu tới Sự, thì Căn, Trần, Thức v.v… vẫn còn canh cánh bên lòng. Do chán sợ pháp hữu vi, nên chấp trước pháp vô vi, nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, tự nhiên chẳng do người khác dạy [mà phát sanh trí huệ]. Do có trí huệ thuận theo [thế lực của Bồ Tát tâm] mà sanh ra như thế, bèn có thể từ trong Uẩn v.v… mà phát khởi cái tâm, tu phương tiện lìa chấp trước, từ năm thí dụ mà quán sát Vô Tánh Không.

          Câu thứ nhất là “quán sát tụ mạt” (quán sát bọt nước đọng). Giống như bọt nổi trên mặt nước, tuy mắt có thể thấy đủ mọi hình sắc, nhưng tìm cầu thì tánh [của nó] thật sự trọn chẳng thể được! Sắc Ấm cũng thế, dù thô hay tế, không gì chẳng sanh từ các duyên. Đã do duyên sanh, mà sanh thì vô tánh, tức là Sắc vốn bất sanh. Câu kế đó, “phù bào” là như khi tiết Hạ, trời đổ mưa rào, nước mưa nổi bong bóng, cũng chỉ thuộc vào các duyên. Dùng bốn câu ấy (quán bọt nước nổi, bong bóng, cây chuối, ánh nắng gợn) để quán thì đều là chẳng khởi lên hay diệt mất. Thọ Ấm cũng thế, các chuyện khổ, lạc v.v… đều cùng là do tình (căn) và trần hòa hợp mà sanh. Hễ là do duyên [mà hiện hữu] thì là vô tánh, tức là Thọ vốn bất sanh. Câu kế đó là “dương diễm”, như trong tháng Xuân, hơi đất bốc lên, ánh nắng chiếu vào, nhìn từ xa như có nước. Kẻ mê muội, khát nước, sanh tâm truy cầu, bươn bả sốt sắng đuổi theo thật xa. Chúng sanh cũng thế, chẳng biết “duyên khởi tánh Không”, sanh ý tưởng cho rằng có pháp. Kế đó là “ba tiêu” (cây chuối), Như người tìm cầu lõi chắc của cây chuối, thậm chí bóc tách từng phần, cho đến gần như chẳng còn gì, vẫn chẳng thể được! Hành Ấm cũng thế! Hễ hơi dính vào cảnh dấy động, không gì chẳng sanh từ các duyên. Do duyên sanh thì vô tánh, tức là Hành vốn bất sanh. Kế đó là “huyễn sự”, như chú thuật hoặc dược lực trong thế gian mê hoặc lòng người, hiện ra đủ mọi thứ chưa từng có. Thức Ấm cũng thế, từ một niệm vô minh huyễn tâm mà thoạt đầu xuất hiện tam giới, xét đến cội gốc, sẽ đều là chẳng sanh, diệt, đến, đi.

          Hãy nên biết: Do từ các duyên mà sanh thì chẳng có tự tánh, cũng lại vốn là bất sanh. Trong kinh của Thanh Văn tuy nói năm thí dụ này, nhưng ngụ ý nói về vô ngã. Nay năm thí dụ ở đây, ý nói “tánh của các Uẩn là Không”. Như quán Ngũ Uẩn, sẽ biết mười hai Nhập, mười tám Giới, lục nhập, mười hai duyên v.v… đều nên nói phân biệt tỉ mỉ như trong kinh Đại Bát Nhã đã nói. Khi hành giả quán sát như thế, từ Vô Tánh Môn, thấu đạt “các pháp tức là Không”, bèn lìa một tầng pháp điên đảo, biết rõ tâm tánh. Như thế sẽ chẳng bị Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp lay động. Vì thế, gọi là “chứng tịch nhiên giới”. Khi chứng tịch nhiên giới, sẽ dần dần vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa, như hoa sen tuy chưa nở xòe, nhưng đã hơi vượt ngoài dòng nước. Hành giả cũng thế, tâm chẳng còn chìm lỉm trong Uẩn, nên gọi là “xuất thế gian tâm”. Nếu dịch sát nghĩa, hãy nên nói là “tâm vượt ngoài thế gian”.

          “Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền não võng” (Bí Mật Chủ! Người đó lìa khỏi tám cái tâm liên tục trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền não): Như trong phần trước đã nói [các giai đoạn] “chủng tử, rễ, nứt vỏ” v.v… và quy y Tam Bảo là thiện pháp thực hiện trì trai, bố thí của nhân thiên thừa, đều là tám cái tâm tùy thuận thế gian. Nếu tam thừa vừa mới phát đạo ý, đạt tới mức dẹp trừ chủng tử của căn bản vô minh nơi nghiệp phiền não sanh ra mười hai nhân duyên, thì gọi là “vi thế bát tâm” (tám tâm trái nghịch thế gian). Hoặc xét theo các phần vị như Kiến Đạo, Tu Đạo v.v… đã có, đều tự có tám tâm. Do hành giả Đại Thừa liễu đạt “tánh của các Uẩn là Không”, trong hết thảy các pháp đều chẳng chấp lấy, mà cũng chẳng lìa bỏ, cùng lìa hai thứ tám tâm tùy thuận hay trái nghịch và Ngã Uẩn thuộc lưới nghiệp phiền não điên đảo, thì gọi “siêu việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp”.

          Du Già dịch nghĩa là “tương ứng”, nếu nói theo [danh từ] giống cái thì là Du Kỳ (Yogi). Nói “tương ứng” tức là người có quán hạnh ứng với lý. Giải thích theo lối thông thường, sẽ là Bồ Tát từ sơ phát tâm cho tới nay, trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới chứng tịch nhiên giới như thế. Nay là tông Bí Mật, chỉ vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng này, thì chính là “vượt thoát một A-tăng-kỳ kiếp”. Khi hành giả chưa vượt khỏi một kiếp ấy, có địa vị bằng với Bích Chi Phật, thì gọi là “cực vô ngôn thuyết xứ”. Lúc bấy giờ, tâm trầm trệ nơi pháp tướng vô vi, nếu đánh mất phương tiện, sẽ phần nhiều đọa trong địa vị Nhị Thừa, chứng Tiểu Niết Bàn. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, vẫn có thể phát khởi bi nguyện. Từ đấy trở đi, đường nẻo của ba thừa mới tách rời, nhưng do nhân và pháp được quán đều là Không, chưa thật sự cách biệt vời vợi với các tông như Thành Thật, vì vẫn dựa theo lý Thiên Chân để thực hiện bình đẳng quán. Vì thế, luận chung tâm xuất thế gian thượng, trung, hạ của ba thừa thành một A-tăng-kỳ kiếp, cho tới A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới khác hẳn Nhị Thừa!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngã tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ vãng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành. Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngã, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất sanh. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Tâm tiền hậu tế bất khả đắc cố. Như thị tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu. Thiên, nhân, thế gian chi sở quy y, xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, thân cận, kính lễ. Sở vị Không tánh ly ư căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, việt chư hý luận, đẳng hư không, vô biên nhất thiết Phật pháp y thử tương tục sanh, ly hữu vi, vô vi giới, ly chư tạo tác, ly nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, cực vô tự tánh tâm sanh. Bí Mật Chủ! Như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền não, giải thoát, nhi nghiệp phiền não cụ y, thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tín giải hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, đãi thập tâm vô biên trí sanh, ngã nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc. Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết Trí tín giải địa, phục việt nhất kiếp thăng trụ thử địa, thử tứ phần chi nhất độ ư tín giải.

          ()復次祕密主大乘行發無緣乘心法無我性何以故如彼往昔如是修行者觀察蘊阿賴耶知自性如幻陽焰影響旋火輪乾闥婆城祕密主彼如是捨無我心主自在覺自心本不生何以故祕密主心前後際不可得故如是知自心性是超越二劫瑜祇行復次祕密主真言門修行菩薩行諸菩薩無量無數百千俱胝那庾多劫積集無量功德智慧具修諸行無量智慧方便皆悉成就天人世間之所歸依出過一切聲聞辟支佛地釋提桓因等親近敬禮所謂空性離於根境無相無境界越諸戲論等虛空無邊一切佛法依此相續生離有為無為界離諸造作離眼耳鼻舌身意極無自性心生祕密主如是初心說成佛因於業煩惱解而業煩惱具依世間宗奉常應供養復次祕密主信解行地觀察三心無量波羅蜜多慧觀四攝法信解地無對無量不思議逮十心無邊智生我一切諸有所皆依此而得是故智者當思惟此一切智信解地復越一劫昇住此地此四分之一度於信  

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi tâm vô duyên thừa, do các pháp chẳng có ngã tánh. Vì sao vậy? Như những vị tu hành xưa kia, quán sát Uẩn, A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, hình bóng, tiếng vọng, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà. Bí Mật Chủ! Họ xả vô ngã như thế, tâm chủ tự tại, nhận biết tự tâm vốn bất sanh. Vì sao vậy? Bí Mật Chủ! Do tâm trong tiền tế và hậu tế đều chẳng thể được. Biết tâm tánh như thế, bèn siêu việt hạnh Du Kỳ trong kiếp thứ hai. Lại này, Bí Mật Chủ! Trong Chân Ngôn môn, các Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu, được trời, người, thế gian quy y, vượt khỏi hết thảy các địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, được Thích Đề Hoàn Nhân v.v… thân cận, lễ kính. Cái được gọi là “tánh Không” lìa khỏi căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, vượt ngoài các hý luận, giống như hư không, vô biên hết thảy các Phật pháp nương vào đây mà liên tục sanh, lìa khỏi hữu vi giới và vô vi giới, lìa các tạo tác, lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sanh khởi tâm vô tự tánh tột bậc. Bí Mật Chủ! Phật nói sơ tâm như thế là cái nhân để thành Phật, tuy giải thoát nghiệp phiền não mà nghiệp phiền não đều nương trọn vào đó, được thế gian tôn phụng, thường nên cúng dường. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa chẳng có đối đãi, vô lượng chẳng thể nghĩ bàn, do đối ứng với mười tâm mà vô biên trí sanh, hết thảy những điều ta đã nói đều do nương vào đây mà ra. Vì thế, người trí hãy nên tư duy Tín Giải Địa thuộc Nhất Thiết Trí này, lại vượt qua một kiếp, tiến lên trụ trong địa vị này. Đó là vượt qua được một phần trong bốn phần nơi tín giải).

 

          Kinh dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngã tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ vãng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn, A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (Lại nữa, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi cái tâm vô duyên thừa, vì tánh của pháp là vô ngã. Vì sao vậy? Như các vị tu hành xưa kia quán sát Uẩn và A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, hình bóng, tiếng vang, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà), chính là nói tới tầng thứ hai, tức quán sát tánh của pháp là vô ngã vậy! Tiếng Phạn là Mãng-bát-la (Māpara), tức là “vô nghĩa”, mà cũng là “tha nghĩa” (nghĩa khác). Nói “tha duyên thừa” tức là phát đại thệ bình đẳng, vì pháp giới chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, cho đến đối với “các Nhất Xiển Đề và hàng Nhị Thừa chưa nhập chánh vị”, cũng nên dùng các thứ phương tiện để chiết phục, nhiếp thọ, khiến cho trọn khắp [mọi căn tánh] đều cùng nhập thừa này. Do xét theo lòng vô duyên đại bi ấy, nên gọi là “tha duyên thừa”.

          Lại nữa, “vô duyên thừa” là cho tới A-tăng-kỳ này, mới có thể quán sát thức  A  Đà  Na[29] sâu  xa, vi  tế, thấu  hiểu “tam  giới  duy  tâm,

ngoài tâm chẳng có một pháp nào để có thể đạt được”! Nương theo cái tâm vô duyên ấy mà hành đại Bồ Đề đạo, nên gọi là “vô duyên thừa”. Cái tâm vô duyên thừa ấy chính là “pháp vô ngã tánh” (tánh của pháp là vô ngã). Do hành giả trong kiếp đầu tiên (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất), khi tu quán hạnh, tâm chìm đắm trong Uẩn; vì thế, dùng năm thứ vô tánh Không môn để quán pháp vô ngã. Nhưng xét theo Duyên Sanh Trung Đạo, thì vẫn thuộc vào Đối Trị Tất Đàn. Nếu đánh mất phương tiện Bát Nhã, sẽ đọa vào đoạn diệt, gọi là “ác thủ Không giả, lạm phương quảng đạo nhân” (kẻ chấp trước Không mù quáng, đạo nhân lạm dụng Phương Quảng, tức Đại Thừa). Nay Đại Thừa chẳng thể đạt được tướng Không, mà tướng Không cũng chẳng thể đạt được. Tuy quán các pháp vô sở hữu, nhưng cũng là các pháp vô sở không (chẳng có gì là Không). Vì thế, cần phải “lìa Hữu đạo, lìa Vô đạo” để quán “tánh của các pháp là vô ngã”.

          Vì muốn trừ sạch trí chướng (chướng ngại nơi trí), bèn tùy thuận các Bồ Tát xa xưa tu học quán Uẩn, A Lại Da, tức là [quán] tám thức, ba tánh (Biến Kế Sở Chấp, Y Tha, Viên Thành Thật), ba vô tánh (tướng vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh) trong các kinh như Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v… đều là ý này. Kinh nói “tri tự tánh” (biết tự tánh) tức là biết “tam giới duy tâm”. Sáu thí dụ “như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (như huyễn, bóng nắng gợn, hình bóng, tiếng vang, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà) đều là cùng biện định Hữu và Vô, nhằm nêu ra ý nghĩa “duyên khởi riêng biệt” của Uẩn A Lại Da, hơi khác với ý nghĩa của năm thí dụ về quán vô tánh trong kiếp trước đó (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất).

          A Lại Da có nghĩa là “bao hàm”, dịch sát nghĩa thì là Thất (căn phòng), ý nói: Các Uẩn sanh và diệt trong đó, tức nó là “sào huyệt” của các Uẩn; do vậy, đặt tên như thế. Nhưng A Lại Da có ba loại nghĩa: Một là nghĩa phân biệt, hai là nghĩa nhân duyên, ba là nghĩa chân thật. Như trong phần kệ Cầu Chân Thật của Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, do nói “ly nhị cập mê y, vô thuyết, vô hý luận” (lìa chấp trước vào hai bên và lìa sự mê muội đối với Y Tha Tánh, chẳng nói, chẳng hý luận), cho nên biết ba tánh đều là chân thật. Nói “ly nhị” tức là Phân Biệt Tánh chân thật, do năng (cái có thể phân biệt) và sở (các pháp được phân biệt) đều rốt ráo chẳng có! “Mê y” tức là nói về [sự mê muội đối với] Y Tha Tánh chân thật. Do từ tánh này mà dấy lên các phân biệt. “Vô thuyết, vô hý luận” (Chẳng nói, chẳng hý luận) là nói Chân Thật Tánh chân thật, do tự tánh chẳng có hý luận.

          Kế đó, [Trang Nghiêm Luận] nói bài kệ thí dụ về Cầu Chân Thật rằng: “Như bỉ khởi huyễn sư, thí thuyết hư phân biệt, như bỉ chư huyễn sự, thí thuyết nhị chủng mê” (Như đối với các thứ được huyễn thuật sư biến hóa ra, dù là thí dụ hay diễn nói đều là phân biệt hư vọng. Đối với các huyễn sự ấy, thì dùng thí dụ hay ngôn ngữ để diễn tả, cả hai đằng đều là mê). Giải rằng: Như huyễn sư (người làm ảo thuật) nương vào sức chú thuật, biến hóa gỗ, đá v.v… [thành vàng, bạc, của báu] để làm cái nhân gây nên sự mê hoặc. Y Tha Tánh phân biệt hư vọng cũng giống như thế, dấy lên đủ loại phân biệt, tạo thành cái nhân điên đảo. Lại như các thứ tướng mạo hư huyễn như vàng v.v… hiển hiện, tánh phân biệt được dấy lên cũng giống như thế. Do mê đối với hai thứ năng thủ (tâm chấp giữ) và sở thủ (đối tượng được chấp giữ) mà chúng luôn luôn hiển hiện.

          Kế đó, [luận ấy] nói kệ rằng: “Như bỉ vô thể cố, đắc nhập Đệ Nhất Nghĩa. Như bỉ khả đắc cố, thông đạt Thế Đế thật” (Như do các thứ ấy chẳng có Thể, bèn được nhập Đệ Nhất Nghĩa. Nếu thông hiểu lẽ ấy, bèn thông đạt lẽ Thật nơi Thế Đế). Trong ấy, có ý nghĩa: Như các huyễn sự ấy chẳng có thật thể; đó là sánh ví hai tướng Y Tha và Phân Biệt cũng chẳng có thật thể. Do đạo lý ấy, liền thông đạt cái Đệ Nhất Nghĩa Đế. Lại nữa, “như huyễn” là cái Thể của huyễn sự cũng chẳng thể được. Đấy là sánh ví hư vọng phân biệt cũng giống như thế. Do đạo lý ấy, liền thông đạt cái Thật nơi Thế Đế.

          [Luận ấy] lại có bài kệ rằng: “Bỉ sự vô thể cố, tức đắc chân thật cảnh. Như thị chuyển y cố, tức đắc chân thật nghĩa” (Do chuyện ấy chẳng có thể, liền đạt được cảnh chân thật. Do chuyển y như thế, liền đạt được nghĩa chân thật). Giải rằng: Nếu ai hiểu rõ các huyễn sự ấy chẳng có Thể, sẽ đạt được thật cảnh nơi gỗ v.v… Nếu các Bồ Tát hiểu rõ hai thứ mê đó chẳng có Thể, thì khi chuyển y[30] sẽ liền đạt được ý nghĩa “chân thật tánh”.

          Kệ lại nói rằng: “Thị sự bỉ xứ hữu. Bỉ hữu thể diệc vô, hữu thể vô hữu cố, thị cố thuyết thị huyễn” (Chuyện này nếu có ở nơi kia, thì Thể của cái Có đó cũng là chẳng có. Do Thể của cái Có chẳng có. Cho nên nói là huyễn). Bài kệ này chỉ rõ “huyễn sự tuy có mà chẳng phải là có”. Vì sao vậy? “Có” tức là nói đến các sự thuộc về huyễn tượng, chúng được hiển hiện ở nơi đó (nơi huyễn thuật sư biến hiện). “Phi hữu” là nói chẳng thể đạt được thật thể của chúng. Do Thể của Hữu và Thể của Vô như thế chẳng hai, do nghĩa đó mà nói chúng là huyễn.

          Kệ lại nói: “Vô thể, phi vô thể, phi vô thể tức thể, vô hữu thể vô nhị, thị cố thuyết thị huyễn” (“Vô thể” chẳng phải là không có Thể, “chẳng phải vô thể” chính là Thể. Do Thể của hữu và vô chẳng hai, nên nói nó là huyễn). Bài kệ này nói: Huyễn sự chẳng phải có, mà là có. Vì sao vậy? “Chẳng phải có” tức là nói huyễn sự ấy chẳng có Thể, do nó chẳng có thật thể. “Mà là có” tức là huyễn sự chẳng phải là vô thể, do nó có hình tượng hiển hiện. Vì hữu thể và vô thể chẳng hai như thế, do nghĩa này mà nói nó là huyễn. Cái huyễn ấy nhằm sánh ví các Uẩn. Vì thế, hãy nên biết: Phân biệt hư vọng là có, nhưng chẳng phải là có. Vì sao vậy? Hình bóng của hai thứ ấy hiển hiện, nhưng chẳng thể tìm được thật thể của chúng! Do vậy nói Sắc v.v… hữu thể chính là vô thể. Lại nữa, phân biệt hư vọng “chẳng phải có mà có”. Vì sao vậy? Cả hai đều chẳng có thật thể, nhưng do có hình bóng hiển hiện, nên nói Sắc v.v… vô thể và hữu thể chẳng hai. Do hữu và vô chẳng hai, có thể ngăn che sự kiến lập phỉ báng và tiến hướng Tịch Diệt của Tiểu Thừa. Vì lẽ nào vậy? Do từ vô thể mà hiểu biết “không có Thể”; vì vậy, chẳng nên an lập. Do từ hữu thể mà biết Thế Đế, cho nên chẳng phỉ báng. Lại do hai thứ ấy chẳng khác, chớ nên chán ghét Thể mà nhập Tiểu Niết Bàn.

          Kệ ấy lại nói: “Huyễn tượng cập thủ huyễn, mê cố, thuyết hữu nhị. Như thị vô bỉ nhị, nhi hữu nhị khả đắc. Cốt tượng cập thủ cốt, quán cố, diệc thuyết nhị. Vô nhị diệc thuyết nhị, khả đắc diệc như thị” (Đối với hình tượng hư huyễn và sự chấp trước hư huyễn, do mê nên nói là có hai thứ. Vốn chẳng có hai thứ như thế, mà thành ra có hai thứ để có thể đạt được. Như đối với hình tượng xương và chấp trước tướng xương ấy, do quán [rồi chấp có tướng xương] nên cũng nói là hai. Tuy chẳng hai mà nói là hai, đối với những gì [ta cho rằng] có thể đạt được thì cũng phải hiểu giống như thế)[31] Bài kệ trước có ý nói: Kẻ mê đối với cảnh tượng hư huyễn, bèn chấp huyễn. Do đã mê, nên nói có hai chuyện là năng thủ và sở thủ (tức là có người chấp và pháp bị chấp). Hai chuyện ấy tuy chẳng có, nhưng có thể đạt được hai thứ là do mê mà chúng hiển hiện. Bài kệ sau có ý nói: Người quán hạnh cũng thế, đối với hình tượng các khớp xương móc vào nhau [khi quán cốt tỏa thành tựu] và sự chấp trước đối với tướng xương, do quán bèn nói có hai chuyện là năng quán (cái tâm để quán) và sở quán (đối tượng được quán bởi cái tâm ấy). Tuy chẳng có hai chuyện ấy, nhưng hai chuyện ấy cũng đều có thể đạt được vì do quán mà chúng hiển hiện.

          Hỏi rằng: Đã quán như thế là để đối trị pháp nào? Do vậy, luận ấy lại nói hai bài kệ rằng: “Ưng tri sở trị Thể, vị bỉ pháp mê tướng. Như thị Thể vô thể, hữu phi hữu như huyễn. Ưng tri năng trị Thể, niệm xứ đẳng chư pháp, như thị Thể vô tướng, như huyễn diệc như thị” (Hãy nên biết cái Thể của pháp được đối trị, chính là do mê nơi tướng của pháp ấy. Cái Thể như thế là vô thể, Có và Chẳng Có đều như huyễn. Hãy nên biết cái Thể của sự đối trị, các pháp như niệm xứ v.v… Cái Thể [của các pháp] như thế đều là vô tướng, như huyễn cũng giống như vậy). Bài kệ trước có ý nói: Đối trị cái Thể nào? Tức là [đối trị cái tâm] mê nơi tướng của các pháp. Mê nơi tướng của các pháp tức là mê nơi cái Thể như thế. Nhưng cái Thể như thế có thể nói là Có vì phân biệt hư vọng, mà cũng có thể nói là Chẳng Có, do Thể của năng thủ và sở thủ chẳng khác với phi Thể. “Có” như thế cũng là như huyễn, mà “chẳng có” cũng như huyễn. Vì thế, nói tướng ấy như huyễn. Bài kệ sau có ý nói: Thể của cái “có thể đối trị” chính là các pháp, tức là [đối với các pháp để đối trị như] Niệm Xứ v.v… do đức Phật đã nói thì cái Thể [của các pháp] như vậy là như thế đó. Thể của các pháp ấy cũng đều là như huyễn. Vì lẽ nào vậy? Do phàm phu chấp lấy các pháp như thế là “có Thể”, nhưng các pháp do chư Phật đã nói như thế đều là vô thể! Cái Thể như thế vô tướng, nhưng Phật Thế Tôn thị hiện nhập thai, sanh ra, vượt thành, xuất gia, thành Đẳng Chánh Giác. Tuy vô tướng như thế mà hiển hiện bóng dáng, cho nên là như huyễn!

          Hỏi: Nếu các pháp đều cùng là như huyễn, do nghĩa nào mà một đằng là cái có thể đối trị, một đằng là pháp bị đối trị? Bài kệ ấy giải đáp: “Thí như cường huyễn chủ, linh dư huyễn tức thoái. Như thị thanh tịnh pháp, năng linh nhiễm pháp tận” (Ví như huyễn sư mạnh mẽ, khiến cho những huyễn sư khác phải thoái lui. Pháp thanh tịnh như thế có thể khiến cho nhiễm pháp chẳng còn). Do bởi nghĩa này, tuy Bồ Tát tu các hạnh, nhưng chẳng có gì để đạt được. Luận ấy nói về quán sát Uẩn A Lại Da, biết rõ tự tánh như huyễn, phù hợp với kinh này nhất, cho nên tôi trích dẫn đầy đủ.

          Hãy nên biết: Đối với ánh nắng gợn (dương diễm), hình bóng, tiếng vọng, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà cũng nên nói rộng như thế. Trước năm thí dụ ấy, có [các thí dụ như] bọt nước, bong bóng [khi trời mưa], cây chuối. Sở dĩ ở đây chẳng bàn tới, vì ba chuyện ấy vẫn kèm theo cách phân tích theo từng tầng để giảng về Vô Tánh Không, còn các thí dụ như huyễn, bóng nắng gợn v.v… ở đây chỉ mang ý nghĩa nói về cái Không khó hiểu thuộc vào pháp “duy thức vô cảnh thể”, tức là từ thô tướng mà chuyển biến, dung hội, cho nên chẳng bàn tới [các thí dụ bọt nước, cây chuối].  

Hành giả hiểu các Uẩn duy tâm, tức là biết tự tánh của pháp. Khi chưa thấu hiểu tự tánh như thế, do sợ đọa vào “hữu sở đắc” (có cái để đạt được), chẳng thể trọn hết Lý mà quán Hữu được. Do sợ đọa vào đoạn diệt, chẳng thể trọn hết Lý mà quán Không. [Vì thế], không chỉ là chẳng thấy Hữu rõ ràng, mà cũng là chẳng thấy Không trọn hết. Nay dùng các môn như huyễn v.v… để chiếu “Hữu Không bất nhị”, tướng của Nhân Không và Pháp Không cũng chẳng canh cánh bên lòng, gọi là “thật sự nhập Pháp Không, ngộ tánh Duy Thức”.

          Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngã, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất sanh” (Bí Mật Chủ! Người ấy xả vô ngã như thế, tâm chủ tự tại, giác ngộ tự tâm vốn chẳng sanh). “Tâm chủ” tức là tâm vương. Do chẳng vướng mắc nơi Hữu và Vô, tâm chẳng ngăn ngại, có thể tùy ý thực hiện thành tựu diệu nghiệp. Vì thế nói là “tâm chủ tự tại”. Tâm chủ tự tại, rõ ràng là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Lại chuyển lần nữa, càng mở mang sáng suốt gấp bội kiếp trước (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất). Tâm vương giống như nước ao, tánh vốn thanh tịnh. Trừ sạch tâm số (tâm sở), giống như khách trần thanh tịnh. Vì thế, khi chứng tánh này là tịnh, sẽ có thể tự giác ngộ “tâm vốn chẳng sanh”. Vì sao vậy? Do tiền tế và hậu tế[32] của tâm đều chẳng thể được! Ví như sóng mòi trong biển cả, do từ duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó chẳng có thì sau đấy cũng chẳng có. Nhưng tánh nước chẳng phải vậy, khi sóng mòi do duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó không có tánh nước. Khi nhân duyên gây ra sóng mòi chấm dứt, chẳng phải là sau đó không có tánh nước. Tâm vương cũng lại như thế, chẳng có tiền tế và hậu tế, do tiền tế và hậu tế đều đoạn. Tuy gặp gió cảnh giới từ duyên mà dấy lên hay diệt mất, tâm tánh vẫn thường chẳng sanh diệt. Giác ngộ cái tâm này vốn chẳng sanh, tức là dần dần nhập vào môn chữ A. Lúc bấy giờ, lại lìa một tầng chấp trước hư vọng vi tế thuộc một trăm sáu mươi phiền não nhiều như cát bụi, thì gọi là “A-tăng-kỳ kiếp thứ hai”. Vì thế, kinh nói: “Tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh” (Biết tâm tánh của chính mình, sẽ vượt thoát hạnh Du Kỳ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai). Trong ấy, bao gồm các ý nghĩa như vô vi sanh tử làm duyên nhân để sanh hay hoại v.v… như các kinh luận Thắng Man, Bảo Tánh, Phật Tánh Luận đã nói cặn kẽ. Nay do nói về ý nghĩa chủ yếu ở đây, cho nên chẳng nói tường tận [các ý nghĩa đó]. Nhưng xét cả quá trình phát triển từ đầu đến cuối trên đây, kể từ phát khởi một mảy điều thiện cho đến vượt thoát hai thứ chướng hữu và vô đối với “nhân, pháp”, tuy điều được đề cao rành rành là càng lúc càng sâu dần hơn, hay khéo hơn, vẫn là đối trị cấu trược ở ngoài tâm, vẫn chưa khơi mở các loại chuyện bí mật chẳng thể nghĩ bàn trong cái tâm này. Từ đây trở đi mới nói ra. Nếu chẳng đối ứng để biện định như thế, thường tình [chúng sanh] sẽ xuôi theo tập khí từ trước, chẳng thể nhận biết sự vi diệu ấy!

          Kinh dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (Lại này, Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đã trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn đủ các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu), tức là cái tâm muốn vượt thoát [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba. Do muốn khiến cho kẻ thấy nghe đều tin ưa, tôn trọng, bèn trước hết tán thán công đức ấy, có thể dễ nhận biết điều này! Như Bồ Tát trong các giáo khác, hành phương tiện đối trị đạo, lần lượt dần dần trừ tâm cấu, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, có người đạt tới Bồ Đề, hoặc chẳng đạt. Nay các vị Bồ Tát trong giáo này chẳng phải vậy, trực tiếp dùng Chân Ngôn làm phương tiện, siêu nhập Bồ Đề tâm môn thanh tịnh. Nếu lúc thấy tâm này, hiểu đạo, phước huệ do các Bồ Tát đã tu tập trong vô số kiếp sẽ tự nhiên trọn đủ. Ví như có người dùng thuyền hay xe bôn ba, vượt qua đường ác hiểm nạn dài năm trăm do-tuần[33]. Lại có một người nương vào thần thông bay lên không trung để vượt qua, tuy chỗ trải qua và chỗ đạt đến chẳng khác nhau, nhưng pháp để vận dụng có sai khác.

          Lại nữa, sở dĩ đức Thế Tôn trước hết rộng nói các tâm tướng như trên đây là vì dạy những người hành quán hạnh trong Chân Ngôn môn, nếu lúc hành đến các cảnh giới ấy, cần phải biết rõ, chớ nên chưa đạt tới mà nói là “đã đạt tới”, đó tức là nấn ná giữa đường! Lại như lúc thái tử của Luân Vương mới sanh ra, các tướng trọn đủ, chẳng bị thiếu khuyết. Tuy chưa thể tập luyện trọn khắp các tài nghệ, thống ngự bốn châu, nhưng đã có thể nắm giữ bảy báu, thành tựu gia nghiệp của bậc thánh vương. Vì lẽ nào vậy? Do [thái tử đã] đầy đủ bản thể của Luân Vương. Hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại giống như thế. Tuy chưa thể trong vô số A-tăng-kỳ kiếp trọn đủ các hạnh Phổ Hiền, viên mãn phương tiện đại bi, nhưng công đức bằng với các đức Như Lai ấy đã đều thành tựu. Vì lẽ nào vậy? Do đã trọn đủ bản thể nơi Tỳ Lô Giá Na Pháp Thân vậy. Ở đây, kinh dạy “vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ, thảy đều thành tựu).

          Lại như vương tử mới sanh, đã làm chỗ ngưỡng vọng, quy hướng cho long thần và triệu dân. Người mới phát Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng giống như thế, đã làm chỗ đại quy y cho trời, người và kẻ mê mất chánh đạo trong thế gian. Nếu xét theo các bộ luận phán định dựa trên đường lối thông thường, thì khi chứng tâm này, bèn gọi là Phật. Do vậy, hết thảy các vị Thanh Văn, Duyên Giác v.v… như ngài Xá Lợi Phất đã dốc trọn trí lực mà chẳng thể dò lường được. Kinh dạy: “Sở vị xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa” (Đó gọi là vượt ngoài hết thảy địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật). Do khi hành giả đạt được cái tâm này, sẽ biết Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng hủy, thấy thọ lượng dài lâu của đức Phật, thân Bổn Địa và các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên như Thượng Hạnh v.v… cùng tụ hội một chỗ. Dẫu là bậc tu đạo đối trị, gần đạt tới địa vị Bổ Xứ trong Tích Môn, vẫn chẳng biết một ai [trong số các vị Bồ Tát thuộc Bổn Môn từ dưới đất vọt lên]. Vì thế, chuyện này được gọi là Bí Mật.

          Lại nữa, trong cái tâm thanh tịnh rốt ráo, vị Bồ Tát này có thể nhóm họp trọn khắp chư Phật, Bồ Tát trong mười phương pháp giới, cũng có thể tự tới trọn khắp mười phương, cúng dường các vị thiện tri thức, tìm cầu chánh pháp, chỉ riêng vị ấy hiểu rõ. Chư thiên, người đời chẳng thể biết được! Do nhân duyên ấy, lại gọi là Bí Mật. Trong hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, tuy nói là “độ Nhị Thừa”, nhưng các vị như Tu Bồ Đề v.v… do nương theo oai thần của Phật mà có thể diễn nói “nhân và pháp đều không”, nhưng đối với Nhất Thừa bí mật này, sanh lòng kinh nghi, chẳng biết [thừa ấy] sẽ dẫn đến đâu, nên gọi là “trực quá Thanh Văn, Bích Chi Phật địa” (thẳng thừng vượt khỏi địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật). Khi đó, chư thiên có đại oai đức, do thấy Bồ Tát tâm chẳng có chỗ nương tựa, đều sanh lòng kính tín. Vì vậy, Thích Đề Hoàn Nhân nguyện như thế này: “Kim thử thượng nhân bất cửu thành Phật, nhược bỉ thành Phật thời, ngã đương phụng Cát Tường thảo” (Nay vị thượng nhân này không lâu sau sẽ thành Phật. Nếu lúc Ngài thành Phật, tôi sẽ dâng cỏ Cát Tường[34] [để trải tòa ngồi]). Tứ thiên vương cũng sanh ý niệm như sau: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngã đương hiến bát” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, ta sẽ dâng bát). Phạm vương cũng sanh ý niệm như thế này: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngã đương thỉnh chuyển pháp luân” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, tôi sẽ thỉnh Ngài chuyển pháp luân). Vì thế nói là “thân cận, kính lễ”.

          Tán thán công đức do nhập Chân Ngôn môn đã xong, hành giả lại dùng pháp gì để nhập môn này? Vì thế, kế đó, kinh dạy: “Sở vị Không tánh” (Nói đến tánh Không). Tánh Không tức là tánh của tự tâm bình đẳng như hư không. Kinh văn trong phần trên nói “vô lượng như hư không”, cho đến “Chánh Đẳng Giác hiển hiện”, chính là sánh ví cái tâm này. Kiếp trước (trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai) đã ngộ “vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng có pháp”. Nay quán cái tâm này chính là Tự Nhiên Trí của Như Lai, mà cũng là thân trọn khắp hết thảy của đức Tỳ Lô Giá Na. Do cái tâm là như thế, các pháp cũng như thế. Căn và trần đều nhập vào môn chữ A, cho nên nói: “Ly ư căn cảnh” (Lìa khỏi căn và cảnh). Do hình bóng chẳng ra ngoài cõi Thường Tịch Diệt Quang, nên nói là “vô tướng”. Do trong Thật Tướng của tâm, Thật Tướng của tâm trí giác, cảnh và trí đều là Bát Nhã Ba La Mật, nên nói là “vô cảnh giới”. Nếu ở đây, dùng mười thí dụ thuộc phần này để đối ứng với mười thí dụ trong phần trước, lại trở thành hý luận, nên nói: “Việt chư hý luận” (Vượt ngoài các hý luận).

          Đoạn trừ chủng tử phiền não, nghiệp và thọ mạng thuộc tầng thứ ba của một trăm sáu mươi tâm vi tế, lại có mầm cây Phật nẩy sanh, nên nói: “Đẳng hư không vô biên nhất thiết Phật pháp” (Hết thảy Phật pháp như hư không vô biên). Nương vào sự sanh khởi liên tục này, đã chẳng hoại nhân duyên, bèn nhập pháp giới, cũng chẳng dao động pháp giới, tức là duyên khởi. Hãy nên biết nhân duyên sanh diệt chính là pháp giới sanh diệt, pháp giới chẳng sanh diệt tức là nhân duyên chẳng sanh diệt. Vì thế nói: “Ly hữu vi vô vi giới”. Dẫu Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, các pháp cũng vốn sẵn như thế mà trụ. Cho nên nói: “Ly chư tạo tác” (Lìa các tạo tác). Như trong kinh Bát Nhã nói: “Nhất thiết pháp thú nhãn, thị thú bất quá” (Hết thảy các pháp quy nhập vào mắt, lại chẳng có một pháp nào vượt khỏi mắt)[35], giống như trăm sông đổ vào biển, trọn chẳng đổ vào đâu khác. Vì thế, hãy nên biết Nhãn chính là Thật Tế bậc nhất. Trong Thật Tế bậc nhất, mắt còn chẳng thể được, huống hồ tiến nhập hay chẳng tiến nhập ư? Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế, cho nên nói: “Ly nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý” (Lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý).

          Khi hành giả đạt được huệ vi tế như thế, quán hết thảy các pháp nhiễm tịnh cho đến chút phần giống như lân hư trần, không gì chẳng từ duyên sanh. Nếu là sanh từ duyên, tức là chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn bất sanh. “Vốn bất sanh” tức là Thật Tế của cái tâm, nhưng Thật Tế của cái tâm cũng chẳng thể được. Vì thế nói là “cực vô tự tánh tâm sanh” (sanh khởi cái tâm vô tự tánh tột bậc). Cái tâm ấy so với hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, giống như hoa sen nở xòe trọn hết. Nếu so với hai cái tâm sau đó, tức là quả lại thành hạt. Vì thế nói “như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền não giải thoát, nhi nghiệp phiền não cụ y” (chư Phật nói sơ tâm như thế chính là cái nhân để thành Phật, tuy nó giải thoát nghiệp phiền não, nhưng nghiệp phiền não đều nương trọn vào cái tâm ấy). Ở đây nói “Phật thuyết” chính là đức Thế Tôn lấy mười phương ba đời chư Phật làm chứng. Điều này giống hệt như nói “dĩ thử nhất sự nhân duyên, vị chúng sanh khai tịnh tri kiến” (dùng một sự nhân duyên này để mở ra tri kiến thanh tịnh cho chúng sanh). Khi hành giả giải thoát hết thảy nghiệp phiền não, liền biết “hết thảy nghiệp phiền não, không gì chẳng phải là Phật sự”, vốn tự chẳng có trói buộc, sẽ khiến cho ai được giải thoát? Như lương y biến chất độc thành thuốc để dùng trừ các bệnh. Lại như hư không chẳng ra ngoài các tướng mà muôn hình tượng đều nương trọn vào đó. Như khi trụ trong sự giải thoát chẳng thể nghĩ bàn này, sẽ chính là A La Hán thật sự, chẳng chấp trước hữu vi và vô vi, đáng nhận sự cúng dường rộng lớn của hết thảy thế gian. Vì thế, kinh dạy: “Thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường” (Thế gian tôn trọng, phụng sự, thường đáng nên cúng dường).

          Lại nữa, do A-xà-lê muốn giảng rõ sự cúng dường ấy, luận định chung ba [A-tăng-kỳ] kiếp từ đầu đến cuối, liền nêu ra thí dụ về bảo châu: Ví như có Như Ý Bảo Châu ở trong quặng đá, do người đời chẳng biết, vứt bên đường cái, chẳng khác gì ngói, sỏi. Nhưng người biết rõ chất báu do thấy có chút tướng vừa mới tỏ lộ ra ngoài, liền nhận biết [trong quặng đá có bảo châu]. Trước hết, dùng đục sắt sắc bén để đục bỏ đá tạp. Đục gần đến vua chất báu (Như Ý Bảo Châu), đá sẽ mềm dần, lại dùng chất thuốc để hòa tan, khiến cho các chất cặn từ quặng đá tiêu trừ, nhưng chẳng thương tổn chất báu. Lúc bấy giờ, thô cấu đã trừ, vẫn còn tế cấu, bèn rửa bằng nước tro, chùi bằng vải mịn, dùng đủ mọi phương tiện để chất báu sáng ngời. Đã tỏa ánh sáng, đặt trên tràng cao, có thể thuận theo hết thảy mong cầu mà tuôn ra trọn khắp các vật. Lúc bấy giờ, người đời sanh ý tưởng kỳ đặc, tôn trọng vật báu ấy như đại thiên, vì nó có thể thỏa mãn trọn vẹn các điều ước nguyện. Nhưng chất báu ấy đồng thời ứng trọn khắp các tâm, khiến cho mỗi mỗi [ước nguyện] sai khác đều đạt được, [vậy thì] các vật ấy đã có sẵn từ trước trong chất báu, hay là trước đó chẳng có? Nếu có sẵn từ trước, viên châu bé nhỏ ấy sao có thể chứa trọn khắp các vật? Nếu trước đó chẳng có, sao lại có thể lập tức tuôn ra các vật? Tức là tánh của vật báu thế gian ấy đã là chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ vật báu Bồ Đề tâm của chúng sanh ư?

          Vì thế, lúc thiện tri thức vừa mới thấy tám tâm thế gian của chúng sanh chớm động, liền biết đó là của báu thật sự, biết lý “có thể gọt giũa”. Như người đã từng nhận biết nhiều thứ báu nổi tiếng; do vậy, vừa trông thấy liền biết ngay. Chư Phật, Bồ Tát cũng thế, từ lâu đã đích thân chứng biết “do một mảy thiện mà tự đạt đến đạo đại Bồ Đề”. Vì thế, soi xét tình kiến, căn cơ của chúng sanh, liền đại hoan hỷ, dùng phương tiện khuyên dụ, dẫn dắt, khiến cho họ thọ Tam Quy, như đã nói phân biệt trong phần trên. Ví như nhặt lấy tảng đá xù xì đặt ở trong nhà. Kế đó, dùng ba loại “tam tâm” để dẹp trừ cội rễ nghiệp phiền não và chủng tử vô minh, giống như dùng đục sắt sắc bén để đục đẽo, loại bỏ chất quặng thô tháp. Kế đó, quán tánh vô ngã của pháp vô duyên thừa, như dần dần [đục đẽo] tới chỗ mềm, bèn dùng dược vật để tiêu hủy [các chất quặng thô] mà chẳng tổn thương [chất báu]. Kế đó, sanh khởi vô cực tự tánh tâm, như dùng nước tro lau chùi, mài bóng, khiến cho bảo châu tột bậc sáng sạch. Lúc bấy giờ, đã sanh trong nhà Phật, gọi là “đặt trên tràng cao, tuôn ra các thứ báu”. Do nhân duyên ấy, kham nhận sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Nếu hành giả trực tiếp từ Chân Ngôn môn mà trông thấy chất báu trong tâm, như tiên nhân giỏi chú thuật, dùng thần lực để giữ lấy. Tuy khéo, vụng, khó, dễ khác nhau, nhưng đạt được vật báu trọn chẳng khác lối! Vì thế, kinh này nói cặn kẽ tâm tướng từ cạn đến sâu, đều nhằm khai thị nhân duyên của Bồ Đề tâm từ đầu đến đuôi. Nếu chỉ xét theo pháp tướng thông thường, ắt chẳng thể nói “bí mật to lớn của chư Phật nay ta đều khai diễn”!

          Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Tín Giải Hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, kiến lập thập tâm, vô biên trí sanh” (Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát ba tâm, vô lượng Ba La Mật huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, địa vị tín giải chẳng đối đãi, vô lượng chẳng nghĩ bàn, kiến lập mười tâm, sanh khởi vô biên trí). Đấy là cái Tông của kinh này. Từ Bồ Đề tâm thanh tịnh cho đến địa vị Thập Trụ, đều là thuộc về hạnh Tín Giải, chỉ có Như Lai được gọi là địa vị Nhất Thiết Trí rốt ráo. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Sơ Địa Bồ Tát có thể tin tưởng, nhập vào bổn hạnh của Như Lai, Tín thành tựu các Ba La Mật, tín nhập các địa vị thù thắng, tin vào sức thành tựu, tin trọn đủ vô sở úy, tin sanh trưởng Phật pháp bất cộng chẳng thể hoại, tin Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, tin xuất sanh cảnh giới Phật chẳng có ngằn hạn, tin tùy nhập vô lượng cảnh giới của Như Lai, tin thành tựu quả. Đối với các chuyện như thế, cái tâm ấy rốt ráo chẳng thể phá hoại, lại còn chẳng bị xoay chuyển theo các duyên khác. Vì thế, gọi là địa vị Tín Giải Hạnh, cũng gọi là Tu Hành Địa.

          “Quán sát tam tâm” tức là do Căn mà xét kỹ cái tâm. Nếu luận định chung trong địa vị Tín Giải, sẽ là khi Sơ Địa Bồ Tát đạt được Bồ Đề tâm như hư không vô cấu ấy, tự nhiên sẽ sanh khởi mười đại nguyện trong mười vô tận giới, cho đến trọn đủ trăm vạn A-tăng-kỳ đại nguyện. Đó là lấy Bồ Đề tâm làm nhân. Từ Nhị Địa trở đi, tu thêm đại bi vạn hạnh, tức là vô tận đại nguyện “mọc rễ” trong mười pháp giới, cho đến dần dần tăng trưởng. Từ Đệ Bát Địa trở đi, đều gọi là Phương Tiện Địa. Phật Tánh Luận giảng: “Cảnh giới từ Bát Địa trở lên đều giống nhau, nhưng luận theo phương tiện mà giáng cấp vậy”. Nếu quán mỗi một địa, cũng sẽ đều có ba tâm. Như dùng mười nhân duyên để được nhập Sơ Địa, bèn gọi là “nhân duyên”. Đã an trụ rồi, sẽ dùng các thứ đại bi vạn hạnh để tịnh trị địa vị ấy, gọi là Căn. Nói tới chuyện tịnh trị quả tướng và nghiệp phương tiện trong mỗi địa thì gọi là “cứu cánh”. Những điều khác đều chuẩn theo điều này. Vô lượng Ba La Mật Đa, Tứ Nhiếp Pháp được nói trong kinh này tức là trị địa. Hành giả từ đây trở đi, chẳng còn có đối đãi, vượt khỏi địa vị “tâm lượng chẳng thể nghĩ bàn”, có mười tâm vô biên trí sanh khởi. Đấy chính là quả tướng của Sơ Địa. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phát thập đại nguyện dĩ, tắc đắc lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô trược tâm” (Đã phát mười đại nguyện rồi, liền đạt được lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô trược tâm). Kế đó, lại thành tựu mười loại pháp nhằm tịnh trị các địa, tức là từ, bi, hỷ, xả, chẳng hề chán bỏ, biết các kinh luận khéo giảng giải pháp thế gian, tàm quý, sức cái nhân vững chắc, cúng dường chư Phật, y giáo tu hành.

          Lại nữa, đã trụ trong địa vị  ấy, khéo  biết  chướng  trong  các  địa,

khéo biết mỗi địa vị thành hoại, khéo biết tướng quả của mỗi địa, khéo biết tu tập như thế nào để chứng đắc địa vị, khéo biết pháp thanh tịnh trong địa vị ấy, khéo biết chuyển hạnh trong mỗi địa, khéo biết xứ phi xứ[36] trong mỗi địa, khéo biết trí thù thắng trong mỗi địa, khéo biết bất thoái chuyển trong mỗi địa, khéo biết tịnh trị hết thảy Bồ Tát địa, cho đến chuyển nhập Như Lai địa. Có nhiều loại “mười thứ tâm” như thế, nếu rộng phân biệt, sẽ có trăm vạn A-tăng-kỳ độ môn, cho nên nói là “vô biên trí sanh”. Nếu xét theo ba tâm trước, sẽ nói thành mười tâm.

          Nếu luận định thông thường về địa vị Tín Giải, thì Sơ Địa là chủng tử, Nhị Địa là mầm, Tam Địa là nứt vỏ, Tứ Địa là lá, Ngũ Địa là hoa, Lục Địa là quả, Thất Địa là thọ dụng chủng tử, Bát Địa là nương tựa vô úy; đó gọi là “quả trong cái quả”. Cửu Địa sanh khởi trí huệ tiến lên cầu Phật địa, tức là cái tâm tối thắng. Thập Địa thì tâm ấy quyết định. Hai tâm ấy chẳng phải là cảnh giới khác, vẫn thuộc vào tâm thứ tám, nhưng xét theo phương tiện chuyển biến mà tách ra đó thôi! Nếu xét trong mỗi địa, thì cũng tự có đủ mười tâm ấy. Vả nữa, như khi trụ trong Sơ Địa, thành tựu pháp tịnh trị các địa, và biết tướng của các địa, tức là trước đó đã thấu hiểu một địa. Nhờ vào đó làm nhân, trí huệ tăng trưởng, bèn thấu hiểu hai địa. Dùng mười tâm để suy luận tương tự sẽ biết. Kinh Hoa Nghiêm có rất nhiều “mười pháp môn”, cũng nên chuẩn theo thứ tự ấy để rộng nói phân biệt. Nhưng điều được đề cao trong kinh này là từ Sơ Địa liền nhập kim cang bảo tạng. Đối với mỗi điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Thập Địa, theo như [Thiện Vô Úy] A-xà-lê truyền dạy, đều cần phải giải thích theo hai loại:

          - Một là giải thích nông cạn, sơ lược.

          - Hai là giải thích theo lối bí mật, sâu xa.

          Nếu chẳng thấu đạt mật hiệu như thế, chỉ dựa theo văn tự để nói (tức là giải thích nông cạn, sơ lược) thì nhân duyên sự tướng chỉ dính dáng đến phẩm Thập Trụ. Nếu giải thích theo sự sanh khởi của mười sáu vị đại Bồ Tát thuộc kinh Kim Cang Đảnh[37], sẽ tự chứng biết.

          Kinh dạy: “Ngã nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc” (Hết thảy những điều ta nói trong các cõi đều dựa theo đây mà đạt được). Cảnh giới vô tận trang nghiêm thuộc hết thảy các trí địa trên đây và vô lượng Tu Đa La khác, hết thảy hạnh quả được đức Phật khen ngợi, không gì chẳng do điều này mà đạt được. Vì thế, các kinh khác là rộng tán thán thân, lá, hoa, quả của thụ vương (cây chúa) Sa La như thế; nay trong kinh này, chỉ nói đến chủng tử và nhân duyên sanh trưởng của thụ vương ấy. Nếu lìa nhân duyên ấy mà có thể thành tựu cái quả, sẽ chẳng có lẽ ấy! Vì thế, xưng tụng kinh Đại Nhật là vua, chẳng phải vì lẽ này hay sao?

          Kinh lại nêu ra lợi ích để khuyên tu như sau: “Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết Trí Tín Giải địa, phục việt nhất thiết, thăng trụ thử địa” (Vì thế, người có trí hãy nên tư duy địa vị Nhất Thiết Trí Tín Giải này, lại vượt khỏi hết thảy để tiến lên, trụ trong địa vị này), tức là vừa mới nhập địa vị Tín Giải, lại vượt qua một tầng Tế Hoặc của một trăm sáu mươi tâm, gọi là “vượt thoát đại A-tăng-kỳ kiếp thứ ba”. Khi hành giả mới quán tánh Không, giác ngộ hết thảy các pháp đều vào trong Thật Tế của cái tâm, dưới là chẳng thấy chúng sanh có thể độ, trên là chẳng thấy chư Phật để có thể cầu. Khi đó, vạn hạnh ngưng nghỉ, gọi là “rốt ráo”. Nếu trụ vào đó, tức là chẳng lui sụt, chẳng đọa xuống địa vị Nhị Thừa, nhưng chưa tiến lên, đạt tới địa vị Bồ Tát, thì gọi là Pháp Ái Sanh, cũng gọi là tâm vô ký. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm và sức gia trì của Như Lai, lại có thể phát khởi bi nguyện. Khi đó, mười phương chư Phật đồng thời hiện tiền để khuyến dụ. Do được chư Phật dạy bảo, [hành nhân] chuyển sanh cực vô tự tánh tâm, cho đến Thật Tế của tâm cũng chẳng thể được. Tuy giải thoát hết thảy các nghiệp phiền não, nhưng nghiệp phiền não vẫn còn đầy đủ. Đạt tới địa vị chẳng thể nghĩ bàn này, mới gọi là “thật sự lìa khỏi địa vị Nhị Thừa”. Tức là đối với ý nghĩa của ba câu trước đó, lại khơi mở Phật địa là phương tiện tâm thượng thượng. Khi đạt tới cái tâm thứ tư ấy, gọi là Nhất Thiết Trí địa rốt ráo, nên nói là “tứ phần chi nhất độ ư tín giải” (vượt thoát một phần tư trong tín giải)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện cứu thế giả diễn thuyết tâm tướng, Bồ Tát hữu kỷ chủng đắc vô úy xứ?” Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Đế thính! Cực thiện tư niệm! Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy. Nhược như thật tri ngã, đương đắc thân vô úy. Nhược ư thủ uẩn sở tập ngã thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngã vô úy. Nhược hại uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy. Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngã vô úy. Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngã, thọ mạng đẳng, cập pháp vô duyên Không, tự tánh vô tánh, thử Không trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy.

          ()爾時執金剛祕密主白佛言世尊願救世者演說心相菩薩有幾種得無畏處如是說已摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言諦聽極善思念祕密主彼愚童凡夫修諸善業害不善業當得善無畏若如實知我當得身無畏若於取蘊所集我身捨自色像觀當得無我無畏若害蘊住法攀緣當得法無畏若害法住無緣當得法無我無畏若復一切蘊界處能執所執我壽命等及法無緣空自性無性此空智生當得一切法自性平等無畏

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nguyện đấng cứu thế diễn nói tâm tướng, Bồ Tát có mấy loại vô úy xứ?” Nói như thế xong, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lắng nghe! Hãy suy niệm cực khéo! Này Bí Mật Chủ! Phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, tu các thiện nghiệp, trừ bỏ bất thiện nghiệp, sẽ đạt được sự không sợ hãi tốt lành. Nếu biết ngã đúng như thật, sẽ đạt được thân vô úy. Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp của chính mình mà lìa bỏ cái thấy [chấp trước] đối với hình sắc của chính mình, sẽ đạt được vô ngã vô úy. Nếu trừ khử sự nắm níu đối với pháp uẩn trụ, sẽ đạt được pháp vô úy. Nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đắc pháp vô ngã vô úy. Nếu lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngã, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên Không mà biết là tự tánh vô tánh, do Không trí ấy sanh khởi, sẽ đạt được sự vô úy bình đẳng nơi tự tánh của hết thảy các pháp).

         

          Đoạn này vẫn nhằm đáp câu hỏi về tâm tướng (tướng trạng của cái tâm) trong phần trước. Do ngài Kim Cang Thủ đã nghe [đức Thế Tôn] dạy các Bồ Tát hãy tiến thẳng lên địa vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, nên hỏi đức Thế Tôn: “Khi các vị Bồ Tát ấy hành đạo, sẽ có mấy chỗ không sợ hãi?” Đức Phật lại dựa theo ba [A-tăng-kỳ] kiếp sai biệt như đã nói trên đây để giải thích tương ứng.

          [Vô Úy Xứ trong] tiếng Phạn là A Thấp Phạ Sa (Assāsaniyā), phải nên dịch sát nghĩa là Tô Tức (蘇息, hồi phục hơi thở). Như người bị kẻ có sức mạnh nắm giữ, bóp họng ngộp thở, sắp chết ngất, bỗng được buông ra, lại được hồi tỉnh. Chúng sanh cũng giống như thế, bị vọng tưởng nghiệp phiền não trói buộc, các duyên tiếp xúc (các giác quan) đều bị đóng chặt, đến lúc này, lục xứ như được tái sanh, nên gọi là Tô Tức Xứ (chỗ được phục hồi hơi thở). Cũng như khi vượt qua đường hiểm ác, cái tâm thơ thới, chẳng sợ hãi, nên gọi là Vô Úy Xứ. Đức Phật dạy: “Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội, tu các nghiệp lành, trừ khử nghiệp chẳng lành, sẽ đạt được vô úy tốt lành): “Thiện” bao gồm hai nghĩa cạn và sâu. Ở đây, có ý nói về Thập Thiện Nghiệp Đạo. Như người đời do nhân duyên Thập Bất Thiện Đạo mà hụp lặn, trôi giạt trong đường ác chẳng cùng tận. Sau đó, do đạt được tám tâm thuận thế, dần dần thọ Tam Quy Ngũ Giới, trong vô lượng đời, sanh trong loài người hoặc chư thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, tránh khỏi nỗi khổ cùng cực trong tam đồ, thì gọi là Tối Sơ Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập tam-muội-da, nương theo Tam Mật để cúng dường, tu hành, địa vị sẽ ngang bằng [với Tối Sơ Tô Tức Xứ].

          Kinh dạy: “Nhược như thật tri ngã, đương đắc thân vô úy” (Nếu đúng như thật biết ngã, sẽ đạt được thân vô úy): Như lúc hướng về thân để tu quán, thấy thân này là cái được kết hợp bởi ba mươi sáu vật[38], năm thứ bất tịnh xấu ác lộ ra đầy ắp, trọn chẳng vì thế mà sanh lòng tham ái. Kế đó, lại quán “thọ, tâm, pháp”, đạt được chẳng lìa “quán bốn thứ điên đảo nơi tánh của ngã”, đối với các thứ kiềm chế, trói buộc từ cái thân mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu khi các tướng thuộc bổn tôn tam-muội của hành giả Chân Ngôn hiện tiền, sẽ có địa vị bằng với địa vị này.

          Kinh nói: “Nhược ư thủ uẩn sở tập ngã thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngã vô úy” (Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp, xả tự sắc tượng quán, sẽ đắc vô ngã vô úy), tức là khi quán “chỉ có Uẩn, không có ngã”, đối với Ấm, Giới, Nhập, sẽ phân tích, truy tìm đủ mọi lẽ, đều chẳng thể có được ngã. “Xả thử tự sắc tượng” (Xả sắc tượng của chính mình): Ví như do cây mà có bóng cây hiển hiện. Nếu chẳng có cây, bóng cây sẽ do đâu mà sanh? Nay Ngũ Uẩn còn do duyên sanh, đều vô tự tánh, huống hồ trong cái được tích tập ấy mà có Ngã ư? Như trong phần trên đã nói, cho tới chứng cái tâm trạm tịch, lìa hết thảy các lỗi, thì sẽ đối với chỗ kiềm chế, trói buộc của Ngã, bèn đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn trong hết thảy các giai đoạn thuộc cảnh giới Du Già, đều có thể quán tâm “chẳng thể được”, chẳng sanh ái và mạn, thì địa vị sẽ bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược hại Uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy” (Nếu trừ bỏ sự nắm níu đối với pháp Uẩn trụ, sẽ đắc pháp vô úy), tức là hành giả tâm trụ trong Uẩn, muốn phát khởi lìa bỏ; khi đó, từ các thí dụ như huyễn, dương diễm v.v… mà quán sát các Uẩn chính là Không, lìa tám tâm thuận tùng hay trái nghịch, chứng tịch nhiên giới. Do lìa sự trói buộc, kiềm chế của Uẩn, bèn đạt được Tô Tức Xứ đối với pháp. “Pháp” là nói mười câu duyên sanh. Nếu hành giả Chân Ngôn nhận biết cảnh giới Du Kỳ trong hiện tại đều như gương, hoặc như trăng trong nước, vô tánh, vô sanh, địa vị sẽ bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngã vô úy” (Nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đạt vô ngã, vô úy đối với pháp), tức là tâm vô duyên thừa, quán tánh của pháp là vô ngã, ở ngoài tâm thì trí có hình bóng hay không đều là chẳng thể được, tâm vương tự tại, nhận biết vốn chẳng sanh, lìa khỏi sự kiềm chế, trói buộc của pháp, sẽ đối với pháp vô ngã mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn khi tâm được tác dụng tự tại trong đạo Du Già, địa vị sẽ ngang bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngã, thọ mạng đẳng, cập Pháp Vô Duyên Không, tự tánh vô tánh. Thử Không trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy” (Nếu lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngã, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên Không, [mà biết là] tự tánh vô tánh. Do sanh khởi Không trí ấy, sẽ đạt được vô úy bình đẳng trong tự tánh của hết thảy các pháp). Tức là khi quán tánh Không rốt ráo của tự tâm, Ngã, Uẩn pháp và vô duyên đều có cùng một tánh, tức là tự tánh vô tánh. “Thử Không trí sanh” (Sanh khởi Không trí ấy) tức là lúc đó, cực vô tự tánh tâm sanh khởi. Đối với nghiệp phiền não v.v… đều chẳng bị trói buộc, mà cũng chẳng giải thoát. Vì thế nói là “tự tánh của hết thảy các pháp đều bình đẳng”. Lúc đó, đối với sự kiềm chế, trói buộc của hữu vi giới và vô vi giới, bèn đạt được Tô Tức Xứ, tức là Bồ Đề tâm như hư không vô cấu của hành giả Chân Ngôn. Nhưng cái tâm ấy dù tại triền (còn bị phiền não ràng buộc), hay xuất triền (thoát khỏi phiền não), đều rốt ráo vô tướng, dùng ngũ nhãn của Như Lai để quán kỹ, vẫn chẳng thể biết tướng mạo của nó được, huống hồ kẻ trong sanh diệt [mà toan hiểu biết rành rẽ] ư? Nay sở dĩ nói rộng sáu món vô úy xứ trong ba kiếp có rất nhiều tâm tướng, đều là dựa theo hình tướng bên ngoài, hòng nói rõ sự tu chứng sâu hay cạn. Trong phần trước đã nói do thấy tướng trạng của khói, có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa. Chỉ biết tâm cấu đã hết, thì hý luận chẳng còn, tức là món vô úy xứ thứ sáu, còn muốn biểu thị như thế nào nữa ư?

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, thâm tu quán sát thập duyên sanh cú, đương ư Chân Ngôn hạnh thông đạt, tác chứng. Vân hà vi thập? Vị như huyễn, dương diệm, mộng, ảnh, Càn Thát Bà thành, hưởng, thủy nguyệt, phù bào, hư không hoa, toàn hỏa luân. Bí Mật Chủ! Bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đương như thị quán sát.

          ()祕密主若真言門修菩薩行諸菩薩深修觀察十緣生句當於真言行通達作證云何為十謂如幻陽焰乾闥婆城水月浮泡虛空華 旋火輪

祕密主彼真言門修菩薩行諸菩薩當如是觀察

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, tu tập sâu xa quan sát mười câu duyên sanh, sẽ thông đạt, tác chứng Chân Ngôn hạnh. Thế nào là mười? Chính là như huyễn, ánh nắng gợn, mộng, hình bóng, thành Càn Thát Bà, tiếng vang, trăng trong nước, bọt nước nổi, hoa đốm trên hư không, vòng lửa xoay. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn ấy hãy nên quan sát như thế).

 

          Đây là giải đáp đại lược câu hỏi về tu hành trong đoạn trước. Như trong đoạn kinh văn nói về phương tiện vạn hạnh trong phần sau, không gì chẳng nhờ vào mười câu duyên sanh này để tịnh trừ cấu nhơ trong tâm. Vì thế, hãy nên biết đây là ý chỉ trọng yếu nhất, hành giả Chân Ngôn phải nên đặc biệt lưu ý tư duy. Nhưng luận định chung mười câu duyên sanh trong phẩm này thì đại lược có ba loại:

          - Một, do tâm chìm đắm trong Uẩn, do muốn đối trị thật pháp, mà quán mười câu duyên sanh ấy, tức “là Không, là huyễn” như đã nói trong phần trước.

          - Hai, do tâm chìm đắm trong pháp, do muốn đối trị sự nắm níu cảnh giới, mà quán mười câu duyên sanh này, tức “Uẩn A Lại Da chính là huyễn nơi tâm” như đã nói trong phần trước.

          - Ba, do chấp trước sâu đậm mà đắm chìm trong Thật Tế của tâm, do muốn lìa hữu vi giới, vô vi giới, mà quán mười câu duyên sanh này, như trong phần trên đã nói: “Giải thoát hết thảy các nghiệp phiền não, mà nghiệp phiền não đều nương trọn vào đó”, tức là huyễn chẳng thể nghĩ bàn.

          Mười thí dụ trong kinh Ma Ha Bát Nhã cũng bao hàm trọn ba ý ấy. Ở đây nói “thâm tu quán sát” (tu quán sát sâu xa), tức là nói tới tầng thứ ba. Hơn nữa, trong Du Già, hành giả dùng tự tâm để cảm, Phật tâm là ứng. Do nhân duyên cảm ứng, ngay lập tức Tỳ Lô Giá Na Phật hiện thân mà chúng sanh thích thấy, tuyên nói pháp thích hợp cho họ nghe, nhưng tâm ta cũng rốt ráo tịnh, mà tâm Phật cũng rốt ráo tịnh. Nếu coi tâm ta là tự, thì tâm Phật là tha, nay cảnh giới này là do tự sanh, hay tha sanh, hay [tự và tha] cùng sanh, hay chẳng có nhân mà sanh? Dùng các thứ môn trong Trung Luận để quán, sanh chẳng thể được, mà hình và tiếng rành rành, tức là pháp giới. Luận huyễn thì chính là huyễn, luận pháp giới thì chính là pháp giới, luận trọn khắp hết thảy mọi nơi thì là trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do luận theo huyễn, nên gọi là “huyễn chẳng thể nghĩ bàn”.

Lại nữa, nói “thâm tu” tức là đã đắc tịnh tâm trở lên, từ đại bi mà sanh căn, cho đến phương tiện rốt ráo. Đối với mỗi một duyên khởi trong ấy, đều nên dùng mười thí dụ để quán. Do điều chứng ngộ sâu dần, nên nói là “quán sát”. Lại như nghĩa Tứ Đế, trực tiếp dạy trong thế giới Sa Bà đã có vô lượng vô biên tên gọi sai biệt, huống hồ các phương tiện nhằm thích ứng các căn cơ trong vô tận pháp giới, [các danh xưng của Tứ Đế] há có thể cùng tận ư? Nay hành giả trong một niệm tịnh tâm, thông đạt Tứ Đế nhiều như cát bụi như thế, Không thì rốt ráo chẳng sanh, Hữu thì tận hết tánh tướng, Trung thì toàn bộ cái Thể đều là thường. Do ba pháp chẳng có tướng nhất định, nên gọi là “huyễn chẳng thể nghĩ bàn”. Giống như Tứ Đế, [biện định] hết thảy các pháp môn cũng phỏng theo lệ đó. Vì thế, chỉ có Như Lai mới có thể thấu hiểu cùng tận mười thí dụ ấy, thấu đạt nguồn cội của chúng. Trong kinh này, ngay sau phần nói về vô cấu Bồ Đề tâm, bèn nêu ra mười thí dụ, bao quát trọn khắp từ đầu đến cuối các địa. Đã là do gặp duyên mà tạo thành phép Quán, chẳng thể nói lặp lại nhiều lần, nay đành dựa theo [cách giải thích trong bộ] Thích Luận để nói đại lược chỗ quy túc vậy!

 

          (Kinh) Vân hà vi huyễn? Vị như chú thuật, dược lực năng tạo, sở tạo chủng chủng sắc tượng, hoặc tự nhãn cố, kiến hy hữu sự triển chuyển tương sanh, vãng lai thập phương. Nhiên bỉ phi khứ, phi bất khứ. Hà dĩ cố? Bổn tánh tịnh cố. Như thị Chân Ngôn huyễn, trì tụng thành tựu, năng sanh nhất thiết.

          ()云何為幻謂如呪術藥力能造所造種種色像惑自眼故見希有事展轉相生往來十方然彼非去非不去何以故本性淨故如是真言幻持誦成就能生一切

          (Kinh: Thế nào là huyễn? Tức là như chú thuật, hoặc do sức thuốc có thể tạo tác các thứ hình sắc, mê hoặc mắt mình, thấy các sự hy hữu lần lượt sanh ra, qua lại mười phương. Nhưng chúng nó chẳng đi, chẳng phải là không đi. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh. Chân ngôn là huyễn cũng giống như thế, nhưng trì tụng thành tựu sẽ có thể sanh ra hết thảy).

 

          Đức Phật nói “dược lực chẳng thể nghĩ bàn”, như người do sức thuốc mà có thể bay lên hư không, ẩn thân, đi trong nước, bước trong lửa. Đối với các chuyện ấy, các vị luận sư chẳng thể kiến lập các nguyên nhân để giải thích nguyên do được, mà cũng chẳng thể sanh nghi, bảo là “nhất định phải nên như thế này”, hoặc “chẳng nên như thế nọ”. Cảnh giới vượt khỏi sự trù tính, suy lường như thế, chỉ có người đích thân sử dụng thuốc ấy, chấp trì vận dụng thì mới chứng biết đó thôi! Lại như do nhân duyên của thuốc hay chú thuật, có thể thị hiện tạo ra đủ loại hình sắc, tuy trong các duyên, dẫu tìm cầu cặn kẽ từng điều, đều chẳng thấy sanh xứ (chỗ sanh khởi) của chúng, nhưng chúng vẫn hiện tiền rành rẽ đối trước năm tình (năm căn). Tuy lần lượt sanh ra lẫn nhau, qua lại mười phương, nhưng cũng chẳng phải là đến đó, mà cũng chẳng phải là không đến đó. Chuyện này cũng chẳng phải là cảnh để suy tính, dò lường, suy xét được!

          Thích Luận nói: “Đức Phật hỏi Đức Nữ: ‘Ví như huyễn sư huyễn hóa đủ mọi sự, ý bà nghĩ sao? Cái do huyễn tạo tác là ở bên trong mà có hay chăng?’ Đáp rằng: ‘Thưa không!’ Lại hỏi: ‘Là ở bên ngoài mà có hay chăng? Trong và ngoài đều có hay chăng? Từ đời trước tới đời này, từ đời này tới đời sau hay chăng? Cái do huyễn tạo ra có sanh, có diệt hay chăng? Thật sự có một pháp do huyễn tạo tác hay chăng?’ [Đức Nữ] đều đáp rằng: ‘Không ạ!’ Đức Phật bảo: ‘Há bà có thấy, nghe kỹ nhạc do huyễn tạo tác hay không?’ Đáp: ‘Con cũng thấy, cũng nghe’. Đức Phật nói: ‘Nếu huyễn là Không, hư dối, chẳng thật, vì sao từ huyễn mà có thể tạo tác kỹ nhạc?’ Đức Nữ đáp: ‘Bạch đại đức! Đó là huyễn tướng vốn sẵn như thế, tuy chẳng có căn bản mà có thể thấy, nghe’. Đức Phật nói: ‘Vô minh cũng như thế, tuy chẳng phải là bên trong có, cho đến chẳng có sanh diệt, nhưng do vô minh làm nhân duyên mà các hành sanh ra. Nếu vô minh tận thì hành cũng tận, cho tới nói rộng [các chi còn lại trong Thập Nhị Nhân Duyên, cũng đều như thế]”. Nay trong Chân Ngôn môn này, sánh ví người trì tụng cũng lại giống như thế, như kinh văn trong phần sau sẽ nói cặn kẽ. Nương vào Tam Mật tu hành, được thành tựu hết thảy các chuyện lạ lùng, đặc biệt, chẳng nghĩ bàn! Tuy trong mỗi sự đều tìm cầu cặn kẽ, rốt cuộc đều lìa bốn câu (có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không). Pháp vốn sẵn là như thế, chẳng khác tịnh tâm, nhưng tự tại thần biến rành rành chẳng sai! Chuyện này các vị đại luận sư là những người khéo biện luận, lợi căn đều chẳng thể dò lường được, chỉ riêng người có phương tiện đầy đủ để thành tựu Tất Địa tự chứng biết đó thôi!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dương diễm tánh Không, bỉ y thế

nhân vọng tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị. Như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh.

          ()復次祕密主陽焰性空彼依世人妄想成立有所談議如是真言唯是假名

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Tánh của ánh nắng gợn là Không, do nó nương vào vọng tưởng của người đời mà thành lập những điều bàn luận. Các tướng trong Chân Ngôn cũng giống như thế, chỉ là giả   danh).

 

          Thích Luận nói: “Do ánh nắng [chiếu qua] bụi bị gió cuốn, xao động trong đồng trống như ngựa hoang, kẻ vô trí thoạt nhìn ngỡ là nước. Chúng sanh cũng thế. Do ánh nắng kết sử phiền não dao động các bụi Hành, bị gió tà ức niệm xoay chuyển trong đồng hoang sanh tử, kẻ không có trí huệ cho rằng tướng này là nam, tướng nọ là nữ. Lại nữa, nếu nhìn từ xa thì ngỡ là nước, tới gần chẳng có tướng nước. Kẻ cách xa thánh pháp cũng giống như thế, chẳng biết vô ngã và các pháp là Không, đối với Ấm, Giới, Nhập vốn là các pháp tánh Không mà sanh ra tưởng ý tưởng là người v.v… Nếu thân cận thánh pháp, ắt biết Thật Tướng của các pháp, Khi đó, các thứ vọng tưởng hư dối đều bị trừ sạch”. Kinh này có ý nói: Như người đời nhìn đồng trống từ xa, người nhìn từ xa chỉ thấy tướng nóng hừng hực, bèn cưỡng lập giả danh, chứ tìm cầu thì sẽ là thật sự chẳng có. Vì thế nói là “vọng tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị” (do vọng tưởng mà thành lập mà có các điều bàn luận). Như hành giả Chân Ngôn, từ trong Du Già, thấy các thứ cảnh giới lạ lùng, đặc biệt, cho đến hải hội của chư Phật trang nghiêm vô tận, lúc đó, hãy nên quán [các tướng ấy] như ánh nắng gợn, biết rõ đó chỉ là giả danh, lìa khỏi khinh mạn, chấp trước, chuyển tới gần tâm địa, sẽ ngộ “các thứ nhân duyên thần biến gia trì chỉ là tướng nắng gợn của pháp giới”, cho nên nói “như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh” (tướng Chân Ngôn như thế chỉ là giả danh).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như mộng trung sở kiến trú nhật, Mâu Hô Lật Đa, sát-na, tuế thời đẳng trụ, chủng chủng dị loại thọ chư khổ lạc, giác dĩ đô vô sở kiến. Như thị mộng Chân Ngôn hạnh, ưng tri diệc nhĩ.

          ()復次祕密主如夢中所見晝日牟呼栗多剎那歲時等住種種異類受諸苦樂覺已都無所見 如是夢真

言行應知亦爾

          (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Như những cảnh được thấy trong mộng, tuy chỉ tồn tại trong một Mâu Hô Lật Đa[39], hoặc sát-na của ban ngày, mà như kéo dài cả năm, và thấy các thứ dị loại hứng chịu các thứ khổ lạc. Tỉnh giấc thì đều chẳng thấy gì. Hãy nên biết hạnh Chân Ngôn cũng giống như giấc mộng như thế).

         

          Thích Luận nói: “Như trong mộng đều chẳng có sự thật, mà cho là thật sự có. Tỉnh giấc biết là không, bèn tự cười xòa. Con người cũng như thế, ở trong giấc ngủ kết sử, thật sự chẳng có gì mà chấp trước. Khi đắc đạo, đã tỉnh giấc, bèn biết là không, cũng sẽ tự bật cười”. Lại như do sức của giấc ngủ, chẳng có pháp mà thấy có pháp, chẳng có chuyện vui vẻ mà vui vẻ, chẳng có chuyện giận dữ mà giận dữ, chẳng có chuyện sợ hãi mà sợ hãi! Chúng sanh cũng thế, do sức của giấc ngủ vô minh, chẳng nên giận dữ, lo sợ, mà sanh lòng giận dữ, lo, sợ v.v… Vì thế, nay lại nói các chuyện chẳng thể nghĩ bàn thuộc về mộng. Như trong mộng, tự thấy trụ thọ một ngày, hai ngày, cho tới vô lượng năm, có đủ loại quốc độ và tộc loại chúng sanh, hoặc lên cung trời, hoặc ở trong địa ngục để hưởng vui, chịu khổ. Khi tỉnh giấc thì chỉ là trong vòng một niệm! Trong cái tâm khi đã tỉnh giấc, đối với pháp nhân duyên thuộc về giấc ngủ, tìm cầu bốn câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không) đều chẳng thể được, nhưng nghĩ nhớ chuyện trong mộng rành rành chẳng sai. Dùng một niệm làm ngàn vạn năm, dùng một tâm làm vô lượng cảnh, những người có trí trong thế gian chẳng thể suy đoán, dò lường tột cùng cội nguồn của chuyện này, mà cũng chẳng thể có chỗ đáng nghi, chỉ riêng người nằm mộng đích thân chứng biết.

          Nay giấc mộng Du Già của hành giả Chân Ngôn cũng giống như thế, hoặc trong khoảnh khắc thấy trọn khắp vô lượng cảnh giới được gia trì, hoặc chẳng đứng lên khỏi chỗ ngồi mà trải qua nhiều kiếp, hoặc dạo khắp các cõi Phật, thân cận, cúng dường, lợi ích chúng sanh. Chuyện này nếu quán sát trong các nhân duyên, [sẽ thấy] đều chẳng có chỗ dấy lên, không ra ngoài một niệm tịnh tâm, nhưng vẫn phân biệt chẳng sai lầm. Ai có thể nghĩ bàn nguyên do của chuyện này? Thật sự chỉ riêng người đã chứng tự biết mà thôi! Hành giả đạt được cảnh giới như thế, chỉ nên dùng thí dụ về mộng để quán, tâm chẳng nghi ngờ, lấy làm lạ, mà cũng chẳng sanh tâm chấp trước, tức là dùng giấc mộng hiện trọn khắp sắc thân để trang nghiêm vô tận. Vì thế nói “thâm tu thập cú” (tu sâu mười câu) vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ ảnh dụ giải liễu Chân Ngôn năng phát Tất Địa, như diện duyên ư kính, nhi hiện diện tượng, bỉ Chân Ngôn Tất Địa đương như thị tri.

          ()復次祕密主以影解了真言能發悉地如面緣於鏡而現面像彼真言悉地當如是知

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về hình bóng để hiểu rõ Chân Ngôn có thể phát khởi Tất Địa, như do soi mặt vào gương mà hiện ra vẻ mặt, hãy nên biết Chân Ngôn Tất Địa cũng giống như thế).

 

          “Ảnh” được nói ở đây chính là thí dụ “hình bóng trong gương” được nói trong Thích Luận. Luận ấy viết: “Như hình bóng trong gương, chẳng do gương tạo ra, chẳng do mặt tạo ra, chẳng do người cầm gương tạo ra, chẳng phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải không có nhân duyên mà có. Vì sao chẳng phải do gương tạo? Nếu mặt chưa soi vào, gương sẽ chẳng có hình bóng. Vì sao chẳng phải do mặt tạo ra? Do không có gương, sẽ không có hình bóng. Vì sao chẳng do người cầm gương tạo ra? Do không có gương, không có mặt, sẽ không có hình bóng. Vì sao chẳng phải tự nhiên tạo ra? Nếu chẳng có gương, chẳng có mặt, sẽ chẳng có hình bóng. Phải đợi có gương, có mặt rồi mới có hình bóng. Cũng chẳng phải là không có nhân, vì nếu chẳng có nhân duyên, nó phải nên thường có, hoặc thường không. Dù bỏ gương, bỏ mặt đi, [hình bóng] cũng phải nên tự xuất hiện. Do vậy, chẳng phải là không có nhân duyên. Hãy nên biết các pháp cũng giống như thế, do ngã chẳng thể được, hết thảy các pháp sanh bởi nhân duyên sẽ chẳng tự tại. Do các pháp thuộc vào nhân duyên, nên chẳng phải là tự tạo tác. Nếu tự chẳng có, thì tha cũng chẳng có. Vì thế, chẳng phải do cái khác tạo tác. Nếu do cái khác tạo tác, ắt sức tội phước sẽ bị mất. Cũng chẳng phải là “cộng tác” (do tự tác và tha tác cùng tạo thành), [vì nếu hiểu là như thế] sẽ mắc lỗi [chấp có] nhị biên. Cũng chẳng phải là không có nhân, như nghiệp nhân trong đời trước, hạnh thiện ác trong đời này làm duyên, do vậy mà có khổ, vui. Hết thảy các pháp ắt có nhân duyên, nhưng do ngu si nên chẳng biết đấy thôi. Như trẻ nít trông thấy hình bóng trong gương, tâm yêu thích, khi [hình bóng] mất đi, bèn phá vỡ gương để tìm kiếm, người trí bật cười. [Kẻ mê muội trong thế gian] mất đi sự vui bèn tìm kiếm cũng giống như thế, cũng bị bậc thánh nhân đắc đạo cười  cợt”.

          Nay trong môn Chân Ngôn này, dùng tịnh thân trong Tam Mật của Như Lai làm gương, hành vi nơi thân trong Tam Mật của chính mình làm hình bóng trong gương. Do nhân duyên mà có Tất Địa sanh ra, giống như vẻ mặt [hiện ra khi soi mặt vào gương]. Nếu lúc Tất Địa của hành giả thành tựu, cho đến dấy khởi năm món thần thông, trụ thọ dài lâu, diện kiến mười phương quốc độ, dạo các cõi Phật, đều dùng thí dụ này để quan sát chuyện ấy từ tự sanh ra, hay từ tha sanh ra? Nếu nói là “do Tam Mật của người khác gia trì, có thể trao cho [chúng sanh] cái quả ấy”, thì khi chúng sanh chưa tu hành, Phật cũng do lòng đại bi bình đẳng [sẽ trao cho], cớ sao chẳng khiến cho họ thành tựu? Nếu bảo là “tự tu hành đúng như lời dạy, sẽ có thể đạt được cái quả ấy”, do nhân nào mà quan sát thân Tam Mật như cái gương thanh tịnh để cầu gia bị vậy? Nếu cùng do cả hai (tự và tha), sẽ mắc lỗi nhị biên. Vì sao vậy? Nếu nói cái tâm ta làm nhân, đợi có các duyên thì mới được thành tựu, tức là trong cái nhân đã sẵn có cái quả Tất Địa từ trước ư? Hay là trước đó chẳng có? Nếu đã có sẵn từ trước, các duyên đều trở thành vô dụng. Nếu trước đó chẳng có, các duyên lại có tác dụng gì? Nhưng Tất Địa thành tựu ấy cũng lại chẳng phải là không có nhân duyên. Vì thế, Đại Trí Độ Luận có bài kệ nói về hình bóng trong gương như sau: “Chẳng có, cũng chẳng không, cũng lại chẳng có không, lời ấy cũng chẳng nhận. Như vậy gọi Trung Đạo”. Chớ nên như trẻ nít hư vọng nẩy sanh chấp giữ. Nếu quán như thế, tâm hành giả sẽ chẳng có gì để đạt được, chẳng sanh hý luận; cho nên nói “ưng như thị tri” (hãy nên biết như thế).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ Càn Thát Bà thành thí, giải liễu thành tựu Tất Địa cung.

          ()復次祕密主以乾闥婆城譬解了成就悉地宮

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về Càn Thát Bà để hiểu rõ cung điện thành tựu Tất Địa).

          Thích Luận viết: “Khi mặt trời mới mọc, thấy cửa thành, lầu gác, cung điện, người đi đường ra vào [tòa thành Càn Thát Bà]. Mặt trời mọc lên cao, [các cảnh tượng ấy] diệt mất. Thành ấy chỉ có thể mắt trông thấy, nhưng nó chẳng thật sự có. Có người thoạt đầu chưa từng thấy, cho là chỗ vui sướng thật sự, rảo bước đến đó. Tới gần bèn mất dấu. Mặt trời mọc lên cao, [tòa thành ấy] diệt mất. Đói khát, mệt mỏi cùng cực, thấy hơi nóng như ngựa hoang, cho là nước. Lại tìm đến đó, thậm chí cầu tìm mệt mỏi cùng cực mà chẳng trông thấy, bèn tư duy tự ngộ, cái tâm khát ngưỡng dứt bặt”. Hành giả cũng thế. Nếu dùng trí huệ “vô ngã, vô thật pháp” [để quán chiếu], lúc bấy giờ, ý nguyện điên đảo sẽ dứt bặt. Trong kinh Thanh Văn chẳng có thí dụ thành Càn Thát Bà này. Lại dùng tòa thành để sánh ví cái thân, nhằm nói các duyên ấy thật sự có, nhưng thành là giả danh, nhằm phá cái chấp “tôi, ta” vậy. Bồ Tát lợi căn, thâm nhập các pháp Không, cho nên dùng thành Càn Thát Bà làm thí dụ. “Tất Địa cung” được nói ở đây, có thượng, trung, hạ:

          - Thượng là cõi Phật mật nghiêm, vượt ngoài tam giới, hàng Nhị Thừa chẳng thể thấy nghe.

          - Trung là mười phương thanh tịnh, trang nghiêm.

          - Hạ là cung điện của chư thiên, Tu La v.v…

          Nếu khi hành giả thành tựu ba phẩm Trì Minh Tiên, an trụ trong cung Tất Địa như thế, hãy nên dùng thí dụ này để quan sát. Như do ánh nắng và hơi bốc lên từ biển làm nhân duyên, [mà có huyễn tượng] chỗ cư trụ trang nghiêm, tráng lệ, đài gác, người vật rạng rỡ đáng ưa, [gọi là “thành Càn Thát Bà”]. Chớ nên giống như kẻ ngu muội, xằng bậy nẩy sanh tham chấp, cầu mong cho là thật. Do nhân duyên này, trong các loại ngũ trần thù thắng, nhiệm mầu, tịnh tâm sẽ chẳng vướng mắc!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ hưởng dụ giải liễu Chân Ngôn thanh, như duyên thanh hữu hưởng, bỉ Chân Ngôn giả đương như thị giải.

          ()復次祕密主以響喻解了真言如緣聲有響彼真言者當如是解

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về tiếng vọng để hiểu rõ âm thanh Chân Ngôn, như do âm thanh mà có tiếng vọng, người tu Chân Ngôn hãy nên hiểu như thế).

 

          Thích Luận nói: “Như hang  động  hay  khe  núi  trong  núi  thẳm,

hoặc chỗ khe suối sâu kín, hoặc trong tòa nhà lớn trống trải, do âm thanh của tiếng nói va chạm nhau, sẽ từ trong âm thanh ấy lại có tiếng phát ra, bèn gọi là tiếng vọng. Kẻ vô trí cho là có thật. Bậc trí suy nghĩ: ‘Âm thanh này không do ai tạo ra, chỉ là do âm thanh [ban đầu] chuyển biến, bèn có tiếng vọng lừa gạt tai người’. Khi người sắp nói, trong họng có gió, gọi là Ưu Đà Na, nhập trở vào bụng. Khi tiếng vang phát ra, va chạm bảy chỗ là đỉnh đầu, răng, môi, lưỡi, họng, ngực mà phát ra, thì gọi là “nói năng”. Kẻ ngu chẳng hiểu, bèn sanh ra Tam Độc. Bậc trí biết rõ, tâm chẳng chấp trước, chỉ tùy thuận Thật Tướng của các pháp”.

          Hành giả Chân Ngôn ở trong Du Già, nếu nghe đủ loại âm thanh thuận lòng hay trái ý thuộc tám gió, hoặc các vị thánh nhân dùng vô lượng pháp âm để dạy bảo trong hiện tiền, hoặc do lưỡi thanh tịnh mà có thể dùng một âm thanh trọn khắp thế giới. Khi gặp cảnh giới ấy, cũng nên dùng thí dụ về tiếng vọng để quán sát. Chúng chỉ từ các duyên thuộc Tam Mật mà có. Chuyện ấy chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Vì thế, chớ nên xằng bậy sanh hý luận trong ấy. Lúc bấy giờ, sẽ tự nhập pháp môn Âm Thanh Huệ.   

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như nhân nguyệt xuất cố, chiếu ư tịnh thủy, nhi hiện nguyệt ảnh tượng. Như thị Chân Ngôn thủy nguyệt dụ, bỉ trì minh giả đương như thị thuyết.

          ()復次祕密主如因月出故照於淨水而現月影像如是真言水月彼持明者當如是

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như do mặt trăng lộ ra, chiếu vào nước sạch, mà hiện ra bóng trăng. Cũng như thế, Chân Ngôn ví như trăng trong nước, người trì minh (trì chú) hãy nên nói như thế).

 

          Thích Luận nói: “Mặt trăng xoay vần trên hư không, hiện bóng trong nước. Vầng trăng pháp tánh chân thật ở trong hư không ‘như như pháp tánh Thật Tế’, mà tâm thủy của phàm phu có tướng ngã và ngã sở hiện ra. Lại như trẻ nít thấy trăng trong nước, bèn vui thích toan vớt lấy, người lớn trông thấy cười xòa. Kẻ vô trí cũng thế, do Thân Kiến cho nên thấy có ‘tôi, ta’. Do chẳng có Thật Trí nên thấy đủ loại pháp. Đã thấy rồi bèn hoan hỷ, muốn giữ lấy các tướng. Bậc thánh nhân đắc đạo cười xòa. Lại như chỗ nước trong lặng, trông thấy bóng trăng; nước xao động sẽ chẳng thấy. Trong nước lặng của cái tâm vô minh, sẽ thấy các bóng dáng kết sử ‘tôi, ta’ kiêu mạn. Dùng gậy trí huệ quấy tâm thủy, sẽ chẳng thấy nữa! Do vậy nói: Các Bồ Tát biết pháp như trăng trong nước”.

          Hành giả trì chú cũng giống như thế, do phương tiện Tam Mật lắng trong tự tâm, hải hội mật nghiêm của chư Phật đều hiện trong ấy. Hoặc tự dùng thân Như Ý Châu để hiện trong tâm thủy của hết thảy chúng sanh; lúc đó, hãy nên quán kỹ: “Tướng mật nghiêm ấy sanh từ tịnh tâm của ta ư? Hay là sanh từ thân thanh tịnh của Phật? Tự tha Thật Tướng còn tự rốt ráo bất sanh, huống hồ do nhân duyên trái nghịch mà có cái được sanh ư”. Lại như hết thảy sông, ngòi, giếng, ao, các đồ đựng lớn nhỏ, trăng cũng chẳng đến, mà nước cũng không đi, nhưng do một vầng trăng thanh tịnh mà có thể vào trọn khắp các chỗ có nước. Ta nay cũng giống như thế, tâm chúng sanh cũng chẳng đến, tự tâm cũng chẳng đi, nhưng thấy, nghe, đạt được lợi ích đều chân thật, chẳng hư huyễn. Vì thế, hãy nên dùng gậy trí huệ để khuấy, liền biết là chẳng thật! Chớ nên như trẻ nít, cứ muốn lập phương tiện để giữ lấy, coi là vật yêu thích để chơi đùa. Đã có thể lắng tịnh ý niệm ấy, sẽ lại như như bất động, vì người khác diễn nói. Cho nên nói là “trì minh giả đương như thị thuyết” (người trì chú hãy nên nói như thế).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như thiên giáng vũ, sanh bào, bỉ Chân Ngôn Tất Địa chủng chủng biến hóa, đương tri diệc nhĩ.

          ()復次祕密主如天降雨生泡彼真言悉地種種變化當知亦爾

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như trời đổ mưa, sanh ra bong bóng, hãy nên biết các thứ biến hóa nơi Chân Ngôn Tất Địa cũng như thế).

 

          Kinh Thanh Văn ví Thọ như bọt nước, còn kinh Bát Nhã dùng bong bóng làm thí dụ, tuy thật sự là vô tánh, nhưng nhân duyên vẫn là thật pháp. Vì vậy, trong mười câu [“duyên sanh” của kinh Bát Nhã] có [thí dụ]“như hóa”, mà chẳng nói tới thí dụ “bong bóng”. Nay thí dụ trong kinh này có ý nghĩa khác hẳn. Như tiết Hạ, trời đổ mưa, tùy theo giọt mưa to hay nhỏ mà sanh ra các bong bóng, hình loại đều khác, nhưng tánh nước vẫn là một vị, tự làm nhân duyên. Tìm cầu bốn câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không), [sẽ thấy chúng] chẳng do pháp nào khác sanh ra. Vì vậy, toàn bộ cái Thể của các bong bóng ấy là từ duyên. Bong bóng nổi lên tức là nước khởi lên, bong bóng vỡ tan tức là nước diệt. Vì thế, điều được thí dụ ở đây chính là sự biến hóa trong cái tâm. Như hành giả dùng ngay tự tâm để làm Phật, lại còn được vị Phật trong tâm chỉ bày phương tiện để ngộ, chuyển nhập vô lượng pháp môn. Lại dùng tâm làm Mạn-đồ-la, dùng cảnh này làm duyên cho tâm, sẽ có thể thực hiện đủ loại biến hóa chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, hành giả dùng thí dụ bong bóng nước để quán, biết rõ “chẳng lìa tự tâm”, cho nên chẳng sanh chấp trước.

          Thích Luận lại nói: “Người tu Định có mười bốn món biến hóa. Trời, rồng, quỷ thần cũng có thể biến hóa, như hóa sanh trọn chẳng có vật nhất định, chỉ do tâm sanh liền có, tâm diệt [thì các vật được biến hóa ấy] cũng diệt. Pháp ấy không có đầu, giữa, cuối, sanh thì chẳng từ đâu tới, mà diệt cũng là chẳng đi về đâu. Hãy nên biết các pháp cũng như thế. Lại như tướng biến hóa, thanh tịnh như hư không, chẳng đắm nhiễm, chẳng bị tội hay phước nhuốm bẩn. Các pháp cũng thế, pháp tánh, như như, Thật Tế tự nhiên thường tịnh. Ví như bốn con sông lớn nơi Diêm Phù Đề, mỗi sông có năm trăm sông nhỏ làm quyến thuộc, nước của các con sông ấy đủ loại bất tịnh, hễ đổ vào biển cả, thảy đều thanh tịnh”. [Đoạn trích dẫn này] có cùng một ý nghĩa với thí dụ về bong bóng nước vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như không trung vô chúng sanh, vô thọ mạng, bỉ tác giả bất khả đắc, dĩ tâm mê loạn cố, nhi sanh như thị chủng chủng vọng kiến.

          ()復次祕密主如空中無眾生無壽命彼作者不可得以心迷亂故而生如是種種妄見

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như trong hư không chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng, chẳng có tác giả để có thể đạt được, do tâm mê loạn mà sanh ra đủ mọi cách nhìn hư vọng như thế).

 

          Thích Luận nói: “Như hư không tức là nó chỉ có tên gọi, chẳng có thật pháp. Hư không chẳng phải là pháp có thể thấy, do nhìn từ xa thì mắt thấy nó màu xanh thẫm. Các pháp cũng giống như thế, không vô sở hữu. Do con người xa cách vô lậu Thật Trí mà vứt bỏ Thật Tướng, thấy đủ mọi thứ vật khác nhau như kẻ khác, ta, nam, nữ, nhà cửa, thành quách v.v… Tâm chấp trước như trẻ nít ngửa mặt nhìn trời xanh, cho đó là màu sắc thật sự [của bầu trời]. Có người bay lên xa tột bậc thì chẳng thấy gì nữa. Lại như hư không tánh thường thanh tịnh, người ta cho rằng tăm tối là bất tịnh. Các pháp cũng như thế, tánh ấy thường thanh tịnh, do bị dâm dục, nóng giận v.v… che lấp, mà người ta bảo là bất tịnh”. Kinh này nói “tâm mê loạn” là như người do các thứ nhân duyên như bệnh tật, hoặc phi nhân v.v… [khuấy nhiễu] mà tâm mê loạn, hư vọng thấy trong hư không thanh tịnh có đủ loại hình tướng nhân vật, hoặc là đáng sợ hãi, hoặc đáng tham đắm. Nếu khi đạt được bổn tâm, sẽ biết khi các chuyện ấy sanh thì chẳng nhuốm bẩn hư không. Khi [các chuyện ấy] diệt thì cũng chẳng phải là [hư không] hồi phục thanh tịnh, [chuyện ấy] vốn chẳng ngăn ngại hư không, mà cũng chẳng khác hư không. Khi hành giả tu quán hạnh, nếu có đủ loại ma sự, đủ loại cảnh phiền não, đều nên trụ tâm trong thí dụ này “như hư không thanh tịnh”. Tuy trong vô lượng kiếp, ở trong địa ngục, lúc đó, ý chẳng vướng mắc, như người đắc thần thông ở nơi hư không hiển sắc, tự tại phi hành, chẳng bị vọng tưởng “nhân, pháp” nhuốm bẩn!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thí như hỏa tẫn, nhược nhân chấp trì tại thủ, nhi dĩ toàn chuyển không trung, hữu luân tượng sanh.

          ()復次祕密主譬如火燼若人執持在手而以旋轉空中有輪像生

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Ví như tàn lửa, nếu có người cầm trong tay xoay tròn trên không, sẽ có hình tượng như một vòng lửa).       

 

          Như người cầm đuốc lửa, xoay chuyển trên hư không, tạo thành đủ loại tướng, hoặc vuông, hoặc tròn, tam giác, bán nguyệt, lớn, nhỏ, dài, ngắn, tùy ý mà làm. Trẻ nhỏ ngu muội trông thấy, cho là có thật, bèn sanh ý niệm chấp trước. Nhưng thật ra trọn chẳng có pháp nào sanh, chỉ do sức tay nhanh chóng, có thể chuyển một ngọn lửa thành vô lượng tướng. Nếu hành giả Chân Ngôn đối với Du Già, tùy tâm vận dụng, không gì chẳng thành tựu, cho tới trong một môn chữ A mà xoay chuyển vô ngại thành vô lượng pháp môn. Lúc bấy giờ, hãy nên quán theo thí dụ này: Chỉ do khéo vận dụng sức nhanh chóng nơi tâm Bồ Đề thanh tịnh nhất thể mà khiến thành ra như thế, chớ nên từ trong đó mà nẩy sanh đủ loại kiến giải, cho đó là thù thắng, nhiệm mầu để rồi nẩy sanh hý luận! Thích Luận không có thí dụ về vòng lửa xoay, nhưng có thí dụ riêng về hình bóng, nói rằng: “Như hình bóng có thể trông thấy, mà chẳng thể nắm bắt. Các pháp cũng như thế, tuy [có thể] thấy, nghe, hay, biết bởi tròng mắt, tai v.v… nhưng đều thật sự chẳng thể được. Lại như hình bóng do phản chiếu ánh sáng bèn hiện, chẳng có ánh sáng thì không hiện; các kết sử phiền não do ngăn che ánh sáng chánh kiến, nên có ngã tướng và pháp tướng. Lại như hình bóng, người đi bèn đi, người động bèn động, người đứng bèn đứng. Hình bóng của nghiệp thiện ác cũng như thế. Lúc đi sang đời sau thì nó cũng đi theo. Khi đời này trụ thì nó cũng trụ, do báo bất đoạn! Khi tội phước chín muồi thì sẽ hiện ra, nhưng hình bóng ấy chẳng có vật, chỉ tùy thuộc cách nhìn của ai”. Như xoay đuốc lửa nhanh chóng, sẽ chuyển thành vòng lửa, cũng chẳng phải là thật sự có. Các thí dụ có ý nghĩa đại lược tương đồng!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Ưng như thị liễu tri Đại Thừa cú, tâm cú, vô đẳng đẳng cú, tất định cú, Chánh Đẳng Giác cú, tiệm thứ Đại Thừa sanh cú, đương đắc cụ túc pháp tài, xuất sanh chủng chủng công xảo đại trí, như thật biến tri nhất thiết tâm tướng.

          ()祕密主應如是了知大乘句心句無等等句必定句正等覺句漸次大乘生句當得具足法財出生種種工巧大智如實遍知一切心

          (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Hãy nên biết rõ câu Đại Thừa, câu tâm, câu không gì sánh bằng, câu nhất định, câu Chánh Đẳng Giác, câu Đại Thừa lần lượt sanh khởi như thế, sẽ đạt được trọn đủ pháp tài, xuất sanh đủ loại đại trí hay khéo, như thật biết trọn khắp hết thảy các tâm  tướng).

 

          Câu” trong tiếng Phạn là Bát Đàm (Pada), ý nghĩa như đã giải thích trong phần trước. Mười thí dụ này đều là duyên khởi rất sâu của người học Ma Ha Diễn, chẳng phải là chỗ đặt chân của Thanh Văn và Duyên Giác. Vì thế gọi là “Đại Thừa cú”. Thật tánh của tâm trọn chẳng có pháp nào để có thể chỉ bày rõ ràng, cũng chẳng thể trao cho người khác, chỉ là lúc quan sát sâu xa như thế, vẹt mây ngăn chướng, sẽ tự chứng biết mà thôi! Vì thế gọi là “tâm cú”. Hết thảy các pháp chẳng thể sánh ví tương tự trí huệ của Như Lai được, mà cũng chẳng có gì vượt hơn được, nên gọi là “vô đẳng”. Nhưng Thật Tướng của tâm, giống như hộp và nắp tương xứng, chẳng chênh lệch, nên gọi là “vô đẳng đẳng”. Nếu dùng mười duyên sanh để biết rõ tâm xứ, sẽ an trụ trong đó, nên nói là “vô đẳng đẳng cú”. Chư Phật do ý nghĩa của mười duyên sanh này, nhất định sẽ sư tử hống, nói ra ấn Thật Tướng nơi Như Lai tánh tâm. Nếu có ai có thể tin hiểu, giả sử hết thảy các ma trong mười phương thế giới đều hóa thân làm Phật để nói Tương Tự Bát Nhã, trọn chẳng thể thay đổi cái tâm ấy, khiến cho pháp tướng chẳng như thị. Vì thế gọi là “tất định cú”. Dùng Trung Đạo chánh quán ấy, lìa hữu vi giới và vô vi giới, tâm vô tự tánh tột bậc sanh khởi, tức là vị Phật trong tâm hiển hiện. Vì thế nói là “Chánh Đẳng Giác cú”. Do tu quán sát sâu xa, như vào biển cả lần lần sâu dần, cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật dùng thượng thượng trí quán mới có thể thấu hiểu cùng tận nguồn cội. Vì thế nói là “tiệm thứ Đại Thừa sanh cú”.

          Hãy nên biết sáu câu như thế, theo thứ tự giải thích lẫn nhau, theo thứ tự sanh ra nhau. Tỳ Lô Giá Na Phật liền dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc mười câu duyên sanh ấy để làm vô tận trang nghiêm tạng, từ các pháp giới môn nhiều như số vi trần trong mười thế giới, thường xuất sanh các báu Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền Định, Giải Thoát để thí trọn khắp chúng sanh, vẫn chẳng thiếu hụt. Vì thế nói là “cụ túc pháp tài” (trọn đủ pháp tài). Trí nghiệp của hết thảy Như Lai do vậy mà trọn đủ, vì thế nói là “xuất sanh chủng chủng công xảo đại trí huệ” (sanh ra đủ loại đại trí huệ khéo léo). Nếu trong một niệm tâm, thấy rõ ý nghĩa mười duyên sanh, thì trên là sẽ tột cùng vô tận pháp giới, dưới là tột cùng chúng sanh giới vô tận. Hết thảy các tâm tướng trong đó đều có thể hiểu rõ rành rành do chúng đều từ duyên khởi, tức Không, tức Giả, tức Trung. Vì thế nói là “như thật biến tri nhất thiết tâm tướng” (đúng như thật biết trọn khắp hết thảy tâm tướng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hành giả mới tu quán hạnh, khi cảnh giới hiện tiền, do sức của nội nhân và ngoại duyên, tự nhiên có trí duyên khởi phát sanh. Chẳng giống như đường lối thông thường, khổ công dốc sức tu Định tột bậc rồi sau đó mới thông triệt được”. Trong bản tiếng Phạn có nói: “Tự thử dĩ hậu, thứ thuyết Chân Ngôn giả trì tụng thứ đệ, như pháp Tất Địa, như pháp quả sanh” (Từ đây trở về sau, kế đó, sẽ nói thứ tự trì tụng của người hành Chân Ngôn, Tất Địa đúng như pháp, sanh khởi cái quả đúng như pháp). Đấy là do người truyền pháp ghi lại, cho nên chẳng phải là điều được nói trong chánh kinh. Đại ý của [đoạn văn ấy] là: Đã nói các tâm tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh xong, từ đấy trở đi, bèn nói về phương tiện tấn tu, và cái quả được sanh bởi Tất Địa.



[1] Ngũ tình là năm thứ tình cảm, tức mừng, giận, buồn, vui, oán. Ngũ Tình cũng là cách dịch xưa của chữ Ngũ Căn.

 

[2] Thích Luận nếu hiểu thông thường sẽ là Đại Trí Độ Luận, tức chú giải của kinh Đại Bát Nhã, nhưng trong Mật giáo, khi nói đến Thích Luận thì đa phần là nói đến bộ Thích Ma Ha Diễn Luận do ngài Long Thọ biên soạn. Hơn nữa, trong tác phẩm chú giải này, khi trích dẫn Đại Trí Độ Luận, ngài Nhất Hạnh luôn nói rõ là Trí Độ Luận; do vậy, Thích Luận chỉ có thể hiểu là Thích Ma Ha Diễn Luận. Bộ luận này được dịch sang tiếng Hán bởi ngài Phạt Đề Ma Đa vào đời Diêu Tần (tức năm Hoằng Thỉ thứ ba, 401), gồm mười quyển. Đây là bản chú giải của Đại Thừa Khởi Tín Luận. Chân Ngôn Tông (Shingon-shū) Nhật Bản coi đây là một tác phẩm trọng yếu bắt buộc phải học tập của các hành giả Mật Tông.

 

[3] Theo lý, do chứng ngộ Bát Nhã mà Bồ Tát thành Phật, tức là giống như Phật quả được sanh bởi Bát Nhã, nên Bát Nhã được gọi là “mẹ của chư Phật”. Theo phương diện Sự, do Quán Thế Âm Bồ Tát tuyên giảng Bát Nhã Tâm Kinh, Ngài hóa hiện thân Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát. Vị Bồ Tát này còn được gọi là Bát Nhã Quán Âm, Bát Nhã Phật Mẫu, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát, hoặc Đệ Nhất Ba La Mật Bồ Tát. Ngài được tạc tượng có một mặt, sáu tay hoặc bốn tay, diện mạo xinh đẹp, yểu điệu, thân hình nẩy nở, mặc khôi giáp, hai tay chắp lại trước ngực, hoặc kết ấn Thí Vô Úy, hay Thiền Định ấn. Các tay khác lần lượt cầm kinh Bát Nhã, và xâu chuỗi hoặc kim cang chử, trên đó đeo xâu chuỗi. Ngài đứng hoặc tọa Thiền trên hoa sen trong vòng lửa (lửa biểu thị phiền não, hoa sen biểu thị giác ngộ). Nếu tượng sáu tay thì ngoài hai tay chắp trước ngực, các tay kia lần lượt cầm kinh Bát Nhã, xâu chuỗi, kim cang chử và hoa sen xanh. Hoặc có khi thay hoa sen xanh bằng bảo kiếm. Đôi khi, Ngài được tạc tượng hoặc vẽ chung với Văn Thù Bồ Tát (đại biểu trí huệ), Hư Không Tạng Bồ Tát (đại biểu ký ức), gọi là Trí Huệ Tam Tôn. Nếu vẽ riêng thì thường là vây quanh Bồ Tát có bốn vị thần hộ pháp dưới dạng thiên nữ, có tên gọi lần lượt là Nặc Da, Vi Nặc Da, A Nhĩ Đa, và A Ba La Nhĩ Đa, biểu thị thường, lạc, ngã, tịnh.

 

[4] Theo Phật Học Đại Từ Điển, như người có ấn sẽ có thể vào một quốc gia. Hành giả dùng trí Bát Nhã làm ấn, sẽ có thể nhập lý Thật Tướng, nên gọi là Trí Ấn. Lại như dùng ấn khế để biện định một văn kiện hay một vật là chân hay ngụy; cũng giống như vậy, dùng trí để biện định chân, ngụy v.v… thì gọi là Trí Ấn.

 

[5] Đại Không: Có ba cách hiểu:

 

- Đây là Không rốt ráo trong Đại Thừa, tức Niết Bàn, chính là vượt ngoài chấp trước Hữu và Không, ngay cả Không cũng là Không, nên gọi là Không Không. Chứng nhập Không Không thì gọi là Đại Không.

 

- Trong mười tám món Không của Đại Bát Nhã, không có các phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc v.v… thì gọi là Đại Không.

 

- Trong Mật Giáo, liễu ngộ lý bất sanh trong môn chữ A thì cũng gọi là Đại Không.

 

Ngu ý cho rằng Đại Không ở đây phải hiểu theo cách thứ nhất và thứ ba.

 

[6] Trong văn tự Tất Đàm (Siddam), A là chữ căn bản, có nghĩa là “không, bất sanh”, nên A được coi là tượng trưng cho tánh Không, là căn bản của Bát Nhã và các pháp môn trong Phật giáo. Trong Mật giáo, mỗi vị tôn thánh được biểu thị bằng một chữ (gọi là chủng tử, như A Di Đà Phật có chủng tử là Hrih). Chữ A được coi là thống nhiếp các chủng tự. A là chủng tử của Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong ba bộ của Thai Tạng thì A là chủng tử của Phật Bộ, trong tam thân, A là chủng tử của Pháp Thân (do vậy, trong các bức vẽ Phật xưa kia, hay đề ba chữ Phạn Om, A, Hồng phía trên đức Phật, biểu thị tam thân của Phật), trong Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện thì A là chủng tử của Nhân, trong Lục Đại thì A là chủng tử của địa đại v.v…

 

[7] Nhất Xiển Đề có nghĩa là “không có tánh thành Phật”. Còn dịch là Bất Tín, tức không tin Phật pháp. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển mười chín nói: “Nhất Xiển Đề là chẳng tin nhân quả, chẳng có hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy đời hiện tại và vị lai, chẳng thân cận thiện hữu, chẳng thuận theo lời răn dạy do chư Phật đã nói. Người như thế gọi là Nhất Xiển Đề, chư Phật chẳng thể đối trị”.

 

[8] Thanh Minh (Sabda-vidyà) ở đây là một môn trong Ngũ Minh, tức là môn học về ngôn ngữ, văn tự, về âm thanh và văn học.

 

[9] Đây là một thí dụ trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa. Có một người dẫn đường biết chỗ dẫn tới của báu, nhưng người đi theo ông ta thấy đường xa mỏi mệt, muốn lui về. Người dẫn đường có phương tiện thiện xảo, bèn hóa ra một cái thành to lớn để họ nghỉ ngơi. Khi họ đã nghỉ khỏe, người ấy bèn diệt hóa thành, thúc giục họ tiếp tục tiến lên. Đức Phật dùng thí dụ này để sánh ví các pháp trước thời Pháp Hoa cũng giống như hóa thành, chỉ là pháp phương tiện, chứ Nhất Thừa mới là pháp chân thật.

 

[10] Kệ ở đây là cách tính độ dài của một văn bản trong tiếng Phạn. Cứ bốn câu là một kệ, bất luận số chữ nhiều ít, có vần hay không vần.

 

[11] Ý nói chẳng còn phải tái sanh do lưu chuyển theo nghiệp.

 

[12] Am Ma Lặc là một loại trái nhỏ thuộc giống cây gọi là Emblic Myrobalan (có tên khoa học là Phyllanthus Emblica, tên tiếng Việt là chùm ruột núi, me mận, mắc kham), còn gọi là Indian gooseberry, thường mọc nhiều ở Ấn Độ. Cây này có thể cao tới 8 m, hoa có màu xanh pha vàng. Trái hình cầu, to khoảng 26 mm, có sáu vết khía nổi quanh trái, khiến trái trông như gồm sáu múi. Trái có màu vàng hơi pha sắc xanh, nhẵn nhụi và cứng, có hột cứng ở giữa. Trái này có vị đắng và hơi chua, có nhiều xơ. Trái có thể ăn sống, làm nước ép, hay ngâm đường rồi xên thành mứt, hoặc làm gia vị để nấu món súp cá Holat tại Indonesia. Trái này được coi là có tác dụng chữa bệnh.

 

[13] Phạm chí có nghĩa là người có chí hướng cầu sanh lên Phạm thiên, là danh xưng để gọi những tu sĩ Bà-la-môn. Vi Đà phạm chí là các phạm chí tinh thông bốn bộ Vi Đà (Vedas, Phệ Đà) của Bà La Môn giáo.

 

[14] Cù Đàm Tiên (Gotama) còn gọi là Kiều Đáp Ma Tiên là một vị trong bảy vị đại tiên nhân thời cổ. Tương truyền vị tiên nhân này giỏi chú thuật, từng soạn Minh Luận. Vị tiên nhân này muốn bay lên hư không, bị hai giọt nước làm bẩn, rơi xuống đất, được ánh mặt trời chiếu vào, biến thành thân sắc vàng. Con ông ta về sau là thỉ tổ của dòng họ Thích Ca.

 

[15] Đây là một thí dụ được nhắc tới trong các kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn, như mặt trống được bôi thuốc độc, khi đánh lên, âm thanh ấy có thể làm chết người. Dùng điều này để sánh ví âm thanh thuyết pháp của đức Phật có thể giết sạch ngũ nghịch, Thập Ác, các phiền não trong tâm của chúng sanh.

 

[16] Do không có font chữ Siddam, chúng tôi tạm sử dụng font Devanāgarī (Thiên Thành tự thể) để ghi các chữ Sankrit được chép trong lời Sớ.

 

[17] Yên Chi là màu son hồng, vốn là một thứ màu nhuộm thiên nhiên có màu sắc đỏ hồng tươi tắn. Thời cổ, nữ nhân dùng nó hòa vào bột phấn để làm hồng da mặt hay dùng như son để nhuộm cho môi đỏ tươi, nên Yên Chi hiểu theo nghĩa rộng chính là các thứ để trang điểm của phụ nữ.

 

[18] Hắc nguyệt (Kṛṣṇapakṣa) tức là nửa tháng sau của âm lịch. Tây Vực Ký ghi: “Từ trăng khuyết [sau ngày trăng tròn] cho đến lúc không trăng là hắc nguyệt”. Đây là cách phân định thời gian trong một tháng của lịch pháp Ấn Độ thời cổ.

 

[19] Theo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, “quyết liễu” là khiến cho người nghe quyết định hiểu rõ ràng, rành mạch một nghĩa lý nào đó.

 

[20] Bạch Tứ Yết-ma (Jñapticaturtha-karman), còn gọi là Tứ Bạch, Bạch Tứ Pháp, hoặc Nhất Bạch Tam Yết-ma. Bạch tức là thưa bày rõ, Yết-ma nghĩa là nghiệp, tác pháp v.v… Tức là như khi truyền thọ Cụ Túc Giới chẳng hạn, vị thầy Yết Ma trong Tam Sư của giới đàn, hướng về Tăng chúng, thưa trình “có người này, người kia muốn cầu xuất gia”. Đó là Bạch. Kế đó, ba lượt hỏi Tăng chúng có tán thành hay không, chuyện này được gọi là Tam Yết-ma. Nếu không ai có ý kiến phản đối, sẽ chấp thuận cho những người ấy được làm Tăng. Đối với các pháp sự khác như sám hối tội trọng, trị phạt, quở trách người phạm lỗi, can gián, chấm dứt tranh cãi v.v… cũng dùng phương cách này để đạt tới sự đồng thuận trong Tăng chúng.

 

[21] Sổ Thủ Thú Giả là cách dịch khác của chữ Bổ Đặc Già La (hữu tình). Do hữu tình nhiều lượt (sổ) sanh vào các đường khác nhau (thủ thú) nên gọi như vậy.

 

[22] Độc Tử Bộ (Vātsīputrīya) còn gọi là Khả Trụ Tử Bộ, Bạt Thứ Tử Bộ, Bạt Tư Phất Đa La Khả Trụ Tử Bộ, Bà Duy Tử Bộ, là một trong các bộ phái thời kỳ sơ khởi của Phật giáo, vốn là một phân chi của Thượng Tọa Bộ. Bộ phái này được hình thành hai trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, giáo nghĩa gần tương tự Nhất Thiết Hữu Bộ, chỉ có đôi chút sai khác như chấp cái Thể của Bổ Đặc Già La là thật sự có, Niết Bàn có ba loại là hữu học, vô học và phi hữu phi vô học v.v…

 

[23] Cảnh đối trước căn, được lãnh hội bởi căn thì gọi là “tiền cảnh”.

 

[24] Tất Địa (Siddhi), dịch nghĩa là Thành Tựu, hoặc Diệu Thành Tựu. Thường nói là Thành Tựu Tất Địa, hoặc Tất Địa Thành Tựu. Ý nói tu Chân Ngôn hạnh, nương vào Tam Mật tương ứng mà thành tựu các quả báo mầu nhiệm thuộc thế gian hay xuất thế gian. Tất Địa có hai loại:

 

- Hữu tướng tức là thành tựu quả báo thế gian như trường thọ, tăng trưởng phước đức v.v..

 

- Vô tướng tức là thành tựu quả báo xuất thế gian.

 

Trong mỗi loại, lại chia thành ba phẩm thượng, trung, hạ.

 

[25] “Yêm lưu” (淹留) được giải thích là bị đình trệ, bị nắm níu, bị ngưng lại, bị ràng buộc. Dựa theo lời chú giải của ngài Nhất Hạnh trong phần sau, cũng như lời giải thích của cư sĩ Trương Huyền Tường trong bài Như Hà Lợi Dụng Kim Cang Kinh Lai Tu Hành (làm thế nào vận dụng kinh Kim Cang để tu hành) có trích hai đoạn Đại Nhật Kinh Sớ này để giải thích tỉ mỉ như sau: Học nhân Tam Quả do vướng mắc nơi Căn, Giới, Cảnh, tâm chẳng thanh tịnh, đình trệ tại đó, nên nói là “yêm lưu tu hành”, khiến cho hành nhân trụ mãi nơi Tam Quả, chẳng tiến lên Tứ Quả được. Vì thế, chúng tôi tạm dịch “yêm lưu tu hành” thành “tu hành dằng dai” với ngụ ý: Hành nhân gắng sức tu hành, nhưng vẫn bị vướng mắc, lôi kéo, dẫu hết sức dụng công, nhưng vẫn chưa tiến cao hơn được. Trương cư sĩ cũng giải thích chữ Chu Ngột trong câu kế tiếp như sau: Chu Ngột là gốc cây chết khô, chẳng thể mọc được nữa, nhưng khó bứng đi được.

 

[26] Theo kinh Trường A Hàm, khi thế giới mới hình thành, chư thiên từ Quang Âm Thiên nếu phước hết, sẽ sanh vào Dục Giới mới được hình thành. Đất tự nhiên trào lên suối ngọt như tô mật. Chư thiên nếm thử, sanh tâm ưa thích, ăn mãi, biến thành thân thể thô nặng, đánh mất dáng vẻ tươi sáng, thanh lịch, nhẹ nhõm của chư thiên, đánh mất thần thông. Kẻ ăn nhiều vị ngon của đất sẽ thô tháp, nặng nề, kẻ ăn ít sẽ tươi tắn, đẹp đẽ. Do vậy, nẩy sanh tâm hơn, thua, sang hèn. Vị ngon của đất dần dần cạn kiệt, lại sanh ra địa bì (tạm dịch là “da đất”) hình dạng như bánh mỏng. Địa bì dần dần bị diệt mất, lại sanh ra địa phu (“lớp da bên trong của đất”). Khi địa phu diệt mất, thì mới sanh ra địa phì (chất béo trên mặt đất), vị ngon ngọt như rượu nho. Địa phì cạn kiệt mới sanh ra gạo tẻ, chẳng cần thêm gì mà ăn vẫn thơm ngon. Chúng sanh ăn vào bèn có hình dạng nam nữ khác biệt, nẩy sanh chấp trước, ham muốn nên mới có vợ chồng v.v…

 

[27] Trong ngoài mười giới: Trong là sáu căn, ngoài là sáu trần, do chúng có giới hạn riêng nên gọi là Giới.

 

[28] Nhận () là đơn vị đo dài thời cổ, được quy định là chiều dài cánh tay của một nam nhân trưởng thành. “Nhận” biến đổi theo thời gian, đời Châu quy định tám Xích (thước Tàu, khoảng 33cm) là một Nhận, đời Hán quy định một Nhận là bảy Xích.

 

[29] Theo cựu dịch  (trước  thời  ngài  Huyền  Trang), A  Đà  Na  thức (Ādāna-vijñāna)

 

chính là tên gọi khác của Mạt Na Thức, tức thức thứ bảy. Phái tân dịch (từ thời ngài Huyền Trang trở đi) chủ trương A Đà Na là tên gọi khác của A Lại Da Thức (thức thứ tám). Danh xưng này được dùng đầu tiên trong kinh Giải Thâm Mật. Danh từ này còn được dịch nghĩa thành các danh xưng Chấp Thức, Chấp Trì Thức, Vô Giải, Chấp Ngã, Chấp Thọ, Chấp Trì, Chấp Thủ.

 

[30] Chuyển Y (āśraya-parivrtti), nghĩa đen là chuyển đổi đối tượng để nương vào. Đôi khi từ ngữ này còn được diễn tả là Chuyển Trụ, hoặc Sở Y Dĩ Chuyển. Chuyển Y được dùng theo ý nghĩa chuyển đổi từ việc nương vào pháp hèn kém thành pháp tốt đẹp hơn. Chẳng hạn như trong Duy Thức, do tu thánh đạo, đoạn diệt Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, chứng đắc Niết Bàn, Bồ Đề, thì cái quả ấy được gọi là Nhị Chuyển Y Quả.

 

[31] Chúng tôi dịch đoạn này dựa theo cách diễn giải của Kim Cang thượng sư Trác Cách Đa Kiệt trong loạt bài giảng về Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận. Theo thượng sư, câu “cốt tượng cập thủ cốt” phải hiểu là khi hành giả Du Già tu thành phép quán cốt tỏa (tức là quán tướng xương như các cái khóa móc chặt vào nhau nơi thân thể của chính mình; đây là một trong tám mươi tùy hình hảo nơi thân Phật), sẽ thấy toàn thể mọi người đều có tướng hảo ấy, chớ nên chấp trước người thành tựu phép quán, cũng như chấp trước tướng xương móc vào nhau ấy, phải biết đó là do chấp trước nhị biên mà thôi!

 

[32] Tiền tế và hậu tế: Do đối ứng với sát-na hiện tại mà nói là tiền tế (khoảnh khắc trước đó) và hậu tế (khoảnh khắc sau đó). Hoặc hiểu rộng hơn: Tiền tế là quá khứ, hậu tế là vị lai. Nhưng ở đây, phải hiểu tiền tế là trước một niệm tâm trong hiện tại, hậu tế là sau một niệm tâm trong hiện tại.

 

[33] Đây là mượn cách nói trong thí dụ của phẩm Hóa Thành kinh Pháp Hoa. Vị hướng dẫn biết chỗ có kho báu ở ngoài năm trăm do-tuần, bèn hướng dẫn mọi người vượt qua đường hiểm dài năm trăm do-tuần để đến được kho báu ấy. Do chúng sanh nửa đường chán mệt, muốn quay về, vị hướng dẫn phải hóa ra một tòa thành cho họ ở để tạm nghỉ ngơi. Sau đó diệt hóa thành, thúc giục họ tiếp tục tiến lên.

 

[34] Cỏ Cát Tường (Kuśa), còn phiên âm là Củ Thi, Câu Thư, hoặc Cô Xa, dịch nghĩa là Hương Mao, Cát Tường Mao, Lữu Thảo, Hy Sinh Thảo. Loại cỏ này thường mọc ở vùng đất ẩm, có hình dạng gần giống như cỏ tranh, cọng dài tới 16 cm. Do Cát Tường đồng tử dâng cỏ này cho Phật Thích Ca trải tòa ngồi dưới cội Bồ Đề, nên được gọi là cỏ Cát Tường. Kinh Vô Lượng Thọ có nhắc đến điều này như sau: “Cát Tường cảm trưng, biểu chương công tộ, ai thọ thí thảo, phu Phật thụ hạ, già phu nhi tọa”. Trưởng lão Đạo Nguyên giảng câu này phải hiểu như sau: “Ông Cát Tường được cảm vời [Phật] sẽ biểu hiện rành rành công phu và phước báo, bèn khẩn khoản xin Phật tiếp nhận cỏ cúng thí, trải dưới cội cây của Phật, để Ngài ngồi xếp bằng”. Tại Ấn Độ, người ta cũng thường dùng cỏ này bện thành đệm để đặt các vật cúng lên, hoặc dùng làm chiếu trải nơi các chỗ được coi là thanh tịnh.

 

[35] Chúng tôi dịch câu này dựa theo cách giảng giải trong tác phẩm Thiên Đài Giáo Quán Lược Thuyết Giảng Ký của cư sĩ Ngô Hy Nhân đăng tải trong nguyệt san Minh Luân kỳ 505, tháng 6, năm 1998 (Đài Bắc).

 

[36] Xứ phi xứ: Tức là biết do nhân nào sẽ đạt được quả ấy, chẳng hạn như do chân chánh tu thiện nghiệp sẽ đắc thiện quả, đó gọi là Xứ (hay Thị Xứ). Nếu giải đãi, phóng dật, tùy tiện làm ác mà mong chứng thánh quả thì chẳng có lẽ ấy. Đó gọi là Phi Xứ (không có lẽ ấy, không hợp lý).

 

[37] Trong Yết Ma Hội của Kim Cang Giới Mạn Đồ La, bốn vị Phật ở bốn phương, mỗi vị có bốn Bồ Tát thân cận, hợp thành mười sáu vị Bồ Tát:

 

1. Đông phương A Súc Phật, có bốn vị Bồ Tát thân cận là Kim Cang Tát Đỏa, Kim Cang Vương, Kim Cang Ái, Kim Cang Hỷ. Đó chính là công đức lưu xuất từ trì giới, nhẫn nhục mà thành tựu Bồ Đề tâm.

 

2. Nam phương Bảo Sanh Phật, có bốn vị Bồ Tát thân cận là Kim Cang Bảo, Kim Cang Quang, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tiếu. Đó là công đức do thành tựu phước đức trang nghiêm vì bố thí không chấp trước.

 

3. Tây phương A Di Đà Phật có bốn vị Bồ Tát thân cận là Kim Cang Pháp (Quán Thế Âm), Kim Cang Lợi, Kim Cang Nhân, Kim Cang Mật Ngữ. Đó là công đức do thành tựu trí huệ bởi chánh định đại huệ.

 

4. Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật có bốn vị Bồ Tát thân cận là Kim Cang Nghiệp, Kim Cang Hộ, Kim Cang Nha, Kim Cang Quyền. Đó là công đức thành tựu do phương tiện sự nghiệp tinh tấn lợi tha.

 

[38] Theo Đại Minh Tam Tạng Pháp Số, quyển bốn mươi tám, “ba mươi sáu vật” tức là ba mươi sáu yếu tố kết hợp thành thân thể, gồm ba tiểu loại:

 

1. Ngoại tướng gồm tóc, lông, móng, răng, ghèn, nước mắt, nước miếng, đờm rãi, phân, nước tiểu, hờm, mồ hôi.

 

2. Thân khí gồm lớp da ngoài, lớp da trong, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mỡ lá, mỡ chài, não, màng bọc các cơ quan nội tạng.

 

3. Nội hàm gồm gan, mật, ruột, bao tử, tỳ (lá lách), thận, tim, phổi, sanh tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng.

 

Kinh Tạp A Hàm quyển bốn mươi ba nói hơi khác, nhưng đại để tương đồng.

 

[39] Mâu Hô Lật Đa (Muhūrta): Luận Câu Xá quyển mười hai nói: “Ba mươi lạp-phược là một Mâu Hô Lật Đa, ba mươi Mâu Hô Lật Đa là một ngày đêm”. Sách Đồng Quang Ký quyển mười hai ghi: “Mâu Hô Lật Đa được phương này dịch là Tu Du (khoảnh khắc)”. Cũng trong cách tính thời gian của Ấn Độ, Mâu Hô Lật Đa còn có nghĩa là một phần 30 của một ngày đêm, tức 48 phút. Trong phần trước, khi nói một ngày đêm chia thành ba mươi thời, có tên gọi khác nhau, tức là nói đến Mâu Hô Lật Đa, được tính từ sáu giờ sáng hôm trước đến sáu giờ sáng hôm sau. Mỗi Mâu Hô Lật Đa lại có tên gọi riêng, chẳng hạn như Rudra, Ahi, Mitra, Pitṝ, Vasu v.v…



Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh

           

 

Phẩm thứ 1: Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm

(Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm phẩm đệ nhất, 入真言門住心品第一)

 

            Như thị ngã văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia trì quảng đại kim cang pháp giới cung. Nhất thiết trì kim cang giả giai tất tập hội.

                      如是我聞:一時薄伽梵住如來加持廣大金剛法界宮。一切持金剛者皆悉集會

          ( Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già Phạm trụ trong Như Lai gia trì kim cang pháp giới cung rộng lớn. Hết thảy các vị trì kim cang thảy đều nhóm họp).

 

            Như Lai tín giải du hý thần biến sanh đại lâu các bảo vương, cao vô trung biên, chư đại diệu bảo vương chủng chủng gián sức, Bồ Tát chi thân vi sư tử tòa.

                      如來信解遊戲神變生大樓閣寶王,高無中邊,諸大妙寶王種種間飾,菩薩之身為師子座。

          ( Do thần biến du hý tín giải của Như Lai, sanh ra lầu gác lớn là vua trong các báu, cao vời, chẳng có chặng giữa hay ngằn mé, các loại vua chất báu mầu nhiệm quý nhất [dùng để] xen kẽ trang hoàng, dùng thân của Bồ Tát làm tòa sư tử).

 

             Kỳ kim cang danh viết Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Như thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Trì Kim Cang chúng câu, cập Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát đẳng, chư đại Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu, nhi diễn thuyết pháp.

                      其金剛名曰:虛空無垢執金剛虛空遊步執金剛虛空生執金剛、被雜色衣執金剛、善行步執金剛、住一切法平等執金剛、哀愍無量眾生界執金剛、那羅延力執金剛、大那羅延力執金剛、妙執金剛、勝迅執金剛、無垢執金剛、刃迅執金剛、如來甲執金剛、如來句生執金剛、住無戲論執金剛、如來十力生執金剛、無垢眼執金剛、金剛手祕密主,如是上首,十佛剎微塵數等持金剛眾俱,及普賢菩薩、慈氏菩薩、妙吉祥菩薩、除一切蓋障菩薩等諸大菩薩,前後圍繞而演說法

           ( Danh hiệu kim cang của các vị ấy là: Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp Bình Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhãn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Các vị thượng thủ như thế, các vị Trì Kim Cang nhiều như số vi trần trong mười cõi Phật nhóm đến, và Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát  … Các vị đại Bồ Tát trước sau vây quanh, diễn nói pháp).

 

            Sở vị việt tam thời Như Lai chi nhật gia trì cố, thân, ngữ, ý bình đẳng cú pháp môn.

                      所謂越三時如來之日加持故,身語意平等句法門。

          ( Tức là pháp môn “câu thân ngữ ý bình đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia trì).

 

            Thời bỉ Bồ Tát, Phổ Hiền vi thượng thủ, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ. Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì cố, phấn tấn thị hiện thân vô tận trang nghiêm tạng, như thị phấn tấn thị hiện ngữ ý bình đẳng vô tận trang nghiêm tạng, phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ý sanh, nhất thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc, nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ý nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu tình giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp. Hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm, nãi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh mãn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng, hữu tình loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi.

                      時彼菩薩,普賢為上首;諸執金剛,祕密主為上首。毘盧遮那如來加持故,奮迅示現身無盡莊嚴藏,如是奮迅示現語意平等無盡莊嚴藏,非從毘盧遮那佛身或語或意生,一切處起滅邊際不可得。而毘盧遮那一切身業、一切語業、一切意業,一切處、一切時,於有情界宣說真言道句法。又現執金剛、普賢、蓮華手菩薩等像貌,普於十方宣說真言道清淨句法。所謂初發心乃至十地次第此生滿足,緣業生增長有情類業壽種除,復有牙種生起。

          ( Khi ấy, Phổ Hiền làm thượng thủ của các vị Bồ Tát ấy, Bí Mật Chủ làm thượng thủ của các vị Chấp Kim Cang. Do Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia trì, bèn dũng mãnh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm nơi thân, dũng mãnh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm bình đẳng nơi ngữ và ý như thế, chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ý của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ý nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu tình giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân ngôn. Lại hiện các hình tướng như Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát  … để trọn khắp mười phương tuyên nói cú pháp chân ngôn đạo thanh tịnh, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt được trọn đủ [các địa vị ấy] trong đời này, đoạn trừ nghiệp và thọ mạng do nương theo nghiệp mà sanh khởi và tăng trưởng nghiệp của các loài hữu tình, lại còn sanh khởi mầm mống [giải thoát]).

 

 

            Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, ư bỉ chúng hội trung tọa, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí? Bỉ đắc Nhất Thiết Trí trí, vị vô lượng chúng sanh, quảng diễn phân bố, tùy chủng chủng thú, chủng chủng tánh dục, chủng chủng phương tiện đạo, tuyên thuyết Nhất Thiết Trí trí, hoặc Thanh Văn thừa đạo, hoặc Duyên Giác thừa đạo, hoặc Đại Thừa đạo, hoặc ngũ thông trí đạo, hoặc nguyện sanh thiên, hoặc sanh nhân trung, cập long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, nãi chí thuyết sanh Ma Hầu La Già pháp. Nhược hữu chúng sanh ưng Phật độ giả, tức hiện Phật thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Duyên Giác thân, hoặc Bồ Tát thân, hoặc Phạm thiên thân, hoặc Na La Diên, Tỳ Sa Môn thân, nãi chí Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, các các đồng bỉ ngôn âm, trụ chủng chủng oai nghi, nhi thử Nhất Thiết Trí trí đạo nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị.

                      爾時執金剛祕密主於彼眾會中坐,白佛言:世尊!云何如來、應供、正遍知得一切智智?彼得一切智智,為無量眾生廣演分布,隨種種趣、種種性欲、種種方便道宣說一切智智,或聲聞乘道、或緣覺乘道、或大乘道、或五通智道,或願生天、或生人中,及龍、夜叉、乾闥婆,乃至說生摩睺羅伽法。若有眾生應佛度者,即現佛身、或現聲聞身、或現緣覺身、或菩薩身、或梵天身、或那羅延毘沙門身,乃至摩睺羅伽人非人等身,各各同彼言音,住種種威儀。而此一切智智道一味,所謂如來解脫味

          ( Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngồi ở trong chúng hội ấy bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào? Đã đắc trí Nhất Thiết Trí, vì vô lượng chúng sanh rộng diễn, lưu truyền, tùy theo các loại đường [thọ sanh], các loại tánh tình ưa thích, các thứ phương tiện đạo mà tuyên nói trí Nhất Thiết Trí, hoặc đạo Thanh Văn thừa, hoặc đạo Duyên Giác thừa, hoặc đạo Đại Thừa, hoặc đạo ngũ thông trí, hoặc nguyện sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, và rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cho đến nói pháp sanh làm Ma Hầu La Già. Nếu có chúng sanh đáng nên dùng [thân] Phật để độ, liền hiện thân Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc thân Bồ Tát, hoặc thân Phạm Thiên, hoặc thân Na La Diên, Tỳ Sa Môn, cho đến các thân Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân  … Mỗi thân đều giống với ngôn âm của từng loài, trụ trong các thứ oai nghi, nhưng đạo trí Nhất Thiết Trí ấy chỉ có một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai)   

 


            Thế Tôn! Thí như hư không giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí trí ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Thế Tôn! Thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y. Thế Tôn! Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân vô yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân vô yếm túc. Thế Tôn! Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền não trần. Thế Tôn! Dụ như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên, thế nhân lợi lạc. Thế Tôn! Như thị trí huệ, dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà cứu cánh?

                      世尊!譬如虛空界,離一切分別,無分別、無無分別。如是一切智智,離一切分別,無分別、無無分別。世尊!譬如大地,一切眾生依。如是一切智智,天、人、阿脩羅依。世尊!譬如火界,燒一切薪無厭足。如是一切智智,燒一切無智薪無厭足。世尊!譬如風界,除一切塵。如是一切智智,除去一切諸煩惱塵。世尊!喻如水界,一切眾生依之歡樂。如是一切智智,為諸天世人利樂。世尊!如是智慧,以何為因?云何為根?云何究竟?

          ( Bạch Thế Tôn! Ví như hư không giới, lìa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lìa hết thảy phân biệt, không phân biệt, chẳng không phân biệt. Bạch Thế Tôn! Ví như đại địa, hết thảy chúng sanh nương vào. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào. Bạch Thế Tôn! Ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi không chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như phong giới trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền não. Bạch Thế Tôn! Ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời. Bạch Thế Tôn! Trí huệ như thế lấy gì làm nhân? Gì là căn? Gì là rốt ráo?)

 

 

            Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Phật tức cáo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Chấp Kim Cang! Thiện tai, Kim Cang Thủ! Nhữ vấn ngô như thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ý, ngô kim thuyết chi”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Bồ Đề tâm vi nhân, Bi vi căn bản, phương tiện vi cứu cánh. Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm. Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nãi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc. Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố. Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng!

                      如是說已,毘盧遮那佛告持金剛祕密主言:善哉善哉!執金剛!善哉金剛手!汝問吾如是義。汝當諦聽,極善作意,吾今說之。金剛手言:如是,世尊!願樂欲聞。佛言:菩提心為因,悲為根本,方便為究竟。祕密主!云何菩提?謂如實知自心。祕密主!是阿耨多羅三藐三菩提乃至彼法少分,無有可得。何以故?虛空相是菩提,無知解者亦無開曉。何以故?菩提無相故。祕密主!諸法無相,謂虛空相

          ( Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Phật liền bảo Trì Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Chấp Kim Cang! Lành thay Kim Cang Thủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế, ông hãy nên lắng nghe, cực khéo tác ý, nay ta sẽ nói”. Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nguyện vui thích mong được nghe”. Đức Phật dạy: - Bồ Đề tâm làm nhân, Bi là căn bản, phương tiện là rốt ráo. Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Chính là nói như thật biết tự tâm. Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến chút phần của pháp ấy, chẳng có gì để có thể đạt được. Vì cớ sao? Tướng của hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng khai hiểu, vì cớ sao? Do Bồ Đề vô tướng. Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).

 

 

            Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thùy tầm cầu Nhất Thiết Trí? Thùy vị Bồ Đề thành Chánh Giác giả? Thùy phát khởi bỉ Nhất Thiết Trí trí? Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố, tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ.

                      爾時金剛手復白佛言:世尊!誰尋求一切智?誰為菩提成正覺者?誰發起彼一切智智?佛言:祕密主!自心尋求菩提及一切智。何以故?本性清淨故。心不在、不在外及兩中間,心不可得。祕密主!如來、應、正等覺,非青非、非赤非白、非紅紫非水精色、非長非短、非圓非方、非明非暗、非男非女非不男女。

          ( Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ai tìm cầu Nhất Thiết Trí? Ai vì Bồ Đề mà thành Chánh Giác? Ai phát khởi trí Nhất Thiết Trí ấy?” Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tìm cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa hai chỗ đó, tâm đều chẳng thể được. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tím, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tròn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải không nam nữ).

 

 

             Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân thú đồng tánh.

                      祕密主!心非欲界同性、非色界同性、非無色界同性,非天龍、夜叉、乾闥婆、阿脩羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人趣同性。

          Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng phải cùng một tánh với các đường trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân).

 

 

            Bí Mật Chủ! Tâm bất trụ nhãn giới, bất trụ nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, phi kiến, phi hiển hiện. Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư phân biệt, vô phân biệt. Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm. Tánh đồng ư tâm, tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, phương tiện Ba La Mật mãn túc.

                      祕密主!心不住眼界、不住耳鼻舌身意界,非見非顯現。何以故?虛空相心離諸分別,無分別。所以者何?性同虛空即同於心,性同於心即同菩提。如是祕密主!心、虛空界、菩提,三種無二。此等悲為根本,方便波羅蜜滿足。

          ( Bí Mật Chủ! Tâm chẳng trụ trong nhãn giới, chẳng trụ trong nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thấy, chẳng hiển hiện. Vì sao vậy? Tâm có tướng như hư không lìa các phân biệt, chẳng phân biệt. Vì lẽ nào vậy? Tánh giống như hư không, tức là giống tâm. Tánh giống tâm tức là giống Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, phương tiện Ba La Mật trọn đủ).

 

 

             Thị cố Bí Mật Chủ! Ngã thuyết chư pháp như thị, linh bỉ chư Bồ Tát chúng Bồ Đề tâm thanh tịnh, tri thức kỳ tâm. Bí Mật Chủ! Nhược tộc tánh nam, tộc tánh nữ dục thức tri Bồ Đề, đương như thị thức tri tự tâm.

                      是故祕密主!我說諸法如是,令彼諸菩薩眾菩提心清淨,知識其心。祕密主!若族姓男族姓女欲識知菩提,當如是識知自心。

          (  thế, Bí Mật Chủ! Ta nói các pháp như thế, khiến cho Bồ Đề tâm của các Bồ Tát đó thanh tịnh, hiểu biết cái tâm. Bí Mật Chủ! Nếu tộc tánh nam, tộc tánh nữ muốn hiểu biết Bồ Đề, hãy nên hiểu biết tự tâm như thế).

 

 

            Bí Mật Chủ! Vân hà tự tri tâm? Vị nhược phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới, nhược sắc, nhược thọ, tưởng, hành, thức, nhược ngã, nhược ngã sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh, nhược giới, nhược xứ, nãi chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc.

                      祕密主!云何自知心?謂若分段,或顯色、或形色、或境界,若色若受想行識,若我若我所,若能執若所執,若清淨若界若處,乃至一切分段中求不可得。

          Này Bí Mật Chủ! Tự biết cái tâm như thế nào? Tức là dù phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc cảnh giới, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã, hoặc ngã sở, hoặc chủ thể chấp trước, hoặc đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh, hoặc giới, hoặc xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng thể cầu được).

 

 

            Bí Mật Chủ! Thử Bồ Tát tịnh Bồ Đề tâm môn, danh sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nhược đắc thử giả, tắc dữ chư Phật, Bồ Tát đồng đẳng trụ, đương phát ngũ thần thông, hoạch vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, tri chúng sanh tâm hạnh, chư Phật hộ trì, tuy xử sanh tử, nhi vô nhiễm trước, vị pháp giới chúng sanh bất từ lao quyện, thành tựu trụ vô vi giới, ly ư tà kiến, thông đạt chánh kiến.

                      祕密主!此菩薩淨菩提心門,名初法明道。菩薩住此修學,不久勤苦,便得除一切蓋障三昧。若得此者,則與諸佛菩薩同等住,當發五神通,獲無量語言音陀羅尼,知眾生心行,諸佛護持。雖處生死而無染著,為法界眾生不辭勞倦,成就住無為戒,離於邪見通達正見。      

          ( Bí Mật Chủ! Môn Bồ Đề tâm thanh tịnh của Bồ Tát này gọi là sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ vào đấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, sẽ đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nếu đắc môn ấy, sẽ cùng trụ giống như chư Phật, Bồ Tát, sẽ phát sanh năm món thần thông, đạt được vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, biết tâm hạnh của chúng sanh, được chư Phật hộ trì, tuy ở trong sanh tử mà chẳng nhiễm đắm, vì pháp giới chúng sanh chẳng nề hà mệt nhọc, thành tựu trụ trong vô vi giới, lìa tà kiến, thông đạt chánh kiến).

 

 

             Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, tín giải lực cố, bất cửu cần tu, mãn túc nhất thiết Phật pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân vô lượng công đức giai đắc thành tựu.

                      復次祕密主!住此除一切蓋障菩薩,信解力故,不久勤修,滿足一切佛法。祕密主!以要言之,是善男子善女人,無量功德皆得成就。

          ( Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị Bồ Tát trụ trong Trừ Nhất Thiết Cái Chướng này, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ viên mãn hết thảy Phật pháp. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vô lượng công đức đều được thành tựu).

 

 

             Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục dĩ kệ vấn Phật: Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề sanh? Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm? Nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết, Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh. Tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn. Công đức tụ diệc nhiên, cập bỉ hành tu hạnh, tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết.

                      爾時執金剛祕密主復以偈問佛:云何世尊說,此心菩提生?復以云何相知發菩提心?願識心心勝,自然智生說,大勤勇幾何,次第心續生,心諸相與時,願佛廣開演。功德聚亦然,及彼行修行,心心有殊異,惟大牟尼說

          ( Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ hỏi đức Phật: Cớ sao Thế Tôn nói, tâm này Bồ Đề sanh? Lại do tướng thế nào, biết phát Bồ Đề tâm? Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi. Thưa đấng Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào? Các tâm tướng và thời, nguyện Phật rộng khai diễn. Khối công đức cũng thế, và hành hạnh tu hành, mỗi tâm đều mỗi khác, mong Đại Mâu Ni nói).

 

 

            Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích, thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngã kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính.

                      如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:善哉佛真子,廣大心利益。勝上大乘句,心續生之相,諸佛大祕密, 外道不能識;我今悉開示,一心應諦聽。

          Nói như thế xong, đức Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích rộng lớn, câu Đại Thừa thắng thượng, tướng tâm liên tục sanh, chư Phật bí mật lớn, ngoại đạo chẳng thể biết. Ta nay đều chỉ bày, nên nhất tâm lắng nghe).

 

 

             Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức. Kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, bất nhiễm ô thường trụ. Chư pháp bất năng động, bổn lai tịch vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm.

                      越百六十心,生廣大功德,其性常堅固,知彼菩提生。無量如虛空,不染污常住,諸法不能動,本來寂無相。無量智成就,正等覺顯現,供養行修行,從是初發心

          Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn. Tánh luôn thường kiên cố, nhận biết Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, chẳng nhiễm ô thường trụ. Các pháp chẳng thể động, vốn sẵn tịch, vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường tu hành hạnh, từ đấy sơ phát tâm).

 

 

            Bí Mật Chủ! Vô thỉ sanh tử ngu đồng phàm phu chấp trước ngã danh, ngã hữu, phân biệt vô lượng ngã phần. Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngã chi tự tánh, tắc ngã, ngã sở sanh. Dư phục kế hữu thời, địa đẳng biến hóa. Du Già ngã kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh, nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời, nhược tôn quý, nhược tự nhiên, nhược nội ngã, nhược nhân lượng, nhược biến nghiêm, nhược thọ giả, nhược Bổ Đặc Già La, nhược thức, nhược A Lại Da, tri giả, kiến giả, năng chấp, sở chấp, nội tri, ngoại tri, Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, thanh, phi thanh.

                      祕密主!無始生死愚童凡夫執著我名我有,分別無量我分。祕密主!若彼不觀我之自性,則我我所生。餘復計有時地等變化,瑜伽我建立淨、不建立無淨,若自在天、若流出及時、若尊貴、若自然、若內我、若人量、若遍嚴、若壽者、若補特伽羅、若識、若阿賴耶、知者見者、能執所執、內知外知、社怛梵、摩奴闍摩納婆、常定生、聲非聲。

          ( Bí Mật Chủ! Phàm phu ngu muội như trẻ nhỏ sanh tử từ vô thỉ chấp trước danh xưng Ta, ta có, phân biệt vô lượng điều thuộc về ngã. Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngã, thì ngã và ngã sở (cái thuộc về ta) sẽ sanh ra. Ngoài ra còn chấp trước có thời, địa  … biến hóa, Du Già ngã, kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh, hoặc [chấp trước ngã là] Tự Tại Thiên, hoặc ngã là lưu xuất và thời, hoặc là tôn quý, hoặc [cho rằng các pháp là] tự nhiên, hoặc là chấp nội ngã, chấp [ngã có] phân lượng tùy thuộc thân người, hoặc chấp ngã trang nghiêm trọn khắp, hoặc chấp ngã là thọ giả, chp ngã là Bổ Đặc Già La, hoặc chấp ngã là thức, hoặc chấp ngã là A Lại Da, hoặc là cái có thể biết, có thể thấy, là cái có thể chấp trước, hoặc là cái bị chấp trước, nội tri (nhận biết các pháp trong thân tâm), ngoại tri (nhận biết ngoại cảnh), là Xã Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, là âm thanh, hoặc chẳng phải âm thanh).

 

 

            Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ngã phần, tự tích dĩ lai, phân biệt tương ứng, hy cầu thuận lý giải thoát. Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do như đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị trì trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh. Phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng. Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng. Phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng. Phục dĩ thử thí hoan hỷ, thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng, cập hiến tôn túc, thị đệ ngũ phu hoa. Phục dĩ thử thí phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử.

                      祕密主!如是等我分,自昔以來分別相應,希求順理解脫。祕密主!愚童凡夫類猶如羝羊,或時有一法想生,所謂持齋。彼思惟此少分,發起歡喜,數數修習。祕密主!是初種子善業發生,復以此為因,於六齋日施與父母男女親戚,是第二牙種。復以此施授與非親識者,是第三疱種。復以此施與器量高德者,是第四葉種。復以此施歡喜授與伎樂人等及獻尊宿,是第五敷華。復以此施發親愛心而供養之,是第六成果。復次祕密主!彼護戒生天,是第七受用種子

          ( Bí Mật Chủ! Các thứ kiến chấp thuộc về ngã như thế từ xưa tới nay, phân biệt tương ứng, mong cầu thuận lý giải thoát. Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội giống như con dê đực, hoặc là có lúc nẩy sanh một pháp suy tưởng, tức là trì trai. Họ tư duy pháp ấy chút phần, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó là chủng tử thiện nghiệp ban sơ phát sanh. Lại dùng đấy làm nhân, trong sáu ngày trai, bố thí cho cha mẹ, nam nữ thân thích. Đó là thuộc loại thứ hai, tức nẩy mầm. Lại dùng đó để thí cho người chẳng phải là thân thích, quen biết, đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ. Lại dùng đó để thí cho bậc có khí lượng cao cả, đức hạnh, thì đó là loại thứ tư, tức mọc lá. Lại dùng đó để thí cho người hoan hỷ, tấu nhạc  …và dâng lên bậc tôn túc, thì là loại thứ năm, tức trổ hoa. Lại dùng đó để thí cho người mà [chính mình] phát sanh tâm thân ái cúng dường, đấy là loại thứ sáu, tức kết quả. Lại này Bí Mật Chủ! Người giữ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy: Thọ dụng chủng tử).

 

 

            Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ thử tâm sanh tử lưu chuyển, ư thiện hữu sở, văn như thị ngôn: ‘Thử thị thiên đại thiên, năng dữ nhất thiết lạc giả. Nhược kiền thành cúng dường, nhất thiết sở nguyện giai mãn, sở vị Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn đẳng, cập Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, thế sở tông phụng Hỏa Thiên, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên, Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà đẳng long, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, các các ưng thiện cúng dường. Bỉ văn như thị, tâm hoài khánh duyệt, ân trọng cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Thị danh ngu đồng dị sanh sanh tử lưu chuyển vô úy, y đệ bát anh đồng tâm.

                      復次祕密主!以此心生死流轉,於善友所聞如是言:此是天大天,與一切樂者。若虔誠供養,一切所願皆滿。所謂自在天、梵天、那羅延天、商羯羅天、黑天、自在子天、日天、月天、龍尊等,及俱吠濫、毘沙門、釋迦、毘樓博叉、毘首羯磨天,閻魔閻魔后、梵天后,世所宗奉火天、迦樓羅子天、自在天后、波頭摩、德叉迦龍、和修吉、商佉、羯句劍、大蓮俱里劍、摩訶泮尼、阿地提婆、薩陀難陀等龍,或天仙、大圍陀論師,各各應善供養。彼聞如是,心懷慶悅,殷重恭敬隨順修行。祕密主!是名愚童異生生死流轉無畏依第八嬰童心

          Lại này Bí Mật Chủ! Do cái tâm ấy, sanh tử lưu chuyển, từ nơi bạn lành, nghe nói như thế này: “Các vị trời này to lớn trong các vị trời, có thể ban cho hết thảy sung sướng. Nếu kiền thành cúng dường, hết thảy điều ước nguyện sẽ đều thỏa, tức là nói tới Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn  … và Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca (Đế Thích)Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, Hỏa Thiên được cõi đời tôn thờ, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Hòa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên Câu Lý Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà  … các rồng, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, đối với mỗi vị ấy đều nên khéo cúng dường”. Người ấy nghe như thế, ôm lòng vui mừng, trân trọng, cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Đó gọi là cái tâm trẻ thơ thứ tám nương cậy vô úy của dị sanh như trẻ nhỏ ngu muội đang lưu chuyển trong sanh tử).

 

 

            Bí Mật Chủ! Phục thứ thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh, sở vị thường, vô thường, Không, tùy thuận như thị thuyết. Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải không, phi không, thường, đoạn, phi hữu, phi vô, câu bỉ phân biệt. Vô phân biệt, vân hà phân biệt Không? Bất tri chư Không, phi bỉ năng tri Niết Bàn. Thị cố, ưng liễu tri Không, ly ư đoạn thường.

                      祕密主!復次殊勝行,隨彼所說中殊勝住求解脫慧生,所謂常無常空,隨順如是說。祕密主!非彼知解空非空、常斷、非有非無,俱彼分別。無分別云何分別空?不知諸空,非彼能知涅槃。是故應了知空離於斷常

          ( Bí Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng là thuận theo lời người đó nói mà trụ thù thắng, cầu sanh trí huệ giải thoát, tức là nói thường, vô thường, Không, tùy thuận lời nói như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó hiểu không, phi không, thường, đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, mà đều là phân biệt. Vô phân biệt thì sao có thể phân biệt Không? Chẳng biết các thứ Không, sẽ chẳng thể biết Niết Bàn. Vì thế, phải nên hiểu rõ lìa đoạn, thường).

 

 

            Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn thuyết bỉ tâm”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ! Đế thính tâm tướng, vị tham tâm, vô tham tâm, sân tâm, từ tâm, si tâm, trí tâm, quyết định tâm, nghi tâm, ám tâm, minh tâm, tích tụ tâm, đấu tâm, tránh tâm, vô tránh tâm, thiên tâm, A Tu La tâm, long tâm, nhân tâm, nữ tâm, tự tại tâm, thương nhân tâm, nông phu tâm, hà tâm, bi trì tâm, tỉnh tâm, thủ hộ tâm, xan tâm, cẩu tâm, ly tâm, Ca Lâu La tâm, thử tâm, ca vịnh tâm, vũ tâm, kích cổ tâm, thất trạch tâm, sư tử tâm, hưu lưu tâm, ô tâm, La Sát tâm, thích tâm, quật tâm, phong tâm, thủy tâm, hỏa tâm, nê tâm, hiển sắc tâm, bản tâm, mê tâm, độc dược tâm, quyến sách tâm, giới tâm, vân tâm, điền tâm, diêm tâm, thế đao tâm, Di Lô đẳng tâm, hải đẳng tâm, huyệt đẳng tâm, thọ sanh tâm.                    爾時金剛手復請佛言:惟願世尊說彼心。如是說已,佛告金剛手祕密主言:祕密主!諦聽心相。謂貪心、無貪心、瞋心、慈心、癡心、智心、決定心、疑心、暗心、明心、積聚心、鬪心、諍心、無諍心、天心、阿修羅心、龍心、人心、女心、自在心、商人心、農夫心、河心、陂池心、井心、守護心、慳心、狗心、狸心、迦樓羅心、鼠心、歌詠心、舞心、擊鼓心、室宅心、師子心、鵂鶹心、烏心、羅剎心、刺心、窟心、風心、水心、火心、泥心、顯色心、板心、迷心、毒藥心、羂索心、械心、雲心、田心、鹽心、剃刀心、彌盧等心、海等心、穴等心、受生心。 

          ( Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn nói các tâm đó”. Nói như thế xong, đức Phật bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hãy lắng nghe tướng trạng của tâm, tức là tâm tham, tâm chẳng tham, tâm sân, tâm từ, tâm si, tâm trí, tâm quyết định, tâm nghi, tâm tối, tâm sáng, tâm tích tụ, tâm đấu đá, tâm tranh chấp, tâm không tranh chấp, tâm trời, tâm A Tu La, tâm rồng, tâm người, tâm nữ, tâm tự tại, tâm con buôn, tâm nông phu, tâm sông, tâm ao chuôm, tâm giếng, tâm thủ hộ, tâm keo kiệt, tâm chó, tâm chồn, tâm Ca Lâu La, tâm chuột, tâm ca vịnh, tâm múa, tâm đánh trống, tâm nhà cửa, tâm sư tử, tâm cú vọ, tâm quạ, tâm La Sát, tâm châm chích, tâm hang hốc, tâm gió, tâm nước, tâm lửa, tâm bùn, tâm hiển sắc, tâm như miếng ván, tâm mê, tâm thuốc độc, tâm như dây trói, tâm cùm, tâm mây, tâm ruộng, tâm muối, tâm dao cạo, tâm bằng Di Lô (núi Tu Di), tâm như biển, tâm như hố, tâm thọ sanh).

 

 

             Bí Mật Chủ! Bỉ vân hà tham tâm? Vị tùy thuận nhiễm pháp. Vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp.

                      祕密主!彼云何貪心?謂隨順染法。云何無貪心?謂隨順無染法。

          Bí Mật Chủ! Thế nào là tâm tham? Tức là tâm tùy thuận nhiễm pháp).

 

 

             Vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp. Vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp. Vân hà si tâm? Vị tùy thuận tu bất quán pháp. Vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp. Vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng như thuyết phụng hành. Vân hà nghi tâm? Vị thường thâu trì bất định đẳng sự. Vân hà ám tâm? Vị ư vô nghi lự pháp, sanh nghi lự giải. Vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành. Vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất, vi tánh. Vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh. Vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sanh thị phi. Vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả.                       云何瞋心?謂隨順怒法。云何慈心?謂隨順修行慈法。云何癡心?謂隨順修不觀法。云何智心?謂順修殊勝增上法。云何決定心?謂教命如說奉行。云何疑心?謂常收持不定等事。云何闇心?謂於無疑慮法生疑慮解。云何明心?謂於不疑慮法無疑慮修行。云何積聚心?謂無量為一為性。云何鬪心?謂互相是非為性。云何諍心?謂於自己而生是非。云何無諍心?謂是非俱捨

          Thế nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ. Thế nào là tâm từ? Tức là tùy thuận pháp tu hành lòng từ. Thế nào là tâm si? Tức là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát. Thế nào là tâm trí? Tức là tùy thuận tu tập pháp tăng thượng thù thắng. Thế nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy, phụng hành đúng như đã nói. Thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp các sự, phân vân chẳng quyết định được. Thế nào là tâm tối tăm? Tức là tâm đối với pháp chẳng đáng lo ngờ mà sanh sự hiểu biết lo ngờ. Thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng lo ngờ, bèn tu hành chẳng lo ngờ. Thế nào là tâm tích tụ? Tức là có tánh gom vô lượng pháp vào một pháp. Thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau. Thế nào là tâm tranh chấp? Tức là đối với chính mình mà sanh thị phi. Thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ).

 

 

            Vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu. Vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử. Vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài. Vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha. Vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp. Vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngã nhất thiết như ý. Vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu, tụ hậu, phân tích pháp. Vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn nhi hậu cầu pháp.

                      云何天心?謂心思隨念成就。云何阿修羅心?謂樂處生死。云何龍心?謂思念廣大資財。云何人心?謂思念利他。云何女心?謂隨順欲法。云何自在心?謂思惟欲我一切如意。云何商人心?謂順修初收聚後分法。云何農夫心?謂隨順初廣聞而後求法。

          Thế nào là tâm trời? Tức là tâm tư thuận theo ý niệm mà thành tựu. Thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử. Thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn. Thế nào là tâm người? Tức là nghĩ nhớ lợi lạc người khác. Thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp. Thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn cho ta được hết thảy đều như ý. Thế nào là tâm con buôn? Tức là thuận theo thói thâu gom, tích tụ các pháp rồi mới phân tích. Thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu rộng nghe rồi sau đó mới cầu pháp).

 

 

            Vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp. Vân hà bi trì tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp. Vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm.

                      云何河心?謂順修依因二邊法。云何陂池心?謂隨順渴無厭足法。云何井心?謂如是思惟深復甚深。

          ( Thế nào là tâm sông? Tức là tu thuận theo cái nhân thuộc pháp nhị biên. Thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp, chẳng chán đủ. Thế nào là tâm giếng? Tức là tư duy như thế đã sâu lại còn rất sâu).

 

 

             Vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật. Vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp. Vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp. Vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc.

                      云何守護心?謂唯此心實餘心不實。云何慳心?謂隨順為己不與他法。云何狸心?謂順修徐進法。云何狗心?謂得少分以為喜足。

          ( Thế nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, tâm khác chẳng thật. Thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận pháp ích kỷ, chẳng ban cho người khác. Thế nào là tâm chồn? Tức là thuận theo cách tấn tu thong thả. Thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần liền vui mừng cho là đủ).

 

 

            Vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp. Vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược. Vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngã đương thượng thăng chủng chủng thần biến. Vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngã đương kích pháp cổ. Vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp. Vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp. Vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm. Vân hà ô tâm? Ư nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm. Vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện. Vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, phát khởi ác tác vi tánh.

                      云何迦樓羅心?謂隨順朋黨羽翼法。云何鼠心?謂思惟斷諸繫縛。云何舞心?謂修行如是法,我當上昇種種神變。云何擊鼓心?謂修順是法,我當擊法鼓。云何室宅心?謂順修自護身法。云何師子心?謂修行一切無怯弱法。云何鵂鶹心?謂常暗夜思念。云何烏心?謂一切處驚怖思念。云何羅剎心?謂於善中發起不善。云何刺心?謂一切處發起惡作為性。

          ( Thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận pháp phe phái, kết bè kéo cánh. Thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy đoạn các trói buộc. Thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp như thế, ta sẽ đạt được các thứ thần thông biến hóa. Thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp. Thế nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu theo pháp để tự bảo vệ thân. Thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy các pháp chẳng khiếp nhược. Thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường suy nghĩ đen tối. Thế nào là tâm quạ? Trong hết thảy các chỗ, đều nghĩ kinh hoảng. Thế nào là tâm La Sát? Tức là trong các điều thiện, phát khởi bất thiện. Thế nào là tâm châm chích? Tức là trong hết thảy các chỗ, phát khởi tánh làm ác).

 

 

            Vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp. Vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ, phát khởi vi tánh. Vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp. Vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt tánh. Vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh. Vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, xả khí dư thiện cố. Vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị. Vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp. Vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngã phược vi tánh. Vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh.

                      云何窟心?謂順修為入窟法。云何風心?謂遍一切處發起為性。云何水心?謂順修洗濯一切不善法。云何火心?謂熾盛炎熱性。云何顯色心?謂類彼為性。云何板心?謂順修隨量法,捨棄餘善故。云何迷心?謂所執異所思異。云何毒藥心?謂順修無生分法。云何羂索心?謂一切處住於我縛為性。云何械心?謂二足止住為性。

          ( Thế nào là tâm hang hốc? Tức là thuận theo, tu pháp vào hang. Thế nào là tâm gió? Tức là tâm có tánh phát khởi trọn khắp hết thảy mọi nơi. Thế nào là tâm nước? Tức là tùy thuận tu tập để gột rửa hết thảy các pháp chẳng lành. Thế nào là tâm lửa? Tức là tánh nóng bức hừng hực. Thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác. Thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp vừa sức mình, vứt bỏ các điều thiện khác. Thế nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ. Thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp chẳng còn lẽ sống. Thế nào là tâm như dây trói? Tức là trong hết thảy mọi nơi, tánh trụ trong sự trói buộc của ngã. Thế nào là tâm cùm? Tức có tánh chất kìm hãm hai chân [chẳng thể tiến cao hơn được].

 

            Vân hà vân tâm? Vị thường tác giáng vũ tư niệm. Vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân. Vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục tăng gia tư niệm. Vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp. Vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy, tâm cao cử vi tánh. Vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ. Vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải vi tánh. Vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp, bỉ sanh tâm như thị đồng tánh.

                      云何雲心?謂常作降雨思念。云何田心?謂常如是修事自身。云何鹽心?謂所思念彼復增加思念。云何剃刀心?謂唯如是依止剃除法。云何彌盧等心?謂常思惟心高舉為性。云何海等心?謂常如是受用自身而住。云何穴等心?謂先決定彼,後復變改為性。云何受生心?謂諸有修習行業,彼生心如是同性。

          ( Thế nào là tâm mây? Tức là thường suy nghĩ tuôn mưa. Thế nào là tâm ruộng? Tức là thường tu tập phụng sự tự thân như thế. Thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều được suy nghĩ, bèn tăng thêm ý niệm suy nghĩ. Thế nào là tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp trừ bỏ như thế. Thế nào là tâm bằng với núi Di Lô (Tu Di)? Tức là tâm thường suy nghĩ, có tánh chất cao ngạo. Thế nào là tâm như biển? Tức là thường thọ dụng tự thân như thế mà trụ. Thế nào là tâm như hầm hố? Tức là trước đó đã quyết định như thế, về sau lại biến đổi. Thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp trong các cõi, người ấy bèn sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế.)

 

 

             Bí Mật Chủ! Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, phàm bách lục thập tâm, việt thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh, vị như thị giải duy Uẩn vô Ngã, Căn, Cảnh, Giới, yêm lưu tu hành, bạt nghiệp phiền não chu ngột, vô minh chủng tử, sanh thập nhị nhân duyên ly kiến lập tông đẳng. Như thị trạm tịch, nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri. Tiên Phật tuyên thuyết, ly nhất thiết quá.

                      祕密主!一二三四五再數,凡百六十心,越世間三妄執出世間心生,謂如是解唯蘊無我根境界,淹留修行拔業煩惱株杌、無明種子,生十二因緣離建立宗等。如是湛寂,一切外道所不能知。先佛宣,離一切過。

          ( Bí Mật Chủ! Gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần [năm căn bản phiền não], sẽ thành một trăm sáu mươi tâm, vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng thuộc thế gian, tâm xuất thế gian sanh ra, tức là hiểu “chỉ có Uẩn, không có Ngã, Căn, Cảnh, Giới” như thế, tu hành dằng dai hòng nhổ trừ cội gốc của nghiệp và phiền não, chủng tử vô minh, sanh, mười hai nhân duyên, lìa các thứ đề xướng kiến lập  … Sự tĩnh lặng sâu lắng như thế, hết thảy ngoại đạo đều chẳng thể biết. Điều được Phật tuyên nói trên đây lìa hết thảy lỗi).

 

 

 

            Bí Mật Chủ! Bỉ xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung, hữu như thị huệ tùy sanh. Nhược ư Uẩn đẳng, phát khởi ly trước, đương quán sát tụ mạt, phù bào, ba tiêu, dương diễm, huyễn đẳng, nhi đắc giải thoát, vị Uẩn, Xứ, Giới, năng chấp, sở chấp, giai ly pháp tánh. Như thị chứng tịch nhiên giới, thị danh xuất thế gian tâm. Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền não võng, thị siêu việt nhất kiếp Du Kỳ hạnh.

                      祕密主!彼出世間心住蘊中,有如是慧隨生。若於蘊等發起離著,當觀察聚沫、浮泡、芭蕉、陽焰、幻等而得解。謂蘊處界能執所執皆離法性,如是證寂然界,是名出世間心。祕密主!彼離違順八心相續業煩惱網,是超越一劫瑜祇行。

          ( Bí Mật Chủ! Cái tâm xuất thế giaấy trụ trong Uẩn, có huệ như thế tùy thuận sanh khởi. Nếu đối với các thứ như Uẩn  … mà phát khởi cái tâm lìa chấp trước, hãy nên quán sát bọt nước đọng, bong bóng nước, cây chuối, ánh nắng gợn, huyễn  … để được giải thoát, nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới, cái có thể chấp, cái bị chấp trước đều lìa khỏi pháp tánh. Chứng cảnh giới vắng lặng như thế, gọi là “tâm xuất thế gian”. Bí Mật Chủ! Tâm ấy lìa khỏi tám tâm tiếp nối trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền nãothì gọi là siêu việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp).

 

 

            Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngã tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ vãng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành. Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngã, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất sanh. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Tâm tiền hậu tế bất khả đắc cố. Như thị tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh. Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu. Thiên, nhân, thế gian chi sở quy y, xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, thân cận, kính lễ. Sở vị Không tánh ly ư căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, việt chư hý luận, đẳng hư không, vô biên nhất thiết Phật pháp y thử tương tục sanh, ly hữu vi, vô vi giới, ly chư tạo tác, ly nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, cực vô tự tánh tâm sanh. Bí Mật Chủ! Như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền não, giải thoát, nhi nghiệp phiền não cụ y, thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường. Phục thứ Bí Mật Chủ! Tín giải hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, đãi thập tâm vô biên trí sanh, ngã nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc. Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết Trí tín giải địa, phục việt nhất kiếp thăng trụ thử địa, thử tứ phần chi nhất độ ư tín giải.

                            復次祕密主!大乘行發無緣乘心、法無我性。何以故?如彼往昔如是修行者觀察蘊阿賴耶,知自性如幻、陽焰、影響、旋火輪、乾闥婆城。祕密主!彼如是捨無我、心主自在、覺自心本不生。何以故?祕密主!心前後際不可得故。如是知自心性,是超越二劫瑜祇行。復次祕密主!真言門修行菩薩行諸菩薩,無量無數百千俱胝那庾多劫積集無量功德智慧,具修諸行,無量智慧方便皆悉成就,天人世間之所歸依,出過一切聲聞辟支佛地,釋提桓因等親近敬禮。所謂空性離於根境,無相無境界,越諸戲論,等虛空,無邊一切佛法依此相續生,離有為無為界、離諸造作、離眼耳鼻舌身意極無自性心生。祕密主!如是初心,佛說成佛因故,於業煩惱解,而業煩惱具依,世間宗奉常應供養。復次祕密主!信解行地觀察三心,無量波羅蜜多慧觀四攝法。信解地無對無量不思議,逮十心無邊智生,我一切諸有所,皆依此而得。是故智者當思惟此一切智信解地,復越一劫昇住此地,此四分之一度於信解。

                ( Lại này, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi tâm vô duyên thừa, do các pháp chẳng có ngã tánh. Vì sao vậy? Như những vị tu hành xưa kia, quán sát Uẩn, A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, hình bóng, tiếng vọng, vòng lửa xoay, thành Càn Thát Bà. Bí Mật Chủ! Họ xả vô ngã như thế, tâm chủ tự tại, nhận biết tự tâm vốn bất sanh. Vì sao vậy? Bí Mật Chủ! Do tâm trong tiền tế và hậu tế đều chẳng thể được. Biết tâm tánh như thế, bèn siêu việt hạnh Du Kỳ trong kiếp thứ hai. Lại này, Bí Mật Chủ! Trong Chân Ngôn môn, các Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu, được trời, người, thế gian quy y, vượt khỏi hết thảy các địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, được Thích Đề Hoàn Nhân  … thân cận, lễ kính. Cái được gọi là tánh Không lìa khỏi căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, vượt ngoài các hý luận, giống như hư không, vô biên hết thảy các Phật pháp nương vào đây mà liên tục sanh, lìa khỏi hữu vi giới và vô vi giới, lìa các tạo tác, lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sanh khởi tâm vô tự tánh tột bậc. Bí Mật Chủ! Phật nói sơ tâm như thế là cái nhân để thành Phật, tuy giải thoát nghiệp phiền não mà nghiệp phiền não đều nương trọn vào đó, được thế gian tôn phụng, thường nên cúng dường. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa chẳng có đối đãi, vô lượng chẳng thể nghĩ bàn, do đối ứng với mười tâm mà vô biên trí sanh, hết thảy những điều ta đã nói đều do nương vào đây mà ra. Vì thế, người trí hãy nên tư duy Tín Giải Địa thuộc Nhất Thiết Trí này, lại vượt qua một kiếp, tiến lên trụ trong địa vị này. Đó là vượt qua được một phần trong bốn phần nơi tín giải).

 

 

 

             Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện cứu thế giả diễn thuyết tâm tướng, Bồ Tát hữu kỷ chủng đắc vô úy xứ?” Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Đế thính! Cực thiện tư niệm! Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy. Nhược như thật tri ngã, đương đắc thân vô úy. Nhược ư thủ uẩn sở tập ngã thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngã vô úy. Nhược hại uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy. Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngã vô úy. Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngã, thọ mạng đẳng, cập pháp vô duyên Không, tự tánh vô tánh, thử Không trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng vô úy.

                      爾時執金剛祕密主白佛言:世尊!願救世者演說心相,菩薩有幾種得無畏處?如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:諦聽,極善思念。祕密主!彼愚童凡夫修諸善業、害不善業,當得善無畏。若如實知我,當得身無畏。若於取蘊所集我身捨自色像觀,當得無我無畏。若害蘊住法攀,當得法無畏。若害法住無,當得法無我無畏。若復一切蘊界處、能執所執、我壽命等及法無緣空、自性無性,此空智生,當得一切法自性平等無畏。

          ( Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nguyện đấng cứu thế diễn nói tâm tướng, Bồ Tát có mấy loại vô úy xứ?” Nói như thế xong, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lắng nghe! Hãy suy niệm cực khéo! Này Bí Mật Chủ! Phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, tu các thiện nghiệp, trừ bỏ bất thiện nghiệp, sẽ đạt được sự không sợ hãi tốt lành. Nếu biết ngã đúng như thật, sẽ đạt được thân vô úy. Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp của chính mình mà lìa bỏ cái thấy [chấp trước] đối với hình sắc của chính mình, sẽ đạt được vô ngã vô úy. Nếu trừ khử sự nắm níu đối với pháp uẩn trụ, sẽ đạt được pháp vô úy. Nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đắc pháp vô ngã vô úy. Nếu lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngã, thọ mạng  … và Pháp Vô Duyên Không mà biết là tự tánh vô tánh, do Không trí ấy sanh khởi, sẽ đạt được sự vô úy bình đẳng nơi tự tánh của hết thảy các pháp).

 

 

             Bí Mật Chủ! Nhược Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, thâm tu quán sát thập duyên sanh cú, đương ư Chân Ngôn hạnh thông đạt, tác chứng. Vân hà vi thập? Vị như huyễn, dương diệm, mộng, ảnh, Càn Thát Bà thành, hưởng, thủy nguyệt, phù bào, hư không hoa, toàn hỏa luân. Bí Mật Chủ! Bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đương như thị quán sát.

                      祕密主!若真言門修菩薩行諸菩薩,深修觀察十緣生句,當於真言行通達作證。云何為十?謂如幻、陽焰、夢、影、乾闥婆城、響、水月、浮泡、虛空華、旋火輪。祕密主!彼真言門修菩薩行諸菩薩,當如是觀察。

          ( Bí Mật Chủ! Nếu các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, tu tập sâu xa quan sát mười câu duyên sanh, sẽ thông đạt, tác chứng Chân Ngôn hạnh. Thế nào là mười? Chính là như huyễn, ánh nắng gợn, mộng, hình bóng, thành Càn Thát Bà, tiếng vang, trăng trong nước, bọt nước nổi, hoa đốm trên hư không, vòng lửa xoay. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn ấy hãy nên quan sát như thế).

 

 

            Vân hà vi huyễn? Vị như chú thuật, dược lực năng tạo, sở tạo chủng chủng sắc tượng, hoặc tự nhãn cố, kiến hy hữu sự triển chuyển tương sanh, vãng lai thập phương. Nhiên bỉ phi khứ, phi bất khứ. Hà dĩ cố? Bổn tánh tịnh cố. Như thị Chân Ngôn huyễn, trì tụng thành tựu, năng sanh nhất thiết.

                      云何為幻?謂如呪術藥力能造所造種種色像,惑自眼故,見希有事展轉相生、往來十方,然彼非去非不去。何以故?本性淨故。如是真言幻持誦成就,能生一切。

          ( Thế nào là huyễn? Tức là như chú thuật, hoặc do sức thuốc có thể tạo tác các thứ hình sắc, mê hoặc mắt mình, thấy các sự hy hữu lần lượt sanh ra, qua lại mười phương. Nhưng chúng nó chẳng đi, chẳng phải là không đi. Vì sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh. Chân ngôn là huyễn cũng giống như thế, nhưng trì tụng thành tựu sẽ có thể sanh ra hết thảy).

 

 

            Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dương diễm tánh Không, bỉ y thế nhân vọng tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị. Như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh.

                      復次祕密主!陽焰性空,彼依世人妄想成立有所談議,如是真言唯是假名。

          ( Lại này, Bí Mật Chủ! Tánh của ánh nắng gợn là Không, do nó nương vào vọng tưởng của người đời mà thành lập những điều bàn luận. Các tướng trong Chân Ngôn cũng giống như thế, chỉ là giả danh).

 

 

             Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như mộng trung sở kiến trú nhật, Mâu Hô Lật Đa, sát-na, tuế thời đẳng trụ, chủng chủng dị loại thọ chư khổ lạc, giác dĩ đô vô sở kiến. Như thị mộng Chân Ngôn hạnh, ưng tri diệc nhĩ.

                      復次祕密主!如夢中所見晝日牟呼栗多,剎那歲時等住,種種異類受諸苦樂,覺已都無所見。如是夢真言行,應知亦爾。

          ( Lại nữa, Bí Mật Chủ! Như những cảnh được thấy trong mộng, tuy chỉ tồn tại trong một Mâu Hô Lật Đa, hoặc sát-na của ban ngày, mà như kéo dài cả năm, và thấy các thứ dị loại hứng chịu các thứ khổ lạc. Tỉnh giấc thì đều chẳng thấy gì. Hãy nên biết hạnh Chân Ngôn cũng giống như giấc mộng như thế).

 

 

            Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ ảnh dụ giải liễu Chân Ngôn năng phát Tất Địa, như diện duyên ư kính, nhi hiện diện tượng, bỉ Chân Ngôn Tất Địa đương như thị tri.

                      復次祕密主!以影喻解了真言能發悉地,如面緣於鏡而現面像,彼真言悉地當如是知。

          ( Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về hình bóng để hiểu rõ Chân Ngôn có thể phát khởi Tất Địa, như do soi mặt vào gương mà hiện ra vẻ mặt, hãy nên biết Chân Ngôn Tất Địa cũng giống như thế).

 

 

            Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ Càn Thát Bà thành thí, giải liễu thành tựu Tất Địa cung.

                      復次祕密主!以乾闥婆城譬解了成就悉地宮。

          ( Li này, Bí Mt Ch! Dùng thí d v Càn Thát Bà đ hiu rõ cung đin thành tu Tt Đa).

 

 

             Phục th, Bí Mt Ch! Dĩ hưởng d gii liu Chân Ngôn thanh, như duyên thanh hu hưởng, b Chân Ngôn gi đương như th gii.

                      復次祕密主!以響喻解了真言聲,如緣聲有響,彼真言者當如是解。

          ( Li này, Bí Mt Ch! Dùng thí d v tiếng vng đ hiu rõ âm thanh Chân Ngôn, như do âm thanh mà có tiếng vng, người tu Chân Ngôn hãy nên hiu như thế).

 

 

             Phục th, Bí Mt Ch! Như nhân nguyt xut c, chiếư tnh thy, nhi hin nguynh tượng. Như th Chân Ngôn thy nguyt d, b trì minh gi đương như th thuyết.

                      復次祕密主!如因月出故照於淨水而現月影像,如是真言水月,彼持明者當如是

          Lại này, Bí Mt Ch! Như do mt trăng l ra, chiếu vào nước sch, mà hin ra bóng trăng. Cũng như thếChân Ngôn ví như trăng trong nước, người trì minh (trì chú) hãy nên nói như thế).

 

 

            Phục th, Bí Mt Ch! Như thiên giáng vũ, sanh bào, b Chân Ngôn Tt Đa chng chng biến hóa, đương tri dic nhĩ.

                      復次祕密主!如天降雨生泡,彼真言悉地種種變化,當知亦爾。

          ( Li này, Bí Mt Ch! Như tri đ mưa, sanh ra bong bóng, hãy nên biết các th biến hóa nơi Chân Ngôn Tt Đa cũng như thế).

 

 

            Phục th, Bí Mt Ch! Như không trung vô chúng sanh, vô th mng, b tác gi bt kh đc, dĩ tâm mê lon c, nhi sanh như th chng chng vng kiến.

                      復次祕密主!如空中無眾生、無壽命,彼作者不可得;以心迷亂故,而生如是種種妄見。

          ( Li này, Bí Mt Ch! Như trong hư không chng có chúng sanh, chng có th mng, chng có tác gi đ có th đt được, do tâm mê lon mà sanh ra đ mi cách nhìn hư vng như thế).

 

 

            Phục th, Bí Mt Ch! Thí như ha tn, nhược nhân chp trì ti th, nhi dĩ toàn chuyển không trung, hu luân tượng sanh.

                      復次祕密主!譬如火燼,若人執持在手,而以旋轉空中,有輪像生。

          ( Li này, Bí Mt Ch! Ví như tàn la, nếu có người cm trong tay xoay tròn trên không, s có hình tượng như mt vòng la).

 

 

            Bí Mật ChƯng như th liu tri Đi Tha cú, tâm cú, vô đng đng cú, tt đnh cú, Chánh Đng Giác cú, tim th Đi Tha sanh cú, đương đc c túc pháp tài, xut sanh chng chng công xo đi trí, như tht biến tri nht thiết tâm tướng.

                      祕密主,應如是了知大乘句、心句、無等等句、必定句、正等覺句、漸次大乘生句,當得具足法財、出生種種工巧大智,如實遍知一切心

     ( Này Bí Mật Ch! Hãy nên biết rõ câu Đi Tha, câu tâm, câu không gì sánh bng, câu nht đnh, câu Chánh Đng Giác, câu Đi Tha ln lượt sanh khi như thế, s đt được trn đ pháp tài, xut sanh đ lođại trí hay khéo, như tht biết trn khp hết thy các tâm tướng).

 

 

Phẩm thứ 1: Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm

CHUNG

Comments

Popular posts from this blog