Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ
大毘盧遮那成佛經疏
Thay lời dẫn nhập
Kinh Đại Nhật (tên gọi đầy đủ là Đại Tỳ
Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh, Mahāvairocanābhi-saṃbodhi-vikurvitā-dhiṣṭhāna-vaipulya-sūtren-drarāja-nāmadharma-paryāya) cùng với
kinh Kim Cang Đảnh là hai bộ kinh trọng yếu trong Đông Mật. Từ các giáo nghĩa
trong kinh Đại Nhật mà lưu xuất Thai Tạng Mạn Đà La. Do không tu tập Mật Tông,
đối với giáo nghĩa của Mật Tông, mạt nhân chỉ hiểu biết sơ sài về mặt văn tự, lại
không có cơ duyên tìm học và lãnh hội Mật Tông. Do vậy, mạt nhân rất ngần ngại
khi phải chuyển ngữ các tác phẩm liên quan đến Mật Tông. Chỉ vì trước kia do
lòng tham pháp mà đua đòi chuyển ngữ, lại được một số đạo hữu lầm tin tưởng, chẳng
chấp nhặt văn từ vụng dại, chữ nghĩa quê kệch, cứ cổ vũ mạt nhân tiếp tục làm
chuyện quá sức mình, đến nỗi một người bạn đạo vong niên cũng lầm tưởng mạt
nhân đủ khả năng, nhiều lần yêu cầu dịch bộ chú giải kinh Đại Nhật này. Anh
nói: “Kinh Mật Tông đã được dịch rất nhiều, nhưng không hiểu vì sao không ai dịch
các tác phẩm chú giải, chú hãy giúp anh được đọc chú giải của bộ kinh này trước
khi nhắm mắt xuôi tay”. Mạt nhân cũng thử tìm kiếm trên Internet, chắc là do
quá low-tech, chưa tìm thấy bản dịch nào. Do cả nể và từ chối mãi chẳng được,
cũng như thấy vị đạo huynh ấy tuổi ngày một cao, đành phải cắn răng làm liều,
dùng kiến thức chấp vá, văn phong quê kệch để chuyển ngữ tác phẩm trọng yếu này
cho xong trách nhiệm.
Xét trong Đại
Tạng Kinh và Tục Tạng Kinh, ngài Nhất Hạnh để lại hai tác phẩm: Một là Đại Nhật
Kinh Sớ (gồm 20 quyển), và một phiên bản khác là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần
Biến Gia Trì Kinh Nghĩa Thích (14 quyển), mạt nhân chọn bản dài hơn (tức bản Đại
Nhật Kinh Sớ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, phiên bản điện tử của
CBETA). Ngoài ra, do lời Sớ chỉ trích dẫn đại lược các đoạn chánh kinh, chúng
tôi cũng dựa theo chánh kinh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh để trích dẫn
nguyên văn các đoạn kinh được giảng giải ngõ hầu người đọc dễ đối chiếu lời chú
giải với chánh kinh. Đối với những chữ sai khác đôi chút giữa bản chú giải và
chánh kinh, chúng tôi sửa theo chữ ghi trong bản chú giải của ngài Nhất Hạnh.
Hơn nữa, tuy bản chú giải chia thành hai mươi quyển, nhưng do thấy nhiều khi
chưa giảng hết ý trong một đoạn mà đã sang quyển khác, chúng tôi lược đi, không
chia thành quyển để mạch văn được liên tục. Kính mong Tam Bảo từ bi gia hộ, khiến
cho con không đến nỗi chuyển ngữ sai lạc ý Phật, ý Tổ, cũng như mong rằng bản dịch
quê kệch này sẽ phần nào hữu ích đối với các hành nhân sơ cơ có dịp hiểu đôi
chút về giáo nghĩa Mật Tông. Nếu có chút công đức nào, đều xin hồi hướng về
pháp giới chúng sanh, lịch đại tổ tiên, oán thân trái chủ, hiện tiền và quá khứ
phụ mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức cũng như mười phương chúng sanh đều cùng
sanh về Cực Lạc, diện kiến A Di Đà Phật, cùng nghe pháp, tấn tu, cùng chứng Bồ
Đề.
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa đê đầu
kính bạch
* Đôi nét về sa-môn Nhất Hạnh
Sa-môn Nhất
Hạnh (683-727), còn gọi là Nhất Hạnh A-xà-lê, pháp hiệu Kính Hiền, là một vị
cao tăng Mật giáo, đồng thời là một nhà thiên văn kiêm lịch pháp gia lỗi lạc thời
Đường. Ngài được tôn là một trong năm vị tổ của Đông Mật (Long Thọ, Kim Cang
Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không, và Nhất Hạnh). Ngài quê ở Cự Lộc (nay là huyện Cự Lộc
tỉnh Hà Bắc. Có sách chép Ngài quê ở Xương Lạc thuộc Ngụy Châu, nay là huyện Lạc
thuộc tỉnh Hà Nam), họ ngoài đời là Trương, tên Toại. Xuất thân từ một gia tộc
hiển hách, oai quyền (Ngài là hậu duệ của công thần Trương Công Cẩn thời Sơ Đường,
nhưng đến thời ông nội Ngài là Trương Đại Tố, đang làm Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá
Nhân thì do phạm lỗi, bị biếm làm Trưởng Sử ở Hoài Châu, gia đạo bắt đầu suy
vi). Lúc mười hai tuổi, Ngài đã làu thông kinh sử, nổi tiếng nhớ dai, bất cứ
sách vở nào hễ đọc qua một lượt đều nhớ kỹ không sai. Năm hai mươi tuổi, Ngài
đã tinh thông các học thuyết lịch tượng, âm dương, ngũ hành. Sau khi đọc bộ
Thái Huyền Kinh của Dương Hùng, Ngài đã biên soạn hai tác phẩm Đại Diễn Đồ Quyết
và Nghĩa Quyết trong vòng mấy ngày, được các bậc hành gia đương thời đánh giá rất
cao.
Khi đó, Vũ
Tam Tư (cháu của Vũ Tắc Thiên) đang thao túng triều chánh, nhiều lượt toan kết
giao với Ngài để tăng thêm thanh thế. Thấy vậy, Ngài lánh về phương Nam, và bắt
đầu chú ý đến Phật pháp. Sau khi song thân đều mất, Ngài gặp Hoằng Cảnh Thiền
Sư ở chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu (lúc đó Ngài hai mươi mốt tuổi) giảng
pháp, bèn manh nha ý niệm xuất gia. Về sau, do theo học Thiền với ngài Tung Sơn
Phổ Tịch, Sư bèn xuất gia làm Tăng (lúc đó Ngài khoảng hai mươi bốn tuổi). Do
Ngài thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, thầy liền ban pháp danh là Nhất Hạnh. Sư lại
còn theo ngài Đương Dương Ngộ Chân học Luật. Ngài từng thâu thập những điều trọng
yếu trong luật tạng và kinh tạng, soạn thành bộ sách Nhiếp Điều Phục Tạng gồm
mười quyển, được đánh giá rất cao. Năm Khai Nguyên thứ năm (717), dưới sự khẩn
khoản yêu cầu của chú ruột đang làm Lễ Bộ Lang Trung trong triều, Ngài nhập
cung, chuẩn bị giúp ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Mật giáo. Đồng thời, Ngài cũng
theo học Mật pháp với cả hai vị cao tăng Mật Tông thuở đó là Thiện Vô Úy và Kim
Cang Trí, được thọ quán đảnh.
Ngoài ra,
Ngài cũng tinh thông Đạo giáo, toán học, lịch pháp, đặc biệt là Phạn văn và
toán pháp của Ấn Độ. Năm Khai Nguyên thứ chín (721), Ngài vâng sắc chỉ của Đường
Huyền Tông, đính chánh lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch Pháp gồm năm mươi
hai quyển (hoàn thành vào năm Khai Nguyên thứ 15, tức năm 727). Để giúp các nhà
lịch pháp đương thời tính toán lịch pháp dễ dàng hơn, Ngài soạn các bộ Lịch Nghị
(mười quyển), Lịch Lập Thành (mười hai quyển), Lịch Thảo (hai mươi bốn quyển),
Thất Chánh Trường Lịch (ba quyển) để thuyết minh các nguyên tắc tính toán lịch
số. Ngài lại cùng với Binh Tào Tham Quân Lương Linh Toản chế ra dụng cụ Hoàng Đạo
Du Nghi để tính toán vị trí chánh xác của một trăm năm mươi mấy hằng tinh, đo
lường chánh xác độ dài của kinh tuyến trái đất, khảo sát sự vận hành của mặt
trăng v.v… Từ các kết quả trắc lượng, Ngài vẽ thành ba mươi sáu bộ bản đồ tinh
tú. Ngài và các cộng sự như Lương Linh Toản chế ra Hỗn Thiên Nghi là dụng cụ trọng
yếu để nghiên cứu thiên văn của cổ Trung Hoa, tính toán chuẩn xác quỹ đạo của
các tinh tú.
Ngài lại
ghi chép những điều do ngài Thiện Vô Úy giảng về kinh Đại Nhật thành bộ Đại Nhật
Kinh Sớ (gồm hai mươi quyển), cũng như vận dụng rất nhiều kinh sách khác để giảng
rộng ý nghĩa chánh kinh. Có lẽ do quá lao lực, Ngài qua đời khi mới bốn mươi
lăm tuổi, thụy hiệu là Đại Huệ Thiền Sư. Ngài để lại một số trước tác như Tú Diệu
Nghi Quỹ, Phạm Thiên Hỏa La Nghi Quỹ, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nạn Niệm Tụng Nghi Quỹ, Hoa Nghiêm Kinh Hải
Ấn Đạo Tràng Sám Nghi (bốn mươi hai quyển, soạn chung với đệ tử là Huệ Giác),
Thích Thị Hệ Lục (một quyển), Đại Tỳ Lô Giá Na Phật Nhãn Tu Hành Nghi Quỹ, Mạn
Thù Thất Lợi Diễm Mạn Đức Ca Niệm Tụng Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Tinh Quân Hộ Ma
Pháp...
Trong đó,
theo ghi chép, sau khi bộ Đại Nhật Kinh được dịch xong vào năm Khai Nguyên 12
(724), ngài Nhất Hạnh cung thỉnh ngài Thiện Vô Úy giảng giải nghĩa lý trọng yếu,
chép lại những điều trọng yếu gọi là Nghĩa Thích (gồm mười bốn quyển). Hiện thời,
có các phiên bản gồm bảy quyển, mười quyển, mười một quyển, mười bốn quyển và
hai mươi quyển, nội dung cũng sai khác đôi chút.
Ngoài ra,
theo các sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục và Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ, ngài Nhất
Hạnh đã cung thỉnh A-xà-lê Kim Cang Trí dịch Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất
Niệm Tụng Pháp (bốn quyển), Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Minh
Đà La Ni Kinh (một quyển) và được thọ quán đảnh. Do vậy, Ngài là bậc A-xà-lê hoằng
truyền của hai bộ Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới Mạn Đà La.
Comments
Post a Comment