PHÁP HOA KINH

CƯƠNG YU

 

 

Li Nói Ðu

 

Kinh PHÁP-HOA là mt b kinh ln mà t xưa đến nay, sau khi đc Pht dit-đ, được lưu thông nht và được nhiu người tng-trì nht trong các b kinh ln; phi chăng do kinh này hip cơ-duyên vi chúng-sanh đi ngũ-trược, hay là nh oai thn ng-h truyn-trì ca quí ngài Ph-Hin, Dược-Vương cùng vô-lượng hng-sa B-tát; hay cũng vì tt c qun-sanh đu sn đ t-tâm Pht-tri-kiến.

Cc đua nhau gii thích kinh này rt nhiu, nào Huyn-Nghĩa, Văn-Cú, nào Thông-Nghĩa, Cú-Gii v.v... B thi hin lý b thi gii văn, làm cho kinh Pháp-Hoa đã chói sáng càng thêm chói sáng, làm cho tiếng Pháp-Hoa đã vang di càng thêm vang-di. Người tng được li, người trì được nghim, hoc hin tin thâm nhp tam-mui, hay lai thế siêu thăng thánh đa, hoc tiêu tai, hoc gii nn v.v... đó là diu-lc bt-tư-nghì ca kinh, mà cũng là công c-võ ca Cc.

Tng-trì kinh Pháp-Hoa có hai môn: 1- S TNG-TRÌ; 2- LÝ TNG-TRÌ.

Nếu ch mt mt v s tng-trì, nghĩa là ch biết đc tng kinh văn, hoc mt ch hoc thuc lòng, thi du phước đc vô-lượng, nhưng đi vi người kiêm c s lý tng-trì, nghĩa là chng nhng chuyên đc tng kinh văn mà cũng rõ thu ch thú ca kinh, thi nghìn muôn phn không kp mt, bi vì Pht tri-kiến mà được khai-th, được ng-nhp là nơi lý tng-trì vy, do đây nên người tng-trì mun công-đc viên-mãn phi nghiên tâm ch-thú ca kinh.

Trn b kinh -PHÁP-HOA- by quyn, hai mươi tám phm trên sáu vn li, nghĩa lý đã sâu, văn t li quá rng. Nghĩa lý đã sâu thi khó hi khó lãnh, văn t rng tt khó tóm phăng. Tóm phăng đã không được tt không th nm ly cương-lãnh ca toàn kinh. Ðã không được cương-lãnh thi có th nào lãnh hi lý thú, li thêm trong kinh 'PHÁP-HOA' này lý-thú rt sâu, rt nhim. Ðc tng kinh 'PHÁP-HOA' mà không lãnh được lý-thú, thi hu-gii không do đâu phát sanh, đi-thin công-đc không t đâu thành tu, ch được phn phước lành hu lu cùng là vin-nhơn Pht-chng mà thôi.

Tôi t lâu thường trì-tng 'PHÁP-HOA' mãi gian lao vì văn rng nghĩa sâu, đi vi kinh vn chưa có chút phn gì đáng gi là lãnh-hi. T mình đã vy, tt li có nhiu người cũng thế, hoc hin ti, hoc tương lai. Nghĩ mình, lo người, nhơn đó mi sưu đông tm tây, phóng theo các bn chú-s ca Cc, gng g chép quyn Cương-Yếu này lược ch cương-lãnh ca kinh-văn, tóm bài yếu-ch ca phm-mc. Ngõ hu nhơn đây làm tr-duyên, người trì-tng 'PHÁP-HOA' t phát trí-hu lãnh-hi lý mu đt Pht-tri-kiến, thành-tu đi-thin công-đc.

Trong b Cương-Yếu này v phn phán thuc phm-mc cùng lược gii yếu ch là nương theo ca ngài Hi-n Ði-Sư, đem toàn kinh này phân hip bn phn KHAI, TH, NG, NHP PHT-TRI-KIN.

Như đon trên đã nói quyn Cương-Yếu này lược ch cương-lãnh ca kinh-văn, tóm bày yếu-ch ca phm-mc, thi đ biết ni-dung đi-th ca quyn này ri.

Trong kinh nói: 'Kinh Tng' 'PHÁP-HOA' này rt sâu xa thm kín: Li nói: 'Trí-hu ca chư Pht, rt sâu vô-lượng môn trí-hu đó khó hiu khó-vào'. Rt sâu thm kín, đó là yếu-ch ca kinh này rt sâu xa, phn nhiu ngoài li nói, chng phi ch dùng tai mt mà có th rõ biết được. Người tng-trì mun thâm nhp lý kinh cn phi lóng thân lng lòng quan sát kinh văn rng thu thâm ý ca đc Pht. Quyn 'Cương-Yếu' này là mt tài-liu giúp vào công vic đây vy.

Trông mong người đc, lãnh ý quên li, nếu có sơ sót nh các bc cao minh b đính.

 

Viết ti LIÊN HI PHT HC ÐƯỜNG

Pht lch 2492 (1948)

Ngày an-cư Năm Mău-Tý

HÂN TNH TỲ KHEO

THÍCH  TRÍ  TNH

 

 

CHƯƠNG TH NHT

TNG T

 

Ba mươi tui thành-đo, tám mươi tui nhp Niết-Bàn, ngót năm mươi năm, đc Pht tri qua hơn ba trăm hi, t hi th nht nơi B đo-tràng, đến hi rt sau nơi rng Ta-La, thun theo cơ sai khác ca chúng-sanh mà nói pháp giáo-hóa, tt c đu ch mc-đích li-sanh, mt mc đích ti cao-thượng. Còn gì cao-thượng bng khn khín mt lòng c làm sao cho tt c chúng đu được dt hn sanh t kh, thành tu qu-v viên-mãn-giác hoàn toàn gii-thoát an vui như đc Pht đã được.

Trong kinh đc Pht t nói:- 'Ta hng nghĩ thế này: làm sao cho chúng-sanh đng vào hu vô-thượng, mau thành-tu Pht thân'. Ðc Pht li nói:- 'Ta trước lp th rng: mun cho tt c chúng đng như ta không khác'. Li nói:- 'Bn-nguyn ca các Pht, khp mun cho chúng-sanh cũng đng đng Pht-đo, như ca Pht tu-hành'.

Cao quý thay! Tôn trng thay! Nếu không phi mt đng đã cu-cánh lòng đi t-bi, đi bình-đng, tt không th có bn-nguyn cao-thượng y.

Vì bn-nguyn Vô-thượng bình-đng, sau khi chng qu đi-b, đc Pht lin din nói kinh Hoa-Nghiêm phô by pháp-gii duyên-khi viên-dung qu-hi, đó là thit-giáo (Pht tha chơn tht). Trong hi Hoa-Nghiêm, vô-lượng chúng, hn căn tánh viên tha, siêu nhp Pht-hu, ngoài ra hng người căn-tánh chm lt hp nh, chướng sâu, nghip nng, khó lòng đm nhn được giáo-lý ti-thâm ti-thượng, đến như các hàng tiu-thánh đi-đc Thanh-văn, chính thân d đi-hi mà còn như đui như điếc, hung na là phàm-phu.

Mun đ hng người này, đc Pht phi h thp mình chìu theo chúng ch dy ln ln, nào nói pháp tế, nào nói pháp nhơn-duyên, hoc tướng, hoc tánh, lúc c, lúc dương, khi hin có, lúc hin không, song khin v.v... dt dìu chúng t thp ln lên cao, t cn ln vào sâu đó là quyn-giáo (tam tha phương-tin).

Trong kinh đc Pht nói:- 'Nếu ta gp chúng-sanh, đu đem Pht-đo dy, k vô-trí ri-lm, mê ti không lãnh th'. Li nói:- 'Ta biết các chúng-sanh, chưa tng tu ci lành, ham miết theo ngũ dc ... Chp chc pháp hư-vng, bn gi không b được, ng mn t khoe cao, dua di tâm không thit ... Người như thế khó đ, cho nên, Xá-Li-Pht! ta bày chước phương-tin nói đo pháp dt kh, ch cho kia Niết-bàn, ta du nói Niết-bàn, cũng chng phi thit-dit ... Ta có sc phương-tin ch bày pháp tam-tha ...'

Trong các đon kinh văn dn trên đây, trước nói duyên do n thit, kế bày căn-tánh chúng-sanh, cui sau ch đu mi có quyn tha. Xem đây thy rõ quyn-giáo không phi chính bn-ý ca đc Pht, mà là nhng phương-tin bt đc dĩ phi tm dùng đ d dn chúng-sanh thôi. Quyn-giáo là gì ? Là nhng giáo-lý ngoài vic ch thng đến Pht-hu, ngay v Pht-tri-kiến, chng vào cnh-gii cu-cánh Pht-qu, mà đc Pht chìu theo căn-tánh chúng-sanh tm thi dùng đ dìu-dt un nn. Dìu dt hng căn-tánh thp hèn ln lên bc cao thng, un nn cơ quyn-tha tr thành pháp-khí viên-thit. Vì thế nên sau hi Hoa-Nghiêm, t vườn Lc nói pháp tế đ bn ông Kiu-Trn-Như nhn li, trên bn mươi năm, là thi kỳ un nn dt dìu ca đc Pht.

Như trên đã nói bn-nguyn ca đc Pht ch mt mc đích duy nht là mun cho tt c chúng đu được như Pht, đu đng vi Pht. Chúng-sanh được đng vi Pht tc là đng mt trí-hu cu-cánh hoàn-toàn ca Pht. Mun chúng-sanh đ trí-hu đó thi phi dy ngay con đường chơn tht cho chúng-sanh vào, đc Pht đã sn sàng, ch còn ch chúng-sanh có đ tư-cách, đ năng-lc đi vào con đường y.

Nh tri qua mt thi-gian dài dt-dìu un-nn, mt s ln trong chúng hin-ti, dưới s dy d ca đc Pht, đã có đ tư-cách cùng năng lc đi vào con đường chơn tht, kham lãnh giáo-pháp thng đến trí-hu cu-cánh, đc Pht lin nói kinh Pháp-Hoa.

Trong kinh đc Pht nói: - ' Các đc Pht Thế-Tôn ch vì mt đi s nhơn-duyên mà hin ra trong đi. Xá-Li-Pht! Thế nào gi là các đc Pht Thế-Tôn hin ra trong đi ch vì mt đi s nhân-duyên ư ?

Các đc Pht Thế-Tôn vì mun cho chúng-sanh khai-hin Pht-tri-kiến đ được thanh-tnh mà hin ra trong đi. Vì mun ch th Pht-tri-kiến cho chúng-sanh mà hin ra trong đi. Vì mun làm cho chúng-sanh t ng Pht-tri-kiến mà hin ra trong đi. Vì mun làm cho chúng-sanh chng nhp Pht-tri-kiến mà hin ra trong đi. Xá-Li-Pht! Ðó là các đc Pht Thế-Tôn vì mt đi s nhơn-duyên mà hin ra trong đi vy'.

Xem li đc Pht dy, thi rõ ràng tt c các đc Pht Thế-Tôn ra đi ch vì mun cho chúng-sanh khai th ng nhp Pht-tri-kiến. Chúng-sanh được khai-th ng nhp Pht-tri-kiến, lòng ca đc Pht mi h, nguyn ca đc Pht mi hoàn-toàn đi s nhơn-duyên ra đi ca đc Pht mi xong. Lòng h, nguyn hoàn toàn, duyên xong, chính là hoàn xong khi mãn hi Pháp-Hoa vy. Nhơn đây cũng có th d rõ được mt vài phn đi-ý ni dung ca kinh Pháp-Hoa, tc là không ngoài ý thú:

Khai by Pht-tri-kiến.

Ch th Pht-tri-kiến.

T ng Pht-tri-kiến.

Chng nhp Pht-tri-kiến.

Ch có nht-chơn Pht-tha không hai cũng không ba.

 

 

CHƯƠNG TH HAI

РKINH

 

Phàm đu đ ca kinh tc là cương-lãnh ca toàn b, như ging lưới, như bâu áo, nm cương lãnh mà phăng, thi chi tiết ln ln tun-t theo v.

Ta quen gi 'Pháp-Hoa' đó là gi tt ca bn ch 'Diu-Pháp-Liên-Hoa'. Diu-Pháp thuc v pháp, Liên-Hoa là d dùng 'd' đ hin 'Pháp'.

Diu-Pháp là gì ? Chính là Pht-tri-kiến đã nói  đon trên vy. Pht-tri-kiến chính là bn-giác diu-tâm. Tâm vi-diu linh-giác này là bn-tánh chơn-thường bình-đng ca tt c Thánh, phàm, ca c pháp-gii, Pht cùng chúng-sanh bn lai vn đng mt tâm-th vn không hai tánh. Th tánh du đng, nhưng mê th-tánh đó là chúng-sanh, còn ng th-tánh đó là Pht. Ng thi thun tánh, thun tánh thi hưởng dng thường-lc, ngã, tnh bn đc chơn thường an vui, vì tánh là th chơn-tht viên-thường vy. Mê thi xa tánh theo trn, theo trn thi sanh-t luân-hi đo-điên kh-s, vì trn-lao là cnh hư-vng vô-thường vy.

Vì lòng đi-bi thương xót qun-sanh, đc Pht ra đi dùng đ cách phương-tin đ điêu-luyn ng phc tâm mê-vng ca qun-sanh, đ đưa chúng-sanh đến trí-hu cu-cánh ca đc Pht, đó là mc-đích duy-nht ca đc Pht ra đi.

Trong kinh đc Pht nói: - 'Ta lp phương-tin đó khiến đng vào Pht hu'.- 'S dĩ Pht ra đi vì nói hu vy, nay chính đã phi thi'.

Ðc Pht li nói:- 'Chưa tng nói các ông s đng thành Pht-đo, s dĩ chưa tng nói vì chưa phi lúc nói, nay chính đã phi lúc quyết đnh nói đi-tha'.

Phi lúc, phi thi, tc là thi kỳ nói kinh Pháp-Hoa. Ði-tha đây tc là Pht-hu, là Pht-tri-kiến, là tâm th ca tt c chúng-sanh, là chơn-tánh ca Pháp-gii, cũng gi là diu-pháp. Vì diu-pháp này là t tâm sn đ ca chúng-sanh, nên đc Pht nói kinh này đ làm cho chúng-sanh được khai-th ng-nhp t tâm y mà đi phàm thành Thánh, như trong kinh đc Pht nói: 'Nếu có người nào nghe 'Pháp', không mt ai chng thành Pht'. Pháp nghĩa là dường y há li không phi 'Diu' ư!

Bc đi-căn nghe 'Diu-pháp' lin ng t-tâm, liu gii 't-tánh pháp-hoa tam mui'. Nhng hàng trung h không th lãnh hi ngay 'Diu-pháp' nên mượn Liên-Hoa đ t-d diu-lý thanh-tnh, nhơn d mà trc nhn bn-tâm diu-pháp, chính cũng là ý tam-căn kiêm li vy.

Hoa sen đi khái có hai phn: cánh nh là hoa thuc nhơn, gương ht là qu. Có cánh nh là có gương ht, đó là lý nhơn cùng qu đng thi, qu không ngoài nhơn, nhơn không ngoài qu, qu tc là nhơn, nhơn tc là qu, nên gi Liên-Hoa, T-tánh bn-tâm cũng thế, trong khi tu nhơn vn t viên-mãn c-túc, nên gi là giác-tâm bn-c. Như thế thi tt c chúng-sanh hin tin đã t đ t-tánh qu-giác như Pht không khác, nhưng ngt vì mê b không t nhn, nên không t th dng được, vì đó mà đc Pht phi ra đi - Kinh nói -: 'Vì mun cho chúng-sanh khai Pht-tri-kiến đ được thanh-tnh nên Pht Thế-Tôn hin ra nơi đi'. Pht-tri-kiến chính là t-tánh qu-giác sn có ca chúng-sanh vy.

Li hoa đ d quyn giáo, qu dùng ch chơn-tha có ba nghĩa:

1.- Hàng trung h căn-tánh ám đn không kham lãnh chơn-tha, nên phi quyn lp tam-tha đ d dn. Như trong kinh nói:- 'Chúng-sanh căn-tánh đn làm thế nào đng-đ. Ta nay đã đc đo nên vì nói 'tam-tha'. Lp tam-tha chính là phương tin đ đem v nht-tha, đó là vì chơn-tha mà lp quyn-giáo vy. Trong kinh nói: 'Du nói trăm ngàn c vô-s các pháp-môn, kỳ tht vì nht-tha'. Như hoa sen, vì gương ht mà sanh hoa vy.

2.- D dn đã lâu, căn tánh đã thun, lin ch ngay quyn-giáo phương-tin trước kia đu là nht-tha chơn-tht. Trong kinh nói:- 'Hnh ca quí ngài tu là đo ca B-tát, đu s đng thành Pht'. Ðó là đim th hnh tu quyn-giáo chính là thành Pht chơn-tha. Kinh li nói: 'Các ngài nên biết, đây là con ta'. G cùng-t làm thuê chính tht đích-t ca Pht. Ðó là khai bày quyn-giáo hin-l tht-tha. Như hoa sen, hoa n đng thy gương ht.

3.- Chúng đã thành đi-căn, Pht lin phế b danh t quyn-giáo gi nói trước, ch nói thng giáo-lý Nht-tha chơn-tht vô-thượng-đo, đ chúng được t-tr. Như kinh nói: 'Chính lúc b phương-tin ch nói đo vô-thượng, khp mười phương cõi Pht, ch có mt Pht-tha, không hai cũng không ba'. Ðó là phế quyn tn tht. Như hoa-sen, cánh nhy rng sch ch còn gương ht.

Ba nghĩa trên là ước v căn-cơ ca chúng mà thi-thiết quyn và tht, nếước nơi giáo-ch là Pht mà lun, thi hoa dùng l đc Pht, th hin tích-môn còn qu l bn-môn ca đc Pht, tích và bn đây cũng có ba nghĩa:

1.- Vì bn-tht mà thi-thiết quyn-tích. Kinh nói: 'Ta lúc nh xut-gia chng đng qu Vô-thượng Chính-đng Chính-giác'. Như gì gương ht mà có hoa sen.

2.- Khai bày quyn-tích hin-l bn-tht. Kinh nói: 'Thit t khi ta thành Pht đến nay, th mng vô-lượng vô-s kiếp'. Như hoa n l bày gương ht.

3.- B tích tn bn. Kinh nói: 'Vì đ chúng-sanh vy, hin có dit-đ không dit-đ, thit thi chng dit-đ, thường  ti đây nói pháp'. Như hoa rng ch còn gương ht.

Рcác nghĩa như trên, c pháp ln d, nên gi là 'Diu-Pháp-Liên-Hoa'. Bc li căn nghe đ kinh bn ch y, lin chng ng 'Diu-lý Pháp-hoa tam-mui', không cn gii-d. Hàng đn tánh không th nghe danh ng-lý, cn phi suy d đ hiu pháp, t hoa sen thường mà th ng 'Diu-lý Pháp-hoa', nên gi là 'Tam căn kiêm li' vy.

 

 

CHƯƠNG TH BA

TNG PHÁN PHM MC

 

Như  trong chương tng-t đã lược ch ni dung ca toàn kinh Pháp-Hoa không ngoài lý-thú 'khai-bày, ch-th t-ng, chng nhp Pht-tri-kiến'. Toàn kinh là 23 phm, như thế 28 phm lit bày đ cùng hin-l lý-thú 'khai, th, ng, nhp' vy.

Ngài Hi-n đi-sư y theo ý này mà phán thuc các phm phm 't' là tng hin s tướng ca pháp-gii; 'phương-tin, thí-d, tín-gii, dược-tho th-ký, hóa-thành, ngũ-bá-đ-t, hc vô-hc nhơn, pháp-sư', c thy chín phm là khai Pht-tri-kiến, Phm 'Ð-Bà-Ðt-Ða, tri-phm, an-lc-hnh, dũng-xut, th-lượng, năm phm là ng Pht-tri-kiến, cùng sáu phm kế 'phân-bit, tùy-h Pháp-Sư công-đc, Thường-Bt-Kinh, thn-lc, chúc-ly', là diu ng cùng-cc, hip chung li thi v phn ng Pht-tri-kiến có 11 phm. Kế đến sáu phm 'Dược-Vương, Diu-Âm, Quán-Âm, Ðà-la-ni, Diu-Trang-Nghiêm, Ph-Hin', là nhp Pht-tri-kiến. Cui phm Ph-Hin t câu: 'Pht thuyết th kinh thi' đến câu 'tác l nhi kh' là phn lưu thông.

Ðã tng phán toàn kinh trước sau tun th xâu sut bn môn 'khai, th, ng, nhp Pht-tri-kiến', người th trì kinh nhơn đây dư rõ bn-ý ca đc Pht vì mt đi-s nhơn-duyên mà hin ra nơi đi, nhơn đây mà khi trì kinh cnh-gii nht chơn-pháp-gii, hin-bày trước mt, nếu người trì kinh chuyên chu tư-duy đ quán.

 

 

CHƯƠNG TH TƯ

ÐI Ý MI PHM

 

T PHM

PHN TNG HIN

 

Trong phm này tng hin nht-chơn bình-đng pháp-gii, nht-chơn pháp-gii chính là bn-giác diu-tâm bình-đng ca Thánh-phàm, ca tt c. Tng hin nht-chơn pháp-gii đ ch rõ đc Pht hin ra nơi đi t trước đến sau vn không ngoài 'Ph quang-minh trí sát-na-tế tam-mui'. Trước chính là hi Hoa-Nghiêm nơi B đo-tràng, sau là hi Pháp-Hoa nơi Linh-Thu sơn này. Trước sau đc Pht vn tr tam-mui đó mà chuyn pháp đ sanh. 'Ph-quang-minh-trí' tc là 'Pht-tri-kiến' vy. Chng nhng đc Pht t tr mà cũng mun cho chúng-sanh liu-ng chơn-cnh tht tướng này, nên trong kinh nói: 'Vì mun cho chúng-sanh khi th ng nhp Pht-tri-kiến mà đc Pht hin ra trong đi', liu-ng chơn-cnh tht-tướng này đ làm chánh-nhơn chơn-tht thành-tu Pht-qu.

Trước khi ch bày Pht-tri-kiến, đc Pht nói kinh 'Vô-lượng-nghĩa', ri t nhp 'Vô-lượng-nghĩa-x tam-mui' đó là ý gì ? Chính đ ch rõ ràng tt c nhng s đi đng nói nin v.v... ca đc Pht không phi cnh-gii tâm-thc tư-lương ca phàm tình. Không th dùng tâm-thc tư-lương mà suy bàn đến được.

Ðc Pht t tr trong tam-mui mà tri rưới bn th hoa, đt lay sáu điu. Ðó là ch rõ sc 'vô-tác-diu-lc' ca đc Pht chn đng hang sâu vô-minh mê ti ca chúng-sanh, sut tr tt c s chướng-ngi ca bn đi sáu căn vy. Tướng lông trng phóng hào-quang chiếu thu mt vn tám nghìn thế gi phương đông đó, chính ch rng: căn, trn, thc đng lon ca chúng-sanh không ri Ph-quang-minh-trí. Phương đông là ngun đng-hóa, 18 nghìn thế-gii là l 6 căn, 6 trn, 6 thc: '18 gii đây không ngoài Ph-quang-minh-trí, cũng như 18 nghìn thế-gii l ra trong bch-hào-tướng-quang ca đc Pht. Trong quang-minh hin ra s tướng ca pháp-gii, dưới thu đa-ngc A-tỳ, trên sut cõi tri Hu-Ðnh; nào Pht ra đi, thuyết pháp. Niết-bàn, nào B-tát tu tp đo-hnh; y-báo chánh-báo đng-hin, c Thánh ln phàm chung bày, đó là gì ? Là Pht cùng chúng-sanh, tt c đng mt tánh-th không hai không khác. Ch khác là đc Pht chng ng nơi đó, an tr nơi đó, t ti gii thoát, thuyết pháp đ sanh, còn chúng-sanh, mê nơi đó, du rng không bao gi ri được đó, nhưng không t nhn mà phi lưu-chuyn. Du lưu-chuyn nhưng vn không mt phút xa ri nên chính cnh-gii thường ngày trước mt chúng-sanh là tht tướng chân cnh, nếu có th phn tnh xoay v, liu ng tánh-th tht-tướng này thi đó là chánh-nhơn thành Pht mà Pht-qu không xa vy. Ðc Như-Lai hin ra đi chính là vì vic này đó là đi-s nhơn-duyên, đó là nht-tha chơn-tht. Trên 40 năm thuyết-pháp vn nói không hết nhng vic nht thi hin ra trong bch-hào quang-minh. Trên 40 năm qua, đc Pht chưa tng hin phát cnh-gii này là vì căn-cơ ca chúng-sanh chưa thun thc còn phi đi thi tiết, đến nay đã phi lúc nên đc Pht hin phát.

Ngài Di-Lc B-tát sanh lòng nghi không quyết, phi hi Ngài Văn-Thù B-tát, đó là ý ch rng cnh-gii tht tướng này không phi tâm thc có th biết thu đáo được, phi dùng chơn-trí mi tương-ưng. Ði-trí Văn-Thù dn vic sau trước ca C-Pht Nht-Nguyt Ðăng-Minh, chng thoi-tướng hôm nay cũng thế, đ rõ rng Pht Pht do đng, xưa cùng nay vn mt lý thôi.

Do nhng nghĩa trên nên phm 't' này là tng hin cnh tượng mt đi-s nhơn-duyên vì đó mà đc Pht hin ra trong đi vy.



Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Thông Nghĩa

Đại Sư Hám Sơn, Giảng Giải

Hòa Thượng Thích Viên Giác, Việt dịch

 

 Lời Tựa

 

Xưa ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư chuyên trì Kinh Pháp hoa đắc được Pháp hoa tam muội, thấy cảnh Đức Phật đang thuyết pháp ở Linh sơn. Ngài căn cứ vào ba pháp quán Không, Giả, Trung để giải thích Kinh Pháp hoa này, ngài chủ trương thế giới hiện tượng và bản thể đều qui về tâm thức.

 

Bộ Pháp hoa huyền nghĩa và các tác phẩm khác của Ngài, giải thích về Kinh Pháp hoa rất rõ ràng nhưng do văn rộng, nghĩa sâu làm cho người sơ học khó lãnh hội hết được.

 

Thiền sư Ôn Lăng ban đầu giải thích ý nghĩa của kinh một cách tổng quát, lấy sự tướng thuyết minh nghĩa lý, câu văn thanh nhã, ý chỉ rõ ràng. Mặt khác, ngài lấy giáo nghĩa Kinh Hoa nghiêm làm Thỉ giáo, Pháp hoa làm Chung giáo, điều đó rất đúng. Tuy nhiên vì giảng tổng quát nên chưa phát huy hết ý nghĩa toàn kinh, người đọc cũng khó mà thông suốt ý chỉ thỉ chung. Cả hai Ngài (Trí Giả và Ôn Lăng) đều lấy tám phẩm sau cùng làm phần lưu thông của bộ kinh, điều đó chưa thật thuyết phục, người đọc qua cho là không có gì đặc biệt. Vì vậy làm cho ý của Phật chưa đủ hiển lộ và chỉ của kinh chưa được rõ ràng, văn tự còn rườm rà.

 

Tôi (Đức Thanh) từ thuở bé đã vào giảng đường nghe kinh, có chỗ nghi ngờ nên thường chú tâm nghiên cứu. Trước đây lúc tôi bị nạn đi đày ở Lĩnh Nam. Ban đầu ngài Đạt Quán thiền sư vì tôi mà phát nguyện tụng 100 bộ Pháp hoa để cầu tiêu tội kiếp xưa. Sau trên bước đường lưu đày tôi tập hợp các đệ tử mở đạo tràng tụng niệm theo thời khóa. Đại chúng mời tôi giảng thuyết một tuần (10 ngày) bỗng nhiên có chỗ lãnh hội. Tôi lấy bốn chữ KHAI, THỊ, NGỘ, NHẬP để giảng suốt toàn Kinh Pháp hoa. Đại chúng đều rất hoan hỉ, do đó phân ra thành chương tiết, trước sau thống nhất, lấy bốn pháp TÍN, GIẢI, HẠNH, CHỨNG của Kinh Hoa nghiêm tóm thâu chặt chẻ, thỉnh ý của các nơi đều được chấp nhận. Nhưng nghĩ đến phần đại cương dù đã rõ nhờ phân phẩm mục mà ý kinh chưa giảng chi tiết, chẳng tiện cho sơ học. Vì vậy tôi lại biên soạn chi tiết để trình bày ý chỉ toàn kinh, tuy vậy vẫn còn sơ lược chưa rõ. Lấy phát minh của Tông Hoa Nghiêm về ý tưởng: Đức Như Lai xuất hiện ở đời chỉ vì một nhân duyên lớn, mà ở phẩm Phương tiện Đức Phật đã nói rất rõ. Nhưng những người được truyền đạt không hiểu nhân duyên ban đầu ấy làm cho người học Phật không khỏi trông ra biển mà than.

 

Nay tôi viết bộ Pháp hoa thông nghĩa này vẫn tuân theo các bộ giải thích xưa của cổ đức không dám coi thường mà tự giải thích, chỉ lấy toàn bộ kinh qui về ý nghĩa khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến, làm sáng tỏ ý chỉ Thỉ Chung của Kinh Hoa nghiêm và Pháp hoa để phù hợp bản hoài xuất thế của Như Lai. Tập hợp những dòng khác nhau để qui về nơi biển cả, chú trọng phần tôn chỉ, còn văn từ có thể lược để dễ thông suốt ý nghĩa sâu xa. Dù cách thức trình bày chẳng theo xưa, phần lý lẽ vẫn có cơ sở, mong người xem đừng vì lời người hèn mà bỏ qua thì cái tội lấn lướt của tôi mới có thể thoát được.

 

Phán Giáo

 

Toàn bộ giáo pháp mà Đức Phật dạy, được các bậc cổ đức phân biệt sâu, cạn, nhiều, ít khác nhau. Ngài Hiền Thủ thì chia thành năm phần: Tiệm giáo, Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo. Kinh Pháp hoa được liệt vào Chung giáo, còn Kinh Hoa nghiêm là Viên giáo. Ngài Thiên Thai Trí Giả thì chia thành bốn: Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Kinh Pháp hoa thì được coi là Thuần viên, còn Kinh Hoa nghiêm thì được coi là Biệt Viên, nghĩa là mang sắc thái Viên đặc biệt. Như vậy quan điểm của hai vị Đại sư tuồng như khác nhau, vì chủ trương của hai Ngài riêng biệt. Ngài Thiên Thai cho Kinh Pháp hoa là thuần Viên, vì kinh này thuần nói về thật tướng của các pháp, giống như con trâu trắng lớn thuần nhất không tạp sắc; ba thừa đều quy về một, năm loại chủng tánh đều vào được. Về lý không có gì không thông suốt, về sự không có gì là chướng ngại, cứu cánh là VIÊN. Kinh Hoa nghiêm được coi là Biệt Viên, vì lấy lấy công hạnh của bốn mươi hai vị để trình bày, nghĩa là lấy cái “Biệt” để làm sáng tỏ cái”Viên”. Nói như vậy vẫn chưa hết được cái lý viên dung, sự sự vô ngại của Hoa nghiêm. Nên nói rằng Kinh Pháp hoa là độc tôn thì không thể chấp nhận được.

 

Ngài Thiên Thai do ngộ Pháp Hoa tam muội, dựa vào chỗ sở đắc của mình mà khai triển đề cao để trình bày pháp thù thắng vi diệu. Trái lại Ngài Hiền Thủ thì liệt Kinh Hoa nghiêm vào Viên giáo, Pháp Hoa vào Chung giáo. Kinh Hoa Nghiêm biểu hiện báo thân Phật, dựa nơi Thật báo trang nghiêm độ tương ứng với lý tánh mà thuyết, pháp giới vẹn toàn viên dung vô ngại, tự tại pháp môn. Tất cả chánh báo, y báo, hạt bụi, sợ lông đều tương ứng với pháp giới tánh. Tuy nói nghĩa lý các ngôi vị, nhưng trình bày nhân quả xuyên suốt không chướng ngại, cho nên gọi là Viên. Còn Pháp hoa gọi là Chung. Vì kinh này do hóa thân Phật nói ra ở cõi phương tiện thánh cư địa, dẫn dắt hàng Tam thừa quy về Nhất thừa. Điều đó nghĩa là Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời là muốn làm cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến. Phật tri kiến chính là nhất chân pháp giới, Như lai tạng tâm. Đức Xá Na chứng đắc pháp ấy gọi là Pháp giới hải hội phổ quang minh trí, còn gọi là nhất thừa thường trụ chơn tâm.

 

Lúc mới thành chánh giác nơi Bồ đề đạo tràng, Đức Phật biểu hiện chơn tâm này mà thuyết Hoa Nghiêm, trình bày lý pháp giới viên dung vô ngại, dành riêng cho hàng căn cơ lớn, còn hàng tiểu căn ngồi đó mà như đui như điếc. Vì vậy đối tượng giáo hóa không được rộng rãi, nghĩa là một cánh cửa hẹp, chưa nói hết bản Hoài của Phật. Cho nên, ngài xem cây kinh hành, trong 21 ngày tư duy, Đức Thế Tôn đem pháp Nhất thừa chia làm ba. Ngài thị hiện tâm đồng thể đại bi, không rời khỏi chỗ ngồi mà biến hiện khắp mười phương, dùng ứng hóa thân thị hiện từ trời Đâu Suất xuống Hoàng cung, hiện tám tướng thành đạo. Ở tại vườn Lộc Uyển thuyết pháp Tứ đế độ mọi chúng sinh. Các vị Thanh văn tuy chứng Niết bàn, nhưng đối với tri kiến Nhất thừa không thể dự phần. Do vậy Đức Phật phải mất 40 năm lập phương tiện quyền xảo ra sức chỉ dạy, đào thải. Đến hội Pháp hoa thì tâm trí đại chúng mới tinh thuần, tin vào Phật tâm, tin vào sự thành Phật của mình. Vì vậy tất cả mọi người đều được thọ ký, và như vậy mới thành tựu bản Hoài xuất thế của Đức Phật. Đây là nhân duyên lợi lạc quần sinh sắp chấm dứt nên gọi là Chung giáo. Đứng về phương diện giáo hóa đã xong mà gọi là Chung, do Chung mà cũng gọi là Viên, do đem mọi nhân quả và cứu cánh nhiếp vào sự viên mãn của biển tâm, không an trụ ở sự viên mãn ấy. Kinh Hoa nghiêm là Đốn viên như mặt trời mới mọc, trước hết chiếu trên đỉnh cao của ngọn núi, còn kinh Pháp Hoa này là Tiệm Viên như hợp tất cả những dòng chảy khác nhau cùng về biển cả. Trường hợp Long nữ thành Phật cũng gọi là Đốn viên. Luận Trí Độ thuyết minh về đường hướng của hai kinh rõ ràng như ánh sáng mặt trời, xin xem phẩm Phương tiện có thể thấy bản Hoài xuất thế của Như Lai.

 

Trong kinh Pháp Hoa thí dụ ông Trưởng giả oai đức số một, là chỉ cho báo thân của Phật; nhà của Trưởng giả là Nhất chân pháp giới. Sự giàu có của ông là vô lượng trang nghiêm của Hoa tạng thế giới; xe trâu trắng lớn là dụ cho Nhất thừa nhân quả. Thẳng đến nơi Bảo sở là chỗ pháp giới thanh tịnh, còn gọi là Diệu Trang Nghiêm hãi. Mọi thi thiết đều đưa về pháp giới, mọi hiển lộ hiện tướng có chỗ nào mà không rõ ràng? Cho nên cổ đức cho rằng Hoa nghiêm là “căn bản pháp luân”, Kinh Pháp hoa này là “nhiếp mạt quy bản pháp luân”. Nội dung giáo pháp không ra ngoài Lý, Hạnh, Nhân, Quả lấy lý và hạnh làm nhân, chứng nhập làm quả. Tôi cho rằng bốn mươi năm trước là thuyết pháp dẫn dụ, đến hội Lăng Già nói về thánh trí tự giác, thức tạng tức Như Lai tạng, làm hiển lộ lý tính viên mãn và sự vi diệu của tâm. Như kinh nói” Đại thừa của ta là vô thừa”, là đã có ý khai quyền hiển thật (mở cái tạm để thấy cái thật). Đến hội Pháp hoa thuần nói về thật tướng, một sắc một hương đều quy về trung đạo, trình bày công hạnh đã tròn đủ và cảnh giới vi diệu. Lý hạnh đã tròn, tâm cảnh đều diệu thì Tri kiến Phật ở đây mà thôi. Bản Hoài của Phật không có gì khác hơn. Chúng sinh căn cơ ba thừa đều khai mở tri kiến này nên được thọ ký, đều nhập Niết bàn, do vậy gọi là Chung, dẫn chúng sinh quy về pháp giới mới là rốt ráo.

 

Ngài Hiền Thủ đứng về phương diện giáo hóa mà ấn định Pháp Hoa làm Chung giáo thì rất hợp lý. Ngài Ôn Lăng đứng về phương diện trước sau (thỉ chung) mà phân biệt Hoa Nghiêm là trước và Pháp Hoa là sau (chung), suy cho cùng cũng có lý, tuy vậy chưa phát huy hết ý nghĩa. Xem kỹ ý chỉ của kinh, dung hội nghĩa lý phù hợp Phật tâm thì liễu thông toàn kinh.

 

Giải Thích Đề Kinh

 

Đề kinh gọi là Diệu pháp Liên hoa, là chỉ cho Nhất chân pháp giới, Như Lai tạng tâm, do vậy mà lập danh. Luận Khởi Tín nói: điều gọi là Pháp chính là tâm chúng sinh, tâm này bao trùm các pháp thế gian và xuất thế gian, tâm này là toàn thể pháp giới, phàm thánh, nhiễm tịnh, nhân quả đều bao trùm trong tâm ấy. Tâm ấy ở nơi Thánh không tăng, nơi phàm không giảm, ở nơi ô nhiễm không dơ mà xuất trần chẳng sạch. Do đó mà đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai chứng đắc cùng tột tâm này, tâm cảnh nhất như, phàm thánh bình đẳng. Tâm ấy chúng sanh vốn đầy đủ, nên Phật từng dạy rằng: Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà chẳng chứng được. Chư Phật do ngộ tâm này mà gọi là Phổ quang minh trí, còn gọi là Phật tri kiến. Chúng sanh mê muội tâm ấy thành vô minh nghiệp thức, là cội gốc sanh tử. Một khi thấy được tâm này thì tâm này là Phật, đây là sự vi diệu của tâm. Hoa tạng thế giới, y báo chánh báo trang nghiêm, trùng trùng vô tận, vi diệu viên dung, hạt bụi, sợi lông, cỏ rác.v.v… đều do nơi tâm này mà lập, thật tướng vô tướng là vi diệu của cảnh. Tâm cảnh chẳng hai, thuần túy nhất tâm nên gọi là Diệu pháp.

 

Tuy nhiên diệu pháp này đối với chúng sanh mê muội thì gọi là Tạng thức, chư Phật giác ngộ thì gọi là Như Lai tạng. Dựa vào tâm nhất như này mà kiến lập pháp giới thì gọi là Liên hoa tạng. Pháp này chân vọng xuyên suốt, nhiễm tịnh dung thông, nhân quả đồng thời, thỉ chung một lối. Do đó, về mặt dụ thì lấy biểu tượng hoa sen, về mặt pháp thì chỉ thẳng bản thể của tâm. Tâm này ở nơi Phật gọi là Phổ quang minh trí, còn gọi là thật trí, hay Nhất thiết chủng trí hoặc gọi Tự giác thánh trí nên gọi là Phật tri kiến. Tâm nầy ở nơi chúng sanh thì làm căn bản vô minh, chúng sinh vốn có tuệ giác của Phật nhưng do vô minh che lấp nên không biết. Chư Phật ra đời vì chúng sanh mà tuyên bố tâm này để làm cho họ tự mình thấy mà ngộ nhập. Cho nên mới nói chư Phật Như Lai chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, đó là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, làm cho chúng sanh đều đạt thanh tịnh. Chỉ lấy việc này làm việc chính, ngoài ra không có việc gì khác. Đây là bản Hoài xuất thế của Như Lai. Thật quả tâm này thật khó ngộ vậy.

 

Đức Xá Na Như Lai, ban đầu mới thành chánh giác nơi Bồ đề đạo tràng liền khai thị tâm này, nói Kinh Đại Hoa Nghiêm, gọi là Kinh Phổ chiếu pháp giới, còn gọi là Nhất thừa. Chỉ có hàng chúng sinh căn cơ lớn thấy nghe được lợi ích, còn hàng hạ căn liệt tuệ, thân tuy ngồi trên tòa mà như mù như điếc. Do vậy Đức Phật khởi lòng đại bi, quán thọ kinh hành, đem pháp giới nhất thừa phân biệt nói thành ba. Ngài hóa hiện ứng thân cùng một lúc cả hai tướng (một là Bồ đề đạo tràng nói kinh Hoa Nghiêm, một là vườn Lộc Giã thuyết pháp).

 

Ở nơi vườn Lộc dã thuyết pháp Tứ đế cho hàng Thanh văn nghe. Bản Hoài của Phật chủ yếu là khai thị Phật tri kiến, nhưng vì chúng sanh căn cơ chậm lụt nên từ khi thuyết pháp tại Lộc Giã trở đi đã trải qua bốn mươi năm, Đức Phật vất vả thiết lập các phương tiện khác nhau, vậy mà căn cơ số đông vẫn chưa khai ngộ, đến khi bị Phật quở trách mới có lòng tin Phật. Cho đến hội Pháp hoa, Phật thấy căn cơ chúng sanh đã thuần thục tin chắc tâm này, tức thì thọ ký cho mọi người đều được thành Phật. Điều đó gọi là biết tất cả pháp là tự tánh của tâm. Thành tựu trí tuệ này không phải nhờ người khác mà giác ngộ được. Đến đây bản Hoài xuất thế của Đức Thích Ca mới toại chí. Do vậy ngài tận tình thổ lộ điều khổ tâm bức xúc đã qua để hiểu công việc độ sanh. Trụ thế chẳng bao lâu Ngài nhập Niết bàn, gọi là chấm dứt dấu vết hóa hiện. Như ông Trưởng giả sắp chết giao phó gia nghiệp cho con. Nên biết kinh này như là chúc thư giao phó gia nghiệp làm lưu thông giáo pháp một đời.

 

Vì một mực không nói nên gọi là hộ niệm, ngày nay mới nói nên gọi là phó chúc. Sự việc bao quát cả quá khứ đã qua nên ý nghĩa nằm ngoài ngôn từ. Nếu cẩu thả không quán chiếu pháp giới, khế hợp Phật tâm mà cứ khư khư chấp nơi văn tự mà tìm cầu thì mờ mịt không chỗ đi về.

 

Hiểu rõ đề kinh này tức hiểu ý chỉ toàn kinh hơn phân nửa rồi vậy.

 

Lời Giới Thiệu

 

Ngài Hám Sơn Thích Đức Thanh sinh ngày 5 tháng 11 năm 1546, mất năm 1623. Quê hương ngài ở Huyện Trần Tiêu thuộc Châu phủ Chúc Trừ (nay huộc Tỉnh An Huy). Ngài vào chùa năm 12 tuổi, chính thức xuất gia năm 19 tuổi, đầu sư với Hòa thượng Tây Lâm.

 

Ngài là một nhân vật đặc biệt trong các Tôn túc chấn hưng Phật giáo đời Minh, từng bị đi đày vì tiếp cận với các mối tranh chấp trong Hoàng tộc. Trong thời gian bị đày, gần 18 năm, dù khó khăn ngài vẫn nỗ lực hoằng dương Phật pháp ở nơi biên cương hẻo lánh. Tác phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thông nghĩa ra đời trong hoàn cảnh ấy.

 

Đối với Kinh Pháp hoa ngài đã có nhân duyên từ thuở mới vào chùa. Nay với sự uyên bác về thế học và Phật học, Ngài có tầm nhìn mới mẻ, những lý giải sâu sắc về kinh Pháp hoa, mà giáo nghĩa của kinh từ trước vốn bị ảnh hưởng tư tưởng của Ngài Trí Khải. Ngài Đức Thanh lấy bốn chữ KHAI THỊ NGỘ NHẬP để triển khai toàn bộ kinh, lý giải rõ nét tư tưởng “Hội tam quy nhất” hay “Quyền tức Thật” làm cho đường hướng Kinh Pháp hoa sáng tỏ và tăng khả năng dung nhiếp hơn.

 

Nhân duyên của bản dịch Kinh Pháp hoa Thông nghĩa nầy là nhờ sự khích lệ, trợ duyên của Thượng Tọa Thích Thanh An, Thầy có tâm nguyện truyền bá tư tưởng Pháp hoa Thông nghĩa từ lâu nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Trước tâm nguyện thiết tha của Thầy, tôi mạo muội và cố gắng hoàn tất dịch phẩm. Công đức của Thượng tọa rất lớn.

 

Bản dịch nầy được dịch từ nguyên bản Hán văn Diệu pháp Liên hoa Kinh Thông nghĩa, gồm 7 quyển. Do ngài Hám Sơn Thích Đức Thanh thuật, được xếp vào Tục Tạng chữ Vạn (Tục Tạng Vạn tự), tập 49, trang 799. Trong khi dịch có tham khảo tài liệu viết tay của Thượng tọa Thích Minh Bá do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh giảng và một số tài liệu, tự điển liên quan. Ngài Đức Thanh giảng Kinh Pháp hoa Thông nghĩa theo cách thông thường là giảng từng đoạn trong từng phẩm. Mỗi phẩm giảng có hai phần: Phần một là đại ý toàn phần, phần hai đại ý từng đoạn. Lời văn là lối văn giảng nói nên có nhiều chỗ lặp lại, những từ đệm hơi nhiều nên người đọc không kiên trì sẽ chán. Mặt khác nữa trong nguyên bản Hán văn, không in đủ nguyên văn bản Kinh Pháp Hoa mà chỉ nói: “Từ câu … đến câu …”. Vậy người đọc phải có bản Hán văn Kinh Pháp Hoa để đối chiếu, hoặc nếu bản chữ Việt thì phải có bản Kinh Pháp Hoa Việt dịch, người dịch sử dụng bản dịch của Hòa Thượng Trí Tịnh, vì lẽ bản dịch của ngài quá phổ biến, hầu như chùa nào, Phật tử nào cũng có.

 

Các thân hữu đề nghị in hẳn phần chánh văn để cho người đọc tiện theo dõi. Điều đó hoàn toàn chính xác. Nhưng có điều bất tiện là tác phẩm sẽ quá dày, sẽ ngán cho người đọc, hơn nữa chi phí sẽ cao.

 

Chúng tôi cho rằng tác phẩm này đối với quần chúng Phật tử bình thường rất khó tiếp cận, chỉ thích hợp cho những người nghiên cứu học hỏi như Tăng Ni sinh các Trường Phật Học và các nhà nghiên cứu tham khảo. Như vậy việc có bản Kinh để đối chiếu theo dõi là việc bình thường của những người quan tâm.

 

Với trình độ Hán văn còn non yếu, bản dịch không tránh khỏi những sơ sót hay bất cập. Kính mong Chư Tôn đức hoan hỷ chỉ giáo những lỗi lầm để dịch phẩm được hoàn chỉnh hơn.

 

Tỳ kheo Thích Viên Giác

Ngày 01 04 2002


Phẩm Tựa Thứ Nhất

 

1. Từ câu: “Như thị ngã văn”, đến câu: “Diệc dữ quyến thuộc câu” (Tôi nghe như vầy… cùng với quyến thuộc câu hội).

Đây là cách thức kết tập kinh điển, lúc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết bàn, ngài A nan xin Phật dạy nguyên tắc kết tập kinh, các kinh đều mở đầu chung như vậy, được giải thích như thường lệ.

Đức Phật thuyết pháp đều hợp với căn cơ luôn lấy nhu yếu của đối tượng đang hiện diện làm quan trọng. Kinh này là pháp nhất thừa dạy cho Bồ tát, nhưng đưa hàng Thanh văn giới thiệu trước là để “Khai quyền hiển thật”, đặc biệt là dẫn dắt nhị thừa nhập Phật tri kiến, thọ ký cho họ thành Phật, cho nên lấy Thanh văn làm thượng thủ. Nếu ca ngợi về đức hạnh thì phải nói rằng các lậu hoặc của họ đều đã diệt tận, tâm thức được tự tại. Chính là làm hiển lộ tâm của hàng nhị thừa đã được điều phục nhu nhuyến, có thể tiếp nhận pháp lớn. Đây là lúc căn cơ đã thuần thục để mà đắc đạo, trở xuống dưới liệt kê các hàng đệ tử khác nữa cũng đều như vậy, cho đến hàng hữu học tỳ kheo ni v.v… cũng được đứng đầu. Đối tượng Phật hóa độ có “Nhân”, có “Thân” chúng Thanh văn thuộc về đối tượng thân cận, còn những người khác thuộc đối tượng nhân duyên. Nhân duyên Phật tánh chính là ở đây, trở xuống đoạn dưới họ đều được thọ ký, là liễu nhân. Phật tánh hiển lộ rồi thì việc độ sanh mới Hoàn tất.

2. Từ câu “Bồ tát ma ha tát bát vạn nhơn…” đến câu: “Các lễ Phật túc thối hạ nhất diện” (Bồ tát ma ha tát tám vạn người… đều lễ chân Phật rồi ngồi qua một bên).

Trong phần tự này liệt kê rộng rãi thính chúng tham dự pháp hội. Các vị Đại Bồ tát là những người giúp Phật hoằng dương Phật pháp, họ làm quyến thuộc của Phật. Vì rằng, pháp mà Đức Phật thuyết là pháp xuất thế hoàn hảo, là những lời lẽ siêu việt, nếu không phải là bậc đại sĩ làm sao mà xiển dương được. Bồ tát Văn Thù là thầy của bảy vị Phật, thông suốt tâm Phật nên được coi là thượng thủ trong hàng Bồ tát. Điều đó cho thấy kinh này lấy trí tuệ làm căn bản và tôn chỉ. Tiếp đến là chư thiên, loài người, long thần, bát bộ đang theo Phật đi giáo hóa, họ là chúng hộ pháp nên ngồi chung một tòa.

Đức Phật xuất hiện ở đời vì giáo hóa chúng sinh đều thành Phật đạo, đó là bổn hoài của Như Lai. Nay vì hàng Nhị thừa, Đức Phật thọ ký cho mọi người đều được thành Phật trong khi Đức Phật sắp Hoàn tất công việc độ sanh giống như ông trưởng giả sắp lâm chung mà hội họp thân tộc, quốc vương, đại thần, cư sĩ, sát đế lỵ đến để làm chứng cho việc di chúc này, đó là lý do nơi hội Linh sơn này đủ mặt mọi người. Có thể thấy được sự thù thắng của chúng hội này. So sánh với chúng hội Hoa Nghiêm cùng bốn mươi hai vị Dị sanh thân, mỗi vị đại biểu cho sự thành tựu một pháp môn để viên thành quả hải, mới thấy rằng mỗi kinh thành phần hội chúng đều có ý nghĩa khác nhau.

Trên là phần mở đầu tổng quát, tiếp theo sau là đi vào chi tiết.

3. Từ câu: ”Nhỉ thời Thế Tôn tứ chúng vi nhiễu…” đến câu: “Hoan hỷ hiệp chưởng nhất tâm quán Phật” (Bấy giờ Đức Thế Tôn bốn chúng vây quanh… hoan hỷ chấp tay một lòng hướng về Phật).

Đây là phần mở đầu nói riêng nguyên do thuyết kinh nầy.

Sắp sửa nói Diệu pháp, trước hết nói Kinh Vô lượng nghĩa. Bốn mươi năm về trước vì hạng căn cơ Tam thừa mà thuyết các pháp khác nhau, đều là phương tiện tạm thời, chưa rời khỏi phạm vi tâm, ý, thức. Nay sắp bày tỏ pháp nhất thừa thật tướng, nền tảng tri kiến Phật, nên trước hết thuyết kinh này để làm tiền đề, ý muốn mọi người vượt thoát tâm thức phân biệt, ra khỏi lưới tình để có thể bước vào tri kiến Phật. Kinh Vô lượng nghĩa này là tâm pháp bí mật của chư Phật, như viên ngọc minh châu trong búi tóc của vị Luân vương (chuyển luân thánh vương), không thể tùy tiện cho ai, là đối tượng được chư Phật hộ niệm, điều nầy là biểu hiện sự vi diệu của tâm pháp.

Đức Phật lại nhập định Vô lượng nghĩa xứ để biểu hiện cái tâm tịch diệt và cái cảnh thật tướng, không phải là đối tượng của kẻ tán tâm loạn ý có thể thấy. Phải từ nơi tam muội mà quán chiếu mới có thể thâm nhập vào chỗ vi tế sâu xa. Đây là biểu lộ sự vi diệu của cảnh. Tâm pháp và cảnh đối tượng đều vi diệu mới là ý chỉ của toàn kinh, đã được biểu hiện ở đây. Nhận thức rõ tâm và cảnh vi diệu này mới là điều kiện chính để thành Phật, cho nên trời mưa xuống bốn thứ hoa để cúng dường. Nếu không hội nhập tâm và cảnh này thì không đủ sức phá màn vô minh, nên đại địa mới chấn động sáu cách, đó là biểu hiện tác dụng lớn của Diệu pháp, trước hết dùng định lực khởi động. Đại chúng trong pháp hội từ xưa đến nay chưa từng thấy, cho nên rất hoan hỷ mà chẳng biết duyên cớ gì, chỉ nhìn Phật mong được tiếp nhận lời Phật dạy.

4. Từ câu: “Nhĩ thời Phật phóng mi gian bạch hào tướng quang”, đến câu: “Dĩ Phật xá lợi khởi thất bảo tháp” (Bấy giờ Đức Phật phóng ánh hào quang từ giữa lông mày… đem xá lợi đựng trong tháp thất bảo).

Toàn chương này trình bày cảnh thật của pháp giới.

Tướng hào quang trắng biểu tượng cho Trí tuệ trung đạo, nghĩa là nơi tự tâm hiện cảnh giới của thánh trí giác ngộ, trí tuệ ấy lấy nhất tâm chân pháp giới làm nền tảng, nên tất cả chúng sinh tâm họ bị rối loạn là bởi căn, trần và thức đều là do trí tuệ này tùy theo duyên mà biến biện. Nay tự thân của trí tuệ này hiện hữu rổng sáng chiếu suốt không bị chướng ngại, nên tỏa chiếu khắp phương Đông một vạn tám ngàn cõi, là chỗ tựa sự khổ vui của ba cõi, là sự luân hồi của chúng sinh trong lục đạo, là sự khởi đầu và chung cuộc của chư Phật, là nền tảng Diệu hạnh của chư Bồ tát độ sanh. Tất cả đều không tách khỏi tác dụng của trí này. Vì vậy, tất cả điều hiển hiện trong vòng hào quang. Thông suốt hào quang này thì sạch, dơ, tình, vọng, chúng sanh và Phật đều bình đẳng. Do đó thật tướng nhất thừa, căn bản tri kiến Phật chiếu sáng trong tự tâm. Điều đó có nghĩa là dùng trí để chấm dứt cái khổ luân hồi vậy. Ý chính của toàn bộ kinh được giải rõ như đây.

5. Từ câu: “Nhĩ thời Di Lặc Bồ tát tác thị niệm” đến câu: “Thiệm sát nhân giả vi thuyết hà đẳng” (Bấy giờ Di Lặc Bồ tát khởi ý nghĩ rằng… nhìn xem xét Ngài có mong sẽ nói những gì?).

Đoạn này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi để làm rõ thật tướng chân cảnh.

Diệu pháp nhất thừa, thật tướng chân cảnh, Phật tri kiến địa đã hiển lộ trong hào quang của Phật. Bốn chúng đều chưa từng thấy nên hoang mang nghi ngại, đó là điều không dùng tâm suy nghĩ mà đạt đến được. Ngài Di Lặc tuy là bậc thánh nhưng tình thức chưa thông nên không khỏi phân biệt, nên khởi lòng nghi chính. Văn Thù là đại trí có thể hiểu rõ nguồn gốc, đã trải qua hầu hạ nhiều Đức Phật, đã từng thấy sự việc như vậy, nên phải hỏi để thõa mãn sự thắc mắc của mình. Đến như hỏi về những biểu hiện trong hào quang bao gồm tình trạng của chúng sanh trong lục đạo, sự nghiệp độ sanh của chư Phật, thỉ chung tu hành của Bồ tát, cho đến các thứ nhân duyên cầu đạo và những diệu hạnh cúng dường Xá Lợi Phật, tất cả đều thấy rõ. Như Lai nhập định trong khoảng khắc, trong hào quang còn thấy nhiều sự kiện từ xưa, nay vẫn không thay đổi. Do nhân duyên gì mà có những sự vi diệu này? Không biết rằng Đức Như Lai Xá Na khi ở nơi Bồ đề đạo tràng nhập định Phổ quang minh trí trong một sát na mà hiện thân mười cõi, có mặt khắp nơi và đều thuyết pháp để lợi ích chúng sanh. Vậy mới biết từ vườn Lộc Uyển đến nay, trong bốn mươi năm hoằng dương Phật pháp chưa ra khỏi sát na tam muội. Đây đâu phải là việc mà tâm thức yếu đuối, phân biệt của chúng sanh có thể hiểu được? Đó là nói sơ qua mà chưa kể hết những sự biểu hiện trong hào quang. Ngày nay mới hiển lộ cái chung nhất của pháp giới, cho nên thấy được quang tướng này là thấy rõ tâm Phật, là ngộ tri kiến Phật. Điều nầy ý thức không thể biết được, cũng không thể dùng ngôn ngữ mà đạt được. Thực chất toàn thể Diệu pháp phải ở nơi vô ngôn mà ngộ, cho nên Đức Thế Tôn sắp nói diệu pháp, trước hết phóng một hào quang làm biểu tượng đi trước, nếu có thể thấy được quang tướng này thì không nói mà hiểu.

6. Từ câu: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi ngữ Di Lặc Bồ tát” đến câu: “Nan tín chi pháp cố hiện tư đoan” (Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù nói với Di Lặc Bồ tát… pháp khó tin nên hiện điềm lành).

Đoạn này Ngài Văn Thù đáp một cách tổng quát các câu hỏi.

Các điềm lành không phải ứng hiện giả tạo, đã có ứng hiện chắc chắn phải có nguyên nhân, cho nên phải biết rằng điềm lành là cái tướng đi trước biểu hiện sắp nói về pháp lớn. Mưa là để thấm nhuần cây khô, tù và để hưng khởi ý chí đại chúng, trống là để sách tấn tâm giải đãi. Tất cả đều nói lên thí dụ chỉ cho pháp lớn. Vì đại pháp là hiếm có, sợ mọi người cho là tầm thường, ý muốn làm cho mọi người sinh tâm khó gặp, nên trước hết hiện điềm lành để kích phát. Cho nên nói: “Muốn cho chúng sinh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo nên mới hiện điềm lành này”.

7. Từ câu: “Chư thiện nam tử như quá khứ vô lượng vô biên” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề thành Nhất thiết chủng trí” (Các thiện nam tử! Như vô lượng vô biên kiếp về trước… chánh đẳng chánh giác thành bậc Nhất thiết chủng trí).

Đoạn này dẫn chứng nguồn gốc xưa của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, là Tổ của Đức Phật Thích Ca đã thuyết đạo lý này. Ý muốn nói lên sự tương tục của Diệu pháp có nguyên do.

Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh tức là lấy dụ mặt trời mặt trăng, bao trùm cả ngày lẫn đêm đều chiếu sáng mà không có ánh sáng nào hơn, và ngọn đèn tiếp nối sáng liên tục. Aùnh sáng vĩ đại ấy không bao giờ tắt, biểu tượng cho trí tuệ “Phổ quang minh trí”. Chứng được trí này thì gọi là Phật, đầy đủ mười hiệu. Vì sở chứng của Phật là căn bản thật trí, vì pháp được Phật nói ra tương ưng với thể tánh, nên ban đầu, ở giữa hay sau cùng đều thiện. Tùy theo căn cơ mà phân biệt nói ba thừa để làm phương tiện cho Nhất thừa, cho nên gọi là thành tựu nhất thiết chủng trí. Dẫn việc xưa để chứng minh cho nay, thấy rằng thời giáo hóa của Đức Thích Ca cũng giống như xưa vậy.

8. Từ câu: “Thứ phục hữu Phật diệc danh Nhật Nguyệt Đăng Minh” đến câu: “Thiên vạn Phật sở thực chư thiện bổn”(Kế lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh… nghìn muôn Đức Phật vun trồng các cội lành).

Đoạn này nói đã trải qua hai vạn ức Đức Phật cũng đều một danh hiệu, đồng thuyết một pháp để chứng minh chư Phật đều chung một đường lối và để hiển lộ diệu pháp do tâm ấn chứng cho tâm. Danh hiệu, pháp thuyết, sự chứng đắc đều giống nhau, điều đó nói lên tính thuần thiện trước, giữa, sau đều như thế.

Trí căn bản này do chuyển tám thức mà thành tựu. Đức phật sau cùng lúc chưa xuất gia có tám vương tử, là biểu tượng cho trí căn bản đang ở trong triền phược. Tám người con thống lãnh bốn châu thiên hạ là biểu tượng cho thức chưa rời bỏ căn thân tứ đại. Nghe vua cha xuất gia là A lại da ra khỏi triền phược, các thức khác đều xả ô nhiễm chuyển thành trí tuệ cả, nên gọi là từ bỏ vương vị mà theo cha tu hành phạm hạnh. Đức Thích Ca vốn đồng với xưa là tích môn đồng với bổn môn, tức đồng một thể.

9. Từ câu: “Thị thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật” đến câu: “Giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm” (Bấy giờ Thế Tôn Nhật Nguyệt Đăng Minh… Diệu pháp Liên hoa giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm).

Đoạn này nói các Phật Nhiên Đăng Minh truyền cho nhau đến hai vạn ức Phật là muốn nói đến ý nghĩa chủng tử Phật tánh có từ vô thỉ.

Đến lúc nói Kinh Vô lượng nghĩa, nhập định vô lượng nghĩa là nói chư Phật nối nhau đều đàm luận về khai mở tri kiến Phật làm cứu cánh (chứ không nói gì khác). Những sự kiện như mưa hoa, đất chấn động, phóng hào quang v.v… cũng như hôm nay, đều là hiển lộ thật tướng của tâm cảnh trước sau không phải hai, pháp là tịch diệt chân thường, đó là pháp hiếm có. Đại chúng có mặt khởi lên nghi hoặc, vấn đề khó tin khó hiểu là đã có từ xưa, chứ không phải thời nay mới có. Các Đức Phật kia xuất định liền thuyết Diệu pháp Liên Hoa kinh, chứng tỏ rằng thuyết pháp phương tiện để hiển lộ thật tướng, là nguyên tắc hoằng pháp, mà các Đức Phật từ ngàn xưa đã làm. Do đó mà có thể biết ý nghĩa sự kiện Đức Phật biểu hiện hôm nay. Lúc các Đức Phật Đăng Minh thuyết Diệu pháp thời gian dài đến 60 tiểu kiếp mà đại chúng cảm thấy chỉ trong một bữa ăn. Điều này cho thấy diệu pháp nhất thừa Phật tri kiến địa, không rời sát na tam muội. Một khi nhập định (tam muội) này thì các sinh diệt đều mất, lâu và mau là một, thấy rõ thật tướng của thân tâm là không, tức là mười đời xưa đến nay, bắt đầu và kết thúc không rời một ý niệm hiện tiền, vì vậy không có người nào sinh mệt mỏi. Thuyết kinh này xong thì nhập Niết bàn, điều đó nghĩa là đại sự độ sanh của chư Phật đã Hoàn tất, bổn hoài xuất thế đã thành tựu, từ đó mà biết rõ Đức Phật của chúng ta (Phật Thích Ca) không bao lâu nữa, thời gian nhập Niết bàn cũng sắp đến.

Đức Phật sắp nhập diệt mà thọ ký cho Đức Tạng Bồ tát là muốn đem Diệu pháp này phó chúc cho có chỗ, mong sự kế tục truyền thừa mãi mãi. Đủõ thấy rằng đệ tử trong pháp hội này đương nhiên có phần thành Phật. Sau khi Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh diệt độ Ngài Diệu Quang trì kinh Pháp Hoa kinh tám mươi tiểu kiếp, vì người mà thuyết pháp. Để hiển bày Nhất thừa Phật tri kiến địa, cứu cánh không rời hoạt dụng của trí tuệ. Tám người con của Phật Đăng Minh đều thờ Diệu Quang làm thầy, nghĩa là diệu quán sát trí ở nơi “Nhân” thì có tác dụng chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh, ở nơi “Quả” thì có tác dụng tùy cơ thuyết pháp, nhờ đó mà tám người con đều được thành Phật. Tám vị vương tử về sau thành Phật hiệu là Nhiên Đăng, do thờ ngọn đèn của Diệu Quang mà thành chánh quả, cũng nhờ tác dụng của công đức trì kinh. Đức Phật Nhiên Đăng là bổn sư của Phật Thích Ca, vậy Diệu pháp ấy triển chuyển truyền thọ từ xưa vậy, điều đó chứng minh rằng xưa và nay chỉ có một đường.

Tuy nhiên, tri kiến của Phật không phải là đối tượng suy tư phân biệt, cho nên người mong cầu danh lợi không thể thấu hiểu được. hơn nữa thiện căn làm nguyên nhân chính cho sự thành Phật, nhờ vậy gặp được nhiều Phật. Điều này chứng tỏ cho việc hàng Thanh văn được thọ ký hôm nay.

Ngài Văn Thù tổng kết sự kiện trên mà nói rằng Ngài Diệu Quang kia là tôi, còn Cầu Danh Bồ tát chính là Ngài Di Lặc hiện nay. Ngài Di Lặc thuở xưa đã từng trì kinh mà nay vẫn còn nghi ngờ sự kiện trước mắt, cho biết rằng pháp này không phải là đối tượng của tâm thức phân biệt.

Xem xét việc đã qua từ ngàn xưa về điềm tướng: nhập định, phóng quang, thuyết kinh, nhân duyên thọ ký thì biết hôm nay tất nhiên sẽ thuyết Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Nay trình bày nguyên do pháp hội, trước là để hiển thị thật tướng tịch diệt của tâm cảnh, chân lý hiển hiện trong một niệm, đó là điều mà ngôn ngữ không với tới được, cho nên phóng một hào quang để hiển hiện diệu pháp, rồi nhờ Văn Thù đại trí, vì thính chúng không thông hiểu nên làm cho họ thấy được bổn hoài xuất thế của Như Lai. Tức là 40 năm qua

Đức Phật chưa ra khỏi Phổ Quang Minh Trí và sát na tam muội.

Đức Thế Tôn một hôm thăng tòa, Văn Thù đánh kiền chùy bạch rằng:

“Đế quán pháp vương pháp Pháp vương pháp như thị”

(Xét kỹ pháp của Đấng pháp vương Pháp ấy là như thế).

Cho nên về sau khi nói diệu pháp, chỉ có “Như thị” mà thôi.

10. Từ câu: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi ư đại chúng trung” đến câu: “Dĩ cầu vô thượng đạo” (Bấy giờ Ngài Văn Thù ở trong đại chúng… để cầu đạo vô thượng)

Đoạn này là lời kệ tụng lập lại ý nghĩa của kinh ở trên, trình bày về sự nhập định phóng quang và trong hào quang hiện đủ sự tướng của pháp giới các Đức Phật từ thuở ban sơ cho đến Phật sau cùng đều giống nhau. Thông báo về sự sắp nhập diệt, nói những điều răn dạy, khích lệ và các việc sau khi diệt độ, các việc xây tháp, khuyên chúng tinh tấn cầu đạo. Đây là những nguyên tắc sau cùng của pháp hội, cho thấy rằng sự thấy được Phật pháp là khó khăn.

11. Từ câu: “Thị Diệu Quang pháp sư” đến câu: “Linh tận vô hữu dư” (Diệu Quang pháp sư đó… khiến hết không còn thừa).

Đây là lời tụng nói lại sự hỗ trợ giáo hóa của Diệu Quang pháp sư, sự truyền giảng, sự lợi ích đều giống nhau. Làm chứng cho việc sắp thuyết Kinh Pháp hoa, lấy sự phóng hào quang làm phương tiện. Nay Đức Phật phóng hào quang để biểu thị cho nghĩa của thật tướng, nghĩa là tri kiến Phật vắng bặt tâm và cảnh, thoát ra ngoài ngôn ngữ, tư duy. Nên mới dùng hào quang tam muội để hiển bày cái thật tướng ấy. Trong tông môn thường dùng gậy hay hét, đuổi rượt, trợn mắt, nhíu mày đều là chỉ ý của Tổ từ Tây qua Đó là không lấy ngôn từ làm phương tiện. Nếu người nào thấy rõ tướng Hòa quang này thì hằng ngày sáu thời ho hen, khạc nhổ, khởi động cánh tay không có hành động gì không phải là Pháp hoa tam muội.

Comments

Popular posts from this blog