KINH 

A DI ÐÀ SỚ SAO


T Chu Hong Thut



Thích Hành Tr Dch



THÔNG T ÐI Ý 

Phân ra làm năm:


 

1.    Minh tánh (Nói rõ t tánh).

2.    Tán kinh (Khen ngi kinh này).

3.    Cm thi (Cm thích thi cơ).

4.    Thut ý (T ý mình gii kinh).

5.    Thnh gia (Cu Pht giúp thêm).

 


MINH TÁNH



Bn th ca t tính là: Linh (linh thiêng), Minh (sáng sut), Ðng (rng rang), Trit (thông thu), Trm (trong tro). Tch (vng lng), Thưng (còn), Hng (lâu), chng phi trưc, chng phi thanh, không lui, không ti, rt ln thay cái chơn th ca nó không th nghĩ bàn đưc, phi chăng ch có t tánh ca chúng ta mi như vy?



TÁN KINH 



Lóng đục thành trong, trở trái làm mặt, vượt khỏi ba kỳ trong một niệm; bằng các thánh nơi chút lời, rất mầu thay chỗ diệu dụng… cũng không thể nghĩ bàn đặng, duy có kinh A Di Ðà mà đức Phật Thích Ca ngài nói đây thôi.


Thế nên đức Thế Tôn ta trước nói ra ba thừa sau hội về nhứt thật, đã đồng phần cho của báu, lại còn đặc biệt ban ơn mầu.


Ðức Thế Tôn chỉ ra 48 lời nguyện và mở dạy 16 pháp quán: Nguyện nào cũng quy về pháp phổ độ, Quán nào cũng chú trọng về lý diệu tâm.


Lại dùng nguyện môn rộng lớn, quí nhứt là tại chỗ biết trước; với pháp quán sâu mầu chi bằng giữ lấy chỗ dón: Biết trước là chuyên cầu về nước kia. Giữ chỗ dón là duy cần sự trì danh. Vì hễ niệm danh hiệu Phật thì đã gồm đủ các đức tốt; còn chuyên trì danh, cũng tóm thâu được muôn hạnh mầu.


Tu đến đây muôn niệm lự (vọng niệm) đều thôi. Xét tột, nhơn được vậy là bởi nhứt tâm bất loạn.


Mới biết chưa bước lìa ngạch cửa mà ao báu hoa nở bốn màu, chẳng ra khỏi ngõ sân mà đất vàng cây ngọc quanh bảy lớp, chỗ đức Di Ðà thuyết pháp giờ hoa sen nở hóa sanh, chim quý với chim thường rập tiếng, nhà tranh cùng nhà ngọc chung màu.


Số là, với cái niệm mà không là chơn niệm; với việc sanh mà hiểu vào vô sanh. Bởi niệm danh hiệu Phật tức là niệm tâm ta, còn sanh nước kia không lìa sanh cõi đây. Vì rằng tâm, Phật và chúng sanh tuy ba mà vẫn đồng một thể; giữa dòng và hai bên đều không nhứt định ở một chỗ nào nên gọi: tự tánh giác là Phật Di Ðà, duy tâm tịnh là cõi tịnh độ.


“Lý nhứt tâm” đây, dù nó trọn phần về bực thượng trí, nhưng nó cũng thông cả “sự, tướng” phần nào. Vì chiều theo cho hiệp với kẻ độn căn (căn cơ chậm lụt cũng như tối dạ).



CẢM THỜI



Ngặt vì bọn bảo thủ thói ngu, chấp lấy Sự mà không chịu nghe Lý, còn hạng tà trí tiểu huệ chấp Lý mà bỏ Sự. Chấp Sự mê Lý như trẻ nhỏ đọc sách của cổ thánh; chấp Lý bỏ Sự như học trò nghèo lượm đặng bằng khoán của bác nhà giàu.


Song, dầu tu niệm Phật bằng cách sự tướng mà niệm được nối luôn luôn, cũng không mất công vào bực thánh. Còn tu chỉ bằng cách chấp Lý mà tâm chưa được thật sáng suốt, trở lại chịu cái hại lạc về ngoan không.


Ðến nỗi để đức Phật như duỗi tay luống cần, dường như mẹ dựa cửa ngóng trông. Ðối trên, nỡ dửng dưng lời Phật dạy; đối dưới, đành phụ tánh linh của mình, từ đời này cho đến nhiều đời, một bước sai trăm bước vẫn sai , đành lòng lục đục giữa khổ thú, bó tay lần hồi đến tử môn, không ai cứu vớt, không chỗ nương về, thật đáng thương và đáng tiếc!



THUẬT Ý 



Chu Hoằng này đã là kẻ hạ phàm, lại nhằm đời mạt pháp, chỗ xuất thân hẹp hòi hẻo lánh, bề học thức cạn cợt muộn màng, chẳng thông lý nhiệm, vốn hổ lời xuông, bánh vẽ ích chi cho bụng kẻ đói, đá yên thạch khó dối mắt người cổ hồ (người thạo nghề buôn).


Kính vưng theo lời tiên sắc của Phật, dốc lòng phụng sự kinh này, trông về nước Cực Lạc là quê hương, ngửa mến đức Từ Tôn như cha mẹ.


Vì ôm lòng kiêm lợi, đạo quí chỗ hoằng thông. Tiếc thay các bộ sớ thích của Tổ xưa, ngày nay ít thấy bổn nào còn trọn đủ! Duy có vài tập chú giải còn ấn hành nơi đời, lời tuy thiết mà nghĩa quá hẹp, lý hơi bày nhưng không được rõ. Luận không tột đến chỗ hoằng công, đâu có thể phát khởi tín tâm cho quần chúng?


Vì thế, tôi vội quên chỗ tri kiến hẹp hòi, hết lòng suy nghĩ, gồm thâu bộ loại năm kinh; căn cứ ngay nơi một hạnh Văn Thù hội về ý chỉ mầu nhiệm. Có phần thuộc về kinh Tạp Hoa; sâu suốt các pháp môn, thời rộng gồm cả các bộ; không một bộ nào mà chẳng tiêu dung về tự tánh. Nhưng có nguyện nào cũng hồi hướng về quả Bồ Ðề. Con nay tỏ chút lòng thành, cúi mong chư Phật gia hộ.



THỈNH GIA



Kính lạy đức Giáo Chủ thuyết pháp cõi Ta Bà, đức Ðại Từ Tôn tiếp dẫn cõi Tây phương và kinh “Bất Khả Tư Nghì Phật Hộ”, Xá Lợi Phất, Văn Thù cùng các vị Thánh trong hai cõi, sáu phương khắp cõi Phật số vi trần, quá khứ hiện tại và vị lai, các ngôi Tam Bảo vô số tận đều chứng biết. Cúi xin rủ lòng từ bi nhiếp thọ lời cầu của con. Con nay dối đem kiến thức cõi uế độ để so lường tâm thanh tịnh của Phật Như Lai. Ngưỡng vâng sức đại oai thần của ngôi Tam Bảo gia hộ cho kẻ phàm phu được thành thánh trí: khiến mỗi lời của con đều hợp với thánh ý của Phật, đặng lưu thông xa gần, lợi ích cho loài hàm linh, kẻ thấy, người nghe tùy hỷ, đều được vãng sanh, đồng chứng lên quả “Tịnh Quang Vô Thượng Giác”.




Sắp giải kinh này chung nêu 10 môn:


THẬP HUYỀN MÔN



1.     Giáo khởi sở nhơn: Cái nhơn vì giảng giáo.

2.     Tạng giáo đẳng nhiếp: Gồm thâu tạng, giáo, phần.

3.     Nghĩa lý thâm quảng: Nghĩa lý rất rộng sâu.

4.     Sở bị giai phẩm: Thích hợp các giai phẩm.

5.     Năng thuyên thể tánh: Chuyên bàn về thể tánh.

6.     Tôn thú chỉ qui: Chỉ rõ về tôn thú.

7.     Bộ loại sai biệt: Bộ loại sai khác nhau.

8.     Dịch thích tụng trì: Người dịch, giải, tụng, trì.

9.     Tổng thích Danh-đề Người-dịch : Chung giải Tên-kinh Người-dịch.

10.   Biệt giải văn nghĩa: Giải riêng nghĩa từ văn. 



GIÁO KHỞI SỞ NHƠN 

 


Trước nói rõ phần Tổng là chỉ vì nhơn duyên của một việc lớn mà đức Như Lai Ngài phải xuất hiện ra thế giới này. Giáo pháp của Ngài thuyết ra trong một đời, tóm chỗ đại ý: chỉ vì muốn khai thị cái tri kiến của Phật cho chúng sanh ngộ nhập. Nay kinh này cố ý chỉ ngay cho chúng sanh: dùng tâm niệm Phật để vào chỗ tri kiến của Phật.



Biệt là chuyên theo kinh này cũng có 10 nghĩa:


Một: Vì lòng đại bi thương xót nên làm cầu, bến cho chúng sanh đời mạt pháp là khi Phật thành đạo đã đương thời ác trược, huống chi nhằm đời mạt pháp, chính ở vào thời kỳ đấu tranh kiên cố, lần hồi thảng mảng (mòn mỏi) sau lại càng sau, đều nhờ thần lực kinh này cứu vớt chúng - sanh sau đẻ muộn ở đời rốt, kiếp tàn; như vậy, đâu chẳng phải là lòng từ bi cực điểm dự phòng để pháp tế độ ư!


Hai: Ðặc biệt là với vô lượng pháp môn đưa ra một môn phương tiện tối thắng.


Vào đạo có nhiều môn vốn không lựa chọn, nhưng với chỗ đèo cao, đồng bằng, đường cong, nẻo thẳng thì khó, dễ tự phân, nên ở trong vô lượng pháp môn, chỉ có một môn niệm Phật là phương tiện tối thắng, lược kể có 4 :


Phương tiện thứ nhất: Với kiếp không gặp Phật ra đời, song mà thường được thấy Phật.


Phương tiện thứ hai: Dầu chưa đoạn hoặc nghiệp cũng được thoát kiếp luân hồi.


Phương tiện thứ ba: Không nhọc công tu các hạnh khác mà đặng chứng pháp ba la mật.


Phương tiện thứ tư: Không phải trải qua nhiều kiếp mà chóng được giải thoát.



Ba: Vì chê khổ khen vui để cho chúng phàm phu trong đường sanh tử, sanh lòng ưa cõi vui nhàm cõi khổ.


Bởi các chúng sanh mê quên tự tánh, cam chịu luân hồi, đã từ nhiều kiếp đến nay mà cũng chưa tỉnh ngộ nên đức Phật mới chỉ bày hai cõi “Khổ”, “Vui”, mở lập hai môn “Chiết” và “Nhiếp”, chê khổ khen vui, khiến cho ưa vui, nhàm khổ, tâm Bồ Ðề đã phát, tịnh nghiệp mới thành.



Bốn: Vì để giáo hóa dẫn dắt hàng nhị thừa chấp không chẳng tu Tịnh Ðộ là bởi do hàng nhị thừa vừa chứng được lẽ “Ngã không” liền sanh lòng đắm trước (ưa thích), nghe nói đến việc làm cho cõi Phật thanh tịnh là phải giáo hóa chúng sanh thì lòng họ không ham muốn, nên nay khiến họ hồi bỏ tâm Tiểu thừa, để hướng về Ðại thừa là phát ý niệm Phật cầu nguyện vãng sanh.


Năm: Vì khuyên các người mới phát tâm hành Bồ Tát đạo nên gắng tu niệm Phật, để được gặp Như Lai là bởi bực mới phát tâm hành Bồ Tát đạo , tâm Ðại thừa ấy mới kiến lập nhưng sức thắng nhẫn chưa thành; cũng như chim con lông cánh còn yếu, chỉ nên chuyền cành và đứa con bé thơ, cần phải gần bên mẹ; khi mà Bồ Tát đã vào hội chánh định tụ gần gũi đức Thế Tôn, mới đặng nhẫn lực, chứng pháp “Vô Sanh” trọn thành quả Phật.


Bấy giờ ngồi thuyền đại nguyện vào biển khổ độ sanh. Như trong Trí Ðộ Luận đã nói: “Vả chăng tu Bồ Tát đã đến bực lục trụ mà còn thối mất tâm đại thừa, nhiều kiếp làm Thinh Văn”. Xem như “trứng cá”, “bông xoài” đủ làm gương soi rõ.


Nên biết pháp niệm Phật là cha của Bồ Tát vì sanh đẻ ra pháp thân; cho đến cả Thập Ðịa Bồ Tát trước sau chẳng lìa pháp niệm Phật thì bực sơ tâm Bồ Tát đâu nên tự cho là đủ, mà không nguyện vãng sanh ư?



Sáu: Vì thâu nhiếp cả các căn, lợi, độn cũng đều thoát là bởi các pháp môn khác, có môn quá cao thời kẻ hạ cơ không phần nhờ, có môn quá thấp thời không hợp với sức thượng căn, thế nên đức Phật ban đầu nói kinh Hoa Nghiêm, các bậc tiểu căn như đui như điếc. Ông Ưu Ba Ly đem trí như lửa đom đóm để xét, kết thêm tội cho hai thầy bí sô. Chỉ có một pháp môn niệm Phật này, thượng cơ hay hạ căn cũng được gồm thâu, vì đều thích hợp; khá gọi rằng: Như vị thuốc A Già chữa lành muôn chứng bệnh; lò lớn đúc thành ngàn món đồ; đâu không phải là cửa từ bi mở rộng, pháp phổ độ không bỏ sót một căn cơ nào?



Bảy: Vì hộ trì người tu hành nhiều chướng nạn để khỏi bị sa đọa là: Bởi đời mạt pháp rồi nên người tu hành hay mắc nhiều chướng nạn; nếu một phen thiếu chánh kiến liền sa ngã vào các đường tà. Nhờ nguyện lực oai thần đức Phật kia gia hộ cho người tu, ở trong hào quang cao cả che chở, khỏi bị ma sự quấy rối và Phật Ngài hộ niệm cho mãi đến lúc Ðạo thành. Cho nên biết rằng hễ chánh niệm phân minh, ma vương không quấy rối, ví như đồ hình con Bạch Trạch trừ quái, gương báu dẹp yêu (yêu không trốn đặng).



Tám: Vì chính chỉ ngay nơi cái tâm hữu niệm, đặng chứng vào lý vô niệm là: Tâm vốn vô niệm mà có niệm thì sai. Nhưng vì chúng sanh từ vô thỉ đến nay tập quán vọng tưởng quá ư lâu đời, chưa dễ gì vội dứt liền đi được, nay dạy cho chúng niệm Phật, chính như: Lấy thuốc độc nọ để giải thuốc độc kia và dùng binh ta để đẩy lui binh địch; bệnh lành, giặc yên, cũng như thân hết bệnh, lại không có thân mạnh nào khác; tức là: Nguyên kẻ giặc cướp chính là con ruột của nhà ta.



Chín: Vì cách chỉ dạy rất khéo là nhơn cầu vãng sanh mà thiệt ra là ngộ lý vô sanh, bực Thất Ðịa Bồ Tát vừa gọi là đắc cái hiện tướng vô sanh nhẫn, bực Bát Ðịa mới đặng lý vô sanh. Nếu muốn diệt gấp sự hữu sanh để cầu lý vô sanh, càng cầu càng xa. Nay phải dùng pháp cầu sanh Tịnh Ðộ mới ngộ được lý vô sanh, vào chỗ có mà được chỗ không, tức nơi phàm thành bực thánh, khá gọi rằng : “Lời hay thấu đạo lý, thuốc quý đổi xác tiên”.



Mười: Vì chỉ rõ đường tắt tu hành, lại là đường tắt trong đường tắt.


Ðây có hai nghĩa: 


Nghĩa thứ nhứt là các môn học đạo, muôn dặm xa xôi; còn niệm Phật vãng sanh, xưa kêu là đường tắt. Song, một pháp niệm Phật lại có nhiều môn. Nay pháp trì danh đây thiệt là trong đường tắt, tắt mà càng tắt. Ví như: Chim hạc tung mình, đâu kịp đại bàng cất cánh, ngựa Ký ruổi vó, đâu bằng rồng chúa vươn bay; không gấp không đi  mà mau, mà đến, là tắt trong đường tắt vậy.


Nghĩa thứ nhì là trong Vô Lượng Thọ kể nhiều y báo, chánh báo, chép đủ các phép tu trì. Nay kinh Di Ðà đây chọn chỗ giản tiện, bỏ chỗ phiền phức, lấy chỗ tóm tắt, bao gồm chỗ sâu rộng, không nói chi khác, chỉ dạy pháp trì danh, miễn sao niệm được nhứt tâm là liền sanh nước Cực Lạc. Nên nói: “Giản dị càng giản dị, nhiệm mầu càng nhiệm mầu, đường tắt trong đường tắt vậy”.


Như trên trong khoa Biệt nói mười nghĩa, lại lấy chín nghĩa trước là Thông (chung), một nghĩa sau là Biệt (riêng). Gồm luôn cả nghĩa của phần Tổng văn trước để làm sở nhơn lập giáo của kinh này.



TẠNG GIÁO ÐẲNG NHIẾP 



Ðã biết Phật  nói kinh nầy có nguyên nhân như thế; nhưng chưa biết kinh đây đối trong Phần Tạng Giáo nó thuộc về đâu ?


Nói về Tạng có hai: 1. Tam Tạng; 2. Nhị Tạng.


Trước nói:  Tam Tạng là:


KINH Tạng Tu Ða La .

LUẬT Tạng Tỳ Nại Da .

LUẬN Tạng A Tỳ Ðạt Ma .

 

Nay kinh đây (Di Ðà) thuộc về KINH Tạng Tu Ða La. Bởi các kinh cũng đều có thân thuộc lẫn nhau, nhưng kinh Di Ðà đây không phải như các kinh kia. 


Nhị Tạng là:


BỒ TÁT  tạng.

THINH VĂN  tạng.


Nay kinh Di Ðà đây thuộc về Bồ Tát tạng; các kinh cũng có lẫn thuộc nhau, nhưng kinh đây không phải như các kinh kia. 


Giáo là y theo Ngài Hiền-Thủ định phân giáo pháp có năm phần là: Tiểu, Thỉ, Chung, Ðốn và Viên. Nay kinh Di Ðà đây thuộc về ÐỐN GIÁO, mà cũng gồm cả hai giáo trước là CHUNG và VIÊN. 


Phần là mười hai phần giáo như phần KHẾ KINH  Tu Ða La, phần TRÙNG TỤNG Kỳ Dạ ... Nay kinh này thuộc về hai phần KHẾ KINH Tu Ða La và KHÔNG ĐỢI AI THƯA THỈNH Ưu Ðà Na. 



NGHĨA LÝ THÂM QUẢNG 



Ðã biết rằng kinh này thuộc về Ðốn-giáo và có ít phần thuộc về Viên giáo; chứ chưa biết nghĩa lý hoàn toàn như thế nào.

Trước nói kinh này thuộc về Ðốn giáo đó, số là bảo: Pháp trì danh liền được vãng sanh, mau siêu, chóng chứng, vì không quanh co (lâu dài, chậm trễ) nên kinh Di Ðà chính thuộc Ðốn giáo. 


Hoặc có người hỏi thắc mắc rằng: Kinh này Ðốn giáo là tâm không sanh một niệm gì hết, tức gọi là Phật. Như năm pháp, ba tự tánh đều không tám thức, hai món vô ngã đều trừ. Thế mà nay Pháp trì danh niệm Phật đây thì lại có niệm; đã có niệm, thế nào gọi là "đốn" được? 


Ðáp: Do nhứt tâm bất loạn, chính gọi là vô niệm; nếu còn có niệm, chẳng gọi là nhứt tâm, nhưng đã được nhứt tâm rồi thì pháp nào là pháp chẳng vắng lặng? 


Một phần thuộc Viên-giáo là lập trường của Viên giáo, vì trong bốn món pháp giới, ba món trước chung lẫn cả các giáo, một món sau riêng thuộc về Viên giáo. Nay kinh này: Viên giáo toàn nhiếp, nó có một phần nhiếp thuộc về Viên giáo. Bởi vì nó chỉ có ít phần Viên giáo nên gọi thuộc “Phần Viên". 


Trước nói kinh này thông đồng với kinh "Thập Lục Quán" đó là bởi có người chấp rằng 16 pháp quán gọi là Ðịnh Thiện, với chấp trì danh hiệu gọi là Tán Thiện. Nay vì lẽ thông đồng mà nói, thì trong đây có hai nghĩa: 


1. Tổng 

2. Biệt. 


Trước nói Tổng là Kinh Thập Lục Quán cả 16 pháp diệu quán, đều chủ về lý nhứt tâm. Kinh Di Ðà đây trọng về lý nhứt tâm, chính hiệp với ý kinh kia. Vì kinh kia nhứt tâm tác quán, kinh này nhứt tâm xưng danh; thế đâu đặng với cả hai đồng qui về LÝ NHỨT TÂM mà lại tán dương kinh kia, dằn ép kinh này. Rõ như trong lời Sớ ngài Tịnh Giác đã nói... 


Kế đây nói nghĩa riêng. Hoặc có người thắc mắc cho rằng:


1. Kinh Di Ðà đây chỉ nghe danh suông của Phật.

2. Kinh Di Ðà đây nói thân Phật là Liệt Ứng.

3. Kinh Di Ðà đây nói hoa sen chừng bằng bánh xe .

4. Kinh Di Ðà đây nói tội ngũ nghịch không được vãng sanh .

5. Kinh Di Ðà đây thuộc về hạ phẩm.


Họ nạn như thế vì họ không biết hai kinh (Quán kinh với A Di Ðà kinh) thật đồng một nghĩa và họ không biết kinh A Di Ðà lại càng độc yếu hơn nữa . 


"Lại nói thông đồng trong Các-kinh" là ý nghĩa của kinh này cùng thông đồng nhau với các kinh Ðại thừa như kinh Tịnh Danh, kinh Pháp Hoa ... Song người mà đã thấy được chỗ lan rộng thông đồng nhau như thế thời mới biết nghĩa lý kinh này bao trùm, thâm thúy, rộng xa, chứ không nên coi như các kinh thiển cận (Tiểu thừa) mà tự mắc tội lỗi !! 



SỞ BI GIAI PHẨM 



Ðã biết kinh Di Ðà đây văn dón, nghĩa đủ, lời gần, ý xa. Nhưng chưa rõ nó sẽ giúp cho căn khí nào và có bao nhiêu từng bậc?


Trước nói về cách (So-chọn) là so chọn để phân biệt, thì ban đầu (kế sau là giai cấp) là ba hạng người không phải căn khí: 


1. Người vô tín; 

2. Người vô nguyện; 

3. Người vô hạnh; trái lại, đều là người có căn khí (căn cơ). 


Trong những món đồ phải căn khí lại còn tùy mỗi căn cơ mà có ra từ "Bối" từ "Phẩm" thành ba, thành chín; chín lại nhơn chín; ba lại nhơn ba, phân tích nhiều lần từ ngành ra nữa thì phải nhiều đến vô lượng.  Như trong  hai bộ nói rõ. 


Tổng-thâu là cứ niệm danh hiệu Phật ắt được vãng sanh về nước kia: Thì ra hoặc cao, thấp, hoặc thánh, phàm; cho đến hoặc tin, nghi, khen, chê, miễn biết có đức Phật kia là thành được thiện căn rồi, dù lâu đến nhiều kiếp, nhiều đời, đều nhờ đó sẽ được giải thoát. 



NĂNG THUYÊN THỂ TÁNH  



Ðã biết kinh Di Ðà này trùm khắp các cơ, nhưng chưa rõ lý năng thuyên lấy gì làm thể tánh? Y theo xưa lần lượt chia ra làm mười môn. Xét tận gốc, tóm lại thành bốn môn. Trước nói Tùy tướng, trong ấy lại chia ra làm hai:


1.  Thinh, Danh, Cú, Văn.

2.  Nghĩa sở thuyên


Do vì văn với nghĩa đều thuộc về Tướng-văn-tự. 


Lại nếu cứ mỗi pháp để hiển nghĩa thì không một pháp nào không phải là Phật sự, như cơm thơm, hào quang ... Nên biết mỗi pháp đều làm giáo thể được cả. 


Duy-thức là văn đây, nghĩa đây đều do thức biến hiện mà có bổn ảnh cả bốn câu.


Qui-tánh là trước lấy môn cảnh nơi sở biến để qui về tám thức nơi năng biến. Nay đem tám thức sở hiện qui về nhứt tâm năng hiện. Thế là lấy tánh làm giáo thể.


Vô-ngại là Tâm, Cảnh, Sự, Lý vốn tự thông suốt lẫn nhau. Cảnh và Sự gọi là Tùy Tướng. Tâm là Duy Thức. Lý là qui tánh, đều giao triệt với nhau.  



TÔNG THÚ CHỈ QUI 



Ðã biết kinh đây về cái thể Năng Thuyên của nó bao trùm như thế, nhưng chưa biết chỗ tông thú của kinh như thế nào?  Luận rằng: Chỗ trọng của lời nói gọi là tông, chỗ qui về nơi tông gọi là thú, nhưng có Thông (chung) và Biệt (riêng). Luận về Thông thời Phật giáo lấy chữ nhơn duyên làm Tông.  Biệt, thời y theo xưa chia ra mười môn : 1. Từ môn "Ngã pháp cu hữu" đến môn thứ mười là "Viên dung cụ đức". Sau lại sau; trước; thứ lớp có cao và thấp, cho nên kinh nào cũng đều có Tông và Thú.  


Kinh Di Ðà đây xưa có nhiều nhà giải; có nhà nói dùng Tín, Nguyện làm Tông; có nhà nói vượt khỏi ba cõi, hai món đều thanh tịnh làm Tông, khiến cho chúng sanh đặng quả vị "bất thối chuyển" là Thú.  


Kinh đây trọng về Pháp Tánh, với trong Pháp Tánh lại chia có Tổng và Biệt, gồm hiệp chung lại thì là "Y chánh thanh tịnh” và “Tín, Nguyện vãng sanh" lấy đó làm Tông Thú.


Lại phân biệt mà nói, thì thành năm pháp đối:


1.  Giáo nghĩa;  

2.  Sự lý;  

3.  Cảnh hạnh;  

4.  Hạnh tịch;  

5.  Tịch dụng.


Dùng làm Tông và Thú, (mỗi một đối là một tông thú, cả 5 đối là 5 tông thú). 



BỘ LOẠI SAI BIỆT 



Ðã biết kinh Di Ðà đây, Tông Thú rộng sâu, nhưng chưa biết đồng với bộ nào, loại nào và có mấy thứ? Trước nói rõ về bộ.  Bộ có hai thứ:


1.  Ðại bổn;  

2.  Kinh Di Ðà này. 


Minh loại là gì?  Nó có ba thứ: 


1. Quán kinh; 

2.  Cổ Âm Vương kinh;  

3. Hậu Xuất A Di Ðà Kệ kinh. 


Xét, rõ "phi bộ phi loại" là những bổn kinh không phải đồng bộ và đồng loại, nhưng cũng nói kèm về pháp môn Tịnh Ðộ như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa và Luận Khởi Tín ... Lại dầu không phải bộ loại, nhưng mà trong ấy cũng nói về pháp chuyên trì danh hiệu như kinh Văn Thù Bát Nhã.



DỊCH THÍCH TỤNG TRÌ  



Ðã biết kinh nầy, nào bộ, loại, rộng, nào hẹp, đồng, khác với nhau như thế rồi, nhưng chưa biết kinh này dịch về thời đại nào, có bao nhiêu nhà dịch? Cho đến người chú thích mở rộng là ai?  Những người đọc tụng thọ trì có linh nghiệm gì?


Trước hết nói rõ có hai nhà dịch: 


1. Ðời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập  dịch bộ kinh "Phật Thuyết A Di Ðà" tức bộ kinh này.  


2. Kinh "Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ",  đời Ðường, ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.


Hai kinh hiệp lại so sánh, phần lớn đồng nhau, chỉ khác chút ít, người đời yêu chuộng phần nhiều đều theo bản nhà Tần.  


Kế đây nói người giải thích kinh này. Về Luận thì có ngài Thiên Thân Bồ Tát làm ra bộ Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Giải thì có ngài Từ Ân làm lời Thông Tán, ngài Hải Ðông làm lời sớ, ngài Cô sơn làm lời sớ, cho đến ngài Ðại Hựu làm bộ Lược Giải ... 


Hoặc luận những kẻ xa vâng ý Phật, mở rộng tôn mầu, như là làm Luận làm Văn, làm Tập, làm Lục, làm Truyện, làm Kệ, làm Phú, làm Thi, lẫn nhau khen ngợi, số ấy không những số ức , đâu chẳng đinh ninh khẩn cáo, cảm khái, bi ca, khuyến cả chúng mê lưu đồng về con đường giác ngộ. Vậy chúng ta một phen xem đến, đâu chẳng ghi lòng !! 


Kế nói sự lợi ích của người tụng kinh này như "cuống lưỡi không hư, nhạc trời rước về Tịnh Ðộ", vừa giải oan, vừa vãng sanh. Tụng chưa hết quyển mà ngồi tịch; về Cực Lạc như vào Thiền Ðịnh; khi chết thấy hoa sen trắng, đài bạc đổi thành đài vàng, nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiến đến. 


Lại như biên chép kinh này thì cảm hóa được mọi người; diễn giảng thì có điềm lành chim Bạch Hạc. 


Cảm ứng hiện tiền thời xa thấy đất báu; quyết được vãng sanh thời kinh Niết Bàn chẳng sánh. Sự cảm ứng như đây, xưa nay thường thấy.  


Nói sự linh nghiệm của người trì danh hiệu Phật hoặc một niệm trong miệng bay ra một đạo hào quang, hoặc một tiếng trong miệng bay ra một vị Phật, hoặc niệm vang động cả rừng, hang, hoặc tiếng niệm thấu đến cung vua hoặc sáu thời kế tiếp niệm mà y báo, chánh báo đầy hư không, hoặc gạch chữ thập để nêu tâm mà được thánh hiền vào hội, cho đến đời nay có những danh lưu tiếp tục. 


Ðến như cảm được cứu hộ thời oan nghiệp đời trước cũng độ được, quỉ dữ chẳng dám xâm; đặng linh ứng thời như mắt mù sáng lại, kẻ tù được thoát nạn. 


Lại nữa, người ác siêu là như ông Trương Thiện Hòa niệm mười tiếng Phật, tướng địa ngục hiện trước mắt liền tiêu mà được hóa, Phật rước ở giữa hư không.


Loài súc sanh như chim cù dục xưng danh hiệu Phật mà hình hài chôn rồi, sau trên mộ mọc hoa sen. Huống chi là thân người không tội ác mấy! Và được phước báu gọi là tối linh; thêm đủ Tín và Nguyện đều tu; đâu thành luống bỏ. 


Thế nên một lời vừa xướng, ngàn Phật đồng khen.  Bực tam học cao tăng, trang cửu lưu danh đức, hoặc u hoặc hiển, hoặc Thánh, hoặc phàm, như muôn sông đâu lại chẳng chảy về biển Ðông; cũng ví như các ngôi sao thảy đều về chầu sao Bắc Ðẩu . Sánh với đường tắt, gọi là Phổ Môn, lời đâu có dối. Vậy phải quyết chí cầu sanh, không nên nghĩ nghị gì nữa. 



TỔNG THÍCH DANH ÐỀ NGƯỜI DỊCH



PHẬT THUYẾT A DI ÐÀ KINH



SỚ: Ðề nghĩa có bốn: 


1. Phật năng thuyết; 

2. Chính đương thuyết;  

3. Phật bị thuyết; 

4. Tổng kết tên ai thuyết.


Nghĩa là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi này nói kinh này kể y báo, chánh báo trang nghiêm, tín, nguyện được vãng sanh về nước Phật A Di Ðà ở cõi kia. Tổng quát đại ý, lần lượt sẽ chia ra giải như sau đây:


SAO: "Tổng-quát" là: Trước lược nêu toàn văn, để cho mạch văn thông suốt, ý nghĩa đầy đủ, sau tuần tự mỗi mỗi giải riêng. Ðầu đề chỉ nói tên Phật, mà sau đây lại nói cả y báo, chánh báo ... là gì? Trong Quán kinh dạy: “Nói Phật là đủ, cho nên nói Phật là gồm thâu tất cả”.  



SỚ: Lần lượt chia ra giải: Chữ "Phật" nói đủ theo tiếng Phạn là: Phật Ðà (bực đã giác ngộ), Tàu dịch là Giác Giả vì đủ ba nghĩa Giác; lại dịch: Trí Giả. Bởi vì không chỗ nào mà ngài chẳng biết. Lại chữ Phật là một hiệu trong mười hiệu (từ Như Lai, Ứng Cúng ... cho đến Thế Tôn). Lại trong kinh Thập Ðịa nói: “Chữ Phật có mười nghĩa”. Tổ Thiên Thai Trí Giả nói: “Chữ Phật có sáu nghĩa”; còn kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật có đủ mười thân”. Cho nên nói đức Phật là Trời trên các hàng trời; Thánh trên các bực Thánh. Phàm chỗ nào nói riêng một chữ Phật tức là chỉ ngay đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vậy.   

  

SAO: Chữ Phạn: nghĩa trong sạch. Ðối với chữ Tàu nói Phạm là nghĩa văn chất đều có đủ.


Chữ "Cụ" là Cụ Túc. Nói đủ theo tiếng Phạn (Brahma) thì nói Phật đà (Buddha). Nay không nói chữ "Ðà" là bớt văn. Nếu dịch theo tiếng nước Tàu thì ta đọc là bực Giác, vì đối với chúng sanh mê mà nói ngài là Giác. Song Giác có ba nghĩa:


1. Tự-giác khác với Phàm phu. 

2. Giác-tha khác với Nhị thừa. 

3. Giác-mãn khác với Bồ tát.


Ba giác đầy đủ nên nói Ngài là Tự, Tha, Giác mãn.


Lại ly vọng tâm là Tự Giác; ly sắc trần là Giác Tha; ly cả hai: vọng tâm, sắc trần, gọi là Giác Mãn cũng là nghĩa tam giác. Lại nói là Trí Giả; Trí tức là nghĩa Giác.  


Câu "không chỗ nào mà ngài chẳng biết" là trong Luận Trí Ðộ nói:  “Ngài biết tất cả chúng sanh và chẳng phải số chúng sanh, thường và vô thường , vì cái trí của Ngài không chỗ nào mà Ngài chẳng biết, nên xưng tụng Ngài là ông  "Ðắc Nhứt Thế chủng trí",  tức là nghĩa Giác mãn ...         

Câu "Mười hiệu" là đức Thế Tôn đủ cả muôn đức, không thể nói cho hết. Nay chỉ lược nói từ hiệu Như Lai cho đến hiệu Phật cộng có mười hiệu, mà Phật chính là một hiệu trong mười hiệu. Vì có đủ mười đức đây, là chỗ tôn chủ của cả thế gian và xuất thế gian nên gọi là Thế tôn. 

   

Nói Phật có mười nghĩa là: Ðủ hai trí căn bản trí  và hậu đắc trí , đoạn hai chướng phiền não chướng  và sở tri chướng . Giác chơn đế  và tục đế , đặng hai lợi: tự lợi và lợi tha. Và hai ví dụ: Mộng giác và Hoa khai, hiệp làm mười nghĩa. 

  

Chữ "Phật" có sáu nghĩa: Ðầu tiên là lý tức Phật (nói tất cả chúng sanh sẵn có Phật tánh), rốt sau là cứu cánh tức Phật (nói quả vị Diệu Giác).  Số là ban đầu thì toàn giác, bị toàn mê chặng giữa. Giác mà chưa thiệt Giác, rốt sau mới thiệt hoàn toàn không chỗ nào mà không giác. Nay nói chữ Phật đây là chỉ ngay ông Phật cứu cánh toàn giác vậy.


Phật có mười thân là: Thứ nhứt Chánh Giác Phật đến thứ mười Tùy Nhạo Phật, rõ đủ trong phẩm Ly thế gian. Mười thân Phật đây, duy trong kinh Hoa Nghiêm có nói. 

      

Song tóm chỗ đại yếu, dầu mấy thân cũng chẳng ra ngoài nghĩa Giác Mãn, cho nên nói mười thân được viên mãn, ngôi Chánh Giác mới thành tựu, gọi là Viên Mãn Phật.  

 

"Trời trên các hàng trời" là: Trời có bốn cảnh giới: 


1. Trời thế gian:  Các vị vua trong nước. 

2. Trời sanh Thiên: Các Trời trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. 

3. Trời Tịnh Thiên: Các thánh Tứ quả: Bích Chi Phật. 

4. Trời Nghĩa Thiên: Các thánh Thập Trụ Bồ tát.

       

Với bốn trời nói trên đây, Phật đều siêu vượt hơn cả nên nói Phật là Trời trên các hàng Trời.

         

“Thánh trên các hàng Thánh” là: Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, tuy đã chứng quả Thánh mà chưa hơn. Duy có Phật là quả cực điểm nên nói:  Phật và Thánh trên các hàng Thánh. 


Tức đức Thích Ca là: Với đời quá khứ, đời vị lai, hãy nêu lên ông Phật chi? Tức đức Thích Ca hiện ngồi chốn đạo tràng nên chỉ xưng một mình ngài vì trong một cõi không hai vị Phật, dụ như: Ðế vương triều đại thời xưa, phải xưng gọi có một quốc hiệu, còn với nhà cầm quyền thời nay thì chỉ xưng gọi ngay là đấng Chí Tôn, cũng bởi cớ trong một nước không có hai vua, hay hai ông quốc chủ.  

 

Như vậy thì đủ hiểu: Phàm chỗ nào nói một chữ Phật tức chỉ ngay cho thái tử Tất Ðạt Ða tu thành Phật hiệu Thích Ca là Phật thứ tư trong Hiền kiếp (kiếp hiện tại) này vậy. 

 

     

SỚ: Chữ (Thuyết) là đẹp, là vui đẹp trong lòng, vì bốn biện tài tuyên diễn từ 12 bộ kinh luôn đến bốn món Tất Ðàn đều là nghĩa thuyết cả. 

   

SAO: “Vui đẹp trong lòng” là gì? Bản nguyện độ sanh của Phật nhằm cơ thuyết pháp vui đẹp trong lòng. Như trong kinh Ðại Bổn nói: “Ðức Thế Tôn muốn thuyết kinh này, trước khi nói, các căn đã ửng đỏ, gương mặt vui tươi khác thường”. Huống chi nay pháp trì danh niệm Phật đây đã nhằm cơ mà thuyết, sự vui thích biết chừng nào.    


Bốn pháp biện tài là: Nghĩa biện, Pháp biện, Từ biện và Nhạo thuyết biện tài. Cả 4 món đều không ngần ngại nên nói là thuyết.  

    

Bộ Trung Luận nói: “Các đức Phật y hai Ðế (Chơn đế và Tục đế) để vì chúng sanh thuyết pháp”. Có trí: Từ (lời) không ngại, vì lấy trí thế gian để nói về sự sai biệt, có trí nhạo thuyết (thích nói) không ngại vì lấy trí đệ nhứt nghĩa để nói về sự hay khéo.  


Trong đây không nói hai điều: Nghĩa biện và Pháp biện, là vì nói hai pháp sau này gồm luôn cả hai pháp trước. Bởi Từ biện và Nhạo thuyết biện đã gồm nhiếp Nghĩa biện và Pháp biện rồi.  


Mười hai bộ kinh (phần giáo) ... là pháp bị thuyết.

       

Chữ "Tất Ðàn" hiệp cả tiếng Hoa và tiếng Phạm là Biến Thí. Ðã dùng bốn môn: Thế giới; Vị Nhơn; Ðối Trị; và Ðệ Nhứt Nghĩa làm bốn điều lợi ích chúng sanh là: Hoan hỉ, sanh thiện, diệt ác và vào Ðạo.   

 

Mười hai bộ kinh với tất cả các pháp, tùy trường hợp mà thuyết có vô lượng phương tiện. Song tóm tắt cũng chẳng ngoài: thế giới, luôn bốn thuyết Tất Ðàn làm cho người đặng hoan hỉ ... bốn điều lợi ích mà thôi. Xem cơ trao pháp, văn kia nhiều và rộng, lược nói không hết.



SỚ: Phật thuyết là: Vì lựa riêng giữa năm người thuyết.      

SAO: Năm người là Phật, Bồ Tát, Trời, Tiên, hóa nhơn. Năm người đây đều thuyết kinh được. Nhưng nay nói rõ kinh nầy là vị chí thánh lập lời, chính lời kim khẩu của Ngài thuyết, chẳng đồng với các hàng Bồ Tát còn ở khoản tu nhơn. Trời thuộc loại phàm, Tiên xen với ngoại đạo, hóa nhơn chẳng phải thiệt người. 


Dụ như lời chiếu của vị thiên tử đâu có đồng với hàng bá quan tể tướng cùng lời các ông vua trong các nước nho nhỏ.  



SỚ: A Di Ðà là nêu rõ đức Phật ở cõi kia. Tiếng Phạm "A" dịch "Vô".  Tiếng Phạm Di Ðà dịch "lượng". Nghĩa là, công đức của Ngài không thể cùng tột. Cho nên nói rằng: Vô Lượng. Như trong kinh nói:  “Thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng” là trong những vô lượng, chỉ nói vài việc, gồm các công đức kia vậy.   

  

SAO: Vô lượng có hai nghĩa: 

              

1. Ðông nhiều không có số lượng.               

2. Rộng lớn không có hạn lượng. 

      

Lại có hai nghĩa:  

           

1. Vô lượng là một trong 10 con số lớn (kinh Hoa Nghiêm có đủ).  

2. Vô lượng là lại vô cùng tận.  

     

Chỉ nói có vài việc là: Với vô lượng chẳng những thọ mạng và quang minh mà thôi. Rõ như trong văn sau có biện.


     

SỚ: Chữ kinh. Tiếng Phạm nói Sutra (Tu Ða La), Tàu dịch: “Khế kinh”, có Thông và Biệt hai nghĩa. Chữ Khế cũng có hai nghĩa. Chữ Kinh lại có nhiều nghĩa. Kinh tuy có nhiều nghĩa, nhưng chẳng ngoài bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp.  

        

SAO: Thông, Biệt là: Những giáo pháp bị Phật thuyết chung kêu là:  Tu Ða La, đó là nghĩa Thông. Nếu chia ra thời: Kinh là Tu Ða La, Luật là Tỳ Nại Da, Luận là A Tỳ Ðàm; đó là nghĩa Biệt.  

       

Chữ "Khế", có hai nghĩa là: 


1. Khế lý: Lời nói hợp với đạo lý. 

2. Khế cơ:  Giáo pháp hợp với căn cơ. 


Nay bỏ chữ Khế chỉ nói chữ Kinh là bớt văn vậy.  

        

Chữ "Kinh", lại có nhiều nghĩa là: Kinh Hoa Nghiêm, lời SỚ dẫn tạp tâm có năm nghĩa: 


1. Xuất sanh;  

2. Hiển thị;  

3. Dũng tuyền;  

4. Thằng mặc;  

5.  Kiết man. 


Luận Phật Ðịa nói có 2 nghĩa:  


1. Quán xuyến;  

2. Nhiếp trì.       


Phương đây (Tàu) có bốn nghĩa: 


1. Thường; 

2. Pháp; 

3. Cảnh; 

4.  Ðiển, cho nên nói có nhiều nghĩa.  

   

Câu “Không ngoài bốn nghĩa” là chỉ cho bốn chữ Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Bởi vì chữ kinh, bên Tây Vức dịch là Tuyến (sợi chỉ).  Tuyến có nghĩa là Quán Trì. 


Quán là xâu xỏ, những giáo lý bị thuyết. Trì là: Thâu giữ những chúng sanh được giáo hóa khỏi đọa. Hai nghĩa đây gồm đủ năm nghĩa:  Xuất sanh, Hiển thị v.v... nói trên. Nhưng kinh điển phương này (Tàu) cũng kêu là Kinh. Kinh là nghĩa Tuyến. Song nước Tàu không quý chữ Tuyến nên chỉ nhận chữ Kinh lại thêm chữ Khế. Thường: Xưa cho vậy là đúng đắn. Lại chữ  "Thường" là:  Xưa nay không đổi. Chữ Pháp là: Gần xa đồng tôn. Chữ "Thường" là: Lâu mà vẫn tuân hành theo, có nghĩa chung nói, tức là Cảnh (con đường).        

Chữ "Pháp" là: Pháp tắc chơn chánh có nghĩa nhứt định, tức kêu là Ðiển (khuôn mẫu). Cũng có hai nghĩa: Thường và Pháp đây gồm đủ hết bốn nghĩa kia (Thường, Pháp, Cảnh, Ðiển). Thế thời cõi kia (Ấn Ðộ) nói Quán và Nhiếp cũng như phương này (Tàu) gọi Thường và Pháp; hiệp chung lại mà nói: “Ở trong bốn chữ, đều đủ nghĩa Kinh vậy”.  



SỚ: Lại chữ "kinh" còn có hai nghĩa Thông và Biệt. Một chữ "Kinh" gọi là Thông (chung). Còn năm chữ "Phật Thuyết A Di Ðà" gọi là Biệt (riêng). Chí như  Giáo, Hành và Lý, Thông và Biệt cũng thế. Ba chữ đây (Giáo, Hành, Lý) tức phối với ba đức (Pháp thân, Bát Nhã, Giải thoát) viên dung cụ túc. Như Ngài Thiên Thai nói: “Vừa nghe đầu đề tên kinh, công đức đã vô lượng”. Bằng phối với ba đại, thời Phật là thể đại, Vô Lượng Thọ là tướng đại, Vô Lượng Quang là dụng đại như trong phần giáo đã nói.   


SAO: Giáo, Hành, Lý là gốc do nơi Lý mà lập Giáo; y nơi Giáo để tu hành, nhờ tu hành mà rõ được Lý. Các kinh đều đủ cả ba: Giáo, Hành, Lý, nên gọi là "thông" (chung). Bằng chuyên chỉ riêng kinh này thì hai chữ:  "Phật thuyết” là Giáo. Bốn chữ "chấp trì danh hiệu" là Hành. Ba chữ: "A Di Ðà" là Lý. Theo đây khác với trên nên gọi kinh này là "Biệt" (riêng).  

  

Phối với ba đức là. 


1. Lý tức là Pháp thân;  

2. Giáo tức là Bát Nhã; 

3.  Hành tức là Giải Thoát.   

      

Lại Lý thông cả Hành và Giáo thì Pháp thân tức là Bát Nhã và Giải Thoát, cho đến hành thông cả Lý và Giáo, hay theo Giáo thông cả Lý và Hành chẳng hạn. Nói một tức là ba; so trên nên biết.  


Thể, Tướng và Dụng: Chữ Thể là Tổng Thể, nghĩa là nói Phật thì đủ biết, cho nên lấy chữ "Phật" làm thể.   

  

Chữ Tướng là trong Thể sẵn đủ các Tướng. Thể vô tận, Tướng cũng vô tận, cho nên lấy ba chữ "Vô Lượng Thọ" làm Tướng. 

     

Chữ Dụng là trong Thể phát sanh Dụng. Thể chiếu tới đâu Dụng cũng chiếu tới đó, cho nên lấy ba chữ "Vô Lượng Quang" làm Dụng, hoặc Thông hoặc Biệt cũng so như trên. 


 

SỚ: Các kinh lập danh đề, phần nhiều lấy cả ba món Nhân, Pháp và Dụ. Hoặc có kinh dùng một, hoặc có kinh dùng hai. Kinh này riêng dùng một Nhân (người). Người lại có hai, vì người chứng quả trong hai cõi, thiệt ra thời cả ba: Nhân, Pháp và Dụ đều dung thông.


SAO: Một hai là như kinh "Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm" đầy đủ cả ba: Nhân, Pháp và Dụ. Kinh Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân có Nhân và Pháp, không Dụ. Kinh "Diệu Pháp Liên Hoa" có Pháp, Dụ mà không Nhân. Kinh "Bồ Tát Anh Lạc" có Nhân, Dụ mà không Pháp. Kinh “Ðại Bát Nhã" có Pháp mà không Nhân, Dụ. Kinh "Phạm Võng" có Dụ mà không Nhân và Pháp. Nay kinh này đây chỉ có Nhân mà không Pháp và Dụ. Các kinh khác đều so theo đây, sẽ rõ.


Người chứng quả trong hai cõi là Bồ Tát tại Nhân, Như Lai tại Quả, nên Phật gọi là quả nhân. Nay đức Phật Thích Ca ở phương này (Ta Bà) giới thiệu Phật A Di Ðà ở nước kia (Cực Lạc).

    

“Dung thông” là vì nói một tức ba. Như kinh Di Ðà này mặc dầu riêng thuộc một nhân. Nhưng có Nhân mới nói Pháp, có Nhân mới lập Dụ. Tuy rằng lời thiên, nhưng nghĩa viên, chung đồng lẫn suốt lý cố nhiên như vậy.   


   

SỚ: Nguyên kinh nầy tên là "Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm". Nay, ngài La Thập cải đính lại có hai nghĩa: 


1. Phật nhiếp vô tận nghĩa cố. 

2. Bỉ Phật nhơn sở nhạo văn cố.   

      

SAO: “Nhiếp vô tận” là như văn trước nói Phật là đủ, thời tất cả công đức đều từ Phật mà ra, vì Phật là bất khả tư nghì. Lại Di Ðà là vạn đức hồng danh, tất cả chúng sanh trong mười phương ba đời đều ưa thích. Trên từ chư Phật đều tán thán, dưới đến ngạ quỉ súc sanh cũng đều ham mộ quy y; chính là bất tư nghì công đức.        



SỚ: SỚ SAO là gì?  Lời SỚ để giải nghĩa kinh; lời SAO để giải lại nghĩa của lời SỚ cho dễ hiểu.

          

SAO:  Xưa nói "SỚ" có hai nghĩa: Riêng bày và ghi nhớ. Nay nói nghĩa kinh đây được rõ bày mà khuất ẩn, ghi nhớ mà chẳng sót và quên. “SAO" xưa nói có hai: Tóm lấy và biên chép. Tóm lấy thời riêng bày chỗ thiết yếu.  Biên chép tức ghi nhớ cho rõ ràng. Chữ "ký" là trông mong. Phàm nghĩa kinh khó hiểu, nhờ lời SỚ giải thông. Lời SỚ khó hiểu, nhờ lời SAO nói ra rành mạch, trông mong mỗi người hiểu rõ nghĩa kinh! 



SỚ: Xứng lý thời tự tánh Giác là nghĩa chữ "Phật". Tự tánh giác vô lượng là nghĩa "A Di Ðà". Tự Bổn, Thỉ đều giác là nghĩa hai người chứng quả trong hai cõi.  Tự tánh thể giác khắp soi là nghĩa thuyết kinh, sau cũng lệ theo đây.  


SAO: Xứng lý là do tức sự tức lý, chỗ gọi rằng gồm thâu muôn loài, tức là nhứt tâm, thời y báo, chánh báo đâu chẳng phải tự tánh? Lại tức lý là sự y nơi lý mà thành. Như kinh "Tịnh Danh" nói: "Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh". Nay kinh này nói: “Nhứt tâm bất loạn” tức tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ, là tông chỉ trong bộ kinh này, nói tóm hiệp với lý, nên gọi là xứng lý. 

   

Chữ Giác là nghĩa tổng. Trong thể chữ Giác rộng lớn thênh thang vô cùng tận là nghĩa biết Bổn, Thỉ có hai nghĩa. Luận theo trước sau mà nói:  Thời Phật A Di Ðà là cổ Phật, đức Thích Ca là Phật mới thành, thế thì Phật kia là Bổn, Phật đây là Thỉ; tức tự tánh bản lai sẵn có Phật là "Bổn', bị vô minh che lấp nay mới phá hoặc chứng trí là 'Thỉ'. Luận về nhơn quả mà nói:  Thời Phật đây (Thích Ca) dạy bảo vãng sanh mới được thấy Phật A Di Ðà, là đây Bổn kia Thỉ, tức là tự tánh sẵn có trí thành Phật là Bổn. Y nơi Bổn trí mà tìm Phật trí mới đặng thành Phật là Bổn, Thỉ lẫn Thông, thường giác bất muội, sáng cả trời, chói soi cả đất, xưa suốt nay, thường nói kinh trăm ngàn muôn ức pháp hội, như vậy.  

   

Hỏi: Lời SỚ SAO kinh này chính là phát huy công đức trì danh, khắp khuyên mỗi người cầu sanh về cõi kia, thế SAO cứ mỗi mỗi tiêu qui về tự tánh, thế là phương pháp trì danh trở thành lời cực tắc (quá cao), rõ ràng Tịnh Ðộ là tâm, hà tất bỏ đây nguyện về kia làm gì? 

   

Ðáp: Ðây chính là trùm cả hai căn, phá cả hai hoặc như trong bài tự trước đã rõ. Bởi do độn căn chấp nơi sự tướng mà cho là đủ. Xem kinh này khiến cho họ biết 'sự ' còn có 'lý', chớ chấp sự mà bỏ lý. Người lợi căn chuộng lý tánh mà chấp không, xem kinh này khiến cho họ biết lý còn ở trong sự, chớ nên bỏ sự chỉ tìm lý.   

 

Lại kinh này vốn vì mượn hai chữ danh hiệu của Phật kia để chỉ rõ tự tâm của mình, cũng đồng ý với kinh Thập Lục quán. Thời những người muốn ngộ tâm mình, chính phải niệm Phật cầu vãng sanh.  


Lại, vị Bồ Tát còn phải gần Phật như trong khoa Giáo Khởi trước đã nói. Thế thời người đã ngộ tâm mình, cũng chính phải niệm Phật cầu sanh, có chi phải nghi vậy?!  

  

Lại, kinh 'Duy Ma' nói: “Tuy biết cõi nước của chư Phật cùng với chúng sanh là không, vì nhơn duyên giả có, nhưng thường tu Tịnh Ðộ và giáo hóa chúng sanh” cho nên lo là lo với tâm mình mà mình chẳng ngộ vậy thôi. Nếu tâm mình mà mình đã tỏ ngộ rồi thời không có một Pháp nào ra ngoài tự tâm. Bấy giờ tức tâm là cảnh, tức cảnh là tâm, vãng sanh về Tịnh Ðộ, ra mắt Phật Di Ðà, đã chẳng ngại chi với duy tâm, mà cũng không hệ gì với tự tánh!    

Lại hỏi: Người xưa nói kinh Hoa Nghiêm là kinh cực giáo tối thượng thừa, đều có thể tu theo phép quán hạnh để rõ các pháp môn thì chẳng nói chi; còn từ kinh Phương Ðẳng sắp xuống (trong Tiểu thừa) cũng bảo tu pháp quán hạnh làm sao được?   

 

Cổ đức đáp: Các kinh liễu nghĩa (Ðại thừa) cùng kinh bất liễu nghĩa (Tiểu thừa) cũng đều là liễu nghĩa cả vì chỉ có một cái tâm mà thôi. 

 

Căn cứ theo đây, thời bực viên cơ đối với các kinh giáo, kinh giáo nào mà chẳng viên; những bậc đã nhận được lý tâm khi gặp sự thì sự gì chẳng đúng lý?



Ðời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch



SỚ: Dao Tần là nêu cái đời. Tam Tạng là rõ cái đức, La Thập là tên ngài.  Một chữ 'dịch' là kết thành người năng dịch. 

       

SAO: Chỗ xuất sư: từ đầu chí cuối đã đủ ở văn trước, đây không chép lại nữa. Xưa nói ngài La Thập đã làm pháp sư dịch kinh từ bảy đức Phật đến nay. 


Song đây cũng nói lược và lấy bảy đức Phật mà nói tóm thôi. Nếu luận cho đúng thời từ Phật Tỳ Bà Thi cho đến Phật Thích Ca, trước sau chỉ trải có hai đại kiếp Trang Nghiêm (quá khứ) còn trên chín kiếp, đã trải biết mấy muôn vị Phật, và chư Phật trong 6 phương không vị nào mà chẳng tán thán kinh này. Thế thì từ một muôn vị Phật trở lại đây, chắc cũng đều có nói kinh này và chắc cũng đều có người dịch ?

    

Mà trong kinh nói 'Mẹ Phật' là nói mỗi đời vị Phật nào giáng sanh, ta (bà Ma Gia) đều làm mẹ đấy. Con Phật thì nói: “Mỗi đức Phật ra đời, ta (La Hầu La) đều làm con đấy”. So đó, thời biết ngài La Thập làm pháp sư dịch kinh, chẳng những bảy lớp Phật! Mà kinh này lưu thông lâu xa, đối với đây càng thêm tin. 


 

SỚ: Xứng lý thời tự tánh dung thông rỡ rỡ, là nghĩa tiếng Trung Hoa dịch nơi tiếng Phạn. 

       

SAO: Tức Phạn dùng thành Trung Hoa, thời Hiển chẳng ngoài Mật.  Chính Hoa chưa từng chẳng phải Phạm là nghĩa Mật vẫn ở bên Hiển. Ngay trong tối có sáng, ngay trong sáng có tối, tối sáng, lẫn nhau lớp lớp, xen vào thể mầu dung thông, không đồng và chẳng khác (bất nhứt bất dị).           



BIỆT GIẢI VĂN NGHĨA



1.  TỰ PHẦN


Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Ðức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Ðộc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là:


Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Ðại Mục-Kiền-Liên, Ðại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða, Châu-Lợi-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Ðề, Tân Ðầu-Lư-Phả-La-Ðọa, Ca-Lưu-Ðà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Ðà, những vị đại đệ tử như thế.


Và hàng Ðại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Ða Bồ Tát, Càn-Ðà-Ha-Ðề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát… cùng với các vị Ðại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Ðề-Hoàn-Nhơn... đại chúng cùng đến dự hội.


Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Ðà hiện nay đương nói pháp.



Như th ngã văn: Nht thi Pht ti Xá-v quc, Kỳ th Cp-cô-đc viên, d đi Tỳ-kheo tăng, thiên nh bá ngũ thp nhơn câu, giai th đi A-La-hán, chúng s tri thc:



Trưởng-lão Xá-Li-Pht, Ma-ha Mc-kin-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-li bàn-đà-dà, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hu-la, Kiu-phm-ba-đ, Tân-đu-lô-ph-la-đa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như th đng chư đi đ t, tinh chư B-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-li pháp-vương-t, A-dt-đa B-tát, Càng Đà-ha-đ B-tát, Thường-tinh-tn B-tát, d như th đng, chư đi B-tát; cp Thích-đ-hoàn nhơn đng, vô-lượng chư thiên, đi-chúng câu.



Nhĩ thi Pht cáo Trưởng lão Xá-Li-Pht: "Tùng th Tây-phương quá thp vc Pht-đ, hu thế-gii danh viết Cc-lc kỳ đ hu Pht hiu A-Di-Đà, kim hin ti thuyết-pháp".



2.  CHÁNH TÔNG PHẦN


Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?


Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. 


Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. 


Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.


Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.


Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. 


Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.


Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. 


Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.


Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần... Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!


Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?


Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Ðà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. 


Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.


Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.


Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðức Phật đó vì sao hiệu là A Di Ðà?


Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Ðà.


Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Ðà. 


Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật A Di Ðà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.


Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.


Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.


Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!


Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.


Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ.


Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.


Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.


Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Ðà. 


Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.


Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.



Xá-Li-Pht! B đ hà c danh vi Cc-lc? Kỳ quc chúng-sanh vô hu chúng kh, đn th chư lc, c danh Cc-lc. Hu Xá-Li-Pht! Cc-lc quc đ, tht trùng lan thun, tht trùng la-võng, tht trùng hàng th, giai th t bo, châu tráp vi nhiu, th c b quc danh vi Cc-lc.



Hu Xá-Li-Pht! Cc-lc quc đ, hu tht bo trì, bát công-đc thy, sung mãn kỳ trung, trì đ thun dĩ kim sa b đa, T biên giai đo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hip thành; thượng hu, lâu các, dic dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-c, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sc chi. Trì chung liên-hoa, đi như xa luân, thanh sc thanh quang, huỳnh sc huỳnh quang, xích sc xích quang, bch sc bch quang, vi diu hương khiết.



Xá-Li-Pht! Cc-lc quc đ thành tu như th công đc trang nghiêm.



Hu Xá-Li-Pht! B Pht quc-đ thường tác thiên nhc, huỳnh kim vi đa, trú d lc thi, vũ thiên mn-đà-la hoa, kỳ đ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thnh chúng diu hoa cúng dường tha phương thp vc Pht, tc dĩ thc thi hườn đáo bn quc, phn thc kinh hành.



Xá-Li-Pht! Cc-lc quc đ thành tu như th công đc trang-nghiêm.



Phc th Xá-Li-Pht! B-quc thường hu chng chng kỳ diu, tp sc chi điu: Bch-hc, Khng-tước, Anh-võ, Xá-li, Ca-lăng-tn-già, Cng-mng chi điu, th chư chúng điu, trú d lc thi, xut hòa nhã âm, kỳ âm din xướng: ngũ-căn, ngũ-lc, tht-b phn, bát-thánh-đo phn, như th đng pháp, kỳ đ chúng-sanh văn th âm dĩ, giai tt nim Pht, nim Pháp, nim Tăng.



Xá-Li-Pht! Nh vt v th điu, thit th ti báo s sanh. S dĩ gi hà? B Pht quc-đ vô tam ác đo. Xá-Li-Pht! Kỳ Pht quc-đ thượng vô ác đo chi danh, hà hung hu thit, th chư chúng điu, giai th A-Di-Đà Pht dc linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa s tác.



Xá-Li-Pht! B Pht quc-đ vi phong xuy đng, chư bo hàng th, cp bo la võng, xut vi diu âm, thí như bá thiên chng nhc đng thi cu tác, văn th âm gi, t nhiên giai sanh: nim Pht, nim Pháp, nim Tăng chi tâm. Xá-Li-Pht! Kỳ Pht quc-đ, thành tu, như th công-đc trang-nghiêm.



Xá-Li-Pht! Ư nh ý vân hà? B Pht hà c hiu A-Di-Đà? Xá-Li-Pht! B Pht quang-minh vô-lượng, chiếu thp phương quc, vô s chướng ngi, th c hiu vi A-Di-Đà.



Hu Xá-Li-Pht! B Pht th mng, cp kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, c danh A-Di-Đà.

Xá-Li-Pht! A-Di-Đà Pht thành Pht dĩ lai, ư kim thp kiếp.



Hu Xá-Li-Pht! B Pht hu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đ-t, giai A-la-hán, phi th toán s chi s năng tri; chư B-tát chúng dic phc như th.



Xá-Li-Pht! B Pht quc đ thành-tu như th công-đc trang-nghiêm.



Hu Xá-Li-Pht! Cc-lc quc-đ chúng-sanh sanh gi, giai th a-b-bt-trí, kỳ trung đa hu nht sanh b x, kỳ s thm đa phi th toán s, s năng tri chi, đn kh dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết.



Xá-Li-Pht! Chúng-sanh văn giưng đương phát nguyn, nguyn sanh b quc. S dĩ gi hà? Đc d như th chư thượng thin-nhơn câu hi nht x.



Xá-Li-Pht! Bt kh dĩ thiu thin-căn phước-đc nhơn-duyên, đc sanh b quc.



Xá-Li-Pht! Nhược hu thin-nam t, thin-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Đà Pht, chp trì danh-hiu, nhược nht nht, nhược nh nht, nhược tam nht, nhược t nht, nhược ngũ nht, nhược lc nht, nhược tht nht, nht tâm bt lon. Kỳ nhơn lâm mng chung thi, A-Di-Đà Pht d chư Thánh-chúng, hin ti kỳ tin, th nhơn chung thi, tâm bt điên-đo, tc đc vãng-sanh A-Di-Đà Pht Cc-lc quc-đ.


Xá-Li-Pht! Ngã kiến th li, c thuyết th ngôn, nhược hu chúng-sanh văn th thuyết giưng đương phát nguyn, sanh b quc đ.



3.  LƯU THÔNG PHẦN


Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Ðà, phương Ðông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Ðại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Ðăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Ðăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Ðạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.


Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Ðại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Ðức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”. 


Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?


Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.


Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.


Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Ðà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.


Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.


Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: “Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.


Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!



Xá-Li-Pht! Như ngã kim gi, tán thán A-Di-Đà Pht bt kh tư ngh công-đc chi li.


Đông phương dic hu A-súc-b Pht, Tu-di-tướng Pht, Đi-tu-di Pht, Tu-di-quang Pht, Diu-âm Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h-nim kinh".



Xá-Li-Pht! Nam phương thế-gii hu Nht-Nguyt-Đăng Pht, Danh-Văn-Quang Pht, Đi-Dim-Kiên Pht, Tu-Di-Đăng Pht, Vô-Lượng Tinh Tn Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th, xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h nim kinh".


Xá-Li-Pht! Tây-Phương thế-gii hu Vô-Lượng-Th Pht, Vô-Lượng-Tướng Pht, Vô-Lượng-Tràng Pht, Đi-Quang-Pht, Đi-Minh Pht, Bo-Tướng Pht, Tnh-Quang Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th, xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h nim kinh".



Xá-Li-Pht! Bc phương thế-gii, hu Dim-Kiên Pht, Ti-Thng-AÂm Pht, Nan-Thơ Pht, Nht-Sanh Pht, Võng Minh Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th, xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h-nim kinh".


Xá-Li-Pht! H phương thế-gii, hu Sư-T Pht, Danh-Văn Pht, Danh-Quang Pht, Đt-Ma Pht, Pháp-Tràng Pht, Trì-Pháp Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th, xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h nim kinh".


Xá-Li-Pht! Thượng phương thế-gii, hu Phm-AÂm Pht, Tú-Vương Pht, Hương-Thượng Pht, Hương-Quang Pht, Đi-Dim-Kiên Pht, Tp-Sc-Bo-Hoa-Nghiêm thân Pht, Ta-La-Th-Vương Pht, Bo-Hoa-Đc Pht, Kiến-Nht-Thiết-Nghĩa Pht, Như-Tu-Di-Sơn Pht; như th đng hng hà sa s chư Pht, các ư kỳ quc, xut qung trường thit tướng, biến phú tam-thiên đi-thiên thế-gii, thuyết thành thit ngôn: "Nh đng chúng-sanh đương tín th, xưng tán bt kh tư-ngh công-đc nht thiết chư Pht s h nim kinh".


Xá-Li-Pht! "Ư nh ý vân hà? Hà c danh vi: Nht thiết chư Pht s h nim kinh"?


Xá-Li-Pht! Nhược hu thin-nam t, thin-n nhơn văn th kinh th trì gi, cp văn chư Pht danh gi, th chư thin-nam t, thin-n nhơn, giai vi nht-thiết chư Pht chi s h nim, giai đc bt thi chuyư a-nu-đa-la tam-miu tam-b. Th c Xá-Li-Pht! Nh đng giai đương tín th ngã ng, cp chư Pht s thuyết.


Xá-Li-Pht! Nhược hu nhơn dĩ phát nguyn, kim phát-nguyn, đương phát nguyn, dc sanh A-Di-Đà Pht quc gi, th chư nhơn đng giai đc bt thi chuyư a-nu-đa-la tam-miu tam-bư b quc đ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh.



Th c Xá-Li-Pht! Chư thin-nam t, thin-n nhơn, nhược hu tín giưng đương phát nguyn sanh b quc đ.


Xá-Li-Pht! Như ngã kim gi, xưng tán chư Pht bt kh tư ngh công-đc, b chư Pht đng, dic xưng tán ngã bt kh tư ngh công-đc nhi tác th ngôn: "Thích-Ca Mâu-Ni Pht năng vi thm nan hy hu chi s, năng ư Ta-bà quc-đ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phin-não trược, chúng-sanh trược, mng-trược trung đc a-nu-đa-la tam-miu tam-b, v chư chúng-sanh, thuyết th nht thiết thế-gian nan tín chi pháp.


Xá-Li-Pht! Đương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành th nan s, đc a-nu-đa-la tam-miu tam-b, v nht thiết thế-gian thuyết th nan tín chi pháp, th vi thm nan.



TIN NHẬN THỌ TRÌ



Ðức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La ... nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.


Pht thuyết th kinh dĩ, Xá-Li-Pht cp chư Tỳ-kheo, nht thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đng, văn Pht s thuyết, hoan-h tín th, tác l nhi kh.



PHT THUYT


KINH A DI ĐÀ


CHUNG




TỰ PHẦN 



1. Chng-Tín T

 

Ta nghe như vy: Mt thu n Ðc Ph nơi vườn Kỳ Th, cp Cô Ðc nước Xá-V,



SỚ: Riêng giải văn nghĩa: Ðã biết cái ý chung của đề rồi, nhưng chưa biết trong đó từ đầu chí cuối, lối văn như thế nào? Nay mới phân từng bài, giải từng câu khiến nghĩa văn tự Bát Nhã thông thấu lý thật tướng Bát Nhã.  Bởi vì tạm dùng lời hữu tận lược bày lý vô tận.  Ở trong ba phần, nay thuộc về Tự phần nghĩa phần của kinh này. 

       

Chữ Tự là  kể bày và mối mang vậy. Nghĩa là: Chưa vào chánh văn, trước kể bày cái mối mang của kinh này. Có hai lời tự: Chứng Tín và Phát Khởi.  Nay duy có lời tự chứng tín. Phàm Chứng Tín đều đủ sáu món thành tựu. Nay thuận theo văn, cân chỗ nhiều và ít, lại phân làm hai; trước nói Ngũ Cú Chứng, sau nói Liệt Chúng Chứng, hiệp lại thành sáu.  Ðây lại lệ theo trước tổng quát đại ý; sau mới chia ra để giải. 

   

Nghĩa là: Với pháp như thị (như vậy) ta theo Phật để nghe. Một thuở kia, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp nơi Kỳ Viên tại nước Xá Vệ. Vì lời đây là Phật dạy ông A Nan nói như vậy. Câu: “Như thị ngã văn' có 3 nghĩa: 


1. Nghĩa đoạn nghi. 

2. Nghĩa tức tránh (dứt sự tranh cãi). 

3. Nghĩa giản tà (để hiển chánh).  


SAO: “Văn tự Bát Nhã” nghĩa là đối với thật lý Bát Nhã không thể nói được, nhưng nay nhờ lời nói mà rõ đặng nên đức Phật dùng văn tự nói kinh.  Nay mượn văn tự mà giải thích. Song văn tự nó vốn không; tức là Chơn Như thật tướng. Cho nên ba món Bát Nhã văn tự, quán chiếu, thật tướng đều là dung thông lẫn nhau, không ngại gì với văn tự vậy.


Lược bày là lời nói không hết ý, nên nói rằng: “lược sáu món thành tựu”. “Phân phối hai khoa” là lệ như: ngũ uẩn và lục căn, hoặc hiệp sắc khai tâm, hoặc hiệp tâm khai sắc, tùy theo chỗ hợp không nhứt định một Pháp nào. “Phật dạy” là: trong bộ luận Trí Ðộ nói: “Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, Ngài có dạy ông A Nan rằng: “Tất cả đầu kinh đều để câu: 'Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại' nước nào xứ nào”. Ðó là do ông A Nan vì vâng theo lời trối dạy của Phật. 


“Ðoạn nghi” là khi ông A Nan kiết tập, trong chúng khởi ba điều nghi:  1. Nghi Phật sống trở lại. 2. Nghi ông A Nan thành Phật. 3. Nghi Phật ở phương khác đến nhập cho ông. Nay nghe nói câu: 'Như thị ngã văn' ba điều nghi liền dứt hết.   

   

“Tức tránh” là: Nói chữ “ngã văn” là không phải tự A Nan bịa nói ra.   “Giản tà” là nói chữ “như thị” là để khác với chữ A Ưu của ngoại đạo.  Như trong Luận Phật Ðịa nói pháp như thị. Ta trước từng nghe ý lánh sự lỗi lầm, tăng giảm, riêng khác, cũng là nghĩa ngăn dứt việc tranh cãi với nhau. 


 

SỚ: Chữ Như VNhư Thị là Tín thành tựu, như trong Luận Trí Ðộ nói:  “Hai chữ 'Như thị' lại làm hai nghĩa”. Có nhiều cách giải: Nếu cứ theo tông lựa nghĩa nhứt định; luận đứng về tông đây (Tịnh Ðộ tông) như:   Nhứt tâm bất loạn là Như; cứ thế mãi không sai là Thị. 

 

SAO: Luận Trí Ðộ nói: “Biển cả Phật pháp, tin là vào được”. Với việc tin thì nói việc ấy như thế (như Thị); với điều không thể tin thì nói: việc ấy không phải như thế (bất như thị).  

      

Ngài Triệu Công Giản nói: “Như Thị là lời tín thuận vậy”. Cho nên người đời tin chịu, cũng nói rằng Như Thị. “Lại có hai nghĩa” là chia hai chữ “như thị” ra đều có giải thích riêng. “Có nhiều cách giải”: Có chỗ nói vị “Thánh nhơn thuyết pháp rõ bày lý chơn là Như, duy lý chơn như là Thị” như ngài Lưu Cầu đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là lời đúng lý, chữ Thị là lời không quấy” như ngài Sanh Công đã nói.  Có chỗ nói: “Ðức Như Lai thuận theo căn cơ mà ứng hiện là Như, tất cả chúng sanh đều cảm mến là Thị” như ngài Dung Công đã nói. Có chỗ nói: “Lý thật tướng, trước sau chẳng khác là Như; đúng như lý mà thuyết là Thị” như ngài Thiên Thai đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là lý chơn không, chữ Thị là lý diệu hữu, để chống phá hai lối chấp Thường và Ðoạn của ngoại đạo như ngài Thanh Lương Chiết Trung và lời của các nhà giải đã nói. Còn các thuyết nữa sợ phiền không dẫn. Hai chữ "Như Thị" giải như trên đều có ý nghĩa, đại khái thì đồng, tiểu tiết có khác hẳn, nhưng không trái nhau. 

   

Do theo Tông để định nghĩa của hai chữ "như thị" là tùy Tôn mà định. Nay kinh này, lấy chữ nhứt tâm làm tông.


Bởi do chấp trì danh hiệu nhứt tâm bất loạn, nhứt tâm thời không sanh, không diệt, không tới không lui, vắng lặng trong trẻo thường còn nên gọi là Như. Lại nhứt tâm ấy, lìa bốn lỗi  diệt trăm điều quấy  nên gọi là Thị.  Nếu nói khác với đây, không được gọi là Thị.  



SỚ: Chữ Ta nghe Ngã văn là  Văn Thành Tựu vậy. Chữ Ngã là Tự Ngã, chữ Văn là Thân Văn. Tự Ngã Thân Văn, vì chẳng phải riêng lành với người khác và chẳng phải đọc suông lời của người xưa .   


SAO: “Tự Ngã Thân Văn”: Chữ Tự là để lựa riêng không phải mình, chữ Thân là không phải vắng mặt, nghĩa là chính thân mình hiện diện để vâng lãnh lời vàng của đức Thế Tôn truyền dạy.


Chữ “riêng” là ông Mạnh Tử nói: “Ta chưa được cái hân hạnh làm học trò đức Khổng Tử. Ta chỉ riêng học đạo lành với các người khác thôi”. Giải rằng: Vì ông Mạnh Tử chẳng phải là thiệt thấy đức Khổng Tử.  Ông thọ học với người cháu nội của đức Khổng Tử thầy Tử Tư mà riêng vâng lãnh đạo kia, để tu thân ấy vậy. 


“Ðọc suông lời của người xưa” là: Chúa Tề Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, người thợ đẽo bánh xe bình phẩm rằng chỗ chúa đọc bất quá nhai bã xác của cổ nhơn thôi.


Giải rằng: Vì chúa Hoàn Công chẳng phải chính mình đối trước mắt cổ nhơn. Cổ nhơn đã chết lâu rồi, bây giờ chỉ đọc suông lời để lại kia vậy thôi.   

        

Nay ông A Nan chính thân gặp mặt vị Chí Thánh, không phải riêng lãnh với ai hết. Ðây là hiệp với hai chữ Tự Ngã ở đoạn trên.    

     

Chính tai ông A Nan nghe lời chí giáo, chớ chẳng phải ông đọc suông lời cổ nhơn, hiệp với hai chữ "Thân văn", ai cũng phải tín thọ không ai dám nói gì nữa (vì A Nan được trực tiếp với Phật). 



SỚ: Thánh nhơn là vô ngã, sao nay lại xưng ngã? Luận Trí Ðộ nói có ba nghĩa: 


1. Vì tùy thuận theo thế gian.  

2. Vì phá tâm tà kiến.  

3. Vì không chấp là vô ngã.  


Do ba nghĩa đây đều có nói ngã cũng chẳng ngại gì. Lại pháp thân Phật là Chơn Ngã, cũng có thể xưng ngã được.  


SAO: Sau đây lại phân hai chữ "ngã văn" ra làm hai. Giải riêng như trước. 

      

1. Tùy thuận theo thế gian, nghĩa là trong phương diện thế gian pháp nói ngã đó, chẳng phải nói cái Chơn Ngã trong Ðệ Nhứt Nghĩa. Nay tùy thuận theo thế gian mà nói, vốn không có thật thể, thời chẳng trái với cái ngã của Ðệ Nhứt Nghĩa.  

     

2. Phá tâm tà kiến, nghĩa là tà ngã và danh tự ngã. Người thế tục đủ hai ngã trước. Kẻ học đạo có hai ngã sau. Thánh nhơn chỉ còn một ngã chót.  Vì thuận theo thế tục mà xưng ngã (ta), chỉ là cái ngã bằng danh tự, thật không phải tà và mạn, nên không lỗi lầm gì! 

     

3. Không chấp là vô ngã. Vì các vị thánh nhơn biết tất cả pháp đều không, lý thật tướng là vô ngã, nhưng chẳng chấp không, chẳng chấp vô ngã. Lại trong luận Du Già có bốn nghĩa; chỗ đại khái đồng như đây.  Nghĩa thứ ba nói: “Nếu quyết định là vô ngã thời còn có ai tu học và người ắt sanh tâm sợ” cho nên không chấp là vô ngã, mà cứ nói ngã. 

   

Lại trong Quán kinh lời SỚ nói: “Vô ngã thời vô văn; vô văn thời việc hóa đạo phải tuyệt”. Vì muốn truyền hóa bất tuyệt nên mượn cái danh giả mà tạm nói rằng ngã (ta). 

  

Pháp thân Phật chơn ngã. Ðứng theo phương diện Bản Giác mà luận thời ông A Nan cũng thông với cái ngã pháp thân vậy. Bởi vì trong pháp vô ngã có cái chơn ngã, tức là cái ngã của pháp thân. Như cái ngã trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của kinh Niết Bàn thì đối với hai chữ vô ngã có ngại chi?!   


 

SỚ: Chữ Văn là: Nhĩ căn phát ra nhĩ thức, bỏ biệt theo tổng, nên nói là “ngã văn” (ta nghe).  

      

Trong kinh Ðại Thừa có ba nghĩa: 


1. Nghĩa Thỉ giáo thì không nghe.  

2. Nghĩa Chung giáo nghe mà không chấp là nghe. 

3. Nghĩa Ðốn giáo không nghe mà không chỗ nào là không nghe.   

     

Nếu luận theo đúng tông chỉ thời vị thánh nhơn truyền pháp dùng cái chơn ngã và vô ngã không hai. Cái diệu nhĩ bằng chẳng phải đồng hay khác giữa căn và cảnh để nghe pháp môn vô chướng ngại giữa Ta Bà và Cực Lạc vậy thôi.  

      

SAO: Bỏ biệt theo tổng đó là do không nói nhĩ văn (lỗ tai nghe) mà lại nói là ngã văn (ta nghe). Bởi do nói "ta" thời tổng thâu hết các căn, các thức, ... lấy tổng gồm biệt, cho nên nói: Ngã văn. 

        

Câu “Thỉ giáo” ... là như nói Ta đã không phải là ta thì dầu nghe cũng chẳng ai nghe. Ðây là đại ý của Thỉ giáo về Ðại Thừa sơ môn. 

  

Như nói: “Từ các nhơn duyên giả hợp, cho nên không”. Không hoại các giả danh; tức không nghe mà nghe, nghe mà không chấp là nghe. Ðây là đại ý của Chung giáo về Ðại thừa.  

    

Như nói: “Năng, sở đều yên lặng; người nghe và pháp bị nghe đều vắng lặng”. Không nghe mà không chỗ nào là chẳng nghe, lìa nghĩ tưởng, mà tự rõ bày đại ý của Ðại thừa Ðốn giáo.  


Câu: "Ngã vô ngã" là sanh mà chẳng tính nơi sanh, chẳng tính sanh mà có sanh cùng khắp, ấy tức là pháp thân.   


"Căn và cảnh" là nghe nói Phật A Di Ðà, năng văn (người nghe) và sở văn ( Phật bị nghe). Không hai và cũng chẳng phải đồng và khác.


"Ta Bà và Cực lạc" là nói y báo và chánh báo cõi Ta Bà toàn là ở tự tâm của nước Cực Lạc vì do kinh này có phần thuộc về Viên giáo, nên phải qui về pháp tánh. 



SỚ: Có người hỏi: Phật thành đạo đã lâu, ông A Nan mới xuất gia, đâu đặng nói “ngã văn”?

        

Xưa đáp có bốn nghĩa cho nên nói "Văn" cũng không ngại. Lại A Nan có ba ông. Nếu ông này không nghe thì ông kia nghe cũng chẳng ngại chi. 


SAO: Người nghi rằng: Phật thành đạo nói pháp trước đã trải qua hai mươi năm thì ông A Nan mới xuất gia, lại mười năm sau, Phật mới dạy làm thị giả (hầu Phật). Mặc dầu được hầu gần Phật, nhưng mà những kinh Phật thuyết ba mươi năm về trước, ông làm SAO nghe đặng mà đều gọi Ngã Văn? 

          

Xưa đáp có bốn nghĩa là: 


1. Lần lựa nghe: như kinh Báo Ân nói: “Với những kinh ông chưa nghe thời ông theo các thầy Tỳ Kheo để nghe lại”, hoặc các vị Thiên tử nói lại, như lời lưu thông cho hàng Hoằng Quảng Bồ Tát mà Phật đã dẫn trong kinh Niết Bàn.

2. Phật nói lại: Như Kinh Báo Ân chép: “Ông A Nan nhơn Phật dạy làm thị giả, ông yêu cầu ba việc, mà việc thứ ba là kinh nào ông chưa nghe, ông thỉnh Phật nói lại”...

3. Ông A Nan tự thông, như kinh Kim Cang Huệ nói: “Ông A Nan đã chứng pháp Tánh Giác Tự Tại tam muội, cho nên những kinh ông chưa nghe có thể tự ông nhớ thuộc”. Như kinh Niết Bàn cũng nói. Hoặc có khi ông ở trong pháp hội, hoặc có khi ông không ở trong pháp hội, tự nhiên, ông cũng hiểu rõ được cả.     

4. Ngài Thanh Lương chiết trung phê bình ba thuyết trên, nói: “Ông A Nan chính là bực Ðại Quyền Bồ tát ảnh hưởng hoằng truyền”. Như kinh Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên nhẫn đến ông A Nan ... đều là bực Ðại Quyền bồ tát hiện thân Thinh Văn”. Chấp chi danh tích nhỏ mà nói không nghe! 


Ba ông A Nan là:  


1. Tên Hoan Hỷ. Ông này kiết tập tạng kinh Thinh Văn.   

2. Tên Hỷ Hiền. Ông này kiết tập tạng kinh Duyên Giác.  

3.  Tên Hỷ Hải. Ông này kiết tập tạng kinh Bồ Tát. 


Thế thời ông A Nan dùng sức đại thần diệu để tùy cơ dạy bảo chúng sanh. Vậy nên biết nhứt đại thời giáo của đức Như Lai, ông A Nan này không nghe thời ông A Nan kia nghe, có chi mà phải chấp rằng nghe cùng không nghe mà làm chướng ngại?     



SỚ: Chữ Mt thu n "nhứt thời" là thời thành tựu. Thầy trò hợp nhau, đương khi kẻ nói, người nghe xong rồi tức gọi là một thời. Do vì kẻ nói, người nghe không nhứt định nên không nói năm, tháng, ngày, giờ nào; bởi mười phương thời giờ bất nhứt, hai cõi (Ấn Ðộ và Trung Hoa) ngày mùng một tháng giêng chẳng đồng nhau. Luận đúng tông chỉ kinh nầy thời trong khi kẻ nói, người nghe, tâm cảnh bặt dứt, thánh và phàm hợp nhau, y báo, chánh báo dung thông, một và nhiều bằng bực; đây là cái thời mà các pháp còn đối đãi đi đôi, như thế đều thông nhứt làm Một, thì gọi là “nhứt thời” vậy.


SAO: "Kẻ nói người nghe không nhứt định" là: Hoặc người nói là người đã chứng pháp "Ðà La Ni" (pháp tổng trì) thời trong một phút thông một chữ, có thể nói hết tất cả pháp môn. Hoặc người nghe là người đã đặng nhĩ căn thanh tịnh, ở trong 1 phút, nghe một chữ, có thể nghe suốt hết cả, bao nhiêu cũng chẳng chướng ngại. Hoặc kẻ nói chỉ ít thời người nghe thành nhiều thời. Hoặc kẻ nói nhiều thời, người nghe thành ít thời. Kẻ nói thần lực dài ngắn tùy chỗ thích hợp; người nghe căn khí lợi độn chẳng phải một.  Người xưa nói: Ðối với 3 thừa, 6 phàm, 4 thánh chỗ thấy biết: pháp thân, báo thân và hóa thân cùng năm, tuổi dài, vắn, thành Phật đã lâu hay mau mỗi mỗi chẳng đồng, cho nên nay chỉ lấy trong khi Phật và đệ tử, thầy trò cơ cảm gặp nhau, kẻ nói người nghe xong rồi thì gọi đó là "nhứt thời" thôi.    

 

"Mười phương thời giờ": Hễ nói mười phương là khắp cùng ngang dọc. Dọc thời thấu đến cõi trời (cõi Tứ Thiên một ngày bằng dưới cõi người năm mươi tuổi). Ngang thời rộng khắp cả bốn châu (canh ba của châu Nam Thiệm Bộ bằng khi giờ ngọ của châu Bắc Cu Lô) nên không nhứt định là thế.

   

“Hai cõi ngày chánh sóc” là: Ngày đầu năm kêu là ngày “chánh sóc”, nước Chấn Ðán (nước Tàu), cõi Ngũ Thiên (Ấn Ðộ) không thống thuộc nhau. Nhà Châu lập tháng giêng vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch). Nhà Hạ lập tháng Giêng vào tháng Dần (tháng Giêng ta).


Hồi đó nước Chấn Ðán thuộc nhà Châu (1134 -247 trước Tây lịch) mà Phật ở nước Xá Vệ (Ấn Ðộ). Xá Vệ lập tháng Giêng vào tháng Dần, lại nhằm tháng Giêng nhà Hạ (2205 - 1786 trước T.L) thì ra tháng Giêng cõi Ngũ Thiên thành ra tháng ba nước Chấn Ðán; tháng hai của Ấn Ðộ nhằm tháng tư của nhà Châu. Nước Tàu thuở đó cũng không thể nhứt định được, cho nên chỉ nói nhứt thời thôi. 

    

Y và chánh là: Vì Phật cùng tâm và cảnh là nhứt tâm bất loạn, vì không tâm năng niệm, sở niệm. Phàm Thánh là cùng những bậc Thượng Thiên Nhơn đồng hội về một chỗ, nước, chim, cây rừng đồng thuyết diệu pháp. 

    

Một và nhiều là: Vì một Phật thuyết kinh thì sáu phương Phật đồng khen ngợi (tán thành).


Như trên, mỗi món bằng hai pháp đối đãi đều hiệp thành một mùi thanh tịnh, tức lấy thời ấy làm nhứt thời.   


     

SỚ: Chữ "Phật" Ðc Pht là chủ thành tựu. Nghĩa chữ Phật giải thấy rõ ở văn trước. Do vì một thời kỳ đó chúng sanh cùng nhau sùng bái nên gọi là ông chủ. Lại làm chủ trên địa vị trọng yếu giữa sáu món thành tựu. 


SAO: “Cùng nhau sùng bái” là Phật ra đời là một thời kỳ. Trong một thời kỳ đó, sáu cõi phàm, ba bực Thánh và tất cả chúng sanh, cùng nhau sùng bái tôn Phật làm ông Pháp Chủ, cũng như vạn dân, bá quan, qui đầu về một ông quốc chủ trong nước. 

 

“Ông chủ trong sáu món thành tựu”: Trông về trước thì trong buổi dự hội của ông chủ là "Thời thành tựu". Nghe lời của ông chủ là "Văn thành tựu"; lãnh lời dạy của ông chủ là "Tín thành tựu". Trông về sau: Chỗ ở của ông chủ là "Xứ thành tựu". Những người do ông chủ giáo hóa là "Chúng thành tựu", là sáu món thành  tựu, nhưng cũng qui trọng về nơi Phật, cũng là cái ý nói Phật là đủ hết. 


     

SỚ: Câu  nơi vưn Kỳ Th, cp Cô Ðc nưc Xá-V“tại Xá Vệ Quốc Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên” là xứ thành tựu". Chữ "tại" là Ngài Thiên Thai giải chữ "tại" cũng như ý chữ trụ, phân ra có bốn: 1. Thiên trụ 2. Phạm trụ 3. Thánh trụ 4. Phật trụ. Tùy chỗ hợp, chỗ Phật ở là trụ, nhẫn đến Thiên Trụ (ở trên cõi trời) thiệt thời thân Phật không nhứt định ở một chỗ nào mà không chỗ nào là không ở. 


SAO: “Tại”, tức ý “Trụ”: Trong luận Ðại Phàm nói: “Phật ở chỗ nào dầu tạm hay ở lâu, đều thành ý tại”. Nay không luận ở lâu hay ở tạm, cứ ngay chỗ đức Phật thuyết kinh tức gọi là “tại”.  


Dụ như trong đời, vị quốc chủ đi tới đâu, tức gọi là tại chỗ đó vậy. 


Có bốn trụ là: Phật độ chúng sanh, tùy theo chỗ thích hợp mà trụ, hoặc hiện thân trụ trên cõi Trời. Nghĩa là: Cái nhơn về cõi Trời Lục Dục, tức là đem dạy pháp bố thí trì giới thiện tâm mà trụ, hoặc hiện thánh trụ cõi Phạm Thiên. Nghĩa là: Cái nhơn về cõi Sơ Thiền đến cõi Phi Tưởng, tức là đem dạy pháp Tứ Vô Lượng Tâm  mà trụ. Hoặc hiện thân trụ ở cõi thánh.  Nghĩa là: Cái nhơn về hàng tam thừa thì đem dạy ba pháp tam muội mà trụ.  Hoặc hiện thân trụ ở cõi Phật thì dùng định Thủ Lăng Nghiêm, 100 pháp tam muội mà dạy bảo pháp  thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng để mà trụ. 


Với ba cõi trên là tùy theo ý người khác cảm mà ngài trụ (ứng) còn mỗi cõi sau, tùy ý Phật ngài tự trụ.  


Hỏi:  Phật SAO còn trụ cõi trời? 


Ðáp: Ẩn thân cao quí ở chỗ thấp hèn là vì cớ độ sanh. Không ở mà không chỗ nào không ở là vì bản thể không chỗ nào là không ở; vì bản thể viên thông nên không chỗ nào là không ở. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân Phật không đến, nhưng không chỗ nào mà không đến. Vì SAO? Bởi vì hư không không có thân. Ðức Như Lai cũng thế. Khắp tất cả các pháp, khắp tất cả các cõi nước của tất cả chúng sanh, chẳng đến, nhưng không chỗ nào mà không đến”. Vì thể cũng như tâm thanh tịnh, vắng lặng, dụ như hư không nên chỗ nào cũng đều có đầy đủ. Song mặc dầu Phật ở nước Xá Vệ mà hiện thân Liệt Ứng để độ hàng liệt cơ, nên nói thiên trụ (ở cõi trời). Nhưng đúng như thật mà luận, tức ngay nước Xá Vệ cũng có thể gọi là “Phạm trụ”.  Thánh trụ hay Phật trụ nào lại chẳng được? 


        

SỚ: Tiếng Phạm Sravasti cũng nói "Thất La Phiệt Tất Ðể", dịch theo tiếng Trung Hoa là Văn Vật. Vì lấy đức đặt tên nước.  Hoặc nói là Văn (nghe, đồn) vì dùng tên người để đặt tên nước.    

  

SAO: Ðức, là: Do nước giàu đủ bốn đức: 1. Trần đức: Vì cảnh ngũ trần có nhiều món mỹ lệ. 2. Tài đức: Vì thất bảo, trân kỳ, không món nào mà chẳng có. 3. Thánh đức: Vì ba tạng thánh pháp đều đầy đủ. 4. Giải thoát đức:  Vì nhiều người được giải thoát, không nhiễm ngũ dục. Do đấy tiếng khen ngợi rung động khắp cùng 5 cõi Thiên Trúc nên gọi là nước Văn Vật.   


“Lấy tên người đặt tên nước” là gì? Vì nhiều người hiền đức cho nên trong nước lấy tên người làm trọng.  


 

SỚ: Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên là tiếng Phạm (Jeti hay Jeta) Kỳ Ðà cũng nói Thệ Ða. Nói Kỳ không nói chữ Ðà là bớt văn. Hai chữ Kỳ Ðà  Tàu dịch Chiến Thắng. Chữ Cấp Cô là nêu cái đức, tức là ông Tu Ðạt Ða. Chữ Viên dịch âm theo tiếng Phạm “Tăng già lam ma”, Tàu dịch là:  “Chúng Viên” cũng như tiếng Việt “chỗ chúng tăng ở”. 

   

Số là thái tử Kỳ Ðà cúng rừng cây, ông Cấp Cô mua miếng vườn, gồm cả hai tên người nên nói:  Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên.   

    

SAO: “Chiến Thắng” là vua Ba Tư Nặc, khi sanh thái tử, vua cùng ngoại quốc giao chiến được thắng trận, vui mừng nên đặt tên (Chiến Thắng) đó cho con. 

     

Tu Ðạt Ða là tiếng Phạm, Tàu dịch là “Nhạo Thí”, quan đại thần của vua Thắng Quân (quân đánh giặc được thắng trận). Vì ông ưa làm việc bố thí nên được thành tên tốt (Nhạo Thí).


Chữ “Cấp Cô Ðộc” là: kẻ nhỏ không cha mẹ là "cô" (mồ côi), người già không con cái là "độc" (trơ trọi). Nay những người không có chỗ nương, không ai nuôi, tức gọi là Cô Ðộc. 


Riêng luận hai chữ Cô Ðộc, đức Khổng Tử nói: “Người quân tử ra ơn khắp giúp là cần gấp”. Thầy Mạnh thuật: “Vua Văn Vương làm việc chánh trị ở ấp Kỳ, giúp kẻ mồ côi trước hết; thế đâu chẳng phải lòng tự phổ cập. Nhưng với kẻ gấp thì giúp trước, huỡn thì giúp sau vậy”.  

    

Chỗ chúng ở mà nói rằng "vườn" là vì rừng rậm mát mẻ, những người học đạo nên nương đỗ nơi đó. 

       

“Kẻ cúng cây, người mua vườn” là: Kinh Niết Bàn nói: ông Trưởng giả tên Tu Ðạt, gốc người ở nước Xá Vệ, ban đầu chưa biết Phật. Nhơn dịp đi cưới dâu, vào thành Vương Xá, ghé nhà ông San Ðà Na thấy Phật sanh lòng tin, mới thỉnh Phật về nước Xá Vệ. Phật sai ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất)đi lựa chỗ chúng ở. Lựa đặng vườn cây của thái tử Kỳ Ðà. Ông trưởng giả hỏi giá, thái tử nói chơi rằng: “Ông đem vàng trải giáp đất, tôi sẽ bán cho”. Ông trưởng giả y lời, chở vàng đến lót. Thái tử cảm mến và khen ngợi, liền bán đất, còn cây trong vườn là vật sở hữu của thái tử cúng luôn cho Phật để lập tinh xá. Trưởng giả và thái tử đua nhau phát tâm, lập thành việc tốt ấy, cho nên đồng nêu tên của hai ông.   


  

SỚ: Bằng nói rõ theo giáo lý của kinh này đều có chỗ nêu, lệ thường như lối thích kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. 

  

SAO: “Nói rõ theo kinh” này là: Như nước Xá Vệ là nước rất tốt, là nêu pháp môn Tịnh Ðộ này rộng rãi thênh thang vì pháp rất tối thượng.  Chính ngài Từ Ân nói: “Thành Vương Xá là thành rất tốt, thành này vì tốt hơn các thành kia, vì kia nêu kinh Pháp Hoa là pháp thù thắng hơn các pháp”.  Sau cũng lệ (so) theo đây.

      

Kỳ Thọ là cây rất đẹp, để tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ bóng mát, che chúng sanh thường khỏi nóng nực. 

 

Vườn ông Cấp Cô là vườn rất xinh để tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ an ổn chúng sanh, hằng hưởng những sự vui. Thái tử Kỳ Ðà là dòng giống tốt để tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ hễ người sanh về đó rốt ráo thành Phật, nối thạnh dòng Phật.  

      

Ông Trưởng giả Tu Ðạt là người rất tốt để tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ ai sanh về đó, được vào nhóm người chánh định, cu hội với một hạng người thượng thiện. Như kinh Hoa Nghiêm món món nêu pháp có nhiều cách rõ lý nhứt tâm đều là ý đây vậy. 


  

SỚ: Xứng lý thời tự tánh rổng suốt 10 phương là nghĩa ông A Nan nghe Phật thuyết pháp. 


Tự tánh không lìa tự tánh là nghĩa Phật trụ tại rừng Thái tử Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc. 


SAO: Tâm nghe suốt mười phương là ông Khánh Hỷ (A Nan) hiện nay đương kết tập. Chơn Phật ngồi trong nhà (trong tâm) là đức Thích Ca vốn chẳng chỉ ỡ cõi Tây Càn (Ấn Ðộ), quày sự nghe để nghe lại tánh mình, quày ông Phật lại để thành ông Phật của mình, mới biết: Một hội Kỳ Viên nghiễm nhiên chưa giải tán, đâu những hội Linh Sơn!?



cùng vi mt nghìn hai trăm năm mươi v đi Tỳ kheo câu hi: 


      

SỚ: Từ câu này sắp xuống đến câu: "Chư Thiên đại chúng cu" là chúng thành tựu.


Chữ "Dữ" cùng vcũng như nghĩa chữ "Cộng". 


Chữ "Ðại" là lựa khác với chữ "Tiểu", có đủ ba nghĩa: Ðại, Ða, Thắng vì khác với Tỳ Kheo kia. Luận Phật địa cũng có đủ ba nghĩa. 

     

Chữ Tỳ Kheo là tiếng Phạn, đây giải thích có ba nghĩa: 


1. Khất Sĩ.  

2. Bố Ma.  

3. Phá ác.

    

Chữ "Tăng" nói đủ theo tiếng Phạn là (Samgha) Tăng-già, không nói "Già" là bớt văn. Tàu dịch Tăng Già là “chúng hòa hiệp”.  


“Một ngàn hai trăm năm mươi người” là ba ông Ca Diếp, thêm ông Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất là năm ông, tất cả đệ tử của năm ông này cộng chung lại thành ra số đó (1250). Trước thì nói bực thuộc hàng Thanh Văn, sau thì nói số có bao nhiêu.  

      

Chữ "Câu" là hiệp với nghĩa chữ "Cộng" ở văn trên. 


SAO: Chữ "cộng" nghĩa là: Ngài Thiên Thai giải nghĩa chữ "cộng", bằng bảy chữ "nhứt" gọi rằng: “Xứ nhứt, thời nhứt, tâm nhứt, giới nhứt, đạo nhứt, kiến nhứt và giải thoát nhứt” (dù bảy chữ cũng một).  


Phật và đại chúng cùng ở nơi Kỳ Viên là ý chánh của kinh này rộng nói như trên. 

   

“Lựa khác với chữ Tiểu” là: Chẳng phải nói hàng sơ tâm tỳ kheo tức văn sau chỗ gọi là bực trưởng lão ...  

  

Ðại, Ða, Thắng là: Trời, Vua và bực Ðại nhơn cả đồng kính ngưỡng, chẳng phải đức nhỏ, nên gọi là Ðại. 

  

Nội điển, ngoại điển không bộ nào mà chẳng suốt thông, chẳng phải ít hiều đâu, nên mới gọi là Ða.


Vượt khỏi trên 96 phái ngoại đạo, chẳng phải căn cơ kém hèn nên gọi là Thắng. Ðây đều là bực cao tột trong hàng Tiểu thừa.   

    

“Luật Phật Ðịa có ba nghĩa” là: 


1. Bực tối cực lợi căn chủng tánh ba la mật nên gọi là Ðại. 

2. Ðều đặng quả vị Vô Học  nên gọi là Ðại. 

3. Trước đặng quả nhỏ, nay đã lên quả vị Ðại Bồ Ðề nên gọi là Ðại. Ðây đều là nói chung cả bực Ðại thừa.

      

Tỳ kheo có ba nghĩa là:  


1. Khất sĩ: nghĩa là khất thực và khất pháp. Khất thực là xin ăn, thời tránh xa bốn việc tà mạng, hiệp với bốn việc chánh mạng. Không kinh dinh sự nghiệp, chẳng cần chứa để, vạn duyên dứt sạch, nhứt chí chuyên tu. Nhà Tăng phải sống theo đây để nuôi giới thân huệ mạng, cho nên nói khất thực để nuôi thân.   

Khất pháp: là xin Pháp, tức là cầu thầy hỏi bạn, cần khổ hết lòng thành, học tìm diệu pháp, trông thành quả thánh, cho nên nói khất pháp để nuôi tâm.                  

2. Bố ma là như người phát tâm xuất gia, bọn ma vương nghe sanh lòng sợ sệt; bởi vì lũ nó ưa đắm nhiễm đường sanh tử mà người xuất gia là người ly dục, quyết tới quả vô sanh, bọn ma sợ mất bà con của nó nên sanh tâm sợ sệt.    

3. Phá ác là: Vì hay phá tâm phiền não luôn 98 sử thảy đều đoạn tuyệt.

Hoặc thêm hai nghĩa tịnh giới, tịnh mạng thời thành ra năm nghĩa của Tỳ kheo. Nay nói ba nghĩa là vì nghĩa khất thực đã gồm nghĩa tịnh mạng, do vì nghĩa phá ác thì đã gồm nghĩa tịnh giới.  

       

“Chúng hòa hiệp” là: Từ bốn người sắp lên, nhiều đến vô lượng đều đồng một pháp Yết Ma, không tranh cãi với nhau, như sữa với nước nên gọi là hòa hiệp chúng.


Ba ông Ca Diếp là: 


1. Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp. Ông này tu ở trong hang Hỏa Long có 500 người đệ tử. 

2. Già Gia Ca Diếp: ông này tu ở trên núi Tượng Ðầu có 300 người đệ tử. 

3. Na Ðề Ca Diếp. Ông này tu ở bên sông Hy Liên có 200 người đệ tử.


Sau tất cả thầy trò đều quy y theo Phật, cho nên có số 1.000 chúng.    Lại ông Mục Kiền Liên và ông Xá Lợi Phất, hai ông có 250 người đệ tử cũng quy y với Phật, thành ra số 1.250 người.   


Một thuyết khác nói: Phật độ ông Da Xá, thầy trò cả 50 người và năm anh em ông Kiều Trần Như, cộng lại thành số đấy.  


     

SỚ: Tại sao chỉ nói có 1.250 người? Là vì số chúng này thường thường tùy tùng, ở chung với Phật. 

   

SAO: “Thường tùy” là: đức Phật xuất hiện trong thế gian, độ các vị Tỳ kheo chứng quả A La Hán rất nhiều đến vô lượng, mà sao riêng nói có mấy ông đây? Bởi vì 1.250 ông đây quy y với Phật trước hết, lại thường không lìa Phật, mãi đến lúc Phật diệt độ, cho nên đặc biệt nói 1.250 người. Còn bao nhiêu vị khác đi hoằng pháp rải rác ở bốn phương, tuy là "thiên lý diện đàm", nhưng cứ theo sự tích viết thành văn, phép thường phải như vậy?   


Kìa như môn đồ của đức Trọng Ni: Những trang hiền đạt kể có 3.000 người, mà tại sao riêng kể có 72 ông? Là cũng bởi vì mấy ông đây thường ở mãi với ngài nơi mé sông Tứ, rồi cùng với ngài đi qua nước Trần, nước Thái. Ðây cũng là chúng thường tùy vậy. 


    

đu là bc A La Hán mi người đu quen biết, 



SỚ: Câu trên nêu vị; câu dưới nêu đức. 

   

Chữ Ðại là: Lựa khác với hàng tiểu quả Thanh Văn. Tiếng Phạn (arhàn) A La Hán, đây dịch có ba nghĩa: 


1. Ứng cúng. 

2. Sát tặc. 

3. Vô sanh. 


Tức là ba quả của  Khất Sĩ, Bố Ma và Phá Ác như văn trước.  

      

Chữ “tri thức” là: Nghe danh trọng đức là "Tri", thấy hình kính phụng là "Thức".  

       

Một thuyết khác nói: Thấy hình là "Tri", thấy tâm là "Thức".  Một thuyết nữa nói: "Tri" tức là "Thức" vì cũng có thể có thể làm tri thức trong chúng mà cũng là bực dìu dắt chúng.  

     

SAO: “Lựa khác” là: Quả thánh ban đầu đến quả thánh thứ tư đều là quả vị của hàng Thanh Văn. Nay nói đại A La Hán là nêu quả thứ tư của hàng Thanh Văn.  

    

“Ứng cúng” là: Kẻ phàm phu không giới đức, ba quả thánh trước có giới đức, nhưng còn nhỏ, chưa đáng kêu là 'ứng cúng'. Nay hạnh tốt đã thành, vượt ngoài ba cõi, đáng hưởng sự cúng dường ở cõi nhơn thiên; cho nên luận Cu Xá nói: “Cúng dường cho vị A La Hán, đặng phước báo hiện tại”. Vị này làm ruộng tốt cho cõi nhơn thiên trồng quả phước, hưởng của cúng dường không hổ, nên gọi là “ứng cúng”.


Nhắc lại trước khi bưng bình bát đã hẹn làm cho chúng sanh được phước; nay đã chứng đạo, lý phải thọ của cúng nên gọi là quả khất sĩ.  

 

Song Phật cũng gọi là Ứng Cúng. Nhưng vị A La Hán chỉ thuộc về ứng cúng cõi nhơn thiên. Còn Phật thời chẳng những ứng cúng ở cõi nhơn thiên mà còn ứng cúng ở cõi Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát cúng dường nữa.   

     

“Sát tặc” là: Giặc phiền não cướp giựt của công đức và hại mạng trí huệ.     

 

Ba quả thánh trước tuy đoạn Kiến hoặc (hiểu biết sai) nhưng Tư hoặc (nghĩ lầm) vẫn còn. Nay quả thứ tư này chẳng những đoạn Tư hoặc mà bảy mươi hai phẩm cũng đều đoạn hết, thân tâm được yên tĩnh. Như dẹp hết giặc rồi thì thiên hạ được thái bình nên gọi là Sát Tặc. 

 

Nhắc lại, trước kia do ác làm giặc, bây giờ ác diệt được rồi, nên gọi là quả Phá Ác. 


“Vô sanh” là: Kẻ phàm phu không biết bao lần sanh tử. Bực sơ quả (Tu Ðà Hoàn) còn bảy lần sanh tử. Bực nhị quả (Tư Ðà Hàm) còn một lần sanh lại cõi Dục giới. Bực tam quả (A Na Hàm) không sanh lại cõi Dục giới, nhưng mà còn sanh ở cõi Sắc giới. Nay quả thứ tu (A La Hán) này, duyên sanh đã hết, chẳng thọ thân hậu hữu nên gọi là "vô sanh".


Nhắc lại, trước kia nguyện ra khỏi sanh tử khiến ma khởi tâm sợ. Nay chứng quả Vô Sanh nên gọi là quả Bố Ma.

 

“Nghe danh thấy hình” là thân, sơ một đối đãi. Chữ "tri" là đối với bực La Hán, người ta tai nghe thời tâm mến muốn thấy. Chữ "thức" là người ta mặt thấy thời phụng sự chẳng trái nghịch. 


“Thấy hình thấy tâm” là cao, thấp một đối đãi. Chữ “tri” đấy thời mặt đối trước hình dung. Chữ thức là thầm hiểu lẫn trong ý (tha tâm thông).  Như hai ông thầy đến ra mắt Phật, một ông chết giữa đường. Phật nói ông chết đó là thấy ngài trước; ấy là nghĩa thấy tâm vậy.   

      

“Tri tức là thức” đó cũng như nói: “Tương tri, tương thức” (hiểu nhau, biết nhau). Giới đức cao, danh vọng trọng, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ, người người đều nghe biết, ai ai cũng đều hay, nên nói: “Chúng sở tri thức”.       Một thuyết khác nói: Ở trong cả chúng, bực nầy được nhiều người hay, nhiều người biết, đáng làm tai mắt cho cõi người, cõi trời, gọi là bực dìu dắt trong chúng. Nay người ta gọi thiện tri thức cũng có nghĩa: 1. Ðối với ác mà nói, do vì chỗ ta hiểu biết có thiện, có ác. Mà nay đây chỉ là ông tri thức thiện. 2. Ông nầy có cái biết rõ ràng cái hay đặc biệt, người khác chẳng bì kịp nên gọi ông là bực rất thiện giữa tri thức.  


      

SỚ: Xứng lý thời tự tánh không nhiễm là nghĩa A La Hán; tự tánh không mê là nghĩa tri thức. 

     

SAO: Nguồn tâm vốn vắng lặng thời các nhiễm toàn không; tâm thể vẫn sáng tỏ; thời các mê đâu có. Kinh Pháp Hoa bảo đó là chơn A La Hán.  Luận Khởi Tín gọi là ông “chơn thật thức tri”. 

        

Những hạng người (Tiểu thừa) đắm nơi không làm vắng lặng, móng niệm mới biết, gọi là “danh tự A La Hán” và “hư vọng tri thức”. Thế cho nên tà kiến cùng chánh kiến đồng một thể; thiện, ác đồng một môn. Dứt tâm vọng mới thấu nguồn chơn, họa may mới làm sa môn được.

 


Như là: Trưởng lão Xá-Li-Pht, Ði Mc-Kin-Liên, Ði Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Ða, Châu-Li-Bàn-Ðà-Già, Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, La-Hu-La, Kiu-Phm-Ba-Ð, Tân Ðu-Lư-Ph-La-Ða, Ca-Lưu-Ðà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bc-Câu-La, A-Nâu-Lu-Ðà,


     

SỚ: Trưởng lão là: Ðức người hạnh lớn, giới lạp cao. Lại đức với lạp, chỉ đủ có một cũng chung gọi là trưởng lão; luôn sau 16 vị tôn túc...    

       

SAO: Lạp là thọ giới Cụ Túc, một năm gọi là một lạp; vì giáp một năm chỉ đặng một lạp, cũng nói là một hạ, chính đồng một ý nghĩa đây. “Chung gọi” là trên nói đức và lạp đều trọng nên được tôn xưng “trưởng lão” đã đành. Ðây nói một đức trùm chúng, hay một lạp trước người, cũng được kêu là Trưởng Lão.


Như trong luận Tỳ Bà Sa phân về loại: Thượng tọa pháp tánh (tuổi đạo), thượng tọa sanh niên (tuổi đời). Lại bản kinh nhà Ðường dịch Cụ Thọ là đủ cả đức và lạp. Bản kinh nhà Ngụy dịch Huệ Mạng là chuyên nói về đức.   

   

Dầu rằng chỉ có đức hay chỉ có lạp cũng có thể được xưng Trưởng Lão; mà ắt hơn lấy đức mà không lạp, chớ chưa có ai chỉ có lạp mà không đức bao giờ!    

     

“Luôn sau này” là nói bực trưởng lão, chẳng những một mình ông Xá Lợi Phất mà cả đến ông A Nâu Lâu Ðà cũng đều gọi là bực Trưởng Lão, đều là bực thượng thủ giữa đệ tử của Phật.  


      

SỚ: Ông Xá Lợi Phất (Sariputra) là tiếng Phạn nói (Sàri) Xá Lợi, tiếng Tàu dịch là Thu Lộ. Tiếng Phạn nói “putra”, ta đọc Phất, Tàu dịch là Tử.  Cho nên nói “Thu Tử”, cũng nói “Thân Tử”, cũng nói là “Châu tử”... Trong các đệ tử Phật, ông này trí huệ đệ nhứt. Xưng đệ nhứt là chỉ bày một đức mà thôi. Sách Luận Ngữ nói: “Người quân tử chẳng phải như một món đồ”, huống hồ là bực La Hán (có nhiều biệt tài vì 6 thần thông biến hóa). 

    

SAO: “Thu Tử”: Mẹ ông là người thân hình đoan chánh, mắt trong như mắt chim Thu; vì đặt tên theo mẹ nên nói ông là con của bà Thu Lộ hay là con của bà Xá Lợi...    


“Thân tử” là ý nói ông là người có cái thân đoan chánh.  

 

“Châu tử” là ý nói ông là người mắt trong sáng. Còn bao nhiêu hiệu nữa nay đây chẳng gấp nên không dẫn nhiều. Mấy ông sau cũng đều lệ theo (là mỗi ông đều có nhiều danh đức riêng, đây dẫn một vài ông thôi). 

    

“Trí huệ”: Khi ông ở trong thai mẹ là đã giúp cho bà mẹ biện tài giỏi hơn người cậu. Lúc được tám tuổi, ông lên tòa cãi lẽ, 16 đại quốc nghị luận không hơn. Ông học Phật pháp trong bảy ngày đã thông suốt, cho nên nói ông là “trí huệ đệ nhứt”.


“Chỉ bày một đức” là: Nói chẳng phải ngoài ông Thân Tử ra mà trí huệ các vị A La Hán kia đều kém đâu. Chẳng riêng một mình ông Thân tử đủ trí huệ mà các vị kia không đủ!?

      

Bởi vì mỗi một vị chỉ nói một đức để nêu pháp môn của Phật là vô lượng. Lại cũng chỉ dẫn những cái tài đặc biệt của mấy ông ấy.


Như kinh nói ông Xá Lợi Phất ngồi thiền yên lặng, ngài Mục Liên muốn phá phép định của ông, đứng dậy ráng hết thần lực mà chẳng lay động được một cái chéo áo của ông.

Xưa nay ai cũng thường tán thán ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhứt, ai dè ông Xá Lợi Phất thần thông đến thế này!     

“Người quân tử chẳng phải như món đồ” là: Ðức Khổng Tử nói: “Như chiếc ghe không thể đi trên bờ, cái xe không thể chạy dưới nước; đấy là món đồ vậy. Người quân tử có đủ tài năng, chẳng tệ như một món đồ. Ðâu đặng nói: Thầy Nhan Hồi, thầy Mẫn Tử Khiên không văn chương, thầy Tử Du thầy Tử Hạ là người thiếu đức hạnh”. Người quân tử còn thế, huống bực đã siêu phàm nhập thánh, pháp "Tam Minh"  tỏ rạng, pháp "Lục Thông"  rỗng suốt, gọi là bực Lậu Tận A La Hán ư? Nên chi nói: “Chỉ tỏ bày một đức



SỚ: Bắt đầu nói ông Xá Lợi Phất, bởi vì kinh này duy có bực trí mới hiểu và tin nổi.

         

SAO: Trong kinh nói: “Phật vì chúng sanh thuyết pháp khó tin đây”.  Khó tin thời duy có bực trí huệ sâu xa mới tin, không nghi, cho nên trước nhứt nói ông. 

 

Hoặc người hỏi nạn: Trong "Bát Nhã Tâm kinh", Phật bảo một mình ông Thân Tử thời biết cái trí của ông ấy rõ lại lý Không, chớ không tại pháp Tịnh Ðộ? Ôi! Sắc, tức là không, không tức là sắc, đâu chẳng nói cõi Tịnh Ðộ tức là không, không tức là Tịnh Ðộ hay sao? Nếu bác cõi Tịnh Ðộ thời chẳng phải là chơn không; chẳng rõ lý chơn không thời chẳng phải là người chánh trí. Huống chi trí ông Thân tử quyết chẳng như thế. 


      

SỚ: Ông Ma Ha Mục Kiền Liên là: Chữ "Ma Ha" đây dịch là Ðại.  "Mục Kiền Liên" dịch là Thái Thúc Thị. Một thuyết nữa nói: Lai Bặc, ông này có thần thông đệ nhứt.   

  

SAO: Mục Kiền Liên là họ, Câu Luật Ðà là tên. Câu Luật Ðà là tên của một thứ cây. Theo tục lệ, cầu vị Thần ở nơi cây này mà được kết quả sanh ra ông, nhơn đó, lấy tên cây đặt tên ông là Câu Luật Ðà. Lại họ nầy trùng họ nhiều lắm nên thêm chữ Ðại để cho riêng biệt. 

 

“Thần thông” là như Phật lên cõi Trời Ðao Lợi thuyết pháp, bị con độc long phà hơi độc để ngăn Phật. Các vị Tỳ kheo kia xin dẹp con độc long,  Phật không cho. Ông Mục Kiền Liên hóa thân lớn, nhỏ... Con độc long kia sợ hoảng, bèn chịu thua . Lại như bọn ngoại đạo luyện phép để dời núi, ông kiềm chế không cho núi lay động . Cả dòng họ Thích đầy trong một thành, ông thâu vào trong bình bát, đem để trên cõi trời Phạm Thiên  và việc nắm xe ông Kỳ Bà, cùng đốt nhà trời Ðế Thích ... các việc đều dùng phép thần thông cả, cho nên nói ông là thần thông đệ nhứt. 



SỚ: Ông Ma Ha Ca Diếp, đây (Tàu) dịch: Ðại Qui Thị. Một thuyết khác nói là Ẩm Quang. Ông nầy tu hạnh Ðầu Ðà đệ nhứt.  

        

SAO: Ðại Qui Thị là đời trước ông đi học đạo gặp con Linh Qui đội bản đồ ra sông, nhơn lấy đó đặt họ. Tên Tất Bát La, cũng là tên cây, vì cầu tự nơi cây ấy. Nói thêm chữ Ðại cho khác với mấy ông trùng tên như ba ông Ca Diếp kia ...  

  

Ẩm Quang là do đời trước ông là người thợ làm đồ vàng, bạc cùng với một người nữ thanh tịnh đồng phát tâm lấy vàng quang phết tượng Phật, bèn cảm được quả báo đời đời thân ông như sắc vàng.  Sắc vàng chói ngời loáng phủ các sắc khác, cho nên tên ông là Ẩm Quang (ánh sáng nuốt các ánh sáng kia). 


Tiếng Phạn “Ðầu Ðà”, Tàu dịch Ðẩu Tẩu, hoặc nói Ðào Thải, Ðầu Ðà, có 12 hạnh: 


1. A lan nhã: Ở nơi vắng vẻ. 

2. Thường đi khất thực, cho đến hạnh thứ 


12. chỉ có ba y. 


Do khổ hạnh đây, quét hết việc trần lụy, lóng sạnh thân tâm.     


Ca Diếp tuổi già mà không bỏ hạnh Ðầu Ðà, Phật thương ông yếu đuối, khuyên ông nghỉ, thế mà ông cũng vẫn giữ hạnh Ðầu Ðà mãi như cũ.  Ðức Phật ngài rất khen: "Có hạnh Ðầu Ðà, pháp ta mới còn lâu", cho nên nói ông là Ðầu Ðà đệ nhứt.


   

SỚ: Ông Ma Ha Ca Chiên Diên là họ, Tàu dịch là Văn Sức. Một thuyết nữa nói là Bất Ðịnh; một thuyết nữa nói là Phiến Thằng và một thuyết nữa nói là Ly Hữu Vô ... là người ở nước Nam Thiên Trúc, họ Bà La Môn. Ông này nghị luận đệ nhứt. 

   

SAO: Văn Sức là lời lẽ có vẻ văn chương trôi chảy. Phàm người nghị luận, tâm tuy hiểu lý đó, song cứ nói tầm thường chẳng có văn chương, hay câu lối rời rạc không chải chuốt thời lời không đạt được ý. Như vậy không phải là người nghị luận giỏi!   


Bất Ðịnh là ý lanh lẹ của người giỏi nghị luận, dầu nói xuôi nghe cũng được hay luận ngược lời lẽ cũng nghe xuôi, khéo cả.   

   

Phiến Thằng là vì mẹ muốn đi cải giá, bị con còn bé (là ông) buộc ràng, tỷ như cây quạt có dây đai máng níu lại khỏi bị gió bay. Lại chữ Phiến Thằng có nghĩa là: Phá những cái nóng nực; kéo ngay những cái cong vạy.  Cũng là ý nói không mắc về bên Ðoạn (chấp không) và không lạc về bên Thường (chấp có), mở  bày lý trung đạo vì để thoát ly hai bệnh chấp có và chấp không. 

 

Như bọn ngoại đạo hỏi: Xét vì người chết đi rồi không thấy trở về, nên cho rằng không có đời khác. Nghĩa là người chết chịu khổ, lẽ phải trở về cho hay! Cái này đành ở đó chịu, không trở về, cho nên quyết chắc là không có đời khác.


Ông đáp: Kìa như người tội bị giam trong lao ngục, vậy có về được không!  


Lại hỏi: Còn người sanh lên cõi trời sao cũng không về?

  

Ðáp: Giả sử người rớt dưới cầu xí, bấy giờ đã lên được rồi vậy thử hỏi, người kia có chịu trở xuống chỗ dơ đó nữa không?! 

 

Như vậy, món món tất cả nghĩa mầu đều nói được hết. Trong kinh Tăng Nhứt A Hàm, Phật khen ông là người khéo phân biệt các nghĩa để diễn bày đạo giáo, cho nên nói ông là bực nghị luận đệ nhứt.


       

SỚ: Ông Ma Ha Câu Si La, Tàu dịch Ðại Tất, là cậu ông Xá Lợi Phất.


Ông nầy đáp, vấn đệ nhứt.  

    

SAO: Ðại Tất là theo hình trạng đặt tên. Người cậu ai?  Là em ruột của mẹ ông Thân Tử; ngày trước nghị luận giỏi hơn chị. Lúc chị mang thai ông Thân Tử thì cơ biện luận lanh chóng, ông không thể bì kịp. Ông (Ðại Tất) nổi giận đi học đến nỗi không rảnh để cắt móng tay. Ðọc thuộc 18 món kinh sử...    


Ðáp vấn là do vì ông quá siêng năng nên được bốn pháp biện tài. Hễ gặp ai hỏi thời đáp được liền, cho nên nói ông là bực đáp vấn đệ nhứt. 


     

SỚ: Ông Ly Bà Ða, Tàu dịch Tinh Tú. Một thuyết nữa nói là Thất Tú. Ông này "vô đảo loạn" đệ nhất. 

       

SAO: Tinh Tú là: Theo tục cầu con nơi ngôi sao này mà được sanh, nhơn lấy đấy đặt tên ông. Thất Tú là: Trong hai mươi tám ngôi sao, ngôi sao "Thất" nầy thuộc về ngôi sao thứ 13. Hoặc vì lễ cầu nơi ngôi sao nầy. "Vô đảo loạn" là vì tâm chánh nên không điên đảo, tâm định nên không tán loạn, cho nên nói: "Vô đảo loạn đệ nhứt".    


     

SỚ: Ông Châu Lợi Bàn Ðà Dà, Tàu dịch Kế Ðạo. Một thuyết khác nói là Tiểu Lộ Biên. Ông này chỉ thuộc có nửa bài kệ mà được tỏ ngộ chứng quả La Hán. 

   

SAO: Kế Ðạo là: Khi mẹ ông mang thai ông, theo phong tục Ấn Ðộ phải về nhà cha mẹ ruột để sanh đẻ, đi nửa đường sanh ông, vì lẵng nhẵng trong khoảng giữa đường nên đặt tên ông là Kế Ðạo.     

    

Tiểu Lộ Biên là: Mẹ ông sanh hai người con mà người nào cũng sanh ở giữa đường cả nên nói ông là Tiểu Lộ Biên, cho khác với khác với anh ông là Ðại Lộ Biên.    


“Nửa bài kệ” là: Ông xuất gia mà căn tánh ngu ám, ở chùa quá lâu, nhưng không biết chi hết. Người anh vào đạo trước, quở ông là vô tri, đuổi ông huờn tục. Ông dựa cửa chùa khóc than rơi lụy. Ðức Phật thấy vậy thương, thâu dùng lại cho học hai chữ: Tảo Chửu . Mỗi ngày ông đọc hai chữ, nhưng nhớ một chữ này, lại quên một chữ kia. Ðọc mãi lâu rồi thoạt ngộ, cấu sạch, hoặc trừ, ông chứng được quả A La Hán. 



SỚ: Nan Ðà, Tàu dịch là Thiện Hoan Hỷ, là ông Phóng Ngưu Nan Ðà.   


SAO: Phóng Ngưu  Nan Ðà là: Có đến 3 ông Nan Ðà: 


1. A Nan Ðà. 

2. Tôn Ðà La Nan Ðà và ông này nữa là 3 ông. 


Do dùng chữ Phóng Ngưu để cho khác với hai ông kia.  


   

SỚ: A Nan Ðà, Tàu dịch Khánh Hỉ, lại dịch Vô Nhiễm. Ông này là em con nhà chú của Phật. Ông có tài đa văn đệ nhứt.    

Chính kinh này thời ông A Nan cùng trong đại chúng đồng nghe giáo pháp môn Tịnh Ðộ, nhưng chỉ một mình ông đủ sức tổng trì, nhớ dai không quên, ông kiết tập thành tạng Kinh. 

 

SAO: Khánh Hỉ là ngày sanh ông nhằm ngày Phật thành đạo. Vua, bá quan và nhân dân một mặt nghe thái tử Sĩ Ðạt Ta con là nhà bác thành Phật, một mặt lại nghe trong cung, nhà chú sanh ra hoàng tử, cả hai đều tốt, cả hai điều khó được mà nay đồng thời đều được, cả nước vui mừng nên đặt tên ông là Khánh Hỉ. 


Lại người thấy tướng ông, người nghe tiếng nói của ông, người trông oai nghi của ông, không một ai là chẳng hoan hỉ.  


“Vô Nhiễm” là ông theo Phật lên cung Trời, xuống cung rồng, tâm không vui đắm, cũng là một việc đặc sắc. 

 

“Em con nhà chú của Phật”: Phật là con vua Tịnh Phạn, ông A Nan là con vua Bạch Phạn; vì hai vua là anh em ruột. 

   

Ða văn: Là ông A Nan làm "thị giả" cho Phật ba mươi năm, với những pháp Phật nói, ông chẳng quên một chữ. Kinh Niết Bàn khen ông là bực Ða Văn đệ nhứt. Lại ngài Ca Diếp khen rằng: “Pháp của Phật như nước biển cả mà đều chảy dồn về trong tâm ông A Nan!” 

       

“Ðồng nghe riêng nhớ”: Chính nêu ông là người "cường ký" (nhớ dai) hơn các bực kia, cho nên nói ông là bực Ða Văn đệ nhứt.   


 

SỚ: Ông La Hầu La, Tàu dịch Phú Chướng, cũng dịch Chấp Nhựt. Ông này "mật hạnh đệ nhứt". 

   

SAO: Phú Chướng là tên thần A Tu La. Vì khi sanh ông nhằm lúc thần A Tu La đang lấy tay che ánh sáng mặt nhựt, mặt nguyệt nên đặt tên ông là Phú Chướng và cũng tên là Chấp Nhựt. Song, Chướng có 2 nghĩa: 


1. Phật bị ông làm chướng, không xuất gia được SỚM, do vì thái tử (Phật) chưa có con (là ông) nên xin đi tu, đức phụ vương chẳng cho. Thái tử phải chỉ vào bụng vợ để giới thiệu, vua mới biết đã có thai, mới toại bổn chí; thế thì đức Phật bị ông làm chướng. 


2. Do đời trước ông lấp hang chuột sáu ngày nên nay mắc quả báo, phải ở trong thai mẹ 6 năm. Thế là ông tự làm chướng lấy ông.  

  

“Mật hạnh” là trong kinh nói: “Mật hạnh của ông La Hầu La duy có ta (Phật) biết được thôi”. Duy có Phật biết được thì đủ rõ các hàng Thinh Văn, bực Bồ tát còn không thể biết, huống chi chúng phàm phu làm gì biết được.  Bởi nhiều hạnh tốt mà người chẳng biết nên chỉ nói ông là bực mật hạnh đệ nhứt. 


 

SỚ: Ông Kiều Phạm Ba Ðề, Tàu dịch Ngưu Thi (trâu nhơi). Ông này thọ của chư thiên cúng dường đệ nhứt. 

    

SAO: Ngưu Thi là: Trong đời quá khứ ông khinh nhái một thầy sa môn già móm nhai mấp mấp, nay  mắc quả báo cái miệng ông nhai mấp mấp như mồm trâu nhơi. Lại vì mắc quả báo làm trâu năm trăm đời. Loại trâu ăn rồi; sau lại thường nhơi. Cái dư báo đó ông chưa hết, cho nên đặt tên là Ngưu Thi (trâu nhơi).  

    

“Chư Thiên cúng dường” là thời kỳ Phật và chúng tăng chịu quả báo ăn lúa ngựa  , chỉ một mình ông riêng ở trên cõi trời, nơi vườn Thi Lợi Sa hưởng thọ của trời cúng. Lại kẻ phàm phu không biết xem kính đức hạnh, chỉ thấy tướng nhơi của ông, phần nhiều khinh dễ, sợ họ chê cười mắc tội, Phật dậy ông thường ở trên cõi trời, chư thiên kính phụng nên chỉ nói ông là người thọ hưởng của chư thiên cúng dường đệ nhứt. 


    

SỚ: Ông Tân Ðầu Lô Phả La Ðọa, ba chữ trước Tàu dịch Bất Ðộng (là tên); ba chữ sau, dịch Lợi Căn (là họ). 

    

SAO: Tên trước họ sau là vì họ kia tới 18 phái, nên ông này kêu tên trước họ sau, là để khác với mấy ông trong các phái kia. Luật Nại Da nói: “Ông Trưởng giả tên Thọ Ðề lấy cái bát bằng gỗ chiên đàn để trên đầu cây cột phướn, rồi giao hứa với Tăng chúng rằng: ‘Vị nào có thể dùng thần lực lấy được, tôi xin hiến cái bát ấy’. Tôn giả hiện thần thông bay lên lấy bát.  Phật nghe quở trách, rồi bắt buộc không cho ông nhập diệt, để kéo dài thân sống lâu mãi ở qua đời mạt pháp, đặng chứng làm ruộng phước lớn cho trai chủ, chúng sanh cúng dường gọi là gieo giống lành vậy”.  


   

SỚ: Ông Ca Lưu Ðà Di, Tàu dịch là Hắc Quang (da đen láng ngời). 

    

SAO: Hắc Quang là vì nhan sắc ông xấu và đen. Lại sắc đen chói bóng, khác với đen thường thành thử ông đi khất thực ban đêm, người thấy kinh hãi! Do đó Phật mới chế giới cấm không cho đi đêm. 


 

SỚ: Ông Ma Ha Kiếp Tân Na, Tàu dịch là Phòng Tú (ông này biết việc tinh tú đệ nhứt). 

       

SAO: Phòng Tú là ngôi sao thứ tư trong 28 ngôi sao. Cha mẹ cầu khấn nơi ngôi sao này mà được kết quả sanh ra ông. Một thuyết khác nói: Khi ông mới đi xuất gia, muốn đến ra mắt Phật, nhưng đi nửa đường lại bị mưa, ghé ăn và ngủ nhờ trong nhà anh thợ đồ gốm, tình cờ có một thầy tỳ kheo cũng đến ngủ chung trong nhà ấy (Tỳ kheo kia là Phật hóa hiện). Ðêm ấy ông nghe ngài thuyết pháp, ông liền đắc đạo. Thế thời chữ Phòng Tú cũng là một nghĩa ngủ đậu trong nhà người thợ làm đồ gốm. 

     

“Tri tinh tú” là không cần mượn cái "triền cơ ngọc hoành" mà thông hiểu "thiên văn tinh tượng", cho nên nói tri tinh tú đệ nhứt. 


     

SỚ: Bạc Câu La, Tàu dịch là Thiện Dung, (ông này thọ mạng đệ nhứt). 

 

SAO: Thiện Dung là vì nhan mạo ông đoan chánh. “Thọ mạng”: Vì ông đến 160 tuổi, cho nên nói ông là thọ mạng đệ nhứt. Do đời trước ông giữ giới bất sát, được sống lâu, không chết yểu, 91 kiếp đều thọ như thế. Lại đời trước ông từng cúng trái A Lê Lặc cho một ông tăng có bệnh, do đó cảm được năm món bất tử. 

      

Khi mới sanh, ông hiện những tướng lạ. Bà mẹ tưởng là yêu quái,  đem để trên cái bàn ram nướng cho chết mà ông cũng không chết. Lại để trong cái chõ nấu cho chết mà ông cũng không chết. Lại đem ông thả giữa sông cá lớn nuốt, rồi cá bị người đánh lưới bắt, thợ chài lấy dao mổ cá, bày ông ra mà không tồn hại chi hết. Nói lại: 


1. Lửa không thể nướng. 

2. Nước sôi không thể nấu. 

3. Nước sông không thể chìm. 

4. Cá nuốt không chết. 

5. Dao cắt không hại nên gọi là năm món bất tử.  

       

Lại ông ưa chỗ vắng vẻ, lòng ít ham muốn, thâu nhiếp sáu căn nên sau khi ông diệt độ, cái tháp của ông còn không chịu thọ tiền của vua cúng .  Do lúc bình thường ông ưa chỗ vắng vẻ, không chịu ở trong chỗ đông người, vì sợ nhiễm những tiếng thị phi, đây cũng xưng là đệ nhứt. 


  

SỚ: Ông A Nâu Lâu Ðà, một tên nữa A Na Luật Ðà, Tàu dịch Vô Bần, cũng dịch Vô Diệt; cũng dịch Như Ý. Ông này có phép thiên nhãn thông đệ nhứt.  

      

SAO: Vô Bần là thuở trước nhằm thời có nạn đói khát, ông đem cơm lúa tắc cúng cho một vị Bích Chi Phật nên được hưởng phước 91 kiếp, của cải nhẫy đầy, hưởng dụng đến nay không hết, cầu điều chi đều được như ý, cho nên có nghĩa Vô Bần, Vô Diệt, Như Ý; cả ba nghĩa đã dịch.

   

Phép "thiên nhãn thông" đệ nhứt là ông đã xuất gia mà tánh hay ưa ngủ, mỗi thời Phật thuyết pháp, ai nấy chăm nghe còn ông thì vẫn cứ gật gù ngủ, không biết là gì hết. Phật quở trách ông và tỷ dụ như loài ốc, sò. Ông tự giận lấy mình, liền phát chí tinh tấn trong bảy ngày đêm, mắt không nhắm mí, bị mù hai con mắt. Phật bèn dạy ông tu tập phép "Nhạo Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội", ông liền chứng pháp thiên nhãn thông, thấy suốt cõi Ðại Thiên thế giới cũng như thấy trái để trong lòng bàn tay, cho nên nói ông là: “Thiên nhãn thông đệ nhứt”. 

  

 

 nhng v đi đ t như thế.



SỚ: “Như thị”như thế là kết văn trước. Chữ “Ðẳng”nhng v là chỉ các ông kia.  Chữ Ðại là gồm nghĩa chữ Ðại văn trước. Chữ “đệ tử” là học sau thầy là Ðệ, sự hiểu biết do thầy sanh ra là “tử”. Cái thắng hội như đây nên gọi “Nan đệ, nan huynh, khéo làm khéo thuật”. 

   

SAO: “Kết văn trên” là kể các ông khác. Ðây  trước kết 16 vị Tôn giả; sau kể một nghìn hai trăm năm mươi người.

     

“Gồm nghĩa chữ đại văn trước” là chữ “đại đệ tử” văn đây, tức là văn trước chữ “đại Tỳ kheo, chữ đại A La Hán”; lấy một chữ Ðại văn đây gồm luôn nghĩa hai chữ Ðại trong văn trước vậy.  

       

“Học sau thầy” là vì thầy biết trước, trò biết sau, như anh trước em sau vậy. “Sự hiểu do thầy sanh ra” là vì nhờ thầy mở bày, nuôi dưỡng mới thành pháp khí; chỗ gọi rằng: “Từ miệng Phật sanh ra, sẽ nối thạnh giống Phật”. Như cha mẹ sanh con, con sẽ thờ nối Tổ Tiên.


“Nan huynh, nan đệ” là: Xưa nói ông Nguyên Phương khó làm anh, ông Quí Phương khó làm em. Nghĩa là anh em đồng có tài trí hơn người, không ai hơn, thua. Nhưng ở đây không lấy ý đó, chỉ lược dụ Phật là anh, các vị A La Hán là em, vì cả hai trong đời đều khó đặng mà nay đều đặng.

  

“Khéo làm, khéo thuật” là: Xưa nói ông vua Văn Vương, ông Vương Quới làm cha, cha làm ra trước; ông Võ Vương làm con mà con nối theo sau. Nhưng nay cũng chẳng dùng ý đó, chỉ lược dụ Phật là cha, các vị A La Hán là con vì thầy trò đạo hiệp. 


  

SỚ: Xứng lý thì tự tánh, tâm vương, tâm số, dung thông, là nghĩa Phật cùng đệ tử cu hội.  

 

SAO: Ngài Thiên Thai nói: “Tâm vương là Như Lai, tâm số là đệ tử”.  Nay giải nghĩa: Tâm vương là tám thức tâm vương. Tám thức tâm vương đây, thiện ác luân chuyển do nó làm chủ tể, ví như ông vua cai trị dân chúng, ông thầy dạy dỗ học trò.  


Tâm số là 51 món tâm sở.  Năm mươi mốt tâm sở đây có 3 nghĩa: 

     

1. Thường y nơi tâm vương để phát khởi.        

2. Tương ưng với tâm vương.   

3. Hệ thuộc với tâm vương. Vì nó đối với tám thức tâm vương kia, cũng như tôi chầu vua, đệ tử hầu thầy. 


Lại Ngài Trí Giác nói: “Mười vị đại Thanh Văn đều là số mười pháp thiện của tâm mình” (10 vị: Từ 1 Ða văn đệ nhứt đến 10: thiên nhãn đệ nhứt).  

      

Luận Tỳ Ðàm lời kệ nói: 


1. Tâm dục. 

2. Tâm tưởng. 

3. Tâm cánh nhạo. 

4. Tâm huệ. 

5. Tâm niệm. 

6. Tâm tư. 

7. Tâm giải thoát. 

8. Tâm tác ý cùng cảnh giới (xúc). 

9. Tâm Tam ma đề (định). 

10. Tâm thống. 


Nên biết ông Ðại Ca Diếp là "tâm số dục" do vì chỉ còn giữ cái phép xuất ly, phát tâm thiện dục xuất thế gian, bỏ tâm ác dục của thế gian.


Ông Phú Lâu Na là "tâm số tướng": Do vì tướng thời mới phân biệt biện tài, không ngăn ngại.  

       

Ông Ca Chiên Diên là "tâm cánh nhạo": Do vì vấn đáp lời lẽ qua lại nhiều lý do đắp đổi lẹ làng, luận nghị không cùng. Nhẫn đến "tâm huệ" là ông Xá Lợi Phất, "tâm niệm" là ông Ưu Ba Ly, "tâm tư" là ông La Hầu La, "tâm giải thoát" là ông Thiện Kiết, tức là ông Tu Bồ Ðề, "tâm tác ý" là ông A Na Luật, "tâm tam ma" là ông Mục Kiền Liên, "tâm thống" là ông A Nan ... 

      

Chữ Thống là thọ, có ý nghĩa lãnh nạp.  

      

“Phàm tâm vương phải đủ tâm số”: Tâm số quyết phải qui tùng tâm vương. Cả hai giúp đỡ lẫn nhau mới được khai ngộ. Song dầu tâm vương, dầu tâm số, cũng chẳng ra ngoài một cái tâm mình, miễn mình đặng nhứt tâm thời gồm cả tâm vương và tâm số.



 Và hàng Ði B Tát,



SỚ: Chữ “Tinh” (và) : Nương theo văn trước, nói Phật thuyết kinh này, chẳng những hàng Thinh Văn dự hội, mà cả đến bực Ðại Sĩ cũng đồng nghe pháp "trì danh niệm Phật" này.

         

Chữ Bồ Tát là tiếng Phạm, nói đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa (nay nói có hai chữ Bồ Tát là bớt văn). Tàu dịch là Giác Hữu Tình. Chữ Giác Hữu Tình lại còn có 3 nghĩa, lại cũng có nghĩa là Dõng Mãnh mà cầu. Chữ Ma Ha Tát, Tàu dịch "Ðạo đại tâm chúng sanh"; do vì đủ bốn nghĩa Ðại. Lại kinh Pháp Hoa có 6 nghĩa Ðại, Luận Phật Ðịa ba nghĩa đại, cũng không ngoài bốn nghĩa. Chữ Bồ tát Ma Ha Tát, cũng như nói:  Bực Ðại Bồ Tát trong hàng Bồ tát vậy. Vì lựa khác với bực Tiểu Bồ tát.

      

SAO: “Chẳng những hàng Thanh Văn” nghĩa là bực Ðại thừa, Tiểu thừa, tất cả hiền thánh đồng nghe kinh này, chớ lầm tưởng rằng cõi Tịnh Ðộ là chỗ các bực Bồ tát chẳng màng đâu!

    

Chữ “Giác hữu tình” là đồng chứng chỗ Phật chứng, đó gọi là Giác.  Nhưng vô minh chưa hết gọi là “tình”.   


Lại có ba nghĩa là: 


1. Nghĩa “bi, trí sở duyên”; gọi rằng chữ Giác là chỗ tu đạo Phật. Chữ Tình là chỗ độ các chúng sanh. Nghĩa là trên dùng trí mà cầu quả Phật, dưới dùng lòng bi cứu độ chúng sanh.

2.  Nghĩa “năng, sở hiệp nhứt”, gọi rằng chữ Giác là cái quả sở cầu (bị cầu). Chữ “hữu tình” là những người năng cầu. Nghĩa là lấy tâm của mình mà cầu ngộ lý Phật.       

3.  Nghĩa “lợi sanh là gấp”, gọi rằng rộng Giác ngộ cho tất cả loài hữu tình. Nên có câu: “Chưa hay độ mình, trước lo độ người” là nghĩa đây vậy. “Dõng mãnh cầu” là: Hàng Thinh Văn cầu về nơi vắng lặng để an hưởng riêng phần mình, đức Phật gọi là anh chàng giải đãi. Còn bực Ðại Sĩ (Bồ Tát) quyết chí chứng được quả Bồ Ðề, nên nói ông là tướng đại cường tinh tấn và dõng mãnh. 

        

“Chữ Ðại có 4 nghĩa”: Lời SỚ của ngài Thanh Lương nói: 

         

1. Nguyện đại, vì cầu cho được quả Bồ đề.           

2. Hạnh đại, vì thành tựu được hai lợi (tự lợi và lợi tha).             

3. Thời đại, vì trải qua 3 vô số kiếp, cũng cố gắng tu cho thành.         

 4. Ðức Ðại, vì đầy đủ các công đức bực nhứt thừa.  

  

Kinh Pháp Hoa nói sáu nghĩa đại là:  

           

1.  Tín đại pháp (tin pháp Ðại thừa)             

2.  Giải đại nghĩa (hiểu nghĩa đại thừa)         

3.  Phát đại tâm (Phát tâm đại thừa)              

4.  Xu đại quả (tới quả đại thừa)         

5.  Tu đại hạnh (tu hạnh đại thừa)                 

6.  Chứng đại đạo (chứng đạo đại thừa).  

    

Nhưng mà Tín, Giải và Phát, ba đại đây gồm trong 1 nghĩa Nguyện Ðại thứ nhứt. Xu gồm trong nghĩa Thời đại thứ ba. Tu gồm trong nghĩa Hạnh đại thứ hai. Chứng gồm trong nghĩa Ðức đại thứ tư.   

     

Trong luận Phật địa có ba nghĩa đại là: 


1. Số đại. 

2. Ðức đại. 

3.  Nghiệp đại. 


Song Ðức đại thời dễ  biết, còn Số đại, tức là ý nghĩa Nguyện đại; Nghiệp đại tức là ý nghĩa Hạnh đại, cho nên nói không ngoài 4 ý là vậy.   “Lựa ra chẳng phải bực Tiểu” là như đức Văn Thù, đức Di Lặc ... đều bực Ðại thừa Bồ tát ở trong địa vị Thập Ðịa Bồ Tát, Ðẳng Giác Bồ Tát, chớ chẳng phải Bồ Tát sơ tâm ở 5 phẩm  là Tín, Trụ, Hạnh, Hướng Bồ tát. 


    

SỚ: Xứng lý thời tự tánh chơn vọng dung thông là nghĩa Bồ tát.  

   

SAO: Chơn tánh thời chẳng biến mà tùy duyên tám thức, là nghĩa giác ngộ cho loài hữu tình. Vọng thức thời làm thành các việc mà bản thể vẫn không dích mắc là nghĩa loài hữu tình có tánh giác. Chơn và vọng chẳng lập riêng, chỉ là nhứt tâm. Thành cái tâm đại đạo đây, gọi là Ma Ha Tát.



Văn-Thù-Sư-Li: Pháp-Vương-T, A-Dt-Ða B Tát, Càn-Ðà-Ha-РB Tát, Thường-Tinh-Tn B tát…



SỚ: Văn Thù Sư Lợi, Tàu dịch Diệu Thủ, cũng dịch Diệu Cát Tường, cũng dịch Diệu Ðức. 


Pháp Vương tử là Phật là ngôi Pháp Vương, Bồ tát vào ngôi chánh của Pháp, gọi là Pháp vương tử.   


Lại hàng Bồ Tát bắt đầu nói ngài Văn Thù là so nghĩa như văn trước:  Với hàng Thinh Văn, Phật kêu là ông Xá Lợi Phất.  


SAO: Văn Thù Sư Lợi, cũng dịch Mạn Thù Thất Lợi, hay là Diệu Thủ v.v... Chuẩn theo tông Hoa Nghiêm, nêu ba pháp môn: Tín, Hạnh và Trí.  Diệu Thủ là pháp môn Tín vì Tín là đầu muôn hạnh, muôn đức. Diệu Cát Tường là pháp môn Hạnh vậy.


Luận Phật Ðịa nói: “Ðược tất cả thế gian thân cận cúng dường và tán thán nên kêu Ngài là Diệu Cát Tường”. 


Lại đức Chơn Ðế nói: “Ðối giữa kẻ oán, người thân, ngài luôn luôn làm việc lợi ích, không làm việc tổn não, cho nên gọi ngài là Diệu Cát Tường”. Lại khi sanh ngài có mười điềm tốt: Từ món thứ nhất là hào quang sáng đầy nhà cho đến thứ 10 là voi mọc sáu ngà  nên kêu ngài là Diệu Cát Tường. Ðó là tức "Giải" mà "Hạnh".  


“Diệu đức pháp môn” là Trí vậy. Kinh nói: “Trí là mẹ chư Phật”, là thầy đức Thích Ca đâu chẳng phải Diệu Ðức (đức mầu nhiệm), đó là tức "Hạnh" mà "Giải".   


“Vào ngôi chánh của pháp” là đức Như Lai nương theo lý trung đạo nghĩa đệ nhứt, mà những Bồ tát vào được địa vị đấy, gọi là nối thạnh dòng Phật, được kế vị làm Phật, cũng như đấng Ðại Quân thể theo đức nguơn ở ngôi chánh, đã sanh thái tử, nay ở Ðông cung rồi sẽ nối ngôi chánh (lên làm quốc chủ) nên gọi: Pháp vương tử, lại gọi là Phật tử, ý đây cũng thế.  

     

Phàm Bồ Tát đều là Pháp Vương Tử, sao gọi riêng một mình ông Văn Thù? Tổ Kinh Khê nói: “Ðối trong hàng vương tử, về đức thời nhường cho ngài Văn Thù”.  

      

Lại các kinh cũng nói: “Vì ngài Văn Thù thường làm bậc thượng thủ cho tất cả hàng Bồ Tát”. 

        

Lệ như ngài Xá Lợi Phất là ông Thân Tử trí huệ đệ nhứt, ngài Văn Thù bực đại trí độc tôn (như văn trước đã rõ). Vì kinh này duy có bực trí mới tin lãnh nổi. Lại phân biệt mà luận thời ông Thân Tử là bực quyền trí, ngài Văn Thù là bực thật trí.   

 

Quyền Trí nói về sự có sanh Tịnh Ðộ; Thật trí nói về lý không sanh Tịnh Ðộ. Kẻ độn căn từ "quyền" vào "thật". Người lợi căn thì "quyền" "thật" đều đồng thời dung thông.  

   

Nếu suy cho tột gốc để mà luận, kinh Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Lại có trăm nghìn vạn ức Bồ Tát thị hiện làm thân Thinh Văn cũng đến ở trong pháp hội, tên các vị kia là Xá Lợi Phất” ... Thế thời ngài Văn Thù, ông Thân Tử, đồng một bực trí huệ thậm thâm. Càng biết kinh này chẳng phải người thiển trí mà có thể tin nổi. 


  

SỚ: A Dật Da, Tàu dịch Vô Năng Thắng (tức là ngài Di Lặc Bồ Tát). 

   

SAO: Di Lặc, Tàu dịch Từ Thị (là họ), A Dật Ða (là tên). Nói cho đủ thời phải nói Từ Vô Năng Thắng. Do vì khi ngài ở trong thai mẹ, đã có từ tâm cho nên lấy đó mà đặt là họ Từ. Lại về đời quá khứ, ngài gặp đức Ðại Từ Như Lai, ngài nguyện đồng hiệu đó, liền được pháp Từ Tâm tam muội. Lại đời trước ngài làm thầy bà la môn, hiệu  Nhứt Thế Trí, tu tập hạnh Từ trong tám nghìn năm. Lại thời kỳ Phật Phất Sa, ngài với đức Thích Ca Như Lai đồng phát tâm Bồ Ðề, thường tu tập pháp Từ định. Lại kinh Tư Ích nói: “Chúng sanh thấy ngài liền được pháp Từ Tâm tam muội”. 

        

Lại kinh Bi Hoa nói: “Ngài phát nguyện ủng hộ chúng sanh trong kiếp đao binh”. Thế là lòng từ chan chứa đương đời, lòng bi tràn ngập đến đời sau. Vì lòng từ tột bực vượt khỏi kẻ phàm phu và Tiểu thừa nên gọi Ngài là Vô Năng Thắng (không ai hơn). 



SỚ: Lại ngài Di Lặc đã nghe kinh này, chắc hội Long Hoa , ngài sẽ nói kinh này nên biết kinh này lưu thông vô tận. 

 

SAO: 


Hỏi: Sao biết chắc như thế? 


Ðáp: Kinh Pháp Hoa nói: “Cổ Phật đã phóng quang ấy là vì nói kinh đây”. Nay lại Phật cũng phóng quang ấy nên biết chắc cũng nói kinh đây thời mỗi đức Phật nào cũng nói kinh Pháp Hoa vậy. Mà kinh này đây (kinh Di Ðà) là pháp độ sanh cần kíp, chư Phật đồng tán thán. Chư Phật đã đồng tán thán, chắc là chư Phật cũng đồng tuyên nói kinh này, cho nên biết kinh nầy, hội Long Hoa chắc chắn sẽ nói, có nghi chi đâu?! 



SỚ: Càn Ðà Ha Ðề, Tàu dịch là Bất Hưu Tức.   

 

SAO: Bất Hưu Tức nghĩa là: Tu các hạnh tốt nhiều kiếp như số cát sông Hằng, vậy sau mới được thọ ký. Vì trải nhiều kiếp như thế mà không hề thôi, nghỉ.


 

SỚ: Thường Tinh Tấn: Có hai nghĩa: 


1. Ngài Thiên Thai nói: “Vì thấy pháp tánh thường trú (còn hoài) nên tu pháp Vô Tác và Chánh Cần”. 

2. Kinh Bảo Tích nói: “Vị Bồ Tát này vì một chúng sanh khó độ, trải vô lượng kiếp, theo dõi chẳng thôi, chúng sanh ấy cang cường không chịu nghe lời giáo hóa, thế mà ngài chẳng có một tâm niệm buông bỏ”; thật là tinh tấn rất tột bực.     

 

SAO: Hai nghĩa là: 

          

1. Tự lợi: Mình chưa sanh tâm thiện, làm SAO cho thêm lớn tâm thiện, đã sanh thiện phải khéo giữ gìn. Chưa sanh tâm ác, ngăn ngừa đừng sanh, đã sanh tâm ác lỡ rồi, mau mau trừ diệt, gọi là tứ chánh cần (4 việc siêng năng).  Mà nói thấy tánh là Vô Tác thời rõ biết pháp tánh vốn không phải thiện, không phải ác. Tuy nói rằng “tu thiện”, nhưng không tu mà tu. Tuy nói rằng: “bỏ ác” nhưng không bỏ mà bỏ. Nghĩa là: Vì một vọng niệm không sanh, tức là chơn tinh tấn.                

2. Lợi tha: Vì độ nhiều chúng sanh cũng chưa lấy làm khó; nay nói chỉ vì một chúng sanh, mới thiệt là khó. Trong giây phút vì một chúng sanh cũng chưa lấy gì làm khó, nay nói tới vô lượng kiếp mới thiệt là khó. Nhiều kiếp mà nhằm người dễ hóa độ cũng chưa lấy làm khó, nay nói còn một người không chịu sự hóa độ mà không buông bỏ mới thiệt là khó. Không buông bỏ, cũng chưa lấy gì làm khó; nay nói rằng: Không một tâm niệm buông bỏ mới thiệt là khó. Tinh tấn như thế mãi, không mảy may nào lui sụt, cho nên nói là “thường”. 

      

Lại ngài Bất Hưu Tức tức là ngài Thường Tinh Tấn; ngài Thường Tinh Tấn tức là ngài Bất Hưu Tức. Hai vị Bồ tát đây, tuy rằng cái tên khác nhau, nhưng vẫn đồng một đức tánh.    


cùng vi các v Ði B tát như thế 



SỚ: Kết văn trên chiếu lệ bao nhiêu nữa cũng đồng như trước. Vì chánh ngay kinh này thì tiêu biểu ba môn: Tín, Hạnh và Nguyện, làm thành cái nhơn cõi Tịnh Ðộ. 

  

SAO: “Ðồng như trước” là: Kết văn trên: đức Văn Thù, đức Di Lặc ... “chiếu lệ bao nhiêu nữa” thời như đức Phổ Hiền, đức Quan Âm, tất cả các hàng Bồ Tát nữa cũng như vậy.

    

Tín, Hạnh và Nguyện: Ngài Diệu Thủ (Văn Thù) là tiêu biểu pháp môn: Tín. Bởi cầu sanh Tịnh Ðộ do tâm Tín làm đầu tiên. Kinh nói: "Nhược hữu tín giả, thị dã" (phải có lòng tin mới được). 

        

Ngài Tinh Tấn là tiêu biểu pháp môn Nguyện và Hạnh. Tinh là bất tạp. Tấn là bất thối. Bất tạp là: Kinh nói: “Nhứt tâm bất loạn”. Bất thối là  kinh nói: “Bất thối chuyển Bồ đề”. Ngài Bất Hưu Tức tức là nghĩa Bất Thối.  

   

Lại ngài Di Lặc là Từ Hạnh, ngài Càn Ðà là Phạm Hạnh. Trong Quán kinh nói: “Từ tâm bất sát, đủ các giới hạnh”. Vì thành cái nhơn cõi Tịnh độ, thời kể bày các vị Bồ tát, không có một vị nào mà chẳng trồng nhơn Tín, Hạnh, Nguyện.  


      

SỚ: Xứng lý thời tự tánh không chỗ nào chẳng chiếu, ấy là nghĩa Văn Thù đại trí. Tự tánh không chỗ nào chẳng dung tha là nghĩa Di Lặc đại trí. Tự tánh vô cùng vô tận là nghĩa ngài Bất Hưu Tức, là Thường Tinh Tấn. Còn bao nhiêu nữa so theo đây nên biết.

    

SAO: “So theo đây nên biết” là: Tự tánh quảng đại là nghĩa Phổ Hiền, tự tánh viên thông là nghĩa Quan Âm ... Như văn trên, tùy nói một môn, để nêu danh hiệu các ngài. Nếu mỗi ngài đều đủ hết, tức là danh tự lẫn thông, cho nên nói “tâm tức là danh tự” vậy (tâm chỉ có danh tự, không có hình tướng). Hiểu như thế, tức là ở trong một tâm chánh quán, thấy đủ tất các vị Bồ Tát. Nay chúng ta thấy phàm phu, không thấy các vị Bồ Tát là do vì mất tâm chánh quán. Cho nên nói: “Bồ Tát như trăng mát, thường dạo khắp hư không. Chúng sanh lòng trần sạch, bóng Bồ Ðề hiện ở trong”. 

 

  

và vi vô lượng chư Thiên như ông Thích-Ð-Hoàn-Nhơn... đi chúng cùng đến d hi. 


 

SỚ: Chữ Cập là nối văn trước nói: Pháp môn Tịnh độ này chẳng những các bực thánh dự hội mà tất cả chúng phàm phu cũng đồng nghe nữa. Chữ Thích Ðề Hoàn Nhơn Tàu dịch Năng Thiên Chủ. Nói chữ  Ðẳng lại cũng nói “vô lượng” là vì nói chung hết tất cả các hàng chư Thiên vậy. Nói chữ “đại chúng” là vì gồm hết tất cả các chúng sanh vậy.  Chữ “cu” là chung kết luôn các vị Bồ Tát cho đến các văn sau. 

          

SAO: Văn trên nói chữ “tịnh chư Bồ Tát” là một đối đãi với nhau giữa Tiểu thừa và Ðại thừa. Văn đây nói chữ “cập chư thiên đại chúng” là một đối đãi với nhau giữa Thánh và Phàm, nghĩa là: Thánh, Phàm đồng nghe kinh này, chớ lầm rằng: Cõi Tịnh độ là chỗ kẻ phàm phu chẳng được nghe hay về ở!


Thích Ðề Hoàn Nhơn là: Nếu nói cho đủ thì phải nói “Thích Ca Ðề Bà Nhơn Ðề”, Tàu dịch Thiên Chủ, rõ có 5 tên, sợ nhiều không nói.


Nhắc lại: Thời kỳ Phật Ca Diếp nhập diệt, có một người nữ phát tâm làm tháp, lại có 32 người phụ giúp, nay người nữ đó được làm vua trên cõi Trời Ðao Lợi, thống nhiếp cả 4 phương 32 cõi trời. Lại trong kinh A Hàm nói: Người nữ đó khi còn làm người thật hành việc đốn thí (bố thí triệt để), nay làm đặng ông chủ, cho nên nói là Thiên Chủ.


Chữ Ðẳng là: Luôn 32 trời bạn, nhẫn đến còn nhiều trời dân nữa vậy. Chữ “vô lượng” là: Nói thêm cho hết, thời gồm cả cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, hết thảy các cõi trời.


Song, chữ Thiên là trời, mà tiếng “trời" có nhiều nghĩa: Trời là ngày vì ngày rất dài; Trời không buồn rầu vì thường hưởng sự vui; Trời là đèn sáng vì chẳng có tối tăm.


Chữ “đại chúng” là: Trên chư thiên, sắp xuống thì là người và thần A Tu La, chung hết tất cả chúng sanh trong 6 đường vậy. Một thuyết nữa nói: Gồm văn trước, các hàng Bồ tát và Thinh Văn, đồng kêu là ‘đại chúng’.


“Chung kết” là: Văn trước nói: “Cùng các chúng đại Tỳ Kheo cu hội”. Văn đây chữ “Cu” là cũng nói cùng với các vị Bồ tát, chư thiên, và đại chúng đồng “cu hội” vậy.


Hoặc có người gạn hỏi: Chúng ở cõi trời Vô Sắc thời không tai, không thân, còn loài ngạ quỉ, địa ngục thời rất tối, rất khổ, đâu cho dự hội mà nghe kinh này? Song chúng sanh ở cõi trời Vô Sắc là không sắc thân thô, chớ không phải là không sắc thân tế. Cho nên khi đức Phật, ngài nhập Niết Bàn, các người ở cõi trời Vô Sắc rơi nước mắt như mưa. Thời có thân đến, có tai nghe cũng là vô ngại. Ðến như các nơi địa ngục, ngạ quỉ trừ những người nghiệp nặng, hoặc ngăn cách chẳng thông, còn như những kẻ nghiệp nhẹ chưa chắc là mất phần.


Huống lại hào quang đức Phật soi vào đâu, dù là địa ngục hoặc thiên tử tức Diêm La Vương cũng chứng đặng pháp Ðốn và Viên. Thế thì Phật thuyết kinh này, hào quang chiếu khắp 10 phương, đâu biết loài ngạ quỉ và địa ngục chẳng được nghe ư?!   


      

SỚ: Xứng lý thời tự tánh thấu trên, suốt dưới là nghĩa La Hán, Bồ Tát, chư thiên, đại chúng đồng cu hội.

 

SAO: Pháp này là pháp bình đẳng, không có phân biệt cao thấp. Trên thời suốt đến chư Thánh, trên cũng được dự hội. Dưới thời suốt đến lục phàm, dưới cũng được dự hội. Bởi cả pháp Tứ Ðế, pháp Thập Nhị Nhơn Duyên, pháp Tứ Ðẳng, pháp Lục Ðộ, pháp Ngũ Giới, pháp Thập Thiện và Vạn Hạnh, nhẫn đến tám vạn bốn nghìn, các cửa trần lao lăng xăng, duy có một cái tâm này, vì ở trong tánh chơn thật không sai không khác. Mặc dầu long, xà (rồng, rắn) hỗn tạp (lộn lạo), Phàm, Thánh giao tham (đua chen), nhưng ở trong đó, Phật pháp vẫn trụ trì (như như) xưa sao nay vậy (bình đẳng).



2. Phát-Khởi TỰ


By gi đc Pht bo ngài Trưởng lão Xá-Li-Pht rng:



          SỚ: Từ văn đây sắp xuống thuộc về phần  Phát-Khởi TỰ, về trước là phần Chứng-Tín TỰ, về sau là phần lưu thông (truyền bá). Duy có văn đây là chánh nghĩa sở tôn trong một bộ kinh vậy.

          “Nhĩ thời” là: Ðương thời đủ sáu món thành tựu kia. “Phật cáo” là vì kinh này không ai phát khởi (mở lời hỏi), Phật tự kêu ông Thân Tử mà nói. Bởi vì kinh này cứu đời cần kíp nên không đợi ai thỉnh. 


          SAO: Phàm nói chữ “nhĩ thời”, chắc trước có lời duyên khởi (mở đầu) cho nên nói “đương thời” vậy (6 món thành tựu). “Phật tự thuyết” là: Các kinh đều có Thông (chung) Biệt (riêng), hai bài tự: Thông là bài tự Chứng - Tín. Biệt là bài tự Phát - Khởi. Như Kinh Pháp Hoa thời tướng Bạch Hào của đức Phật phóng quang là mở đầu giáo pháp nhứt thừa (nhứt thừa Thật tướng). Kinh Duy Ma thì ngài Duy Ma thị tật (giả bệnh) nơi thành Tỳ Da là khai hiển pháp môn bất nhị. Còn kinh Viên Giác, kinh Kim Cang cho đến các kinh, phần nhiều nhơn có người hỏi trước, sau đó Phật mới vì đó mà diễn nói.

          Nay kinh này không phải vậy, cho nên nói: “Không người phát khởi”.

          “Cứu đời cần kíp” là gì? Chúng sanh đời mạt pháp căn độn chướng sâu, rất khó đặng hạng người tu theo hai pháp giải thoát và thiền định! Nên Phật dùng lòng đại bi thương xót thuyết ra một môn trì danh niệm Phật này để cứu cấp chúng sanh bằng cách chấm dứt đường sanh tử vì đi tắt ra khỏi 3 thế giới mà còn e không kịp nên chẳng đợi ai thỉnh cầu.

          Ví như có người xảy mắc chứng bệnh quá ngặt, sanh mạng chỉ còn trong hơi hoi hóp dù ta sẵn có phương thuốc hay đối chứng mà còn y đó bào chế thì e trễ nãi ngày giờ, thuốc chưa làm xong, mạng đã chết trước.

          Chi bằng, đã sẵn có thuốc làm rồi, đổ vô miệng là tức thì sống ngay. Nếu người có lòng nhơn, phải cho lập tức, đâu lẽ còn đợi người kia sắm lễ ân cần vậy sau mới là cho thuốc!? Phật cứu chúng sanh cũng y như thế.



          SỚ: Hỏi: Với các kinh khác thì không luận; chỉ như bổn giáo hai kinh đều có người phát khởi; SAO riêng kinh này chẳng như thế có? Ðáp: Vì ý chỉ càng thiết, cũng là có phát khởi bằng cách không phát khởi đó thôi. 


          SAO: “Bổn giáo hai kinh” là kinh Thập Lục Quán và kinh Ðại Bổn, đồng bộ với kinh này, cả hai đều chuyên nói về pháp tu Tịnh Ðộ, cho nên goi là bổn giáo.

          Quán Kinh thời do bà Vi Ðề Hi bị đứa con ác nghiệt (vua A Xà Thế) làm hại, nên bà chán cõi đời ngũ trược mà cầu sanh nước thanh tịnh. Bà bạch đức Phật rằng: “Con nguyện sanh về thế giới thanh tịnh, không muốn ở thế giới ác trược cõi Diêm Phù Ðề này”.

          Ðấy là do mẹ con vua A Xà Thế làm người phát khởi.

          Kinh Ðại Bổn nói: “Một bữa nọ dung nhan đức Thế Tôn khác thường, thị giả là ông A Nan thấy vậy, bạch hỏi: ‘Từ khi con theo hầu Phật, chưa từng có lúc nào được thấy dung nhan Phật như ngày hôm nay. Phải chăng Phật nghĩ nhớ các đức Phật đời quá khứ hay là chư Phật kiếp vị lai, cho nên có sự khác thường như thế?’

          Phật bảo: ‘Quí quá thay A Nan! Có các vị chư thiên mượn đệ tử đến hỏi hay đệ tử tự hỏi như thế?

          Này A Nan! Câu hỏi của đệ tử đó nó có phước đức hơn gấp trăm lần, nghìn lần, muôn lần đối với kẻ đã trải qua nhiều kiếp đem của bố thí cho các thánh nhơn như Thinh Văn, Duyên Giác, chư thiên, nhơn dân, nhẫn đến các loài bò bay máy cựa ở đầy trong một châu, trong bốn châu thiên hạ, cũng chẳng bì kịp câu hỏi của đệ tử!

          Sở dĩ vì SAO? Bởi chư thiên, nhơn dân, cho đến loài bò bay máy cựa đều nhờ câu hỏi của đệ tử mà được độ thoát”.

          Ðây là do vì lấy dung nhan vui vẻ của Như Lai làm nhơn duyên phát khởi kinh Ðại Bổn.

          Nay có người hỏi nạn rằng: Các kinh có người phát khởi, thôi xin gác lại khoan luận. Chỉ như hai kinh này bổn giáo Tịnh Ðộ (gốc dạy tu Tịnh Ðộ) đều có người phát khởi. Kinh đây (Di Ðà) cũng chẳng khác gì hai kinh kia, vì lẽ gì lại riêng không nói? Cho nên lập lời đây để giải rõ: Nghĩa là Phật thuyết hai kinh tuy cũng là một tâm đại bi thiết yếu, riêng dạy pháp vãng sanh. Song mà pháp quán tinh vi, môn nguyện rộng lớn, như đã nói trong bài tự văn trước, chưa bằng kinh này, chỉ chuyên sự trì danh, liền sanh nước kia, rất là cần yếu mà lại cần yếu, cho nên ý Phật đối với đây cũng đã thiết yếu mà lại càng thiết yếu, vì các chúng sanh làm bạn bất thỉnh vậy.

          “Không phát mà phát” là: Vì chúng sanh hiện tiền ưa đắm sanh tử không cầu ra khỏi; tự hay phát khởi lòng đại bi của Phật nên ngài mới thuyết kinh này không đợi ai thỉnh.



          SỚ: Phật chỉ kêu một mình ông Xá Lợi Phất để bảo là: Lệ như văn trước nói duy người có trí mới tin nổi kinh này. Lại bảo một mình ông tức là bảo tất cả chúng. Ngài Tịnh Giác nói: “Vì pháp hiệp bốn mốn Tất Ðàn vậy”. 


          SAO: “Lệ như văn trước” là: Tức là ý nghĩa bắt đầu nói ông Thân Tử do vì ông có trí huệ thậm thâm. Xét thấu các cơ tịnh và uế, dung thông tột ngành sự và lý, mới hay tin thọ không nghi. Như trên hội Bát Nhã, bắt đầu nói ông Tu Bồ Ðề, do kinh Bát Nhã luận lý Chơn Không mà ông Tu Bồ Ðề là người hiểu lý Chơn Không đệ nhứt trong chúng.

          “Bảo tất cả” là: Phật bảo một mình ông Thân Tử, tức là bảo tất cả hàng Thanh Văn, Bồ Tát, nhơn, thiên, đại chúng hiện tiền và bảo tất cả các chúng sanh đời vị lai nữa...

          “Bốn món Tất Ðàn” là: 1. Ông Thân Tử là đệ tử hầu bên tả, các kinh phần nhiều để ông ở trước hết là phép như thế. Ðây là phép Tất Ðàn Thế Giới. 2. Ông Thân Tử là bực trí huệ đệ nhứt, trong chúng đều tôn ngưỡng, nếu ông tin Tịnh Ðộ thời chúng cũng tin theo. Ðây là phép Tất Ðàn Vị Nhơn. 3. Vì người không tin cõi Tịnh Ðộ, tự hổ mình không bằng ông, liền đổi bỏ tà chấp. Ðây là phép Tất Ðàn Ðối Trị. 4. Vì khiến kẻ quen tập pháp Tiểu thừa, bắt chước hướng tới Ðại thừa cầu sanh Tịnh Ðộ, cứu cánh thành Phật. Ðây là phép Tất Ðàn Ðệ Nhứt Nghĩa.



          SỚ: Lại chẳng những Trí là năng tín, mà được thành tựu quả Phật cũng đều do Trí. 


          SAO: Kinh Hoa Nghiêm, quyển thứ 22 nói: “Tất cả các đức Phật trang nghiêm thanh tịnh, đâu chẳng phải tất cả đều do Trí”. Thế thì biết đức Phật A Di Ðà cũng do Trí này, thành tựu công đức Tịnh Ðộ, mà các chúng sanh tu phép Tịnh độ ấy do Trí mà sanh Tín, thời Tín mới là chánh Tín, do Trí mà phát Nguyện, thời Nguyện mới được rộng lớn, do Trí mà khởi Hạnh, thời Hạnh mới mầu nhiệm, cho đến thành Phật, thường phải do đấy.

          Bởi Trí nó là cái lý mầu để suốt nhơn thấu quả, thành thỉ thành chung nữa, chứ chẳng những chỉ làm môn tín giải mà thôi. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó có trí tự nhiên là nghĩa Phật tự kêu ông Xá Lợi Phất để bảo pháp trì danh. 


          SAO: Không nhơn mà chiếu, không nghĩ mà biết, tánh mầu sẵn sàng chẳng tự đâu mà đặng. Thế cho nên tiếng kiền chùy chưa động, không ai thưa thỉnh mà Phật thoạt nhiên tự nói, nói mãi không gián đoạn.



 T đây qua phương Tây quá mười muôn c cõi Pht, có thế gii tên là Cc Lc,



          SỚ: Ðộ là cảnh sở y, gọi là y báo. Phật là người năng y, gọi là chánh báo. Bây giờ trước nói cảnh sở y (cảnh nương tựa).

          Chữ Thị là đây, là chỉ cõi này mà nói; nghĩa là: Từ thế giới Ta Bà đây cứ nhắm hướng Tây đi tới, gọi là “qua”.

          Cõi Phật là: Một thế giới đại Thiên gọi là một cõi Phật, qua cõi Phật như vậy tới mười muôn ức; nghĩa là: Cách phương này xa lại càng xa, chẳng phải như cái cõi cách mười muôn tám nghìn dặm (10.800) nói trong  kinh Pháp Bửu Ðàn vậy.

          Nếu cứ sự cứ lý, cũng chưa lấy làm xa. Chữ Thế là Ðời, chữ Giới là Xứ, Cực Lạc tiếng Phạm (Sumati) Tu Ma Ðề, Tàu dịch: An Lạc, cũng dịch An Dưỡng, cũng dịch: Thanh Thái, cũng dịch: Diệu Ý; tên tuy có khác một chút, chớ cũng là một nghĩa Cực Lạc.

          Song cõi có nhiều nghĩa: Với trong 4 cõi, ở đây có nói Cực Lạc là cõi Ðồng Cư mà cũng kể luôn ba cõi trước. Lại với cõi Thọ Dụng, cõi Pháp Tánh và cõi Biến Hóa, cả ba cõi đồng ý đây.

          Lại: “Mười cõi” cũng đồng ý đây. Lại Phật dù không cõi, nhưng vì hóa độ chúng sanh tại đâu nói cõi cũng chẳng ngại gì. 


          SAO: “Y báo” là: Thân nương cõi để ở, cho nên kêu cảnh giới là sở y, tùy theo nghiệp mình gây tạo cảnh sở y (cảnh ở) có tốt và xấu cho nên là báo. Câu: “Từ cõi ta đây” là: Cõi Ta Bà và Cực Lạc cũng ở trong cõi Hoa Tạng, hai cõi trông nhau như ngang hàng.

          Nay nói chữ “Quá” là: Qua, là từ cõi đây nhằm hướng Tây mà đi ngang suốt qua. “Một cõi đại thiên”: Cõi tam thiên đại thiên thế giới vậy, trong bài lục phương sau có nói.

          “Mười muôn ức” là: Con đường từ đây qua Tây phương lấy số ức tính đó sẽ có 10 muôn, nghĩa là: Qua một cõi Phật, mười cõi Phật, nhẫn đến một ức cõi Phật.

          Lại từ một ức cõi Phật, mười ức cõi Phật, nhẫn đến mười muôn ức cõi Phật, cho nên nói “xa đó lại càng xa” vậy. Song, số ức có 4 thứ: mười muôn, trăm muôn, nghìn muôn, và muôn muôn, cũng đều đặng kêu là số ức, nay chưa được biết chỉ về số ức nào vậy.

          Trong Ðàn Kinh nói: “Mười muôn tám nghìn dặm” là lầm chỉ cõi Tây Vực là Ấn Ðộ đây vậy, cũng trong bài lục phương sau có giải rõ.

          Câu nói “xa cũng chưa lấy làm xa” đủ có hai nghĩa: 1.- Cứ theo sự, kinh Pháp Hoa nói: “Thế giới phương Ðông rất nhiều, lấy đất nghiền thành bụi, mỗi hột bụi, kể một thế giới thời mười muôn ức cõi”, cũng chỉ là phần rất ít vậy thôi.

          Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một thứ thế giới”, vậy là ngoài cõi Ta Bà còn có 13 số sát trần thế giới để vây giáp vòng. Nay cõi Cực Lạc chỉ qua mười muôn ức cõi đâu đủ làm xa.

          2.- Cứ theo lý thời câu nói “mười muôn ức” ấy, đối với tâm lượng sanh tử của phàm phu mà nói vậy thôi. Nếu Tịnh nghiệp thành, khi lâm chung, tâm ở trong định, tức cái tâm ấy thọ sanh cõi Tịnh Ðộ như câu: “Phân minh tại mục tiền” (Tịnh Ðộ rõ ràng ở trước mắt) là vậy, cũng nào từng xa?

          Chữ “Thời” là: Ðời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Chữ Xứ là: Bốn góc và trên dưới... Riêng một mình chữ “thời”, riêng một mình chữ “xứ”, thời nghĩa thế giới chẳng thành, thời và xứ hiệp mới kêu là “thế giới”.

          Chữ Cực Lạc dịch có nhiều tên, mà nói chữ Cực là nói rõ cái nghĩa vui tột bực, chẳng phải tất cả những cái vui cõi nhơn thiên bì kịp; cho nên riêng nêu chữ Cực vậy.

          Bốn cõi là: 1.- Cõi Thường Tịch Quang. Kinh nói: “Phật Tỳ Lô Giá Na, Pháp thân Ngài khắp tất cả xứ. Chỗ ở của Ngài, gọi là cõi Thường Tịch Quang”. Ðây là chỗ người chứng quả tột bực ở.

          2.- Cõi Thiệt Báo Trang Nghiêm. Vì do tu pháp chơn thật, cảm đặng phước báo tốt đẹp, bảy báu trang nghiêm, đủ năm món trần tịnh diệu, cũng nói là cảnh vô chướng ngại; do tâm tức cảnh (sắc), cảnh tức tâm, vì tâm cảnh không hai, nên lỗ chơn lông và cõi Phật dung chứa lẫn. Ðây là cõi của bực Pháp thân đại sĩ ở.

          3.- Cõi Phương Tiện Hữu Dư mới dứt 4 cái trụ hoặc thuộc về đường phương tiện, chưa hết vô minh, nên gọi là “hữu dư”. Ðây là cõi của bực thánh nhơn tam thừa ở.

          4.- Cõi Phàm Thánh Ðồng Cư: Ðây là cõi chung của tứ thánh, và lục phàm ở lẫn lộn nhau mà phàm không thấy thánh!

          Bốn cõi tuy hơn thua chẳng đồng, nhưng cũng có phân riêng cõi tịnh và cõi uế. Nay nước Cực Lạc đã nói rằng có Bồ Tát, Thinh Văn, Chư Thiên và nhơn dân thì cùng với Ta Bà đều gọi là cõi Ðồng Cư.

          Nhưng mà ở cõi này thì đất đá gai chông, bốn thú lăng xăng, nước kia thời bát đức, thất trân, chúng nhơn thiên rỡ rỡ, đây cũng là cõi Ðồng Cư mà thanh tịnh vậy.

          “Cũng luôn ba cõi trước” là: Tùy theo căn cơ mỗi người có khác nên chỗ cảm thấy cũng lạ nhau. Như: Có người ở cõi Ðồng Cư mà thấy cõi Thiệt Báo, có người ở cõi Ðồng Cư mà thấy cõi Tịch Quang, có người ở cõi Ðồng Cư mà thấy cõi Phương Tiện, có người ở cõi Ðồng Cư mà chỉ thấy cõi của mình (Ðồng Cư).

          Như kinh Pháp Hoa, đức Phật nói: “Ta vẫn an ổn ở cõi này (Ðồng Cư) chúng nhơn thiên thường đông đủ”. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi, Phật dạy: “Trong pháp hội bữa nay, số chúng đông không xiết kể. Hoặc người thấy cõi này bằng núi, rừng, đất, cát, sỏi, sạn; hoặc có người thấy bằng cõi thất bảo, hoặc có người thấy bằng Phật đi kinh hành; hoặc có người thấy bằng cảnh giới bất tư nghì của chư Phật. Ðấy là đều theo căn cơ cao thấp của mỗi người mà cảm thấy có khác vậy thôi” (gọi bằng kẻ có nhơn thấy ra nhơn, người có trí thấy ra trí...) (dụ như xem sách, mắt tỏ thấy chữ to, mắt lờ thấy chữ nhỏ).

          “Ba cõi đồng như trước” là: 1.- Cõi Pháp tánh; tức là cõi Thường Tịch Quang; 2.- Cõi Thọ dụng; tức đồng cõi Thiệt báo, nhưng có phân: Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng; 3.- Cõi Biến Hóa; đồng với cõi thứ ba thứ tư trước, tức cõi Phương Tiện và cõi Ðồng Cư.

          Thế thời cõi Cực Lạc đây tuy đang ở cõi Biến Hóa nhưng cững có thể ở vào cõi Thọ Dụng và cõi Pháp Tánh được vậy.

          “Mười cõi” là: Ngài Táo Bá phân mười thứ Quyền và Thiệt. Tuy thiệt cõi Cực Lạc là quyền chớ chẳng Phật thiệt. Song đấy là cứ quyền đối đãi phân biệt mà nói vậy thôi.

          Nếu luận theo lối tùy cơ thời quyền thiệt không nhứt định, sở dĩ vì SAO? Ngài Táo Bá đã nói: “Cõi Phật Di Ðà vì một phần kẻ phàm phu chấp tướng, chưa tin nổi lý thật tướng của pháp chơn không; do đấy chuyên tâm nhớ niệm, được phần tịnh kia, thời được sanh về cõi Tịnh Ðộ. Ấy là quyền chớ chẳng phải thiệt”.

          Thế thì biết, đây là tại người chấp tướng mà nói, chớ chẳng phải tại người đã nhập lý nhứt tâm. Nếu đặng lý nhứt tâm thời tức quyền tức thiệt nên nói không nhứt định.

          Lại với bốn cõi nói trên cũng đã lẽ dĩ nhiên có đủ, chớ chẳng chỉ nên chấp cõi Thường Tịch Quang; vì nếu chứng được cõi Tịch Quang thời đối với ba cõi dưới cũng phải tùy tâm nương gá, chớ chẳng nên bác bỏ mà cho rằng không.

          Người mà chưa chứng đặng cõi Tịch Quang, vội bác bỏ mà cho rằng không có ba cõi dưới thời không còn cõi để ở (cảnh nương ở) là lầm lắm vậy. Cho nên kinh Lăng Nghiêm Phật rất quở kẻ không tin phương kia (Tây phương) có thế giới kim sắc (nếu ai chưa phá được cái tướng ngũ ấm).

          “Phật không có cõi” là: trong bộ Thập Tứ Khoa Tịnh Ðộ, lời SAO nói: “Bực Bát đại Bồ tát sắp lên mới là khỏi hẳn cái khổ lụy của sắc trần, chiếu bản thể độc lập, phép mầu khôn cùng, còn dùng cõi làm chi nữa. Huống hồ chư Phật!” Phật thiệt không cõi, nhưng mà nói có cũng được, là vì do chúng sanh chỗ hiểu thì ít mà chỗ lầm thì nhiều, cho nên lấy cõi phước lạc để dẫn dắt nó khiến cho làm lành. Số là vị Thánh nhân cững dùng tích gần đặng tiếp vật đấy thôi. Cho nên nói có cũng không ngại gì. 



          SỚ: Riêng chỉ Tây phương, là vị định cảnh xu hướng. Tây phương riêng chỉ nước Cực Lạc là như bài “Vô khổ hữu lạc” sau và trong kinh Vãng Sanh có nói. 


          SAO: E có người nạn hỏi: Thế giới trong mười phương đều có cõi Tịnh Ðộ, cớ sao cứ riêng có cảnh Tây phương bảo người cầu sanh về nước kia? Bởi cũng như đường lớn có nhiều ngã tẻ nên mất dê; bắn do chuyên chú mới trúng chim hộc . Không dụng hai tâm, công làm chẳng bề bộn. Bộ Thượng Ðô Nghi nói: “Qui mạng về ngôi Tam Bảo, cốt phải chỉ phương lập tướng, trụ tâm lấy một cảnh, chúng phàm phu phải buộc tâm như thế còn e chưa được, huống nữa bỏ tướng mà được hay sao?”

          Nếu luận đi cúng dường chư Phật khắp trong 10 phương, rồi trở về nước còn trong bữa ăn SỚm thì việc đó là việc sau khi sanh về Tây phương Tịnh độ rồi. Chỗ gọi rằng: Mới thấy trứng mà muốn được con gà liền, tính chi SỚm thế?

          Lại hỏi: Thế thì kinh Hoa Nghiêm SAO lại dạy phải phổ lễ nhiều đức Như Lai mới được? Ðáp: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”. Nếu biết nghĩa đây, hoặc phổ lễ (nhiều đức Như Lai) hoặc thiên lễ (lạy một đức Như Lai) vẫn khác, vẫn đồng, không đủ nghi vậy.

          “Vô khổ hữu lạc”: Rõ thấy trong văn sau. Lại kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh nói biết bao cõi nước Phật, thế SAO cứ riêng cầu về nước Cực lạc? Ðáp: 1.- Do nhơn tốt vì mười niệm làm nhơn tức đặng vãng sanh vậy. 2.- Do duyên tốt vì 48 lời nguyện phổ độ chúng sanh vậy. 



          SỚ: Hỏi: Quán Kinh nói: “Nước Cực Lạc cách đây chẳng xa”. Kinh Di Ðà đây nói: “Mười muôn ức cõi”. Thế thì hai kinh nói chỗ gần xa vì SAO chẳng đồng vậy?

          Ðáp: Bởi vì là: Gần mà tức xa, xa mà tức gần. Nếu y theo luận Phật Ðịa thời cõi Tịnh Ðộ xa hay gần gì cũng đều bất khả tư nghì. 


          SAO: “Cách đây chẳng xa” là trong Quán Kinh nói: “Bấy giờ đức Phật Thích Ca, bảo bà Vi Ðề Hy rằng: “Hoàng hậu nay có biết chăng? Nước Phật A Di Ðà cách đây chẳng xa”. Kinh đây nói tức xa, tức gần. Bởi do cách đây chẳng xa là nói đối với nước Cực lạc, chỉ qua 10 muôn ức cõi nên cách đây chẳng xa vậy.

          Qua mười muôn ức là nói đối với nước Cực lạc cách đây chẳng xa vì chỉ qua mười muôn ức cõi. Tâm bao trùm cả pháp giới thì cái gần nào mà chẳng phải là xa? Mười phương pháp giới chỉ trong một tâm duy nhứt thì cái xa nào mà chẳng phải là gần, lẫn nhau để nói, vốn không ngại gì.

          Câu “bất khả tư nghì” là Luận Phật Ðịa nêu câu hỏi:        

          “Cõi Tịnh Ðộ vượt qua chỗ đi của Tam giới như thế là nó cũng đồng một xứ sở với tam giới, hay là tam gới với nó đều riêng khác ư?”

          Ðáp: Có thuyết nói: Ở cõi trời Tịnh Cư. Có thuyết nói: Ở cõi Tây phương v.v... Song giáp vòng tròn của nó cũng không biết bao cùng tột. Vì khắp cả mười phương pháp giới, không thể nói rằng: Ở ngoài ba cõi hay ở trong ba cõi, cứ tùy theo chỗ hợp của ông Bồ Tát mà hiện (Tịnh Ðộ) hoặc hiện ở cõi Tịnh Cư, hoặc ở Tây phương v.v...

          Thời biết nước Cực Lạc Tịnh Ðộ vượt khỏi thường tình; không phương sở nào chẳng phải là phương sở, không ở đâu mà không đâu chẳng ở, không nên chấp cho như cõi Ðồng Cư mà làm chỗ luận nhứt định.


         

          SỚ: Xứng lý thời tự tánh kiên cố thanh tịnh là nghĩa Tây phương. Tự tánh không chướng, hết lỗi là nghĩa qua mười muôn; tự tánh ngang trùm dọc suốt là nghĩa thế giới. 

       

          SAO: “Kiên cố” là vì phương Tây thể  thuộc kim, có nghĩa kiên cố, tức tự tánh chơn thường bất dịch (chẳng đổi) vì muôn đời như vậy. “Thanh tịnh” là: Lại có hai nghĩa: Vì phương Tây đương không khí nghiêm tịnh, có nghĩa “trừng thanh” (lóng trong), tức tự tánh các vọng vốn không, vì thể nó lộ ra gió Tây, vì phương Tây đương sắc bạch, có nghĩa trong sạch, tức tự tánh các nhiễm không sanh, xưa nay một sắc.

          “Không chướng hết lỗi”là: Tự tánh vốn không phiền não, như thập khổ, thập ác, thập triền và thập sử v.v... đều vượt khỏi cả nên có cái nghĩa quá xa; thế thì biết kiên cố thanh tịnh là phương Tây mới là tột hết phương Tây, không phải cứ nêu chỗ mặt trời lặn xa ngút mới gọi là “qua”, còn đâu đâu chẳng phải là không qua vậy, ai có thể tính kế số đường dặm? Vì là ngang suốt 10 phương, dọc tột ba đời, chẳng phải gần chẳng phải xa, chẳng phải giữa, chẳng phải bìa!

          Thế thời, từ đây qua cõi Phật số vi trần, bất khả thuyết, bất khả thuyết, không thế giới nào mà chẳng phải cõi Cực Lạc, đâu lại chỉ có một thế giới mới gọi là Cực Lạc ru?



trong thế gii đó có đc Pht hiu là A Di Ðà hin nay đương nói pháp.



          SỚ: Nghĩa chữ “kỳ” (kia) là chỉ văn trên: Có cõi ắt có người, chỉ Phật là người năng y. Phật ắt có hiệu để chỉ ra hiệu (tên) của đức Phật đó là A Di Ðà. Ba đời đều có Phật, lựa khác ông Phật quá khứ và vị lai nên nói là ông Phật hiện tại. Mỗi vị Phật nào cũng đều độ sanh; chỉ phép độ sanh là thuyết pháp. “Hiện tại thuyết pháp”: Như kinh Ðại Bổn và trong kinh Ðại Vân đã nói. 

       

SAO: Kinh Ðại Bổn nói: “Ông Phật kia, chẳng phải ông Phật quá khứ, chẳng phải ông Phật hiện tại và cũng chẳng phải ông Phật vị lai. Bởi do ngài đáp lại cái chí nguyện của ngài nên hiện ở Tây phương thôi, thế giới Ngài tên là Cực Lạc, hiệu ngài là A Di Ðà”.

Chữ Ðại Vân là kinh Ðại Phương Ðẳng. Ðại Vân nói: “Bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca hớn hở mỉm cười, từ trên gương mặt của Ngài, phóng vô lượng hào quang. Ngài Ðại Vân Mật Tạng Bồ tát hỏi duyên cớ.

Phật dạy: ‘Thế giới bên Tây phương, có nước tên là An Lạc, ông Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, hiện tại đang thuyết pháp và bảo một vị Bồ tát rằng: Bên thế giới Ta Bà có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện nay đang thuyết pháp về kinh Ðại Vân, ngươi nên qua đó mà nghe. Nay vị Bồ tát đó sắp qua đến đây”.

Thế thì chính đương khi bên nầy đức Thích Ca thuyết pháp thì bên kia Phật A Di Ðà cũng đương thuyết pháp, cho nên biết chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai mà là hiện tại thuyết pháp. 



SỚ: Phàm nói hiện tại, cũng có hai nghĩa như: Ðức Thích Ca, đức Di Ðà đều gọi là hiện tại, nhưng có một chút chẳng đồng. 


SAO: “Một chút chẳng đồng” là: Ðức Thích Ca là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp (kiếp hiện tại) nên kêu là ông Phật hiện tại, nhưng đã thị tịch nơi chốn Song Lâm khó thấy tướng hảo, chỉ nghe danh tốt và còn để lại ba tạng kinh giáo và ảnh tượng ngài mà thôi!

Còn đức Phật A Di Ðà thời trong ngày này, giờ này, chính ở nước kia hiện đang thuyết pháp. Thế thì đức Thích Ca hiện tại mà đã quá khứ. Di Ðà hiện tại vẫn hiện tại vậy.

Người xưa nói: “Khi Phật còn tại thế, ta bị trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ mất rồi”. Ôi, buồn cho tấm thân nhiều nghiệp chướng không thấy được kim thân của đức Như Lai, cảm mộ thương than đến nỗi thế nầy!

Nay đức Thích Ca tuy diệt độ, nhưng đức Di Ðà đang còn; miễn SAO vãng sanh liền đặng gần gũi, thế mà không tin, không nguyện, luống uổng thương than cũng là vô ích, thật là rất lầm. 



SỚ: Lại với hiện tại đây là cứ theo đương thời đức Thích Ca còn ở đời mà nói, chứ thiệt ra thời suốt đến đời trước, đời sau, cũng còn đời sau và đời sau vô tận đều kêu đời hiện tại. 


SAO: “Ðời trước đời sau” là: Ðức Thích Ca trước khi chưa ra đời, đức Di Ðà cũng hiện tại đang thuyết pháp, đức Thích Ca đã diệt độ mất rồi, đức Di Ðà cũng hiện tại thuyết pháp, nhẫn đến ngày nay cũng vẫn còn hiện tại.

“Ðời sau, đời sau vô tận” là: do đức Phật Thích Ca thuyết pháp, chỉ ở trong 49 năm từ đức Ca Diếp sắp về trước, đến Phật Di Lặc về sau dầu số năm nhiều đi nữa, cũng có hạn lượng, chưa bằng đức Di Ðà thuyết pháp rất là lâu xa, chư Phật chẳng bằng. Thế cho nên chẳng những trong thì giờ này, còn gọi hiện tại, mà đời sau đời sau đến vô tận đời sau cũng vẫn còn kêu là hiện tại thuyết pháp.

Hỏi: Sau khi đức Di Ðà, kế bổ xứ Quán Âm, đâu đặng nói đức Di Ðà vô tận? Ðáp: Ðức Di Ðà trụ thế mấy kiếp mới bổ đức Quán Âm, có từng biết số chăng? Kia, đức Quán Âm còn nói: trụ vô ương số kiếp vô ương số kiếp, bất khả phục kế kiếp mới trao lại cho đức Thế Chí  thời với đức Di Ðà ở lâu đời khá biết; đâu chẳng phải cũng hữu tận bằng vô tận đó ư? Huống đức Thế Chí mà bổ cho đức Quán Âm hằng không thời kỳ bát nê hoàn (vào Niết Bàn). Tuy nói rằng đức Thế Chí nhưng thiệt ra thì cũng như đức Di Ðà thuyết pháp không khác vậy. Ðây gọi là đời sau và đời sau vô tận; thế nào mà chẳng được? 



SỚ: Lại, hiện tại ở đây là cứ nơi đức Thích Ca đối với đức Di Ðà mà nói, chớ thiệt thời hiện tại của đức Di Ðà tức là hiện tại của đức Thích Ca. 


SAO: Ngài Trí Giác nói: “Trong kinh giáo Tổng Trì nói: 37 vị Phật đều là một bản thân Phật Tỳ Lô Giá Na hiện ra”, nghĩa là: trong tâm đức Phật Giá Na chứng cõi Tự Thọ Dụng, thành ra năm trí. Trước dùng trí Pháp Giới Thanh Tịnh tự ở giữa trung ương, kế dùng bốn trí tủa ra bốn phương thành bốn đức Như Lai, và trí Diệu Quán Sát kia tủa ra phương Tây thành ông Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc”,  thời một vị Phật mà hiện ra hai cõi. Cho nên Ngài Thanh Lương nói: “tức đức Bổn Sư vậy”. 



SỚ: Song chư Phật thuyết pháp nhiều cách chẳng đồng. Nay đây y báo chánh báo đều thuyết rõ như kinh này và kinh Ðại Bổn cùng trong Quán kinh đã nói. 


SAO: “Nhiều cách chẳng đồng” là như thuyết pháp bằng tiếng nói, bằng mắt xem, nhẫn đến bằng cơm thơm v.v... cho nên thế giới Cực Lạc chẳng những thuyết pháp bằng lời nói của Phật, mà y, chánh cũng đều thuyết pháp như kinh Ðại bổn nói: đức Phật A Di Ðà vì các hàng Bồ tát, Thanh văn, chư thiên, thế nhơn rộng nói Ðại giáo (đại thừa) diễn đủ pháp mầu, ai nghe cũng mừng rõ vui thích, tâm được tỏ ngộ, mỗi người đều có chỗ sở đắc.

Lại nói phương Ðông có hằng hà sa số chư Phật đều khiến vô lượng Bồ Tát, ThanhVăn đi đến chỗ đức Phật A Di Ðà nghe thuyết diệu pháp. Bốn góc trên dưới, chư Phật cũng sai Bồ Tát đi nghe thuyết diệu pháp. Như thế đây là: Chánh báo thuyết pháp.

Kinh đây chép nước, chim, cây, rừng diễn ra diệu pháp, cùng kinh Ðại Bổn và Quán kinh như trong bài văn sau dẫn rõ; đây là: Y báo thuyết pháp.

Lại kinh Ðại Bổn nói: “Hoa sen nước kia, phóng ra vô lượng hào quang, trong hào quang phóng ra vô lượng đức Phật, mỗi mỗi chư Phật, đến thuyết diệu pháp”. Ðây là Y, Chánh đồng thời thuyết vậy. 



SỚ: Có chỗ nói thuyết pháp là ứng thân và báo thân. Lại có chỗ khác nói: Ba thân đồng thuyết, tùy cơ mỗi người thấy chẳng đồng. 


SAO: “Ứng thân Phật thuyết” là: Có chỗ nói Pháp thân Phật một mực không thuyết. Báo thân Phật đủ thuyết mà không thuyết, còn ứng thân Phật nhứt định thuyết; thế thời sự thuyết pháp của đức Phật kia chính là ứng thân. Song cũng gồm báo thân nữa; như kinh Ðại bổn nói: “Thân Phật cao hơn tất cả thân của người thế gian”. Quán kinh nói: “Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na do hằng hà sa do tuần”. Thế thời đâu phải nhứt định là thân một trượng sáu thước!

Song trong kinh nói: Báo thân và Hóa thân đều chẳng phải là Phật hiện thật, cũng chẳng có thuyết pháp thì đâu đặng nhứt định rằng Pháp thân không thuyết. Ðó là tùy cơ mỗi người ngó thấy, chỗ thấy chẳng đồng thôi (chớ kỳ thật ba thân đồng thuyết). 



SỚ: Rất đáng tiếc thay muôn dặm, trăm thành, vì cầu ông tri thức trèo non vượt bể, mới nói rằng lễ chốn Ðạo Tràng; há nên với Phật vạn đức Như Lai hiện tại thuyết pháp, làm ngơ chẳng đoái hoài, đành đọa chốn Ðông Thành! Thế thời gọi là đáng thương xót lắm! 


SAO: “Vạn lý” (muôn dặm) là: Ông thầy hỏi ngài Ðại Tùy: “Chừng kiếp hỏa tai nổi dậy, đốt cháy chưa biết cái ấy (thức tâm) hoại hay là không hoại?” Ðại Tùy đáp: “Hoại”.

Ông thầy hỏi: “Như thế thì nó đi theo kiếp hoại hay SAO?” Ðáp: “Ði theo”. Ông thầy hồ nghi mãi, không giải quyết, phải qua lại muôn dặm, khắp cầu ông tri thức cắt nghĩa mới đặng đại ngộ.

“Trăm thành” là: ngài Thiện Tài trải qua các phương một trăm mốt cái thành tham cầu 53 ông thiện tri thức.

Dẫn lời đây, để so sánh đức Phật A Di Ðà là ông tri thức tối cao vậy. “Trèo non vượt bể” là: Non Nga Mi và non Phổ Ðà ...

Dẫn lời đây, để so sánh thế giới Cực Lạc Tây phương là chốn Ðạo Tràng tối thắng. Song người xưa lặn suối, trèo non; ấy là vì muốn gần gũi bậc hiền thánh. Ngày nay giong ruổi Ðông, Tây chỉ là xa xem ảnh tượng mà lại trải đủ con đường hiểm trở gian truân, chẳng nài sự lao khổ! Ðâu đặng với đức Từ Tôn hiện tại, bỏ qua không đến, khác nào bà lão mẫu ở Ðông thành đồng sanh một ngày giờ với đức Phật, mà không thấy chơn dung của ngài. Há chẳng phải đồng bạn đó chớ chi? Với ông Phật quá khứ và vị lai thế tất khó gặp, còn ông Phật hiện tại cũng bỏ qua, cho nên nói đáng thương xót. 



SỚ: Xứng lý thời tự tánh thể vẫn linh tri, là nghĩa “cõi kia có Phật”. Tự tánh chính nay vẫn hiển hiện là nghĩa “hiện tại thuyết pháp”. 


SAO: Mãn buổi hầu bên Phật mà chẳng thấy kim dung Ngài, trọn ngày ngồi trong pháp hội mà chẳng nghe được đạo mầu, thành thử để Ma vương lộn vào cõi Phật; tà pháp chen với lý chơn tôn! Nếy hay quày rõ nguồn tâm Phật Pháp đồng thời đều đủ!



CHÁNH TÔN PHẦN



“TÍN” Y BÁO CHÁNH BÁO cầu sanh Cực-lạc



Xá Li Pht! Cõi đó vì sao tên là Cc lc?

Vì chúng sanh trong cõi đó không có b nhng s kh, ch hưởng nhng điu vui, nên nước đó tên là Cc Lc. 



SỚ: Trước giải y báo là vì thuận theo văn trên, cũng vì khiến cho chúng sanh, sanh tâm ưa vui.

Khổ: Là nghĩa ép ngặt, khốn hại. Khổ là một món đầu trong bốn món Tứ Ðế. Các khổ là: Trong các kinh, luận phân ra có: 3 khổ, 8 khổ, 10 khổ, 110 khổ.

Lại so giữa hai món sanh tử: Phân Ðoạn và Biến Dịch, thì Biến Dịch sanh tử cũng lo khổ rồi; huống chi các cái khổ khác nữa. Do sự khổ chẳng phải một nên nói các khổ vậy.

Các vui là như trong kinh kể hai món thanh tịnh trang nghiêm cũng do sự vui chẳng phải một, cho nên nói rằng các vui vậy.

Nước Cực Lạc là do các nước khổ vui có bốn món: Có nước khổ nhiều vui ít, có nước vui khổ bằng nhau, có nước khổ ít vui nhiều, có nước không khổ toàn vui. Nay nước Cực Lạc nhằm nước thứ tư (không khổ toàn vui). 


SAO: Tứ Ðế là: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, mà Khổ thì ở trước hết. Vì biết khổ mới đoạn Tập và tu Ðạo mới chứng Diệt (tịch diệt Niết Bàn). Ba khổ là:

1.- Khổ khổ: Nghĩa là mang cái thân hữu lậu này đã là khổ rồi, mà lại chịu các khổ ép bức của hoàn cảnh nữa, cho nên nói khổ mà lại thêm khổ vậy. Ðây là cái khổ cõi Dục giới.

2.- Hoại khổ: Nghĩa là đang khi vui đã hoại rồi, thời không xiết bao sự lo buồn vậy. Ðây là cái khổ của cõi Sắc giới.

3.- Hành khổ: Cái khổ này nó ở giữa chừng, tức là bất khổ bất lạc, vì mỗi niệm mỗi dời đổi trong hành vi. Ðấy là cái khổ cõi Vô Sắc giới.

Lại cõi Dục giới đủ cả ba món khổ ấy, cõi Sắc giới gồm hai món khổ sau. Còn cõi Vô Sắc giới chỉ có món Hành khổ, là ba khổ vậy. Mà người ở nước Cực Lạc kia là người đã ly dục, được thanh tịnh thời không có cái khổ khổ; y báo, chánh báo vẫn thường còn và vui thời không có cái hoại khổ. Vượt khỏi ngoài ba cõi, thời không có cái Hành khổ.

Tám khổ là: Khi sanh thời ở trong ngục thai của mẹ. Khi già bị cái điều lóng cóng; khi bệnh chịu các sự đớn đau; khi chết lại thảm buồn phân tẻ; khi thương muốn hội hiệp mà hoàn cảnh bắt phải chia lìa; khi oán ghét ý muốn tránh xa mà bắt phải gặp gỡ; khi cầu một vật gì ưa thích muốn cho được mà lại phải thất bại; cho đến cái thân này cả ngũ ấm nó lẫy lừng gồm hiệp với bảy khổ trên thành ra 8 khổ vậy.

Nhưng nước Cực Lạc kia, khi sanh là bằng liên hoa hóa sanh thời không có cái khổ bằng thai sanh như cõi này; khí hậu không mưa lạnh lắm, không nắng nực lắm thời không có cái khổ già nua lóng cóng. Thân là không phải cái thân bằng phân đoạn sanh tử thời không có cái khổ bịnh đau đớn; mạng sống lâu bằng số vô lượng thời không có cái khổ về chết mất. Không cha, mẹ, vợ, con thời không có cái khổ về tình thương yêu mà bị phân cách. Các nguời bực Thượng Thiện đồng hội hợp đoàn kết một xứ thời không có cái khổ bằng oán ghét lại gặp nhau. Tâm muốn vật chi, vật ấy tùy tâm hiện đến thời không có cái khổ mưu cầu mà không được như cõi này. Quán chiếu thân tứ đại vốn không vắng lặng, thời không có cái khổ bằng thân ngũ ấm xí thạnh (lẫy lừng).

Mười khổ là: Trong Bồ Tát Kinh Tạng nói: 1.- Khi sanh khổ; 2.- Khi già khổ; cho đến thứ 10 là cái khổ trôi lăn trong đường sanh tử.

Một trăm mười khổ là: Luận Du Già nói: 1.- Không có khổ bằng sai biệt đổi thay; 2.- Không có khổ về tham dục và si mê, cho đến cái khổ thứ 55. Kế có chín món khổ; ở trong chín món ấy, lại thứ lớp chập chồng chia ra thành 55 nữa, hiệp cộng 110 cái khổ. Nay nước Cực Lạc kia đồng không có một khổ nào cả (cho nên gọi là Cực Lạc: toàn vui).

Song ước lược mà nói: Chẳng ngoài 3 khổ, với 8 khổ, nó đã gồm thâu các món khổ. Vậy hai món sanh tử là: phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử.

Phân đoạn là do bốn đại thành thân nên thân có ngằn chừng từng phần, từng đoạn, như trong bài văn Tám Khổ (trên đã nói).

Biến dịch là cõi đây dầu bực Nhị Thừa Bồ Tát, tuy đã lìa cái thân phần đoạn nhưng mà chưa khỏi tướng (sanh, trụ, dị, diệt) đổi dời, nhơn dời quả đổi, cũng gọi là khổ. Còn nước kia ở trong hoa sen hóa sanh ra; một phen sanh về không hề lui sụt nào phải lo hai món khổ vậy.

Kinh Ðại Bổn nói: “Nước kia không nghe tên cái khổ, huống chi có khổ thiệt”; cho nên nói không có cái khổ.

Hai món thanh tịnh là trong Luận nói: 1.- Khí thế gian cõi vô tình thanh tịnh; 2.- Chúng sanh thế gian cõi hữu tình thanh tịnh. Tức y báo và chánh báo, hai báo đều là công đức trang nghiêm như trong bài văn sau và kinh Ðại Bổn cùng Quán kinh đã biện rành.

Hỏi: Kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sanh tức tướng tịch diệt không cần diệt gì nữa”, thời tất cả cõi nước tức là tướng Cực Lạc, lại còn có Cực Lạc gì nữa? Mà kinh này phân ra có khổ có vui, tuồng như trái với kinh kia?

Ðáp: Ngài Hiền Thủ Ðại Sư giải thích kinh kia, ý Ngài nói: Chỉ do vì chúng sanh mê lầm điên đảo, quấy thấy có sanh tử, gọi là ở “bờ bên này”. Bực Ðại Thánh đã ngộ sanh tử vốn không, bản lai viên tịch, tức gọi là “đã qua bờ bên kia”. Nay kinh này cũng nói: Vì chúng sanh mê đảo, vọng chấp cõi đời ngũ trược này, cho là thật tế là đại đồng, gọi là ở nước Ta Bà. Nực tỏ ngộ cõi ngũ trược này vốn không, bản lai thanh tịnh, tức gọi là đã về nước Cực Lạc. Nói tóm lại, cõi nước thường tịch, tại chúng sanh tự mê, mê nhiều ngộ ít, cho nên đức Phật Ngài mới chỉ cho cõi khổ và bày cõi lạc, không nỡ thôi được! 



SỚ: Song khổ, vui đối nhau, chính dùng kia đây hai cõi để so lường thắng và liệt khiến cho sanh tâm ưa và nhàm, như mười món khó dễ ... 


SAO: “Tương đối” là: Lấy cái hết sức khổ ở cõi này đối với cái rất vui tột bực ở nước kia; một thắng, một liệt sánh xa như trời với đất để tự sanh tâm ưa vui, chán khổ, lấy bỏ tự quyết.

“Mười món” là: Ngài Từ Vân Sám chủ chia cõi này cõi kia khó và dễ có mười món, nay đối với khổ vui mà nói:

1. Cõi này có cái khổ chẳng thường gặp Phật; cõi kia không điều đó, mà chỉ có cái vui hoa nở thấy Phật và thường gần gũi Ngài.

2. Cõi này có cái khổ không được thường nghe thuyết pháp, cõi kia không có điều đó mà chỉ có cái vui: Nước, chim, cây, rừng đều rao pháp mầu.

3. Cõi kia không có cái khổ bị ác hữu ràng buộc kéo lôi, mà chỉ có cái vui cùng các người bực Thượng Thiện đồng cu hội một xứ.

4. Cõi kia không có cái khổ bị quần ma não loạn mà chỉ có cái vui chư Phật hộ niệm, xa lìa việc ma chướng.

5. Cõi kia không có cái khổ luân hồi chẳng dứt mà chỉ có cái vui bặt hẳn đường sanh tử, hằng khỏi nẻo luân hồi.

          6. Cõi kia không có cái khổ khó khỏi tam đồ mà chỉ có cái vui xa lìa ác đạo và chẳng nghe tên ác.

          7. Cõi kia không có cái khổ bận vì việc làm ăn, trở ngại việc hành đạo, mà chỉ có cái vui vật thọ dụng sẵn sàng, chẳng đợi kinh dinh (sắm sửa).

          8. Cõi kia không có cái khổ mạng ngắn chết non mà chỉ có cái vui sống lâu bằng Phật không có hạn lượng.

          9. Cõi kia không có cái khổ tu hành thối thất mà chỉ có cái vui vào ngôi chánh định hẳn không thối chuyển.

          10. Cõi kia không có cái khổ nhiều kiếp khó thành mà chỉ có cái vui một đời tu chứng, chỗ làm đặng xong.

          Chữ “Ðẳng” v.v... là như lời SAO của ngài An Quốc phân làm 24 việc vui và trong Luận Quần Nghi chia rộng ra làm 30 việc lợi ích, đều nói cõi vui để cho rõ cõi khổ; nói việc ích để cho rõ việc hại, đại ý đồng như văn trước, đây không chép nhiều. 



          SỚ: Với bốn cõi khổ vui, lược như trong giáo pháp Ngài Thiên Thai nói: 

       

SAO: Nghĩa là: Lầm về sự thấy, lầm về sự nghĩ, nhẹ hay nặng, đó là khổ lạc của cõi Ðồng Cư. Thể không và tích không, khéo hay vụng đó là khổ lạc của Phương Tiện. Thứ lớp nhứt tâm đó là khổ lạc của cõi Thiệt Báo.  Phần chứng hay cứu cánh chứng, đó là khổ lạc của cõi Tịch Quang, v.v... Văn nhiều đây không kể. 



          SỚ: Hỏi: Ông Bồ Tát hy sinh bỏ ngũ dục lạc. Dầu ngôi vua Luân Vương cũng chẳng lấy làm vui, thương tưởng chúng sanh vẫn ở dưới địa ngục, thay thế cái khổ kia! Nào đặng bỏ chúng sanh đương thời mà tìm lấy cõi Tịnh Ðộ để an hưởng cái vui một mình?

          Ðáp: Trong bộ Thập Nghi Luận của Ngài Trí Giả đã tường thuật và cũng có nhiều thuyết thủ xả chẳng khá chẳng biện.  

       

SAO: Trong Luận nói: “Ông Bồ Tát chưa đặng quả Vô Sanh Pháp Nhẫn, không đủ sức độ sanh, dụ như đem ghe bể vớt người đắm nước, mình và người đều bị chết chìm luôn. Cầu sanh về Tịnh Ðộ, chứng đặng Vô Sanh Nhẫn rồi, trở lại cõi nầy, cứu khổ cho chúng sanh mới là có phần giúp ích được; cũng như cứu cái dốt của người trước mình cần phải biết chữ”. Cho nên ông Bồ tát mới phát tâm cũng thế, trước phải bỏ cõi khổ này, chính là muốn cứu khổ cho chúng sanh; thủ lấy cõi vui, chính là muốn sẽ đem lại cái vui cho chúng sanh vậy. Tự lợi lợi tha, là bổn phận của ông Bồ tát, há bực nhị thừa độc thiện mà khá sánh được SAO?

          “Lại có nhiều thuyết” là: Tổ Khuê Phong giải thích bộ kinh Viên Giác nói: “Các món thủ xả đều là bị luân hồi cả”. Như nói: Xả cõi Ta Bà nầy.  Thủ cõi Tịnh Ðộ kia. Mà ngài Ðại Mai cũng nói: “Xả cấu thủ tịnh là nghiệp sanh tử”. Cho nên nay biện rằng: Những lời nói đây chẳng phải là chẳng trúng đích. Nhưng mà đặng ý chỉ thì gọi là vị Ðề Hồ, mà thất ý chỉ trở lại thành thuốc độc. Cốt muốn mỗi người đều tu Tịnh nghiệp để cho nhơn loại đều đặng thanh tịnh, chứ nào chỉ bỏ cái cấu của Ta Bà, riêng lấy cái tịnh của Cực Lạc, mới là thủ xả? Dầu nói: Cõi của Ta Bà duy tâm, cũng còn ở trong vòng thủ với xả vậy. Dù rằng ta không thủ xả mà xả cái thủ xả đây để thủ lấy cái không thủ xả kia, cũng là còn thủ xả, cũng là nghiệp sanh tử luân hồi vậy.

          Ðâu có biết rằng: Lý thì nó không phần hạn, còn sự thì nó có sai khác.  Hễ Lý mà tùy Sự để biện đổi ra thời chỗ không thủ xả, nó thủ xả rõ ràng; còn Sự đặng Lý để lẫn thông, thời chính khi thủ xả đó toàn là không thủ xả.  Cho nên ông Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp bình đẳng không hai, mà chỉ cảnh khổ, vui, khai môn thủ xả, quyền thiệt đều làm, lý sự vô ngại.

          Lời luận đây xin gác lại. Bây giờ các ông tự xét lại mình coi: Hẳn có thể đối với vị hẩm hút, hôi thiu, vữa vã dùng làm đồ ăn uống không khác như ăn vật cao lương mỹ vị chăng? Với chỗ cầu xí, hầm hố lấy làm giường, chõng chẳng khác như nhà lầu tốt đẹp chăng? Vỏ cây, lá cỏ dùng làm y phục chẳng khác lụa là, gấm, nhiễu chăng? Hổ, tây, hùm, gấu lấy làm bầu bạn, chẳng khác cha, mẹ, anh, em chăng? Mùa đông ngồi trong giá tuyết chẳng khác ngồi trong nệm bông chăng? Mùa hạ bữa nắng gắt chẳng khác gì gió mát chăng? Nhẫn đến trong địa ngục bằm, thiêu, đâm, xay chẳng khác nào vào cõi Thiền thứ ba chăng? Ði trong dị loại, chẳng khác nào như đi dạo chơi chăng?

          Bằng chưa được như vậy (vì còn phân biệt) rõ ràng là phàm phu, đâu đặng lấy cảnh giới quá lượng của vị đại thánh nhơn mà làm cảnh giới sở hữu của mình, thủ lấy cái nói cho khoái khẩu một thời, để cái hại nhiều đời vô tận. Nên nghe lời đây, sanh tâm đại hối hận, khởi tâm đại giác ngộ, rơi lụy thương khóc với cái nghiệp mình mà cầu sanh về Tịnh Ðộ mới là phải. Cho nên ông Thiền Thủy phê bình lời SỚ ngài Khuê Phong rằng: “Phân ưa, nhàm, thủ, xả. Tuy rằng:  Mê chơn khởi vọng, nhưng cũng có thể thuận theo lời dạy mà thành công. Phải biết: toàn tu tức tánh, thời tâm ưa nhàm vốn không”. Huống một pháp môn (niệm Phật) An Dưỡng (Tịnh Ðộ), chư Phật đồng khâm khen, qua lại trong pháp giới, càng rõ lý duy tâm; mượn duyên lành kia, mau lên cõi Bửu Giác. Thật là đường chánh của người đời về nương, chánh là phép huyền diệu của Thánh Nhơn để dắt chúng. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh không nhiễm là nghĩa không có các khổ.  Tự tánh thường tịch là nghĩa chỉ hưởng các sự vui.   

      

SAO: “Nhiễm” là nghĩa khổ. “Tịnh” là nghĩa vui. Tự tánh không nhiễm thường tịnh, là nghĩa không khổ thường vui vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói:  “Bực Lục Ðịa quán xét vô minh; do từ vô minh cho đến thứ 6 là lục nhập, ấy là Hành Khổ. Xúc, Thọ, ấy là Khổ khổ, còn các cái kia là Hoại khổ”.

          Nay nói tâm ta đây, từ không cái vô minh cho đến không cái Lão, Tử, là nghĩa không Khổ khổ. Không 12 món đây, tức là bực chơn giải thoát, là nghĩa hưởng sự vui. Kinh nói: “Quả Vô Thượng Bồ Ðề là cái vui giác pháp, cõi Vô Thượng Niết bàn là cái vui Tịch Tịnh”. Thế đều là nghĩa vui vậy. Do trên, vả thuận theo kinh văn, khổ vui đối đãi. Như thật mà luận: Nhiễm đã không lập (không có), tịnh lại đâu còn. Tịnh uế đều vong, khổ vui bình đẳng.  Cái vui như thế mới đúng với cái nghĩa Cực Lạc. Bằng chấp là thánh giải (chấp mình chừng bực thánh) trở thành cảnh giới của ma chấp Phật kiến (chấp chỗ thấy mình bằng Phật) liền đọa ngục Thiết Vi. Thế cho nên ta quán xét nước Cực Lạc, thiệt không đáng vui. Vì nếu chấp có đáng vui thì khác gì với đáng khổ, bởi vì còn tương đối.


 

Xá Li Pht! Li trong cõi Cc Lc có by tng lan can, by tng lưới giăng, by tng hàng cây, đu bng bn cht báu bao bc giáp vòng,   


      

          SỚ: Văn đây chính nói rõ ra các sự vật rất vui, lan can quanh ở ngoài hàng cây, lưới giăng phủ ở trên cây, xen lẫn với nhau, đều có 7 lớp.  Bốn món báu là bốn món trước trong 7 món báu vậy. “Châu tráp” là giáp vòng khắp đủ. “Ðoanh vây” là đoanh quanh bao bọc, nghĩa là:  Mỗi lớp đều là bằng bốn món báu trang sức.  

       

SAO: “Lan can”: bề ngang là Lan, bề đứng là Can (song can). Phương đây, với những vườn hoa cây kiểng cũng có làm lan can: 1. Ngăn rào trâu, dê làm hư hại. 2. Ðể coi cho tốt. Cõi kia tuy khỏi giữ trâu, dê, và không cố ý để xem cho tốt mà là do vạn hạnh công đức trang nghiêm, tự nhiên nó đều thật hiện thành tựu. Nghĩa lưới giăng cũng đồng như đây.

          “Hàng cây” là thứ lớp thành hàng, không lộn lạo. Thế nào là bảy lớp:  Một lớp lan can, một lớp lưới, vây phủ một lớp hàng cây; cho nên nói rằng:  “Lớp lớp xen nhau”. Với ba việc nầy mặc dầu cõi ta đây cũng có, nhưng mà chất nó chỉ bằng cây với đá. Cõi kia thì ròng là dùng các thứ ngọc báu làm thành.

          “Bốn món báu trước trong 7 món báu” là: Kim, Ngân, Lưu Ly, Pha Lê vậy. “Giáp vòng đoanh vây” là như kinh Thoại Tướng nói: “Vô lượng lưới báu đều dùng chỉ vàng, châu ngọc, trăm nghìn món tạp bảo trau dồi rực rỡ. Giáp vòng bốn phía, treo những cái bảo linh, hào quang màu sắc chóa lòa, phủ trùm trên rừng cây”. Kinh Ðại Bổn nói: “Lưới kia mềm dịu như bông Ðâu La Miên (bông vải) chẳng phải như món báu trong thế giới nầy, phải đợi chạm trổ uốn nắn mới là nghiêm sức”. Lan can bằng ngọc trang sức, cũng lệ theo đây nên biết.

          Kinh Ðại Bổn nói: “Trên bờ đường bằng các món báu, có vô số cây chiên đàn hương, cây kiết tường quả, mỗi hàng mỗi hàng ngang nhau, mỗi gốc mỗi gốc đối nhau, mỗi cành mỗi cành nương nhau, mỗi lá mỗi lá ngay nhau, mỗi hoa mỗi hoa chìu nhau, mỗi trái mỗi xứng nhau”. Như vậy hàng ngũ, mấy trăm nghìn lớp nên gọi là “hàng”. Kinh lại nói: “Các cây bằng thất bảo, đầy nhẫy trong thế giới”, chỗ gọi rằng: Gốc vàng, cây vàng nhánh lá hoa trái cũng đều bằng vàng, thời gọi là một món báu.

          Gốc vàng, cây bạc, nhánh lá hoa trái, cũng phân ra vàng và bạc, thời gọi là hai món báu. Như vậy ba món báu, bốn món báu kia xen lộn, lẫn lựa thêm nhiều, nhẫn đến 7 món báu. Lại nói: “Cõi Tịnh Ðộ chư Phật xinh tốt trang nghiêm, ở trong cây báu thảy đều hiện ra cũng như gương sáng”. Quán Kinh nói: “Bảy hàng cây báu, mỗi mỗi cây, cao 8 nghìn do tuần, mỗi mỗi hoa lá, ửng ra màu sắc báu lạ, trong sắc lưu ly phóng ra hào quang sắc vàng; trong sắc pha lê chiếu ra tia sáng sắc hồng” v.v...

          Lại nói: “Lưới bằng ngọc chơn châu tốt giăng phủ trên cây báu, mỗi mỗi cây có bảy lớp lưới ngọc. Mỗi lớp lưới, có năm trăm ức cung điện tốt đẹp như cung điện trời Phạm vương, chư thiên, đồng tử tự nhiên ở trong đó”.  Lại nói: “Mỗi mỗi cây lá, dài rộng vừa chừng 25 do tuần; lá kia ngàn sắc, có các hoa đẹp như sắc vàng cây Diêm phù Ðàn, như vòng lửa quây, lăng xăng trong lá, sanh ra các trái như cái bình của trời Ðế Thích, có hào quang lớn, hóa thành tràng phan, vô lượng bảo cái. Trong bảo cái ấy, ánh hiện cõi tam thiên, đại thiên thế giới, tất cả Phật sự cũng hiện ở trong đó”. Lại kinh Ðại Bổn nói: “Nhà giảng đường của Phật, nhà cửa các vị A La Hán, mỗi mỗi trong có ao thất bảo, ngoài có cây thất bảo, mấy nghìn trăm lớp”. Căn cứ theo đây, thời ba kinh:  Kinh thì nói nhiều, kinh lại nói ít, có khác, như kinh này chỉ nói có 7 lớp; mà kinh kia lại nói tới trăm nghìn lớp. Kinh này chỉ nói lưới giăng, kinh kia lại nói trong lưới giăng hiện ra cung điện chư thiên.  Kinh nầy chỉ nói hàng cây, kinh kia nói trong hàng cây hiện ra thế giới đại thiên, và kinh nầy nói bốn món báu, kinh kia lại nói 7 món báu. Số là kinh nầy nói lược, ít, kinh kia nói rộng, nhiều. Lấy ít gồm nhiều, vì dùng văn bớt cho gọn. Văn tuy chẳng đủ, nhưng nghĩa thiệt không thiếu.

          Như ngài Linh Chi nói: “Bảy lớp lan can. Phàm chỗ ở của Phật và Bồ Tát đều như vậy cả, chứ chẳng phải cả một nước mà chỉ có 7 lớp vậy đâu” thời biết nhiều đến mấy trăm nghìn lớp, vì nhiều thứ 7 lớp, chất chứa mà thành. Cứ 7 lớp nầy, kế 7 lớp khác, lớp lớp vô cùng. Còn nữa, so đây nên thấy.  


       

          SỚ: Lại đều nói số 7 là nêu 7 giác chi, 7 thánh tài ...


          SAO: Với Giác chi, sẽ thấy văn sau. Còn 7 Thánh tài là: 1. Tín; 2.  Giới; 3. Văn; 4. Xả; 5. Huệ; 6. Tàm; 7. Quí. Năm món trước như của báu, hai món sau như người biết cách giữ của báu. 


        

          SỚ: Lại Kinh Ðại Bổn nói: “Cây Bồ Ðề nơi Ðạo Tràng của Phật A Di Ðà cao 16 ức do tuần. Bốn phía cành lá 8 ức do tuần, gốc cây cao lên 5 nghìn do tuần, tất cả các báu tự nhiên hiệp thành, lại rủ các ngọc báu dùng làm chuỗi Anh Lạc; lại có lưới báu, giăng phủ trên cây”. Căn cứ theo đây thời ngoài hàng cây, riêng có cây Ðạo Tràng của Phật mà văn nầy bớt gọn, tức là gồm trong hàng cây.

          Lại trong luận nói: “Cỏ công đức cũng nhiếp trong hàng cây”.  Kinh Ðại Bổn nói: “Cây kia có mùi hương” cũng nhiếp trong món báu. 

        

SAO: Cây Ðạo Tràng tức là cây Bồ Ðề, như Phật Thích Ca cũng ngồi dưới gốc cây nầy mà thành ngôi chánh giác, phải vậy. “Mười sáu ức do tuần” là kinh Ðại Bổn ngài Vương Thị nói: “Một nghìn sáu trăm do tuần”.  Vả hàng cây còn được 8 nghìn thay, huống cây của Phật đâu lại kém ư? Lời SỚ đây gốc dẫn trong kinh Bảo Tích vậy. “Tức nhiếp trong hàng cây” là: Do cây Ðạo Tràng cũng là: gốc, chồi, cành, lá, bông, trái, mỗi hàng mỗi hàng kế nhau. Cho nên nói hàng cây đủ dùng nhiếp hết.

Thế nào là “cỏ công đức”? Trong Luận nói: “Cỏ Bảo Tánh công đức, nhu nhuyễn quanh chìu theo hai bên. Hễ ai đụng nhằm thì sanh tâm vui sướng hơn cái thích ý ôm chim Ca Chiên Lân Ðà” . Văn đây không nói đến cỏ là do vì nói cây gồm cỏ.

“Mùi hương của cây ấy” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, hoa cây trong nước đều dùng vô lượng các món tạp bảo, trăm nghìn món hương mà cộng hiệp thành. Hương kia phổ huân cả 10 phương thế giới; chúng sanh nào có duyên được nghe đến, đều nhớ tu đạo Phật”. Văn đây không nói đến là vì hễ nói các thứ báu lạ thì lẽ cố nhiên ắt có mùi hương lạ. Do vì nói báu lạ nó gồm hương lạ.



 vì thế nên nước đó tên là Cc Lc.  


    

SỚ:  Kết văn trước dể sánh văn sau. 


SAO: “Kết văn trước” là gì? Do lan can, lưới giăng, hàng cây mỗi mỗi đều thanh tịnh trang nghiêm ấy. Sở dĩ cõi địa cầu bằng vàng ròng, nó khác với địa cầu bùn cát, cây ngọc báu khác với cây chông gai. Không tất cả sự khổ, có tất cả sự vui nên gọi là nước Cực Lạc.

Ðể “sánh văn sau” là gì? Văn sau dưới mỗi câu “công đức trang nghiêm”, tuy không câu “danh vi Cực Lạc”, nhưng nghĩa thời có đó. Trong văn đây, dưới câu “danh vi Cực Lạc”, tuy không câu: “Công đức trang nghiêm nhưng nghĩa cũng có; vì lối hành văn bằng cách bày thấy lẫn nhau. 


        

SỚ:  Xứng lý thời tự tánh đủ muôn đức dọc ngang là nghĩa lan can.  Tự tánh rỗng rang bao la pháp giới là nghĩa lưới báu. Tự tánh nuôi lớn các căn lành là nghĩa hàng cây. 


SAO:  “Dọc và ngang” là gì? Cả pháp lục độ vạn hạnh không lìa tự tánh như: tự tánh vốn không xan tham, ấy gọi là Bố Thí độ, lấy Bố thí làm bề dọc. Bố thí mà tâm không nhiễm trước thời bề ngang thành pháp Giới Ðộ (trì giới). Bố thí mà tâm không kiêu ngạo thời bề ngang thành pháp Nhẫn Ðộ (nhẫn nhục). Bố thí mà tâm không nhàm mỏi thời bề ngang thành pháp Tấn Ðộ (tinh tấn). Với pháp Thiền Ðịnh, Trí Huệ, cũng lại như vậy. Năm độ kia, so như trên nên biết. “Các món nhiệm mầu trọn đủ” tức là nghĩa xem cho tốt.  Các vọng không phạm (nhiễm) tức là nghĩa ngăn trâu, dê làm hư hại.

“Bao la” là gì? Tự tánh khắp đầy, thanh tịnh vì trùm bao cả pháp giới.  “Nuôi lớn các căn lành” là chi? Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian nói: “Cây diệu pháp của ông Bồ Tát sanh nơi đất Trực Tâm, hột giống bằng đức Tín, gốc bằng Từ Bi, Trí Huệ làm thân cây, Phương Tiện làm nhành cội, năm độ làm rùm rà, lá bằng Ðịnh, hoa bằng Thần Thông, Nhứt Thế Trí là trái hột”.   

Lại kinh Tịnh Danh phẩm Phật Ðạo nói: “Pháp vô lậu là rừng cây, Giác Ý Tịnh Diệu là hoa giải thoát, Trí Huệ là trái, đều là cội gốc ở nơi đất Trực Tâm mà phát sanh ra vô tận ấy vậy”. Ngặt vì lan can đã hư mà lại va rìu búa vào, lưới giăng đã lủng mà lại bóng che mát thưa! Còn khô héo đến cả gốc nhánh là khác, huống mong gì nở nang hoa trái?! Song mà rừng Giác (tánh giác) vẫn như xưa, hột giống đạo (Phật tánh) chẳng xa, SAO chẳng mau vun bồi, lại thêm sửa soạn, liền thấy cây Bá ở trước sân, hoa Dược Lan ngoài rào. Mỗi hàng, mỗi hàng đều là Bát Nhã Chơn Như, mỗi phía mỗi phía toàn là Bồ Ðề Phật Tánh!

 


Xá Li Pht! Li trong cõi Cc Lc có ao bng by cht báu, trong ao đy dy nước đ tám công đc, đáy ao thun dùng cát vàng tri làm đt.


        

SỚ: “Lại nữa” là: Noi theo văn trên, chẳng những trên đất liền trang nghiêm có những lan can, lưới giăng, hàng cây như thế, mà dưới ao nước cũng trang nghiêm, cũng lại thắng diệu không chi kịp vậy. “Ao thất bảo” là gì? Do bảy món ngọc báu làm thành; chất nước trong ao, cũng dùng 7 thứ ngọc báu. 


SAO: “Bảy món ngọc báu làm thành” là: Vì lựa khác với phương nầy, dùng đất đá làm thành. Kinh Ðại Bổn nói: “Trong ngoài, đôi bên có những ao tắm, hoặc 10 do tuần, hoặc 20, 30, nhẫn đến trăm nghìn do tuần cũng như biển lớn. Hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến 7 món báu, hiệp cộng làm thành”.

Lại nói: “Như cái ao của đức Phật kia, tư vuông bội hơn cái ao bằng trăm ngàn do tuần ấy, toàn dùng 7 món báu làm nên”. Nay kinh nầy (Di Ðà tiểu bổn) không nói ao của Phật là vì gồm chung trong cái nghĩa ao rồi.

Nước cũng dùng các món báu như kinh Thập Lục Quán nói: “Nước trong mỗi ao do 7 món báu làm thành. Báu kia nhu nhuyến từ ngọc Như Ý Châu Vương (thanh tịnh tâm) sanh ra, phân ra 14 dòng nước, ngời ra màu tốt của 7 món báu. Vàng ròng làm bờ ao”.

Lại nói: “Nước bằng chất ngọc Ma Ni (tâm chánh định) kia, chảy rót trong hoa. Nước chảy chuyền theo cây lên, xuống”. Nay kinh nầy chỉ nói ao báu, không nói nước cũng do ngọc báu làm thành và chảy rót lên xuống, là vì chung gồm trong nghĩa nước vậy.

Nước bản tánh nó thì chảy xuống, mà trái lại từ dưới thấp chảy lên trên cây cao. Vì phương ta đây không có (dù có cũng mắc công bơm). Như kinh Hạ Sanh nói: “Cõi trời Ðẩu Suất Ðà thiên của Phật Di Lặc ở, có thứ nước chảy đi trong rường cột”, tức là đồng loại nước đây vậy. 


        

SỚ: Nước có tám thứ công đức là: Bản kinh dịch đời nhà Ðường nói: 1. Lóng trong; 2. Mát mẻ; 3. Ngọt ngon; 4. Nhẹ mềm; 5. Nhuần láng; 6. An hòa; 7. Trừ đói khát; 8. Nuôi lớn các căn lành. Ðủ tám món công đức đây để lợi ích cho chúng sanh vậy. Lời kinh Thập Lục Quán nói phân tích tám món công đức, với kinh nầy có khác một chút.

“Dưới đáy ao cát vàng” là do lấy cát vàng làm đáy ao, cho khỏi bùn cặn vậy. 


SAO: Lóng trong là: 1. Lóng trong sạch sẽ không ô trược; 2. Mát mẻ:  Trong trẻo mát mẻ, không nóng nảy; 3. Ngọt ngon: ngọt ngào ngon đẹp, đủ chất vị rất quí; 4. Nhẹ êm: nhẹ nhàng, êm ái, chảy lên xuống đều vừa ý; 5.  Nhuần láng: được nhuần trơn láng, không khô rít; 6. An hòa: An tịnh hòa huỡn, không gấp tràn; 7. Trừ đói khát: Nước này đã đỡ khát mà nay lại thêm đỡ đói, có sức thù thắng; 8. Nuôi lớn các căn lành: Nuôi dưỡng thêm lớn cho cả trong tâm ngoài thân vậy.

Trong Quán Kinh lời SỚ nói: “Tám món công đức là: 1. Nhẹ. 2. Trong. 3. Mát. 4. Êm. 5. Ngon. 6. Không hôi. 7. Khi uống hòa đẹp. 8. Uống rồi không bệnh. Ðối với trên, chỗ đại khái thì đồng, nhưng có khác một chút.

Vì SAO? Do kinh đây, nhẹ và êm hiệp một; còn kinh kia lại chia làm hai. Kinh đây, không nói “không hôi”. Kinh kia lại thiếu “nhuần láng” và “hòa an”. Song nghĩa lẫn nhau thấy đủ. Vì hễ lóng trong mát mẻ thời ắt không hôi hám; đã nhẹ lại dịu êm, đâu chẳng an hòa, lược bớt nghĩa nhuần láng; cho nên nói: “Có khác một chút”.

Lại kinh kia phối với nghĩa Lục Nhập, kinh đây thời lóng trong là căn Sắc nhập. Ngọt ngon là căn Vị nhập, cho đến nói: “Nuôi lớn các căn lành” là  Nhĩ nhập, Tỷ nhập, Thân nhập và Ý nhập đều thâu nhiếp cả.

Lại kinh Ðại Bổn nói: “Dưới sông lớn, cát vàng lót đất, có hương chư Thiên, hương đời không sánh được, theo nước tan ra bát ngát, hòa với nước trôi thơm” đều là chứng rõ có căn hương nhập vậy.

Văn sau nói thuyết pháp ấy là chứng rõ: Căn Thinh nhập và căn Pháp nhập. Hỏi: Với ngọt, ngon, nhẹ, êm, trừ đói, nuôi lớn căn lành, phương đây không hẳn thiệt đúng như vậy, nhưng mà phàm nước thì thảy đều mát mẻ, thảy đều nhuần láng, nay vì SAO nước cõi kia cũng có đủ hai tánh đó mà lại riêng xưng là nước công đức?

Ðáp: Nước ở phương ta mặc dầu cũng mát mẻ, nhưng gặp nắng thì nóng, gặp lửa thì sôi, còn nước cõi kia dầu kiếp lửa đến nó cũng mát mẻ tự như, trọn không nóng và sôi.

Nước ở phương ta tuy cũng nhuần láng, nhưng nắng quá thời khô, lửa đốt thời cạn. Còn nước cõi kia dầu kiếp lửa đốt đó, nó cũng vẫn nhuần láng tự như, không khô và cạn.

“Kim sa” (cát vàng), trong Quán Kinh nói: “Vàng ròng làm bờ ao. Dưới bờ ao, có những thứ ngọc Kim Cang làm cát dưới đáy ao”. Kinh Ðại Bổn nói: “Ao, ròng một món báu, cát dưới đáy cũng ròng một món báu”.

“Ao vàng ròng” là: Cát dưới đáy ao bằng chất bạc trắng, như ao thủy tinh, cát dưới đáy bằng ngọc Lưu Ly. Hai món báu làm ao thời cát dưới đáy, cũng hai món, cho đến 7 món báu làm ao cũng lại như vậy.

Nay kinh nầy chỉ nói một thứ cát vàng là vì bớt văn gọn lại. 



SỚ: Lại kinh Ðại Bổn nói ao nước, các món báu đã kể rồi, nay lại phân ra ba món diệu dụng thù thắng: 1.  Nước hay tùy ý;  2. Nước hay thuyết pháp; 3. Tắm rồi tấn tu đạo nghiệp. 


SAO: “Tùy ý” là gì? Kinh Ðại Bổn nói: “Các người bực Thượng Thiện vào trong ao Thất Bảo tắm sạch thân thể, ý muốn cho nước ngập chưn, nước liền ngập tới chưn; muốn cho tới gối, nước liền ngập tới gối; muốn cho tới lưng, tới nách, tới cổ và xối lên trên thân thể, đều được như ý muốn. Muốn cho nó trở lại, nước liền trở lại, điều hòa ấm, mát, không chút nào mà chẳng thuận thích. “Nới thần sướng vóc, rửa sạch tình lự , trong ngần lóng sạch, tịnh như vô hình. Nước ấy thiệt là vô tâm mà hay tùy tâm ý người muốn vậy” (không như nước máy cõi nầy, cần người ra sức bơm, vặn, nhận nút trong khi tắm).

“Thuyết pháp” là gì? Kinh Ðại Bổn nói: “Pháy dợn xoay vòng, chuyển nhau rỏn rẻn, không chậm không mau, êm đềm rỉ rả. Sóng xao vô lượng, tự nhiên kêu ra những tiếng nhiệm mầu. Hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng, tiếng tịnh, tiếng không, tiếng vô ngã, tiếng đại từ bi, tiếng ba la mật, tiếng thập lực, tiếng vô úy, tiếng bất cộng pháp, tiếng chư thông huệ, tiếng vô sở tác, tiếng bất khởi diệt, tiếng vô sanh nhẫn, cho đến tiếng cam lồ, quán đảnh, tiếng chúng diệu pháp, xứng tâm sở dục (vừa theo ý muốn). Không phút nào chẳng nghe, phát tâm thanh tịnh, thành thục các căn, hằng không lui đạo vô thượng Bồ Ðề. Thiệt là nước ấy vốn vô tình, nhưng có thể nói được các diệu pháp vậy.

“Tắm rồi tấn tu đạo nghiệp” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Cùng nhau tắm rồi, hoặc mỗi người ngồi trên hoa sen”. Lại nói: “Có người ở dưới đất giảng kinh; người tụng kinh; người tự thuyết kinh; người dạy kinh; người nghe kinh; người niệm kinh; người nghĩ đạo; người tọa thiền nhứt tâm; người đi kinh hành; có người ở giữa hư không giảng kinh; nhẫn đến người tọa thiền rồi đi kinh hành; mỗi người đều tùy theo tánh của mình muốn mà có đặng chỗ sở đắc”.

Người chưa chứng tứ quả nhơn tắm rồi đặng tứ quả; chưa đặng bực Bất Thối Chuyển địa Bồ Tát thời đặng bực Bất Thối Chuyển. Nước ấy chẳng những chỉ có cái công năng dùng để tắm được mà lại sau khi tắm rồi, được nhiều lợi ích quí lạ.

Sắp về trước, ba món thù thắng đều nhiếp về trong nước bát công đức, và ao thất bảo. Lại Hậu Xuất Kinh lời Kệ nói: “Chỉ có nước sông chảy, tiếng vang như thuyết pháp”, thật vậy. 



SỚ: Xứng lý thời tự tánh sâu rộng đằm thắm là nghĩa ao báu. Tự tánh đều đủ tất cả công đức là nghĩa nước bát công đức.


SAO: “Sâu rộng đằm thắm” là gì? Chữ Uông là dạng thẩm sâu là vì tự tánh sâu mầu vô tận như đáy ao vậy. Chữ Dương là dạng rộng khơi, là vì tự tánh rộng xa không tột như lượng lớn của ao vậy. “Ðằm thắm” là dạng trung hòa; vì tự tánh chẳng phải chơn, chẳng phải tục, thuần túy chí thiện như ao thuần dùng ngọc báu làm thành.     

“Ðủ các món công đức” là tự tánh không nhiễm, tức đức lóng sạch.  Tự tánh không phiền não tức đức mát mẻ. Tự tánh không hung ác, tức đức ngọt ngon. Tự tánh vô ngã, tức là đức nhẹ êm. Tự tánh không dứt mất tức là đức nhuần láng. Tự tánh không bạo tàn tức là đức an hòa. Tự tánh không thiếu thốn, tức là đức trừ đói khát. Tự tánh sanh ra tất cả muôn điều lành, tức là đức nuôi lớn.

Lại tự tánh thuận muôn vật mà vô tình, đi lên thời vào bực Thánh, nhưng bực Thánh cũng không tăng; đi xuống thời làm bực phàm nhưng bực phàm cũng chẳng giảm. Bất biến mà tùy duyên, khắp cùng cả pháp giới.  Cho nên nói chảy rót thấm trong các thứ hoa và chảy lên trên những cột rường ấy vậy.

Ngài Vĩnh Minh nói: “Vì nước có 10 đức đồng với chơn tánh”, chính ý như đây. Nước định lặng, nhẫy đầy, người tắm nước đây không nhơ cũng không sạch, ấy là nước bát công đức.



Vàng bc, lưu ly, pha lê hip thành nhng thm, đường  bn bên ao; trên thm đường có lu gác cũng đu nghiêm sc bng vàng, bc, lưu ly, pha lê, xa c, xích châu, mã não.



SỚ: “Bốn bên” là: Giữa là ao nước, giáp vòng bốn bên là thềm đường vậy. Kim: tiếng Phạm (suvarna) Tô Phạt La. Ngân: Tiếng Phạm (Rupya) A Lộ Ba. Lưu Ly đây dịch: Thanh Sắc Bảo (viên ngọc màu xanh).  Pha Lê đây dịch: Thủy Ngọc (ngọc thủy tinh). Xà Cừ đây dịch:  Ðại Bối (con ốc lớn). Xích châu, tiếng Phạm: Bát Ma La Già. Mã não tiếng Phạm: Bát ma la già lệ. Dùng 7 món báu đây để trang nghiêm trau dồi. 


SAO: “Giai đạo” (thềm đường) là: Cao khỏi mặt đất gọi chữ Giai (thềm). Ðường bằng phẳng gọi chữ Ðạo. Chữ “lầu các” là: Chồng nóc gọi là Lầu, lầu cao nói là Các. Như trong Quán Kinh nói: “Trên đất vàng ròng, trong mỗi mỗi món báu, năm trăm sắc hào quang. Hào quang như hoa thành đài quang minh. Nghìn muôn lầu các, trăm món báu hiệp thành”.

Kinh Ðại Bổn nói: “Nhà giảng đường tinh xá và cung điện lầu các của Phật A Di Ðà đều dùng 7 món báu, tốt hơn gấp trăm ngàn muôn bội chỗ của trời thứ 6 trong thế giới nầy. Và chỗ ở của các vị Bồ tát, cũng hơn như vậy.  Còn cung điện, lầu các của các vị chư thiên và người thì xứng theo hình sắc cao, thấp, lớn, nhỏ; hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến vô lượng món báu”.

Lại luận Phật Ðịa nói: “Vả nói 7 món báu, nhưng kỳ thực cõi Tịnh Ðộ, vô lượng món báu nhiệm mầu”. Cho nên biết rằng nói bốn báu là bớt văn.

Lại kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới nói: “Lầu cao dãy dọc, đường đi quanh trên gác gie ra hai bên, cột nhà liên tiếp, song, cửa lẫn nhau ánh chói, thềm sân, hiên rào, món món đầy đủ, tất cả đều dùng ngọc tốt trang nghiêm”, tức là nghĩa đây vậy.

Lại kinh Ðại Bổn nói: “Các nhà lầu nhà gác đây, có cái tùy ý người mà nổi lên cao lớn ở giữa hư không như vừng mây vậy. Có cái chẳng tùy ý người thời chỉ cao lớn ở trên mặt đất. Do người khi cầu đạo, đức có dày, mỏng, chỗ tự mình gây tạo”. Lại nói: “Lầu quán, lan can, có ngọc anh lạc phủ lên trên, đều trỗi lên tiếng nhạc ngũ âm”.

Lại trong Quán Kinh nói: “Hai bên lầu các đều có những cái tràng hoa, vô lượng đồ âm nhạc ấy diễn reo những tiếng pháp: Khổ, không, vô thường, vô ngã”; lấy đây nghiệm xét thời kinh chỉ nói lầu các, không phân của Phật và Bồ tát, trời, người, cũng chẳng phân ở trên không, ở dưới đất cũng chẳng nói âm nhạc diễn pháp đều là bớt văn vậy.

Kim (vàng) có 4 nghĩa: 1. Sắc không biến đổi; 2. Thể không nhơ bẩn;  3. Chuyển làm vô ngã; 4. Hay khiến người giàu. Ngân (bạc) có 4 nghĩa đồng với đây, nhưng công dụng nó có thua một chút. Lưu ly chính dịch là sắc xanh, lại có tên là Bất Viễn. Bất Viễn là cái tên một hòn núi vì cái núi sanh ra ngọc báu này (lưu ly) ở gần thành Ba La Nại.

Thủy ngọc là ngọc Thủy Tinh bấy giờ. Xà Cừ mà nói con ốc lớn là vì con ốc này là loài ốc có vỏ, ở trong biển, thứ lớn gọi là bảo (báu). Một thuyết nói không phải tiếng Phạm (xà cừ). Do vì nó giống vành bánh xe, chữ Cừ là vành bánh xe vậy. Chữ xích châu là: Luận Phật Ðịa nói: “Loài trùng đỏ sanh ra ngọc này” (xích châu). Song có ngọc xích châu trên trời, tên là  Nhơn Ðà la, chẳng phải vật sở hữu ở dưới thế này. Trong Ðại Luận gọi ngọc Trân châu, hoặc trong bụng con cá sanh ra, hoặc trong óc con rắn sanh ra, hoặc trong thai con Trai sanh ra, hoặc trong cây tre sanh ra, thời sắc nó cũng chẳng nhứt định là đỏ; cho nên theo bản dịch trước là đúng hơn. Ngọc mã não: Hoặc có thuyết nói: Chất máu con quỷ ở ngoài đồng nội xứ Ðơn Kỳ hóa ra, có một thuyết khác nói: Ví như cái sọ con ngựa. 

Chữ “tTrang nghiêm” có nghĩa là chỉnh tề. Chữ “giảo sức” có nghĩa là rực rỡ. Do những loại nghiêm sức đây, như văn trước, hoặc dùng một món báu, hai món báu, nhẫn đến bảy món báu.

Lại bảy món báu đây chỉ mượn cái tên đồng với phương nầy, chớ thật ra chất nó chẳng giống, như vàng trời và bạc trời người đời không có thể có được, huống chi cõi Tịnh Ðộ kia. 



SỚ: Lại bảy món báu là thường dụ: Dùng nghĩa quí trọng như trong kinh Phạm Võng nói. 


SAO: “Quí trọng” là kinh Phạm Võng phẩm Bồ tát Tâm Ðịa nói: “Xả bỏ kinh luật Ðại thừa chẳng học mà lại học sách vở của ngoại đạo, Nhị thừa tà kiến v.v.. Khác nào như bỏ của bảy báu, trở lại dùng ngói sạn”. Ðối ngói sạn mà nói, nên biết chữ bảo ấy là lấy nghĩa quí trọng. Chính là nói hai cõi, uế và tịnh chẳng đồng, vì khiến cho nghười đời sanh ưa cõi Tịnh nhàm cõi Uế.

Hỏi: Vua Nghiêu ở nhà tranh, ông Cơ Tử can vua Trụ dùng chén ngọc đũa ngà, những bực vua tôi trong đời còn chuộng điều chắc thiệt; vị Bồ tát cõi Tịnh Ðộ SAO lại còn quí vật báu để làm trang nghiêm?

Ðáp: Ðây có hai nghĩa: 1. Những người bực thượng trí biết tâm minh tịnh thời cõi tự tịnh, chánh báo thù thắng, thời y báo ắt hùng cường; lẽ cố nhiên vậy, nhưng tâm thiệt không nhiễm. Dụ như: Vua Thuấn ở chốn ruộng nương, mình vác cày bừa. Một khi chịu vua Nghiêu truyền ngôi thì với cảnh cửa nghiêm ra vào, mão ngọc tua thả, chẳng cầu mà tự đủ, vua Thuấn nào ham vui ư? Cho nên nói: “Có thiên hạ mà chẳng màng” vậy.

2. Chiều theo kẻ phàm phu độn căn, phải chỉ cõi khổ cõi vui khiến cho sanh tâm ưa và nhàm. Trước lấy sự ưa muốn mà kéo dắt, sau khiến tỏ vào được trí Phật.

Dụ nước đang gặp nạn đói rét, chợt nghe có xứ no cơm ấm áo; đang rớt dưới đầm đen tối, thoạt thấy cảnh quang minh, há chẳng thân tâm chẳm hẳm, bỏ cũ theo mới, miễn đặng vãng sanh, quyết thành người giải thoát; phương tiện tiếp dẫn, lẽ phải như vậy.


 

SỚ: Xứng lý thời sự tánh bằng thẳng là nghĩa thềm đường. Tự tánh cao xa là nghĩa lầu các. Tự tánh cụ túc cả công đức tài, pháp, là nghĩa bảy món báu. 


SAO: “Bằng thẳng” là gì? Tự tánh giải thoát tự tại, lìa các cấu ô, rộng rãi thẳng bằng, không có thiên lệch, ấy gọi là “thềm đường”. “Cao xa” là gì?  Tự tánh vượt khỏi cảnh lục trần, xét soi không sót, bao quát chốn hư không thinh thang vô tận, ấy gọi là “lầu các”. “Công đức tài và pháp” là chi? Tự tánh Thường mà không đổi; Tịnh mà không nhiễm; Ngã mà tùy duyên không ngại; Lạc mà giàu có không thiếu; ấy gọi là “kim ngân”. Tự tánh trong ngoài sáng suốt, không chướng không ngại, ấy gọi là “lưu ly”. Tự tánh bản thể trong sạch lìa Tứ Quá, tuyệt Bách Phi, ấy gọi là “xà cừ”. Tự tánh quang minh chói lọi, ấy gọi là “xích châu”. Tự tánh chắc thật không đổi, ấy gọi là “mã não”.

Các vẻ đẹp đều đủ giúp thành pháp thân; ấy gọi là “nghiêm sức” vậy.  Vả chăng ngài Thiện Tài khắp trải nhiều thành, rộng cầu các thánh, rốt sau đến lầu các đức Di Lặc, đờn chỉ mà lên.

Nay kinh nầy: Chỉ trì danh, không lặn lội đường quanh liền được ở cảnh tốt. Kìa như trọn ngày đi trên thềm báu mà tự nói là đứa lạc đường!  Khá gọi rằng: “Dựa cửa khảy móng, chẳng biết thân mình ở trong lầu ngọc”, tiếc thay!

       


Trong ao có hoa sen ln như bánh xe: hoa sc xanh thi ánh sáng xanh, sc vàng thi ánh sáng vàng, sc đ thi ánh sáng đ, sc trng thi ánh sánh trng, mu nhim thơm tho trong sch. 



SỚ: Văn trước nói vật tốt ở ngoài ao, văn đây nêu vật tốt trong ao.  Hoa sen tiếng Phạm: Phân Ðà Lợi, cũng nói Ưu Bát La, hay Bát Ðặc Ma, hoặc Câu Vật Ðầu. 


SAO: Tiếng Phạm Phân Ðà Lợi, Tàu dịch Bạch Liên Hoa (hoa sen trắng). Khi chưa nở tên là Quật Ma La. Khi sắp rụng tên là Ca Ma La. Khi đang nở tên là Phân Ðà Lợi.

Ưu Bát La là hoa sen xanh. Bát Ðặc Ma là hoa sen hồng. Câu Vật Ðầu: hoa sen vàng vậy.



SỚ: “Bánh xe” là nói cái hình của nó, lớn nhỏ không nhứt định.  Luận Bà Sa và các thuyết nói nhiều thứ chẳng đồng, mỗi mỗi đều tùy cơ mà thấy. 


SAO: “Bánh xe lớn nhỏ” là luận Bà Sa nói bánh xe vàng của vị Luân Vương nghìn bức, vòng tròn 15 dặm.

Kinh Hoa Nghiêm lời SAO nói: “Bánh xe vàng lớn một do tuần”, trong Quán Kinh nói: “Mỗi mỗi trong ao có 60 ức hoa sen bằng thất bảo, tròn vìn vừa đúng 12 do tuần”. Kinh Ðại Bổn nói: “Hoa sen trong ao, hoặc một do tuần, nhẫn đến 100 do tuần, nghìn do tuần”, mà bánh xe của người đời, lớn chẳng quá một trượng, không nên chấp đấy mà cho là mực chắc.

Lại nói: “Hoa sen bằng các chất báu, châu biến cả pháp giới. Mỗi mỗi hoa báu có vô lượng trăm nghìn ức cánh”. Xét trong kinh phân biệt hoa sen có thắng có liệt, ba thứ: 10 cánh, 100 cánh, 1.000 cánh.

Nay kinh nầy nói: “Vô lượng trăm nghìn ức cánh”, cánh đã vô lượng thời hoa kia sức lớn cũng vô lượng vậy. Lại kinh Như Lai Tạng nói: “Bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong nhà Chiên Ðàn Lầu Các, đang ngồi chốn Ðạo Tràng mà hiện pháp thần biến ra có hoa sen nghìn cánh, lớn như bánh xe. Trong sen, hóa các vị Phật. Mỗi Phật phóng vô số trăm nghìn hào quang”.  Cho nên biết bánh xe không thể nghĩ bàn. Ðâu đặng chấp theo bánh xe của người ở đời thường đi mà làm hạn lượng.

“Tùy cơ” là: Hoặc nhỏ, hoặc lớn, do chỗ tu nhơn mỗi người, công phu niệm Phật, có thắng, có liệt, cơ cảm tự nên như thế. Có người chấp hoa bằng bánh xe chê kinh nầy là tán thiện, ấy là người chưa xét được nghĩa bánh xe.



SỚ: Lớn như bánh xe, vả dụ hình thể. Lấy bánh xe dụ đức, cũng có nhiều nghĩa. 


SAO: “Hình thể” là thể bánh xe bao tròn, có giống hình hoa sen vậy.  “Nhiều nghĩa” là: lại bánh xe có nghĩa xoay chuyển là: Hoa sen nầy chúng sanh gá thai, đổi phàm thành Thánh, tức là nghĩa “xoay chuyển”. Lại bánh xe có nghĩa lăn nghiền là: Hoa sen nầy không nhiễm sự ô trược, phá trừ phiền não, tức là nghĩa “nghiền lăn”. Lại bánh xe có nghĩa bay đi là: Bánh xe vàng của vị Thánh Vương trong một ngày bay giáp bốn châu thiên hạ, là ý nói: Hoa sen nầy khắp đến 10 phương, tiếp những chúng sanh niệm Phật kia về đến nước Cực Lạc, tức là nghĩa “bay đi”. Còn nhiều nghĩa nữa đây không nói.



SỚ: Xanh, vàng, đỏ, trắng là nói màu sắc của nó vậy; chẳng những nói màu sắc mà nói hào quang nữa vì hoa sen cõi nầy vẫn có màu sắc, nhưng không hào quang. Chỉ nói bốn sắc là rút văn gọn lại. 


SAO: “Bốn sắc”: giải thấy lời SỚ văn trước. Hào quang ấy từ sắc mà chiếu ra, như viên ngọc trong bóng thời hay chói ánh sáng. Hoa sen cõi kia rất là thanh tịnh, cho nên có hào quang sáng chiếu.

Kinh Ðại Bổn nói: “Sắc xanh hào quang xanh, sắc trắng hào quang trắng; sắc đen, sắc vàng, sắc đỏ, sắc tía, hào quang kia cũng vậy, rực rỡ ánh ngời, xán lạn như mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi mỗi cái hoa chiếu ra 36 nghìn ức tia sáng. Trong mỗi mỗi tia sáng, hiện ra 36 trăm nghìn ức đức Phật. Mỗi mỗi đức Phật lại phóng ra trăm nghìn hào quang sáng để khắp vì chúng sanh trong 10 phương mà thuyết pháp vi diệu”.

Cứ theo đây thời xanh, trắng, đen, vàng, đỏ, tía đã thành 6 sắc mà Luận Phật địa lại nói bảy báu, cho nên biết bốn sắc là vì bớt văn.

Kỳ thật hoa sen đủ vô lượng sắc, đủ vô lượng hào quang vậy. Lại không nói hoa sen thuyết pháp cũng vì bớt văn.



SỚ: Vi diệu hương khiết là nói cái đức kia vậy. Nói bốn đức là cũng vì bớt văn. 


SAO: Bốn đức là:  Ly cấu là nghĩa chánh của hoa sen. Suy rộng nghĩa kia, lược nói có bốn:

I. Nói chữ “Vi” là cũng có bốn nghĩa; hai nghĩa đồng và hai nghĩa biệt. 1. Rễ nó ngầm dưới đáy ao, không ngó thấy được, ấy là nghĩa u vi. 2.  Không sanh nơi gò cao đất cồn, không cùng các thứ hoa sánh nhụy mà tranh phần tốt xinh, ấy là nghĩa ẩn vi. 3. Trong Quán Kinh nói: “Trên mỗi mỗi cành hoa có tám vạn bốn nghìn gân mạch, cũng như thợ trời khéo vẽ”, ấy là nghĩa tế vi. 4. Bảy báu làm thành quí lạ ròng tốt, ấy là nghĩa tinh vi. Hai nghĩa trước chung với phương này; hai nghĩa sau nước kia riêng có, cho nên hai nghĩa đồng, hai nghĩa biệt.

II. Nói chữ “Diệu” là cũng có 12 nghĩa: Bốn nghĩa đồng, tám nghĩa biệt: 1. Mới có hoa liền có quả, chẳng đợi hoa rụng, ấy là nghĩa “Nhơn Quả đồng thời diệu”; 2. Nhiễm mà không nhiễm, không nhiễm mà nhiễm, ấy là nghĩa “cấu tịnh song phi diệu”; 3. Một hoa khắp vòng ở ngoài hột, các hột sắp hàng ở trong hoa; ấy là nghĩa “tổng biệt tề chương diệu”; 4. Ngày thời nở đủ, đêm thì búp lại, ấy là nghĩa “ẩn hiển tùy nghi diệu”; 5. Hoa lớn ở giữa, có trăm nghìn vạn ức hoa sen, dùng làm quyến thuộc, ấy là nghĩa “chủ bạn tương tham diệu”; 6. Thượng, Trung, Hạ phẩm, mỗi phẩm phân ba thành chín, chín nhân chín, cho đến vô lượng tùy theo nhơn trước của mỗi người tu, không lầm lộn nhau, ấy là nghĩa “thắng liệt phân minh diệu”; 7.  Lớn một do tuần cho đến trăm nghìn vạn ức do tuần, ấy là nghĩa “đại tiểu vô định diệu”; 8. Chẳng do mùa xuân sanh, chẳng vì mùa thu héo, luôn luôn thường mới, ấy là nghĩa “hàn thử bất thiên diệu”; 9. Ðỏ, tía, đen, vàng hoặc là thuần trắng, hay tạp sắc, tạp quang, cũng lại như vậy, ấy là nghĩa “thể tố giao huy diệu”; 10. Sanh ở nước kia mà từ hư không bay đến cõi nầy để rước người đáng sanh, ấy là nghĩa “động tịnh nhứt nguyên diệu”; 11. Chư Phật Bồ tát ngồi kiết già trong đó, những chúng sanh niệm Phật cũng gá thai ở trong đó, ấy là nghĩa “phàm thánh kiêm thành diệu”; 12. Người phương này niệm Phật, hoa liền nêu danh (tên người đó trong hoa sen) siêng, biếng, vừa phân, thời tươi khô liền khác, ấy là nghĩa “cảm ứng minh phù diệu”.

Bốn nghĩa trước, 8 nghĩa sau, đồng và thua khá biết.

III. Nói chữ “hương” là phương đây (Ta Bà) nước kia (Cực Lạc) sánh nhau thắng và liệt cũng có hai nghĩa: 1. Phương đây thời từ trong bùn mọc ra, tuy là chỗ nhơ nhưng vẫn thơm tho ngào ngạt, ấy là nghĩa “Ở giữa uế mà vẫn thơm”; 2. Nước kia thời như kinh Ðại Bổn nói hào quang màu sắc đã khác thì mùi hương cũng khác, thơm tho bát ngát không thể kể xiết. Cho nên bài kệ:  Thanh liên hoa hương, bạch liên hoa hương. Người tụng bài kệ đây, còn được trong miệng bay ra mùi hương hoa sen , hơn tất cả các hương khác không sánh kịp, ấy là nghĩa “hương thơm hơn hết giữa các món hương”. Thời biết hương sen ở phương nầy đã hơn các hoa khác, huống nước kia đã hơn mà lại hơn ấy vậy.

IV. Nói chữ Khiết là phương nầy, nước kia, thắng và liệt cũng có hai nghĩa: 1. Phương nầy thời từ trong bùn lầy mọc ra thì đáng lẽ bị lấm nhơ, nhưng mà lại sáng sạch thanh tịnh, ấy là nghĩa “giữa nhơ riêng sạch”. 2. Vì nước kia thời gốc nó từ nơi cát vàng mọc lên, khác với cõi trược nầy. Vì sanh từ nước công đức khác với nước thường, bởi chất do các báu hiệp thành khác với hoa sen ở cõi phàm; cho nên sạch hơn tất cả món sạch, sạch không chi sánh bằng, ấy là nghĩa: “Sạch hơn hết ở giữa các món sạch”.

Hơn mà lại càng hơn lệ theo trên nên biết, nhẫn về trước từ chỗ thiết cận, lược nêu bốn đức. Nếu rộng diễn đó cũng đến vô lượng. Hỏi: Có người bảo: “Sanh về hạ phẩm hạ sanh là sanh trong hoa sen bằng sắt”, thuyết ấy phải không?     

Ðáp: Chưa thấy Phật nói. Như trên đã nói, sắc nó chẳng những bốn mà có hoa sen bằng bảy báu nữa. Thời biết hoa sen vàng là nhiếp trong sắc vàng; hoa sen bằng pha lê, xà cừ, với hoa sen bằng bạc nhiếp trong sắc trắng; hoa sen bằng xích châu, mã não nhiếp trong sắc hồng. Nhẫn đến hoa sen bằng lưu ly cũng nhiếp trong sắc xanh. Suy cho rộng ra thời hoa sen xanh như ngọc xanh của Thiên Ðế cũng nhiếp về trong sắc xanh, như hoa sen bằng chân châu v.v... cũng nhiếp về trong sắc trắng.

Lấy đây sánh hiệp, chắc không có hoa sen bằng sắt. Vả chăng sắt cũng thuộc về trong 5 loại kim khí mà là loại kim khí rất hèn, huống sắt đối với bảy món báu ấy không có thứ sắt nầy.

Sanh trong 9 phẩm, về phẩm hạ nước kia còn hơn cung trời. Mà cung trời đều dùng 7 báu làm thành, chớ chưa nghe có sắt, huống ở Tây phương nào đâu có thứ đó!!



SỚ: Lại hoa sen là chỗ gá thai cho người vãng sanh về nước kia.  Vậy người niệm phật, chỉ phải biết đó. 


SAO: “Gá thai” là người chưa chứng quả vô sanh, hễ sanh về đó, ắt có chỗ gá. Chúng sanh trong sáu đường thời thân trung ấm, tự tìm cha mẹ, bực Thiện Sĩ vãng sanh thời trong một khảy móng tay hoa sen hóa sanh. Văn sau nói: “Nhứt tâm bất loạn liền đặng sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Ðà”, tức là sanh trong hoa sen đây vậy.

Hoa sen đây chính là cung mầu cởi xác phàm, nhà thần an huệ mạng.  Với nước để về đến gọi là nước Liên Bang. Bạn đồng tu gọi là bạn Liên xã.  Với phân giờ thiền tụng gọi là đồng hồ Liên Lậu. Ðịnh chỗ tột xu hướng gọi là phái Liên tông, trọng về sự kia vậy.

Người tu Tịnh Ðộ, hoặc khi lễ Phật phải tưởng mình ở trong hoa sen làm lễ, Phật cũng ở trong hoa sen chịu mình kỉnh lể. Hoặc khi niệm Phật, phải tưởng mình ở trong hoa sen ngồi kiết già, Phật cũng ở trong hoa sen tiếp dẫn mình; như vậy rồi sau mới nhứt tâm trì danh.

Xưa có hai ông thầy chỉ tưởng hoa sen nở ra rồi tưởng hoa sen búp lại mà còn đặng vãng sanh thay, huống lại thêm nhứt tâm trì danh mà chẳng đặng vãng sanh SAO?

Hỏi: Kinh đây chẳng gồm sự quán tưởng sắc tượng, vì lẽ gì nay lại nói thế?

Ðáp: Vì có chỗ chuyên chú, gồm cũng không ngại. Vì SAO? Kìa như vị Bồ Tát khi tu đủ lục độ, nhưng như riêng lấy bố thí độ làm chỗ chuyên chú.  Các độ kia không phải là không tu, miễn tùy sức, tùy phận.

Nay pháp niệm Phật cũng thế. Người chuyên chú pháp quán tưởng, ít trì danh; người chuyên chú pháp trì danh thời ít quán tưởng, cũng là nói tùy sức tùy phận vậy.

Câu nói: Không gồm sắc tướng ấy, số là, e nhứt tâm chấp trì danh hiệu, lại nhứt tâm quán tưởng sắc tượng, chẳng những tâm không hai tác dụng mà hai sự đồng thời đều làm, khinh trọng chẳng phân, đều không thành tựu đó thôi.

Nếu rõ đặng nghĩa chánh và trợ thời nhứt tâm trì danh lấy làm chỗ chánh, ít quán tưởng làm trợ. Trợ cũng qui về nơi chánh như lửa thêm củi, lại có ngại gì?!



SỚ: Xứng lý thời tự tánh thanh tịnh quang minh là nghĩa hoa sen. 


SAO: “Thanh tịnh” là nêu sắc và tự tánh mảy trần chẳng dính. “Quang minh” là nêu hào quang vì tự tánh có muôn pháp đành rành vậy. Luận Phật Ðịa nói: “Các sắc giả và thật như thế đều chẳng ngoài tâm tịnh của Phật”, tức tâm tịnh ấy hay hiển hiện các sắc giả và thật.

Cho nên trong kinh nói: “Sắc xanh hào quang xanh, sắc vàng hào quang vàng v.v... Sắc nào hào quang nấy chẳng hai, tịch đâu chiếu đó đều dung thông vậy”. Lại tự tánh tịch là nghĩa hoa búp, tự tánh chiếu là nghĩa hoa nở, tự tánh cụ túc tất cả thiện pháp, ấy là nghĩa vi diệu hương khiết.

Thế thời chẳng lìa cảnh trần, chưa tắm ao báu mà thường ở trong hoa sen, đi kinh hành và tọa ngọa.



Xá Li Pht! Cõi nước Cc Lc thành tu công đc trang nghiêm dường y.



SỚ: Như văn trước: lan can, lưới giăng, hàng cây, ao, lầu, hoa sen, món món trang nghiêm đều là do đức Phật A Di Ðà, trong nhân Ngài phát đại nguyện và nguyện rồi lại tu đại hạnh, vô lượng công đức mới được thành tựu như vậy? Như lời nguyện hạnh trong kinh Hoa Nghiêm cũng đồng ý đây. 


SAO: Do Ðại Nguyện khởi ra Ðại Hạnh. Nhờ có Ðại Hạnh mới đúng lời Ðại Nguyện. Chỗ tu nhơn của ông Bồ tát đâu chẳng phải thế? Hạnh đủ nguyện xong kêu là “thành tựu”. Trong chỗ tu nhơn là: Khi Phật Di Ðà còn làm ông tỳ kheo tên Pháp Tạng. Lời Ðại Nguyện là: Ngài phát 48 lời nguyện. Có lời nguyện Ngài nói rằng: “Khi ta thành Phật, những người sanh về cõi ta, đều ở trong ao thất bảo, nước bát công đức ở trong hoa sen hóa sanh”. Lại nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, trong cõi ta, từ dưới đất sắp lên, đến hư không, đều có cung điện lầu các, ao, suối, hoa, cây, đều dùng vô lượng các ngọc báu, trăm nghìn món hương mà hiệp cộng thành”. Lại nguyện rằng: “Nếu khi Ta thành Phật khắp cùng nước đủ các món trang nghiêm không có chúng sanh (người nào) mà có thể diễn tả cho hết được”.  Thế gọi là lời Ðại Nguyện.

Nói Ðại Hạnh là: Kinh Ðại Bổn nói: “Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng đối chỗ Phật Thế Tự Tại Vương, nhiếp thủ các hạnh thanh tịnh 21 ức cõi Phật, y như hạnh đó mà tu trì”.

Lại nói: Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng phát 48 lời nguyện rồi, trụ nơi trí huệ chơn thiệt, dũng mãnh tinh tấn, cả kiếp a tăng kỳ tu hạnh Bồ Tát, giữ thân, miệng và ý, tu hành lục độ, rõ đặng lý không, vô tướng, vô tác, thi hành giáo hóa đến vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Ðề. Thế gọi là Ðại Hạnh.

Nói “công đức ấy” tức là Ðại Hạnh, Ðại Nguyện, đây gọi là: “Công đức”. Kinh Ðại Bổn nói: “Tích công bồi đức như thế, vô lượng nghìn muôn ức kiếp, công đức trọn đủ mới đặng thành tựu lời Ðại Nguyện ấy mà vào ngôi vị Phật”. “Lời Ðại Nguyện Ðại Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm” là kinh Hoa Nghiêm phẩm Thế Giới nói: “Cõi Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải đây là do Phật Tỳ Lô Giá Na thuở trước, ở chỗ vi trần số Phật tu vi trần số Ðại Nguyện, mới đặng thành tựu cõi nghiêm tịnh đây vậy”.

Lời văn sau nói: Ðều thành tựu Trí Ðịa và Hạnh của đức Phổ Hiền thời tất cả cõi trang nghiêm, từ đây mà sanh ra. Lệ như lời Nguyện Hạnh của Ngài Pháp Tạng, cũng in như vậy.



SỚ: Lại công đức là công đức tánh vô lậu, lại có thắng và liệt, nay đây là công đức thắng. 


SAO: “Công đức vô lậu” là đức Sơ Tổ nói: “Gây làm phước trong đời là cái nhơn hữu lậu , chẳng gọi là công đức”. Lại nói: “Công đức ở trong pháp thân” thời đại hạnh, đại nguyện đây đều là công đức vô lậu trong tánh mình, chẳng phải là cái nhơn hữu lậu tiểu quả cõi Nhơn Thiên nói trên vậy.     

Thắng liệt là: Hàng Thanh Văn, bực Bồ Tát nhẫn đến bực Phật đều có công đức, nhưng lớn nhỏ khác nhau.

Nay là nhơn địa của Phật kia (Di Ðà) tu vô lượng nguyện hạnh mới đặng thành tựu, công cao đức tột không thể nghĩ bàn, cho nên nói Thắng. 



SỚ: Hỏi:  Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Trang nghiêm cõi Phật ấy thiệt chẳng phải trang nghiêm, thế mới gọi là trang nghiêm”. Nay kinh nầy rộng bày y chánh; vì SAO hai kinh, ý nghĩa trái nhau?

Ðáp:  Vì tánh và tướng chẳng riêng, nhưng vì chỗ lập tông có khác. 


SAO: “ Tánh và Tướng chẳng riêng” là: Toàn tánh khởi ra tướng, toàn tướng qui về tánh. Tánh, Tướng vốn chẳng phải hai vật, nhưng chỗ lập tông của mỗi kinh chẳng đồng.

Như kinh kia (Kim Cang) lấy lý vô tướng lập Tông, cho nên chỉ nói tướng Ðệ Nhứt Nghĩa, không dùng hình tướng, thiệt thời trong tâm thanh tịnh, thân cõi đều hiện; dụ như lau gương, bụi hết, hình tượng bày ra. Còn những kinh mà chuyên nói về tánh đó, số là tánh tức tướng, chẳng phải bỏ tướng riêng dùng tánh.

Nay kinh nầy, do khuyên cầu sanh tịnh độ làm Tông cho nên với cõi Cực Lạc y chánh, mỗi món trang nghiêm tráo trở phân rành, khiến người khởi ham mộ; thực ra thời tướng vốn tự không, chỉ là duy tâm, duy thức mà thôi.

Kinh nầy (Di Ðà) rộng bày tướng đó, số là cái tướng tức tánh, chứ chẳng phải lìa tánh ra mà chỉ nói tướng đâu. Vì chỗ lập tông của mỗi kinh có khác, chớ chỗ cứu cánh cũng vẫn đồng; cho nên biết hai kinh, nghĩa chẳng trái nhau.



SỚ: Hỏi: Cung diện, vườn hoa của chư thiên cũng dùng bảy báu trang nghiêm thì sánh với cõi Phật kia có khác gì?

Ðáp: Vì xấu và tốt có khác nhau. 


SAO: “Xấu và tốt” là: như châu ngọc trong đời, tuy đồng tên là ngọc báu, nhưng mà chất nó có thứ xấu có thứ tốt, giá có khinh, có trọng; cho nên các cõi trời, từ cõi thấp đến cõi cao, y báo, chánh báo trang nghiêm của mỗi cõi từ xấu lần đến tốt, có thắng, có liệt khác xa. Huống gì nước Cực Lạc vượt ngoài ba cõi, đâu chẳng phải với trong bảy báu trang nghiêm, riêng cõi Phật là tốt hơn hết. Trong kinh nói: “Vị Luân Vương, cũng có 32 tướng tốt, nhưng không bằng Phật”, tức là ý đây vậy.         



SỚ: Lại công đức đây, tuy là do nguyện lực đức Phật thành tựu, nhưng cũng gồm nhờ chúng sanh. Do tâm kia tịnh thời cõi mới tịnh. 


SAO: “Gồm nhờ chúng sanh” là: kinh Duy Ma nói: “Trực tâm là tịnh độ của ông Bồ Tát. Bồ Tát khi thành Phật, những chúng sanh không dua vạy mới sanh về trong nước Ngài. Thâm tâm là tịnh độ của ông Bồ Tát. Bồ Tát khi thành Phật những chúng sanh cụ túc công đức mới sanh về trong nước ngài”, nhẫn đến muôn hạnh cũng đều như vậy.

Cho nên người ở phương nầy niệm Phật, cõi kia hoa sen thành, thời nước Cực Lạc món món thanh tịnh trang nghiêm. Tuy rằng Phật kia (Di Ðà) khi làm Bồ tát chỗ tu thành tựu, cũng nói được là do chúng sanh siêng tu tịnh nghiệp tạo thành. Cho nên nói: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.



SỚ: Xứng lý thời tự tánh hay sanh ra muôn pháp là nghĩa trang nghiêm. 


SAO: Ðức Lục Tổ nói: “Nào dè tự tánh hay sanh ra muôn pháp”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả những cái bảo linh, lưới báu do tâm hiểu "Nhứt Thế Pháp Như Huyễn" sanh ra. Tất cả lầu các bằng bảy báu cũng do thiện căn vô trước, thiện căn vô sanh sanh ra”, nhẫn đến y phục, bảo cái, tràng phan, bửu tòa v.v... đâu chẳng từ nơi ấy sanh ra vậy?

Kinh Hoa Nghiêm lại nói: “Trong cõi Hoa Tạng trang nghiêm thế giới Hải đây, hoặc từ sơn hà nhẫn đến cây rừng, bụi bặm, mảy lông các xứ, mỗi mỗi đều là xứng cõi Chơn Như pháp giới đủ đức vô biên”, cho nên phải biết:  Tịnh độ tại trong tâm, ngoài tâm không có cảnh.



Xá Li Pht! Li trong cõi nước ca đc Pht đó, thường tri Nhc tri,



          SỚ: Văn trước kể ao báu, văn đây nói trên đất bằng vàng, có hoa trời, nhạc trời xen lẫn chói hực. “Nhạc trời” là khác với nhạc đời vậy. “Thường trỗi” là không hở dứt vậy. 


          SAO: “Khác với nhạc đời” là kinh Ðại Bổn nói: Cõi trời thứ nhứt có 4 vua Trời và các vị Thiên nhơn đem trăm ngàn món hương hoa, trăm ngàn tiếng âm nhạc để cúng dường Phật và các vị Bồ Tát, chúng Thinh Văn. Cõi trời thứ hai, trời Ðế Thích (đức Chúa Trời) và 32 vua trời, với cả các đức Chúa Trời ở Dục giới cho đến trời thứ bảy là cõi trời Phạm (Phạm Thiên), tất cả các trời đều đem hoa thơm, nhạc hay của mỗi cõi lần lựa gấp bội phần, đem dâng cúng Phật và đại chúng.

          Lại nói: “Cũng có tự nhiên muôn món kỹ nhạc, không món nào là chẳng phải tiếng nói pháp, thanh tao thảnh thót, rõ hay thanh nhã; tất cả các tiếng tăm khác không thể sánh kịp”.

          Quán Kinh nói: “Có vô lượng các vị trời và thần trỗi tiếng nhạc trời. Lại có các món đồ âm nhạc, như treo tòn ten ở trên hư không, tợ hồ các bửu tràng của trời Ðế Thích, không ai khảy mà nó tự kêu”. Vì thế những tiếng nhạc của các vị thiên nhơn đánh kia, không phải trong nhơn gian này có được. Cho nên nói “khác với nhạc đời” vậy.

          “Không hở dứt” là: Nhạc đời cần người, có đánh, có nghỉ. Nhạc Trời tự kêu, cho nên nói “thường trỗi” vậy. Nay người niệm Phật, ngày lâm chung, có nhạc trời rước trên không, chính cõi Tịnh Ðộ mới có nhạc trời thường trỗi vậy (Trời: thiên nhiên, tự nhiên, nghĩa là sẵn sàng).



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh có muôn đức dung hòa là nghĩa thiên nhạc. 

        

          SAO: Tự tánh như thật không thời chẳng dính một mảy trần; như thật chẳng không thời lẫn bày muôn đức, điều hòa và xuôi thuận chẳng trái, đằm thắm một mực không sai. Mức nhẫn tấn (nhẫn nhục, tinh tấn) vừa chừng cao thấp như tiếng quyên reo, tiếng trì trỗi. Chỉ Quán đều thành Ðịnh Huệ thời tiếng khánh dứt, tiếng chuông khua. Giọng từ bi thương mà không hại, nhịp hỷ xả, vui mà không đắm . Thiên nhạc như thế, chẳng những không khua, lại còn không tiếng. Tiếng Võ lặng, tiếng Cung trầm nhưng vang cả trời, rền cả đất.



       đt bng vàng ròng   


   

SỚ: Văn đây noi theo trước để khởi văn sau, nói Cực Lạc thế giới trên thời có nhạc trời, dưới đất có vàng la liệt. Mà ở trên đất vàng ròng ấy, chẳng những tai nghe tiếng nhạc trời, mắt cũng được thấy hoa trời nữa.

          “Vàng ròng” là nói trên đất bằng ngọc lưu ly xen thêm thứ vàng ròng. Song cũng nhiều thứ báu, không nhứt định (vì tùy công đức tu niệm Phật đến đâu được đến đó). 

       

SAO: “Xen thêm vàng ròng” là gì? Như trong Quán kinh nói: “Thấy đất lưu ly trong ngoài ánh suốt. Dưới có trụ kim tràng bằng ngọc kim cang thất bảo, đỡ đội trái đất lưu ly. Hình tràng có tám khía, bằng trăm món báu hiệp thành. Mỗi thứ ngọc báu phóng ra hàng nghìn tia sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn nghìn màu sắc, chói hực trên quả đất lưu ly như ức nghìn mặt nhựt. Trên quả đất lưu ly, có các dây bằng vàng ròng, lộn lạo xen nhau. Lại có bảy thứ ngọc báu làm giới hạn chừng ngằn rành rẽ”.

          Cứ đây thời quả đất vốn là lưu ly mà vàng ròng lại là món trang nghiêm để cản lót, ngăn ranh trên mặt đất vậy.

          Kinh Ðại Bổn nói: “Cõi kia tự nhiên (sẵn có) bảy món báu, thể tánh nó mềm mại ấm áp, xen nhau làm đất. Hoặc chỗ thì thuần một món báu, ánh hòa quang chói vọi, vượt khỏi mười phương, rộng rãi, thênh thang không thể cùng tột. Ðất đều bằng phẳng không có núi Tu Di và các non, biển, hầm, hố, giếng, hang và các chỗ u ám”.

          Cứ đây, thời cũng có thể nói: Cõi đất kia chỉ toàn là bằng vàng ròng. Bởi vì nước kia rộng lớn, chẳng những một góc vàng ròng hay lưu ly. Ðó là chỉ nói một, hoặc hai món báu đó thôi. Thật ra cả các món báu hợp thành cõi đất, thế thì sẽ còn ngọc báu nhiều đến vô cùng!  


       

SỚ: Xứng lý thời tự tánh chơn như bình đẳng là nghĩa đất vàng.   

      

SAO: Chơn Như thời không tạp, không uế, không đổi, không dời, trải muôn kiếp mà thường mới. Bình đẳng thời chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng thấp là chỗ nghìn bậc thánh, chung nơi (đi). Phật Tỳ Xá Như Lai nói: “Trước phải bình cái tâm địa thời thế giới mới bình” . Như ông Xá Lợi Phất tâm có cao thấp mới thấy rõ cõi này gò nổng, hầm hố. Cho nên chỗ đi của mỗi người là vàng ròng, đâu đợi đức Như Lai lấy ngón chơn nhấn dưới đất .



ngày đêm sáu thi rưới hoa tri mn đà la. 


      

SỚ: Nói trên quả đất vàng ròng đây thường rải hoa tốt đẹp vậy. Cõi kia không núi Tu Di và mặt nhựt, mặt nguyệt mà nói sáu thời là lấy hoa nở chim kêu làm chừng vậy.

          Hội niệm Phật ở non Lô Sơn dùng cái đồng hồ hình hoa sen là phỏng theo ý kinh này.  

       

SAO: Cõi này mặt nhựt, mặt nguyệt xoay vòng quanh núi Tu Di mà phân ra ngày đêm. Như vị trí Châu Thiệm Bộ chính ngay phía Nam núi Tu Di, ban ngày, lúc hừng sáng là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Ðông Châu; kế nó vòng qua Nam Châu. Lúc cuối ngày là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Tây châu. Ban đêm, lúc đầu hôm là mặt nhựt nó đi đã đến phân nửa Tây châu; kế nó vòng qua Bắc châu; lúc cuối đêm là mặt nhựt đi đã đến phân nửa Ðông châu. Mặt nhựt đi giáp một vòng như thế là phối với 12 giờ, 6 giờ ban ngày, 6 giờ ban đêm là một ngày vậy. Nước kia đã không núi Tu Di, lại không mặt nhựt, mặt nguyệt, sáng mãi không tối, ngày đêm không phân biệt, chỉ lấy hoa nở, chim kêu làm ngày; hoa xếp, chim đậu (nghỉ) làm đêm vậy. Song với mặt nhựt, mặt nguyệt có hay không? Thì các bản dịch nói chẳng đồng, như bản dịch đời nhà Hán nói: “Mặt nhựt mặt nguyệt ở giữa hư-không”. Bản dịch nhà Ngô cũng như nhà Hán. Nhưng ngài Vương Nhựt Hưu lại nói: “Ở giữa hư không mà không vận chuyển”. Bản dịch nhà Tào Ngụy chẳng nói có hay là không. Còn bản dịch nhà Ðường và nhà Tống quyết định rằng không có. Nếu hòa hợp lại để nói thì là mặt nhựt, mặt nguyệt tuy có, nhưng do vì hào quang của Phật và thánh chúng che lấp ánh sáng thì dù có cũng như không vậy. Song mà xét cho tột lý, không có là phải hơn. Vì SAO? Từ cõi trời Ðao Lợi sắp lên, còn không cần ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt, huống chi nước Cực Lạc?

          Hay là bản dịch đời nhà Hán, trên hai chữ "nhựt nguyệt" thiếu hai chữ "không có" cũng chưa biết được?! Vậy nhờ bậc cao minh giải rõ cho!!

          “Ðồng hồ hình hoa sen” là: Tổ Huệ Viễn lập hội nhóm chúng niệm Phật tại non Khuôn Lô, chạm cây làm hình hoa sen đủ 12 cánh, dẫn giọt nước chảy vô ao hồ, chia phiên niệm Phật. Mỗi một giờ là nước ngập một cánh; ngày đêm 6 thời, thiền tụng không trễ. Các bậc hội viên tu niệm Phật được vãng sanh rất nhiều. Người đời nay phân thời tu Tịnh nghiệp là gốc của tổ Huệ Viễn căn cứ nơi kinh này. 


        

SỚ: “Mạn Ðà La” là tên hoa trên trời, đây dịch là Thích Ý, lại dịch Bạch Hoa. Trời rải hoa là khen ngợi đạo đức như sự tích ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) và trời Ðế Thích.  

       

SAO: “Bạch hoa” là gì? Hoa trời nhiều thứ, như Mạn Thù Sa là thứ hoa đỏ; nay chỉ nói có một thứ hoa trắng là bớt văn cho gọn. Cũng có thể nói phương Tây thuộc Kim, lấy nghĩa là nghiệp trắng sạch.

          “Thích ý” là gì? Hoa trời xinh tốt, làm vui đẹp ý người vậy.

          Kinh Ðại Bổn nói: “Tất cả chư thiên đều đem trăm nghìn hoa thơm trên cõi trời, đến cúng dường đức Phật kia, các vị Bồ Tát, cùng chúng Thinh Văn”.

          “Khâm khen” là gì? Người đời làm lành, các vị trời hoan hỷ, huống chi nước kia đức Như Lai, các vị Bồ Tát và Hiền Thánh toàn là bậc Thượng Thiện cùng nhau nhóm hợp nên trời, thần khen ngợi rải hoa, lẽ cố nhiên, phải vậy. “Như ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) và trời Ðế Thích”: ông Không Sanh (Tu Bồ Ðề) yên ngồI, trời Ðế Thích rải hoa. Ông Tu Bồ Ðề hỏi: “Ai ở trên không rải hoa đó?” Ðáp: “Tôi là Thiên Ðế. Do vì tôn giả nói pháp Bát Nhã rất hay!”

          Xem đây nên biết, những người vãng sanh về Tịnh Ðộ là bực đều đặng nhứt tâm bất loạn thời các vọng niệm chẳng sanh, muôn pháp vắng lặng, tức là khéo nói pháp Bát Nhã, cảm động đến các trời, còn nghi chi nữa? 


        

SỚ: Lại hoa có hai thứ: 1) Hoa trời, 2) Hoa cây. Nay chỉ nói hoa trờI là vì hoa trời gồm cả hoa cây vậy.   

      

SAO: “Hoa trời” là từ trên trời rải xuống, nghĩa như văn trước đã giải.

          “Hoa cây”: Kinh Ðại Bổn nói: “Bốn phương tự nhiên nổi gió, reo ra năm trăm thứ tiếng thổi các hoa cây. Hoa tiết ra mùi hương lạ theo gió bay khắp bốn phương, bay đến chỗ các vị Bồ tát, Thinh Văn đại chúng. Hoa rơi xuống đất, chứa dày bốn tấc, sáng ngời chói mắt, thơm tho không chi bằng. Ðến lúc hoa hơi héo, tự nhiên gió thổi cuốn đi”. Thế thì cõi kia cũng có rải hoa cây, cho nên nói “hoa trời đã gồm có hoa cây” là thế.  


       

SỚ: Xứng lý thời tự tánh mở tỏ nghĩa là hoa đẹp. 

        

SAO: Tự tánh còn mê như hoa còn búp; tự tánh thoạt ngộ, như hoa nở xòe. Lại màu sắc rực rỡ, không vẽ mà thành, mùi thơm bát ngát, chẳng đi mà đến. Hoa rải tự nơi không, chẳng trồng mà mọc, chẳng hái mà tự nhiên rơi xuống. Tự tánh thần linh thông đạt cũng lại như thế! 



Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sm, đu ly đãy hoa đng nhng hoa tt đem cúng dường mười muôn c đc Ph phương khác, đến gi ăn lin tr v bn quc  


      

SỚ: Văn đây nói trời rải hoa, chúng sanh lấy đi cúng Phật. “Chúng sanh” là chừa Phật ra, còn thì đều là chúng sanh. “Sáng SỚm” là một trong sáu giờ vậy. “Y kích” là cái đựng hoa. Cúng Phật rồi trở về nước còn trong thời ăn SỚm là vì bay đi bằng phép thần túc thông vậy.  

       

SAO: “Chừa Phật ra” là duy có một mình Phật, riêng xưng là bậc Ðại Giác, còn từ bực Bồ Tát sắp xuống, nhẫn đến kẻ sơ tâm phàm phu vãng sanh về nước kia đều kêu là “chúng sanh”, với Phật tương đối.

          “Một trong sáu thời” là sáng SỚm là thời trước nhứt trong một ngày. Lấy buổi sáng SỚm đi cúng Phật là để tỏ lòng chí kỉnh vậy.

          Lại lúc sáng là lúc khí đêm còn thảnh mảnh (tươi vui). Sáng SỚm cúng Phật là dùng tâm còn trong sạch vậy.

          Chúng sanh nước kia, tuy ngày đêm nhứt tâm (bất loạn) vốn không thanh trược; nhưng người chưa chứng lên bực Phật còn có chút vô minh, chạm việc gặp duyên, chi cho khỏi xúc động; cũng lấy lúc vừa rạng sáng, gọi là tâm thảnh mảnh. Cũng có thể là tùy thuận phương này mà tạm nói là sáng SỚm vậy.

          “Thường” là gì? Vì mỗI bữa vẫn thường như vậy, vì không nhàm mỏi.

          “Mỗi người” là vì mỗi người đều như thế, vì không ai siêng năng, không ai lười biếng. “Ðồ đựng hoa”: Ngài Chơn Ðế nói: “Y kích là cái đồ đựng hoa của người ngoại quốc; hoặc nói cái y khâm (giỏ lam), cũng như lấy vạt áo đựng hoa”. Nói “phương khác” là từ nước mình đến phương khác; đây không nói nước mình là bớt văn. “Mười muôn ức đức Phật”: Mỗi một đức Phật là một cõi Ðại Thiên, 10 muôn ức là nói chỗ rộng xa vậy.

          “Thời ăn” là bữa ăn SỚm mai; sáng SỚm đến bữa ăn buổi mai là thời rất ít. Lấy thời rất ít cúng Phật rất nhiều là nói sự đi rất chóng vậy.

          Như Kinh Ðại Bổn nói: “Các vị Bồ Tát nương oai thần của Phật chừng trong một bữa ăn khắp đến 10 phương vô lượng thế giới cúng dường các vị Phật. Ðồ hoa hương, kỹ nhạc, y phục bảo cái, tràng phan, vô số đồ cúng. Hoặc muốn dưng hoa thời ở giữa hư không hóa thành cái bửu cái bằng hoa. Khắp 40 dặm nhẫn đến sáu trăm, tám trăm dặm, đều y theo ý muốn lớn nhỏ, đứng dừng giữa hư không. Cái thế nó đều xủ xuống, dùng thành pháp cúng dường. Lại dùng tiếng rất hay để khen ngợi đức Phật, nghe lãnh kinh pháp. Ðã cúng dường xong, thoạt nhiên bay bổng, về đến nước mình còn chưa đến giờ ăn SỚm.

          Cứ đây, thời có đủ thứ những đồ cúng dường, lại hóa tràng hoa thành những tán cái và cúng rồi nghe pháp nữa.

          Văn đây chỉ nói dùng hoa cúng dường đều là bớt văn vậy.

          Thế nào là thần túc? Như kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi của ta đều đặng pháp Thần Túc Thông, trong một phút trải qua trăm nghìn vạn ức số na do tha thế giới”.

          Lại nguyện rằng: “Liền đặng pháp túc mạng thông”. Lại nguyện rằng thiên nhãn thông. Lại nguyện rằng thiên nhĩ thông. Lại nguyện rằng tha tâm thông.

          Thế thì biết, người sanh nước kia, sáu phép thần thông tự tại không những bay đi mà thôi; nhưng đây không nói cũng là bớt văn vậy.   


      

SỚ: Xét pháp thần túc thông đây, các vị Bồ Tát về bực Thập Trụ, Thập Hạnh mới có như trong kinh Hoa Nghiêm nói. 

        

SAO: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Bát Trụ Bồ Tát trong một giây phút dạo đi giáp vô số thế giới”.

          Lại trong kinh Thập Hạnh, lời tụng nói: “Cõi Phật vô biên không có số đếm, vô lượng chư Phật ở trong đó. Các vị Bồ Tát ở trong đó thân cận cúng dường sanh tâm tôn trọng”. Thế thời với pháp thần túc nay đây hàng Tiểu thừa đâu dễ kịp ư?

          Hỏi: Thế thời ba món ý sanh thân sẽ thuộc về bực nào?

          Ðáp: Kinh Lăng Già nói ba món chia ra thuộc Thinh Văn, Bồ Tát và bực Ðại Thánh  .

          Thời biết người sanh về nước kia, tùy chỗ tu của mình đều có chỗ sở chứng, lệ như trong văn cửu phẩm. 


        

SỚ: Xứng lý thời tự tánh tự trang nghiêm là nghĩa “đựng hoa cúng dường”. Tự tánh tự biến khắp là nghĩa “mười muôn ức cõi Phật”. Tự tánh tự lặng không là nghĩa “thời ăn về kịp”. Tự tánh tự trụ là nghĩa “nước mình”.  

       

SAO: “Tự trang nghiêm” là tâm vốn đủ trùm muôn đức; trở lại dùng muôn đức để nghiêm tâm. Ðức mà không khoe chỗ đức, nghiêm mà không trụ chỗ nghiêm, đó mới chính là chơn thật cúng dường.

          Kinh Tư Ích nói: “Người mà hay cúng dường cho Phật thời người ấy thông đạt lý vô sanh”.

          Kinh Bảo Võ nói: “Kẻ nào tư duy đúng như lý, tức là cúng dường đức Như Lai đó vậy”. “Tự biến khắp” là do tự tâm khắp tất cả xứ, tức là đều dâng thờ mỗi vị Phật, không bỏ luống qua vậy.

          Cho nên kinh Duy Ma nói: “Ðồng thời cúng dường, không trước, không sau”. “Tự lặng không” là : Tâm thể vốn vắng không, không thì không tới, không lui. Cho nên chỉ thời ăn về kịp, chỉ đối với sự vất vả lặn lội ở phương này mà thôi. Thật ra thời không vượt ra ngoài sát na (một niệm) đã trở về nước rồi.

          “Tự trụ” là nguồn tâm vắng lặng, thường trụ không dời đổi; đó là cái chỗ: quê xứ ruộng đất để an thân lập mạng của mỗi người.

          Kinh Kim Cang nói: "Huờn chí bổn xứ" tức như kinh này nói: "Huờn đáo bổn quốc”. Ðấy mới đáng gọi là vụ bổn, gọi bằng quân tử vụ bổn; người quân tử chuyên về việc gốc là bổn phận.



ăn cơm xong đi kinh hành.  


       

SỚ: Nương văn trên nói giờ ăn, cho nên kế đây nói việc ăn. “Ði kinh hành” là nghĩa xoay vòng không dứt. Về rồi ăn, ăn rồi đi là cái dáng thảnh thơi, tự thích vậy. 

        

SAO: “Ăn cơm” là gì? Kinh Ðại Bổn nói: những người được vãng sanh đến giờ ăn cơm, với các bình bằng bạc, bằng vàng, mỗi món bát báu tùy ý muốn thứ nào, tự nhiên nó hiện ra thứ nấy; trăm món ẩm thực dẫy đầy trong đó. Chua, mặn, ngọt, lạt, đều theo sở thích, không dư không thiếu, không vì sự ăn quá lượng. Ăn rồi tự tiêu, chứ không còn cặn phẩn. Hoặc người ăn bằng cách thấy sắc nghe hương, tưởng lấy làm cách ăn, tự nhiên no đủ, không đắm thèm chi, thân tâm nhẹ nhàng. Ăn xong rồi, các đồ nó tự biến hóa đi, đến giờ ăn nó lại tự hiện ra.

          “Xoay vòng” là như đường canh suốt đường chỉ, thoi dệt liên kết, qua lại không thôi vậy. “Ăn rồi lại đi” là: 1.- Do điều hòa thân thể, đừng để ngưng trệ. 2.- Ðiều hòa tâm trí, chớ cho buông lung. “Thảnh thơi” là ý nói rảo bước tự rỗi. Người đời ăn rồi, nếu không giong ruổi việc trần thời cũng mải mê giấc ngủ; còn ở nước kia, ăn rồi đi tản bộ bằng cách kinh hành, là với cái thể dạng giải thoát, cái trạng thái tiêu diêu, khá tưởng thấy vậy. 


        

SỚ: Chỉ nói ăn cơm, không nói đến áo mặc ... Chỉ nói đi kinh hành, không nói đến ngồi nằm ... cũng là bớt văn vậy. 

        

SAO: “Áo mặc” là kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật người trong cõi của ta, ý muốn có áo mặc thì nó tùy theo niệm liền đến, không cần cắt may, nhuộm đập giặt xả. Lại còn có vô lượng đồ y phục tốt đẹp như: mão, ngọc, vòng, xuyến, hoa tai, chuỗi anh lạc, tràng hoa dây chuyền, các ngọc báu rực rỡ, trăm nghìn sắc đẹp, tự nhiên hiện ở nơi mình”.

          Lại nguyện rằng: “Còn có vô lượng như ý diệu hương, hương thoa, hương bột thơm tho bát ngát khắp cả nước Phật kia”. Nên biết không nói áo mặc vì nói cơm ăn là gồm áo mặc và tất cả đồ nuôi sống.

          Không nói đến sự ngồi nằm đó, kinh giáo có chia ra bốn pháp tam muội: 1.-Thường hành Tam muội; 2.- Thường tọa Tam muội; 3.- Bán hành bán tọa Tam muội; 4.- Phi hành phi tọa Tam muội .

          Chính trong văn đây thời chỉ có pháp thứ nhứt, song trong hai bộ (Ðại Bổn và kinh này) đều nói người vãng sanh ngồi trong hoa sen.

          Kinh Ban Châu Tam muội thời nói đứng, nên biết: vì nói pháp đi đã gồm pháp ngồi và luôn bốn oai nghi vậy.


         

SỚ: Xứng lý thời tự tánh thường định là nghĩa ăn cơm. Tự tánh thường huệ là nghĩa đi kinh hành.  

       

SAO: Lấy thiền duyệt làm món ăn cho nên thiền định có nghĩa ăn. Trí hay vận chuyển cho nên huệ có nghĩa đi, như trong Luận lời tụng nói: “Yêu thích mùi pháp của Phật, lấy pháp thiền tam muội làm món ăn”. Lại Luận Phật Ðịa nói: “Trong cõi tịnh độ, chư Phật, Bồ Tát hay giảng thuyết, hay thọ dụng pháp vị Ðại thừa”. Lại nữa, để trì thân chánh báo thọ dụng mùi vị chơn như, hay giữ gìn giới thân huệ mạng khiến không đoạn hoại và nuôi lớn muôn pháp lành nên có nghĩa gọi là ăn.

          Lại Kinh A Hàm, luận Duy Thức v.v... đều nói năm món ăn ra khỏi đời: 1.- Thiền duyệt; 2.- Nguyện; 3.- Niệm; 4.- Giải thoát; 5.- Pháp hỷ. Nghĩa là do pháp thiền định nuôi dưỡng tinh thần, nhẹ nhàng vui đẹp, đó tức là nghĩa ăn. Sức nguyện giữ gìn chánh pháp thời pháp thân tăng trưởng, tức là nghĩa ăn. Sức niệm nhớ rõ thời Thánh Ðạo hiện tiền, tức là nghĩa ăn. Giải thoát là hết chướng nghiệp, hẳn hòi được lợi ích, tức là nghĩa ăn. Món pháp hỷ là tu đắc pháp thì mừng trong tâm dẫy đầy nên no bằng rất vui mừng, tức là nghĩa ăn.

          Văn đây chỉ nói pháp thiền định là nói một gồm bốn vì trong pháp thiền định, không pháp nào mà chẳng thâu nhiếp. Kinh Duy Ma nói: "Người chưa phát ý Ðại thừa, ăn món cơm này, đến chừng phát ý Ðại thừa, mới tiêu; người đã phát ý đại thừa, đặng quả vô sanh nhẫn rồi mới tiêu. Người đặng vô sanh nhẫn, đến nhứt sanh bổ xứ mới tiêu”.

          Kinh Hoa Nghiêm, văn Cụ Túc Ưu Bà Di nói: "Nếu các vị Bồ tát nhứt sanh bổ xứ ăn cơm của ta, đều ở dưới cây Bồ Ðề, thành bực chánh giác”. Ðều là lý tự tánh chơn như vô tận, mà làm món ăn vậy.

          “Ði kinh hành” là: Kinh Trì Thế nói: “Chỗ đi của Ðức Như Lai là chỗ không đi. Chỗ không đi ấy là Chơn Huệ vậy”.

          Cho nên biết, cầm thìa (muỗng), buông đũa, mỗi miếng không rơi; giở cẳng, động thân, mỗi bước đạp nhằm... Ðâu đặng vùi đầu ăn cơm, luống qua một đời, ngắm nước xem non, uổng công muôn dặm.



Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như vậy.  


       

SỚ: Kết văn trên: Nhạc trời, hoa trời v.v… món món trang nghiêm đều do hạnh nguyện công đức của Phật kia, mới đặng thành tựu như thế.  

       

SAO: Nguyện là như kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, từ đất sắp lên, đều có vô lượng món tạp bảo, trăm nghìn món hương để hiệp cộng lại làm nên cảnh trang nghiêm ấy”.

          Lại nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, 10 phương vô ương số thế giới, chư thiên, nhơn dân, nghe danh hiệu Ta, thắp đèn rải hoa cúng dường”.

          Lại nguyện rằng: “Khi Ta thành Phật, các vị Bồ tát trong cõi ta dùng hương hoa v.v... các món đồ cúng, muốn đến thế giới phương khác để cúng dường các đức Phật, chừng trong bữa ăn liền đặng khắp đến”.

          Lại nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi của ta, chừng khi muốn ăn ngay trong bát báu, tự nhiên có trăm món đồ ẩm thực nó hiện ra ở trước. Ăn rồi liền hóa đi”.

          Ðến nay Ngài thành Phật, mỗi mỗi lời nguyện của ngài thảy đều thành tựu.

          Hạnh là như kinh Ðại Bổn nói: “Ngài Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát nguyện rồi, trời mưa hoa mầu mà rải trên đó”.

          Lại nguyện rằng: “Hoặc làm thầy tỳ kheo; hoặc làm vị vua trời; hoặc làm vị vua người, là Luân vương. Hoặc quan đại thần, thường đi đến chỗ Phật, dâng thờ cúng dường”.

          Lại nguyện rằng: “Trong tay thường hóa ra đồ y phục, đồ ẩm thực tràng phan, bảo cái, tất cả tiếng âm nhạc”. Ðến nay ngài thành Phật. Như văn trên: Nhạc trời, hoa trời ... các phước báo cũng đều thành tựu.



Li na, Xá-Li-Pht! Cõi đó thường có nhng ging chim mu sc xinh đp l thường, nào chim Bch ht, Khng-tước, Anh-võ, Xá-li, Ca-lăng-tn-già, Cng-mng; nhng ging chim đó ngày đêm sáu thi kêu tiếng hòa nhã.


Tiếng chim đó din nói nhng pháp như ngũ căn, ngũ lc, tht b đ phn, bát thánh đo phn ...


        

SỚ: Văn trước nói các trời dâng cúng hoa màu, văn đây nói: Các thứ chim, cây báu diễn nói thành tiếng các pháp của Phật. Lại văn trước nói: Sự cúng dường rất thù thắng, văn đây nói: Sự nghe pháp rất thù thắng. Mỗi mỗi các món là nói không phải chỉ một món.

          “Kỳ diệu” là cái tốt đẹp lạ thường.

          “Tạp sắc” là nhiều màu sắc, xen lộn rất khéo. Chim Bạch Hạc v.v... là trong nhiều thứ mà chỉ nói một, hai thứ thôi.

          Bạch Hạc, Khổng Tước và Anh Võ là thứ chim ta thường thấy được biết. Chim Xá Lợi xem giải văn trước. Chim Ca Lăng Tần Già đây dịch là Diệu Âm. Cộng Mạng có chỗ nói “mạng mạng”. Như vậy là các thứ thảy đều kỳ diệu, chẳng phải chim ở cõi phàm sánh kịp.  

       

SAO: “Kỳ diệu” là hình nó khác với loài chim kia, gọi là Kỳ. Tiếng hay gọi là Diệu. Chim Bạch Hạc ấy: Cõi này cũng bốn thứ hạc đen, vàng, xanh, trắng, mà hạc trắng thì tốt hơn. Song hạc tuy trắng, nhưng chưa toàn trắng, chẳng phải là chơn Bạch Hạc vậy. Khổng tước, anh võ đều là thứ chim được người ở cõi này cho là quí nên đây riêng nói. Tần Già: đây dịch là Diệu Âm, vì khi nó còn ở trong trứng đã có tiếng kêu tốt hơn các chim khác!

          Kinh Chánh Pháp Niệm xứ nói: “Tiếng tốt của chim này, dù tiếng của người, của trời, của thần Khẩn Na La v.v... cũng đều không thể bì kịp, chỉ trừ tiếng của Ðức Như Lai”, cho nên nói: Diệu Âm.

          Chim Cộng Mạng, cũng nói Mạng Mạng, cũng nói Sanh Sanh; nguyên tên là Kỳ Bà Kỳ Bà Ca, một mình hai đầu, thân quả báo đồng nhưng thần thức khác. Như về đời quá khứ, đức Thích Ca và ông Ðiều Ðạt từng đọa trong loài chim này .

          Lại ở non Tuyết sơn có con chim hai đầu. Một thuyết nói: Chim Ca Lầu Trà. Một thuyết nữa nói: Chim Ưu Ba Ca Lầu Trà, thật vậy. Hình nó cũng mường tượng như nghĩa con rắn hai đầu, con chim chín đầu, con cá nghìn đầu. Nay thợ chạm hoặc vẽ làm thân người có hai đầu, e sai đó vậy.

          Mấy loài chim nói trên, bốn loại chung có ở nước Chấn Ðán (Tàu), hai loại riêng có cõi Tây Càn (Ấn Ðộ). Ở cõi đây (Ta Bà) đã khen quý lạ nên ở nước (Cực Lạc) hình thể, màu, tiếng càng thêm kỳ diệu. Nay chỉ lấy tên đồng mà thật thời khác, lệ như lan can, lưới giăng, hàng cây v.v... đều dùng các ngọc báu làm thành, chẳng phải người đời ở đây có được!

          “Nói một hai loài” là vì nhiều không thể nói hết, như trong Quán Kinh nói chim Phù, chim Nhạn và chim Oan Ương ... Nay dùng ít loại để gồm số nhiều, cũng là bớt văn vậy. 


        

SỚ: Song các loài chim cõi này, chỉ có một vài thứ như chim Anh Võ biết nói tiếng người, nhưng cũng chỉ gọi là học nói mà thôi! Nước kia thời ngày đêm kêu ra tiếng đã hòa lại nhã vì hay diễn nói các pháp: Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Ðạo, tất cả đạo phẩm; chẳng phải lãng mạn, vô ý nghĩa! 

        

SAO: “Chỉ khen học nói”: Nói, chỉ biết nói theo người mà không thể hiểu nghĩa.

          Sách Lễ Ký nói chim Anh Võ hay nói, nhưng không ngoài loài chim bay; con Tinh Tinh hay nói cũng chưa lìa loài cầm thú. Thế thời việc nhơn đạo chúng nó nói còn chưa thông, huống chi luận đến việc Phật pháp. Chim Anh Võ còn như thế, chim khác thì khá biết vậy.

          “Hòa Nhã” là: Hòa đối với xẵng như chim Oanh, chim Ly ... là loài chim kêu tiếng tục (quê kệch).

          Dịu dàng êm ái, không có thô xẵng, hay khiến người nghe, tâm nóng nảy cũng tự hết; thế gọi là “tiếng hòa”. Chánh đại cẩn nghiêm, không có tà mị, hay khiến người nghe, tâm ham muốn tự bình; thế gọi là “tiếng nhã”.

          Tiếng đờn Sắt của ông Tử Do còn thiếu nơi đạo hòa; tiếng nói của người nước Trịnh rất trái với thói nhã . Chim kia gồm hai tiếng đều tốt (hòa nhã); thế là tiếng huỳnh chung, tiếng đại lữ  đều chẳng bì kịp tiếng chim!

          Chữ Diễn là mở cho rộng ra, vì nghĩa vô tận. Chữ Sướng là giải cho thông vì ý không ngăn trệ. Như thế, diễn giải các pháp: Căn, Lực, Giác, Ðạo, cả 37 đạo phẩm vậy  .

          Ðạo phẩm là: Do phẩm loại đây để vào đạo cớ vậy.         



SỚ: Song 37 phẩm đây thuộc về pháp Tiểu thừa, nhưng thật ra cũng chung cả Ðại thừa nữa vì tùy theo tâm hạnh của người Ðại như trong các kinh, luận nói.         


SAO: “Chung cả Ðại thừa” là: Luận Du Già quyển 44 nói: “Pháp Ðại thừa Bồ Ðề phần có nhiều món như 37 phẩm đây, nhưng trong đó có nghĩa riêng biệt và thông đồng đối với bực Ðại và Tiểu” (Ðại thừa thì thấy đại thừa...).

          Luận Trí Ðộ nói: “37 phẩm không thừa nào mà nó chẳng nhiếp gồm cả”, tức nhiên vô lượng đạo phẩm cũng ở trong đó. Kinh Tịnh Danh nói: “Các đạo phẩm là đạo tràng”. Lại nói: “Ðạo phẩm thâu nhiếp trong cái nhơn của pháp thân”. Luận Ðại Thừa nói: “Ðạo phẩm là cây đuốc báu Ðà La Ni của ông Bồ Tát”.

          Kinh Niết Bàn nói: “Nếu người hay nghiên cứu pháp Bát Chánh Ðạo tức thấy được Phật tánh, gọi là đã được vị đề hồ”. Ðây đều là ước theo pháp Ðại thừa để nói.

          “Tùy theo tâm hạnh kia” là như kinh Niết Bàn nói: “Trí có hai món: 1)Trung trí; 2) Thượng trí”.

          Như quán các Ấm (thân ngũ ấm) là khổ; thế gọi là bực trung trí. Phân biệt các ấm có vô lượng tướng, chẳng phải hàng Thinh Văn, bực Duyên Giác biết được; thế gọi là bực thượng trí. Thời biết đạo phẩm là một, nhưng cái trí nghiên cứu của mỗi người Ðại, Tiểu vốn không nhứt định.


         

SỚ: Pháp ngũ căn là: 1) Tín; 2) Tấn; 3) Niệm; 4) Ðịnh; 5) Huệ. Hay sanh thánh đạo nên gọi là căn (gốc). Lại như Luận Cu Xá có đủ ba nghĩa.  

       

SAO: Chữ “căn” có hai nghĩa: 

1) Nghĩa năng trì: Giữ cái chỗ đã đặng mà phần mình không cho mất vậy. 

2) Nghĩa sanh hậu: Sanh những cái chưa đặng mà mình gắng tấn cầu lên vậy.

          Nói chữ “tín căn” là: Ðối trong đế lý, cương quyết bỏ hẳn việc ngũ dục lạc; ấy gọi là tín căn. Một căn đây là tổng (gốc) còn 4 cái kia nương theo trên (tín căn).

          Tấn căn là đã tin lý đây, cần cầu không thôi; ấy gọi là Tấn. Niệm căn là đã cầu lý đây, tưởng đây ở đây, nhớ rõ không quên, ấy gọi là Niệm.

          Ðịnh căn là đã tưởng lý đây, buộc duyên một cảnh, tương ưng không tán loại, ấy gọi là Ðịnh.

          Huệ căn là đã định tâm nơi đạo, lại pháp chánh quán rõ ràng, quyết chọn phải quấy; ấy gọi là Huệ.

          “Hay sanh thánh đạo” là do năm pháp đây điều trị tâm kia, ví như không khí âm dương hòa hợp, tất cả hột giống, đều đặng nở mọc, cớ vậy.

          “Cu Xá ba nghĩa” là trong Luận Cu Xá nói: 1) Tối thắng; 2) Tự Tại và 3) Quang hiển là căn.

          Tối thắng là vì căn thể thù thắng. Tự tại là vì căn dụng thù thắng. Quang hiển là vì thể và dụng đều bày. Ðây chia ra 22 căn  vì có tín ... cả năm căn.  


       

SỚ: Pháp ngũ lực tức ngũ căn trước tăng trưởng thêm lên, đủ có sức mạnh nên gọi là lực.   

      

SAO: Chữ Lực có hai nghĩa: 

1) Không bị cái khác đè ép và 

2) Có thể đè ép được cái khác. Như Luận Du Già nói: “Vì pháp ngũ lực (năm sức mạnh) đây hay đến đời sau và đời sau đối với chỗ chứng pháp xuất thế gian, sanh tâm rõ biết thâm ý một cách thù thắng. Với tất cả những cái khác dù khó mà có thể đè ép nó được và lại có oai thế rất lớn và mạnh, có thể xô dẹp được tất cả bọn ma quân (phiền não), cớ vậy”.

          Tín Lực là: Tin sâu Ðế Lý (lý chắc thật) càng thêm tăng trưởng, hay ngăn những việc nghi hoặc, không cho lay động; hay chống lũ tà ngoại, không cho mê loạn và hay phá tâm phiền não không cho nó xâm hại, cớ vậy. Một tín lực là tổng, các cái sau nương theo, lệ như Tín căn nói trên.

          Tấn lực là: Vì tấn căn tăng trưởng hay phá được các món giải đãi thân tâm, thành xong các món sự nghiệp ra khỏi đời.

          Niệm lực là: Vì niệm căn tăng trưởng, hay phá được tâm tà niệm, thành tựu được tất cả tâm chánh niệm ra khỏi đời.

          Ðịnh lực là: Vì định căn tăng trưởng, hay phá được tất cả cái tưởng tạp loạn, phát khởi các pháp thiền định sự và lý.

Huệ lực là: Vì huệ căn tăng trưởng, hay phá được tất cả tà kiến của kẻ tà, ngoại, hay đoạn được tất cả những cái chấp của bực thiên tiểu (Tiểu thừa).


         

SỚ: Thất Bồ Ðề phần tức là Thất Giác Chi, cũng do năm căn, năm lực trước mới đặng bảy cái huệ dụng đây: 1) Niệm; 2) Trạch pháp; 3) Tinh tấn; 4) Hỷ; 5) Kỳ; 6) Ðịnh; 7) Xả. Có một chỗ nói: 1) Trạch pháp; 2) Tinh Tấn; 3) Hỷ; 4) Trừ; 5) Xả; 6) Ðịnh; 7) Niệm. Nay giải theo thuyết sau. 

        

SAO: “Giác Chi” là: Giác tức Bồ Ðề, Chi tức là phần; nghĩa là mỗi phần mỗi phần, tùy chỗ hợp mà dùng vậy. “Do căn lực trước” là: Luận Du Già nói: ‘Ðã chứng vào ngôi chánh vị của các pháp rồi thời phải dùng giác huệ như thật ấy làm chi phần”. Cho nên biết năm căn, năm lực đã chắc chắn rồi, vậy sau cần có cái giác huệ theo chỗ hợp mà dùng. “Giải theo thuyết sau” là: Do vì thuyết sau của ngài Thiên Thai giải, ý rất rõ hơn.

          Lại kinh Hoa Nghiêm lời SỚ cũng lấy phần trạch pháp làm phần tự thể, còn mấy phần kia làm từ phần: 

1) Trạch pháp là: Vì khi nghiên cứu các pháp phải khéo hay rõ biết, để lựa riêng cái nào chơn thì dùng, cái nào ngụy thì bỏ. 

2) Tinh tấn là: Vì khi tu đạo pháp, khéo hay biết rõ không tu lầm những cái khổ hạnh vô ích. 

3) Hỷ là: Vì khi Tâm đặng pháp hỷ, khéo hay biết rõ, không theo những pháp điên đảo, mà sanh tâm hoan hỷ. 

4) Trừ là: Vì khi trừ các việc tà kiến, tâm phiền não, khéo hay biết rõ, đoạn hết các việc luống dối, không hại căn lành chơn chánh. 

5) Xả là: Vì khi xả được sở kiến niệm trước, khéo hay biết rõ: Thủ, Xả, Hư, Ngụy, hằng không vói tưởng. 

6) Ðịnh là: Vì khi phát ra cái pháp thiền định, khéo hay biết rõ những pháp thiền hư giả (giả dối) không sanh tâm kiến ái. 

7) Niệm là: Vì khi tu đạo ra khỏi đời, khéo hay biết rõ, thường khiến định huệ quân bình, nếu tâm chìm đắm phải nhớ dùng "Trạch pháp", "Tinh tấn" và "Hỷ" ba chi, xét mà đánh thức nó. Nếu tâm phù động lắm phải nhớ dùng: "Trừ", "Xả" và "Ðịnh" ba chi thâu nhiếp mà dẹp nó. Mỗi niệm mỗi niệm điều hòa khiến cho vừa phải.   


      

SỚ: Bát Thánh Ðạo ấy cũng có tên là Bát Chánh Ðạo. Do trước nhờ có trạch pháp v.v... cho nên đến đây được vào chánh đạo: 1) Chánh kiến; 2) Chánh tư duy; 3) Chánh ngữ; 4) Chánh nghiệp; 5) Chánh mạng; 6) Chánh Tinh Tấn; 7) Chánh niệm; 8) Chánh định. 

        

SAO: 

1.- Chánh Kiến là: Trong bộ Tạp Tập nói: “Nếu khi tu giác chi mà ngộ chơn thật rồi thời phải dùng chánh huệ để thành lập vững vàng, xét thấy được đế lý rành rẽ, không còn lầm lộn”. 

2.- Chánh Tư Duy là: Khi thấy rõ đế lý này, nó tương ưng với tâm vô lậu, với sự suy nghĩ so lường, khiến nó tăng trưởng để vào cõi Niết Bàn. 

3.- Chánh Ngữ là: Chẳng những tâm không tà tư loạn tưởng, lại còn dùng trí vô lậu để nhiếp 4 khẩu nghiệp, trụ vào 4 lời thiện ngữ. 

4.- Chánh Nghiệp là: Do nơi trí vô lậu, trừ được 3 nghiệp của thân, tất cả tà nghiệp để trụ vào thân nghiệp thanh tịnh. 

5.- Chánh Mạng là: Do nơi trí vô lậu để trừ 5 món tà mạng  trong 3 nghiệp (thân, khẩu và ý). 

6.- Chánh Tinh Tấn là: Do nơi trí vô lậu nên riêng tu tinh tấn để tới đạo quả Niết bàn. 

7.- Chánh Niệm là: Dùng trí vô lậu, đối trong pháp chánh đạo và pháp trợ đạo, phải nhớ niệm để tâm không động thất (xao lãng). 

8.- Chánh Ðịnh là: Do cái trí vô lậu để tương ưng nhau, đặng chánh trụ nơi đế lý quyết định không dời đổi. Tóm lại đều nói chữ Chánh là: Do không nương theo lối chênh lệch, tà vạy nên gọi là Chánh và hay đi đến đạo của Niết bàn nên gọi là Ðạo.

          Bằng theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm "Ly thế gian" thời pháp Bát Chánh đều là cái đạo của ông Bồ Tát.

          Chánh kiến là xa lìa tất cả các cái thói tà kiến. Chánh tư duy là xả bỏ cái tâm vọng tưởng phân biệt để thuận theo "Nhứt thế trí”. Nhẫn đến chánh định là khéo vào pháp môn bất tư nghì giải thoát của ông Bồ Tát. Với từ ở trong một pháp tam muội mà tự tại ra vào luôn cả các pháp tam muội khác.

          Giải rằng: Chứng cứ văn đây, đâu chẳng sâu mầu. Do đó suy ra: Pháp Thất Giác Chi, pháp Ngũ Căn; Ngũ Lực, luôn 37 phẩm đều tùy theo chỗ tu nhơn của chúng sanh nên căn nhận thấy chẳng đồng, thành thử chỗ chứng Ðại, chứng Tiểu, mỗi mỗi đều có chỗ sở đắc cả, riêng biết (như trên đã nói). 


        

SỚ: Câu "Như thị đẳng pháp”. Chữ Ðẳng là nói chung các pháp: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc thành ra 37 phẩm và còn tất cả các pháp khác nữa.  

       

SAO: 37 phẩm mà trên chỉ nói 25 phẩm, cho nên thêm chữ "Ðẳng" để bao quát đó.

          Tứ Niệm Xứ là: 

1.- Quán xét thân bất tịnh, 

2.- Quán xét thọ dụng là khổ. 

3.- Quán xét tâm vô thường. 

4.- Quán xét pháp vô ngã. Mà nói niệm xứ là: Lấy điều bất định là chỗ để cho mỗi người quán xét thân, cần phải niệm (nhớ) vậy. Cho đến pháp khổ, pháp vô thường v.v... cũng lại như vậy.

          Tứ chánh cần đã giải thấy ở văn trước; do vì sanh thiện diệt ác không giải đãi nên kêu là cần. Vì cần (siêng) với chỗ đáng cần, hiệp nhằm chơn lý nên nói Chánh Cần.

          Tứ Như Ý đó cũng có tên là tứ thần túc, như: Dục như ý túc; Tâm như ý túc; Cần như ý túc; Huệ như ý túc. Bởi do tứ niệm xứ, tứ chánh cần đến đây, sự tinh tấn tăng nhiều, định tâm hơi kém nên bảo phải tu 4 món định lực này để nhiếp tâm lại thời trí và định quân bình, hay đoạn được cái kiết sử, chỗ sở nguyện đều toại, nên gọi là như ý túc vậy. Hiệp với 7 loại phẩm trên thì là 37 phẩm. Trong luận Bà Sa, luận Trí Ðộ đều có dụ rõ: Tứ Niệm Xứ dụ hột giống, Tứ Chánh Cần như gieo trồng, Tứ Thần Túc như nứt mộng. Ngũ căn như mọc rễ. Ngũ lực như lên mầm, đâm lá. Thất giác chi như trổ bông. Bát Chánh đạo như kết trái. Cho nên gọi tên là cây Ðạo Thọ. Còn tất cả các pháp như pháp Tứ Vô Lượng Tâm và Lục Ðộ vô lượng pháp môn ...  


       

SỚ: Hỏi: Tại SAO không kể bày trước là Tứ Niệm Xứ ... mà lại bắt đầu nói pháp Ngũ Căn? Ðáp: Do vì trọng chữ Tín vậy. Bởi có đức tin là chủ. Lại vì từ ba khoa trước đến đây mới có căn và lực (ngũ căn, ngũ lực).  

       

SAO: Cứ theo thứ lớp của 7 phẩm loại là nghe pháp: Trước phải niệm trì và nhớ giữ, kế thì cần tu. Vì Cần nên mới thâu nhiếp tâm được điều hòa, vì nhu hòa nên mới thành căn bản chắc. Căn đã tăng trưởng thành thế lực, nhẫn đến thất giác là để phân biệt. Bát Chánh là làm nên hạnh chơn chánh!

          Nay “trọng chữ Tín” đó là do Kinh này dùng đức Tín làm chủ, mà căn, lực, cả hai cũng đều lấy Tín làm đầu. Vì Tín có thể kềm giữ 4 cái kia (Tấn, Niệm, Ðịnh, Huệ) và vì Tín là gốc của Ðạo, là mẹ sanh ra các công đức vậy. Như trong năm ngôi , chữ Tín cũng ở dầu. Trong ngôi Thập Tín, chữ Tín cũng đứng đầu và 11 pháp lành, chữ Tín cũng ở trước nhứt cớ vậy.

          “Ba khoa” trên ấy là từ khoa Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc tu hành đến đây mới đặng có căn, lực khiên cố, làm cho các pháp đã đặng từ trước kia nó không có thối thất và lại những pháp sẽ đặng sau này, rốt ráo đều được thắng lợi cũng do một chữ Tín; cho nên đầu tiên phải nói căn, lực trước đã!  


       

SỚ: Xứng lý thời tự tánh biến hóa là nghĩa các loại chim; tự tánh sanh ra tất cả các pháp môn là nghĩa Căn, Lực, Giác, Ðạo.  

       

SAO: Văn sau nói: “Ðức Phật kia biến hóa làm ra”, văn đây nói: “Sắc tốt đẹp tiếng hòa nhã”. Toàn thể tự tâm mình hiển hiện thì đâu đặng nhường cho cõi Thánh mà mình không có hay SAO?

          Lại tâm địa dụ như quả đất bao hàm các giống thì các pháp Ngũ Căn v.v... toàn thể là của tự tâm vun trồng (căn lành đầy đủ) cần gì rong ruổi bên ngoài tìm kiếm. Cho nên bực Tiên Ðức nói: “Tín tâm kiên cố, lặng như hư không tức là pháp Ngũ Căn, Ngũ Lực. Tâm giác không khởi vọng, tức là Thất Giác Chi. Quyết rõ nơi tâm tánh rồi, tà, chánh chẳng ăn thua, tức là pháp Bát Chánh Ðạo”. Cho nên nói: Biển Giác sanh ra muôn vật, không vật nào mà chẳng phải biển. Nguồn tâm sanh ra muôn pháp, không pháp nào mà chẳng phải tâm.



Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thy đu nim Pht, nim Pháp, nim Tăng!   


   

SỚ: Nghe tiếng vô ích thời đồng với tiếng thế tục, vì cũng chỉ để mua vui mà chơi. Nay niệm ngôi Tam Bảo chính là nói việc hữu ích vậy.

          Tam Bảo là lược có 3 tướng: 1.- Trụ trì tướng; 2.- Biệt tướng; 3.- Ðồng tướng. Vì đáng tôn quí nên gọi là Bảo. 

        

SAO: “Trụ trì tướng” là chạm, đúc, đắp, vẽ gọi là Phật Bảo. Cuốn vàng, gáy đỏ gọi là Pháp Bảo. Tỳ kheo năm chúng, hòa hiệp không tranh, gọi là Tăng Bảo. Tức là ngôi Tam bảo thường ở trong thế gian vậy.

          Biệt tướng là lược có 3 nghĩa: 

1) Tam bảo tự biệt; 

2) Tam bảo đại, tiểu thừa biệt; 

3) Tam bảo danh tướng các biệt.

          Tổng quát đại ý kia thời cái thân thông thường mà cao lớn hơn hết, nhưng thị hiện chẳng đồng, gọi là Phật Bảo. Với các Giáo, Hạnh, Lý, Quả, ngài lập ra pháp môn chẳng đồng, gọi là Pháp bảo, Bực Tam Hiền, Thập Thánh, Tứ Quả, Tứ Hướng, Duyên Giác, Ðộc Giác, ngôi bực chẳng đồng, gọi là Tăng bảo, tức là ngôi Tam bảo xuất thế gian vậy.

          “Ðồng tướng” là bằng ước về năm giáo mà nói thời: 

1) Môn lập sự tựu nghĩa (lập sự để đi lần tới lý). 

2) Môn hội sự về lý. 

3) Môn sự lý dung hiển (đều bày). 

4) Môn tuyệt tướng lý thật (sự lý) tánh tướng đều bặt. 

5) Môn dung thông vô ngại (có đủ cả Viên giáo) tuy trước thấp sau cao, nhưng đồng về một gốc. Tổng quát đại ý kia thời cái tánh thể linh giác, chiếu tỏ các pháp, gọi là Phật bảo. Hằng sa đức tánh đều khó giữ gìn, gọi là Pháp bảo. Tánh tướng không hai, thầm hiệp không trái, gọi là Tăng bảo. Tức là ngôi Tam Bảo xuất thế gian tối thượng vậy.

          “Tôn quý” là Phật là Lưỡng Túc Tôn; Pháp là Ly Dục Tôn, Tăng là Chúng Trung Tôn. Y theo đó tu hành thời ra khỏi ngoài ba cõi. Thế gian yêu trọng, không bậc nào có thể so sánh nên gọi là Bảo.

          Sách Thông Thơ cũng nói: “Rất tôn trọng là Ðạo, rất yêu quí là Ðức”, huống ngôi Tam Bảo là Ðạo và Ðức rất tột, há chẳng xưng Bảo hay SAO?



          SỚ: Nghe chim nói pháp đều niệm Tam Bảo tự có 4 nghĩa: 

1) Vì trong tiếng chim kêu, khâm khen ngôi Tam Bảo. 

2) Vì tiếng chim thuyết pháp có phương tiện hay cảm vào thâm tâm của người. 

3) Vì tiếng pháp ngày đêm không hở dứt, quen nhuần lỗ tai. 

4) Vì chim còn biết nói pháp để khuyến khích nên người phải gắng tâm hăng hái thêm hơn. 

        

SAO: “Khen ngợi Tam Bảo” là: Mặc dù mỗi mỗi các pháp Căn, Lực, Giác, Ðạo trên mỗi phẩm chẳng đồng, nhưng nói tóm lại đều nhiếp thâu trong ngôi Tam Bảo cả.

          Khi mà chim diễn nói pháp này (37 phẩm): Hoặc nói loài hàm linh sẵn đủ tánh giác, tức là Phật tánh; chúng sanh nghe rồi, tỏ đặng bổn tâm mình mới biết mình sẵn có đủ Phật tánh (Phật bảo). Hoặc nói tánh ấy đủ các thứ tướng: chúng sanh nghe rồi rõ nghĩa thâm diệu mới biết mình có sẵn pháp, (Pháp bảo). Hoặc nói tánh tướng hòa hợp không hai, chúng sanh nghe rồi sự lý không ngại mới biết mình sẵn có Tăng (Tăng bảo). Cho nên thường niệm ngôi Tam Bảo là thế.

          “Khéo tỏ vào tâm người” là: Tuy nói pháp nhiệm mầu, nhưng lập lời không khéo thời người nghe bắt dội ngược. Nay chỉ nói tiếng hòa nhã, êm ái, dịu dàng, nghĩa lý đẹp tâm, người nghe sanh mừng nên nhớ niệm ngôi Tam Bảo.

          “Quen nhuần lỗ tai” là: Tuy khéo nói pháp mầu, nhưng một bữa sốt sắng, mười bữa nguội lạnh  thời tâm cũng ắt giải phế. Nay chỉ nói sáu thời tương tục thường nghe quen nhớ, thấm tủy, nhuần da, huấn luyện thành tánh nên nhớ niệm ngôi Tam Bảo.

          “Khuyến khích tâm người hăng hái” là: chim còn có thể nói pháp, người SAO chẳng bằng, thoạt sanh tâm tàm quý, tự nhiên phát tâm tinh tấn, nhớ niệm ngôi Tam Bảo.


         

SỚ: Xứng lý thời tự tánh chơn tâm một thể là nghĩa Phật, Pháp và Tăng. 

        

SAO: Như văn trên, chỗ bày ngôi Tam Bảo đồng tướng; thời biết chỉ có một chơn tâm, lại không thể nào riêng khác: Tâm thể vốn tự giác chiếu, tức là Phật Bảo. Tâm thể vốn tự tánh ly (vọng) tức là Pháp Bảo. Tâm thể vốn tự không hai, tức là Tăng Bảo, cho nên nói: “Mình qui y ông Phật mình, mình qui y Pháp mình, mình qui y Tăng mình”, chỉ khiến qui y về mình, không nói qui y về người khác, nghĩa là mỗi niệm trở về tâm mình. Thế gọi là thật nhớ niệm ngôi Tam Bảo.



Xá-Li-Pht! Ông ch cho rng nhng ging chim đó thit là do ti báo sanh ra. Vì sao?

Vì cõi ca đc Pht đó không có ba đường d. Xá-Li-Pht! Cõi ca đc Pht đó tên đường d còn không có hung gì li có s tht. Nhng ging chim đó là do đc Pht A Di Ðà mun làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đy thôi. 


     

SỚ: Ðây là phòng có người nghi: Cõi Tịnh Ðộ nhơn SAO mà có súc sanh, thành ra không hiệp với lời ước nguyện của ngài Pháp Tạng? Cho nên nói rằng: Nước kia thật không có ác đạo; do Phật A Di Ðà, ngài muốn cho pháp âm được lọt vào tai mỗi người nên dùng sức thần thông mà biến hóa ra, chớ chẳng phải thật có súc sanh. Và lại chẳng đồng với chim ở cõi trời vì hay thuyết pháp.    

     

SAO: “Nhơn SAO” là: Do cái nguyên nhơn tối tăm ngu si nên kết cái quả sanh trong loài súc sanh; bởi cái nhân xan tham tật đố nên kết cái quả sanh trong đường ngạ quỉ; còn cái nhơn bằng tội thập ác, tội ngũ nghịch thì kết cái quả sanh trong địa ngục, chung gọi là tam ác đạo (hạ ác: súc sanh; trung ác: ngạ quỉ; thượng ác: địa ngục).

          Vì trong sáu đạo: Ðạo Trời (loài trời) là thượng thiện; đạo người (loài người) trung thiện; đạo Thần Tu La là hạ thiện; cho nên chỉ ba đạo này (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) gọi là rất ác.

          Luận rằng: Tạo cái nhơn nơi tâm tịnh thì kết cái quả sanh trong cõi tịnh; lẽ não cõi Tịnh Ðộ mà có ác đạo? Như cõi kia có ác đạo thật thì thành ra chỗ tạp uế, không khác chi cõi Ta Bà, đâu đặng gọi là Cực Lạc, cho nên có tâm nghi vậy.

          “Bản nguyện” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, trong cõi ta không có ngạ quỉ, súc sanh, nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động”. Lại nguyện rằng: “Người trong cõi ta đều không nghe đến cái danh bất thiện, huống chi là có thật; chẳng đặng nguyện ấy, quyết không làm Phật”. Lẽ nào nay quả Phật Ngài đã thành, lại trái với nguyện trước? Cho nên nói rõ rằng nước kia vốn không ác đạo, chẳng những mắt không thấy, mà tai cũng không nghe đến. Bởi vì chỗ nghe vào tai là chỉ nghe vạn đức hồng danh của chư Phật, Như Lai. Và những hiệu tốt: Bồ Tát, Thanh Văn, và chư thiên, thiện nhơn, quyết không có danh tự của 3 ác đạo lọt vào lỗ tai, thật vậy.

          “Biến hóa” ra là: Tự lập lời nạn rằng: Ðã không súc sanh, nay chim bạch hạc, khổng tước v.v... từ chỗ nào bay đến ở nước kia? Thành thử chỉ ra căn do ấy: là Ðức Phật A Di Ðà biến hóa ra, chớ chẳng phải thật có. Như trong Quán Kinh nói: Ngọc Châu như ý, nó phóng ra sắc vàng, hào quang vi diệu hóa làm loài chim trăm sắc báu tốt đẹp thật vậy.

          “Pháp Âm tuyên lưu” là: Chữ Tuyên là tuyên bố, từ trên khắp dưới ví như lời của vị quốc chủ. Chữ “lưu” là lưu thông, từ gần đến xa, ví như nước chảy. Ðức Phật Ngài muốn pháp âm của ngài giáp khắp không hở; cho nên chẳng những dùng người để thuyết pháp mà cũng khiến tiếng của các loài chim kia đều diễn nói pháp mầu, không xứ nào, không thời nào, mà chẳng được nghe. Ðó là sức đại thần thông, ngài biến hóa ra; đâu đồng với cái nhơn ngu ám mà mắc quả báo thiệt làm loài chim, súc sanh ư? Song biến hóa đây cũng có hai nghĩa: 1.- Như Phật sai vị hóa nhơn nói các pháp môn. 2.- Trong tánh sẵn đủ các pháp; y trong tánh khởi hạnh tu, trên quả tự hay sắc và tâm dung lẫn, y và chánh không hai thảy đều thuyết pháp. Thế thời tiếng chim diễn nói, pháp nó vẫn tự nhiên, chẳng phải Phật ngài có tâm, riêng biến làm vậy.

          “Chẳng đồng chim trời” là: Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: ‘Các đức Chúa Trời dạo đi chơi trong ao, chim Phù, chim Nhạn v.v... đều kêu ra tiếng tăm, tỏ bày lời kệ lời tụng để chỉ bày việc vui ngũ dục , rốt rồi cũng đều là vô thường, chẳng nên mê đắm lắm các ngài ơi!

          Các trời nghe rồi, có vị tỉnh hồn đến đỗi rơi lụy!” Ðây là thiệt loài chim, bởi kiếp trước khi còn làm người ở đời, miệng hay nói pháp mầu mà không chuyên tâm lo việc chơn tu nên nay mắc quả báo làm các loài chim, ở chốn thiên cung. Do thói quen đời trước nên nay dù làm chim còn nhớ thuyết pháp, chẳng phải như cõi Tịnh Ðộ đức Phật Ngài biến hóa nên nói chẳng đồng vậy!  


       

SỚ: Hỏi: Ngài Pháp Tạng nói lời kệ rằng: “Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, đều sanh về trong cõi của ta”. SAO nói cõi kia không ác đạo? Ðáp: Ý lời kệ rõ chẳng đợi biện nghi; người nữ sanh về nước kia, nghĩa cũng như vậy.  

       

SAO: “Ý lời kệ tự rõ” là: Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo, nguyện rồi nói lời kệ. “Trước nói rằng: Ðịa ngục; Ngạ quỉ, súc sanh, đều sanh trong cõi của ta”; kế đó ngài lại nói rằng: “Tất cả người sanh về, tu tập hạnh thanh tịnh, như thân sắc vàng của chư Phật, tướng tốt đều trọn đủ”. Thời biết chắc người ấy, ở cõi Ta Bà đã trồng duyên Tịnh Ðộ, cho nên đặng sanh về; đã đặng sanh về nước kia, dứt hết cội gốc ác đạo, đến thành bực Thượng thiện, tướng hảo như Phật, nào còn cái hình thể địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh ngày trước ư?

          “Người nữ sanh về kia cũng vậy” là: Trong Luận nói: “Người Nữ và người thiếu căn đều không sanh về”. Cho nên viện dẫn lệ theo trên. Cũng do người nữ đời trước có tu tịnh nghiệp; một phen sanh về nước kia đủ tướng trượng phu, không còn hình người nữ vậy. Nay vẽ bản đồ cửu phẩm vãng sanh còn để cái hình người Nữ, là lầm vậy. Ðó là cái tướng niệm Phật khi ở cõi Ta Bà, chớ chẳng phải cái tướng khi đã vãng sanh về Cực Lạc vậy. Hay là hoặc vẽ cái hình đó để tiêu biểu cái chỗ nhơn địa của người kia, để cho rõ rằng tất cả nam và nữ, hễ ai tu cũng đều được sanh về cả. Người trí nên xét vậy!   


      

SỚ: Xứng lý thời tự tánh vốn không tham, sân, si ... là nghĩa vô tam ác đạo. Tự tánh vốn đủ pháp môn như huyễn, là nghĩa biến hóa ra. 

        

SAO: Nếu cứ theo trong pháp môn Bất nhị, thời tham, sân, si, tức giới, định, huệ. Thế thiện đạo, ác đạo cũng đều như huyễn, mà huyễn nó không có tự tánh thì chỉ là nhứt tâm; hễ nhứt tâm chẳng sanh, thời muôn pháp đều dứt.



Xá-Li-Pht! Trong cõi nước ca đc Pht đó, gió nh thi đng các hàng cây báu và đng mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diu, thí như trăm nghìn th nhc đng mt lúc hòa chung.

Người nào nghe tiếng đó t nhiên đu sanh lòng nim Pht, nim Pháp, nim Tăng.   


    

SỚ: Văn trước nói hàng cây lưới giăng, văn đây nói các cây lưới ấy, nhơn gió rung động reo ra tiếng ấy, cũng như văn trên: chim kêu, dạy bảo chúng sanh lợi ích vô cùng tận vậy.

          Gió mà nói rằng Vi Phong, là thứ gió tốt rất tột. Tiếng mà nói là vi diệu, là tiếng hay rất tuyệt. Vi diệu tức là ý nghĩa hòa nhã. Trăm nghìn món nhạc là: lấy ít sánh nhiều, khen nhạc kia rất hay. Tiếng nhạc rất hay cõi nhơn thiên cũng không thể bì kịp. Vì tiếng nhạc cõi kia cũng diễn nói pháp: Căn, Lực, Giác, Ðạo; món món đạo phẩm. Mà ở đây không nói là bớt văn vậy.

          Lại Kinh Ðại Bổn nói: “Gió vi phong thổi đụng nhằm thân”, mà ở đây không nói đến, cũng là bớt văn vậy. 

        

SAO: Gió vi phong là thứ gió rất tốt; cõi này có thứ gió gọi là cù phong (bão tố) thổi động (cả 4 phía đều thổi đến) thời hóa ra nghiêng hồ, đổ nổng; tiếng nó bắt người phải rùng rợn; còn thứ gió mãnh phong (gió dữ) thổi động thời hóa ra sập nhà, trốc cây, tiếng rất ghê gớm. Nhẫn đến gió Tỳ Lam thổi động thời hóa ra ngã núi, lở non, hoại các thế giới, cả vũ trụ loài người không tránh được tiếng của nó.

          Ngay như nay nói các thứ gió: Thứ Minh, Thanh Minh ..   các gió, tuy cũng xưng là gió tốt, nhưng cũng chỉ lay lắc núi rừng làm cho sanh trưởng trăm vật mà thôi. Còn gió ở nước kia in tuồng như có, in tuồng như không, vì chẳng phải lạnh, chẳng phải nóng, nhẹ nhàng, hòa dịu, không thể sánh ví với cái gì được.

          Trong Quán Kinh nói tám thứ gió thanh phong . Thanh tức là cái ý nghĩa chữ "vi". Huống cõi kia, hàng cây và các lưới giăng chất nó đều bằng bảy món báu, do nhờ gió vi phong khua đụng lẫn nhau, tự nhiên reo ra những tiếng tăm vi diệu như trăm nghìn món nhạc đồng thời trỗi một lượt. Thời 6 tiếng luật âm hòa lẫn với 6 tiếng luật dương; điệu nhạc bát âm rập rền vang dậy; hòa lại càng hòa, nhã lại rất nhã. Gió cây cõi kia đã chẳng phải tiếng ty và trúc, đâu có tiếng cung và thương? Thế mà có thể cùng với trăm nghìn món nhạc đồng lộng lẫy như thế thật là ít có.

          “Nhạc cõi Nhơn, Thiên chẳng kịp” là như Kinh Ðại Bổn nói: “Trăm nghìn vạn món tiếng nhạc của vị đế vương trong thế gian chẳng bằng một tiếng rất hay trên cung trời Ðao Lợi. Trăm nghìn món nhạc trên cung trời Ðao Lợi không bằng một tiếng rất hay trên cung trời Dạ Ma... Như vậy lần lựa các cõi chư thiên, nhẫn đến không bằng một tiếng rất hay trong nước Cực Lạc gió thổi rừng cây phát ra tiếng tăm vi diệu; thật là vượt ngoài cõi người cõi trời vậy.

          Câu “cũng diễn nói Ðạo phẩm” là do trong kinh chỉ nói tiếng diệu âm. Kỳ thật ý gồm tiếng thuyết pháp. Nếu chẳng phải pháp âm thì làm SAO hay khiến người nhớ niệm ngôi Tam Bảo?

          Cho nên Kinh Ðại Bổn nói: “Gió vi phong pháy động, thổi các cây báu, hoặc kêu ra tiếng âm nhạc, hoặc kêu ra tiếng pháp âm”, lấy đây chứng rõ. Do trước lệ sau, đều là bớt văn vậy.

          Câu “gió đụng nhằm thân” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Tất cả loài hữu tình ở nước kia, gặp gió thổi đụng nhằm thân thể, an hòa vui đẹp, cũng như thầy tỳ kheo đã đặng pháp Diệt Tận Ðịnh , sung sướng biết bao!” Thế cũng là cái lối thuyết pháp bằng cách không thuyết pháp vậy.


         

SỚ: Lại các thứ bảo thọ ấy, trong 3 món báu, món này là báu hơn hết vì hay làm Phật sự.  

       

SAO: Luận Trí Ðộ nói: “Báu có 3 món: 

1) Vật báu của người; như 7 món báu của vị Luân vương, vì nó hay biến hóa bố thí cho những của cải. 

2) Vật báu của trời; như: các món báu của chư thiên, vì nó hay tùy tùng để các trời sai khiến. 

3) Vật báu của Phật, như: Cơm thơm, hào quang... vì nó hay đến 10 phương để làm những Phật sự”. Nay ở đây nói món báu bằng gió, cây, nó hay thuyết pháp là món báu rất hơn trong các món báu, vì phẩm lượng nó vượt khỏi ngoài cõi người, cõi trời.   


      

SỚ: Lại cây bảo thọ của Phật nó biết thuyết pháp, nay đây không nói đó cũng là bớt văn vậy. Vì lệ như văn trên: ao nước đều biết thuyết pháp. Lại kinh Hoa Nghiêm, kinh Bát Nhã ... đều có nghĩa đây. 

        

SAO: Cây Ðạo thọ là: Kinh Ðại Bổn nói: “Cây Ðạo tràng của Phật ngồi bằng các món báu trang nghiêm, lưới báu phủ trên, gió vi phong pháy động, nói ra không biết bao nhiêu tiếng tăm pháp mầu, vang đến khắp cùng cõi chư Phật. Chúng sanh nghe đến đặng pháp nhẫn thẩm sâu, trụ vào bực Bất Thối Chuyển, cho đến thành tựu quả Vô Thượng Bồ Ðề”; nay đây không nói cũng như lời SỚ trước dẫn gồm trong văn hàng cây, nghĩa là nói hàng cây còn biết thuyết pháp, cây của Phật đâu những chẳng thế; nên nói bớt văn.

          Lại theo lệ suy ra, như văn trước chỉ nói ao báu, lời SỚ dẫn văn trong hai bộ kinh thời: nước báu chảy đi đều nói ra tiếng diệu pháp; lại theo lệ suy đó, như kinh Ðại Bổn nói: “Cây báu nói đạo tràng của Phật kia, chúng sanh thấy đấy không có cái bệnh nơi con mắt. Người nghe mùi hương nó cũng không bệnh lỗ mũi, ăn trái nó lưỡi cũng không bệnh. Hào quang của cây ấy chiếu đến thân thể cũng không bệnh. Quán tưởng cây ấy, tâm đặng thanh tịnh, không còn chứng bệnh tham, sân, phiền não”...

          Lại nói: “Người thấy cây đây liền chứng đặng 3 pháp nhẫn” thời biết cây ấy sắc hương và vị của nó cũng đều diễn nói pháp: Căn, Lực, Giác, Ðạo, các pháp như thế. Chúng sanh nghe đấy, đều nhớ niệm ngôi Tam Bảo.

          Lại theo lệ suy đó: cát vàng nước kia, thềm đường nước kia, lầu các nước kia, cho đến hoa sen tiếng nhạc trời, hoa trời, cái y kích đồ đựng thức ăn, tất cả các sự vật của nước kia cũng đều diễn nói các pháp Căn, Lực, Giác, Ðạo. Ðối với các pháp ấy, chúng sanh nghe đến, đều nhớ niệm ngôi Tam Bảo.

          “Như Kinh Hoa Nghiêm”: Hương, mây, đài, lưới đều nói ra bài tụng; như cái trống cõi trời Ðao Lợi  diễn lý chơn thuyên không lường (lý mầu tuyệt diệu); rừng cây Bảo Lâm tại chùa Lôi Âm  nói diệu kệ vô sanh (kệ giải thoát).

          Lại Kinh Ðại Bát Nhã nói: “Bên cõi Tịnh Ðộ, cây rừng ... các vật trong ngoài thường có gió vi phong khua động, phát ra tiếng nhiệm mầu nói tất cả pháp, đều không có thật tánh” ... đồng nghĩa đây vậy. 


        

SỚ: Những người khéo hiểu thì ngay cõi đây cả loại hữu tình và vô tình cũng đều có nói pháp. Như nghe chim Oanh kêu, khua nhằm cây trúc ... Huống nữa cõi Tịnh Ðộ! 

        

SAO: “Những người khéo hiểu” là: Không chấp cảnh làm cảnh, mà rõ cảnh tức là tâm thì mỗi mỗi vật chi, mỗi mỗi món gì đều là ý Tổ Sư cả. Nay chỉ nói vài việc thôi.

          “Nghe chim Oanh kêu” là xưa có một ông thầy nhơn nghi một câu trong kinh Pháp Hoa: "Các pháp từ xưa nay, tướng nó thường vắng lặng”. Tìm xét hết sức lâu mà chưa tỏ ngộ. Một bữa nọ, thoạt nghe tiếng chim Oanh kêu, liền đặng đại ngộ, là minh tâm kiến tánh. Ông làm bài tụng tỏ ngộ như vầy: "Các pháp từ xưa nay, tướng nó thường vắng lặng, xuân đến trăm hoa thơm, cành liễu oanh kêu nhắn”.

          “Khua nhằm cây trúc” là: Ông Hương Nham vì không rõ câu: "Trước khi cha mẹ chưa sanh, cái đó nó ở đâu?" Dấy niệm bực tức, lên ở tu trên núi. Một bữa cuốc đất, lượm cục đá, quăng đụng nhằm cây trúc, có tiếng kêu rang rảng, thoạt vậy đại ngộ. Ngài làm bài tụng tỏ ngộ như vầy: "Một đụng quên chỗ biết; khỏi cần phải tu riết, cựa mình bày đường xưa (chơn tâm), hết ở lớp thua thiệt”.

          Như vậy thời chim khách kêu trước nhà, lá thông reo ngoài nội, một con muỗi, một con ruồi; một ngọn cỏ, một lá cây, chẳng luận món nào chẳng diễn bày diệu pháp, khêu gợi đạo tâm. Huống chi cõi thanh tịnh của chư Phật ư? - Hỏi: Trong kinh nói: "Có khi Phật thuyết pháp, có khi Phật làm thinh, cả hai không mích bỏ riêng một nào, SAO đây chỉ nói nước chim cây rừng thuyết pháp mãi không thôi, thế thời có động mà không tịnh? Ðáp: Kinh Ðại Bổn nói: “Người nào muốn nghe thời riêng người ấy được nghe (là Phật thuyết pháp). Người nào không muốn nghe thời cũng riêng người ấy không nghe (là Phật làm thinh)”. Thế thì tịch tịnh hay động dụng đều tùy ở tâm, tức động mà cũng tức tịnh.


         

SỚ: Xứng lý thời tự tánh có lý hòa lẫn nhau với trí là nghĩa gió thổi cây rung thành tiếng pháp âm vi diệu.   

      

SAO: Lý gồm muôn pháp như vậy, trí khắp pháp giới như gió, lý cùng hợp với trí, trí nó tùy lý để rõ bày, nhưng mà gió cây đều chẳng biết nhau. Lý và trí vốn không hai gốc, trăm nghìn món nhạc không phải gió động, không phải cây động mà do tâm của nhơn giả động.



Xá-Li-Pht! Cõi nước ca đc Pht đó thành tu công đc trang nghiêm dường y.



          SỚ: Kết văn trên: Chim biến hóa, gió rung cây, hai món trang nghiêm đều là do cái chỗ "nguyện", "hạnh" công đức tu nhơn của đức Phật kia mà thành tựu vậy.

          Lại công đức "biến hóa", công đức "Ðại thừa", công đức đồng hư không và công đức của tự tánh, cả bốn món được thành tựu như trong Luận nói điều trước công đức trang nghiêm, điều sau công đức trang nghiêm; dưới hai điều ấy nó không hệ thuộc với lời tụng của luận văn. 


          SAO: “Do sở nguyện mà được thành tựu” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Ngài Pháp Tạng nguyện rằng: ‘Khi Ta thành Phật, người trong cõi Ta, tùy theo chí nguyện kia, hễ muốn nghe pháp thời tự nhiên được nghe”, cho nên chim kêu, cây động đều thành tiếng pháp âm vi diệu vậy.

          “Do sở hành mà được thành tựu” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Sau khi Ngài Pháp Tạng phát nguyện rồi, y lời nguyện mà tu hành các hạnh như Ngài nói: Ta thường dùng nhan sắc hòa nhã, lời nói êm ái để lợi ích cho chúng sanh”. Thế nay kết quả đặng thành gió thổi rừng cây đều nói ra thành tiếng pháp âm vi diệu. Như Ngài nói: “Ðối với Phật, Pháp và Tăng, ta tín trọng và cung kính”. Thế nay kết quả được thành chúng sanh nghe pháp đều cảm niệm ngôi Tam Bảo.

          Sao gọi là công đức "biến hóa"? Như trong bài tụng nói: “Các loài chim tạp sắc, loài nào cũng kêu ra tiếng pháp âm hòa nhã. Người nghe nhớ niệm ngôi Tam Bảo, quên các tướng bên ngoài, tỏ vào lý nhứt tâm”, phải vậy.

          Sao gọi là công đức "Ðại thừa"? Như trong Luận bài tụng nói: “Người nam tử có thiện căn Ðại thừa và người không thốt tiếng chê bai Tam Bảo được vãng sanh. Còn người nữ và người chẳng đủ sáu căn, cả bực Nhị thừa không đặng vãng sanh”, thật thế!

          Chữ "Ðẳng" là đồng với hư không công đức và tánh công đức  trong văn trước và sau. Dưới hai câu "Như thị công đức trang nghiêm" đều chẳng hệ thuộc với lời tụng của luận. Do lời tụng đây: 1.- Thiếu hai chữ "Hóa làm". 2.- Thiếu hai chữ "Ác đạo", cho nên riêng nói cho rõ ra đó. Rằng tiếng của loài chim kêu ra nếu chẳng phải đức Phật ngài (hóa làm) thời người nghe đâu hay quên các tướng trần mà vào đặng lý nhứt tâm?

          Không nói câu "ác đạo" là vì trong loài người còn không người nữ, giữa bậc thánh cũng không tiểu thánh, huống nữa có ác đạo ư? Trước sau rõ ràng đã biết nên không nêu nhiều.

          Lại hai món công đức của chánh báo ở ngoài câu "như thị trang nghiêm" nên cũng chẳng nêu.    


     

SỚ: Xứng lý thời tự tánh Bát Nhã khắp cùng pháp giới là nghĩa chim, cây thuyết pháp. 


          SAO: Kinh Thủ Lăng Nghiêm lời Sao nói: "Nếu hay chuyển vật (chuyển nổi hoàn cảnh) tức đồng Như Lai vì ngoài tâm không vật (cảnh vật tức là tâm). Miễn tâm lìa phân biệt, tức là chánh trí Bát nhã, thể nó cùng khắp pháp giới, không có chi làm chướng ngại". Thế cho nên cõi Tây phương, nước, chim, cây, rừng thảy đều thuyết pháp. Nay chúng ta không thấy chim, cây thuyết pháp là vì chưa hết tâm "vọng niệm phân biệt".

          Luận Khởi Tín nói: “Lìa tướng vọng niệm rồi tâm nó sánh bằng cõi hư không”, thế cho nên khắp trong cõi hư không thảy đều có thuyết pháp.



Xá-Li-Pht! Nơi ý ông nghĩ sao? Ðc Pht đó vì sao hiu là A Di Ðà?



          SỚ: Văn trước nói y báo rất thù thắng mà y từ nơi chánh sanh ra, nên kế đây nói về chánh báo. Câu “với ý ông nghĩ SAO?” là hỏi thử ông Xá Lợi Phất có hiểu biết hay không; nghĩa là đã biết Phật kia hiệu là A Di Ðà nhưng chưa hiểu nghĩa đó. Do vì Phật kia là ông chủ chánh báo trong một bộ kinh nên phải hỏi thử. 


          SAO: “Ông chủ chánh báo”: Có y, có chánh mà Phật ở về ngôi chánh báo. Chánh báo có chủ, có bạn, mà Phật là ông chủ của nước kia. Nghĩa kia phải hỏi là: Do Di Ðà là danh hiệu đủ vạn đức, nghĩa rất sâu rộng, cần phải khai thị ra khiến cho người hiểu rõ, đặng mà sanh tâm hướng mộ. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh chánh tư duy là nghĩa “với ý ông nghĩa SAO?” 


          SAO: So lường gọi là ý. Người đời khởi nơi ý thức, mỗi niệm mỗi niệm, so lường theo ngoại cảnh là tà tư duy vậy. Quày ý thức lại tự hỏi mình mà xét, suy đi nghĩ lại, lại đi rồi suy nghĩ cho cùng nguồn tột đáy, cho đến cái chỗ mà không còn gì nghĩ được nữa thời toàn thân tức là "Thọ", toàn tâm tức là "Quang", nào luận Phật kia, Phật đây.


 

Xá-Li-Pht! Ðc Pht đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi sut các cõi nước trong mười phương không b chướng ngi vì thế nên hiu là A Di Ðà.



          SỚ: Chữ “vô lượng” đã giải như văn trước, nhưng vì chưa biết được cái tên vô lượng nên văn đây nói: Quang minh và thọ mạng, cả hai đều là vô lượng vậy.

          Quang minh có hai nghĩa: 1.- Trí quang; 2.- Thân quang; lại có hai nghĩa: 1.- Thường quang; 2.- Phóng quang.

          Lại sở nhơn của chữ Quang cũng có hai nghĩa: 1.- Vạn đức sở thành; 2.- Bản nguyện sở thành. 


          SAO: Trước giải hai chữ “quang minh” vậy. Trí quang, Thân quang là: Như đức Lô Xá Na, dịch “Quang Minh Biến Chiếu”: Tự thọ dụng thân, chiếu cõi chơn pháp giới; đó gọi là Trí quang. Tha thọ dụng thân khắp chiếu trong đại chúng; đó gọi là Thân quang.

          Lại kinh Niết Bàn nói: “Ngài Lưu Ly Quang Bồ Tát thân phóng quang minh; đức Văn Thù nói: Quang minh đây gọi là Trí huệ”. Thế thời sự lý viên dung, Thân và Trí không hai vậy.

          “Thường quang, phóng quang” là: Hào quang thường hiển hiện, không phóng mà không lúc nào là không phóng... Như cái viên quang một tầm v.v... Phải vậy.

          Phóng quang là hoặc ở giữa chơn mày, hoặc ở trên đảnh, hoặc miệng, hoặc răng, hoặc rốn, hoặc chơn, các nơi ấy, phải vậy. Văn đây nói chữ Quang là chánh ý ở chữ Thường, (thường quang) mà cũng gồm chữ Phóng (phóng quang) và Thân cùng Trí vậy (Thân quang, Trí quang). Như Kinh Ðại Bổn nói: “Khi ấy, Phật A Di Ðà từ nơi gương mặt phóng ra vô lượng hào quang”.

          Kinh lại nói: “Ta (Thích Ca) dùng hào quang trí huệ, rộng chiếu vô ương số thế giới”. “Vạn đức sở thành” là: kinh Hoa Nghiêm phẩm Hiền Thủ phân ra 44 pháp quang minh. Mỗi quang minh đều có cái sở nhơn của nó: Hoặc nhơn quy y Tam bảo, hoặc nhơn phát bốn lời hoằng thệ, hoặc nhơn tu pháp tam học, hoặc nhơn tu lục độ là các chỗ tu nhơn mà thành tựu vạn đức đó, mỗi mỗi đều kết rằng: Thế cho nên đặng thành quang minh ấy.

          Lại kinh Bát Nhã, Phật (Thích Ca) dạy: “Ðối trong tất cả pháp ta không chấp chỗ nào cả nên đặng cái thường quang một tầm”. Thế thời biết: Nay hào quang sáng của đức Phật đây (A Di Ðà) chẳng phải nhơn tu một đức mà thành vậy.

          Câu “Bản nguyện chỗ thành” là: Kinh Ðại Bổn ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Nguyện khi ta thành Phật, trong đảnh có hào quang sáng, thắng hơn mặt trời, mặt trăng trăm ngàn vạn ức bội”.

          Lại nguyện rằng: “Nguyện khi Ta thành phật, hào quang sáng chiếu đến vô ương số thiên hạ các chỗ tối tăm đều đặng sáng tỏ. Các trời và nhơn dân nhẫn đến loài bò bay cựa quậy thấy hào quang ta, không ai là không phát từ tâm tác thiện để nguyện sanh về nước của ta”.

          Lại trước lời nguyện nói lời kệ: “Hay khiến vô lượng cõi, hào quang đều chiếu diệu”, nên nay ngài thành Phật đều đặng như sở nguyện. 



          SỚ: “Vô lượng” là nói chỗ chiếu rất rộng vậy. “Mười phương” là: Vì chẳng đồng kinh khác, chỉ chiếu có một phương. “Không chướng ngại” là: Vì chẳng đồng nhựt quang (ánh sáng mặt trời) còn có chỗ khuất. 


          SAO: “Chẳng đồng kinh khác” là: Như kinh Pháp Hoa chiếu phương Ðông thời không nói phương khác; và chỉ nói chiếu có 1 vạn 8 nghìn cõi mà không nói gồm hết các nước, thế thời cái nghĩa còn có chỗ sở thủ vậy.

          Nay kinh này thời nói bốn góc trên, dưới, tất cả cõi nước, không nước nào mà không được chiếu. “Chẳng đồng với nhựt quang” là: Mặt nhựt tuy có hào quang, nhưng thần Tu La che thời bị ngăn khuất. Giữa núi Thiết Vi thời bị ngăn khuất, dưới chậu úp thời bị ngăn khuất. Lại châu Nam Diêm Phù Ðề sáng thời Châu Bắc Ðơn Việt bị ngăn khuất, châu Tây Cù Da sáng, thì châu Ðông Phất Vu bị ngăn khuất. Nay thời suốt núi thấu vách, thông chỗ tối đến chỗ mờ, không chi che đậy làm cho hào quang phải ẩn khuất mất; không gì ngăn cách làm cho hào quang bặt dứt.

          Như Kinh Ðại Bổn nói: “Hào quang của Phật kia sáng tỏ rất xa, hào quang của chư Phật khác không thể bì kịp. Các đức Phật ở 10 phương, trên đảnh phóng ra hào quang sáng chiếu. Có đức Phật chiếu một dặm, có đức Phật chiếu hai dặm, như vậy lần xa. Có đức Phật chiếu hai trăm muôn dặm, như vậy lần xa. Có đức chiếu một thế giới, có đức chiếu hai thế giới, như vậy lần xa. Có đức chiếu hai trăm muôn thế giới.

          Duy có hào quang của đức Phật A Di Ðà chiếu đến một nghìn vạn thế giới, không có cùng tận, cho nên hiệu Ngài là: Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật , Vô Ngại Quang Phật... nhẫn đến Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật”, đều là nghĩa Quang Minh vô lượng vậy.

          Trong Quán Kinh nói: “Viên quang đức Phật kia lớn như trăm ức cõi Tam Thiên đại thiên thế giới”. Lại nói: “Phật kia có tám vạn bốn nghìn tướng, mỗi mỗi tướng có tám vạn bốn nghìn cái tùy hình hảo (tướng tốt). Mỗi mỗi tướng tốt có tám vạn bốn nghìn quang minh, khắp chiếu 10 phương, chúng sanh niệm Phật, đều rước hết không bỏ sót”.

          Lại Kinh Ðại Bổn nói: “Ông A Nan đầu lạy mới vừa chấm đất, niệm danh hiệu Phật, lúc lạy chưa đứng dậy, Phật phóng hào quang sáng lớn, khắp 10 phương trên dưới”, đấy đều là nghĩa Quang Minh vô lượng vậy.

          Hoặc hỏi thắc mắc rằng: Nhựt quang (mặt trời) còn có khi khuất, trong đời ai cũng biết. Hào quang Phật không khuất sẽ có chỗ chứng cứ bằng cách nào? Ðáp: Mụ tớ già của Ông Tu Ðạt trưởng giả không muốn thấy Phật lánh vào trong phòng kín. Hào quang Phật soi đến, tường vách đều rỗng suốt trong ngoài bốn bên. Mụ xây mặt về phía nào cũng thấy thân Phật hiện trước... tức là chứng cứ cho cái nghĩa hào quang đức Phật không bị che khuất, nên gọi là Siêu Nhựt Nguyệt Quang.



Xá-Li-Pht! Ðc Pht đó và nhân dân ca Ngài sng lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiu là A Di Ðà. 



          SỚ: Quang minh vô lượng là một nghĩa trong nhiều nghĩa vô lượng. Văn đây nói thọ mạng cũng vô lượng vậy. Phật thọ có 3: Pháp thọ, Báo thọ, Ứng thọ. Như kinh Pháp Hoa và Quán kinh, trong lời SỚ nói rõ.

          Song Phật thọ vô lượng là tùy cơ chỗ thấy. Ðây nói vô lượng cũng có thể tức từ một số vô lượng trong nhiều số vô lượng. 


          SAO: “Thọ mạng” là: cái chỗ trải qua của số thọ mạng có ngắn có dài. Nay đương thời kỳ kiếp giảm, số thọ chỉ trăm năm . Dù thời kỳ kiếp tăng kia cũng chừng tám vạn  . Dẫu vị Luân vương, Trời Ðế Thích , hay các đức Phật trụ thế cũng có hạn lượng. Duy có thọ mạng của Phật A Di Ðà kia rất là lâu xa, không cuộc số thường, thế gọi là “vô lượng thọ”.

          “Ba thọ” là: Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Lượng lời SỚ nói: Chữ Thọ: Sống lâu. Cũng nói nghĩa “thọ” là chịu. Như Pháp thân là lý chơn như, nó không cách ngại các pháp nên gọi là lãnh chịu; như Báo thân Cảnh và Trí nó tương ứng với nhau nên gọi là lãnh chịu; như Ứng thân mắc cái báo trong một thời kỳ, trăm năm không đoạn nên bảo là lãnh chịu.

          Pháp thân lấy lý chơn như làm thọ mạng; Báo thân lấy Trí huệ làm thọ mạng, Ứng thân lấy hai chữ nhơn duyên là thọ mạng.

          Trong Quán Kinh lời SỚ nói: “Phật thị hiện ra đồng tướng sanh diệt, có thỉ, có chung; đó là số thọ mạng của Ứng thân. Một phen chứng quả được rồi thời chứng được luôn bằng cách vĩnh viễn. Có thỉ, vô chung đó là số thọ mạng của Báo thân. Chẳng thọ, chẳng phải thọ (sống lâu) vô thỉ vô chung, đó là số thọ mạng của Pháp thân vậy”.

          Lại nói: “Thọ mạng của Phật kia thiệt có kỳ hạn. Toán, số học của người và trời, không đếm đặng”; thế là hữu lượng mà vô lượng vậy.

          Ngài Việt Khê giảng rằng: “Kinh đây tuy nói Vô Lượng, chính là cái thân có 32 tướng chúng sanh thường thấy, chẳng phải cái thân thắng ứng cao lớn mà trong kinh Thập Lục Quán nói”, cũng đồng ý văn trước.

          Nay nói “tùy cơ chỗ thấy” là: Kinh này nói thân Phật không nhứt định, trong văn nghĩa lý trước đã biện rành. Huống chi văn kinh chỉ nói đức Phật A Di Ðà hiện ở trước mặt đó, chưa hề chỉ định hiện cái thân bực nào? Ngài Việt Khê đâu đặng định cho là cái thân 32 tướng? Chắc rằng thân Liệt Ứng thời người liệt cơ tự thấy lấy, chớ không phải kinh này chuyên chỉ lấy cái thân Liệt Ứng để hiện cho người liệt cơ vậy đâu?

          Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi Ta thành Phật, dầu cho 10 phương chúng sanh đều là bực Duyên Giác, Thinh Văn mà là bực tọa thiền nhứt tâm, muốn tính tuổi thọ của Ta, dầu mấy nghìn ức kiếp, tính mãi cũng không thể biết được”. Ðâu phải là cái vô lượng của thân thường thấy đó ư? Cho nên đức Thích Ca đã nhập diệt chốn Song Lâm rồi mà hoặc có người còn thấy hội Linh Sơn chưa giải tán. Với thân Phật Xá Na nghìn trượng mà có người thấy bằng thân kim sắc trượng sáu. Thể Phật vốn không đổi dời mà do căn cơ nên thấy khác vậy thôi. Thế thời nói thọ mạng Phật kia bằng số lượng trên vô lượng, cũng nào chẳng được? 



          SỚ: Câu: "Cập kỳ nhơn dân” là vì khéo dùng lời đảo ngược. Nói nhơn dân là vì Phật dụ như ông quốc chủ. “A tăng kỳ” Tàu dịch: Vô số, gấp hai số vô số gọi là số vô lượng vô biên. Nhơn dân số thọ có hai: 1.- Vì nhờ sức bản nguyện của Phật giúp. 2.- Vì nhờ sức công đức tu của mình. 


          SAO: “Lời đảo ngược” là: Nếu theo lời xuôi thuận phải nói như vầy: Phật và nhơn dân thọ mạng vô lượng. Như câu: Ba La Mật gọi là Bỉ Ngạn Ðáo, phải nói Ðáo Bỉ Ngạn mới thuận hơn. Lấy ý hội hiểu, chớ chấp lời hại ý.

          Câu “Phật như ông quốc chủ”: Nước kia tuy không có cái phong hóa bằng chế độ vua tôi, cha con; song Phật là pháp vương , có nghĩa như vua chúa. Người sanh về nước kia, nương theo Phật học Phật nên có cái nghĩa như nhơn dân, chẳng phải như cõi Ta đây: Bản đồ, sổ bộ, hệ thống; biên tên dân chúng vậy.

Số Tăng Kỳ  lại là một con số đầu trong 10 con số lớn . Từ một trăm số Lạc Xoa  bội thêm chồng chứa mà thành ra số A Tăng Kỳ. Lại Tăng Kỳ là một số vô lượng  ; vô lượng vô lượng là một số vô biên. Nay hiệp nói đó, tự có hai nghĩa: 

1.- Thiệt rõ số kia, lấy số Tăng Kỳ tính đó, có vô lượng vô biên số Tăng Kỳ vậy. 

2.- Tột khen số kia rất nhiều, không còn biên lượng, không còn cùng tột là Tăng Kỳ vậy.

          “Phật lực” là: kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi ta thọ mạng đều là vô ương số kiếp; không có ai tính đặng số kia”. Ðây là vì nhờ nguyện lực của Phật nên có số thọ mạng ấy.

          “Tự lực” là nhứt tâm niệm Phật, vì tâm được thanh tịnh nên hoa sen hóa sanh. Cái thân thanh nhẹ, chẳng đồng với cái nhục thân chất ngại có già, bệnh, chết; đấy là nhờ sức mình tinh tấn nên có số thọ mạng ấy. 



          SỚ: Hỏi rằng: Vô lượng đấy cũng có thể tức là vô lượng; trên vô lượng đấy, nó có chứng cứ gì chăng?

          Ðáp: Lệ như trong kinh Hoa Nghiêm đã nói. 


          SAO: Văn trên dẫn lời SỚ trong Quán Kinh nói: “Vô lượng đây là từ hữu lượng cho đến vô lượng, mà nói cũng có thể tức nói vô lượng cho đến vô lượng đấy”, do vì văn đây chính giống kinh Hoa Nghiêm: Kinh kia, văn hồi hướng nói "Vô lượng A Tăng Kỳ”.

          Lời giải rằng: Ðây không phải là một trong hữu số (còn đếm được) mà nó chỉ là lời nói để tỏ nghĩa vô số. Nếu nhứt định có số thời còn bị hạn cuộc trong hạn lượng.

          Nay kinh này cũng nói "Vô lượng vô biên A Tăng Kỳ", hai kinh văn thế ý rất giống nhau. Nên nói Phật kia thọ mạng cũng có thể tức là vô lượng của vô hạn lượng vậy.

          Hỏi: kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thọ Lượng nói: Thế giới Ta Bà một kiếp (30) là thế giới Cực Lạc một ngày đêm. Một kiếp của thế giới Cực Lạc bằng một ngày đêm của thế giới Ca Sa Tràng; như thế lần lựa kiếp và ngày tương đối với nhau, cho đến trăm vạn số A Tăng Kỳ thế giới, tột đến thế giới Thắng Liên Hoa; thời ngày kiếp của thế giới Cực Lạc chỉ hơn ngày kiếp của thế giới Ta Bà mà thua rất xa với mấy thế giới sau đó thì đâu đặng còn là vô lượng của vô hạn lượng ư?

          Ðáp: Kinh kia lời SAO giải rằng: “Ba thân dung hiệp thì ba thọ không ngăn ngại, tức dài cũng có thể thâu ngắn, chính nói ngắn cũng kéo dài, không phải dài không phải ngắn thì dài ngắn đồng nhau. Mỗi mỗi đều hòa lẫn viên mãn, lời bàn ý nghĩ đều bặt”. Từ đây nghĩa nó tự rõ, không nhọc công biện luận. 



          SỚ: Lại với thọ mạng quang minh đó chỉ là tóm tắt mà nói đó thôi, vì dùng số ít để gồm số nhiều. Hai bộ kinh danh đề chỉ nói Vô Lượng Thọ ấy thì tóm lại càng tóm nữa vì thể nó gồm cả dụng. Nếu nói cho đủ ra thì y báo, chánh báo thảy đều vô lượng. 


          SAO: “Tóm nói” là vì Phật đủ muôn đức. Nay chỉ nói thọ mạng và quang minh ấy như kinh Hoa Nghiêm về bực Bát Ðịa nói: Thân tướng vô lượng, trí huệ vô lượng, phương tiện vô lượng, quang minh vô lượng, thanh tịnh vô lượng, âm thinh vô lượng v.v... thời biết nói hai việc là dùng ít nhiếp nhiều.

          “Thể nhiếp dụng” là: Hoặc có kẻ nạn rằng: Ðã quang minh và thọ mạng cả hai đều nói, vì SAO kinh Ðại Bổn và Quán kinh danh đề hai bộ đều chỉ nói: Vô Lượng Thọ mà không nói Vô Lượng Quang, nghĩa ấy lại làm SAO?

          Bởi do một tâm chơn như, không khứ, không lai, suốt xưa, suốt nay. Thọ kia vô lượng, quang kia cũng vô lượng vậy. Thể vàng thời hào quang vàng vì không lìa nhau vậy.

          Luận Khởi Tín nói: “Tâm tánh không khởi (vọng) tức là đại trí huệ, đại quang minh, khắp giáp pháp giới”. “Không khởi” là thọ vậy. Trí huệ là quang vậy. Nói thọ thời quang ở trong đó, nên nói một cái gồm đủ.

          “Y, Chánh vô lượng” là: Tự một thân Phật có bao nhiêu công đức và như văn sau, có bao Thanh văn, Bồ tát, nhẫn đến văn trước những lan can, lưới giăng, hàng cây ... món món trang nghiêm hết thảy đều là vô lượng vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh thường chiếu là nghĩa quang minh. Tự tánh thường tịch là nghĩa thọ mạng. Tự tánh tịch chiếu chẳng hai là nghĩa A Di Ðà. 


          SAO: Tánh khôn tỏ rỗng suốt. "Quang" bặt bờ bến; tánh vắng lặng thường hằng "Thọ" nào tính kể. Thường hằng mà lại rỗng suốt nên tức "Thọ" mà "Quang". Rỗng suốt mà cũng thường hằng nên tức quang mà thọ. Như vậy thời Phật A Di Ðà tuy trải qua ngoài 10 muôn ức cõi mà thật ra vẫn ngồi kiết già chễm chệ không động ngay trong tâm chúng sanh nơi thế giới Ta Bà này. Thế SAO lại đeo pháp trường sanh, luống uổng kiếp chết yểu, đội ánh sáng mặt trời trở thành cái màn đen tối. Tâm vốn là Phật, tự muội tâm mình; Phật vốn là tâm, tự mê ông Phật mình.



Xá-Li-Pht! Ðc Pht A Di Ðà thành Pht nhn li đến nay, đã được mười kiếp.



          SỚ: Ðã biết ý nghĩa của tên đức Phật kia, nhưng chưa được biết ngài từ thành Phật đến nay đã trải bao nhiêu thời kiếp.

          Chữ "Kiếp" nói đủ là Kiếp Ba, Tàu dịch là Thời Phần. “Mười kiếp”: có chỗ nói “mười đại kiếp”, và có chỗ nói “mười tiểu kiếp”. Nay kinh này nói lâu xa chắc là 10 Ðại kiếp. Lại 10 đại kiếp cũng là nói trong một thời kỳ phó cảm tùy cơ. Xét tột mà nói, ngài thành Phật nhẫn nay cũng đến vô lượng như trong kinh Pháp Hoa nói. 


          SAO: Một Ðại kiếp có 4 trung kiếp: Kiếp thành, kiếp trụ, kiếp hoại và kiếp không. Mỗi trung kiếp đều có 20 tiểu kiếp; trọn 80 kiếp mới thành một đại kiếp . Nói 10 đại kiếp là 800 tiểu kiếp vậy.

          Ý kinh nói: Vì tỏ cho biết ngài thành Phật đã lâu xa; nếu nói tiểu kiếp thời chưa thấy chỗ xa kia. Nay y theo bản dịch đời nhà Ðường, nói 10 đại kiếp.

          Câu “cũng tới vô lượng” là như trong kinh Pháp Hoa, chúng nghi đức Thế Tôn (Thích Ca) thành Phật chưa bao lâu, làm SAO các vị Bồ Tát tu đã nhiều kiếp kia là được Ngài giáo hóa?

          Phật dạy: “Ta thiệt thành Phật đến nay vô lượng vô biên kiếp rồi”. Thế thời Ðức Di Ðà thành Phật kia có thể lường được ư? 



          SỚ: Nếu xét cái nhơn địa của đức A Ði Ðà, từ thành Phật sắp về trước chẳng phải một cái nhơn làm "Pháp Tạng" mà thôi, có nhiều cái nhơn nữa như trong các kinh nói.

 

          SAO: “Nhơn làm Pháp Tạng” là kinh Ðại Bổn nói: “Trước đức Phật Ðịnh Quang, có đức Phật thứ 53 tên là Thế Tự Tại Vương. Khi đó ngài Pháp Tạng đang làm vị Quốc vương, bỏ ngôi đi xuất gia, phát 48 lời nguyện”. Nay Phật A Di Ðà đây là ông Phật do ngài Pháp Tạng tu thành vậy.

          “Còn nhiều nhơn nữa” là: 1.- Kinh Pháp Hoa nói: Thời kỳ Phật Ðại Thông Trí Thắng Như Lai có 16 vị vương tử đi xuất gia tịnh tu phạm hạnh, cầu quả Bồ Ðề vô thượng. Sau khi Phật Ðại Thông diệt độ, 16 vị thường ưa thuyết kinh Diệu Pháp Hoa; ấy sau cũng thành Phật hết cả. Vị vương tử thứ 9 thành Phật ở về phương Tây.Vị vương tử thuở đó nay là A Di Ðà vậy.

          2.- Kinh Bi Hoa nói: vô lượng kiếp về trước, có vua Chuyển Luân Vương tên Vô Thánh Niệm, cúng dường cho Phật Bảo Tạng Như Lai. Lúc đó vua phát nguyện rằng: “Nguyện khi Ta thành Phật, trong nước ta nhiều món thanh tịnh trang nghiêm, Phật Bảo Tạng thọ ký cho, qua kiếp số hằng hà sa, làm Phật ở thế giới phương Tây, nước tên là An Lạc”. Vị Quốc Vương thuở đó, nay là Phật A Di Ðà đây.

          3.- Kinh Ðại Thừa Phương Ðẳng Tổng Trì nói: “Thời kỳ Phật Vô Cấu Diệm Xưng Khởi Vương Như Lai, có ông Tịnh Mạng tỳ kheo thuộc lòng các kinh, cộng 14 ức bộ. Tùy tâm chúng sanh ưa muốn, rộng vì thuyết pháp. Ông Bí Sô thuở đó, nay là Phật A Di Ðà đây”.

          4.- Kinh Hiền Kiếp nói: “Thời kỳ Phật Vân Lôi Hống Như Lai có vị vương tử tên Tịnh Phước Báo Chúng Âm cúng dường Phật kia. Vị vương tử thuở đó nay là Phật A Di Ðà đây”.

          5.- Kinh kia lại nói: “Thời kỳ Phật Kim Long Quyết Quang, có ông pháp sư tên Vô Hạn Lượng Bảo Âm Hạnh ra sức hoằng hóa kinh pháp. Ông pháp sư thuở đó nay là Phật A Di Ðà đây”.

          6.- Kinh Quán Phật Tam Muội quyển thứ chín nói: Thời kỳ Phật Không Vương có bốn ông tỳ kheo bị phiền não che tâm, thoạt nghe giữa thinh không dạy bảo phải quán Phật, liền đặng pháp Niệm Phật Tam Muội. Ông tỳ Kheo thứ ba thuở đó, nay là Phật A Di Ðà đây.

          7.- Kinh Như Huyễn Tam Ma Ðịa Vô Lượng Ấn Pháp Môn nói: “Thời kỳ Phật Sư Tử Du Hý Kim Quang Như Lai, có vị quốc vương tên Thắng Oai, tôn trọng cúng dường Phật kia, tu hạnh thiền định; vị Quốc vương thuở đó, nay là Phật A Di Ðà đây”.

          8.- Kinh Nhứt Hướng Xuất Sanh Bồ Tát nói: “Ðức Phật A Di Ðà thuở trước làm vị thái tử nghe pháp môn vi diệu đây, vâng giữ tinh tấn, trong 7000 (bảy nghìn) năm lưng chẳng đến chiếu, không nhớ ái dục, tài bảo, không hỏi đến việc của người khác, thường ở chỗ một mình, ý chẳng lay động; lại giáo hóa tám nghìn ức số na do tha người, chứng quả bất thối chuyển; vị thái tử thuở đó nay là Phật A Di Ðà đây”.

          Như trên lược kể vài sự tích, nếu nói nhiều kiếp nhiều nhơn cũng tới vô lượng. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh xưa nay thành Phật là nghĩa 10 kiếp. 


          SAO: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mười đại kiếp là nêu số vô tận”, tức nay nói tự tánh mình thành Phật sắp lại đây nào những chỉ từ bên kia Phật Oai Âm Vương? Mà là bên kia lại còn bên kia, trần sa kiếp lại trần sa kiếp nữa vậy! Nếu quyết định chấp 10 kiếp, chi khỏi bị người xưa nói: “Cũng còn là con cháu của ông Vương lão sư”.



 Xá-Li-Pht! Li đc Pht đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đ t đu là bc A La Hán, chng phi tính đếm mà có th biết được,



          SỚ: Chủ ắt có bạn. Trước nói hàng Thinh Văn, kế nói hàng Bồ tát đều là những bạn lữ trong ngôi phẩm thánh hiền vậy.

          Văn đây trước nói hàng đệ tử Thanh Văn. Thanh Văn là nghe tiếng Phật dạy pháp Tứ Ðế mà được chứng quả. A La Hán là lựa không phải ba quả trước vậy. Trong đây không nói Duyên Giác là vì gồm trong hàng Thanh văn. “Chẳng phải toán số” là: Nói số kia rất nhiều vậy. 


          SAO: “Nghe pháp Tứ Ðế” là: Ðức Thế Tôn vì các ông: Kiều Trần Như ... năm người, chuyển bánh xe: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Ban đầu chỉ cho pháp Tứ Ðế, thứ hai khuyên tu, đến thứ ba thời chứng quả. Các lậu phiền não đã hết, thành quả A La Hán. Nhơn nghe tiếng Phật dạy mà được mở tỏ nên gọi là quả Thinh Văn. Cái hiệu Thinh Văn chung ba quả trước; nay quả thứ tư là quả A La Hán vậy.

          “Duyên Giác nhiếp” là: bực Duyên Giác quán xét tu pháp thập nhị nhơn duyên mà đặng tỏ ngộ tự tánh; tuy 12 nhơn duyên mà tóm lại không ngoài pháp Tứ Ðế. Bực này tuy có tâm lợi sanh, nhưng chưa được rộng nên thuộc hàng Thinh Văn vậy.

          “Toán số” là pháp toán số trong thế gian. Cao tột là ở nơi pháp cửu chương. Pháp toán số của Phật nói như số phẩm A Tăng Kỳ trong kinh Hoa Nghiêm thời chẳng phải tâm lực của người đời học tính nổi đặng. Văn đây nói pháp toán số là nói chung luôn cả pháp toán số của thế gian và xuất thế gian. Do số đệ tử Thanh văn cõi kia rất nhiều vô tận, vượt khỏi ngoài pháp toán số, dù ông Lạc Hoành người đời Hán Vũ Ðế, ông Nhứt Hạnh Thiền sư đời Ðường Huyền Tông không thể ra tài hay khéo mà tính cho đặng.

          Văn trên nói số vô lượng, vô biên, là nhằm con số thứ hai, thứ ba, trong 10 con số lớn, thế là có toán số; nhưng văn đây nói: "Chẳng phải dùng phép toán số mà biết được”; cho nên biết vô lượng chính là lời tán thán rất nhiều, không nên lấy số thường mà chấp vậy.

          Như Kinh Ðại Bổn nói: “Dầu cho các bực tỳ kheo đầy một ức số na do tha trăm nghìn số lượng, đều có pháp thần thông như ông Mục Liên, muốn chung tính kể số Thinh Văn hội ban đầu của Phật kia, dùng hết thần lực trù tính, trong trăm phần không biết được một phần, nhẫn đến phần Ô Ba Ni Sát Ðàm  cũng không biết được một”.

          Lại nói: “Phật bảo Ông A Nan: ‘Giả sử có người nhổ lông trong một thân nghiền làm mảy bụi. Ðem những bụi ấy quăng trong biển múc nước ra. Nước của mảy bụi nhiều, hay nước trong biển nhiều?’

          Ông A Nan bạch rằng: ‘Thưa đức Thế Tôn! Nước của mảy bụi không đầy nửa bụm; còn nước trong biển kia vô lượng’. Phật dạy: ‘Này A Nan! Ðệ tử về hàng Thanh Văn trong cõi Phật kia; với số mà có thể biết được đó như nước của mảy bụi; còn số mà không tính hết được đó như nước trong biển kia”. 



          SỚ: Trong Luận nói: “Bực nhị thừa chẳng sanh” nay nói có Thanh Văn đó là do bực ấy quen tập pháp thừa, chẳng bao lâu cũng chứng đặng Ðại thừa, rốt rồi không còn Tiểu thừa nữa như trong Quán Kinh lời SỚ nói. Nếu cứ theo nghĩa đức Phật ngài biến hóa thời có Tiểu thừa cũng không ngại gì. 


          SAO: “Rốt rồi không Tiểu thừa” là: trong Quán Kinh lời SỚ nói: “Những người quen tập Tiểu thừa vốn chẳng đặng sanh, nhưng do kia khi lâm chung phát tâm Ðại thừa, cũng đặng vãng sanh. Do vì quen tập Tiểu thừa, vừa nghe Phật nói các pháp: Khổ, Không, Vô thường, thuận theo tánh quen trước, liền chứng quả Tiểu thừa mà cái tâm hướng Ðại đã thành. Huống đặng gần Phật, chẳng bao lâu sẽ chứng Ðại thừa thì đâu còn làm Thinh Văn nữa ư?”

          Thế thời kinh nói cõi kia có Thanh Văn là do vì tạm có nên trong Luận nói: “Bực nhị thừa chẳng sanh là do vì cõi kia quyết định không có Tiểu thừa”. Câu “Tiểu cũng không ngại” là cõi Tịnh Ðộ còn dung chứa các loài chim, hàng Thinh Văn há chẳng bằng chim SAO? Với chim đã biến hóa làm thành ra thì Thanh Văn đâu lại riêng thật có. Dù cho nước kia vẫn có Thinh Văn đi nữa cũng chẳng ngại gì.



hàng B tát chúng cũng đông như thế.



          SỚ: Nương văn trên chẳng những chúng Thanh Văn Tiểu thừa mà các bực Ðại thừa Bồ Tát không bực nào chẳng sanh.

          Câu “cũng nhiều như vậy” là cõi kia có các chúng Bồ Tát cũng nhiều vô lượng vô biên, không thể kể hết số. Vả lại Bồ Tát ấy cũng đủ vô lượng vô biên công đức như trong Ðại Bổn nói. 


          SAO: Bồ Tát là: Từ bực sơ tâm (là mới phát tâm tu Bồ Tát) nhẫn đến bực Ðịa Tận (là hết thẩy Bồ Tát cả Thập Ðịa), như trong khoa giáo khởi trước đã biện rành và như trong văn bổ xứ sau có dẫn, nói Bồ Tát rất nhiều vô lượng, đâu có thể kể số. “Công đức” là kinh Ðại Bổn, Phật khen món món công đức của Bồ Tát ở nước kia, lập làm 23 lời dụ: 

1.- Tánh Bồ Tát kiên cố bất động như núi Tu Di. 

2.- Trí huệ sáng suốt như ánh sáng mặt nhựt, mặt nguyệt. 

3.- Tánh rộng lớn như biển vì hay sản xuất các của báu công đức. 

4.- Tánh sáng rỡ như lửa vì thiêu củi phiền não. 5.- Tánh nhẫn nhục như đất (đại địa) vì bình đẳng với tất cả chúng sanh. 6.- Tánh thanh tịnh như nước trong vì rửa các trần cấu. Nhẫn đến dụ 23, như Ðức Từ Thị một quán niệm vì bình đẳng với cả pháp giới. Rốt lại kết rằng: “Nay vì các ông, ta nói lời cốt yếu thế thôi. Bằng nói rộng ra một kiếp nói cũng chẳng hết!” thời biết số Bồ Tát vô lượng, vô biên, công đức của Bồ Tát cũng vô lượng, vô biên như vậy. 



          SỚ: Như Kinh Hoa Nghiêm nói: chỗ ở của Như Lai, các chúng sinh thanh tịnh nương ở trong đó, chính đồng nghĩa đây. 


          SAO: Kinh Hoa Nghiêm quyển 25 nói: “Tất cả chư Phật quốc độ trang nghiêm. Chỗ ở của Như Lai bất khả tư nghì, những chúng thanh tịnh có duyên đồng tu đời trước, nương ở trong đó. Trong đời vị lai sẽ thành ngôi chánh giác”.

          Chỗ ở của Như Lai tức là Cực Lạc quốc độ của Phật A Di Ðà. Chúng thanh tịnh kia tức các vị Bồ Tát. Ðời vị lai sẽ thành Phật tức văn Bổ Xứ sau có nói. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh tức không, tức giả là nghĩa Phật kia có Thanh Văn, Bồ Tát. 


          SAO: Tánh không thời lý nhứt chơn đứng lặng (chơn như bất biến). Tánh giả thời vạn dụng hằng sa (bất biến tùy duyên). Ðứng lặng thời thăm thẳm không bờ mé. Hằng sa thời rộng lớn vô cùng tận, đâu từng tính số, và khá đặng so lường ấy ư. Thế thời Thánh Hiền bực Tam thừa chung thờ một vị Phật; Chơn Tục cả hai đế đồng do một cái tâm. Một tâm rõ ràng, Phước đủ, Huệ đủ.



 Xá-Li-Pht! Cõi nước ca đc Pht đó thành tu công đc trang nghiêm dường y.


 

          SỚ: Kết văn trên, Thanh Văn, Bồ Tát là đệ tử trang nghiêm, đều bởi nguyện hạnh công đức do tu nhơn đời trước của Phật kia nên nay kết quả thành tựu như vậy. Trong Luận nói: “Như Lai là nhóm tịnh hoa. Hoa chánh giác đặng sanh”, phải vậy. 


          SAO: Nguyện là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, Bồ Tát trong cõi ta, thần thông, trí huệ biện tài, tướng hảo oai thần thảy đều như Phật”. Ðến nay Ngài thành Phật, đặng toại sở nguyện.

          Hạnh là: Kinh Ðại Bổn ngài Pháp Tạng nguyện giáo hóa chúng sanh tu hành pháp lục độ, rộng làm việc giáo hóa đến vô lượng chúng sanh, phát tâm bồ đề. Hạnh nay đặng thành tựu mới có đệ tử trang nghiêm như thế.

          “Nhóm Tịnh Hoa” là như Kinh Tịnh Danh: “Bảy giống tịnh hoa: 

1.- Giới tịnh: Vì tịnh hết ba nghiệp. 

2.- Tâm tịnh: Vì các phiền não kiết lậu đã tịnh. 

3.- Kiến tịnh: Vì thấy rõ tánh chơn của các pháp, không khởi vọng tưởng nữa. 

4.- Ðộ nghi tịnh: Vì kiến giải sâu thì nghi hoặc liền dứt. 

5.- Phân biệt đạo tịnh: Vì phải đạo nên làm, không phải đạo nên bỏ. 

6.- Hành đoạn tri kiến tịnh: Vì chỗ làm chỗ đoạn đều thông đạt. 

7.- Niết Bàn tịnh: Vì đã chứng quả vô học (A La Hán)”.

          Ngài Hải Ðông nói: “Bảy món đây thuộc lời luận tụng của hàng Thanh Văn. Nay đây cho rằng cũng đặng gồm chung Bồ Tát, lệ như 37 phẩm vì chung cả Ðại thừa, Tiểu thừa”.

          Từ văn lan can, lưới giăng hàng cây đến đây. Y, chánh cộng là 5 phen kể những món trang nghiêm, với nghĩa của sự vật trong nước Cực Lạc lược tột nơi đây. Văn sau chúng sanh sanh về đó và đi bổ xứ ... cũng nhiếp thuộc trong văn chánh báo.



“NGUYỆN” BẤT THỐI CHUYỂN cầu sanh Cực-lạc


Xá-Li-Pht! Li trong cõi cc lc, nhng chúng sanh vãng-sanh vào đó đu là bc bt thi chuyn.



          SỚ: Nương văn trên: Chẳng những chúng hiện ở nước kia, không vị nào chẳng phải Thánh Hiền, nhưng hễ ai được sanh về đó, đều đặng bực Bất Thối. “Chúng sanh” là cái danh từ tóm nhiếp tất cả. A Bệ Bạt Trí là: Tàu dịch Bất Thối Chuyển địa, như kinh Ðại Bổn và trong luận đã nói: Lại có nhiều món nhơn duyên nên đặng bực Bất Thối. Như bộ Thập Nghi năm món, bộ Thông Tán 10 việc tốt, bộ Quần Nghi 30 điều lợi ích ... 


          SAO: “Sanh về đều đặng bất thối” là: Sợ người nghi nước kia vốn nhiều thánh hiền, song đều là bực thượng sĩ tu lâu; người mới sanh về vị tất đặng bất thốI, nên văn đây nói: không luận thánh, phàm, hễ ai tu trì danh niệm Phật được sanh về đó liền đặng bất thối chuyển một cách như nhau, để giải quyết cái nghi của người kia vậy.

          Như trong Kinh Ðại Bổn đã nói: “Người sanh về nước kia, ở với nhau bằng điều nhơn, đổi chác nhau bằng việc nghĩa, không làm gì quấy quá, trong không có cái tâm dâm nộ, thói ngu si”.

          Lại nói người sanh về nước kia thảy đều trọn đủ 32 tướng tốt, các căn sáng tỏ, nhẫn đến thành Phật chẳng mắc vào ác thú. Lại trong Luận lời tụng nói: “Những chúng người và trời tâm đều bất động, toàn là ở trong biển trí thanh tịnh sanh ra”. Bất động tức là bất thối. Bởi do sức niệm Phật, được nhờ biển trí Như Lai thấm nhuần sanh ra nên có tấn mà không thối.

          “Năm món” là bộ Thập Nghi Luận nói: “Có năm món nhơn duyên nên đặng bất thối: 

1.- Nhờ nguyện lực đại bi Ðức Di Ðà nhiếp trì nên bất thối. Nay giải rằng: như kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta làm Phật, ai nghe danh hiệu ta, qui y tinh tấn liền đặng pháp nhẫn thứ nhứt, pháp nhẫn thứ nhì và pháp nhẫn thứ ba”. Ở trong pháp chư Phật hằng không thối chuyển, ví như qua biển cả được đi chiếc tàu to thì khỏi chìm đắm. 

2.- Nhờ hào quang Phật thường chiếu nên tâm Bồ Ðề tăng tiến không thối. Nay giải rằng: Như Kinh Ðại Bổn nói: “Thấy hào quang sáng của Phật, mà sanh từ tâm; lại người niệm Phật, Phật phóng quang minh nhiếp hộ người ấy. Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu rọi đường tối, thì khỏi sa hầm hố”. 

3.- Nhờ nước, chim, cây, rừng, tiếng gió, tiếng nhạc, đều nói ra pháp khổ không, người nghe thường khởi tâm niệm Phật, Pháp, Tăng, nên bất thối. Nay giải rằng như kinh đây và trong hai bộ nói: nước, chim, cây, rừng, gió, nhạc. Ví như người vong giả nghe tiếng khánh, tiếng chuông, tăng thêm chánh niệm. 

4.- Toàn là các bực Bồ Tát, dùng làm bạn lành, ngoài không ma, tà, trong không phiền não nên bất thối. Nay giải rằng: Như kinh đây nói: “Cõi kia các người bực thượng thiện đồng hội một xứ”. Ví như đem con để ở nơi xóm Trang Nhạc  nước Tề thì không còn nói tiếng Sở. 

5.- Nhờ thọ mạng vĩnh kiếp, cùng Phật bằng bực nên bất thối. Nay giải rằng: Như trong kinh nói: “Phật và nhơn dân thọ mạng vô lượng”. Ví như đi con đường muôn dặm, nương theo thời gian lâu mau rốt rồi cũng đến Bảo Sở.

          Còn 10 việc tốt và ba mươi điều lợi ích, đại khái đồng với đây, vì số nhiều không dẫn. 



          SỚ: Lại bất thối có ba nghĩa: Ðại thừa bất thối; dĩ đắc bất thối; vị đắc Bất thối, lệ như kinh Di Lặc vấn nói.


          SAO: “Ðại thừa bất thối” là: Vì vãng sanh về nước kia, là đi ngay vào bực Ðại thừa, không còn thối chuyển là hàng Tiểu thừa nữa (hay nhị thừa cũng thế).

          “Dĩ đắc bất thối” là vì hễ sanh về nước kia, phàm chỗ đã đặng, không còn thối chuyển, tan mất cái mình đã có (chứng).

          “Vị đắc bất thối” là: hễ sanh về nước kia, phàm chỗ chưa đặng, không chi làm thối chuyển, ngăn con đường tiến tới trước.

          Lại kinh Di Lặc vấn nói: “Tự phần kiên cố gọi là bất thối. Thắng tấn bất hoại, gọi là bất chuyển”. Văn đây nghĩa: Ðại thừa; dĩ đắc và vị đắc. Ba nghĩa phối đó thời hai nghĩa trước đồng với Tự Phần; một nghĩa sau đồng với Thắng Tấn. 



          SỚ: Lại đồng tên là bất thối, nhưng có chỗ thấp và cao. Như trong Khởi Tín và thuyết ngài Diệu Tông, ngài Từ Chiếu nói ... 


          SAO: Luận Khởi Tín nói: “Người sanh về nước kia thường thấy Phật, rốt đặng bực bất thối”. Lời SỚ nói bất thối có ba vị: 

1.- Tín hạnh chưa đủ, chưa đặng bất thối. Vì không có duyên thối nên gọi là bất thối. 

2.- Vị Thập Tín đầy đủ tiến vào vị Thập Trụ, đặng thiểu phần pháp thân, gọi là bất thối. 

3.- Vị Tam Hiền viên mãn tiến vào vị Sơ Ðịa sắp tới, chứng biến mãn phần pháp thân, gọi là bất thối.

          Lại ngài Diệu Tông làm lời SAO nói: “Bất thối có ba nghĩa: nếu phá được kiến hoặc, tư hoặc, gọi là vị bất thối, thời hằng không mất cái ngôi siêu phàm. Nếu dẹp được trần sa hoặc, gọi là hạnh bất thối thời hằng không mất cái hạnh Bồ Tát. Nếu phá tan được vô minh hoặc gọi là niệm bất thối, thời hằng không mất cái chánh niệm trung đạo”.

          Lại ngài Từ Chiếu Tông Chủ làm bộ Tứ Ðộ Ðồ thuyết nói: “Bởi người chưa đoạn phiền não hoặc, sanh cõi Ðồng Cư, là nguyện bất thối. Người dã phá kiến hoặc, tư hoặc, sanh cõi Phương Tiện là hạnh bất thối. Người phá được trần sa hoặc và phá được một phần vô minh hoặc, sanh cõi Thiệt Báo là trí bất thối. Người phá luôn hết ba hoặc, sanh cõi Tịnh Quang, là vị bất thối”. Thế thời cái tên bất thối tuy đồng mà thấp, cao tự khác, lệ như nghĩa cửu phẩm. 



          SỚ: Lại trong tứ giáo nói bất thối chẳng phải như nghĩa kinh này. 


          SAO: Trong tứ giáo đều nói bất thối như: Tạng giáo tu biệt tướng niệm là bất thối, Thông giáo được tánh địa là bất thối, Biệt giáo bực Thất Trụ là bất thối, Viên giáo bực Thất tín là bất thối. Thế thời biết từ đây sắp trước, tấn thối chưa định.

          Nay người niệm Phật miễn sanh nước kia, dầu trước kia là người ác hay súc sanh, nay cũng đặng bất thối; đâu chẳng tốt mầu mau lẹ, khác hơn các kinh giáo kia! 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh thường trú là nghĩa bất thối chuyển. 


          SAO: Ví như hư không, từ xưa đến nay không từng thối chuyển, dầu muốn thối chuyển, thối đến chỗ nào??



Trong đó có rt nhiu v bc nht sanh b x, s đó rt đông, chng phi tính đếm mà biết được, ch có th dùng s vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đ nói thôi!



          SỚ: Nương văn trên nói: ‘Người sanh nước kia đâu những bất thối, lại còn có bực Bồ Tát bổ xứ không thể kể xiết’ để khuyên người cầu sanh vậy. Bổ xứ là: chỉ  một đời này kế bổ ngôi Phật, tức bực Ðẳng Giác Bồ Tát. 


          SAO: “Khuyên người cầu sanh” là: Người sanh về đó đều được bất thối, đã hơn các nước, lại nhiều vị bổ xứ, khá gọi rằng: Siêu vượt thù thắng rất tột đó vậy.

          “Chỉ một đời nầy” là: Người ở cõi nầy tu hành bỏ thân nầy thọ thân khác, nghìn đời muôn đời chưa có cùng tột, nhẫn đến người chứng tam quả cũng còn có sanh; bực A La Hán mới đoạn được thân hậu hữu. Tuy đoạn thân hậu hữu, nhưng chưa đặng thành Phật.

          Nay kinh này nói, chỉ còn một đời, kế liền bổ đi làm Phật. Trước như ngài Hộ Minh, sau như ngài Từ Thị là vị Bồ tát tột ngôi. Lại kinh Ðại Bổn nói: “Người sanh về nước kia đều đủ 32 tướng tốt, rốt ráo thâm nhập chỗ yếu nghĩa pháp mầu”, đều còn một đời, sẽ bổ xứ làm Phật.

          Cứ đây, thời như vị thự quân (thái tử) tạm ở Ðông cung quyết định nối ngôi Nam Diện, chẳng phải sánh với các hàng bá quan lần hồi tăng chức, bất quá tới bực nhơn thần cực vị mà thôi. Các vị Bồ Tát đây cũng đều nguyện vãng sanh, những người khinh dễ cõi Tây phương SAO mà chẳng xét cho lắm?! 



          SỚ: Hỏi: Xứ kia, đức Quan Âm kế sẽ bổ ngôi Phật, kế là Thế Chí. Sau đức Thế Chí không nghe nói bổ ai? Nay nói: Bổ xứ rất nhiều, vậy chớ ngày nào sẽ bổ? Lại bổ xứ đó vị Bồ tát đã tiến lên hết thập địa, vào trụ ngôi Ðẳng giác như mặt trăng giữa các ngôi SAO, đâu đặng rất nhiều đương ở nước kia?

          Ðáp: Bổ xứ bất tất định bổ chỗ xứ của Phật Di Ðà, mà 10 phương thế giới vô tận, chư Phật nhập Niết Bàn vô tận, Bổ Xứ Bồ Tát cũng vô tận. Nhiều vị trụ trong cõi nước kia mà đợi bổ xứ, thì SAO lại chẳng đặng?

          Lại chư Phật cũng như vi trần, không có cùng tận; huống là Bồ Tát số kia rất nhiều, không đủ gì nghi, như trong Ðại Bổn nói. 


          SAO: Kinh Ðại Bổn nói: “Phật (Thích Ca) bảo ngài Di Lặc: Trong thế giới này (Ta Bà) có 720 ức vị Bồ tát sanh về cõi kia, mỗi mỗi vị ấy đã từng cúng dường vô ương  số Phật như ông Di Lặc đây; các vị tiểu Bồ Tát cũng được vãng sanh không thể kể xiết. Thế giới phương khác: 1.- Cõi Phật Quang Viễn Chiếu, cũng có 80 ức Bồ Tát đều đang sanh về. 2.- Cõi Phật Bảo Tạng cũng có 90 ức. 3.- Cõi Phật Vô Lượng Âm cũng có 220 ức như thế. Lần hồi kế đến 44 cõi Phật, nhẫn đến vô lượng cõi Phật, những người vãng sanh không thể kể xiết. Chỉ nói danh hiệu Phật, cùng kiếp không hết, huống các Bồ tát đang sanh về đó. Nói như Di Lặc thời rất nhiều vị Bổ xứ càng thêm chứng rõ. 



          SỚ: Như văn trước, y, chánh hai báo. Hoặc trong văn kinh có, trong văn bản nguyện không; hoặc trong văn bản nguyện có, trong văn kinh không, lẫn thấy không ngại. 


          SAO: Nếu cứ theo nghĩa chúng sanh mộ Phật phát nguyện, nguyện mãn thành Phật thời cõi kia mỗi món sở hữu đều là mỗi lời nguyện của Phật kia đã thành, thảy đều in hiệp. Nay nói lẫn nhau làm có, không đó vì văn hơi khác, nhưng ý thời đầy đủ vậy.

          Lại như ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta làm Phật trong cõi nước ta, các trời, nhơn dân, tất cả vạn vật đều nghiêm tịnh sáng suốt, hình sắc xinh đẹp, tột nhiệm rất mầu, không ai có thể cân lường. Dầu đặng pháp thiên nhãn thông cũng không thể biện biết được cái danh số đó”. Xem đây, thời chỉ nói chánh báo, y báo, đâu chẳng nhiếp hết?! Chẳng nên chấp văn mà hạn nghĩa. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh quyết định thành Phật là nghĩa nhứt sanh bổ xứ. 


          SAO: Ngài Khuê Phong nói: “Nay biết tâm mình là Tâm Phật, quyết sẽ làm Phật”. Nhưng mà Phật xưa nay vẫn thành Phật,chứ chẳng phải có làm mới đặng. Thế thời chỉ thấy cái Thỉ Giác Phật mới đây, chớ không biết cái Bản Giác Phật sẵn có. Nên gọi rằng: Bổ thời quyết định bổ. Thành Phật thời thiệt chẳng phải thành.



Xá-Li-Pht! Chúng sanh nào nghe nhng điu trên đây, nên phi phát nguyn cu sanh v nước đó.



          SỚ: Văn trên kể bày y, chánh hai báo, văn đây nói chúng sanh được nghe lời đây nên cần phát khởi đại nguyện để nguyện sanh về nước kia, ấy là: Khuyên lần thứ nhứt, sau mới tráo trở tỏ bày (tráo trở là lặp đi lặp lại nhiều  lần). 


          SAO: 1.- Khuyên lần thứ nhứt là: Trong kinh nói đi nói lại nhiều lần: Khuyên nghe, khuyên tin, khuyên nguyện, ước có bốn lần. Nay nhằm lần khuyên ban đầu là nghe nói đến công đức y, chánh trang nghiêm thù thắng mà phát nguyện. 2.- Nói nghe nói lời ấy là: Nghe lời nói nhứt tâm trì danh, quyết định vãng sanh mà phát nguyện. 3.- Nói nghe kinh này đây là: Nghe nói pháp Trì Danh được Phật hộ, chẳng lui mất quả Bồ đề, mà tín thọ; Không nói nguyện là: Tín Thọ tức là nguyện. 4.- Nói “nếu có người tin” là tổng kết cái lời nói người nghe rồi thâm tín, những người mà đã có Tín và Nguyện thì không một người nào mà chẳng sanh, nên cần phải phát nguyện. Mỗi lần mỗi nghe, nghe lại càng sâu, mỗi lời mỗi nguyện nguyện thêm thiết thật, lời tuy tráo trở, nghĩa chẳng lặp trùng, lòng quá sâu vì thương vật, nên dạy người chẳng mỏi! 



          SỚ: Lại: Sự nghe nói nhiếp thuộc về nghĩa Tín, Nguyện nó nhiếp về nghĩa Hạnh, ba việc ấy là ba món tư lương đều đủ nơi đây. 


          SAO: Có nghe rồi, vậy sau mới Tín, chẳng nghe thời tín từ đâu sanh? Có nguyện rồi vậy sau mới hành (Tu). Không nguyện thời hành do đâu khởi? Văn sau nói Tín, Hành là cội gốc văn đây; Tín, Hành, Nguyện ba món tư lương về Tịnh Ðộ đầy đủ không thiếu. 



          SỚ: Lại lời nguyện nó có cái năng lực bất khả tư nghì! Cõi Tịnh Ðộ của Phật kia cũng vì do lời nguyện. Khi lâm chung được vãng sanh chỉ vì nhờ lời nguyện. Nhơn quả trong ba cõi đều tùy theo lời nguyện. Các vị đại Bồ Tát đều tùy lời nguyện được vãng sanh.  


          SAO: “Tịnh độ của Phật kia” là: Ngài Pháp Tạng do trong sở nhơn phát 48 lời nguyện. Nay thành quả Phật, rộng độ chúng sanh. Thời biết: Công đức vô cùng tận của Như Lai đều từ lời nguyện sanh ra nên nói bất khả tư nghì.        

          “Lâm chung vãng sanh” là: Phẩm Hạnh Nguyện nói: “Người đó đến khi mạng chung, tất cả các căn thảy đều bại hoại, nhẫn đến bà con, oai thế, voi, ngựa, trân bảo v.v... cũng đều tan mất; duy có lời nguyện chúa (lớn) đây chẳng bỏ lìa nhau. Trong tất cả thời, nó dẫn dắt tới trước; trong một sát na, liền đặng sanh về thế giới Cực Lạc” nên nói “bất khả tư nghì”.

          “Nhơn quả trong ba cõi” là: Nguyện hưởng sự vui trên cõi trời thời người bần mẫu sanh lên ; nguyện làm ông Minh Vương thời vì Ngục Thần trị quỉ . Món món đều tùy theo lời nguyện chẳng phải ai bắt làm mà tự nhiên tâm nguyện nó làm, nên nói “bất khả tư nghì”.

          “Bồ Tát nguyện sanh” là: Ðức Phổ Hiền nói lời tụng rằng: “Nguyện ta đến khi mạng sắp mất, dứt hết tất cả các chướng ngại. Trước mặt thấy Phật A Di Ðà, liền đặng sanh về cõi An Lạc”; nhẫn đến nguyện nhờ đức Phật thọ ký, rộng lợi ích chúng sanh v.v... Chí như đức Văn Thù phát nguyện vãng sanh, ngài thuyết lời kệ, cũng nói: “Nguyện ta khi mạng chung, diệt trừ các chướng ngại; mặt thấy A Di Ðà, sanh về cõi An Lạc”, cùng đức Phổ Hiền, như hiệp cái Phù Tiết . Kìa như ngài Thiên Thân, ngài Long Thọ v.v.... nhiều không kể hết, đều nguyện vãng sanh nên nói “bất khả tư nghì”. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh trở về bản thể là nghĩa nguyện sanh về nước kia. 


          SAO: Nếu biết bản thể không lìa đương xứ (Bản thể) thời chẳng phải sanh về nước kia, mà là sanh nước đây vậy. Tuy nói con đường 10 muôn ức, nào từng động bước trong tấc thước! Nên nói: “Chẳng nhọc khảy móng tay mà tới Tây phương vậy”. Như ai kia với tánh Chơn Như mà không giữ được tự tánh, để đến đỗi tùy duyên theo năm đường thời như đứa cùng tử  nương ngụ quê người linh đinh, vất vả nên phải SỚm về làng cũ.



 Vì sao? Vì đng cùng vi các bc Thượng thin nhơn như thế câu hi mt ch.



          SỚ: Văn đây nối văn trước, gạn hỏi cho ra: vì SAO dạy người phát nguyện sanh về nước kia? Do nước kia là cái xứ để các người bực Thượng Thiện hội đồng. Nếu được sanh về nước kia thì được vào hội tốt hơn hết. Như vậy nên phải cầu sanh. 


          SAO: Gạn hỏi có hai nghĩa: 

1.- Cõi Ta Bà cũng là nước Phật (Thích Ca), hà tất xa lìa nước mình? 

2.- Trong 10 phương cõi Phật rất nhiều, vì SAO cứ bảo cầu về Tây phương? Nên gạn hỏi căn do đó.

          Ðáp bằng cách dung hòa cũng có ba nghĩa: 

1.- Hoặc vì có quốc độ: Người, súc, quỉ, ngục, đồng nhau chung ở thì vị tất toàn là loài người. 

2.- Hoặc có quốc độ tuy thuần là loài người ở, nhưng vị tất đều là người thiện. 

3.- Hoặc có quốc độ, tuy thuần là người thiện ở, nhưng vị tất đều là người Thượng Thiện.

          Nay nói rằng: “Các người bực Thượng Thiện” thời chẳng những là bực Thiện trong hạng người, cũng là bực Thiện trong bực Thiện, như văn trên đã kể bày. Các bực Thanh Văn, Bồ Tát nhẫn đến bực Bổ Xứ, các bực đây đều là bực người Thượng Thiện. Nay người đặng vãng sanh liền cùng các bực ấy cư hội một xứ. Chỗ gọi rằng: “Quan Âm, Thế Chí bắt tay cùng đi; Văn Thù, Phổ Hiền, sát cánh bạn lành”, dụ như lên chốn Long Môn  cùng Dinh Châu . Vì trong đời người ít có vậy. Thế nên bực đại Sĩ cầu vào hội Liên Lục  huống là kẻ phàm phu! Người xưa tìm chỗ ở, còn biết chọn làng có nhơn; phương chi trang học đạo hội tốt như đây, há chẳng muốn ư? 



          SỚ: Hỏi: Người sanh về Cực Lạc, loại kia chẳng phải một, đâu đặng đồng xưng là bực Thượng Thiện? Ðáp: Do vì đều đặng bực Bất Thối Chuyển. 


          SAO: “Loại kia chẳng phải là một” là: có phàm, thánh, Ðại, Tiểu, thượng, trung, hạ phẩm, phân có ngôi thứ, vậy SAO nay lại lược bỏ phẩm Trung, phẩm Hạ, chỉ nói phẩm Thượng Thiện nên lập lời nạn đây.

          Nay nói chúng sanh sanh về đó đều là bực bất thối chuyển thì rốt ráo đều thành bực Vô thượng Chánh Giác, là cảnh giới của Phật nên không khác vậy.


 

          SỚ: Xứng lý thời tự tánh vạn thiện đồng qui (qui về tự tánh) là nghĩa đồng hội một xứ. 


          SAO: Trăm sông hội về một bể cả, các cảnh vật hội về một cõi không, các người bực Thượng Thiện chẳng hội về một xứ đây, vậy chớ tính hội về đâu?!



“HNH” NHT TÂM KHÔNG LON cu sanh Cc-lc


 Xá-Li-Pht! Chng có th dùng chút ít thin căn phước đc nhơn duyên mà được sanh v cõi đó.



          SỚ: Nương văn trên nói: Ðối với bọn phàm dễ tới, bạn lành khó thân! Huống chi với hội của bực người Tối Thượng thiện há nên dùng chút Thiện, chút Phước mà được sanh vào?

          Trong văn đây, ngài Linh Chi lấy hai chữ Thiện Căn làm hạnh chánh thức thuộc về pháp trì danh, lấy hai chữ Phước Ðức làm hạnh trợ (phụ) thuộc về ba việc phước của pháp tu Tịnh nghiệp.

          Ngài Hải Ðông thời gom luôn bốn chữ "Ða Thiện, Ða Phước" làm hạnh chánh, nói đó là phát tâm Bồ Ðề; lấy bốn chữ "Thiểu Thiện, Thiểu Phước" làm hạnh trợ, nói đó là pháp chấp trì danh hiệu. Hai nghĩa trái nhau. Nay đều vì hòa hợp mà giải, nghĩa là: Muốn sanh về nước kia, cần phải đa thiện, đa phước mới được. Mà nay nói pháp trì danh đây chính là cái Thiện ở trong các hạng Thiện, Phước trong các hạng Phước. Chính chỗ gọi rằng: Phát tâm Bồ Ðề mà làm đại nhơn duyên sanh về nước kia vậy. 


          SAO: “Trái nhau” là: Một ông cho pháp trì danh thuộc về hạnh chánh, một ông cho pháp trì danh thuộc về hạnh trợ. Hai thuyết mâu thuẫn. Mà đại ý kinh đây, chính là trọng pháp trì danh. Nếu cho pháp trì danh là hạnh trợ thời văn sau nghe nói Phật A Di Ðà, chấp trì danh hiệu, nghĩa phải nói làm SAO cho thông? Thế thời với pháp trì danh mà cho là hạnh trợ, đoán chắc không có lý đó.

          Lại ngài Linh Chi lấy ba việc phước trong Quán Kinh phối với cái phước đức kinh đây thời việc phước thứ ba kia chính là phát tâm Bồ Ðề, đây bèn thành ra hạnh trợ, cùng ngài Hải Ðông nói: Tâm Bồ đề là hạnh chánh. Hai Ngài cũng mâu thuẫn. Nhưng trong Quán Kinh lấy ba việc phước làm cái chánh nhơn tu Tịnh Nghiệp, thế mà ngài Linh Chi nói phát Bồ Ðề tâm là hạnh trợ, cũng không có lý đó.

          Nay (Tổ Vân Thê) vì hòa hợp mà giải; lại lấy pháp trì danh làm hạnh chánh, còn lấy pháp trì danh làm phát Bồ Ðề tâm thời đều thủ ý của hai ngài, mà hòa hợp nghĩa kia vậy.

          “Thiện căn” là: Trong Quán Kinh thời như văn trên nói: Việc phước thứ ba là phát tâm Bồ Ðề. Kinh Ðại Bổn thời nói ba bực vãng sanh cũng đều nói phát tâm Bồ Ðề.

          Căn cứ theo đây thờI phát tâm phàm phu, ấy gọi là không thiện căn. Phát tâm Thanh văn, không phát tâm Bồ đề, ấy gọi là thiểu thiện căn vậy.

          “Phước đức” là: Trong Quán Kinh thời nói hiếu dưỡng phụ mẫu v.v... Kinh Ðại Bổn thời nói tu các công đức v.v... Căn cứ theo đây thời đối với bố thí, trì giới v.v.. nhẫn đến lập chùa, tạo tượng, tham thiền, tụng kinh, khổ hạnh, tất cả việc phước đều bỏ đi không làm, ấy gọi là “vô phước đức”. Song ta làm phước đây là trồng cái nhơn hữu lậu, kết quả nho nhỏ ở cõi nhơn thiên, ấy gọi là “thiểu phước đức”.

          “Thiện trong các thiện” là: Tự có năm nghĩa, do vì trong Luận Trí Ðộ đủ năm món tâm Bồ Ðề: 1.- Phát tâm Bồ Ðề, nghĩa là: Ở trong vô lượng sanh tử, phát tâm đại Bồ Ðề, mà pháp trì danh chính là ở trong cái tâm kẻ phàm phu sanh tử khởi tâm đại giác. 2.- Phục tâm Bồ Ðề, nghĩa là: Ðoạn các phiền não, bẻ dẹp tâm kia (phiền não) vậy, mà pháp trì danh thời tâm chánh niệm vừa bày, tâm phiền não tự diệt. 3.- Minh tâm Bồ Ðề, nghĩa là: Rõ thấu lý thật tướng của các pháp, mà pháp trì danh chính là một tâm ấy, rõ thấu tất cả thật tướng của các pháp. 4.- Xuất đáo Bồ Ðề, nghĩa là: Ðặng bực Vô Sanh Nhẫn ra khỏi ngoài ba cõi, đến biển Tát Bà Nhã (nhứt thế trí), mà pháp trì danh liền đặng nhẫn thứ nhứt, thứ hai và thứ ba, mau khỏi đường sanh tử, tới bực nhứt thế trí. 5.- Vô thượng Bồ đề, nghĩa là: Ngồi chốn Ðạo Tràng, thành bực tối chánh giác, mà pháp trì danh thời đặng bực bất thối chuyển, thẳng đến thành Phật.

          Lại ngài Hải Ðông làm lời SỚ dẫn trong phẩm Bồ tát Tâm Ðịa nói: “Các vị mới phát tâm tu Bồ tát, hay thâu giữ tất cả pháp Bồ Ðề phần (37 đạo phẩm) thiện căn thù thắng”. Luận Du Dà quyển thứ 37 nói: “Bồ Tát chỗ chứa nhóm thiện căn, dùng tín tâm tịnh diệu thuần nhứt để hồi hướng lên quả Vô Thượng Bồ Ðề”. Bộ Lương Nhiếp, quyển thứ 10 nói: “Chỗ làm căn thiện cũng dùng hồi hướng lên quả Vô Thượng Bồ Ðề”. Thế thì các kinh đều lấy chỗ phát tâm Bồ Ðề làm thiện căn, mà kinh đây pháp trì danh chính là cái thiện căn hồi hướng lên quả Vô Thượng Bồ Ðề vậy. Do vì đức Phật A Di Ðà tức là ngôi Vô Thượng Bồ đề. Ðây là cái thiện trong các việc thiện nên gọi “đa thiện căn”.

          “Phước trong các việc phước” là cũng có hai nghĩa: 1.- Phật A Di Ðà là danh hiệu muôn đức. Một danh ấy vừa niệm thời muôn đức đều đủ, thế chẳng cầu phước mà phước đã đủ tròn. 2.- Do năng lực trì niệm, tự nhiên các việc ác không khởi, các việc lành vưng làm; lấy đây tu phước thời phước dễ nhóm. - Ðây là cái phước trong các việc phước, nên gọi “đa phước đức”. 



          SỚ: “Nhơn duyên” là: Ngài Thanh Lương nói: “Chính là lấy cái mà nó hay phát khởi ra đó làm nhân. Mượn những cái giúp thành cho nhân phát khởi làm duyên”. Nay kinh đây có hai nghĩa: 1.- Dùng thiện căn làm nhân, dùng phước đức làm duyên. 2.- Thiện căn, phước đức, mỗi cái đều có nhân duyên. 


          SAO: “Thiện nhân, Phước duyên” là: Dùng thiện căn Bồ Ðề làm chánh nhân vào đạo, như trong kinh nói: “Không phát tâm chánh giác Bồ Ðề, dầu tu pháp lục độ vạn hạnh trải hằng sa kiếp, rốt cuộc cũng không thành Phật”. Cho nên biết Bồ Ðề tâm là cội gốc sanh ra muôn việc lành, thế gọi là nhân. Song cần phải làm tất cả việc phước đức để giúp thành quả Bồ Ðề; dùng phước giúp huệ, dùng sự để hiển lý, giúp đỡ vào đạo; ấy gọi là duyên.

          “Ðều có nhân duyên” là: Thiện căn, phước đức, chỗ lý do của nó, từ đâu mà phát tâm, đều kêu là nhân. Mà thiện căn phát khởi, ắt có các món thiện duyên làm trợ. Thế là mỗi món đều có cái duyên của nó.


 

          SỚ: Hỏi: Cớ SAO trong Quán kinh nói phát tâm Bồ Ðề để ở về phước thứ ba? - Ðáp: Do vì phước có sự, có lý, không phải chuyên về sự không. 


          SAO: Trong Quán Kinh nói ba việc phước: 

1.- Hiếu dưỡng cha mẹ và phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu 10 thiện nghiệp. 

2.- Thọ trì pháp tam qui, giữ đủ các giới, không trái oai nghi. 

3.- Phát tâm Bồ Ðề, tin sâu lý nhơn quả, đọc tụng kinh điển Ðại thừa, khuyến tấn người tu.

          Nạn rằng: Vì SAO phát tâm Bồ Ðề mà cho nhập với hai cái trên, đồng gọi là phước? Nay nói phước có sự, có lý. Tâm Bồ Ðề đây là trong lý Bát Nhã. Phước to lớn như hư không, không thể nghĩ lường, chẳng phải cái phước hữu lậu cõi nhơn thiên mà bị Tổ Ðạt Ma ngài chê vậy. Cho nên hai cái phước trước còn chung với bực phàm Tiểu, duy phước đây riêng bực Ðại thừa mà thôi. Song nay lời SỚ không dùng phát Bồ Ðề tâm phối với phước, mà đem thuộc về thiện căn, ấy là SAO? Bởi do Thiện và Phước, riêng ra thời hai, chung lại thời một. Riêng mà nói đó thời tâm Bồ Ðề, riêng thuộc về thiện căn.

          Chung lại mà nói đó thời tâm Bồ Ðề, cũng nói là phước được. Trong Quán Kinh chung dùng nên nói phước cũng không ngại.

          Hỏi: Kinh Bảo Tích, kinh Ðại Bổn đều nói: "Người muốn thấy đức Vô Lượng Thọ Phật phải phát tâm vô thượng Bồ Ðề, lại phải chuyên tâm tưởng niệm nước kia và chứa nhóm thiện căn" thời thành ra Bồ Ðề và thiện căn tuồng như hai việc. Nay kinh đây trực nhận thiện căn thuộc về tâm Bồ đề là SAO?

          Ðáp: Kinh kia chỉ nói thiện căn, kinh đây lại nói đa thiện căn. Một chữ “Ða” chẳng phải tâm Bồ Ðề thì lấy cái gì tương đương vào đó? 



          SỚ: Hỏi: Chính nơi pháp trì danh cho là đa thiện phước đức; ngoài kinh đây, riêng có kinh nào chứng cứ chăng? Ðáp: có đành rành có thể chứng được như: kinh Ðại Bi, kinh Ðại Phẩm ... đều có nói.  


          SAO: “Chứng về thiện căn” là: Kinh Ðại Bi nói: “Một khi xưng danh hiệu Phật, do thiện căn ấy được vào cõi Niết Bàn không thể cùng tận”. Lại nói: “Khi ta (Phật) diệt độ rồi, nước Bắc Thiên Trúc, có ông tỳ kheo tên Kỳ Bà Già tu tập vô lượng pháp "tối thắng thiện căn"; sau khi mạng chung sanh về Tây phương qua trăm nghìn ức thế giới nước Phật Vô Lượng Thọ. Nhẫn sau thành Phật hiệu là: Vô Cấu Quang Như Lai”. Lại Trang Nghiêm kinh luận nói: “Khi Phật còn tại thế, có một ông già đến cầu xin xuất gia. Ngài Xá Lợi Phất v.v... các vị đại Ðệ tử đều không chịu độ. Do vì xem ông già nhiều kiếp không có thiện căn. Phật Ngài độ cho, liền chứng đạo quả. Nhơn đó Phật bảo trong đại chúng rằng: ‘Ông này vô lượng kiếp về trước làm ông tiều đốn củi, bị cọp dữ rượt chụp, hoảng hốt (sợ) bèn leo lên cây, niệm nam mô Phật; do thiện căn đó, nay gặp ta đắc độ”.

          Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 10 văn Hồi Hướng nói: “Nguyện nhớ niệm tất cả chư Phật về đời hiện tại, vị lai, quá khứ trong vô lượng vô biên thế giới”.

          Và kế nói: "Do thiện căn niệm Phật đây”. Như thế đó đều là chỗ chứng rõ rằng: pháp trì danh là đa thiện căn.

          “Chứng phước đức” là: kinh Ðại Phẩm Bát Nhã nói: “Nếu người tán tâm mà niệm Phật cũng đặng hết khổ; với phước kia sẽ hưởng không hết, huống là định tâm nhớ niệm ư?” Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức nói: “Nếu có người được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ Như Lai, một lòng tin chịu, trì đọc, tụng niệm, người ấy sẽ đặng cái phước vô lượng hằng khỏi chốn tam đồ. Sau khi mạng lâm chung, sanh về cõi kia”.

          Luận Trí Ðộ nói: “Ví như có người, khi mới sanh ra lọt xuống đất liền mỗi ngày đi nghìn dặm. Ði mãn một nghìn năm, dùng của bảy báu dưng cho Phật, phước đức biết bao? Thế mà chẳng bằng có người qua đời ác sau này, một tiếng xưng niệm A Di Ðà Phật, phước đây hơn kia”.

          Kinh Tăng Nhứt A Hàm nói: “Như có người dùng tứ sự cúng dường tất cả chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề này được phước rất lớn. Nhưng chẳng bằng người xưng niệm danh hiệu Phật bằng trong những nặn sữa (giây phút), công đức hơn trên không thể nghĩ bàn”. Phàm nghĩa như thế đó đều là chứng minh pháp trì danh là đa phước đức vậy.

          Lại kinh Bảo Tích quyển 19 nói: “Bấy giờ có 1 thầy tỳ kheo nghe đức Phật (Thích Ca) khâm khen công đức cõi Phật Bất Ðộng Như Lai, sanh tâm ham mến mà niệm sanh về kia. Ðức Phật Ngài dạy rằng: ‘Không nên đem tâm ái luyến mong đặng sanh về; duy có trồng các thiện bổn, tu các phạm hạnh mới được sanh về cõi kia”. Thiện bổn tức là thiện căn; phạm hạnh tức là phước đức. Ðấy, lại đều rõ ràng để chứng minh rằng pháp trì danh mới là "đa thiện đa phước”. Các kinh đều tán thán, chúng ta khá chẳng tín thọ SAO?


 

          SỚ: Hỏi: Những người ở cõi này riêng tu lý Viên Ðốn, chẳng nguyện vãng sanh, đâu được nói họ là thiểu thiện căn ư?

          Ðáp: Người tu Viên Ðốn tuy ngộ được nhứt tâm, hãy còn thân hậu hữu. Chính phải cầu sanh nước kia, thân cận Phật Di Ðà.

          Kìa, như chiếc xe ông Triết Lão, ông Thanh Công rõ ràng úp bánh! Nếu kia tự phụ là người Viên Ðđốn, chẳng nguyện vãng sanh, phải biết những người ấy là thiểu thiện căn vậy! Như trong kinh Hoa Nghiêm nói thì thua thiệt biết dường nào? 


          SAO: “Hậu hữu” là thân hậu ấm vậy; tức là đời sau. Người tu Viên Ðốn dù chỗ kiến giải tuy bằng với Phật, nhưng mà vô minh thô tế hãy chưa dứt hết, đức tánh hằng sa cũng chưa trọn đủ, còn có vọng hoặc tất có luân hồi, đâu khỏi thân hậu ấm. Ðã còn thân hậu ấm thời ắt có chỗ đi thọ sanh, không khỏi luân hồi trong sáu đạo, trừ người dã chứng lên cõi Thật Báo. Còn bao nhiêu hoặc chưa khỏi cõi nhơn thiên; nhưng trên cõi Trời nhiều kẻ đắm mê sự dục lạc, trong cõi người xen lộn nhiều thống khổ; kẻ đọa lạc thì đông, mà người giải thoát không mấy. Thế thời chúng ta không cầu sanh về Tịnh Ðộ, vậy chớ tính sanh về đâu?

          Kìa như ông Triết Lão, nọ như ông Thanh Công, đều xưng là người có tỏ ngộ. Mà ông Triết Lão thân đời sau đắm mến trong cảnh giàu sang, ông Thanh Công thân sau chịu nhiều sự ưu khổ. Ðều là bởi không ham mộ pháp vãng sanh, tự mất lợi lành; đến nỗi sa đọa nhiều đời, xa đường Bồ Ðề. Ðâu chẳng phải thiện căn kém thiếu, mới ra như vậy?

          Nói kinh Hoa Nghiêm là: phẩm Nhập Pháp Giới nói: Trên hội đức Cha Na, các bực đại Thanh Văn có người không thấy Phật là do vì thiện căn chẳng đồng, vốn chẳng tu tập thiện căn kiến Phật tự tại cớ vậy. Nên biết pháp chấp trì danh hiệu, nguyện thấy Di Ðà thành đa thiện căn, đại thiện căn, tối thắng thiện căn và bất khả tư nghì thiện căn vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh sanh ra tất cả pháp là nghĩa thiện căn. Tự tánh giàu có tất cả pháp là nghĩa phước đức. 


          SAO: "Nào dè tự tánh, hay sanh vạn pháp; nào dè tự tánh vốn tự cụ túc”.

 


Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Ðà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, nhứt tâm bất loạn.



          SỚ: Nương văn trên: đa thiện, đa phước mới được sanh về nước kia, nhưng mà thiện căn khó trồng, phước đức khó tu, huống lại nói rằng Ða. Nhiều kiếp nhọc nhằn, không thể nên đặng. Như kinh Bảo Tích nói mười tâm, kinh Hoa Nghiêm nói 10 lời nguyện v.v... Nay có một pháp trì danh vừa mau lẹ vừa gọn dễ, tức là đa thiện, đa phước. Nên rõ pháp trì danh công đức rất thù thắng. 


          SAO: “Thiện căn khó trồng” là như thuở trước ông Thân Tử (Xá Lợi Phất) phát tâm Ðại thừa, nhơn người Bà La Môn xin tròng con mắt... mà ông bèn lui mất thiện căn v.v... “Phước đức khó tu” là như trong kinh Niết Bàn quyển 34 nói năm phẩm tâm, tu mười điều thiện; gọi rằng phẩm hạ, phẩm trung, phẩm thượng, phẩm thượng trung, phẩm thượng thượng. Mỗi phẩm đều tu 10 thiện, thành ra năm chục. Trước tu, sau tu, mới thành 100 phước. Thế thời phước đó không dễ gì tu, đã rõ vậy.

          Kinh Bảo Tích nói 10 tâm là: 1.- Ðối với chúng sanh khởi tâm đại từ, không tâm tổn hại. 2.- Ðối với chúng sanh khởi tâm đại bi, không tâm bức não. 3.- Ðối với Phật Pháp không tiếc thân mạng, lại có tâm hay giữ gìn Phật pháp. Nhẫn đến tâm thứ 10 là đối với chư Phật xa lìa các tướng, lại hay khởi tâm tùy niệm. Ðủ mười tâm đây mới được sanh về Tịnh Ðộ.

          Kinh Hoa Nghiêm nói 10 nguyện là: 1.- Lễ kính chư Phật; nhẫn đến. 10.- là phổ giai hồi hướng. Cũng do 10 nguyện đây, mới sanh về cõi nước kia.

          Như trên, đều là các bực Bồ tát quảng đại trí hạnh, chẳng phải dễ trồng, dễ tu. Nay pháp trì danh công đức rất lớn, dầu cho mười tâm chưa đủ, mười nguyện chưa đầy, nhưng tịnh nghiệp một phen thành thời liền sanh về nước kia. Ðã đặng sanh về nước kia thời tâm này, nguyện này tự nhiên thành tựu, há chẳng phải đa thiện căn, đa phước đức đấy ư? Chẳng trải quanh co, thế là mau lẹ. Không các việc bề bộn, thế là gọn dễ. Mau lẹ mà đến xa, gọn dễ mà đặng nhiều. Các pháp môn khác chẳng bì kịp, thế là thù thắng vậy. 



          SỚ: “Thiện nam tử, thiện nữ nhơn”: Chữ Thiện có hai nghĩa: 1.- Thiện nhơn đời trước. 2.- Thiện loại đời này. Nam, nữ là chung chỉ kẻ Tăng, người tục, kẻ lợi, người độn và tất cả chúng sanh trong sáu đường có duyên với pháp trì danh niệm Phật. 


          SAO: “Thiện nhơn đời trước” là: Kinh Ðại Bổn nói: “Nhơn dân trong thế gian, những người đời trước có làm nhơn lành nên nay mới được nghe danh hiệu công đức Phật A Di Ðà. Một phen nghe danh Phật từ tâm vui thích, ý chí thanh tịnh, tóc lông dựng dậy, nước mắt liền tuôn ra, người đấy hoặc đời trước từng tu Phật đạo, hoặc vị Bồ tát cõi thập phương khác, vốn chẳng phải người phàm”. Thế là những người tín tâm niệm Phật đều là người đời trước đã có tu gốc lành ấy vậy.

“Thiện loại đời này” là như kinh Hoa Nghiêm nói: “Thà ở trong các ác thú để mà hằng được nghe danh hiệu Phật, chớ chẳng muốn sanh trong các cõi trời tạm thời chẳng được nghe danh hiệu Phật”. Luận rằng: Không lấy cõi nhơn thiên làm thiện mà lấy cái được nghe danh hiệu Phật làm thiện. Thế thời người tín tâm niệm Phật đây đều là bà con với bực thượng thiện nhơn.

          “Tăng, tục, lợi, độn” là: Pháp môn Tịnh Ðộ thâu gồm tất cả. Như kinh Ðại Bổn nói những người sanh lên bực thượng phẩm là người bỏ nhà, lìa tục mà làm thầy Sa Môn và cũng có người không bỏ nhà lìa tục đấy, tức là năm chúng xuất gia, hai chúng tại gia. Hễ ai niệm Phật đều được vãng sanh nốt, thế là chung cả kẻ tăng người tục.

          Lại cõi kia hoa sen phân ra là 9 phẩm. Phẩm thượng gồm các bực thạnh đức Bồ tát, phẩm hạ kịp đến kẻ phàm phu lơ lơ, nhẫn đến người ác v.v... Hễ ai có niệm Phật đều được vãng sanh cả, thế là chung kẻ lợi người độn.

          Lại các loài: quỉ, súc, địa ngục, trống, mái, đực, cái cũng đều có thể kêu là “nam nữ”. Hễ loài nào có tâm niệm Phật đều đặng vãng sanh, thế là chung tất cả chúng sanh vậy. Xét xưa nghiệm nay, chỉ biên một hai tích; muốn rõ đủ đó, xin xem trong Vãng Sanh Tập. 



          SỚ: Văn kế đây có ba phần: Nói danh hiệu Di Ðà là nêu cảnh sở niệm. Nhứt tâm chấp trì là rõ pháp năng niệm. Một ngày đến bảy ngày là hạn định kỳ niệm. 


          SAO: Nếu không có cảnh thời pháp không từ đâu mà thi thiết. Không có pháp thời cảnh cũng là luống thôi. Không kỳ hạn thời dầu cảnh thắng, pháp mầu, cũng giải đãi, lôi thôi, công chẳng chóng tiến.

          Ðủ ba việc đây hay khiến pháp tịnh nghiệp quyết chắc thành tựu. 



          SỚ: Nêu cảnh niệm là: Ðức Phật kia thành tựu muôn đức ở cõi Tịnh Ðộ thâu nạp hóa độ chúng sanh. Cho nên dùng bốn chữ hồng danh A Di Ðà Phật làm cảnh sở niệm; vì y theo đó tu hành có chỗ về đến.

 

          SAO: Y báo, chánh báo nước Cực Lạc, nói Phật thì đủ. Với công đức của Phật như bể cả, cũng chỉ nói danh hiệu là đủ rồi, nên dùng bốn chữ danh hiệu làm cảnh. Y theo cảnh ấy mà gia công chấp trì, vậy sau mới có chỗ về đến. Chữ Nghệ là đến vậy, nghĩa là về đến nước kia vậy.

          Hoặc có người hỏi: Ngoài tâm không có cảnh, quán tâm tức là đủ, nào dùng cảnh làm chi? - Người ấy đâu có biết tâm với cảnh là một, cũng lẫn nhau phát bày. Bực tiên đức nói: “Có pháp tam muội thì chỉ quán ngay ba đường, hiển bày ông Phật bản tánh”.

          Có pháp tam muội thì gồm tu pháp trì chú... có pháp tam muội lại gồm tu sự tụng kinh... có pháp tam muội lại gồm tu câu niệm Phật.

          Nay nêu cảnh niệm, tức là gồm pháp niệm Phật tam muội. Ðấy, đều dùng cảnh làm trợ duyên để hiện lộ ông Phật trong bản tánh của ta. Hoặc trực hiển bản tánh, hoặc trợ hiển bản tánh; đến chỗ cùng tột kia cũng là một mà thôi. Huống kẻ phàm phu mới học chướng nhiễm đậm dày, phải toàn nhờ cảnh thù thắng mới phát minh được cái diệu tâm của ta. Thực là chước nhiệm tu hành không nên khinh dễ vậy. 



          SỚ: Rõ pháp niệm ấy nghĩa là: Ðã nghe thánh hiệu cần phải chấp trì. “Chấp” là nghe thời lãnh thọ, chẳm hẳm, quả quyết không cho lay sút. “Trì” là lãnh thời giữ gìn, thường hằng bền chắc không cho sót quên. 


          SAO: Chữ “chấp trì” phân giải như trên. Ðây riêng nói chữ “trì” thời gồm chữ “chấp”, tóm chữ “chấp”. Tóm lại là ý chuyên niệm không quên. Lại chữ Trì cũng có mấy cách: 1.- Minh Trì: Nghĩa là niệm ra tiếng. 2.- Mặc Trì: Nghĩa là niệm thầm không ra tiếng. 3.- Bán minh, bán mặc trì: Nghĩa là niệm hơi động môi lưỡi. Các nhà tu trì chú gọi đó là pháp Kim Cang trì.

          Lại hoặc trì niệm bằng cách ghi nhớ số, hoặc trì không nhớ số, đủ như trong Mật giáo nói. Tùy tiện niệm cách nào cũng đều được cả. Nhưng mỗi mỗi đều phân có sự, có lý: Nhớ niệm không gián đoạn, đó là sự trì. Thể xét không gián đoạn đó là lý trì. Văn sau sẽ biện rõ. Lấy đây làm nhơn. Văn sau nhứt tâm bất loạn cũng có sự và lý. Những người không hiểu ý đây, cho phép niệm Phật là để độ kẻ độn căn; tu pháp Tham Thiền mới đặng ngộ đạo. Kẻ sơ cơ nghe lời đấy không tự giải quyết được. Ðâu có biết pháp thể cứu niệm Phật (lý niệm) cùng các vị tôn túc đời trước dạy người nói câu thoại đầu dẹp tình nghi, ý rất giống nhau. Cho nên người xưa nói: “Phép tham thiền không cần nói câu thoại đầu nào khác, chỉ tiêu qui trên một câu A Di Ðà Phật thời xong”. Rất mầu thay lời nói đó! 



SỚ: Lại chữ Chấp Trì tức là nghĩa Qui Mạng. 


SAO: “Qui mạng” là: Tiếng Phạm nói “Nam mô” (Namah-Namo). Ðã giải trong lời tự trước. Nếu chẳng đem cả thân mình qui mạng thời đâu đặng thành nhứt tâm chấp trì; cho đồng một nghĩa. Chữ Qui lại có hai nghĩa, cũng như trong lời tự trước nói: 

1.- Nghĩa “qui đầu”: Chấp Trì danh hiệu, nhứt tâm hướng đến, tức là sự nhứt tâm. 

2.- Nghĩa “qui nguyên”: Chấp trì danh hiệu đem trở về nơi nhứt tâm (của mình), tức là lý nhứt tâm vậy. 



          SỚ: Do văn trên trong hai cảnh và pháp, lại có ba nghĩa: 1.- Nghe nói danh hiệu Phật, thế là Văn Huệ, 2.- Chấp thọ nơi lòng, thế là Tư Huệ. 3.- Giữ gìn không quên, thế là Tu Huệ. 


          SAO: “Văn huệ” là: Ðức Phật A Di Ðà tuy có vô lượng công đức, nhưng công đức ấy nếu không nghe thời không biết. Nếu đức Thích Ca không nói thì ta không được nghe, nên trong Hoa Nghiêm nói: “Người đặng huệ vô sanh do trước nhờ có đa văn”. Lại nói: “Phật pháp không người nói, tuy ta có huệ cũng không rõ đặng”. Hoặc nghe lời trong kinh luận kia cho tỏ bày, hoặc nghe ông tri thức kia chỗ chỉ bảo, một phen nghe lọt vào lỗ tai hằng làm hột giống của đạo, như thế đó gọi là Văn. Văn mà nói Huệ: Văn tức là Huệ. Vì SAO? Ví như đối với cây đá mà nói thì chúng nó chai ngắt đâu có biết nghe gì, đối với người ngu mà nói thời họ nghe mà không nhận lãnh được gì cũng như không nghe; cho nên nói Văn Huệ.

          Tư huệ là: Ðã nghe vào nơi tai, phải gìn nơi tâm; lóng xét chín xem, đó là pháp môn gì, đây là nghĩa lý làm SAO, thế đó gọi là Tư. Tư mà nói rằng huệ là: Tư tức là huệ. Ví như loài cầm súc tuy có nghe, nhưng nó đâu có biết tư tưởng gì, còn người ngu tuy có nghe nhưng nghe vào tai nói ra nơi miệng, không nhớ tưởng chi cả; cho nên nói Tư huệ.

          Tu huệ là: Ðã sâu nghĩ đó, phải gắng sức làm theo, thế đó gọi là Tu. Tu mà nói rằng huệ là: Tu tức là huệ. Ví như người cuồng dại, tuy có suy nghĩ chỉ hao tinh nhọc thần, chớ chẳng thực hành.

          Hỏi: Nay chỉ ba huệ đây, có chỗ nào chứng cứ? Ðáp: Luận Phật Ðịa nói: “Vị Bồ tát thực hành ba diệu huệ mà được sanh về cõi Tịnh Ðộ”; giải rằng: Do nghe, nhớ, tu (văn, tư, tu) ba huệ đây mới vào cõi Tịnh Ðộ. Cho nên biết pháp niệm Phật ắt có ba huệ. 



          SỚ: Lại có ba nghĩa: Nghe nói danh hiệu Phật, tâm không nghi ngờ, thế đó gọi là Tín. Tín rồi giữ gìn, khởi tâm ưa muốn, thế đó gọi là Nguyện. Nguyện rồi trì niệm, tâm cần tinh tấn, thế đó gọi là Hạnh.

 

          SAO: Tín, Nguyện, Hạnh trong văn sau sẽ biện. 



          SỚ: Chữ “danh hiệu” là bốn chữ hồng danh “A Di Ðà Phật” không gồm sắc tượng ... Như kinh Văn Thù Bát Nhã và trong luận Tỳ Bà Sa đã nói thì đem các món sắc tượng gồm trong danh hiệu. 


          SAO: “Không gồm các món sắc tượng”: chính là nói kinh này chuyên chú về chấp trì danh hiệu vậy. Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Phật bảo đức Văn Thù: ‘Muốn vào pháp Nhứt Hạnh tam muội đấy thời phải ở chỗ vắng lặng, bỏ hết các ý loạn, không dùng tướng mạo, chỉ buộc tâm vào một vị Phật, chuyên niệm danh tự, tùy phương sở của Phật kia ở, vững mình ngó ngay hướng Phật để đối với một vị Phật, mỗi niệm mỗi niệm nối nhau; tức trong niệm ấy, thấy đặng các đức Phật ở đời quá khứ, đời vị lai và đời hiện tại. Chỉ niệm công đức một vị Phật cũng đồng như niệm công đức của vô lượng Ðức Phật khác. Chỗ ông A Nan nghe được Phật pháp còn mắc trong số lượng, chớ nếu ta đặng pháp Nhứt Hạnh tam muội thời đối với pháp môn trong các kinh mỗi mỗi phân biệt, thảy đều rõ biết. Ngày đêm diễn nói, trí huệ biện tài không bao giờ đoạn tuyệt. Dầu ông A Nan đa văn biện tài trăm nghìn đẳng phần, chẳng kịp một phần của kẻ đắc nhứt hạnh tam muội kia”. Luận Long Thọ Tỳ Bà Sa nói: “Trong Phật pháp có vô lượng pháp môn. Ví như con đường trong thế gian, có khó, có dễ. Với con đường dễ đi thì mau đến. Nên niệm Phật và xưng danh hiệu ngài”. Ðức Phật A Di Ðà có lời nguyện như vậy.

          “Gồm trong danh hiệu ấy” có hai nghĩa: 1.- Vì có danh ắt có tướng. 2.- Vì danh và tướng đều chẳng ngoài một cái tâm. Thế thời niệm danh hiệu một vị Phật, với chánh báo gồm thu hết cả rồi, còn nghĩ gì sắc tượng ư? 



          SỚ: Nay người nghe danh hiệu Phật chẳng chịu chấp trì đó, ước có bốn chướng. Bốn chướng phá trừ mới có thể chấp trì danh hiệu nhẫn đến nhứt tâm được. 


          SAO: Chữ “chướng” là che ngăn. Do bốn món chướng đây, ngăn che tâm niệm không chịu chấp trì nên phải cần phá trừ. Bốn chướng là:

1.- Có người bảo: “Tức tâm là Phật, hà tất bỏ Phật mình mà niệm Phật kia?” Ðâu có biết vì tức Phật là tâm thời niệm Phật cũng không ngại gì. Bởi tức tâm là Phật, đâu chẳng tức Phật là tâm. Nếu chấp niệm tâm không chịu niệm Phật thời thành ra tâm với Phật là hai, nghĩa chữ Tức làm SAO thành lập. Thế nên lấy niệm Phật tức niệm tâm vì cả hai không ngại.

 2.- Có người bảo: “SAO chẳng niệm hết thảy các đức Phật, mà cứ niệm một vị Phật?” Ðâu có biết tâm chuyên chí nhứt mới thành pháp tam muội. Bởi vì chúng sanh trí cạn, niệm nhiều Phật thời không xiết, nên dùng trí mà không phân nhiều đường thời tâm thần được ngưng định. Nếu khiến tâm nhiều ngả thời công làm phải tán loạn.

          Như Ngài Phổ Quảng Ðại Sĩ hỏi Phật: “Mười phương đều có cõi Phật vì SAO riêng khen cõi Tây phương?”

          Phật dạy: “Người cõi Diêm Phù Ðề tâm phần nhiều tạp loạn; khiến cho kia chuyên tâm về một cảnh mới đặng vãng sanh. Do vì các vị Phật đồng một thân pháp tánh, nên niệm một vị Phật tức là niệm tất cả các vị Phật.

3.- Có người bảo: “Mỗi vị Phật đều có thể niệm, SAO không để cho người kia tự do niệm một vị Phật nào, mà cứ bắt niệm vị Phật A Di Ðà kia?”  Ðâu có biết vị Phật kia cùng các chúng sanh riêng có nhơn duyên vậy. Bởi vì danh diệu Phật kia người nào cũng đều ưa niệm đến nỗi người ác có khi thoạt nhiên thốt ra tiếng niệm Phật; nhẫn đến người gặp việc lành bất ngờ thốt lời niệm Phật vui mừng, tán thán; còn người gặp việc ác cùng trong khi gặp nạn khổ, bỗng nhiên thốt ra tiếng niệm Phật mà thương xót đớn đau. Vì cơ cảm nhơn duyên, không ai bảo họ, mà họ tự nhiên niệm Phật.

4.- Có người bảo: “Vì SAO không niệm công đức trí huệ, tướng hảo quang minh của Phật, mà chỉ niệm danh hiệu?”

          Ðâu có biết, ở trong đời mạt pháp này, pháp trì danh rất hợp cơ vì là bất tư nghì. “Hợp cơ” là: Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Chúng sanh cơ ngu độn, nếu dạy pháp quán tưởng thì họ không biết được, chỉ khiến niệm danh hiệu Phật, tiếng niệm nối nhau thời tự tiện hơn, dễ được vãng sanh”.

          “Bất tư nghì” là như văn trước đã nói: Chỉ có pháp Nhứt Hạnh tam muội này thời chẳng những hợp với kẻ độn cơ, mà chỗ thần dụng của nó không lường vậy. Như trong kinh Di Giáo, Phật dạy: “Tâm này kiềm chế nó lại một chỗ thời không việc nào mà chẳng xong”. Nay kinh này bảo buộc tâm vào hiệu Phật nhẫn đến nhứt tâm, thời chỗ thần dụng đâu có thể nghĩ bàn! 



          SỚ: “Kỳ hạn niệm” là một ngày đến bảy ngày, thế là cái kỳ hạn đã định vậy. Bảy ngày là: Trong thế gian và xuất thế gian, khi trọng cái sự gì đó, thời thường dùng con số bảy. Như nói bảy ngày niệm Phật khỏi chốn địa ngục cớ vậy. Lại kỳ bảy ngày cũng có hai nghĩa, mỗi nghĩa đều có phân lợi và độn. Lại số nhiều thời kinh Ðại Bổn nói mười ngày, kinh Thanh Vương nói mười ngày, kinh Ðại Tập nói 49 ngày, kinh Ban Châu nói 90 ngày ...

          Số ít thời kinh Ðại Bổn nói một ngày, kinh Thập Lục Quán nói 10 niệm ... Nói ngày là: Do mặt nhựt đi ngang qua đường Xích Ðạo từ tối đến sáng trong một vòng vậy.

 

          SAO: Kỳ hạn ấy nếu cứ theo đức Như Lai về sự ngài đắc quả Bồ Ðề, thiệt không kể đến số ngày thời chẳng phải số ngày, số kiếp gì hết, đâu có cái số bảy ngày. Nếu cứ trong cái nhơn của vị Bồ Tát tu hành, trải qua nhiều khiếp hư số vi trần thời vô cùng vô tận, đâu những bảy ngày mà thôi?

          Nay lập kỳ hạn bảy ngày đây vì chúng sanh đời mạt pháp, tu các công đức, sức tinh tấn rất khó mà bỏ xuôi thời dễ, nên phải có kỳ hạn mới phát tâm hăng hái.

          Vì SAO trong thế gian quí trọng số bảy? Như phép lễ sám thời nói rằng bảy đêm, pháp trì chú thời nói rằng bảy biến. Kinh này: Lan can, lưới giăng, hàng cây, đều nói rằng bảy lớp. Nhẫn đến quốc gia lập nhà thờ tiền Tổ thời nói rằng bảy miếu, dạy dân thời nói rằng bảy năm. Và như có việc gì hết lòng thành thời nói rằng bảy ngày trai giới, các loại phải vậy.

          “Khỏi địa ngục” là: Sách Kinh Luật Dị Tướng nói: “Có ông vua hại cha, bảy ngày nữa sẽ đọa trong địa ngục. Khi đó gặp một vị tôn giả dạy: Ðại vương nên niệm Nam Mô Phật. Ông vua liền nhứt tâm niệm Phật, bảy ngày không trễ nãi. Khi mạng chung đến cửa địa ngục, còn niệm Nam Mô Phật người tội trong ngục đều đặng giải thoát”.

          Lợi độn là chỗ thì nói: Người lợi căn niệm một ngày, người độn căn hoặc niệm đến bảy ngày. Kinh này nói: Lợi và độn hai căn, đều từ một ngày cho đến bảy ngày. Như người lợi căn, vì tánh nhậm lẹ, niệm một ngày thành công liền đặng nhứt tâm, không còn tán loạn.

          Còn người hơi độn căn, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày nhẫn đến bảy ngày mới đặng thuần nhứt. Song cũng có người lợi căn, trải đến bảy ngày, vững vàng được nhứt tâm, không có một chút nào loạn. Còn người độn căn chừng sáu ngày, năm ngày, nhẫn đến một ngày, hoặc liền tán loạn. Thế cho nên cái số bảy ngày ấy đều cho kẻ lợi căn, người độn căn, không riêng thuộc một kẻ nào.

          Mười ngày là: Kinh Ðại Bổn nói: “Ăn chay giữ giới thanh tịnh, nhứt tâm thường niệm, mười ngày đêm không ngớt; khi mạng chung, ắt sanh về trong cõi của ta”.

          Lại Kinh Cổ Âm Vương nói: “Nếu có người thọ trì danh hiệu Phật kia, kiên cố tâm mình, nhớ niệm không quên, mười ngày, mười đêm, dứt hết tâm tán loạn, ắt đặng thấy Phật A Di Ðà kia”.

          Bảy lần bảy ngày (49 ngày) là: Kinh Ðại Tập nói: “Nếu có người chuyên niệm vị Phật ở phương kia, hoặc đi, hoặc ngồi cũng vẫn niệm, đến 49 ngày, thấy Phật hiện thân, liền đặng vãng sanh”.

          90 ngày là: Kinh Ban Châu Tam Muội nói: “Nếu có người tự thệ nguyện trong 90 ngày thường đi, thường đứng trong tịnh thất, nhứt tâm chuyên niệm; lúc ở trong thiền định đặng thấy Phật A Di Ðà”.

          Lại Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Trong 90 ngày ấy ngồi ngay thẳng, xây mặt về hướng Tây, chuyên niệm đức Phật kia, đặng thành pháp tam muội”.

          Một ngày là: Kinh Ðại Bổn nói: Ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Người nào nhứt tâm chuyên niệm danh hiệu ta, tuy chừng trong một ngày đêm mà niệm không ngớt, ắt đặng vãng sanh về cõi ta”.

          Mười niệm là: Kinh Thập Lục Quán phẩm hạ hạ nói: “Người nào bị khổ ngặt quá, không rảnh niệm Phật, thời chỉ mười tiếng xưng danh hiệu Phật” v.v... Thế nên biết từ một ngày đến bảy ngày, tùy số ngày nhiều ít, đều là cái kỳ hạn niệm Phật để vãng sanh, tùy theo sức mình làm thế nào vậy thôi.

          “Tối sáng một vòng” là: Từ giờ Tý đến giờ Ngọ là từ tối đến sáng. Từ giờ Ngọ đến giờ Tý là từ sáng đến tối. Ðó là một ngày đêm.

          Vả chăng, trong giây phút tâm còn có sanh diệt, huống là cả một ngày đêm ư? Trong văn đây nói: “Nhứt tâm” là nói trong 12 giờ, mỗi niệm mỗi niệm đều là niệm Phật, không gián đoạn ấy vậy (gián: không xen lộn niệm khác; đoạn: không ngớt niệm Phật). 



          SỚ: Lại cái số bảy ngày đây, chẳng phải quyết định chỉ khi lâm chung bảy ngày; mà cũng dùng khi bình thời, người có định lực như thế ắt sanh về nước kia.

 

          SAO: “Khi bình thời” là: Người chấp cái văn “bảy ngày”, tưởng chắc là từ một ngày cho đến bảy ngày rồi liền mạng chung, mới kêu là bảy ngày. Cho nên nói: “Hoặc khi lâm chung hoặc lúc bình thời”; hễ người có cái định lực một ngày hoặc bảy ngày, hằng nhứt tâm bất loạn đều đặng vãng sanh. Nên nói: Lúc rảnh lo sắm, để khi túng có mà dùng; sau đến cơn lâm chung, nhơn quả phù hiệp, ắt sanh về nước kia. 



          SỚ: Câu nhứt tâm bất loạn là nói chỗ kết quả của sự chấp trì vậy. Thật là cái yếu chỉ của một bộ kinh này. 


          SAO: Chữ Tâm là: Lựa khác với miệng tụng mà tâm không niệm vậy. Chữ Nhứt là: Lựa khác với tâm tuy niệm mà niệm không nhứt vậy. Chữ Bất Loạn lựa khác với niệm tuy nhứt mà có khi lại không nhứt. Nhứt tâm bất loạn là công việc tu pháp Tịnh nghiệp đã xong rồi. 



          SỚ: Giải thích bốn chữ đây: Trước nói tổng chỗ đại ý, sau mới tường trần sự lý. Ðại ý là nói: Cũng thì với bốn chữ đó, nhưng khi thì nói xuôi, lúc lại nói ngược. “Như nói xuôi” là: Nhứt tâm. “Nói ngược” là: Bất loạn. 


          SAO: Vì rằng hễ nhứt thì không loạn, mà hễ loạn thì không nhứt. Có cái Nhứt Tâm thời không cái Loạn Tâm. Cho nên nói rằng xuôi là ngược. Lệ như câu: "Thuần Nhứt Bất Tạp" và câu "Tinh Nhứt vô nhị" thế vậy.

          Kinh Hoa Nghiêm khoản Thập Hồi Hướng, bài thứ 4 nói: Chỗ gọi rằng bất loạn hồi hướng và nhứt tâm hồi hướng.

          Giải rằng: “Nhứt tâm” là chuyên chú về cảnh chánh. “Bất loạn” là không sanh vọng niệm. Chuyên chú cũng như không vọng, tức là cái ý xuôi ngược. 



          SỚ: Sau đây nói sự và lý là: Một lời nói của Ðức Như Lai Sự, Lý đều đủ nên đồng kêu là Nhứt tâm: có Sự có Lý, như trong kinh Ðại Bổn nói: Nhứt tâm kế niệm, chính chỗ gọi rằng: Nhứt tâm bất loạn vậy. Mà Sự và lý mỗi cái đều có khác.

          Ban đầu nói Sự Nhứt tâm là: Như văn trước nhớ niệm danh hiệu Phật mỗi niệm nối nhau, không có cái niệm thứ hai; Tín Lực thành tựu thì gọi là Sự Nhứt tâm; nhiếp thuộc về môn Ðịnh vì chưa có Huệ vậy.


          SAO: Với văn trước: Trong pháp chấp trì, do nhớ niệm và thể cứu, lược phân làm hai món:

          “Nhớ niệm” là: Nghe nói danh hiệu Phật, thường nhớ, thường niệm để tâm duyên theo, mỗi chữ, mỗi chữ rõ ràng; câu trước, câu sau nối nhau không dứt. Ði, đứng, ngồi, nằm chỉ một niệm Phật này, không một niệm thứ hai, không bị các niệm: tham, sân, phiền não nó làm rối rắm. Như trong kinh Thành Cụ Quang Minh Ðịnh Ý gọi rằng: “Lúc ở chỗ vắng lặng mà vẫn nhứt tâm; dù khi ở chỗ đông đảo rộn ràng mà cũng vẫn nhứt tâm; nhẫn đến các chỗ: khen, chê, đắc lợi, thất bại, thiện, ác cũng vẫn đều được nhứt tâm”. Thế là trên Sự thời đặng, còn trên Lý chưa xong; chỉ mới đặng Tín Lực, vì chưa thấy Ðạo nên gọi sự nhứt tâm.

          Nói chữ "Ðịnh" là: Ðã dẹp được cái vọng niệm. Nói không "Huệ" là do vì chưa phá được cái vọng niệm. 



          SỚ: “Lý nhứt tâm” là như văn trước: Thể cứu niệm Phật, tự thấy đặng Phật tánh trong bản tâm mình cho nên gọi là Lý nhứt tâm. Ðối trong đây có 2 nghĩa: 1.- Rõ biết tâm năng niệm, ông Phật sở niệm, lại chẳng phải hai vật, chỉ là Nhứt Tâm. 2.- Chẳng phải có; chẳng phải không; chẳng phải cũng có cũng không; chẳng phải không có không không. Lìa cả 4 câu, chỉ là Nhứt Tâm.

          Ðây, thuần là Lý Quán, chớ không chuyên về lối Sự Tướng. Sức quán xét được thành tựu thì gọi là niệm Phật bằng Lý Nhứt Tâm; vì nhiếp về môn Huệ và cũng gồm môn Ðịnh nữa.

 

          SAO: “Thể cứu” là: Nghe nói danh hiệu Phật, chẳng những nhớ niệm mà thôi, tức vừa niệm, vừa quán tưởng, thể xét tìm tòi cùng tột nguồn gốc của nó. Thể xét rất tột, tự nhiên trong bản tâm mình, thoạt vậy khế hợp.

          Trong có hai nghĩa là: 

1.- Tức là Như và Trí không hai. Nghĩa là: Ngoài Tâm năng niệm của ta, không có ông Phật nào là ông Phật bị niệm, đối với ta thế là ngoài trí không có. Như ngoài ông Phật bị niệm, không có cái tâm nào là cái tâm năng niệm đối với Phật, thế là ngoài Như không có Trí. Chẳng phải Như chẳng phải Trí, cho nên chỉ là Nhứt Tâm.          

2.- Tức là Tịch và Chiếu khó nghĩ khó bàn. Nếu nói rằng là Có thời cái tâm năng niệm bản thể nó tự không, với ông Phật bị niệm hoàn toàn không thể có.

          Nếu nói rằng là không thời cái tâm năng niệm làu làu không muội; ông Phật bị niệm rành rạnh rõ ràng. Nếu nói rằng là cũng có cũng không thời cái có niệm, cái không niệm đều mất. Nếu nói rằng không phải có không phải không thời cái có niệm và không niệm đều còn.

          Chẳng phải có thời thường vắng lặng. Chẳng phải không thời thường chiếu soi. Chẳng phải cả hai cũng có, chẳng phải cả hai cũng không thời không tịch, không chiếu, mà chiếu mà tịch, bặt đường nói, nghĩ, không hình dạng kêu gọi (miêu tả) đặng; vì chỉ là Nhứt Tâm. Thế thời tình Năng, Sở tiêu, cái chấp Hữu, Vô hết, vẫn chỉ là cái thể bản nhiên thanh tịnh, còn có cái vật gì nữa mà làm cho tạp loạn. Do vì chỗ thấy Ðạo chắc chắn nên gọi là Lý Nhứt Tâm vậy.

          Nói môn Huệ là vì hay chiếu cái vọng. Gồm môn Ðịnh là vì chiếu cái vọng vốn không, vọng tự dẹp vậy. Lại vì chiếu hay pháp cái vọng, chẳng những dẹp (tiêu) mà thôi. 



          SỚ: Lại trong kinh giáo phân bốn pháp niệm Phật, từ thấp lần đến cao mà pháp xưng danh đây là ở trước hết. Tuy hai pháp sau cao hơn hai pháp trước; thật thời hai pháp trước thấu đến hai pháp sau, do vì Lý Nhứt Tâm tức là ông Phật thật tướng. 


          SAO: Bốn pháp niệm Phật đây như trong lời tự quyển trước nói: 

1.- Xưng danh; 

2.- Quán tượng; 

3.- Quán tưởng; 

4.- Thật tướng. Xưng danh là: Tức kinh này nói xưng danh hiệu Phật. Quán tượng là: Nghĩa là thiết lập một cái hình ông Phật đứng, chăm mắt xem ngó. Như trong Kinh Pháp Hoa nói: “Ðứng dậy chấp tay, nhứt tâm xem Phật”, tức là quán xét tướng hảo quang minh của ông Phật hiện tại vậy. Như vua Ưu Ðiền, dùng gỗ chiên đàn chạm hình tượng đức Thế Tôn; tức là quán tưởng ông Phật bằng đất, bằng cây, bằng vàng, bằng đồng đúc tạo nên tượng; cho nên nói pháp “quán tượng”.

          Quán tưởng ấy: Nghĩa là dùng tâm mắt của ta, tưởng đức Như Lai kia. Tức kinh Quán Phật Tam Muội và Thập Lục Quán có nói cả, thật vậy...

          “Thật tướng” ấy tức là niệm ông Phật Thiên Chơn trong tánh của ta, không sanh không diệt, chẳng có chẳng không, không năng không sở. Với các tướng cũng đều lìa tướng, ngôn thuyết, ly tướng danh tự, ly tướng tâm duyên; thế gọi là ông Phật Thật tướng. Nên có câu: “Ta muốn thấy Cực lạc thế giới Phật A Di Ðà, tùy ý liền thấy”, thật vậy.

          Bốn pháp trên đây tuy đồng tên là pháp niệm Phật trước thấp sau cao, pháp trì danh tuy ở về pháp ban đầu, kỳ thật ý trùm vô tận. Vì SAO? - Vì sự nhứt tâm thời thấp, lý nhứt tâm thời cao; tức Sự tức Lý thời tức thấp tức cao, nên nói thấu trước thấu sau.

          Vì SAO? - Vì lý nhứt tâm ấy, Nhứt tâm tức là lý Thật Tướng thời trước hết tức là sau hết. - Hỏi: Ðâu đặng pháp xưng danh liền thành ông Phật Thật tướng? - Ðáp: Nói Thật Tướng đấy chẳng phải diệt hết các tướng. Số là tức nơi các tướng mà vô tướng vậy. Trong kinh nói: “Lời nói trị đời đều cùng Lý thật tướng không trái nghịch nhau”. Thế nào vạn đức hồng danh của Phật mà chẳng bằng một lời nói trị đời hay SAO? - Kinh (Pháp Hoa) nói một tiếng xưng niệm Nam mô Phật đều đã thành Phật đạo, huống chi kinh này pháp xưng danh đặng Lý nhứt tâm.

          Lại kinh Thập Lục Quán: pháp quán thứ chín là quán tướng hảo của Phật. Lời SỚ chỉ nói quán pháp thân Phật. Tướng hảo đã tức là Pháp thân thì  danh hiệu đâu chẳng phải là Thật Tướng.


 

          SỚ: Lại Lý nhứt tâm đây, chính là pháp Nhứt Hạnh tam muội trong kinh Văn Thù, cũng là pháp Nhứt Hạnh Niệm Phật và pháp Nhứt Thời Niệm Phật trong kinh Hoa Nghiêm.  Lại như trong Khởi Tín nói:  “Chơn như Pháp thân”, và trong các kinh nói pháp niệm Phật đồng lý nhứt tâm đây. 


SAO: “Văn Thù Nhứt Hạnh” là dùng trí Bát Nhã chuyên trì danh hiệu Phật, rõ thấy văn trước. Hoa Nghiêm Nhứt Hạnh là: Ông Ðức Vân Tỳ kheo dạy pháp môn niệm Phật.

Lời SỚ nói: Pháp Nhứt Hạnh Tam Muội là quán xét pháp thân Phật kia, lấy lý chơn như làm cảnh thì không cảnh nào chẳng phải thật. Lại tu pháp niệm Phật tam muội, phần nhiều là ước về lối tiệm tu, nghĩa là: Trước niệm ông Phật pháp thân. Nay kinh này một thời đồng tu, chẳng trái thứ lớp, một hạnh chớ không phải hai hạnh; một thời chớ không phải hai thời; cho nên nói tức là Lý nhứt tâm.

“Khởi Tín nói Chơn Như” là trong luận Khởi Tín nói: “Nếu ta quán xét Lý Chơn Như pháp thân Phật kia, thường siêng tu tập, rốt ráo được vãng sanh trụ nơi pháp chánh định”.  Lại kinh Ma Ha Bát Nhã nói: “Ông Bồ Tát tu niệm Phật không chấp hình sắc để niệm, nhẫn đến không dùng bốn trí, 18 pháp bất cộng để niệm. Do cớ làm SAO? Vì các pháp đó tự tánh nó vốn không. Tự tánh không thời không chỗ niệm. Không chỗ niệm đó là niệm Phật”. Lại kinh Quán Phật Tam Muội Hải, Phật dạy ông A Nan rằng: “Trụ nơi pháp niệm Phật là tâm ấn bất hoại”. Dạy rằng: “Xét rõ tự tâm mình gọi là quán Phật, không bị cảnh làm tán loạn gọi là Tam muội. Một thể không dời gọi là tâm ấn” v.v...

Lại kinh Xá Lợi Phất Ðà La Ni nói: “Chỉ tu nhứt tâm niệm Phật đều là nghĩa Lý nhứt tâm vậy”. 



SỚ: Lại tuy nói rằng nhứt tâm, thực thời trong Quán Kinh nói ba tâm, trong Khởi Tín nói ba tâm, trong luận nói ba tâm, nhẫn đến trong kinh Hoa Nghiêm nói mười tâm, trong Bảo Tích nói mười Tâm, vì không đâu chẳng đủ.

Lại kinh Tịnh Danh nói tám pháp vì cũng là nhứt tâm. Ông Ðức Vân nói  21 pháp niệm Phật vì cũng chẳng ra ngoài Lý nhứt tâm đây.

 

SAO:  Trong Quán Kinh nói ba tâm là: 

1. Chí thành tâm. 

2. Thâm tâm.  

3. Hồi hướng phát nguyện tâm; cùng với ba tâm trong luận Khởi Tín tên tuy khác mà lý vẫn đồng. Bởi vì Chí Thành Tâm ấy tức là trong Khởi Tín nói: “Trực tâm chánh niệm lý Chơn Như”, mà kinh đây nói: “Nhứt tâm bất loạn”. Lại không luống dối, lại không dời đổi vì tùy thuận lý Chơn Như. Thâm tâm là tức như trong Khởi Tín: “Tâm ưa nhóm tất cả thiện căn”, mà kinh đây nói:  “Nhứt tâm bất loạn” vì muôn việc lành đều về nơi đó. Hồi hướng phát nguyện là như trong Khởi Tín: “Tâm độ tất cả chúng sanh”, mà kinh đây nói: “Nhứt tâm bất loạn” đều vì chung cả vật và ta. Trong Luận nói ba Tâm:  

1. Thanh Tịnh Tâm, mà kinh đây nói “Nhứt tâm” vì không cấu nhiễm nào chẳng hết. 

2. An Thanh Tịnh Tâm mà kinh đây nói “nhứt tâm” vì lý không đâu chẳng đủ. 

3. Nhạo Thanh Tịnh Tâm mà kinh đây nói “nhứt tâm” vì lòng từ không chỗ nào chẳng thu nhiếp. Cùng với hai món ba Tâm trước, chính phối hiệp nhau vậy.

Kinh Hoa Nghiêm nói mười tâm là: Trong Bồ tát Thập Niệm Tạng nói đủ mười pháp niệm Phật: 1. Tịch Tịnh Niệm; 2. Thanh Tịnh Niệm; nhẫn đến 10 Vô chướng ngại Niệm. Kinh này nói: “Nhứt tâm thời bất động”; thế là Tịch Tịnh Niệm. Nhứt tâm thời bất nhiễm; thế là Thanh Tịnh Niệm. Nhứt tâm thời đồng với pháp giới, thế là Vô Chướng Ngại Niệm.

Kinh Bảo Tích nói mười tâm đã giải thấy ở văn trước. Văn trước nói mười tâm khó đủ, văn đây nói tâm đã đặng nhứt tâm rồi thời Từ, Bi, Hỷ, Xả, trăm nghìn món tâm, chỗ nào lại chẳng đủ.

Kinh Tịnh Danh nói tám pháp là: Vị Bồ Tát thành tựu tám pháp, hạnh không kém thiếu, được sanh về Tịnh Ðộ; mà pháp thứ tám lại kết rằng:  “thường dùng nhứt tâm cầu các công đức”. Kinh dây nói đã nhứt tâm thời với trăm món pháp, pháp nào mà chẳng đủ.

“Ðức Vân niệm Phật môn” là: Kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, ngài Ðức Vân tỳ kheo bảo ông Thiện Tài rằng: “Ta đặng pháp môn Ức Niệm Nhứt Thế Chư Phật Cảnh Giới Trí Huệ Quang Minh Phổ Kiến", mà lại chia ra 21 môn niệm Phật: khởi đầu từ môn Trí Quang Phổ chiếu, rốt sau đến môn Trụ Hư Không. Nay đây bảo:  Ngoài tâm không có cảnh giới, ngoài tâm không có trí chiếu và ngoài tâm không có hư không; cho nên biết 21 môn chẳng ra ngoài một Lý nhứt tâm, thảy đều cụ túc.

Trong kinh Na Tiên nói: “Trong các việc thiện, chỉ có Nhứt tâm là đệ nhứt. Thống nhứt được tâm kia rồi thời các việc lành theo đó”, chính ý đây vậy.  


       

SỚ:  Lại vì Nhứt Tâm đây tức là hai nghĩa Tác và Thị. 


SAO: Trong Quán Kinh nói: “Khi tâm tưởng Phật, thị tâm Tác Phật, thị tâm thị Phật”, nay kinh nầy nói: “Nhứt tâm trì danh”. Do Nhứt Tâm đây sau sẽ làm Phật. Từ nhơn đến quả gọi là “Tác”, tức Nhứt Tâm đây toàn thể là Phật. Không phải Nhơn, không phải Quả; gọi đó là “Thị” (phải). 



SỚ:  Lại nữa Nhứt tâm đây tức là Ðịnh Thiện trong các món Ðịnh Thiện. 


SAO: “Ðịnh Thiện trong Ðịnh Thiện” là dùng Ðịnh Thiện và Tán Thiện phân ra để nói đó. Tu các thiểu thiện, thiểu phước là Tán Thiện vậy;  còn nhứt tâm bất loạn là Ðịnh Thiện vậy. Lại lấy chữ “nhứt tâm” mà phân Ðịnh và Tán. Sự nhứt tâm là Tán Thiện trong Ðịnh Thiện; Lý nhứt tâm là Ðịnh Thiện trong các Ðịnh Thiện vậy. 



SỚ:  Lại nhứt tâm đây tức là Pháp Niệm Phật Tam Muội của ông Bồ Tát. 


SAO: Hoặc có người nghi Phật nói kinh Bồ Tát Niệm Phật Tam MuộI, trong đó đều không nói những câu “Tín, Nguyện, vãng sanh” v.v... chỉ nói niệm ngay lý Thật Tướng của các pháp, thế gọi là niệm Phật; tuồng như với kinh nầy ý nghĩa trái nhau. Nay nói: kinh kia là chuyên chú về Lý, kinh nầy đây gồm cả Lý và Sự. Lý nhứt tâm là niệm mà vô niệm, tức là Lý thật tướng.  Số là kinh kia dùng vô niệm làm chánh nhập (Lý), kinh đây dùng hữu niệm làm xảo nhập. Chỗ tác dụng có chút khác, chớ chỗ cứu cánh vẫn đồng.  Thế cho nên đồng kêu là pháp Niệm Phật Tam muội. 



SỚ:  Lại nhứt tâm đây tức là pháp thiền trực chỉ của Ðức Ðạt Ma. 


SAO: Theo lối tầm thường, người nói: Các thiền giả giấu pháp Tịnh Ðộ. Nay nói đức Ðạt Ma nói pháp Thiền, chỉ ngay nó là tự tánh linh tri của mình. Kinh đây Lý nhứt tâm chính là tự tánh linh tri. Các môn đình lập ra pháp tu chẳng đồng, nhưng chỗ chứng thời không hai vậy. Hay thay lời của Ngài Trung Phong nói rằng: “Thiền đó là pháp thiền của Tịnh độ; Tịnh Ðộ đó là pháp Tịnh Ðộ của pháp Thiền vậy”; có ý vị thay nói lời nầy.

Hoặc có người hỏi: Pháp Thiền trực chỉ, không lập văn tự. Kinh nầy nói chấp trì danh hiệu, SAO cho hiệp đồng? Ðâu có biết Tổ truyền pháp dùng bài kệ bốn câu; ấn tâm dùng bộ kinh bốn quyển. So với chữ danh hiệu, văn tự kia còn nhiều hơn. Số là chẳng phải dùng đoạn diệt văn tự là không lập vậy, nghĩa là: Không chấp văn tự mà không bỏ văn tự. Người trí rõ đó. 



SỚ:  Lại nhứt tâm đây, phải biết tâm vương, tâm sở, không tâm nào chẳng nhứt. 


SAO: Tâm vương, tâm sở, giải thấy văn trước. Văn đây nói tám thức tâm vương và 51tTâm sở lăng xăng chẳng đồng, lộn xộn phát khởi, mà nay nói “không tâm nào chẳng nhứt” là: Bởi do tâm vương, tâm sở tuy nhiều; nhưng ngược dòng, tột nguồn, chẳng ra ngoài nhứt tâm. Nay người niệm Phật, ban đầu lấy nhĩ thức nghe danh hiệu Phật kia. Kế, lấy ý thức chuyên chú nhớ niệm. Do vì chuyên niệm tóm thâu sáu căn Nhãn, Tỹ, Thiệt, Thân.  Như vậy sáu thức đều chẳng hiện hành. Niệm mãi không thôi, niệm tột rồi quên chỗ gọi rằng hằng thẩm tư lương (thức thứ bảy) ấy. Cái tư lương kia lặng vậy, quên mãi không thôi, quên tột rồi hóa (biến hoá) chỗ gọi rằng:  Chơn, vọng hòa hiệp ấy, cái vọng kia tiêu vậy, thời thức thứ 7, thức thứ 8, cũng chẳng hiện hành. Ông chủ đã chẳng còn, kẻ tùy tùng nương vào đâu? Thế là 51 tâm sở kia còn luận chi nữa. Ðương khi, sóng to, sóng nhỏ đều thành nước đứng; mây đậm, mây lợt trọn hóa thành không. Bấy giờ chỉ có nhứt tâm đây, không còn một món chi khác. Cho nên không nói tâm nào chẳng nhứt vậy. 



SỚ: Cho nên biết chí tâm niệm A Di Ðà Phật một tiếng diệt đặng tám muôn ức đường sanh tử trọng tội; bởi vì chính chỉ cho Lý nhứt tâm vậy.  Như trong kinh Pháp Hoa Tam Muội nói. 


SAO: Có người nghi hỏi: Tội đã nhiều, kiếp nặng chướng sâu, cần sám hối cho lâu, lần chứa công đức, họa may mới tiêu hết; mà nay nói niệm Phật một tiếng diệt đặng tội nhiều kiếp, thành ra nhơn làm thì ít, được quả thì nhiều, vốn không tin nổi?  Nay chỉ nói chí tâm đấy tức là nhứt tâm vậy. Nếu Sự Nhứt tâm, tuy hay diệt tội, vì sức hơi yếu, tột ắt hiện lại. Phải niệm cho nhiều, chỉ khá diệt được cái tội chút đỉnh. Nhưng mà cái chí tâm đây, chính thuộc lý nhứt. Nhứt tâm đã rõ ràng thời các vọng chứa liền không. Dụ như nhà tối nghìn năm, chỉ đốt một ngọn đèn, tối kia liền diệt! Cho nên: “Một tiếng niệm Nam mô Phật đều được thành quả Phật”, chẳng những kinh Diệu Pháp Liên Hoa có nói mà trong kinh Pháp Hoa Tam Muội Quán cũng nói:  “Chúng sanh trong mười phương, một tiếng xưng niệm Nam mô Phật ấy, đều sẽ làm Phật. Chỉ có một pháp đại thừa, không có hai và ba”. Tất cả các pháp chỉ có một tướng một môn. Chỗ gọi rằng: Vô sanh, vô diệt, rốt ráo không tướng. Tập phép quán như vậy việc ngũ dục tự đoạn, mà ngũ cái tự trừ, pháp ngũ căn tăng trưởng, liền đặng phép thiền định. Giải rằng: Một tiếng niệm được thành Phật là nhứt tâm qui mạng không thể nào chẳng thành Phật. Vì lìa ngoài một tướng, một môn của tự tâm mình, lại không có pháp nào đáng làm chỗ qui y rốt ráo vắng lặng cho ta được. Quán được như vậy đó, việc ngũ dục tự đoạn; nhẫn đến pháp lục độ, vạn hạnh, cũng đều thành tựu. Như trên đã nói, chẳng phải lý nhứt tâm chớ gì?

Lại kinh Phật Danh nói: “Một phen nghe danh hiệu Phật, diệt vô lượng kiếp sanh tử trọng tội”. Một phen nghe thời chẳng đợi xưng niệm. Vô lượng thời chẳng những tám mươi tức kiếp. Nhơn càng hẹp mà quả càng rộng chẳng phải lý nhứt tâm, đâu đặng đến bực nầy.

Chỉ lo là lo tâm không đặng nhứt, nào lo tội kia chẳng diệt! 



SỚ:  Cho nên người xưa luận chỗ tri kiến chẳng khắp, nhẫn đến lời biện định tâm, chuyên tâm; bởi vì chỉ đặng Sự nhứt tâm, chớ chẳng phải Lý nhứt tâm. 


SAO: “Tri kiến chẳng khắp” là: Luận Hoa Nghiêm nói đại đạo nhứt thừa, chẳng phải cảnh giới của ông Bồ Tát muốn sanh về Tịnh Ðộ; vì lòng còn chấp Tịnh và Uế nên chỗ tri kiến chẳng khắp. Văn đây nói các vị Bồ Tát ấy chỉ cho những vị vừa đặng Sự nhứt tâm. Nếu đặng Lý nhứt, thời tỏ ngộ một cái Tâm rồi, có gì là Tịnh là Uế? Song tuy biết Lý pháp giới bình đẳng, không chúng sanh nào để độ, nhưng thường tu pháp Tịnh Ðộ để giáo hóa chúng sanh, chính chỗ gọi rằng: “Bực đại đạo Nhứt Thừa vậy”. Với chỗ tri kiến dầu cho khắp đủ, đâu hơn được đây.

Lại đức Phổ Hiền Bồ Tát làm trưởng tử trong hội Hoa Nghiêm chẳng phải bực Nhứt Thừa cảnh giới SAO? Mà còn muốn khi lâm chung diện kiến Phật Di Ðà, vãng sanh về nước An Lạc; rồi cũng nói ngài tình vẫn còn chấp Tịnh và Uế đặng ư?

“Ðịnh tâm, chuyên tâm” là: Ngài Vĩnh Minh nói: “Trong chín phẩm thượng và phẩm hạ chẳng ngoài hai tâm: 1. Ðịnh Tâm: Như tu pháp Thiền Ðịnh và tập quán tưởng, được sanh về bực thượng phẩm thượng sanh. 2.  Chuyên tâm: Như chỉ niệm danh hiệu đặng thành phẩm chót (phẩm hạ).  Nay kinh nầy đã nói rằng:  “Hễ niệm...” Một chữ “hễ” chính chỉ là đặng Sự mà thôi, vì chưa đặng Lý, cớ vậy. 



SỚ: Cho nên biết người xưa nói: “Người ngu cầu tu pháp Tịnh nghiệp đấy; chẳng những không đặng Lý nhứt tâm mà Sự nhứt tâm cũng không đặng nữa”. 


SAO: Vị cổ đức nói: “Có người tham Thiền không thấy linh nghiệm, vội bỏ nhơn trước, mai chiều lần xâu chuỗi cầu tu Tịnh nghiệp. Lại nói niệm mấy tiếng Phật, muốn cho khỏi cây thiết bảng trong tay Diêm La lão tử. Chính là chỗ làm của người ngu”. Thế mà có người chấp lời nói ấy bèn sanh tâm nghi báng. Ðâu có biết, lời ấy là vì người tham Thiền chí chẳng qui nhứt, bèn bỏ việc làm của mình mà nói, chớ chẳng phải chê pháp Tịnh nghiệp. Cho nên chỉ nói: “Người ngu mai chiều lần xâu chuỗi cầu tu Tịnh nghiệp”; chớ không nói người ngu mai chiều Nhứt Tâm Bất Loạn cầu tu Tịnh nghiệp đâu?

Trong Quán Kinh nói: “Hễ ai nghe danh hiệu Phật và hai vị Bồ Tát đặng diệt vô lượng sanh tử các tội, huống chi nhớ niệm”. Nhớ niệm là chỉ cho Sự nhứt tâm vậy. Thế thời đủ biết Sự nhứt tâm đã chẳng phải người ngu, huống chi là Lý nhứt? 



SỚ: Cho nên biết người tu Tịnh nghiệp rồi lại bỏ tu các hạnh khác thời chẳng những chẳng biết Lý nhứt tâm mà Sự nhứt tâm cũng chưa được nữa! 


SAO: Mỗi niệm, mỗi niệm đều niệm Phật, lại không còn tạp niệm, thế gọi là Nhứt Tâm. Nhứt tâm niệm Phật, rồi lại nhứt tâm tu các pháp môn khác, thế là nhị tâm. Vả chăng không tạp niệm đấy, chỉ là đặng Sự nhứt tâm; nay Sự nhứt tâm còn chưa đặng, huống gì là Lý nhứt. Cho nên người niệm Phật giữ chí không hai, chớ nhơn pháp tam muội khó thành mà vội bỏ, tu qua hạnh khác.  Vị tiên Nho (Mạnh Tử) có nói: “Chẳng nên nói cái đạo làm Nhơn khó thuần thục mà đành làm cái đạo khác cho dễ thành”  là nghĩa đây vậy. 



SỚ: Lại bốn chữ đây, nếu giải theo cách Ly và Hiệp thời với Tương Tức nên gọi là Nhứt Tâm, với Tương Phi nên gọi là Bất Loạn. 


SAO: “Tương Tức” là “tức Không, tức Giả, tức Trung” thời như văn trước đã nói. Văn đây: Năng niệm, sở niệm tức có mà không (Bát Nhã), tức không mà có (giải thoát); hai bên chẳng đặng, chính giữa cũng không còn (pháp thân). Ba đức tròn đủ, không thể phân biệt, thế gọi là Nhứt Tâm.

“Tương Phi” là: Giả chẳng phải là không, Không chẳng phải là Giả, Trung chẳng phải là Giả, là Không. Thế thời năng niệm, sở niệm đều vong, thành đức Bát Nhã. Năng niệm, sở niệm đều còn, thành đức Giải Thoát.  Cũng còn cũng mất, hiển bày lý Trung Ðạo, thành đức Pháp thân. Ba đức rõ ràng không đặng lộn lạo, thế gọi là Bất Loạn. 



SỚ: Lại Nhứt Tâm Bất Loạn đây, cũng phân ra năm giáo. Nay không nói là do vì chính chỉ về Ðốn giáo và Viên giáo.

 

SAO: “Cũng phân năm giáo” là: Do vì hoa sen phân làm chín phẩm thời Tiểu, Ðại, Thiển, Thâm tự có sai khác (nhiều bực), như Tiểu thừa giáo nói: “Bởi do tâm tạo nghiệp lành mà cảm hiện cảnh Tây phương trước mặt là nhứt tâm”.

Thỉ giáo nói: “Cảnh Tây phương do thức A Lại Da biến ra là nhứt tâm”.

Chung giáo nói: “Thức và cảnh như mộng, chỉ có Như Lai Tạng là nhứt tâm”.

Ðốn giáo nói: “Nhiễm, tịnh đều bặt là nhứt tâm”.

Viên giáo nói: “Tổng gồm vạn hữu tức là nhứt tâm”.

Nhưng đức Phật Thích Ca nói kinh đây vốn vì kẻ hạ phàm chúng sanh: hễ niệm danh hiệu Phật kia liền lên bực Bất Thối thẳng đến thành Phật, chính thuộc về Ðốn giáo, Viên giáo. Lại kinh nầy nói hột giống Nhị thừa không sanh, cho nên bớt ba giáo trước, chẳng còn phân làm năm. Với Thiên Thai nói bốn giáo cũng lệ như trên đây. 



SỚ: Lại kinh đây: Sự và Lý đều trì niệm, trong Luận Khởi Tín có đủ ý đây. 


SAO: Trong Luận kia nói: “Chuyên niệm Phật A Di Ðà liền đặng vãng sanh đấy”. Ðây là gồm cả Sự và Lý mà nói vậy. Kế nói: “Nếu niệm cái Chơn Như Pháp thân của Phật kia”, lại nói: “Tuy niệm cũng không năng niệm nào có thể niệm”; đều là chỉ cho Lý Nhứt tâm vậy. 



SỚ: Lại văn đây, Sự và Lý đều trì tức là Hiển Mật hai ý. 


SAO: Bốn chữ danh hiệu (A Di Ðà Phật) toàn là tiếng Phạm; chỉ niệm không quên thời cùng với phép trì chú cũng đồng, thế gọi là Mật (Mật giáo).  Vừa niệm vừa tham, quán tâm xét lý, thế gọi là Hiển (Hiển giáo). Chỗ lập môn có chút khác, nhưng chỗ qui nguyên thì đồng: Hiển, Mật viên thông,  Sự, Lý không ngại vậy. 



SỚ: Lại kinh đây Sự và Lý đều trì tuy văn trước rõ phân chỗ thắng và liệt. Nhưng có người chuyên về Sự, có người chuyên về Lý; cơ kia cũng lẫn thông, bất tất gì nghi ngại. 


SAO: Văn đây: Chỉ e những người mới vừa được sự niệm, họ tự nghi rằng: Lý tánh chẳng rành, e chỗ làm của mình vô ích chăng? Cho nên văn đây nói: Sự đặng thời Lý thông để quyết tâm nghi của người kia.

Chương Ðại Thế Chí Viên Thông nói: “Cứ giữ pháp niệm Phật đây, chẳng cần phương tiện khác, tự đặng tâm tỏ ngộ”. Ngài Không Cốc nói: “Khi niệm Phật không cần tìm coi Phật ấy là ai, cứ như vậy thuần nhứt niệm đi cũng có ngày tỏ ngộ”, thật vậy.

Lại e những người chỉ cần lý niệm, họ tự nghi rằng mình niệm danh hiệu Phật ít hoặc đến nỗi lạc về chỗ không chăng? Cho nên văn đây nói: Lý đặng thời Sự thông để giải quyết tâm nghi người kia. Mỗi niệm mỗi niệm đều là Lý nhứt, thế là mỗi niệm mỗi niệm đều là Phật Di Ðà vậy. Thế thì pháp niệm xưng danh hiệu kia chẳng phải lớn SAO?

Thế cho nên: Pháp Nhiếp tâm và pháp Thể tâm, hai pháp niệm Phật vì sự lý lẫn thông, vốn chẳng hai vậy.


         

          SỚ: Lại kinh đây, Sự và Lý đều trì, hoặc tiệm, hoặc tấn, hoặc đốn nhập cũng tùy cơ không nhứt định. 


SAO: “Tiệm tấn” là: Những người căn hơi độn, trước phải cần về sự trì, sau mới dần dần xét đến lý.

Nếu người căn tánh đại lợi, thẳng tới chỗ lý trì gọi là đốn nhập; chỗ tác dụng có khác chút, nhưng đến chỗ thành công thì là vẫn đồng một. 



SỚ: Lại dưới câu “nhứt tâm bất loạn” có bản kinh thêm câu chuyên trì danh hiệu ... hai mươi mốt chữ. Văn đây chẳng dùng do vì văn nghĩa chẳng thành, nhưng y theo bản xưa, không thêm. Mà dùng cái ý câu "tức thị đa thiện phước", lời ngoài bổ vào, chắc có lẽ như vậy. 


SAO: “Văn nghĩa không thành” là gì?  Văn trên đã có câu chấp trì danh hiệu bốn chữ, không nên viết thêm một câu chuyên trì danh hiệu nữa. Bởi vì trên dưới trùng lặp, không thành văn nghĩa.

Lời cựu truyền 21 chữ đây là thấy khắc trong bản đá ở đất Tương Dương. Nên biết 21 chữ đây là lời giải kinh của người thuở trước mà bản kinh đất Tương Dương khắc lầm vào lời chánh văn, viết lộn không phân biệt đấy, những người thạo văn nghĩa sẽ tự thấy đặng.


 

SỚ: Xứng lý thời tự tánh chẳng phải nhớ, chẳng phải quên là nghĩa “chấp trì”. Chẳng phải nay, chẳng phải xưa là nghĩa “bảy ngày”; chẳng phải một, chẳng phải nhiều là nghĩa “nhứt tâm”. Chẳng phải định, chẳng phải loạn là nghĩa “bất loạn”. 


SAO: Tự tánh vốn không sanh, không diệt, đâu có nhớ, đâu có quên.  Tự tánh thể bặt quá khứ vị lai, lấy gì thành nay, thành xưa. Một cũng chẳng phải một, nhiều lại nào còn. Ðịnh cũng không tướng định, loạn đem gởi vào đâu? Rõ đặng như vậy, trọn ngày niệm Phật, trọn ngày niệm tâm; trọn ngày niệm tâm là trọn ngày không niệm; tức tâm tức Phật, chẳng phải, Phật chẳng phải tâm; thế mới gọi là người chơn niệm Phật vậy. 



Thi người đó đến lúc lâm chung đc Pht A Di Ðà cùng hàng Thánh Chúng hin thân  trước người đó.



SỚ: “Người kia” là chỉ người tu pháp trì danh niệm Phật. Nương văn trên nói: Hễ được nhứt tâm bất loạn thời đến khi sanh mạng sắp cuối cùng, Phật ắt hiện trước mặt; do vì nhờ sức mình với sức Phật lẽ cảm ứng lẫn nhau như trong hai bộ kinh và các kinh nói. 


SAO: “Sức mình” là: Phàm người khi mạng chung, lúc thân tiền hữu sắp mãn, thân hậu hữu chưa sanh thời cả đời bình sanh làm việc ác hay việc thiện, tự nhiên bây giờ nó hiện ra trước mặt, như: việc thập ác, việc ngũ nghịch thời tướng địa ngục hiện ra trước; xan tham tật đố thời tướng ngạ quỉ hiện ra trước. Nhẫn đến tu ngũ giới, thập thiện thời cảnh nhơn thiên hiện ra trước.  

Nay người chuyên về niệm Phật, nhứt tâm bất loạn thời tịnh niệm thành tựu. Trong tâm thanh tịnh, lẽ nào Phật không hiện ra trước mặt ư?  Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật, niệm Phật hoặc hiện đời, hoặc đời sau, quyết định thấy Phật”, chắc vậy.

“Sức Phật” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta làm Phật, trong 10 phương vô ương số thế giới các vì chư Thiên, nhơn dân, ai có phát tâm Bồ Ðề tu các việc công đức, nguyện sanh về trong cõi của ta thời đến khi mạng chung, ta cùng đại chúng hiện ra trước mặt người đó để dẫn về nước”.

Trong bài văn Tam Bối Vãng Sanh, lại nói: “Người kia khi mạng sắp chết, Phật cùng các vị thánh chúng đều đến rước về”. Trong Quán Kinh, văn Cửu Phẩm, hoặc nói Phật A Di Ðà đến trước người tu kia, hoặc nói đến chỗ người kia, đều là cái ý hiện ra trước mặt vậy.

Nói các kinh là: Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức nói: “Nếu có người được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ Như Lai, nhứt tâm tin muốn, người đó khi mạng chung, Phật A Di Ðà cùng các vị tỳ kheo hiện ở trước người đó; ma nó chẳng dám phá hoại cái tâm chánh giác người kia”.

Lại kinh Cổ Âm Vương nói: “Trong tứ chúng (1), hoặc có người nào hay chơn chánh thọ trì danh hiệu Phật kia. Ðến khi mạng chung, Phật A Di Ðà liền cùng với đại chúng hiện ra ở trước mặt người đó, khiến cho người đó được thấy”. Lại Kinh Hoa Nghiêm quyển 46 nói: “Ðức Như Lai có 10 món Phật Sự: 1. Nếu có chúng sanh nào chuyên tâm nhớ niệm thời Phật hiện trước mặt người đó” v.v... Chính chỗ gọi rằng: chúng sanh niệm Phật, Phật rước cả không bỏ sót một ai.  Nếu y theo kinh Bát Nhã thời sức mình lại có hai nghĩa: 1. Sức mình niệm. 2. Sẵn có sức Phật tánh của mình và thêm nhờ sức của Phật nguyện rước, mới thành ba sức. “Sức sẵn có” là như chiếc thuyền. Sức niệm Phật là như buồm chèo. Sức Phật nguyện rước là như gió xuôi. Ba việc đủ trọn, ắt chóng lên bờ kia. 



SỚ: “Phật và các vị thánh chúngg là: Phật gồm cả Báo thân và Hóa thân; thánh chúng gồm luôn các vị Bồ Tát, hàng Thanh Văn ... 


SAO: “Gồm Báo thân, Hóa thân” là: Trong Quán kinh nói rõ về Phật hiện. Trước nói thân Phật cao 60 vạn ức; kế nói thân một trượng sáu; thứ nữa thì nói người sanh về phẩm hạ, vị Hóa Phật đến rước. Thế thời biết người sanh trong chín phẩm, chỗ thấy Phật chẳng đồng. Trong Nhiếp Luận cũng nói: “Bực Ðăng Ðịa mới thấy được ông Phật Báo thân lần hồi mỗi địa càng thấy thân Phật càng nhỏ nhiệm”. Kinh đây chỉ nói Phật hiện chớ không phân ông Phật Báo thân hay ông Phật Hóa thân, do vì nói một gồm nhiều.

“Gồm các vị Bồ Tát, Thanh Văn” là như trong Quán kinh văn Thượng Phẩm Thượng Sanh, nói: “Phật cùng Quan Âm, Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm nghìn bí sô, Thinh Văn đại chúng, vô lượng các đức chúa trời hiện ra trước mặt người đó”. Nhưng cũng có người niệm Phật mà Phật không đến rước để các vị Bồ tát đến rước đấy. Văn đây theo phần nhiều Phật rước. 



SỚ: Hỏi: Cơn lâm chung Phật hiện ra trước, cũng có ma hiện chăng? Ðáp: Người xưa đã nói không ma; dẫu hoặc có đó quí tại tự mình biện rành biết lấy. 


SAO: “Không ma” là: Riêng tu một pháp thiền định ma ngũ ấm nó nổi lên như trong Lăng Nghiêm, trong Chỉ Quán và các kinh, luận phân biện việc ma rất rành. Kinh đây nói người niệm Phật nhờ sức oai thần của Phật, sức bản nguyện của Phật trong hào quang lớn của Phật che phủ, quyết không có việc ma nó phá. Song cũng có người nghiệp chướng đời trước sâu dày, hoặc không khéo dụng tâm để cho có ma nổi lên, chưa chắc có thể quyết định được, phải phòng biện rành biết lấy.

Như trong kinh, luận nói: “Người tu thấy Phật muốn biện bạch biết cho rành thời có hai phép như đây: 1. Thấy Phật hiện mà không hiệp với trong kinh, luận thì đó là ma sự; 2. Không hiệp với chỗ tu của mình thì đó là ma sự. Sở dĩ vì SAO? Do vì với người riêng tu pháp thiền định thời gốc chỗ tu nhơn là duy nhận có tự tâm, chớ không nhận có nương nơi cảnh; cho nên ngoài tâm có Phật hiện, điều đó thôi không cần luận, do vì quả chẳng hiệp nhơn. Kinh nầy nói người niệm Phật, một đời nhớ Phật, cơn lâm chung thấy Phật, nhơn quả phù hiệp, đâu đặng cho là ma sự ư?

Nếu mà người chưa đặng rõ quyết Phật hay là ma được thì phải như hai phép trước kia để biện biệt xét biết mà thôi. Hỏi  Ðã nói rằng không ma thời ắt là thiệt Phật. Mà SAO tôi nghe người xưa nói Phật không khứ không lai, nay vì lẽ gì có Phật hiện ở trước mặt người kia? Ðáp: Với cái đạo lý cảm ứng nó liên lạc lẫn nhau, cũng chẳng ngại gì. Với lẽ không lai mà lai, không thấy mà thấy. Cho nên ngài Vĩnh Minh bảo rằng: “Như huyễn chẳng thật thời tâm và Phật đều quên; nhưng tướng huyễn chẳng không thời không hoại tâm và Phật”. Lại nói: “Ông chơn thật pháp thân vốn không sanh không diệt.  Song từ nơi chơn Phật mà phát khởi ra ông Phật Hóa thân để dẫn dắt người si mê. Ðây chính là công đức bản nguyện của Như Lai, khiến những chúng sanh nào có duyên kia, chuyên tâm tưởng niệm, hay ở trong tự tâm mình thấy Phật đến rước; chẳng phải chư Phật thiệt có sai vị Hóa thân đến rước”.  Thế thời với thân Phật vẫn thường vắng lặng mà chúng sanh thấy có khứ, có lai như hình trong gương, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, như việc trong mộng, chẳng có chẳng không. 

Lại trong kinh Pháp Hoa nói: “Do chúng sanh muốn cho được thân Phật hóa độ thời đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật ra để vì thuyết pháp cho nghe”, cũng ý đây vậy. Cho nên hễ có nước trong thời trăng tự đến, tâm thanh tịnh thời Phật tự hiện. Chỗ gọi rằng cảm ứng đạo giao, khó nghĩ, khó bàn. 



SỚ: Nên biết khi lâm chung, thiết một tượng Phật và trợ niệm. Văn đây chép trong kinh Phật, phép đây truyền ra từ bên nước Tây vức; không nên nghi ngại. 


SAO: Kinh Hoa Nghiêm quyển 15, lời tụng nói: “Hễ thấy có người lâm chung thì ta khuyên họ niệm Phật. Lại trương tượng Phật cho họ xem kính; khiến người đó đối với Phật rất sanh tâm qui ngưỡng theo Phật cho nên đặng thành hào quang ấy”. Lời SỚ nói: “Phép bên Tây Vức có người khi muốn bỏ sanh mạng, dạy họ trở mặt về hướng Tây; ở trước để một tượng Phật đứng, tượng kia cũng trở mặt về hướng Tây. Dùng đảnh phan treo trên tay tượng, bảo người bệnh tay nắm đuôi phan, tưởng vãng sanh theo Phật, và bao nhiêu người cùng đốt hương, đánh chuông trợ niệm danh hiệu Phật. Chẳng những vong giả được sanh về trước Phật, mà cũng trọn thành thấy được Phật quang. Nếu với người xuất thần dạo đi các cõi, đi ở tự tại không ngăn ngại, đó là bực siêu phàm để ngoài lời luận. Còn hoặc người chưa được như vậy thời phải gắng gổ làm theo trên đó. Nghĩa là riêng vì trương tượng Phật để trợ việc vãng sanh; huống chi người kia nhứt tâm bất loạn, cảm Phật hiện ra trước mặt; chớ lo là ma sự mà tự sanh tâm nghi ngại không nên! 



SỚ: Xứng lý thời tự tánh vọng cùng, chơn lộ là nghĩa “cơn lâm chung Phật hiện”. 


SAO: Vọng tâm chưa hết thời mờ mờ mịt mịt; đó là cái nghĩa “mạng căn chưa đoạn”. Mê hoặc dứt, chấp trước không, tình lự tiêu, vọng kiến hết tỷ như người chết nhà hư, khói tắt tro bay là cái nghĩa “mạng chung” đấy. Các cái mê vọng hết rồi, không chơn còn đợi gì nữa? Bấy giờ dẫu cầu Phật đừng hiện ra trước mặt cũng không thể được vậy. Song mà lòng từ của Phật vô hạn đâu đợi cơn lâm chung mới là hiện ra trước. Thế cho nên có câu:  "Luôn luôn hiện trước kẻ thời nhơn mà kẻ thời nhơn tự chẳng biết". 



Người đó lúc chết tâm thn không điên đo, lin được vãng sanh v cõi nước Cc Lc ca đc Pht A Di Ðà. 



SỚ: Văn trên nói chữ "lâm" đấy là mạng gần muốn thác. Văn đây nói chữ "chung thời" chính là nói cái lúc hơi ấm trong mình sắp hết, thần thức đi ra. Tâm chẳng điên đảo là do vì nhứt tâm bất loạn nên chẳng điên đảo. Do vì không điên đảo nên chẳng sanh về chỗ khác. “Liền đặng” là nói sự vãng sanh rất mau chóng. 


SAO: Ðiên đảo là do người kia khi bình nhựt thuận theo thói vọng tưởng, không tu chánh niệm, tâm nhiều tán loạn. Như văn trước đã nói: Lúc sắp bỏ hơi ấm thời một đời chỗ làm lành hay dữ; bấy giờ đều hiện ra trước mặt; tâm thần lo sợ trăn trở mò mằn co cúm. Người đáng vào trong địa ngục thời tự thấy đối với núi đao, rừng kiếm, lại xem là vườn huê kiểng (vui thích). Người đáng đọa trong loài súc sanh thời với bụng ngựa thai lừa lại nhận là nhà cửa. Dầu cho người làm lành, được sanh cõi người hay cõi trời đi nữa, nhưng cũng chưa khỏi cái khổ: ghét, thương, cha, mẹ (4); nhẫn đến bực Tiểu Thánh sơ tâm còn chưa chính biết được chỗ xuất nhập nên chi gọi rằng điên đảo. Nhơn điên đảo đấy nên phải tùy nghiệp thọ sanh trong 3 cõi, 7 thú.

Nay kinh nầy nói: Ðã nhứt tâm bất loạn thời trong sẵn chánh niệm, ngoài cảm Phật rước; bỏ báo thân nầy liền sanh về nước kia như lời Phật dạy: "Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh". Lại nói tất cả quốc độ duy có tâm tưởng kềm giữ. Trọn thành tâm tưởng thanh tịnh thời ắt đặng vãng sanh, hẳn không nghi ngờ gì nữa (không sợ sanh về chỗ khác).

“Sanh về chỗ khác” là có ba chỗ: 1. Thế giới Ta Bà đây;  2. Cõi nước Phật khác; 3. Chỗ biên địa nước kia; nay đều lựa bỏ ra đó. Chữ “tốc” nghĩa là Mau, là không trải qua thân trung ấm, không cách ngày giờ, nên trong Quán Kinh nói: “Như trong khi đờn chỉ đã sanh về nước Cực Lạc kia rồi”.

Lại ngài Trí Giả nói: “Cơn lâm chung mà tâm vẫn ở trong định, tức là cõi tịnh độ. Khi tâm nó động niệm tức là liền sanh về cõi tịnh độ”. Chỗ nói “tâm ở trong định” là: Kinh nầy nói “tâm chẳng điên đảo” vậy. Chỗ nói “tâm nó động niệm” là  sau đó nguyện được sanh về nước kia. 



SỚ: Kinh Ðại Bổn nói: “Thân thể của người ở bên nước Tịnh Ðộ, chẳng phải như thân thể của người ở cõi đời này và cũng chẳng phải như thân thể của chúng ở trên cõi trời, mà là thân thể ấy đều là những đức chứa các việc lành nên tự nhiên cảm đặng cái thân thể nhẹ nhàng, bởi hóa sanh trong hoa sen, cũng không có người nhũ dưỡng”. 

   

SAO: “Chứa các việc lành” ấy tức là các thân thành tựu bằng đa thiện căn, đa phước đức, chẳng phải như do tâm ái dục làm nhơn, cảm quả thân bằng tứ đại làm thể; cho nên chẳng do thai ngục mà là gá chất nơi ao sen thất bảo vậy. “Cũng không có người nhũ dưỡng” ấy nghĩa là tự nhiên khôn lớn, không phải như bên đất Bắc Cu Lô Châu còn đợi để đầu ngón tay ra sữa mà làm sự nuôi nấng. 



SỚ: Do chỗ "nhứt tâm bất loạn” trên thì với những người được vãng sanh kia phân ra làm cái nhơn tam bối cửu phẩm. Lại chín chắn phân tách ra cũng là vô lượng. 


SAO: “Tam cửu” là kinh Ðại Bổn nói tam bối, kinh Thập Lục Quán nói cửu phẩm, do nhứt tâm phân ra có sự và lý. Sự lý cũng lại phân mỗi cái có Thắng và Liệt. Sau khi được vãng sanh đúng như chỗ căn bổn là cái nhơn tu đó mà chia làm phẩm vị.

“Tam bối” là như kinh Ðại Bổn nói: Bực thượng bối là do những người phát tâm Bồ Ðề chuyên niệm Phật A Di Ðà tu các việc công đức và nguyện sanh về nước kia. Ðến khi mạng gần thác, Phật và các hàng thánh chúng hiện trước mặt người đó; người đó liền ở trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh, trụ bực bất thối chuyển, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại. Chỗ ở thì là các cung điện bằng bảy báu ở giữa hư không, cách Phật rất gần”. Thế gọi là: người sanh bực thượng bối; phối hợp với văn trước thời bực này đặng cả sự và lý nhứt tâm.

Bực trung bối là những người không thể tu các công đức lớn mà cũng phát tâm Bồ Ðề, chuyên niệm hồi hướng. Khi mạng chung sanh về cõi kia, công đức trí huệ sút hơn bực thượng bối; thế gọi là người sanh bực trung bối. Phối hợp với văn trước thời bực này vừa đặng sự nhứt tâm có dư, nhưng với lý nhứt tâm thời chưa đủ.

Sanh bực hạ bối là những người không thể làm các việc công đức, nhưng cũng phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm nhẫn đến mười niệm, được sanh về cõi kia; nhưng cung điện thì chỉ ở trên đất, lại sút hơn bực trung bối; thế gọi là người sanh bực hạ bối. Phối sánh với văn trước thời bực nầy chỉ đặng sự nhứt tâm, chớ chưa đặng lý nhứt tâm.

“Cửu phẩm” là trong Quán Kinh có nói: Với trong ba phẩm thượng, có người sanh về cõi kia liền đặng trăm nghìn pháp Ðà La Ni; có người sanh về cõi kia phải trải một tiểu kiếp mới đặng bực vô sanh nhẫn, có người sanh về cõi kia, còn phải trải ba tiểu kiếp mới đặng bách pháp minh môn, trụ nơi bực Hoan Hỉ địa. So sánh với văn trước thời phẩm nầy được cả sự và lý nhứt tâm; nhưng có cao và thấp cho nên thành ba phẩm; đây đồng như bực thượng bối.

Với trong ba phẩm trung, có người sanh về nước kia liền đặng quả A La Hán; có người sanh về nước kia đến nửa kiếp mới đặng A La Hán; có người sanh về nước kia, trải một kiếp mới đặng quả A La Hán. Phối với văn trước thời ba phẩm nầy với sự nhứt tâm đầy đủ, Lý nhứt tâm còn kém thiếu, cũng có cao và thấp, nên thành ra ba phẩm. Lệ nầy đồng như bực trung bối.

Với trong ba phẩm hạ, có người sanh về nước kia, phải trải 10 tiểu kiếp mới đặng vào bực Sơ địa; có người sanh về nước kia trải đến sáu kiếp hoa sen mới nở, phát tâm vô thượng đạo; có người sanh về nước kia, 12 đại kiếp mới phát tâm bồ đề; phối với văn trước thời 3 phẩm nầy chỉ có sự mà không có lý; cũng do cao thấp nên thành ra 3 phẩm; lệ như bực hạ bối.

“Chín chắn phân ra” là như trong văn trước nói: Trong bối phẩm phân ra lại phân ra thời có trăm nghìn vạn ức vô cùng Bối và Phẩm, đều là do sự nhứt tâm và lý nhứt tâm chỗ đặng có cao và thấp mà làm ra có thứ lớp nhiều thế. 


        

SỚ: Như trong Quán Kinh nói: “Bực thượng phẩm thượng sanh là bực người đã đặng quả vô sanh nhẫn”. Ngài Thiên Thai phán ra cho thuộc về bực Sơ Ðịa, mà kinh Hoa Nghiêm nói: “Với quả vô sanh nhẫn tự có bực thấp và cao”. Thời trong phẩm thượng thượng thật có nhiều phẩm; huống nữa là các phẩm trung và hạ kia! 


SAO: “Thấp cao” là Kinh Hoa Nghiêm nói bực Bát Ðịa trong phần Tịnh Nhẫn, lời SỚ nói: “Bực Vô Sanh Nhẫn lược có hai nghĩa: 1. Ước về pháp; 2. Ước về hạnh. Ước pháp thời những cái lý vô khởi tác đều gọi là Vô Sanh; tâm huệ an trụ trong lý đó nên gọi là nhẫn. Ước hạnh thời Báo thân giới hạnh thuần thục, trí hiệp với lý, không trụ nơi vô tướng, không chấp nơi vô công, rộng rãi như hư không, lặng trang như biển đứng; tâm thức vọng hoặc, bặt hết không khởi, mới gọi là Vô Sanh”. Thuyết trước còn chung các địa, thuyết sau chỉ riêng về Bát Ðịa; còn bao nhiêu như trong lời tự quyển trước đã có biện.

Cho nên biết bực Vô Sanh Nhẫn tự có thấp và cao, thời trong phẩm thượng thượng từ bực Nhứt Ðịa nhẫn đến bực Bát Ðịa đã trùm nhiều phẩm.  Với các phẩm kia khá biết vậy nên chín chắn phân ra cũng đến vô lượng. 



SỚ:  Lại tam bối cửu phẩm, hai kinh phối nhau thời mỗi thuyết có chút khác. Như ngài Phụ Chánh chỗ giải dung thông. 


SAO: Trong Quán kinh lời SỚ nói: “Kinh đây nói cửu phẩm vì khiến cho biết phẩm vị có cao và có thấp, tức kinh Ðại Bổn nói tam bối”.

Ngài Cô Sơn nói: “Tam bối trong Ðại Bổn chỉ ngang với sáu phẩm về trước trong Quán kinh. Vì tam bối thuần nói người hành thiện, không nói đến người ác vậy”. Ngài Linh chi phân tam bối chỉ đối với ba ngành phẩm thượng; cho nên nói: “Các thuyết có khác nhau chút đỉnh”.

Ngài Thảo Am Phụ Chánh giải rằng: “Ngài Thiên Thai nói chín phẩm đồng với tam bối là so về ngôi thứ đồng nhau, chớ không phải nói bằng cách so về hạnh nhơn (cái nhơn tu). Thời ngài Cô Sơn, ngài Linh Chi đều không trái với ngài Thiên Thai. Sở dĩ vì SAO? Do ngài Thiên Thai chỉ ước về ngôi thứ thời bối phẩm ngang đồng. Còn hai ngài kia chỉ ước về hạnh nhơn thời chỉ bằng ngang với phẩm trung, phẩm thượng. Ngài nào cũng đều có chỗ chứng cứ, nhưng dùng nghĩa chẳng đồng; cho nên chẳng trái vậy”. Song chắc thật mà luận thời tâm phiền não chẳng khác tâm bồ đề, trước ác nào ngại gì sau thiện, người ác đã trở thành người thiện, đâu chẳng phải đồng bực với thánh hiền? Tam bối cửu phẩm phối hiệp ngang nhau, không chi phải nghi hết. 



SỚ: Lại kinh Hoa Nghiêm nói: “Người niệm Phật ‘số’ cùng ‘tâm’ bằng nhau” ... tức là nghĩa tam bối, cửu phẩm tùy gốc tu nhơn chẳng đồng. 


SAO: “Số, tâm bằng nhau” là: Kinh Hoa Nghiêm quyển 23, ngài Ly Cấu Tràng Bồ Tát nói lời kệ rằng: “Như người tu pháp trì danh, lấy Phật làm cảnh giới, chuyên niệm mãi không thôi, thời người đó được thấy Phật. Số, cùng tâm kia bằng nhau” ... Giải rằng: Số cùng đồng bực với tâm nghĩa là tùy niệm tùy hiện. Tùy niệm có hai nghĩa: 1. Tùy niệm nhiều ít, Phật hiện cũng in như đó. Như niệm Phật một tiếng, có một vị hóa Phật từ trong miệng bay ra v.v... 2. Tùy niệm cạn, sâu thời Phật hiện cũng xứng đó, như cơn lâm chung thấy Phật, có thắng, có liệt v.v... Nhiều, ít, cạn, sâu, tức bối, phẩm phân biệt.  “Người ấy được thấy Phật” tức là đức Phật A Di Ðà hiện ở trước mặt người đó. “Chuyên niệm” là gì? Tức là nhứt tâm bất loạn. 



SỚ: Lại ngài Chí Nhãn nói hai món tịnh nghiệp cũng là nghĩa tam bối, cửu phẩm. 


SAO: Ngài Chí Nhãn pháp sư nói: “Một môn vãng sanh đây có hai pháp tịnh nghiệp: 1. Pháp chánh quán thầm soi trong bản tâm của mình. 2. Pháp trợ hành: làm đủ muôn việc lành. Hai việc đều đặng thời rõ thấu bốn cõi tịnh độ.

Như người chỉ làm đặng sự thiện, gần thời sanh về cõi Ðồng Cư, còn xa thì làm cái nhơn cho ba cõi kia. Cho nên biết cõi Tịnh Ðộ chính là cảnh giới của ông Cứu Lý Bồ Tát đi lên; mà cũng là gồm chứa chúng sanh ngơ ngơ nữa (Cứu Lý: Ðắc pháp niệm Phật bằng lý nhứt tâm. Ngơ ngơ: Cái nhơn còn xa).

Lại nói rằng: Bực viên cơ thể đạo (rõ đạo) là phép tịnh nghiệp tối thượng. Nếu thêm lời nguyện để dắt đường thời liền được dự hàng ưu phẩm (phẩm thượng). Còn những chúng tối dốt, chỉ niệm Phật phát nguyện thì cũng được sanh về. Xem một môn Tịnh Ðộ thời vị thánh nhơn không bỏ một ai cả.

Xét câu nói: “Pháp chánh quán” thời thông cả phẩm thượng, phẩm trung. Câu nói: “Pháp trợ hành” thời đồng cả phẩm trung phẩm hạ. Lại ngài pháp sư làm lời luận đây rất đúng; kẻ xem đến chớ nên khinh thường. 



SỚ: Có người hỏi: Với chín phẩm mà tám phẩm dưới từ trong hoa sen hóa sanh ra do vì phẩm thứ nhứt nói kim cang đài. Nay tham hiệp theo các kinh luận thời kinh luận nào cũng vẫn nói cả chín phẩm đều thuộc về hoa sen sanh ra. 


SAO: Chấp rằng tám phẩm dưới đều từ hoa sen sanh là họ căn cứ trong Quán kinh văn thượng phẩm thượng sanh nói: “Người kia tự thấy thân mình ngồi trên đài kim cang”, bởi trong đó không có hai chữ “liên hoa”, đó là phẩm thứ nhứt. Cho nên họ nói tám phẩm sau mới là từ trong hoa sen sanh ra. Song trong kinh luận đã nói đành rành, đều nói rằng người sanh Tây phương, cả chín phẩm đều từ hoa sen mà sanh ra kia mà; kêu bằng "cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu...”

Kinh Ðại Bổn ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Vô ương số thế giới chư thiên nhơn dân nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động, hễ sanh về trong cõi của ta thì đều ở giữa ao thất bảo, trong hoa sen hóa sanh”. Nói chữ Giai (đều) thời gồm cả chín phẩm nốt. 

Lại nói các bực đại Bồ Tát phương khác, muốn thấy Phật A Di Ðà thì ở nước kia trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh; nói bực Ðại Bồ Tát thời ắt không phải phẩm trung, phẩm hạ.

Lại nói người đặng sanh bực thượng bối kia, khi mạng muốn thác, Phật cùng các vị Thánh Chúng đều đến rước về. Người kia liền ở trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh. Nói bực thượng bối tức là đối ngang với bực thượng phẩm, đều không có cái ý rằng bực tối thượng chẳng có hoa sen? Lại kinh Pháp Hoa nói: “Người nghe kinh điển này, y như lời nói trên đây mà tu hành, khi mạng chung liền sanh về Cực Lạc thế giới. Phật A Di Ðà có các vị Bồ Tát vây đoanh chỗ ở; người ấy trong hoa sen sanh ra đặng bực Bồ Tát có thần thông, vô sanh pháp nhẫn”.

Xét rằng: Ðặng bực vô sanh nhẫn chẳng phải bực thượng thượng phẩm chớ gì?

Lại phẩm hạnh nguyện, đức Phổ Hiền Bồ Tát dùng 10 lời đại nguyện vương để dắt về nước Cực Lạc, mà nói rằng: “Cõi Phật kia chúng hội đều thanh tịnh;  ta bấy giờ ở trong liên hoa tốt nhứt sanh ra”. Xét rằng: Ðức Phổ Hiền vãng sanh chẳng phải bực thượng thượng phẩm hay SAO?

Lại kinh Bảo Tích nói các vị Bồ Tát ở bực thập tâm Hồi Hướng, sau đặng vào trong hoa sen hóa sanh. Xét rằng bực thập tâm Bồ Tát chẳng phải bực thượng thượng phẩm hay SAO? Lấy đây nghiệm xét ắt chứng rành.

Hỏi: Quả vậy thời trong văn thượng thượng phẩm, SAO lại nói kim cang đài mà chẳng nói hoa sen? Ðáp: Vì rằng lối hành văn lẫn nhau có và không, chớ nên chấp nhứt. Do đâu biết thế? Bởi văn thượng phẩm trung sanh cũng nói ngồi trên cái tử kim đài đó rồi; lại cũng cho rằng từ bảy phẩm dưới mới có hoa sen sanh hay SAO? Huống chi phẩm trung sắp xuống cũng chỉ nói rằng: “Người ngày khi mạng chung, ví như anh tráng sĩ trong lúc co duỗi cánh tay đã sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới”, trong văn đều thiếu hai chữ hoa sen, rồi lại cũng cho rằng:  6 phẩm dưới mới là từ trong hoa sen sanh hay SAO? Xét rằng: Ðã nói không hoa sen là hơn thời phẩm trung, phẩm hạ là phẩm thua kém, SAO cũng chẳng có hoa sen?

Lại với cái ngành thượng của trung phẩm sắp lên riêng có nói liên hoa đài, thời cái đài đó nó đồng một loại với kim cang đài và tử kim đài chăng? Hay là nó đồng một loại với liên hoa ư? Lộn xộn không thứ lớp, tấn thối không căn cứ; thế rõ biết văn thiếu lẫn mà nghĩa ắt lẫn đủ vậy.

Theo ý hiểu của tôi (ngài Vân Thê) phẩm nào cũng đều có hoa sen tất cả, hoa nào cũng đều có đài tất cả. Nhưng mỗi đài đều chẳng đồng nhau vì có tốt, có xấu, mà cái đài bằng ngọc kim cang thì là cái đài tốt hơn hết đấy thôi.

Như ông Trần Hoài Ngọc ngân đài vừa qua, kim đài nối đến, khá chứng nghiệm vậy. Vả chăng chữ Ðài có hai nghĩa: 1. Chữ đài thuộc nghĩa cơ đài, là cái đài nó ở phía dưới hoa vì nó làm cái nền; như ở đời, người ta chạm tượng Phật, dưới có làm cái bửu đài, trên đài để những cánh hoa, trên hoa để vị Phật, phải vậy. 2. Chữ đài thuộc nghĩa phòng đài; là cái đài nó ở trong hoa, vì hoa bao bọc bốn phía nên gọi là phòng. Như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa lấy hoa sen nêu 10 nghĩa Như. Ðến văn “như thị báo” nói: “Ví như hột sen đều ở quanh giữa cái phòng đài”. Lại nói: “Hột nương ở trong cái đài” thì người đời thường nói tức là cái gương sen, phải vậy (Liên phòng: buồng sen, vì nhốt chứa hột sen).

Lại kinh Hoa Nghiêm văn Thập Ðịa Liên Hoa nói: “Hoa sen kia dùng ngọc lưu ly làm cọng, gỗ chiên đàn làm đài gương, ngọc mã não làm nhụy, tua vàng Diêm Phù Ðàn làm lá cánh”. Thế thì đều có nói cọng sen, gương sen, nhụy sen và cánh sen. Mà kinh Niết Bàn cũng nói: "Ví như cọng, cánh, nhụy, gương hiệp làm hoa sen”; đây chỗ gọi rằng: Phòng đài đều là cái gương sen, tức là ý nghĩa rằng: ngọc báu chân thúc ca làm đài gương sen của kinh Pháp Hoa. Xem đây, thời biết trong Quán kinh về pháp quán hoa tòa, trước dạy: Phải tưởng hoa sen; kế nói lấy ngọc Thích Ca Tỳ Lăng Già làm cái đài sen. Thế là cái đài nầy nó ở trong hoa.

Lại nói mỗi mỗi sắc vàng, mỗi mỗi chỗ biến hóa; hoặc biến làm đài kim cang; hoặc biến làm lưới báu v.v... Thế thời cái đài nầy lại ở dưới hoa.  Cho nên văn thượng phẩm trung sanh trước nói tử kim đài; kế nói dưới chơn cũng có hoa sen bằng thất bảo. Thế thời cái tử kim đài nầy ở dưới hoa đã rõ ràng.

Phàm hoa sen thời ắt có đài (gương), đài ắt có hoa. Nói Kim Cang đài không nói hoa, hay nói hoa không nói đài; văn trước, sau lẫn nhau bày rõ không nên chấp. Nhưng những người đặng sanh lên phẩm thượng thượng, một phen vừa gá vào hoa sen, tức thời hoa nở tức thời thấy Phật, tức thời chứng đạo. Còn các phẩm sau đó thời hoa nở lần lần muộn, thấy Phật lần lần chậm, chứng đạo lần lần cách xa. Lấy đây mà phân biệt thời biết chỉ có phẩm thượng thượng là đặc biệt riêng hơn, nhưng chẳng phải là không hoa sen, vì hễ nói đài thì đã có gồm cả hoa sen rồi.

Nếu chấp rằng: Không hoa sen là hơn, có hoa sen là thua, thế là khi dễ sen vậy! Mà với hoa sen đã là khinh dễ thì SAO còn cầu về nước Liên Bang?  Mà trong pháp quán hoa tòa cũng nói Phật ngồi trên hoa sen thời vị Phật đó cũng là thua hèn ư? Lý đó sẽ nói làm SAO cho thông?

          Hỏi: SAO ngài Tứ Minh có nói rằng: “Chín phẩm nước Cực Lạc, tám phẩm từ hoa sen sanh ra” ư? Ðáp: Ngài Tứ Minh chỉ nói rằng: “Tám phẩm từ hoa sen sanh, chớ ngài chưa nói không hoa sen thiệt là phẩm nào?” Do vì với phẩm trung, phẩm hạ, ngài cũng không nói hoa sen. Nếu quả phẩm thượng thượng không hoa sen thời chắc ngài cũng ắt có nói rành, chớ lẽ nào ngài chỉ mở mối đầu mà rốt cuộc rồi ngài không nói gì hết là SAO vậy?

          Hay là chữ Bát đó là người ta viết lầm cũng chưa biết chừng! Ðâu biết chẳng phải ngài Tứ Minh nói: “Nước Cực Lạc chín phẩm từ hoa sen sanh ra” ư? Ðợi bực cao minh biện lại đó. 


        

          SỚ: Hỏi: Ngoài phẩm hạ, lại có thai sanh, là thiệt có hay không?  Ðáp: Ðó là vì nêu lên cho biết rằng: Người niệm Phật mà sức tin không kiên cố; chớ thiệt không có thai sanh.   

     

SAO: “Không có thai sanh” đó, kinh Ðại Bổn nói rằng: “Ðức Phật Thích Ca bảo đức Di Lặc: ‘Nếu có chúng sanh tu các công đức, nguyện sanh về cõi kia mà không rõ trí Phật, chí ý dụ dự; đến khi mạng chung mới ăn năn lỗi mình. Vì vậy, sanh về cõi kia mới vào đến chỗ biên địa, thấy thành thất bảo, liền ở đó, trong hoa sen sanh ra, cũng có tự nhiên khoái lạc như cõi trời Ðao Lợi nhưng ở trong thành đó trải qua trăm năm không đặng thấy Phật, không nghe kinh pháp, khổ là vậy đó! Nên gọi là thai sanh, chớ không phải thật có thai sanh như cõi nhơn gian nầy vậy đâu. Lại dụ như nhà vua (Sát Ðế Lợi), thái tử của ngài phạm phép bị cầm trong nội cung, ở nhà bằng hoa ngọc, lầu cao điện ấm, đồ ngọc báu trang sức quí tốt rất đẹp, màn báu giường vàng, thức ăn mặc, vật xài dùng thảy đều dư giả, mà lấy dây vàng Diêm Phù buộc xiềng hai chơn, chẳng đặng thong thả; tức dụ như thai sanh vậy.

          Lại nói như người đó biết gốc tội của mình, biết tự hối trách, cầu khỏi chỗ đó, tức đặng về đến chỗ Phật Vô Lượng Thọ.

          Lại trong kinh Bồ Tát Xử Thai nói: “Bên Tây phương cách cõi Diêm Phù Ðề đây 12 ức na do tha, có một cõi tên là Giải Mạn. Quốc độ đó toàn bằng thất bảo, sự vui cõi đó không chi bằng. Bởi móng ý muốn sanh cõi nước của Phật A Di Ðà, nhưng còn bị nhiễm đắm nơi cõi đó, không thể đi tới trước đặng”, cũng là đồng loại với nghi thành và biên địa vậy.

          Thế là người niệm Phật mà lòng nguyện vãng sanh không tha thiết nên mới ra nông nỗi! 



          SỚ: Hỏi: Ðã nói rằng niệm Phật trong 7 ngày nhưng mà với người khi lâm chung chỉ có 10 tiếng niệm Phật thì trong giây phút ít quá, như thế làm SAO được vãng sanh?

          Ðáp: Chính do vì nhứt tâm bất loạn như trong luận Trí Ðộ nói.  Lại nhờ sức mình và sức Phật như trong kinh Na Tiên nói.  

       

SAO: “Luận Trí Ðộ nói”: Chép rằng: “Khi người sắp chết, cái tâm trong giờ phút rất ít đó niệm Phật, SAO cho hơn đặng trọn một đời gắng sức tu hành? Ðáp: Tuy trong thời gian chốc lát, nhưng tâm lực nó mạnh mẽ, tâm rốt sau đó gọi là đại tâm”. Phải biết tâm ấy tức là nhứt tâm bất loạn.

          Kinh Na Tiên nói: “Có ông vua hỏi ngài Na Tiên rằng: ‘Với người cả đời tạo ác khi lâm chung mới niệm Phật đặng sanh về nước Phật, ta chẳng tin lời đó?’ Ngài Na Tiên đáp rằng: ‘Như người rinh một viên đá lớn để ở trên chiếc thuyền; nhờ thuyền đá đặng khỏi chìm. Người tuy trước ác, sau nhơn nhờ niệm Phật khỏi đọa địa ngục mà đặng vãng sanh, cũng lại như vậy”. Thế là tỏ rằng nhờ tâm lực của mình và nguyện lực Ðức Phật, cả hai giúp lẫn nhau mới thành được việc. 



          SỚ: Hỏi: Ðã nói rằng vãng sanh, người xưa lại nói: “Sanh thời quyết định sanh, đi thời thiệt không đi”, đó là có sanh không đi qua. Còn nay đây có đi qua để hóa sanh, thành ra hai nghĩa trái nhau? 

          Ðáp: Do sanh trong tâm mình, cho nên qua bằng cách không phải như chơn bước đi qua nên gọi là “vãng sanh”. Như trong Kinh Hoa Nghiêm lời của ngài Giải Thoát Trưởng giả đã nói. 


          SAO: Kinh Hoa Nghiêm: “Cõi pháp giới trùng trùng, nhưng cũng không ngoài cái tâm”. Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo A Nan rằng: “Mười phương cõi hư không đều ở trong cái tâm của ngươi”. Thế nên biết sanh về nước Cực Lạc tức sanh nơi tự tâm của mình; vì tâm nó không giới hạn thì không Ðông, không Tây, thế thì đi đến chỗ nào? Nghĩa là hình dung ra cái lý: Ðổi uế, làm tịnh, đổi cái cũ thành cái mới, bỏ một đặng một, tuồng như có chỗ qua, kêu đó là “vãng”, đâu phải rằng từ đây đến kia, như cái tướng đi qua của trong thế gian khỏi thành này qua ấp nọ ư?

          Câu “Giải Thoát” là: Kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, ông Giải Thoát trưởng giả nói: “Các đức Như Lai kia, chẳng đi đến cõi nầy, ta cũng chẳng đi đến cõi kia, nhưng hễ muốn nguyện thấy thế giới An Lạc Phật A Di Ðà, tùy ý liền thấy”.

          Ðó đã nói rằng: tùy ý thời không vượt ngoài một niệm, mà đã được sanh sang nước kia. Cho nên biết rằng: Hình dung cái lý đặng sanh kia nên gọi đó là “vãng sanh”, mà thiệt ra không chỗ để qua. Với lẽ “không qua mà qua” cũng không ngại gì nói “có qua”. Xét tột mà luận: Chẳng những không qua, lại cũng không sanh. Với lẽ “không sanh mà sanh” cũng không ngại gì nói “có sanh”.


 

          SỚ: Hỏi: Với trong Nội Viện Ðâu Suất, người xưa cũng nguyện sanh về, nay SAO riêng chỉ nước Cực Lạc? Ðáp: Vì với nhơn tu có khó, có dễ, cảnh chứng có thắng, có liệt, và chủ có thầy có trò.

          Lại hỏi: Thế giới Thắng Liên Hoa rất hơn nước Cực Lạc, SAO lại không nguyện về? Ðáp: Vì nước Lạc Bang ở gần không nên tìm xa. 


          SAO: Ý người hỏi là cho rằng: Ðức Di Lặc cũng hiện tại thuyết pháp, chốn Nội Viện cũng thanh tịnh trang nghiêm, mà không cầu vãng sanh về đó là cớ làm SAO? Ðáp: Có ba nghĩa:

1. Vì cái nhơn tu khó dễ là: Phàm sanh nội viện phải đủ trí đức, đoạn đức (10), có hai công đức đó mới kham dự hàng thánh lưu. Ấy là khó, không bằng nước Cực Lạc: hễ người cầu vãng sanh tịnh niệm thành tựu liền đặng như nguyện, không luận còn hoặc nghiệp, phải có trí, có đoạn gì vì được đới nghiệp vãng sanh; ấy là dễ.

          Xưa ngài Huyền Tráng Pháp sư nói: “Với chốn Nội Viện dễ sanh bởi cõi Ðâu Suất cách cõi nhơn gian số dặm đường có thể tính được; cõi Cực Lạc cách cõi Ta Bà trải qua nhiều cõi Phật!” Ngài Tráng sư kia chỉ luận về dặm cõi, chớ không luận về cái nhơn tu; nay kinh nầy luận nhơn tu, không luận dặm cõi. Mỗi nghĩa đều có chỗ dùng riêng, song luận cho tột lẽ thì lời ngài Tráng sư là vì căn cơ một loại đương thời; còn lời của kinh nầy là cái đạo để muôn đời thường làm.

          2. Cảnh có thắng và liệt là: Chốn Nội Viện không khỏi ở trong tam giớI, còn nước Cực Lạc ra khỏi ngoài tam giới. Chỗ nghi thành của nước Cực Lạc còn không có nữ nhơn, còn sanh về chốn Nội Viện rủi sanh trật ở ngoài thời bị đắm việc vui ngũ dục. Cho nên nói sanh nhằm phẩm hạ hạ là một bực chót của nước Cực Lạc còn hơn trăm lần ở chốn thiên cung.

          3. Chủ, thầy trò là: Phật Di Ðà là bực quả tròn muôn đức đã chứng Như Lai; đức Di Lặc là ông Bồ Tát bổ xứ còn ở bực Ðẳng Giác. Kinh nói trong nước Cực Lạc kia có nhiều vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ thời biết rằng đức Di Lặc sánh ngang với đức Quán Âm, Thế Chí đồng hầu bên vị Ðạo Sư (Di Ðà) cũng như thầy trò vậy. Cho nên đặng thấy Phật Di Ðà rồi tức thấy đức Di Lặc, thấy đức Di Lặc vị tất là thấy Phật Di Ðà vậy. Lại bực cổ đức có nói:  “Trước sanh Tây phương, sau sanh Long Hoa” cũng có lý lắm. Riêng cầu về Cực Lạc, đâu chẳng phải ư?

          Với thế giới Thắng Liên Hoa đã rõ thấy trong văn Thọ Mạng trước.  Nay nói kinh Hoa Nghiêm so luận các quốc độ thời kế sau cõi Ta Bà, tức gọi là nước Cực Lạc; còn xa đó lại càng xa đến trăm vạn vô số thế giới mới nói đến cõi Thắng Liên.

          Thế thời cõi Cực Lạc là nước ở gần, cõi Thắng Liên là nước ở xa lắm.  Dụ như nước Việt mất mùa, nước Ngô đặng mùa; cất bước là tới ngay nước Ngô, thế nhưng bỏ nước Ngô không tới mà đi mến nước quá xa cách như nước Yên, nước Tần thì cũng lầm lắm đó. 



          SỚ: Hỏi: Tôi thấy có người một đời niệm Phật khi lâm chung chưa ắt vãng sanh, là SAO vậy?

          Ðáp: Bởi họ chỉ một đời niệm Phật mà chưa phải là nhứt tâm niệm Phật vậy. 


          SAO: Những bọn lơ lơ một đời niệm Phật đó mặc dầu là không giải đãi nhưng cũng không tinh tấn nên chưa đặng nhứt tâm; thành thử không đặng sanh về. Nếu quả chơn thật dụng tâm mà chưa được thuần nhứt, tuy đời nay chưa đặng vãng sanh nhưng cũng đã trồng cái nhơn vãng sanh, sẽ qua đời sau ắt thành tựu pháp niệm Phật tam muội mà đặng vãng sanh.

          Như trong kinh Phạm Võng nói: “Nay tuy chưa đắc giới mà cũng đặng thêm phần lợi ích cho sự thọ giới đời sau”. Trong Tông môn bảo rằng:  “Ðời sau vừa ló đầu ra chỉ nghe một phần mà biết được một nghìn phần” là nghĩa đây vậy. Dè chớ đổ rằng: Tôi thấy người kia niệm Phật luống nhọc vô ích, rồi chê lời Phật dạy cho là không đủ tin!   


      

          SỚ: Xứng lý thời tự tánh vô hình là nghĩa “bất điên đảo”; tự tánh vô cấu là nghĩa “sanh Cực Lạc Tịnh Ðộ”. 


          SAO: Ðức Lục Tổ nói: “Ta có một vật không đầu, không đuôi, không bề lưng, không phía mặt”; thế thì dù tìm cái tướng ngay của nó còn không thể được, toan lấy cái gì là xiên là lộn ngược mà hòng kêu là “điên đảo” ư?

          Bát Nhã Tâm kinh nói: “Ðấy là cái tướng chơn không của các pháp vì nó bất cấu, bất tịnh", thế thì tìm cái tướng tịnh của nó còn không thể được, toan chỉ chỗ nào để gọi là cõi Ta Bà ư?

          Vậy nay nói chỗ “không điên đảo” đó là toàn thân đã ngồi liên đài nước Cực Lạc. Còn nếu một niệm điên đảo vừa sanh tức thời đã ở ngay quốc độ Ta Bà! Rõ là tâm tịnh độ tịnh; vì tức tâm tức độ, tức độ tức tâm thì Tây phương cách đây chẳng xa.



Xá-Li-Pht! Ta thy có s li ích y nên nói nhng li như thế.

Nếu có chúng sinh nào, nghe nhng li trên đó, nên phi phát nguyn sanh v cõi nước Cc Lc.



          SỚ: “Ích lợi ấy” là chỉ văn trước “thấy Phật đặng vãng sanh”. “Lời đây” là: Thấy lợi lớn nầy nên nói lời nhứt tâm trì danh đây vậy. Người không nguyện sanh về thời riêng phụ lời Phật. Ðây là lớp khuyên thứ hai. 


          SAO: Lời mà không lợi ích, Phật Ngài không nói. Nay pháp trì danh liền đặng vãng sanh đối với chúng sanh có lợi ích lớn nên Phật ngài nói vậy.  Bởi vì đã đặng vãng sanh đó gọi là tự lợi. Sanh về nước kia rồi, nghe pháp đắc đạo, trở lại cõi Ta Bà có thể rộng ra độ nhiều chúng sanh; đó gọi là lợi tha.

          Ðủ hai việc lợi trên, cho nên nói là “lợi lớn”. Lớp khuyên thứ hai là:  ban đầu nói chúng sanh nghe ấy chỉ là đặng nghe nước kia trang nghiêm tốt đẹp nên khởi tâm nguyện muốn, mà chưa biết làm như thế nào để đặng sanh đó (là lớp khuyên thứ nhứt).

          Nay Phật mới chỉ ra cái nguyên do rằng nhứt tâm trì danh thời được Phật đến tiếp dẫn, liền đặng sanh nước kia thời nguyện lại càng thâm, chí lại càng thiết; cho nên nói lớp khuyên thứ hai. 



          SỚ: Lại nữa nói việc lợi là: rõ lại với việc hại bởi không nguyện vãng sanh là chỉ chỗ để ưa và nhàm vậy. 


          SAO: Cõi nầy tu hành trải nhiều kiếp thăng trầm mà chưa chắc đặng giải thoát, nay dùng pháp xưng danh niệm Phật chắc được vãng sanh liền lên bực bất thối; so chỗ lợi chỗ hại rõ như xem chỉ bàn tay. Lợi tức là các việc vui, hại tức là các việc khổ, nên phải có ưa và nhàm. 



          SỚ: Lại chữ "ngã thuyết" (ta nói) chính là rõ về phần giáo có nói rằng không ai hỏi Phật mà ngài tự nói vậy, nên gọi bằng "vô vấn tự thuyết". 


          SAO: Phật thấy lợi ích lớn ấy kíp vì chỉ bày; thế mà còn e các chúng sanh chậm chạp, mất nhờ chỗ lợi; cho nên ngài không đợi ai thỉnh vấn vậy. 



          SỚ:  Xứng lý thời tự tánh cụ túc là nghĩa “lợi ích”. 

        

SAO: Thử xem tự tánh thiếu thốn sự gì? Trên thể Linh Tri (Phật tánh) Phật Di Ðà cùng các thánh chúng cả ngày hiện trước; trong cõi thường Tịch Quang (pháp giới tánh), nước Cực Lạc, cõi Tịnh bang không giờ phút nào chẳng vãng sanh.

          Ngặt vì Phật thấy lợi ấy, chúng sanh như đui. Phật nói lợi ấy, chúng sanh như điếc. Tuy đã nhọc nNgài mỏi miệng cạn lời, nhưng cần phải chính ta một phen tự thấy mới được.



3.  LƯU THÔNG PHẦN



TÍN “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công 

Ðức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh” 



Xá-Li-Pht! Như Ta hôm nay ngi khen công đc li ích chng th nghĩ bàn ca đc Pht A Di Ðà, 



          SỚ: Nói văn trên chẳng những chỉ mình ta thấy lợi ấy và nói lời nầy, mà cả đến 10 phương các đức Phật cũng đồng thấy lợi ấy và nói lời này nữa.

          Chữ TÁN là ngợi khen tột bực; chữ THÁN là quá cảm động phải thán phục!

          Câu “bất khả tư nghì” là trước kia nói ta thấy lợi ấy, nay đây lại cực lực nói cái lợi ấy nữa là không phải nói cái lợi tầm thường đâu. Văn nghĩa gấp ba lần chuyển lên: 1. Chẳng phải vô ích nên nói là lợi. 2.  Chẳng những cái lợi về phước, về sự; cho nên nói cái lợi công đức. 3.  Chẳng những cái lợi chỉ là công đức mà thôi, cho nên nói cái lợi công đức mà bất khả tư nghì nữa.

          Do vì thế nên đức Phật Ngài phải cực lực tán thán, chứ không phải một sự ngẫu nhiên. 


          SAO: “Xưng tán” là tỏ bày khen ngợi công đức quảng đại của Phật kia để cho người ta biết mà qui tín; hầu đặng phần tiếp độ.

          Cảm Thán là quá cảm khích phải than thở, vì nói pháp nầy cõi Nhơn Thiên ít có nên nhiều kiếp khó gặp, là để khiến người vừa thương lẫn mừng.  Hỷ là mừng rằng nay mình đặng nghe. Bi là tủi rằng mình nghe đây rất muộn vậy!

          Câu “bất khả tư nghì” là nguyên tên kinh nầy, nghĩa nó đã thấy trong lời tựa văn trước. Kinh tên “bất khả tư nghì” là chính rằng đức Phật A Di Ðà có đại công đức chẳng khá nghĩ bàn đó vậy.

          “Văn có ba lần chuyển” là: Trong việc lợi gồm nhiều bực dần dần sâu rộng: 1. Cái lợi phước sự là: Tu về phước sự tướng, là vì cái nhơn trong thế gian nên kêu là lợi nhỏ. 2. Cái lợi công đức là vì cái nhơn xuất thế gian nên kêu là lợi lớn. 3. Công đức chẳng nghĩ bàn là vì cái nhơn bực thượng thượng xuất thế gian nên kêu là công đức lớn hơn trong các công đức lớn.

          Số là công đức tuy hơn phước đức và sự tướng, nhưng ở trong đấy lại còn phân ra có hơn có kém: Có thứ công đức còn khá nghĩ bàn, có thứ công đức chẳng khá nghĩ bàn. Nay pháp trì danh đây là công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy, cho nên trong lợi lớn lại nói là lợi lớn hơn! 



          SỚ: Với câu “bất khả tư nghì” như trong kinh Thanh Vương nói:  “Thế giới nước An Dưỡng kia, phàm những gì của Phật pháp đều chẳng khá nghĩ bàn, với pháp thần thông hiển hiện biến hóa chẳng khá nghĩ bàn. Nếu ai có thể tin nhận được sự như vậy thì người ấy chẳng khá nghĩ bàn; với chỗ đặng nghiệp báo tốt cũng chẳng khá nghĩ bàn”.

          Lại nữa với tất cả bốn món y báo, chánh báo, nhơn và quả cũng đều chẳng khá nghĩ bàn: Không thể lấy trí thức để suy nghĩ và không thể dùng lời lẽ để bàn nói cho tường tất được!!! 


          SAO: Với công đức ấy phân làm bốn món: 1. Công đức thí pháp rộng lớn, nghĩa là đối với thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, ngôi Tam Bảo vô lượng, 37 phẩm và các pháp môn khác nữa đều bất khả tư nghì. 2.  Công đức thần thông  biến hóa khắp cùng, nghĩa là đối với nước, chim, cây, rừng đều nói pháp nhiệm mầu; món ăn, thức mặc, đến cả việc thọ dụng đều tự nhiên sẵn có, chúng sanh đều đủ tướng hảo, đều đủ thần thông biến hóa, cũng đều bất khả tư nghì. 3. Công đức tín thọ do căn lành đời trước, nghĩa là đối với pháp "nan tín" đây, những người mà hay tín thọ được là người đó đời trước đã có tu căn lành nhẫn đến vô lượng, với người cũng bất khả tư nghì.  4. Công đức quả báo khó hơn nghĩa là đối với hễ niệm Phật được nhứt tâm liền đặng vãng sanh, liền đặng vào ngay hội Thượng Thiện, chứng liền bực bất thối chuyển, rốt ráo thành quả Phật, đều vượt khỏi thường tình; cho nên đều nói công đức chẳng khá nghĩ bàn. Như Kinh Kim Cang Bát Nhã nói:  “Nghĩa kinh nầy chẳng khá nghĩ bàn, đặng quả báo cũng chẳng khá nghĩ bàn”, thật thế.

          Câu "Y, Chánh, Nhơn, Quả":  Chữ Y nghĩa là cõi Ðồng Cư tức là cõi Tịch Quang; chữ Chánh là Ứng thân tức là Pháp thân; chữ Nhơn là bảy ngày niệm Phật thành công; chữ Quả là một phen sanh về, đặng bực bất thối chuyển, lại cũng vượt khỏi thường tình; cho nên đều nói “chẳng khá nghĩ bàn”.

          Thuở xưa ngài Anh Pháp sư ở đất Ðông Ðộ giảng kinh Hoa Nghiêm đã 40 lượt, nhơn khi vào trong Tịnh Nghiệp Ðạo Tràng của ngài Xước thiền sư, thâm nhập được pháp môn tam muội; sư than rằng: “Giận mình nhiều năm luống tìm văn SỚ nhọc thân tâm vậy, nào dè pháp niệm Phật nầy nhiệm mầu chẳng khá nghĩ bàn!!” 


        

          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó lìa hẳn hai cái tướng: tâm và ngôn, là nghĩa "công đức chẳng khá nghĩ bàn". 


          SAO: Luận Khởi Tín nói tâm (tánh) nầy từ xưa đến nay mãi đến bao giờ cũng vẫn ly tướng tâm duyên, ly tướng ngôn thuyết. Thế cho nên hễ vừa manh tâm niệm là lầm, móng ý tưởng là sai, chấp câu văn là mê, theo lời nói là mất; thế thì phải như thế nào? Mà dù cho ngoài ngậm miệng, trong tắt máy suy nghĩ cũng là y nhiên bị lạc về tánh vô ký: Là không nhớ không quên. Do đây mới biết công đức kia là chẳng khá nghĩ bàn.



ÐÔNG PHƯƠNG 


phương Ðông cũng có đc A-Súc-B-Pht, Tu-Di-Tướng Pht, Ði-Tu-Di Pht, Tu-Di-Quang Pht, Diu-Âm Pht; Hng hà sa s nhng đc Pht như thế



          SỚ: Dẫn lời khen của các đức Phật thời người ta thấy rằng: Ðối với pháp môn Tịnh Ðộ đây chính là một thành pháp rất hiệu lực vì được hàng nghìn vị Phật, vô lượng các vị Phật khác đều riêng miệng, chung lời cùng nhau để khen ngợi nên người ta phải tin chắc chớ không còn nghi gì nữa. Bản dịch của nhà Ðường có đủ 10 phương, nay thiếu bốn góc là bớt văn.

            Trước dẫn phương Ðông đó là theo phương phép thông thường, mà cũng là lấy phương Ðông để nêu trí huệ. 


          SAO: “Mười phương” là: ngài Tráng Sư dịch có bốn góc, thời thành 10 phương. Nay chỉ nói 6 phương là do phương chánh nó gồm phương góc (phụ) nên nói “bớt văn”.

          Nói “theo phương pháp thông thường” là: Trong các kinh phàm chỗ nói 10 phương thường trước nói phương Ðông làm đầu vì phương Ðông theo bốn mùa thì nó thuộc về mùa Xuân, vạn vật sanh trưởng nên có nghĩa như trí huệ tiến triển. Bởi trí là như đấng tiên đạo (ông dắt đường) sáng suốt, pháp sanh ra vạn pháp thật dụng; cho nên bắt đầu nói phương Ðông, tức như ý nghĩa rằng: ông Xá Lợi Phất, đức Văn Thù làm bực dẫn đạo trong chúng (làm đầu trong chúng). 



          SỚ: Nói lên 6 phương đó là vì đức Phật Thích Ca ở phương giữa (trung ương). 


          SAO: Ðã nói có 6 phương là: trên, dưới và bốn phía mà SAO lại không nói đến trung ương? Số là đức Thích Ca ở thế giới Ta Bà, lấy chỗ bản sở ngài ở làm trung ương. Ðối với chính giữa thì phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu, cõi trên, cõi dưới thành 6 phương. 



          SỚ: Phật A Sơ Bệ dịch là Bất Ðộng vì pháp thân Phật bất động; có một thuyết khác nói: “Vì chẳng bị hai bên nó làm lay động nên nói bất động”. 


          SAO: Nghĩa Pháp thân là bất sanh, bất diệt, vô khứ vô lai; với bực Diệu Giác (quả Phật) cũng không thêm; với kẻ vô minh (chúng sanh) cũng chẳng giảm vì lặng lẽ thường còn, như như bất động.

          “Hai bên” là bên có, bên không vậy. Với có, nó không thể làm cho ta đắm mắc vào các cái tướng có; với không, nó chẳng thể làm cho ta phải dính vướng cái không. Nghĩa là không chấp đoạn, không chấp thường vì hai bên đều bất động, bởi lẽ tuyệt đối.

          Hỏi: Phương Ðông thuộc mùa Xuân sanh trưởng muôn vật. Ðối với quẻ là quẻ Chấn mà quẻ Chấn là động vậy. Chớ SAO nói đức Phật kia hiệu là Bất Ðộng?

          Ðáp: Do lẽ tức động mà tức tịnh đó mới có được cái diệu dụng sanh trưởng vạn vật bằng cách biến hóa vô cùng, nhưng mà cái bản thể vẫn thường vắng lặng. Vì vắng lặng nên nói là Bất Ðộng. Kinh Hoa Nghiêm lấy phương Ðông tiêu biểu cho trí bất động cũng là chính ý đây vậy. 

          


SỚ: Phật Tu Di Tướng là vì tướng của Phật tốt đẹp vô cùng như núi Tu Di. 


          SAO: Tu Di dịch Diệu Cao. Núi nầy do các ngọc báu dựng thành nên gọi là Diệu, là tốt quí nhứt. Vượt khỏi các núi nên nói là Cao, là trên cả.

          Tướng hảo của Phật do tu được trăm phước kết thành, không phước nào chẳng cụ túc; thế gọi đó là Diệu (sang đẹp nhất). Tướng hảo của người, của trời và bực nhị thừa, với các vị Bồ tát cũng đều không bì kịp; thế gọi là Cao.


         

          SỚ: Thế nào gọi là Phật Ðại Tu Di? Vì đức của Phật cao rộng, dụ như núi Tu Di lớn. Có một thuyết khác nói: Danh của Phật lớn hơn núi Tu Di, vì tinh thần cao cả như trong kinh Duy Ma đã nói. 


          SAO: Núi Tu Di cao rộng vượt khỏi 7 lớp núi vàng (núi thất kim). Do đối núi thất kim, gọi đó là lớn. Ðức của Phật cao rộng, không chi sánh bằng, dụ như núi Tu Di lớn vậy. “Danh Phật” là: Kinh Duy Ma nói: “Danh của Phật đồn khắp cao xa, vượt khỏi núi Tu Di”, nghĩa là lớn hơn núi Tu Di kia vậy. Bởi núi kia dù quí báu nhưng chỉ bằng vật chất vô tri vô giác. 



          SỚ: Phật Tu Di Quang là hào quang của Phật rộng phóng ra chiếu khắp hơn hết, cũng như núi Tu Di vì ánh sáng phủ hết các núi vậy.

 

          SAO: “Hào quang sáng” có hai nghĩa: 1. Núi Tu Di do các ngọc báu kết tinh làm thành. Thể chất của ngọc báu nó chói ra ánh sáng, cũng như thân Phật tâm rất thanh tịnh thời trí giác sáng suốt phóng ra. 2. Núi Tu Di thể nó lớn thì tia sáng nó cũng lớn; cũng như Phật có trí lớn thì hào quang sáng vô lượng vậy. 



          SỚ: Phật Diệu Âm là tiếng pháp tròn trịa nhiệm mầu vì Ngài thuyết pháp thích hợp cả các căn cơ.   

       

          SAO: “Tiếng pháp tròn mầu” là như kinh Duy Ma nói: “Ðức Phật dùng một tiếng diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại, mỗi trình độ đều nghe hiểu được cả”. Lại nói: “Ðối với tiếng của chúng nhơn, tiếng của Phật là nhiệm mầu đệ nhứt, vì là có cái tướng hảo phạm âm”. 



          SỚ: “Như vậy hết thảy” là: Nhiều quá không thể nói kể cho hết nên chỉ kể nói năm vị Phật, còn thì dùng nghĩa chữ “đẳng” là tất cả hay “vân vân..” để bao gồm đó. VớI Hằng hà cũng nói Căng Già hà. Chữ “sa” là hột cát; để dụ số nhiều Phật kia. 


          SAO: Hằng hà là một con sông tại bên nước Tây Vức (Ấn Ðộ) bên ao Vô Nhiệt. Trên đảnh núi Hương Sơn có ao Vô Nhiệt Não, phát nguyên chạy ra bốn con sông. Sông Hằng nầy ở về phía Nam, rộng bốn mươi dặm; cát trôi theo dòng nước rất là nhỏ. Phật thuyết pháp ở gần con sông kia nên phàm nói số nhiều thường lấy số cát kia để ví dụ.

          Nay nói bên phương đông có rất nhiều vị Phật như số cát rất nhiều trong sông Hằng kia. Nếu cứ theo kinh Pháp Hoa về lời dụ một mảy bụi làm một kiếp thì số cát sông Hằng ấy cũng là rất ít. Nay ví số cát sông Hằng để tỏ ý thật là vô tận, cho nên kinh Ðại Bổn nói: “Vô lượng vô số, bất khả tư nghì, vô hữu đẳng đẳng, cả vô biên thế giới sở hữu chư Phật Như Lai đều đồng khâm khen Phật A Di Ðà sở hữu công đức” thời số cát sông Hằng kia chưa đủ dùng để dụ cho hết đó vậy. 


        

          SỚ: Với các danh Phật trên đó, ngài Linh Chi nói: “Giữa các nhà Tổ xưa nay, có vị truyền nhau không giải; cũng có ngài thích nghĩa như thế này; hoặc vì lấy cái nhơn hoặc vì lấy cái quả, hoặc dùng về Tánh, hoặc dùng về Tướng, hoặc thủ theo tâm từ, bi, trí, đức, hạnh và nguyện v.v... của chư Phật để giải thích ra mỗi danh nghĩa thì cũng không ngại gì”.


           SAO: “Không giải” là vì bởi Phật đủ muôn đức tánh, không thể lấy một cái danh đức mà giải nói cho rõ hết những đức tánh ấy, còn dịch giải thì cái tên Phật quá dài vì nhiều chữ. “Cũng có giải” là vì bởi Phật đức dung thông vô tận nên cũng có thể lấy một đức mà gồm thông muôn đức; thế thì riêng kể một đức tức đủ các đức rồi.

          Cho nên hễ nói nguồn nhơn thì đã gồm biển quả; nói quả thời suốt thấu đến nhơn; vì không lẽ có trí mà chẳng có bi; có bi mà chẳng có trí.  Không có hạnh nào chẳng do nguyện khởi; không có nguyện nào phi hạnh mà thành. Như vua Nghiêu có nhơn, vua Thuấn có hiếu, vua Võ có kiệm, vua Thang có khoan, nghĩa là cũng có lẫn nhau đều đủ hết cả. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh có trí huệ chẳng khá cùng tận là nghĩa phương Ðông có Hằng sa Phật. 


          SAO: Với phương Ðông nghĩa thấy giải văn trước. Vật có hình tướng thời có cùng tận, chớ trí huệ thời không tột hết vì bản thể nó là vô tướng. Tìm trí huệ bên ngoài có thể hết, tìm trí huệ trong tự tánh không thể hết được.

          Nói “cát sông Hằng” đó cũng chỉ là dụ được phần ít đấy thôi. Sở dĩ chúng nhơn đem hết cả tâm lực tư duy, cùng nhau để so lường cũng chẳng xét lường được trí của Phật.



đ ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên



          SỚ: Chữ “kỳ quốc” là nước bản sở của mỗi Phật tự ở. “Các ư kỳ quốc” là thấy mỗi vị Phật, Phật nào cũng đều vậy cả.  Bên tả, bên hữu là bề rộng. Tiền hậu là bề dài. Cõi Tam Thiên Ðại Thiên rõ như trong luận Cu Xá nói. “Khắp trùm cõi Tam Thiên” là cực lực nói bề rộng dài của tướng lưỡi của chư Phật.

          Do vì đức Phật đã nhiều kiếp tu khẩu nghiệp được thanh tịnh. Nếu muốn rõ nguyên do đấy, thì xem trong kinh Hoa Nghiêm đã có nói.

          Nói đoạn văn đây là để rõ rằng với lời Phật là ắt đáng tin, khiến đoạn hết tâm nghi. 


          SAO: Luận Cu Xá bài tụng nói: “Kể từ bốn đại châu, mặt nhựt, mặt nguyệt, núi Tô Mê Lô, cõi trời Lục Dục tột đến cõi trời Phạm thiên cộng là một thế giới. Lại đủ một nghìn lần như vậy gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại đủ một nghìn lần cõi Tiểu Thiên như vậy mới gọi là một cõi Trung Thiên. Lại một nghìn lần cõi Trung Thiên như vậy mới gọi là một cõi Ðại Thiên”. Cả cõi Ðại Thiên ấy đều chung một số kiếp thành, trụ, hoại, không.

          Nay giải nghĩa bốn châu lớn, hai vừng nhựt luân, nguyệt luân, một núi Tu di, từ dưới Ðịa ngục, đến cõi trời Lục dục; từ cõi trời Lục dục đến cõi trời Phạm thiên, ngang từ trời Sắc giới đây, gọi là một thế giới. Như thế; đếm làm một, đếm đến một ngàn gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại lấy cõi Tiểu Thiên làm con số một, cũng như đếm là một, như thế đếm đến số nghìn kêu là một cõi Trung Thiên.

          Lại lấy cõi Trung Thiên đếm làm con số một, cứ như thế mỗi mỗi đếm chồng chất cho đến số nghìn, kêu là một cõi Ðại Thiên. Do gấp ba lần nói số nghìn, cho nên nói Tam Thiên Ðại Thiên; kỳ thật một Ðại Thiên mà thôi.  Một thế giới Ðại Thiên, tức trong kinh nói một cõi của một vị Phật giáo hóa chúng sanh.

          Phật A Súc Bệ nhẫn đến hằng sa các đức Phật kia, mỗi vị làm chủ trong một cõi đại thiên thế giới ấy.

          Nay nói các vị Phật, mỗi ngài đều ở trong cõi nước của mình phát ra tướng lưỡi rộng dài phủ trùm trong cõi ấy không chỗ nào mà chẳng khắp.

          “Khẩu nghiệp nhiều kiếp thanh tịnh” là: Với điều nói năng thì không dùng lời nói vọng ngữ, lời nói thêu dệt, lời nói hung dữ, và lời nói hai lưỡI, thường dùng lời chơn thật, lời ngay thẳng, lời nhu nhuyễn và lời hòa hiệp.  Mà nói nhiều kiếp đấy là: Trong kinh nói lưỡi của phàm phu có dài quá lắm là chỉ tới chót mũi, là nêu cái tướng ba đời không nói vọng; còn Phật là vô lượng kiếp lại đây từng không nói vọng, đã từ lâu đời chứa nhiều công đức của lời chơn thật nên mới cảm được cái tướng lưỡi dài tốt như vậy.

          Muốn rõ nguyên do đấy thì kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian nói:  Vị Bồ Tát có 10 thứ lưỡi, chỗ gọi rằng: Lưỡi mở bày diễn nói cả hạnh nghiệp của vô tận chúng sanh; lưỡi mở bày diễn nói cả pháp môn nhiều đến vô cùng tận; lưỡi khen ngợi các đức Phật đều có công đức nhiều đến số vô tận nhẫn đến lưỡi nói pháp để ngăn dẹp tất cả các loại ma, chúng ngoại đạo, dứt hết sanh tử, phiền não khiến chúng sanh đến cõi Niết Bàn; ấy là 10 thứ lưỡi. Vị Bồ Tát thành tựu 10 pháp nầy mới được tướng lưỡi vô thượng của Như Lai, phủ khắp các cõi nước. Cho nên nói rõ nguyên do Phật được tướng lưỡi như thế thì chẳng những chỉ một nhơn. 

          Câu “ắt đặng tin” ấy là tướng lưỡi của phàm phu không hơn ba tấc.  Người xưa nói: “Khua ba tấc lưỡi thời chê, khen, yểm, khoe theo ý riêng của mình, chưa đáng tin nổi”. Còn Phật đủ tướng lưỡi rộng dài như thế đâu có dối ư? Nay đây với lời của 6 phương Phật khen ngợi Phật A Di Ðà còn nghi không tin thời không có lẽ đó. Nếu không tin là người không có duyên với Phật! 



          SỚ: Lại nữa Bồ Tát trong ngôi Thập Hạnh còn có tướng lưỡi rộng dài đã hơn với lượng trùm đại thiên thế giới đây; nay cũng sơ lược mà nói thế thôi. 


          SAO: Tướng lưỡi của Bồ Tát là: Kinh Hoa Nghiêm nói bực Thập Hạnh Bồ Tát thành tựu 10 món vô tận tạng nên khi Bồ Tát thuyết pháp dùng tướng lưỡi rộng dài nói ra tiếng tăm nhiệm mầu khắp đầy 10 phương tất cả thế giới.

          Nói “10 phương tất cả” thời chẳng những một thế giới đại thiên mà thôi. Bồ Tát còn thế huống chi đức Như Lai!

          Văn đây chỉ nói “đều ở trong bổn quốc của mỗi đức Phật” cho nên nói rằng là sơ lược. Thật ra thì Phật khen cõi tịnh độ mà khắp cả 10 phương tất cả thế giới không vị nào mà chẳng khen. 



          SỚ: Ngài Từ Ân nói: “Tướng lưỡi của Phật chứng việc nhỏ thời lưỡi nó phủ cả cái mặt cho đến mé tóc”; nay nói phủ cả đại thiên thế giới là chứng sự lớn, tức là "đại sự nhơn duyên".

          Lại nói: “Bồ Tát đặng tướng lưỡi phủ cả mặt, cho nên Bồ Tát chỉ nói một lời không hai vì đều là lời chơn thật” thời biết tướng lưỡi phủ mặt đã không nói vọng, huống lưỡi phủ khắp cõi Ðại Thiên ư? 


          SAO: Tướng lưỡi lớn nhỏ là do Phật chứng đặng cái pháp sắc thân tam muội, sáu căn đều được tự tại, giải thoát giữa cảnh sắc 6 trần nên chứng việc nhỏ, chứng việc lớn, đều theo ý ngài biểu hiện ra. Nói “việc lớn” ấy là kinh Pháp Hoa nói: “Phật vì một việc nhơn duyên lớn nên mới xuất hiện ra đời, dạy bảo chúng sanh đều được vào bực Phật”.

          Nay sáu phương chư Phật khen cõi Tịnh Ðộ bằng cách hiện tướng lưỡi như thế đấy thời biết pháp môn Tịnh Ðộ việc lớn đồng với kinh Pháp Hoa.  Nếu không phải việc lớn thì theo lối thường người ta nói: “Cắt cổ gà đâu phải dùng đến con dao giết trâu” (12).

          Lại câu “Bồ Tát lưỡi phủ cả mặt” đấy là nói bực thua, sánh đó để biết bực hơn, là một biện chứng pháp triệt để để khuyên người tin chắc. 



          SỚ: Lại với 10 phương đấy là nói theo bề ngang; bằng luận theo bề dọc thì thông đồng đến 3 đời, không vị Phật nào mà chẳng khen ngợi. 


          SAO: Lấy 10 phương để so 3 đời, thời trước từ Phật Ca Diếp nhẫn đến quá khứ không lường các vị Phật; với sau, từ Phật Di Lặc nhẫn đến đời vị lai không lường các vị Phật, ắt cũng vẫn hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp 3 đời vậy. Các vị Phật tướng đã đồng thời tâm cũng đồng, trí cũng đồng và nguyện cũng đồng. Ðã sáu phương Phật đều khen ngợi kinh nầy thời biết ba đời các vị Phật cũng ắt khen ngợi kinh này như sáu phương Phật kia vậy.

          Chính chỗ gọi rằng nói và khen không hở dứt đối với kinh nầy phải vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh khắp pháp giới là nghĩa “tướng lưỡi rộng dài”. 


          SAO: Bực cổ đức nói: “Tiếng nước suối tức là tướng lưỡi rộng dài”.  Thế thời với tướng lưỡi rộng dài ấy, chẳng những chỉ các vị Phật có thôi mà tất cả chúng sanh cũng đều có, tức là muôn hình vạn tướng cũng đều có cả; cho nên nói loài hữu tình cùng vô tình cũng chung thành một cái lưỡi. Lưỡi tức là cả pháp giới; cả pháp giới tức là một cái lưỡi. Nếu nói “phủ khắp” đã thành hai cái!



mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”.



          SỚ: “Nói lời thành thật” là cái lời đáng tin, do nơi đầu của tướng lưỡi rộng dài ấy nói ra lời thành thật. Nghĩa là đối với kinh Xưng Tán Bất khả Tư Nghì Công Ðức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này, các ông nên tin chắc, chớ đem lòng nghi ngờ. Nghĩa chữ “tin” giải rõ ở văn sau.

 

          SAO: “Lời đáng nên tin” là: Do lời thành thời chắc thiệt không dối thiệt thời chín xét không sai; chỗ gọi rằng như con sư tử hống, lời nói vô úy, nghìn vị thánh ra đời không thể đổi, muôn đời giữ đó làm khuôn mẫu.

          Câu Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Ðức, luôn sau 16 chữ là nguyên tên kinh này vậy. Bản dịch nhà Ðường chỉ nói: Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ Kinh là muốn bớt văn cho dễ. Do vì câu Bất Khả Tư Nghì Công Ðức nó bị gồm trong hai chữ Tịnh Ðộ. Bốn chữ "Bất Khả Tư Nghì" đây, với văn trên kia là nghĩa khen Phật, với văn đây lại là nghĩa khen kinh; nghĩa kia với đây như một nên không giải lại nữa.

          Thế nào là “hộ niệm”? Vì những người niệm Phật, nhờ sức Phật bảo hộ khiến kia được an ổn, không các việc chướng nạn. Tâm Phật nhớ tưởng khiến người kia tinh tấn mãi, không hề lui sụt vậy.

          Trong Quán Kinh nói với chúng sanh niệm Phật, ngài thâu rước không bỏ. Kinh lại nói: “Những người niệm Phật được Phật A Di Ðà thường ở trước đầu người kia”. Lại trong 10 món lợi ích nói: “Những người niệm Phật, Phật A Di Ðà thường phóng hào quang sáng để tiếp rước người đó”.

          Ðây thì đức Bổn Sư hộ niệm mà mười phương các đức Phật kia cũng đồng hộ niệm người đấy; phải biết người xưa niệm Phật thời được Phật hộ niệm cho; cảm ứng tự nhiên chẳng khá dối vậy.


 

          SỚ: Lại bực Bát Ðịa Bồ Tát mới nhờ Phật hộ niệm; cho nên biết người vãng sanh địa vị chẳng phải thấp hèn. 


          SAO: “Bực Bát Ðịa được Phật hộ” là: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Bát Ðịa Bồ Tát thường được đức Như Lai ngài hộ niệm”; nay kinh này nói:  “Người niệm Phật được Phật hộ niệm”. Thế là chóng lên Bực Bát Ðịa, cho nên nói “chẳng phải hèn thấp”.   


      

          SỚ: Các đức Phật dạy bảo chúng sanh, xưa có hai thuyết: 1.  Chuyển dẫn; 2. Ðồng thời. Nay gồm dùng cả hai thuyết. 


          SAO: “Chuyển dẫn” là: Ông Từ Ân nói: Với lời nói của chư Phật ở 6 phương rao bảo trong các nước của các Phật, đức Thích Ca lại đem lời ấy về thuật lại để chứng lời nói của ngài.

          Ông Linh Chi nói: “Khi đức Thích Ca nói Kinh nầy, sáu phương các đức Phật cũng đồng thời khen ngợi”.

          “Nay gồm dùng đó” là: Pháp môn quảng đại rất thiết yếu nầy các đức Phật khi bình thời ắt đã thường khen, mà chính khi đức Phật Thích Ca đang nói kinh nầy thì đồng thời 10 phương các đức Phật đều khen, cũng không ngại gì?

          Càng rõ kinh này chính là pháp môn Phổ Nhãn (khắp soi)! Cùng cả pháp giới; một đức Phật nói, tức tất cả các đức Phật đồng nói. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh không biến đổi là nghĩa “thành thật”; tự tánh không ly là nghĩa “hộ niệm”. 


          SAO: Lời nói thuần là chơn, tuyệt hẳn vọng, dù muôn kiếp vẫn như vậy.

          Nói rằng thành thật chi nữa chẳng hơn nơi đây; tức nay đây một phen ngó, một phen nghe, một khi nói, một khi làm, không một cái nào mà không thành thật. Suốt xưa, suốt nay thường hộ, thường niệm, đi đứng, ngồi, nằm chẳng lìa cái ấy (tự tánh), đâu đặng với lời thành thật củ

a Phật mà không tin.  Với Phật hộ ta mà ta riêng bỏ? Ôi! Tại SAO mình gạt mình, mình dối mình, mình tự trốn, mình tự đi!?



NAM PHƯƠNG  


Xá-Li-Pht! Thế gii phương Nam, có đc Nht- Nguyt-Ðăng Pht, Danh-Văn-Quang Pht, Ði-Dim-Kiên Pht, Tu Di-Ðăng Pht, Vô-Lượng-Tinh-Tn Pht… Hng hà sa s nhng đc Pht như thế,



          SỚ: Phật Nhựt Nguyệt Ðăng là vì trí lớn vô cùng tận.  

       

SAO: “Trí lớn vô cùng tận” là kia như ánh của mặt nhựt chiếu ban ngày, mặt nguyệt chiếu ban đêm, ánh của đèn chiếu vào những chỗ mà nhựt nguyệt chiếu không tới, kế truyền sáng khắp, đều vô cùng tận. Trí lớn của Phật: ngang thời suốt 10 phương, dọc thấu ba đời, cũng như ánh sáng của nhựt nguyệt thế đấy.

          Lại ánh sáng mặt nhựt phá chỗ tối tăm có nghĩa Bát Nhã, gọi là Nhứt Thế Trí. Mặt nguyệt do ánh mát mẻ chiếu ban đêm có nghĩa giải thoát, gọi là Ðạo Chủng Trí. Ánh đèn tiếp nối để bổ khuyết cho nhựt nguyệt, chiếu suốt cả ngày đêm không mắc hai bên như ngày và đêm chẳng hạn. Ðây là nghĩa đế Trung Ðạo đệ nhứt, có nghĩa Pháp thân gọi là Nhứt Thế Chủng Trí. Vì ánh huệ sáng suốt. 



          SỚ: Phật Danh Văn Quang là được tiếng khen khắp đồn, như ánh sáng chiếu xa. 


          SAO: Ðức Phật lớn, tiếng rất to, cho nên có danh khen đồn khắp cả 10 phương vô lượng thế giới như ánh sáng mặt nhựt chiếu không chỗ nào chẳng khắp. 



          SỚ: Phật Ðại Diệm Kiên là: Chữ Kiên nghĩa hai vai, tiêu biểu hai trí; chữ Diệm là hực hỡ dụ hai trí chiếu sáng. 


          SAO:  “Hai trí” là: Quyền trí để chiếu về sự tướng; Thật trí chiếu tâm. Lý, sự lý rõ ràng, đều chiếu phá không mê muội, dụ như hai cái vai phát ra ánh sáng. Lại hai trí nầy, gánh vác tất cả Phật pháp; cho nên có nghĩa là hai vai. 



          SỚ: Phật Tu Di Ðăng là dùng núi Tu Di làm đèn để chiếu cả 4 châu thiên hạ; hào quang của Phật rộng lớn cao chiếu cũng như thế. 


          SAO: “Núi Tu Di làm đèn” là như nói: “Dùng núi Tu Di làm bút, dùng núi Tu di làm dùi” ... là để nói cái lượng của đèn rất rộng và rất lớn.

          Núi Tu Di ở giữa, hào quang chiếu khắp bốn châu; Phật dùng trí lớn trung đạo mà chiếu các chúng sanh như ánh đèn khổng lồ là đèn Tu Di (Tu Di là núi chúa vì lớn nhứt thế giới vậy). Song kinh Duy Ma nói: “Có đức Tu Di Ðăng Vương Phật, thân cao tám vạn bốn nghìn do tuần”; nhưng xét cõi nước của Ngài là ở về phương Ðông cách đây ngoài 36 hằng hà sa thế giới. Mà nay Phật Tu Di Ðăng nầy ở về phương Nam là do vì các Phật trùng tên với nhau rất nhiều vậy. 



          SỚ: Phật Vô Lượng Tinh Tấn là: chữ “tinh tấn” giải thấy trong khoa tự phần trước, nhưng khoa kia nói: “Thường tinh tấn”, còn văn đây nói:  “Vô lượng tinh tấn”. 

          

SAO: “Vô lượng” có hai nghĩa: 1. Thời vô lượng: tức là nghĩa thường;  2. Sự vô lượng là: Tự lợi lợi tha; vì trí và hạnh vô biên cớ vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh sáng suốt bất khả tận là nghĩa “nam phương có Hằng sa Phật”. 


          SAO: Nam phương thuộc cung Ly, mà Ly là Bính Ðinh hỏa. Hỏa thời trong tối ngoài sáng;, ấy là tịch mà thường chiếu. Tánh chơn tri bất muội, sự sáng suốt nào cùng. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Quang Minh Giác nói: “Hào quang đức Như Lai soi sáng vượt khỏi một thế giới, 10 phương thế giới nhẫn đến bất khả thuyết thế giới”. Ðấy là hào quang trong tâm của mình giác chiếu tất cả, chẳng do tự ngoài mà đặng. Cho nên nói: “Ta thấy đức Ðăng Minh Phật, hào quang tốt của ngài xưa cũng như thế”.



đu ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”.



TÂY PHƯƠNG   

 

Xá-Li-Pht! Thế gii phương Tây, có đc Vô Lượng-Th Pht, Vô-Lượng-Tướng Pht, Vô-Lượng-Tràng Pht, Ði Quang Pht, Ði-Minh Pht, Bu-Tướng Pht, Tnh-Quang Pht… Hng hà sa s nhng đc Pht như thế,



          SỚ: Phật Vô Lượng Thọ đây nhơn đồng một danh hiệu với đức Bổn Phật (Di Ðà), xưa có hai thuyết cũng đều có lý.

 

          SAO: “Hai thuyết” là: Ông Linh Chi nói: “Các vị phật đồng danh nhiều lắm, quyết chẳng phải một vị Phật do ngài Pháp Tạng tu thành. Bởi vì đức Bổn Phật đây không lẽ tự khen mình”. Ông Từ Ân nói: “Dù cho tự khen mình, lý cũng không hại, là do vì dẫn dắt chúng sanh khiến cho nó sanh tâm thích đẹp”. Nay dùng cả hai thuyết nghĩa là: Cứ trong kinh Ðại Bổn qua khỏi vô biên cõi Phật, có nhiều vị Phật đồng một danh với đức Phật Thích Ca Mâu Ni không thể kể xiết.

          Lại thầy đức Quan Thế Âm cũng là Quan Âm Như Lai v.v...

          Thế thời biết danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ đâu những một vị Phật A Di Ðà mà thôi, mà còn có cả trăm cả nghìn hằng vạn hằng ức không thể cùng tột các vị Phật đồng danh hiệu nữa kia kìa.

          Nếu cứ bên phần sự của Phật; đâu đặng lấy việc phàm thường so sánh đó thì chi cho khỏi khen mình chê người, phạm 10 tội trọng trong Bồ Tát giới ư? Kinh Pháp Hoa Phật nói: “Ta là vị Pháp vương... đối trong các pháp đều được rảnh rang, dọc ngang, cho, lấy, quyền, thiệt đều bày. Nếu có lợi ích cho chúng sanh thì làm SAO lại chẳng được!” Như câu "trên trời dưới trời, duy một mình ta độc tôn"; khá đặng nói rằng: ngài tự khen mình chăng?!

          Một thuyết trước vì e người không biết các vị Phật số nhiều như bụi trần mà câu chấp một bên như lối thành kiến!

          Một thuyết sau vì sợ người chấp chỗ không nên khen mình mà mờ ám pháp thần thông diệu dụng của Phật nên hai thuyết đều phải lý, vốn không ngại. 



          SỚ: Phật Vô Lượng Tướng là vì tướng hảo vô cùng tận. 

          

          SAO: “Tướng hảo” là: Hoặc 32 tướng hoặc tám vạn bốn ngàn tướng (84000), hoặc vi trần tướng. Phước đức vô lượng thời tướng hảo cũng vô lượng vậy. Xưa ngài Chí Công hiện tướng Quan Âm có 11 mặt, ông Tăng Do là một nhà họa sĩ khéo nhứt đương thời còn không thể giở ngòi bút vẽ đặng, huống là tướng hảo của Phật ư? 



          SỚ: Phật Vô Lượng Tràng là vì công đức cao vọi, dụ đó như cây tràng phan tột chỗ cao vọi kia, nên gọi là “vô lượng”. Lại nghĩa vô lượng là rộng nhiều. 


          SAO: Chữ “tràng” là cây phướn thuộc về cái phan, lại nói: thuộc về cây cờ. Sách San Ðịnh Ký nói tràng có bảy nghĩa, tóm lại còn năm: 1. Nghĩa cao vọi: Ví dụ vị Phật là ngôi rất tôn trọng. 2. Nghĩa kiến lập: Ví dụ đức Phật dùng lòng bi, trí, kiến lập cho chúng sanh với quả Bồ Ðề. 3. Nghĩa qui hướng: Ví dụ đức Phật là chỗ tôn ngưỡng của tất cả chúng sanh. 4. Nghĩa bẻ dẹp: Vì hàng phục tất cả ma quân. 5. Nghĩa hết sợ: Như trời Ðế Thích bảo các vị Thiên chúng rằng: “Các ngươi lúc đánh nhau cùng Tu La, nếu có hãi sợ thì nên niệm tràng thất bảo của ta thời cái điều sợ kia liền diệt”; dụ đức Phật được pháp vô sở úy: Nếu chúng sanh niệm phật liền khỏi sự sợ sệt.  Với trong năm nghĩa, nay chỉ lấy một nghĩa “cao vọi” tức gồm hết các nghĩa kia vậy.

          “Rộng nhiều” là: Cái tràng kia nhiều đến vô lượng. Như kinh nói “tràng phan, bảo cái khắp đầy chốn hư không”, Phật lập vô lượng nghĩa mầu chỉ bày cho chúng sanh, cũng lại như vậy.


         

          SỚ: Phật Ðại Quang là vì hào quang sáng chói rộng khắp. 


          SAO: Hào quang là chỗ diệu dụng của đức Phật biến hóa dạy người. Các người trời thân cũng có hào quang, không cần ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt. Nhị thừa là bực quả nhỏ và nhơn địa của Bồ Tát cũng đều có hào quang sáng, nhưng sánh với hào quang của phật thời nhỏ hơn vì hào quang của Phật ánh sáng che phủ tất cả nên nói là “đại quang” vậy. 



          SỚ: Phật Ðại Minh là vì nói đức Phật dùng đại trí phá hết những phiền não mê hoặc. 


          SAO: “Phá hết những phiền não mê hoặc” là Phật dùng Nhứt Thế Trí phá hết kiến hoặc, tư hoặc. Dùng đạo chủng trí phá hết trần sa hoặc; dùng nhứt thế chủng trí phá hết vô minh hoặc, cũng như mặt trời sáng giữa hư không, không chỗ nào chẳng chiếu; rứa là đại minh vậy.

          Tuy Phật trước tựa hồ như giác tha, còn đức Phật đây in tuồng chỉ tự giác; nhưng với mỗi ngài chỉ nói một đức, chứ nói nghĩa thật lẫn đủ như trong lời tổng thuyết văn trước đã biên rành. 



          SỚ: Phật Bảo Tướng là vì tướng tốt lạ lùng như ngọc báu quí trọng. 


          SAO: “Tướng tốt như ngọc báu” là vì Phật có vô lượng tướng tốt, nay chỉ nói một hai tướng mà thôi. Với tướng con mắt như trong kinh nói: “Phật có tám vạn bốn nghìn con mắt báu thanh tịnh”. Với tướng bạch hào như trong kinh nói: “Lông tướng bạch hào như ống lưu ly”. Với tướng trước ngực như trong kinh nói: “Sắc vàng tử kim”. Tướng nhục kế như trong kinh nói “ngọc Chân thúc Ca”; đó là chỗ gọi rằng: bảo tướng vậy. 



          SỚ: Phật Tịnh Quang là vì đức Phật thanh tịnh phát ra hào quang sáng, lại vì hào quang kia thanh tịnh nên gọi là Tịnh Quang. 


          SAO: “Thanh tịnh phát ra hào quang” là: Nếu trí có nhiễm thời không thể phát ra hào quang nhiệm mầu.

          Nay nói đức của Phật thanh tịnh nên mới phóng ra hào quang sáng lớn. Ví như cái thể gương thanh tịnh, nó hay soi các hình tượng.

          Hào quang thanh tịnh kia. Vì như lửa đốt ngoài đồng nội cũng có hào quang sáng, nhưng sánh với mặt trời, mặt trăng chẳng gọi là tịnh vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh thanh tịnh bất khả tận là nghĩa Tây phương có Hằng sa Phật. 


          SAO: Nghĩa Tây phương đã thấy giải văn trước. Bởi do tự thể của chơn như nó lặng như hư không, tuyệt điểm thuần thanh, đâu từng có bờ mé, nhưng mảy niệm trần thoạt khởi, Phật diệt độ đã nhiều đời. Tâm trần vừa dứt, cổ Phật liền hiện (Phật tánh bày ra).


đu ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”.



BẮC PHƯƠNG 

    

Xá-Li-Pht! Thế gii phương Bc, có đc Dim-Kiên-Pht, Ti-Thng-Âm Pht, Nan-Tr Pht, Nht-Sanh Pht, Võng-Minh Pht… Hng hà sa s nhng đc Pht như thế,



          SỚ: Phật Diệm Kiên đã thấy giải ở văn trước.  

       

SAO: Văn trước có chữ Ðại, nhưng nghĩa không hơn kém. 



          SỚ: Phật Tối Thắng Âm là vì tiếng đức Phật rất lớn tất cả các tiếng tăm, không tiếng nào bì kịp. 


          SAO: Phật có tám thứ tiếng: 1. Tiếng cực hảo. 2. Tiếng nhu nhuyễn; nhẫn đến tiếng thứ 8. Tiếng không dứt. Nay cứ theo tiếng cực hảo để giải cái nghĩa tối thắng cũng có thể gồm đủ 8 thứ tiếng, cho nên kêu là Tối Thắng Âm. Thế là tất cả tiếng cõi nhơn thiên, tiếng Thanh Văn, tiếng Bồ Tát, không tiếng nào có thể bì kịp vậy. 



          SỚ: Phật Nan Trở là vì đức của Phật bền chắc không thể phá hoại. 


          SAO: Chữ Trở là tên con sông và một nghĩa nữa là hoại. Vì Phật chứng pháp thân, đã đặng thể kim cang bất hoại, không còn các cái dư hoặc là trần sa hoặc, vô minh hoặc nên dù phiền não nhẩy tràn, cũng không thể phá hoại; cho nên gọi Nan Trở. Người xưa nói: “Nước Ngô thành ao kia ư?” Cũng như nói không thể thành ao vậy. Lại nghĩa chữ Trở thông dụng với chữ Trở là ngăn dứt. 



          SỚ: Phật Nhựt Sanh là hào quang khi hiện ra, cũng như mặt trời mới vừa mọc, là nói gồm hai việc lợi. 


          SAO: “Hai việc lợi” là: 1. Tự lợi: Nghĩa là tánh bản giác Phật của chúng sanh vùi lấp trong tánh vô minh, cũng như giữa đêm khuya, ánh sáng mặt trời không hiện. Chừng phá vọng hoặc bày trí chơn thời tánh Thỉ Giác Phật mới tỏ chiếu, ví như mặt trời mọc phương Ðông vậy.

          2. Lợi tha: Kinh Hoa Nghiêm quyển 23 nói: Ví như ông Nhựt Thiên Tử (cũng là mặt trời mà nói bằng tên khác) chẳng vì cớ thằng mù không thấy mà ẩn không hiện (mọc); chẳng vì cớ thành Càn Thát Bà áng, tay thần A Tu La che, cây Diêm Phù Ðề che khuất, cùng là gộp cao, hang thẳm, bụi mù, khói mây v.v... các vật phủ che ẩn mà không hiện; chẳng vì cớ thời tiết đổi dời ẩn mà không hiện”.

          Dụ như Phật mới thành ngôi chánh giác thuyết pháp lợi đời, hào quang trí tuệ khắp soi cũng như mặt trời mọc phương Ðông vậy. 



          SỚ: Phật Võng Minh là vì trí như lưới báu khắp soi tất cả chúng sanh. 


          SAO: Chữ Võng tức là cái lưới nghìn hột châu của trời Phạm Thiên. Ánh tia của ngàn hột châu đều chiếu nhau, sáng lạng rỗng suốt như trí của Phật phủ khắp cả chúng sanh, không chỗ nào mà chẳng chiếu. Lại mỗi pháp môn lẫn nhau dung suốt vì giác ngộ cho kẻ quần mê. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh hàm nhiếp bất khả tận, là nghĩa: “Bắc phương có hằng sa các vị Phật”. 


          SAO: Bắc phương (Nhâm Quí thủy) thuộc về mùa Ðông. Ðông là chủ về việc thâu chứa, Ðông là mùa rốt sau của vạn vật trưởng thành mà cũng là đầu tiên của vạn vật sanh thành vậy. Thế nay trăm nghìn pháp môn cũng đồng về trong vuông tấc (tự tánh); không ngằn đức dụng đều ở trong nguồn tâm.

          Tìm đó thời không tướng không hình, buông đó cũng vô cùng vô tận.  Xưa nay sẵn đủ, chẳng cần tìm đâu.  Thế cho nên trong tâm của chúng sanh, tức là Như Lai tạng tánh.



đu ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”.



HẠ PHƯƠNG 


Xá-Li-Pht! Thế gii phương dưới, có đc Sư-T Pht, Danh-Văn Pht, Danh-Quang Pht, Ðt-M Pht, Pháp-Tràng Pht, Trì-Pháp Pht… Hng hà sa s nhng đc Pht như thế,



          SỚ: Sư Tử Phật là dụ như con sư tử dẹp các thú vậy.


          SAO: Sư tử có hai nghĩa: 1. Sư tử là chúa trong các loài thú dạo đi không sợ; dụ như đức Phật là bực độc tôn trong 6 cõi phàm, 4 cõi Thánh, ra vào trong ba cõi tự tại không ngăn ngại. 2. Sư tử rống lên một tiếng thời trăm thú đều ghê sợ; dụ như Phật thuyết pháp thời chúng thiên ma, bọn ngoại đạo thảy đều tín phục.

          Lại Phật không có năm món sợ và đủ bốn món vô úy đều là nghĩa “sư tử”. 



          SỚ: Danh Văn Phật giải nghĩa đồng như trước. 


          SAO: Văn trước Danh Văn Quang, văn đây thiếu chữ Quang. Bởi do Danh Văn là Ðức, Quang là dụ. Tuy Phật đây không dụ như kia, nhưng mà không khác với đức của Phật kia. 



          SỚ: Danh Quang Phật là cái danh của Phật như mặt nhựt sáng, không chỗ nào mà chẳng khắp, cũng có thể xưng luôn; do vì cái danh tỏ rạng thời ánh sáng chói xa. 


          SAO: Nghĩa chữ Quang đồng như văn trước. “Danh tỏ rạng” là như Phật A Di Ðà cái danh khen đồn khắp 10 phương 3 đời, không đời nào chẳng chiêm bái và tưởng niệm.

          “Ánh sáng chói xa” là như Phật A Di Ðà hào quang khắp soi 10 phương 3 đời, không chỗ nào ngăn che được.


 

          SỚ: Ðạt Ma dịch là Pháp, cũng gồm hai lợi. 


          SAO: Chữ Pháp là nghĩa phép tắc, giữ gìn. Dùng phép tắc giữ gìn đức của mình; dùng phép tắc giữ gìn thân chúng sanh, đều chứng đặng pháp thân.


 

          SỚ: Pháp Tràng là vì chữ Pháp là phép tắc, dụ như cái tràng (cây cờ nêu cao). 


          SAO: “Phép tắc như tràng” là: Phật pháp cao vọi, người trời thấy đó tôn trọng; tà ngoại trông đó kính phục, thời rõ như văn trước nghĩa Vô Lượng Tràng.


 

          SỚ: Trì Pháp là có hai nghĩa. 1. Giữ nghĩa trung đạo gọi là trì. 2.  Giữ gìn pháp niệm cũng gọi là trì. 


          SAO: “Giữ trung đạo” là không sa về bên có, chẳng mắc về bên không, vì khéo giữ pháp mầu của trung đạo.

          “Giữ gìn” là vì giữ phép mầu đây, khắp truyền ba đời không cho dứt mất. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh lượng đó càng sâu không thể tột; ấy là nghĩa “Hạ phương có hằng hà sa các vị Phật”. 


          SAO: Với việc lấy bình bát, đức Văn Thù thòng cánh tay bên hữu đưa xa xuống khỏi cõi Hạ phương bốn mươi hai hằng hà sa thế giới; nay kinh này lại nói: “Khỏi cõi Hạ phương bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới”. Mà tìm trong tự tánh ví như cầm sào thọc biển, muốn tột đáy kia rốt cuộc không thể được.



đu ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”.



THƯỢNG PHƯƠNG 


Xá-Li-Pht! Thế gii phương trên, có đc Phm-Âm Pht, Tú-Vương Pht, Hương-Thượng Pht, Hương-Quang Pht, Ði-Dim-Kiên Pht, Tp-Sc Bu-Hoa-Nghiêm-Thân Pht, Ta La-Th-Vương Pht, Bu-Hoa Ðc Pht, Kiến-Nht-Thiết-Nghĩa Pht, Như-Tu-Di-Sơn Pht… Hng hà sa s nhng đc Pht như thế, 



          SỚ: Phạm Âm Phật là vì tiếng của Phật thanh tịnh không tạp nhiễm. 


          SAO: “Không tạp nhiễm” là: Như Phật Ngài thuyết pháp cho các thừa kia (tam thừa) đều còn là tạp nhiễm vì pháp chưa được cứu cánh thanh tịnh.  Nay Phật chỉ dùng một pháp Nhứt Thừa dạy bảo các chúng sanh, gọi bằng thuần nhứt bất tạp, hoàn toàn cái thể thật tướng thanh bạch phạm hạnh; cho nên nói là Phạm Âm Phật (Phạm Âm: tiếng trong sạch).


 

          SỚ: Tú Vương Phật là: Một nghĩa rằng: mặt trăng là Tú Vương (SAO chúa), một nghĩa nữa chính là ngôi SAO lớn nhứt giữa các ngôi SAO; ví như ngôi SAO Bắc thần; hai nghĩa đều đặng. 


          SAO: Mặt trăng là ngôi SAO chúa, chỗ gọi rằng: Muôn ngôi SAO chung sáng, chẳng bằng một ánh chiếu của mặt trăng mà trăng thời phi đồng loại với SAO. Dụ rằng Phật là bực đại giác mà giác thời chẳng phải đồng loại với mê vì hơn tất cả các loài bởi mọi loài còn mê, cho đến các thánh, Bồ Tát cũng chưa cứu cánh giác!

          “Chính là ngôi SAO chúa giữa các ngôi SAO” là sách Luận Ngữ nói: “Ví như ngôi SAO Bắc thần ở tại chỗ nào thời các ngôi SAO kia đến chầu theo đó”.  Rằng dù Bắc Thần cũng loài SAO nhưng siêu hơn đồng loại để dụ rằng: Phật tức cũng chúng sanh mà sáng suốt cao thâm hơn chúng sanh, lại làm chỗ để cho chúng sanh qui y vì lẽ được giác ngộ giải thoát.

          “Hai nghĩa đều đặng” là: 1. Do ngôi SAO với mặt trăng đối nhau, vì ánh sáng hơn nên xưng là vương (chúa). 2. Chính trong các ngôi SAO, riêng một ngôi SAO này (Bắc Thần) là hơn hết nên xưng là Vương (SAO chúa).

          Nay nói: Phật ở trong dị loại thì tự tại hơn cũng như làm chúa trong dị loại vì đã giác ngộ hơn mọi loài; Phật ở trong đồng loại và các Thánh đã giác ngộ cũng làm pháp vương như chúa trong đồng loại vì vô thượng cứu cánh giác. Cho nên hai nghĩa đều dùng đặng là như thế.


 

          SỚ: Hương Thượng Phật: Vì Phật là bực thánh sư giữa các hàng thánh như thứ hương thơm nhứt giữa các loại hương thơm, vì trên hết cả không bực nào sánh kịp. 


          SAO: “Hương bực nhứt trong các loại hương” là như hương chiên đàn; hương nầy nặng chừng sáu thù giá đáng bằng ba nghìn đại thiên thế giới.

          Lại nói:  Hương nầy một phen đốt lên, ngoài 40 dặm không người nào chẳng nghe mùi thơm của nó; ấy là hương rất trên hết vậy.

          Ðức Phật chứng đặng hương ngũ phần Pháp thân. Hương nầy khắp xông tới vô lượng thế giới; tất cả hương của trời, người, thần A Tu La, kẻ ngoại đạo, bực nhị thừa không thể bì kịp nên nói là Hương Thượng Phật. 



          SỚ: Hương Quang Phật là: Hương kia phát ánh sáng như đoạn và trí hai đức vậy.


          SAO: Ðoạn Ðức là: Mùi hương thơm có thể trừ được mùi hôi hám, có nghĩa diệt uế; các mùi hôi sạch hết, gọi đó là “hương”. Trí Ðức là ánh sáng hay phá được các tối, có nghĩa trí huệ; tỏ sáng rộng soi, gọi đó là “quang”.

          Lại mùi hương thường chỉ thơm nội lỗ mũi thôi: trong hương phát ra ánh sáng thơm tới con mắt nữa. Dụ như hàng Thanh Văn chỉ hay diệt được điều ác; có thể mà không dụng; Phật diệt được tất cả ác nên hay đủ tất cả việc lành. Ðoạn và Trí đều cụ túc như hương đă thơm mà lại phát ra ánh sáng nữa vậy. 



          SỚ: Ðại Diệm Kiên Phật là giải nghĩa đồng như văn trước. 


          SAO: Tên Diệm Kiên Phật thường có nêu ra. Chính do vì đức Phật nầy đồng danh trùng hiệu tới vô lượng vô biên.


 

          SỚ: Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật là vì nhơn tu đủ nhiều hạnh tốt như hoa đẹp để kết quả làm trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh. 


          SAO: “Muôn hạnh trang nghiêm” là: bực nhị thừa tuy chứng đặng pháp thân, nhưng nếu không tu muôn hạnh, gọi là pháp thân suông (15); còn Phật xưng là bực nhứt thế chủng trí là đã cần tu pháp Tứ Ðẳng, pháp Lục Ðộ, món món hạnh môn, không môn nào chẳng nhóm đủ; chứa công dồn đức để giúp rõ pháp thân như muôn món quí báu để trang nghiêm sắc thân. Do vì pháp thân sẵn đủ hằng sa tánh lành đức tốt. 



          SỚ: Ta La Thọ Vương Phật là: Ta La dịch là Kiên Cố, cũng dịch Tối Thắng. Vì đức của Phật không dời đổi, là bực độc tôn giữa ba cõi dụ như cây thọ vương vậy. 


          SAO: “Kiên cố” là cây này gặp năm lạnh không úa tàn, búa rìu không hại nổi, có nghĩa “kiên cố”. Như Phật chứng Pháp thân: tâm mê hoặc không thể lay, hoàn cảnh không thể động.

          Tối Thắng là cây này cao lớn, tất cả rừng cây không thể sánh kịp.  Như Phật vượt khỏi ngoài 3 cõi, là bực độc tôn giữa các thánh. Ðủ hai đức này (tối thắng và kiên cố) gọi là cây thọ vương vậy. 



          SỚ:  Bảo Hoa Ðức Phật là vì đức của Phật như hoa báu. 


          SAO: Văn trước nói Nghiêm Thân Phật vì chữ Nghiêm có nghĩa của Nhơn hoa.Văn đây nói Bảo Hoa Phật, ý lấy hoa đẹp dụ đức tốt, nghĩa là:  Phật đủ muôn đức, quí trọng xinh tốt, cũng như hoa đẹp rất quí báu vậy.

          Một thuyết khác nói: Phật có bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ðức chơn Thường như hoa bằng chất báu vì không tàn rụng.

          Ðức chơn Lạc như hoa rất quí báu vì đẹp ý người

          Ðức chơn Ngã như hoa báu vì không đối đãi với hoa ngoài

          Ðức chơn Tịnh như hoa báu vì thể nó ngời sạch, giàu có muôn đức, quí trọng xinh tốt. Khá so đó để biết vậy. 



          SỚ: Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật là vì đối tất cả nghĩa của các pháp, không nghĩa nào mà Phật chẳng biết. 


          SAO: “Tất cả” là pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Các pháp vô lượng thời nghĩa cũng vô lượng. Có người biết nghĩa gần mà không biết nghĩa xa; có người biết nghĩa lệch mà không biết nghĩa tròn; có người biết nghĩa chung mà không biết nghĩa riêng; có người biết nghĩa thiệt mà không biết nghĩa quyền. Còn Phật thì không có nghĩa nào mà ngài chẳng thấy, chẳng biết.

          Như ông thái tử Tất Ðạt Ða tên là Nhứt Thế Nghĩa Thành, tức là ý đây vậy. 



          SỚ: Như Tu Di Sơn Phật là vì núi Tu Di là chúa các núi. Ðức của Phật vượt hẳn lên trên các thánh tam thừa như núi Tu Di kia. 


          SAO: Văn trước nói: Phật Tu Di Tướng, quyết chỉ về tướng hảo; văn đây không chỉ tướng là vì chuyên theo đức mà nói. Hiệp lại cả muôn đức để tổ thành như núi Tu Di kết tinh bằng các thứ báu hiệp thành nên gọi là "Diệu". Phật ở trong thiên hạ mà tự tại độc lập như núi Tu Di cao lên trên hết, gọi là "Cao". Núi Tu Di là chúa trong các núi, cũng như đức Như Lai là pháp vương trong ba cõi; nghĩa ấy cũng đồng như một. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh ngước đó càng cao, chẳng khá tột, là nghĩa “Thượng phương có hằng sa các vị Phật”. 


          SAO: Ðối với cái đạo của Khổng Phu Tử, thầy Nhan Uyên tán thán rằng: “Ngước đó càng cao”, nay muốn dùng để dụ: Cái tâm linh vượt khỏi, thể bặt vướng vin; ngước đó càng gần, cao đó càng lắm.

          Ngày xưa ông Tịnh Danh qua khỏi thế giới Thượng phương cách với Ta Bà 42 hằng sa thế giới để lấy cơm thơm (đem về làm Phật sự). Nay kinh nầy nói: lại còn qua khỏi thế giới Thượng phương bất khả thuyết hằng sa thế giới mà tìm nơi tự tánh. Ví như nối tre thọc trời, muốn tột trên đảnh kia rốt cuộc chẳng thể được.



đu ti nước mình, hin ra tướng lưỡi rng dài trùm khp cõi tam thiên đi thiên mà nói li thành tht rng: “Chúng sanh các ngươi phi nên tin kinh: Xưng Tán Bt Kh Tư Ngh Công Ðc Nht Thiết Chư Pht S H Nim Này”. 



          SỚ: Nhẫn trên 6 phương Phật mà sở dĩ tán thán và hộ niệm đó cũng là do vì sức bản nguyện Phật A Di Ðà. 


          SAO: “Bản nguyện” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng:  “Khi ta thành Phật, danh đồn khắp cả mười phương vô ương số thế giới, các Phật mỗi ngày đều ở trong đại chúng khen công đức ta với cùng cõi nước” ...

          Nên nay Ngài thành Phật được y như lời sở nguyện kia. 



          SỚ: Có người chấp kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp Nhĩ Căn của đức Quán Âm hợp với giáo thể phương nầy, còn pháp niệm Phật của đức Thế Chí chẳng dự vào bực Viên Thông. Vì SAO ngày nay khắp xa gần đều dạy pháp niệm Phật?”

          Do đấy mà nghi, chính bởi không hiểu 6 phương Phật đồng khen pháp môn niệm Phật.

 

          SAO: Người nghi cho rằng: Pháp môn niệm Phật đã chẳng hợp với cơ người phương nầy, lại chẳng dự vào hội chọn lựa Viên Thông, đã ở cõi nầy hà tất niệm Phật làm chi? Nay xem 6 phương các đức Phật đều khen kinh nầy; còn pháp niệm Phật thời hợp cả các căn cơ trong 10 phương thế giới vậy. Kinh Ðại Bổn nói: “Mười phương chúng sanh, hễ xưng danh hiệu ta, ắt sanh về nước ta”, phải vậy.

          Pháp Nhĩ Căn là riêng hợp với trình độ nhơn loại mà thôi, còn pháp niệm Phật thời đều hợp cơ cả 6 đường chúng sanh.

          Kinh Ðại Bổn nói: “Ðịa ngục, quỉ, súc sinh cũng sanh về trong cõi của ta”, thật thế. Thế thời pháp Nhĩ Cãn chẳng gồm pháp niệm Phật mà pháp niệm Phật hay gồm pháp Nhĩ Căn. Cho nên pháp Nhĩ Căn đây chỉ phương nầy một đức Thích Ca Như Lai khen mà thôi; còn pháp niệm Phật kia cả 10 phương hằng sa các đức Như Lai đều khen ngợi. Nay theo lời khen phần nhiều cớ vậy.

          Và nay khắp cả trong thiên hạ kẻ tăng, người tục, kẻ nam, người nữ, tự nhiên niệm Phật như văn trước đã nói; thế thời pháp niệm Phật hợp cơ rất nhiều, lại còn nghi chi nữa?

          Thử lập lời dụ: Như trong nước ta đây có trăm nghìn ấp mà kẻ sĩ tử ở trong đó phân nhau để tập học ngũ kinh. Hoặc có một ấp kẻ sĩ phần nhiều tập học kinh Thi, hoặc có một ấp kẻ sĩ phần nhiều học kinh Lễ; nhưng mà hiệp hội các kinh (ngũ kinh) so chung cả nước thời sự tập học nhiều hơn hết là không chi hơn kinh Dịch.

          Nay pháp Nhĩ Căn đây ví như kinh Thi, kinh Lễ, còn pháp niệm Phật đây ví như Châu Dịch vậy. 



          SỚ: Hỏi: Ðã sáu phương các đức Phật đồng khâm khen cõi Tây phương. Vì lẽ gì đức Lục Tổ chẳng tùy theo các đức Phật để khâm khen; trái lại tuồng như chê rằng không có; các cớ ấy tại đâu?

          Ðáp: Ðây có 4 ý: 1. Vì chỗ lập môn chẳng đồng. 2. Vì tuồng như chê, nhưng thiệt ra là khen. 3. Chẳng vì kẻ sơ cơ. 4. Vì người biên chép có sai lầm. 


          SAO: Trong Lục Tổ Ðàn kinh nói: “Người phương Ðông tạo tội niệm Phật cầu sanh phương Tây; người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh về nước nào?” Lại nói: “Người ngu nguyện Ðông, nguyện Tây”, người đời sau chấp theo đây rồi sanh nghi ngờ Lục Tổ nói không có cõi Tây Phương, cho nên làm lời biện đây:

          1.  Câu ban đầu “vì chỗ lập môn chẳng đồng” lại có hai nghĩa: Một là:  Vả cứ sự, lý hai môn, lời đức Lục tổ nói là môn dùng lý đoạt sự, nghĩa là chỉ dùng lý tánh; còn về môn dùng sự đoạt lý thì thời trong các pháp môn Phật sự, không bỏ một pháp nào. Vì chỉ dùng sự là hơn lý thì đâu đặng bác bỏ đi mà cho rằng không có cõi Tịnh Ðộ.

          Hai là đời Tấn, đời Tống sắp về sau, người tu Phật đều đua nhau lấy việc Thiền định quán tưởng làm cao thượng hơn làm cho ý “trực chỉ đơn truyền” gần đến mờ lấp. Bây giờ tổ Ðạt Ma mới xướng ra cái lý đoạt sự ấy, các Tổ kế tiếp chấn hưng thêm, chỉ muốn đạo lý ấy (trực chỉ thiền) phóng đại quang minh ra mà đạo lý ấy không phân biệt có Phật có chúng sanh gì cả, nghĩa là chỉ một lý tánh mà thôi. Nay pháp môn Tây phương đây chính là vì mở bày cho chúng sanh thú hướng về Phật. Ðạo lý ấy tâm và cảnh đều tịch tịnh. Nay pháp môn Tây phương đây chính là vì lấy nước Phật làm cảnh, phát tâm cầu sanh. Thế tuy lý không hai nẻo nhưng các môn đình thi thiết chẳng đồng. Vì theo thời, theo cơ, phép nó sẽ phải vậy.

          Giả sử mới vừa mở pháp Trực Chỉ lại tiếp khen pháp Tây phương, thời ý Trực Chỉ rốt cuộc không do đâu tỏ đặng. Cho nên, biết rằng: đức Lục Tổ bên Thiền tông cùng với các Tổ bên pháp môn Tịnh Ðộ dù rằng lập môn có khác; chớ nếu đổi lại thì cũng đồng nhau, gọi bằng “dịch địa giai nhiên” (18).

          2. “Tuồng như chê, thiệt ra khen”: Ðức Lục Tổ ngài nói cái thuyết Ðông, Tây chỉ là để khuyên người cốt yếu phải thiệt tâm làm lành là hơn, đừng nguyện suông vô ích, chớ nào ngài nói không Tây phương?

          Dụ như: Ðức Khổng Tử sanh ở nước Ðông Lỗ. Người nước Tề làm ác, trong đó có kẻ ngưỡng mộ đức Khổng Tử nên kẻ ấy cầu tản cư qua nước Lỗ. Còn như người nước Lỗ làm ác trong đó có kẻ mộ đức Khổng Tử thì cầu tản cư qua nước nào?

          Số là nói: “Hễ làm lành là thiệt học với đức Khổng Tử”, chớ nào từng nói không nước Ðông Lỗ?

          Lời đức Lục Tổ nói đó, lý đó chính như trong kinh nầy nói: “Ắt dùng đa thiện căn mới đặng sanh về nước kia”, thế thời đâu đặng nói rằng ngài chê!

          3. “Chẳng vì kẻ sơ cơ” là đức Lục Tổ ngài nói: “Giới, Ðịnh, Huệ của Ta chỉ tiếp người bực tối thượng thừa”, mà nay kẻ sơ tâm hạ phàm chỉ tự hào có chút mảy thế trí (trí thế gian) đã coi rẻ pháp Tây phương, quấy bàn lý Bát Nhã chẳng những vô ích mà lại hại thêm.

          Cho nên quyển Pháp Bửu Ðàn Kinh, dè chớ đưa cho kẻ sơ cơ xem đọc. Nếu trao cho người không phải căn trí Ðại thừa thời họ liền lạc vào loài cuồng ma, thiệt đáng thương tiếc!

          4. “Biên chép có sai lầm” là: Trong Ðàn kinh lại nói Tây phương cách đây 10 muôn 8 nghìn dặm; thiệt là nhận lầm lấy cõi Ngũ Thiên Trúc đồng cho là nước Cực Lạc vậy.

          Ngũ Thiên Trúc với nước Chấn Ðán (Tàu) đồng là cõi Ta Bà uế độ, nào cần phân biệt nguyện Ðông nguyện Tây. Mà nước Cực Lạc tự cách xa Ta Bà đây đến 10 muôn ức cõi Phật.

          Số là với bổn Ðàn kinh đều là người hậu học biên chép, đâu giữ khỏi sai lầm. Chẳng thế thời Tổ ngài mượn cõi Tây Vức để dụ cõi Tây phương kia vậy thôi. Người xưa nói: “Tận tín thơ, bất như vô thơ” là ý đây vậy.  (Mỗi việc gì cũng đều tin theo sách cả thì đừng có sách còn hơn, là cái bệnh cũng như đây vậy).

          Huống chi với cõi Tây Phương, nghìn Phật đồng khen. Nay lại nghi lời nghìn Phật mà tin lời của một vị Tổ! Ôi! Với lời Phật còn không đủ tin, huống nữa là lời của Tổ ư!??

          Vậy ai là người minh trí, hãy vì người đời giải quyết giùm tâm nghi để cho họ phát khởi tâm chánh tín. Nơi nơi chỗ chỗ tùy ở đến đâu cũng rộng ra khen ngợi khắp truyền tới đó; tức là thay thế cho các đức Phật ra tướng lưỡi rộng dài, tức là trả ơn sâu cho Phật. Bằng ai trái cãi lời Phật, cố làm lời ma thuyết thời mắc tội ngay, đâu thể nói cho hết!!!

          Nay dùng một lời dụ cho rõ: Như ở đây có người, mỗi ngày nói ra một vạn lời để chê bai một vạn vị Phật; như thế chứa đủ một nghìn năm, người ấy tội nghiệp thiệt vô lượng vô biên. Lại có người nói ra một lời ác bác rằng không cõi Tịnh Ðộ, cản trở người niệm Phật, người đây tội nghiệp quá hơn người trước gấp trăm, gấp nghìn, hàng vạn phần hơn nhẫn đến không còn số tính. Vì SAO thế? Bởi vi trần chư Phật đều tán thán cõi Tây Phương, chỉ muốn cho mỗi người đều thành Phật. Nay riêng một mình người ấy sanh tâm phỉ báng, tức là phỉ báng tất cả vi trần các đức Như Lai, hãm hại cho tất cả chúng sanh thường chìm trong bể khổ chẳng đặng thành Phật. Cho nên mắc tội mới nặng như thế! Rất phải cẩn thận lời nói cho lắm! 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh khắp soi là nghĩa “6 phương Phật đồng khen”. 


          SAO: Ánh linh thiêng tự sáng, xa tuyệt chính giữa và hai bên, Phật chiếu không riêng, nào phân đây đó; cho nên đặng một không ngại với nhiều, chủ bạn lẫn thành không ngại thời ngàn sai tuy cách mà chẳng khác nhau, lẫn thành thời muôn pháp chẳng hẹn mà tự hợp hội. Thế thời 6 phương chẳng lìa nơi gang tấc (tâm niệm); các Ðức Phật đều hiện trong đầu mảy lông. Thế thời, nay kinh nầy đây sẽ ở chỗ nào?



Xá-Li-Pht! Nơi ý ca ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nht-Thiết Chư Pht S H Nim?



          SỚ: Có tên ắt có nghĩa. Nay tỏ bày nghĩa đó mới đáng vưng làm, không chỗ nghi vậy. 


          SAO: Ðề mục 16 chữ nay chỉ gạn 8 chữ sau là do 4 chữ "bất khả tư nghì", Phật Thích Ca Ngài khen, nghĩa kia đã rõ.

          Phật phương khác khen, thêm 8 chữ nầy nên gạn nghĩa đó: Thế nào là Phật hộ? Và Phật niệm bằng cách nào? Bởi vì văn trước dạy phải tin kinh nầy. Văn đây rằng: Với nghĩa đã rõ rồi vậy sau mới tin chắc được.



Xá-Li-Pht! Vì nếu có thin nam t, thin n nhân nào nghe kinh này mà th trì đó, và nghe danh hiu ca đc Pht,



          SỚ: “Nghe kinh này” là: Lặp lại văn trước nói y, chánh, tín, nguyện và trì danh được vãng sanh v.v... “Người nghe thọ trì” tức văn trước nói pháp tam huệ và pháp tam tư lương, cớ vậy. 


          SAO:  “Nghe” tức Văn Huệ; Thọ tức Tư Huệ; Trì tức Tu Huệ. Văn tức nghĩa Tín; Thọ tức nghĩa Nguyện; Trì tức nghĩa Hành.  Rõ thấy văn trước đã giải. 



          SỚ: Nghe danh hiệu chư Phật tức là lặp lại trên: “Nghe danh hiệu chư Phật ở 6 phương”. Vì nghe kinh đã thọ trì thì nghe danh hiệu Phật cũng phải thọ trì. 


          SAO: Hỏi: Kinh này “nghe danh hiệu Phật A Di Ðà làm cái nhơn vãng sanh” cũng đủ rồi, nào lại gồm nghe danh hiệu chư Phật làm chi nữa?

          Ðáp: Công đức của Phật A Di Ðà được Hằng sa chư Phật đồng khen thời nghe danh hiệu chư Phật, biết chư Phật khen mới tín thọ kinh nầy càng thêm thân thiết; cho nên đều nêu vậy.

          Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 6 bài văn Hồi Hướng nói: “Lại ở chỗ Phật, được nghe danh hiệu Phật, càng thêm gặp gỡ vô số chư Phật” tức là ý nghe kinh nầy và nghe danh hiệu của chư Phật vậy. 



          SỚ: Kinh Ðại Bổn nói: “Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này, mà không được nghe”.

          Lại trong kinh nói: “Thà ở dưới địa ngục mà được nghe danh hiệu Phật” thời biết nghe kinh này và nghe danh hiệu chư Phật rất chẳng phải là sự dễ.


          SAO: Vị Bồ Tát muốn nghe mà chẳng được nghe thời với bực nhị thừa kẻ phàm phu ta khá biết vậy.

          Lời kệ kinh Ðại Bổn: “Nếu đời trước chẳng tu Phước Huệ thời đối với chánh pháp đây không đặng nghe”. Ðã từng vâng thờ các đức Như Lai nên mới có nhơn duyên được nghe nghĩa kinh này.

          “Ở dưới địa ngục được nghe danh hiệu Phật” là: Kinh Hoa Nghiêm lời kệ nói: “Thà chịu khổ trong Ðịa ngục mà được nghe danh hiệu chư Phật; chớ chẳng muốn sanh trong cõi trời mà chẳng đặng nghe danh hiệu Phật”.

          Nên biết kinh nầy, với danh hiệu Phật chẳng dễ gì nghe vậy.

          Nay được nghe đó, khá chẳng tin thọ hay SAO? 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh tự giữ lấy kiểu mẫu là nghĩa nghe kinh này. Tự tánh tự giác Bổn Phật, Thỉ Phật là nghĩa nghe danh hiệu chư Phật. 


          SAO: Tự tánh tự giữ gìn lấy qui tắc của nó thời “đức tôn giả (Tu Bồ Ðề) không thuyết pháp, ta (Ðế Thích) cũng không nghe”; thế thiệt là lý Bát Nhã. Tự tánh tự giác chiếu lấy bổn thỉ của nó thời không danh, không tự, không thể, không tướng thế gọi là Như Lai. Vậy thời với pháp mầu khó tin giữa thế gian đây dù không nghe mà được đành rành tỏ rõ; với hồng danh của hằng sa chư Phật bặt thinh mà vẫn ầm ầm bên tai. Nên nói: Với những kinh chưa nghe, tin đó không nghi; vưng thờ chư Phật không bỏ qua vậy.



thi nhng thin nam t cùng thin n nhân y đu được tt c các đc Pht h nim, đu được không thi chuyn nơi đo Vô thượng chánh đng chánh giác.



          SỚ: Vì chư Phật hộ niệm nên đặng bực bất thối chuyển bồ đề.  Nghĩa bất thối đã thấy giải văn trước. 


          SAO: Văn trước gạn hỏi: “Thế nào là hộ niệm?”, văn đây chỉ ra căn do ấy. Ý nghĩa là người nào thụ trì kinh nầy và được nghe danh hiệu chư Phật thời được chư Phật hộ niệm cho khiến không thối tâm.

          Lại bản kinh của nhà Ðường dịch nói: “Ắt được 10 phương 10 số Căng Già hà sa các đức Phật đồng nhau thâu nhận”, thời chẳng phải chẳng những 6 phương mà cũng chẳng những một số hằng sa mà thôi. 



          SỚ: Chữ A, dịch: Vô. Nậu-đa-la, dịch: Thượng. Tam-miệu dịch: Chánh Ðẳng; Tam-Bồ-đề, dịch: Chánh Giác, tức là bực Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nghĩa là bực đã giác ngộ chân chánh, bình đẳng không còn bực nào hơn nữa. 


          SAO: Với quả vị cứu cánh cực điểm gọi là “vô thượng”, vì đối với bực hạ nên nói không còn bực nào cao hơn nữa. Chính xét được chân lý chắc thật nên gọi là Chánh; vì đối với tà. Xem xét Tục đế bằng tâm bình đẳng nên gọi là Ðẳng; cũng gọi là Biến Mãn vì không thiên lệch không phân biệt giai cấp. Chữ Giác là sáng tỏ trong tâm mình. Chánh Giác là gồm có hai nghĩa:  Vô Thượng và Chánh Ðẳng. Nói chữ Giác đây là bực Chánh Giác Vô Thượng Chánh Ðẳng vậy.

          Bởi loài xuẩn động hàm linh đều có tánh Phật thời quả Bồ Ðề đây Phật cùng chúng sanh xưa nay không hai. Nhưng bị vô minh là nghiệp chướng che phủ mới thành mê vọng chấp trước phân biệt ngã, nhơn. Ðó là tà giác, chẳng kêu là Chánh. Tất cả lục phàm đều như thế. Hàng Thanh Văn, Bích Chi chỉ phá được kiến hoặc, tư hoặc; tuy cũng đặng đạo quả Bồ Ðề nhưng Ðạo kia chưa được trung chánh vì chỉ tự giác. Ấy là thiện giác, không kêu là Ðẳng. Tất cả Bồ Tát đã hết trần sa hoặc, nhưng chưa hết vô minh hoặc; tuy đặng bực chánh đẳng bồ đề, nhưng đối với bực Phật còn kém xa, không gọi là vô thượng! 

Duy một mình Phật vọng hết giác mãn như mặt trăng đêm rằm, không còn có bực Giác nào hơn nữa nên gọi là bực Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác vậy. Nay chỉ trì danh hiệu Phật, nhờ Phật hộ niệm, đối với bực Giác như thế tức đặng bất thối chuyển, nghĩa là thẳng đến đạo tràng, trọn không còn đọa trong 3 cõi và lưng chừng nơi hóa thành, quyết định thành Phật.

          Kinh Ðại Bổn ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Nghe danh hiệu ta rồi, với quả a nậu đa la tam miệu tam bồ đề mà có thối chuyển ấy thời ta không thủ ngôi chánh giác”.

          Lại nói: “Do vì đối với pháp đây, không chịu nghe nên có một ức Bồ Tát thối chuyển nơi quả a nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.  


       

          SỚ: Văn trước nói: “A Bệ Bạt Trí”, chính là văn đây nói nghĩa bất thối Bồ Ðề vậy. Nhưng trước khi vãng sanh và sau vãng sanh, ý có hơi sai khác. 


          SAO: A Bệ Bạt Trí mà gọi rằng Bất Thối đó, chính là nói đối với quả Vô Thượng Bồ Ðề không thối chuyển vậy.

          Song văn trước nói: “Người sanh nước kia đều đặng bực bất thối”.

          Văn đây nói: “Nghe kinh này và nghe danh hiệu Phật, thế đều đặng bực bất thối” thời chẳng đợi sanh về nước kia mà trước khi chưa sanh về, tức đã đặng thành tựu, thiện căn Bồ Ðề không thể hư hoại; huống lại sanh về kia rồi mà có thối chuyển hay SAO!

          Lại có hai nghĩa: 1. Hiện thời không thối như trên đã nói. 2. Dầu người kia ít tuổi thọ, nhiều nghiệp chướng, chẳng đặng vãng sanh, nhưng nhờ sức chấp trì của mình đây và sức Phật hộ niệm, ắt qua đời sau với thiện căn Bồ Ðề cũng chẳng tan mất, rốt ráo đặng sanh về cõi Phật kia.

          Người xưa nói: “Ðời nay đã gieo các hột giống Bát Nhã này, dầu nay chưa tỏ ngộ, nhưng qua đời sau vừa ló đầu ra, mặc dầu ở trong tánh Bát Nhã sẵn sàng thọ dụng”, chính là nghĩa đây vậy. 



SỚ: Xứng lý thời tự tánh thường giác là nghĩa Bất Thối Bồ Ðề. 


          SAO: Tánh khôn thiêng riêng chiếu, rỡ rỡ thường tri, không giảm không tăng, không đắc, không thất, Bồ Ðề tức ta, ta tức Bồ Ðề, tấn còn không có làm gì có thối?



Xá-Li-Pht! Cho nên các ông đu phi tin nhn li ca Ta và ca các đc Pht nói.


      

          SỚ: “Ðều phải tin thọ”: ấy là lời khuyên lần thứ ba. Có người phân cho đoạn văn đây thuộc về phần lưu thông, nhưng nay cũng để thuộc về phần Chánh Tông vì do nương văn trên, chính khuyên người tín thọ khiến đặng vãng sanh. Hai văn trước đều khuyên phát nguyện.  Văn đây lại khuyên tín thọ. 


          SAO: “Khuyên lần thứ ba” là: Văn trên nói: “Nghe lời nói ta đây, chỉ phải trì danh thời đặng sanh”, nhưng chưa rõ: thối hay là không thối. Văn đây nói: “Chẳng những đặng vãng sanh mà với quả Vô Thượng Bồ Ðề ắt hằng không thối chuyển”.

          Như thế thời nguyện càng thêm thiết, cho nên nói ba lần khuyên chưa thuộc phần lưu thông là do Tín, Nguyện, Vãng Sanh là cang yếu trong bộ kinh này. Văn sau trùng trùng khuyến tín, khuyến nguyện, phân thuộc phần Chánh Tông đối với nghĩa là đúng.

          “Các ông” là chính chỉ ông Thân Tử nhẫn đến đại chúng hiện tiền và gồm tất cả các chúng sanh đời vị lai v.v..

          Bởi vì với một vị Phật ngài nói đã tin chắc, huống chi chư Phật đồng khen, lại còn nghi chi. Tín, Hạnh, Nguyện ba món, không đặng thiếu một, cho nên văn trước khuyến nguyện, văn đây lại khuyến tín.

          Lại khuyến là gì? Văn trước, trong văn 6 phương Phật đã khuyên phải tin kinh này.

          Văn đây lại nói rành: “Phải tin lời ta”. Bởi vì không nguyện là do trong tâm không tin. Không tin thời không do đâu khởi hạnh tu. Cho nên đối với trong kinh này, Phật Ngài trùng trùng khuyến tín.

          Như kinh Ðại Bổn nói: “Người không tin lời Phật nói chính người đó trong ác đạo mới tiến hóa ra, tội thừa chưa hết, ngu si, bất tín, chưa đặng giải thoát”.

          Lại ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Hết lòng tin mến muốn được về cõi của ta, 10 tiếng niệm Phật ắt được sanh về, duy trừ tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp”. Báng chánh pháp là nghĩa “bất tín” vậy.

          Lại kinh Văn Thù Bát Nhã như văn trước đã dẫn, rốt sau cũng nói rằng: “Duy trừ người bất tín”. Lại kinh Hoa Nghiêm nói: “Tin là gốc của Ðạo, tin là mẹ sanh ra công đức” mà Phật lại nói mãi không thôi, đâu luống vậy ư?

          Ngài Thanh Lương Ðại Sư nói: “Ông Cao Tề Ðại Hạnh Hòa thượng tôn sùng pháp niệm Phật dùng 4 chữ dạy bảo, nghĩa là: hai chữ “tin nhớ” không lìa trong tâm, hai chữ “kính niệm” không lìa nơi miệng. Sanh về Tịnh Ðộ cần yếu phải có tâm tin.  Nghìn người tin thời nghìn người được sanh về, muôn người tin thời muôn người được sanh về. Tin danh hiệu Phật thời chư Phật liền cứu, chư Phật liền hộ niệm. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân thường kỉnh Phật mới gọi là thâm tín. Mặc ý SỚm hay muộn gì quyết không có phép nào lại trụ trong cõi Diêm Phù Ðề này”. Văn đây khuyên người đời phát tín tâm rất là thiết yếu. 



          SỚ: Tín là nghĩa “không nghi”, Thọ là nghĩa “tin rồi lãnh nạp  không quên”. Tín mà không Thọ cũng như không Tín vậy. 


          SAO: “Tín mà không thọ lãnh”: Ví như có người đem cho vật báu rất tin không nghi, song mà cứ cự mãi không nhận lấy, dầu tin cũng chẳng ích gì! Cho nên nói “cũng như không tin” vậy. 



          SỚ: Lại chữ tín tức là tâm thanh tịnh như trong bộ Duy Thức đã nói. 


          SAO: Trong Thành Duy Thức Luận nói: “Ðức Tín tánh cách nó là tâm tịnh”, nghĩa là đối với chỗ thật đức hay thâm nhẫn ưa muốn (bởi có trí huệ tin hiểu thấy được lý chân đế, nên gọi chỗ thật đức). Thế nào là tâm tịnh?  Vì tâm thù thắng vậy. Như ngọc Thủy Thanh hay làm cho nước đục được trong.

          Lại trong các món nhiễm, mỗi món đều có hình tướng; chỉ có tâm bất tín tướng nó vẩn đục, lại hay khuấy đục đến các tâm vương, tâm sở. Tỷ như vật rất nhơ vì nó đã làm nhơ mình lại nhơ lây người khác. Nếu tâm tín chính là đổi được cái tướng nhơ kia, nên lấy tâm tịnh làm tướng.

          Nay người tu Tịnh Ðộ chủ về tâm tịnh; tâm tín là việc gấp cũng rõ lắm rồi. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh bản lai vẫn là Phật là nghĩa “tín thọ”. 


          SAO: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Thập Tín toàn dùng quả Phật làm tín tâm của mình” (mỗi bực giữ 10 tín).

          Bởi do Phật tức là tâm, cho nên trong tâm chúng sanh, mỗi niệm mỗi niệm thường có tánh Phật thành ngôi chánh giác. Nên người mà dấy lòng tin như vậy thì đối với ý mầu chốn Kỳ Viên, lời nhiệm của nghìn vị Phật, chỉ một thời người ấy đã thụ trì tất cả.




NGUYđu đưc không thi chuyn

nơi đo Vô thưng chánh đng chánh giác” 



          Xá-Li-Pht! Nếu có người đã phát nguyn, hin nay phát nguyn, s phát nguyn mun sanh v cõi nước ca đc Pht A Di Ðà, thi nhng ngườy đu đng không thi chuyn nơi đo Vô Thượng Chánh Ðng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoc đã sanh v ri, hoc hin nay sanh v, hoc s sanh v.



          SỚ: Văn trước nói: “Tín, Thọ”, văn đây nói: “Tin rồi phát nguyện vãng sanh” vậy. Ðã nguyện, nay nguyện và sau nguyện là phối với ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai.

          Nói ba thời kỳ đó để rõ rằng: Hễ có nguyện, không một người nào mà chẳng vãng sanh. 


          SAO: “Ðã phát nguyện, đã vãng sanh” là: Thì trước khi Phật nói kinh này, đã có người cầu nguyện sanh về nước kia, đã được vãng sanh rồi.

          “Nay nguyện, nay sanh” là chánh thời kỳ Phật còn tại thế vậy.

          “Sau nguyện, sau sanh” là: Nghe kinh này vừa rồi, mãi cho đến ngày nay, ngày sau và đời sau nữa....

          Văn trước nói: “Bất thối Bồ đề”, văn sau nói người đặng vãng sanh đó rõ ràng: “Hễ người phát nguyện thời ngay đương đời đây đã thuận theo đường Chánh Giác rồi, huống đã đặng vãng sanh ư?”

          “Không một người nào chẳng được sanh” là: Rõ nói những người vãng sanh rất nhiều đến vô lượng.

          Hỏi: Người được sanh đã nhiều vô lượng, nay SAO tình cờ mới thấy có một người?

          Ðáp: 10 phương thế giới đông như số vi trần, những người vãng sanh kia nào ai biết được số hạn. Nay ngươi chỉ thấy cõi Ta Bà chớ không thấy nhiều cõi như số vi trần trong 10 phương.

          Lại hỏi: Người sanh đã nhiều vô lượng; cõi kia làm SAO mà chứa cho hết?

          Ðáp: Biển cả chứa trăm sông mà chẳng tràn, gương sáng trùm muôn tượng còn có dư, huống cõi Tịnh Ðộ ư? Tức tâm là tịnh độ, tức độ là tâm vì lẽ lấy qui về tâm thì nào lại chẳng chứa hết? 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện tại là nghĩa “đã sanh, nay sanh và sau sanh”.

 

          SAO: Muôn năm thâu vào trong một niệm thì xưa nào mà chẳng phải nay? Một niệm suốt đến muôn năm thì nay nào chẳng phải xưa? Thế thời mỗi niệm mỗi niệm dạo đi nước Cực Lạc, mỗi giờ mỗi giờ ra mắt Ðức Từ Tôn, đâu chẳng phải vãng sanh đấy? Tâm quá khứ không thể đặng. Ðã không tâm ấy còn ai nữa mà vãng, mà sanh, nhưng không sanh mà sanh. Ðó là cái nghĩa “đã sanh, nay sanh và sau sanh”.



Xá-Li-Pht! Cho nên các thin nam t thin n nhân nếu người nào có lòng tin thi phi nên phát nguyn sanh v cõi nước kia.  


  

          SỚ: Văn trước nói: “Có nguyện thời ắt có sanh” thời nhơn quả rõ ràng, chỉ e người không tin cùng người tin mà không nguyện sanh, cho nên tổng kết tâm tín và nguyện, nghĩa là nếu ai không tin thì thôi, còn nếu có người tin thì nên phát nguyện sanh về nước kia. Ðây là lần khuyên thứ tư. 


          SAO: “Lần khuyên thứ tư” là: Từ lần khuyên ban đầu đến lần khuyên thứ hai đều nói: “ Phát nguyện cầu sanh”, đến trong lần khuyên thứ ba lại nói rõ ràng: “Nguyện là từ tâm tín mà khởi”. Như trên ba lần nói chỉ là khuyên nói cần phải phát nguyện, nhưng chưa nói rõ công đức phát nguyện.

          Văn đây nói: “Ðời quá khứ, đời vị lai và đời hiện tại, hễ có người nguyện, không một người nào mà chẳng được sanh”, mới biết cái nguyện lực rộng lớn như thế, đâu đặng không tin, đâu đặng không nguyện? Nên nói bốn lần khuyên và nói lời tổng kết.

          Ngài   Trí Giả nói: “Ngục Hỏa xa hiện tướng còn đặng vãng sanh”.  Huống chi giới, định ròng tu, công chẳng luống uổng. Ðây là lòng tin rất tột vậy.

          Ngài Vĩnh Minh nói: “Kiếp đá còn có thể mòn, chớ nguyện ta không bao giờ thay đổi”; đây là lời nguyện rất rộng vậy. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh Như và Trí thầm hiệp, ấy là nghĩa “trí và nguyện đều thành”. 


          SAO: Thuần nhiên chơn thật mà không luống là nghĩa “tự tánh chơn như” vậy. Thế nên gọi là Tín. Xí nhiên tưng bừng sanh ra mà không cùng tận ấy là nghĩa “tự tánh trí huệ” vậy; thế gọi là Nguyện.

          Như hiệp với Trí; Trí hiệp với Như. Ngoài Trí không Như, ngoài Như không Trí. Văn Thù là bực Tín Thủ sẵn đủ trong nhứt tâm, Phổ Hiền là bực Nguyện Vương, cũng không rời trong nhứt niệm.



Thích-ca cùng Chư-Phđồng khuyên 

HNH nim Pht cu sanh Cc-lc



         Xá-Li-Pht! Như ta hôm nay ngi khen công đc chng th nghĩ bàn ca các đc Pht,


 

          SỚ: Bổn kinh của đời nhà Ðường dịch đã nói: “Như ta đây rao bày khâm khen đức Vô Lượng Thọ Phật”.  Kinh nầy nói: “Khâm khen các đức Phật”.  Nư lời Cổ Nhai nói: “Do vì đức Phật Di Ðà với chư Phật đồng một pháp thân”. 


          SAO:  “Ðồng một pháp thân” là như kinh Hoa Nghiêm lời tụng nói: “Mười phương các đức Phật Như Lai, đồng chung một pháp thân; một thân một trí huệ, Thập lực, Tứ vô úy cũng thế”.

          Thời đức Phật Di Ðà tức là các đức Phật, các đức Phật tức là Phật Di Ðà; cho nên chẳng nói đức Di Ðà mà nói các đức Phật. Số là gồm đức Di Ðà cùng các đức Phật đồng khâm khen đức Thích Ca vậy.


 

          SỚ: Bản dịch đời nhà Ðường do đức Di Ðà gồm các đức Phật; nay kinh này: Do các đức Phật gồm đức Di Ðà. Nếu cả hai thuyết gồm nói đủ thời với văn đã thuận mà nghĩa lại cũng cụ túc. 


          SAO: “Ðủ hai thuyết” là nói: Như ta nay đây khâm khen đức Phật A Di Ðà, cùng với các đức Phật đều có công đức bất khả tư nghì; thế thời văn kinh đã thuận mà với nghĩa đồng một Pháp thân cũng ở trong đó, văn nghĩa đều tốt. Nên biết ngài La Thập vốn có ý đây, nhưng vì ngài muốn bớt văn cho dễ, ngài Huyền Tráng dịch sau chỉ vì riêng nói; ấy là muốn cho người đối trong hai kinh khéo hiểu nói ý kia mà không chấp nơi văn tự vậy. Lại các đức Phật với Phật Di Ðà đồng nhau cũng là bất khả tư nghì.



các đc Pht đó cũng ngi khen công đc chng th nghĩ bàn ca Ta mà nói li ny: “Ðc Thích Ca Mâu Ni Pht hay làm được vic rt khó khăn hi hu, có th  trong cõi Ta Bà đi ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phin não trược, chúng sanh trược, mng trược trung, mà Ngài chng được ngôi Vô Thượng Chánh Ðng Chánh Giác, 



          SỚ: Mỗi vị Phật khâm khen lẫn nhau là vì để tiêu biểu pháp môn Tịnh Ðộ này, quyết phải tín thọ. 


          SAO: “Mỗi vị Phật lẫn nhau khen” là: Vì với pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ đây, dẫu một vị Phật riêng khen cũng phải tín thọ không nghi; huống nay chẳng những một đức Thích Ca khen nơi hội Kỳ Viên mà thôi, cho đến chư Phật ở sáu phương cũng vẫn đồng khen ngợi. Lại Phật đây, Phật kia lẫn nhau tán thán, há chẳng phải pháp môn tối yếu siêu sanh thoát tử hay SAO? Thế nên nhắc lại bốn phen dặn dò, nhiều phương dạy bảo, ơn hơn mẹ đẻ, nhơn quá trời cao, dầu cho có làm hạnh chi đến tan xương nát thịt đi nữa cũng khó mà đền đáp cho vừa. 



          SỚ: “Các Ðức Phật kia” tức là Phật Di Ðà cùng 6 phương chư Phật vậy. Thích Ca, dịch: Năng Nhơn; Mưu Ni, dịch: Tịch Mặc. 


          SAO: Năng Nhơn Tịch Mặc, đủ có hai nghĩa: 1. Theo đối đãi mà nói thời chữ Năng là pháp phương tiện quyền khéo chìu theo cơ ưa hợp. Chữ Nhơn là trí, đức hồng ân khắp nhuần muôn loại, là lòng đại bi lợi vật. Chữ Tịch là lặng vậy bất động, bặt dứt muôn điều.Chữ Mặc là vắng vậy, quên lời, hằng lìa sự hý luận, ấy là cái đại trí hiệp với chơn lý. 2. Với viên dung mà nói: Do vì bi tức là trí nên trọn ngày độ sanh mà không có tướng chúng sanh nào khá độ; đấy là tức Ðộng mà Tịnh vậy.

          Do vì Trí tức Bi nên chẳng khởi lên một mảy niệm mà thường độ chúng sanh; đây tức là Tịnh mà Ðộng vậy. Cho nên biết rằng chỉ nói hai chữ Bi, Trí nhẫn đến một lời thì toàn đức của Phật đều gồm được hết. 



          SỚ: Câu “Ít có rất khó” là lời nói chung cả hai việc khó ở dưới, Làm đủ hai việc khó đây nên gọi công đức bất tư nghì. 


          SAO: “Nói hai việc khó” là: Ở trong đời ngũ trược mà tu chứng đặng quả Bồ Ðề, đó là một việc khó. Lại ở trong đời ngũ trược mà nói ra pháp môn Tịnh Ðộ này, đó là việc khó thứ hai. Gồm cả hai việc đây thật là cái việc rất khó làm mà duy có Phật làm được. Với việc ít có, khó thấy ấy cũng chỉ một mình Phật có đó.

          Lại việc khó làm mà làm được cũng chưa phải là điều ít có. Nay việc rất khó làm mà được đó, đấy mới là tột xưa suốt nay, siêu hiền vượt thánh, trên trời dưới trời đồ sộ đặc biệt riêng một mình mà không ai so sánh cho bằng bực ấy nên nói là “ít có”. 



          SỚ: Chữ Ta Bà dịch là Kham Nhẫn, cũng dịch là: Nhẫn Giới, tức là cõi Ðại Thiên Thế Giới của đức Phật Thích Ca Thế Tôn làm Pháp chủ. Chữ “ngũ trược” là gì? Do năm việc uế trược nó đánh lẫn lộn nhau làm nhơ đục chơn tánh của chúng sanh nên gọi là đời ác trược. Thời kỳ nào không năm món trược đây thì gọi là đời thiện tịnh vậy. 


          SAO: Kham Nhẫn là do vì chúng sanh ở đây kham xiết đành chịu ba điều độc hại phiền não, xoay vần trong đường sanh tử mà không nhàm lìa.  Nhẫn Giới là vì đức Như Lai ở trong cõi nầy, riêng một mình ngài chứng đặng bực Tự Thệ tam muội (19).

          Lại thời kỳ sơ kiếp có vị Phạm Vương tên là Nhẫn (20). “Ngũ trược quấy lộn lẫn nhau” là bản tánh vốn vắng lặng, do kiếp trược v.v... cả năm trược xáo lẫn nổi lên cát bụi bặm, cặn cáu. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Ví như nước đang trong, lấy đất cát quăng vô, đất rã làm cho nước mất tánh trong sạch, vì lộn lạo đục ngầu”.

          Chữ Thế là nghĩa “dời đổi không ngừng”. Thời đời trước, đời nầy và sau đời nầy, phải có một đời gọi là thiện thế vì bấy giờ không ngũ trược.  Nay nói đời ác thế là căn cứ vào thời kỳ Phật Thích Ca đương hiện thế mà nói. 



          SỚ: Chữ “kiếp” đọc đủ tiếng Phạm là Kiếp Ba, dịch là Thời Phận.  Chữ Kiếp trược là nó không có cái thể riêng; do có 4 trược kia mà đặt cái tên cho nó (là kiếp trược); các điều trược cấu cặn lẫn với nhau tức là tướng hiện thật của nó (kiếp trược). 


          SAO: “Kiếp trược” là trong một đại kiếp có bốn trung kiếp là: Thành, Trụ, Hoại, và Không. Mỗi một Trung kiếp đều có 20 tiểu kiếp, xây vòng tăng, giảm.

          Thuở mà loài người tuổi sống tăng đến khi mỗi người sống được 8 muôn (80.000) tuổi là số tăng đã tột. Lại một trăm năm giảm xuống một tuổi, cứ giảm như vậy cho đến khi con người còn sống được hai muôn (20.000) tuổi, tức là vào thời kỳ kiếp trược rồi.

          “Không có cái thể riêng” là do bốn trược sau đều ở trong kiếp trược đây, nhơn đó mà đặt tên là "Kiếp trược". Phần của kiếp đây, nội dung hiện tượng của nó là các trược đua nhóm lẫn nhau, tơi bời xen lộn, cho nên nói là “trược”.

          Trái lại để thêm rõ trong nước Cực Lạc, đương thời là Phật A Di Ðà hiện tại thuyết pháp, là vì thời gian thanh tịnh không phải kiếp trược... Ngày nay chúng ta vì SAO đành ở trong đời kiếp trược nầy mà chẳng cầu sanh về nước kia ư? Bốn trược sau cũng nương theo đây.

          Nên ngài Trí Giả nói: “Cõi Tịnh Ðộ kia vì không có ba độc và năm trược nên gọi là cõi ngũ thanh” là ý đây vậy. 



          SỚ: Kiến trược là lấy năm món lợi sử làm thể, chia ra thì thành 62 cái ...  Các tà kiến lừng lẫy tức là tướng của nó (kiến trược). 


          SAO: Năm món lợi sử là: 1. Thân kiến: Nghĩa là chấp ngã và ngã sở mà khởi ra tà kiến chấp có thân ta. 2. Biên kiến: Nghĩa là chấp đoạn, chấp thường, mất lý trung đạo mà khởi ra tà kiến, chấp một bên. 3. Giới thủ:  Nghĩa là chẳng phải chánh nhơn mà chấp cho là nhơn, để tu theo lối khổ hạnh của tà đạo mà khởi ra tà kiến, chấp trước rằng ta hãy giữ giới (giới của tà đạo). 4. Kiến thủ: Nghĩa là chấp quấy làm phải, như chuyện gánh gai bỏ vàng mà khởi ra tà kiến, tự phụ chỗ sở kiến của mình. 5. Tà kiến: Nghĩa là bác đi nói không có nhơn quả, mắc về cái tội chấp không, trống rỗng (ngoan không)  gây ra cái thấy biết không chánh đáng của bọn tà ngoại.

          Năm điều ấy nó hay khiến chúng sanh đi vào con đường sanh tử cho nên gọi là "Sử". Nhưng mà cái thể nó mảy mún, nhặm lẹ làm hại chẳng phải nhỏ. Vì đối với năm Ðộn sử để nói nên kêu là Lợi sử, nghĩa là nó sai khiến rất nhanh chóng.

          “Chia ra thời thành 62 Sử” là: Dùng hai cái chấp đoạn và chấp thường làm gốc mà sắc ấm v.v... năm ấm, mỗi ấm có đủ bốn câu, nhơn cho ba đời thành 60, thêm hai gốc Ðoạn và Thường kia cộng thành 62 sử (sai khiến).

          Các cái tà kiến đấy cũng như rừng rậm quấn buộc quanh co, người đời không thể ra khỏi, khuấy rối chơn tánh, cho nên nói là “trược”.

          Trái lại với trên là để rõ trong nước Cực Lạc, mỗi người đều đủ sức chánh kiến vì chẳng mắc cái kiến trược như chúng sanh ở cõi nầy.


 

          SỚ: Phiền não trược là lấy năm món Ðộn sử làm thể, nhơn rộng ra thì nhiều đến thành 10 món, 108 món, tám vạn bốn ngàn (84.000) món, và hằng sa đẳng món ... để vời mắc lấy tam tai, tức là cái hiện tướng của phiền não trược. 


          SAO: Năm món Ðộn sử là: 1. Tham: Nghĩa là gặp các cảnh thuận tình thì khởi ra tâm yêu đắm, vì không thể bỏ lìa 2. Sân: Nghĩa là gặp những cảnh trái tình thì khởi tâm hờn giận, vì không thể dung nhẫn. 3. Si: Nghĩa là đối với cảnh không phải trái, chẳng phải thuận thì khởi ra tâm ngu ám, vì không thể xét biết. 4. Mạn: Nghĩa là: Ðối với tất cả. Chúng sanh khởi tâm kiêu ngạo trên lấn, dưới lướt, vì không hay kính nhường. 5. Nghi: Nghĩa là đối với các pháp lành khởi ra tâm nghi nan, khi muốn tấn, lúc muốn thối, vì chẳng hay tự quyết định được.

          Năm cái đây cũng hay khiến người thẳng vào trong đường sanh tử, cho nên gọi là "Sử"; sánh với năm sử trước thì nặng nề chậm chạp hơn nên gọi nó là “Ðộn sử”, nghĩa là cũng sai khiến mà chậm lụt lắm!

          “Nhơn rộng ra” là đem năm độn sử hiệp cộng với năm lợi sử trước, làm thành 10 món phiền não. Lại chia ra thời làm thành 98 món phiền não, thêm món thập triền thời thành 108 món phiền não. Lại chín chắn suy ra nữa thời tới tám vạn bốn nghìn (84.000) phiền não, nhẫn đến hằng sa và đa đa vô lượng. Bởi nó làm nhọc nhằn tâm ta, không đặng an ổn, nóng nảy tâm ta không đặng mát mẻ!

          Lại các món rộn ràng, nó ép ngặt tâm thần làm cho tánh chơn minh chẳng xán lạn; cho nên gọi nó là “phiền não”.

          Với “mắc tam tai” là do lòng tham nên cảm chịu lấy tai cơ cẩn (đói kém, mất mùa), lòng sân cảm chịu lấy tai đao binh; lòng si cảm thụ ra tai tật dịch; nhẫn đến tai nước, tai lửa, tai gió các tai nạn lớn, cũng đều do theo một loại của phiền não nó sai khiến cho nên nói nó là “trược” vậy.

          Trái lại với trên là để rõ trong nước Cực Lạc, mỗi người đều trí huệ trong sạch vì chẳng phải phiền não trược như cõi này. 



          SỚ: Chúng sanh trược là: Một chỗ nói: Lấy ba nghĩa của kinh A Hàm để làm thể. Lại chỗ thì nói trộn lẫn với năm ấm: Ấm, kiến thức, mạn khinh; quả báo để làm thể. Tên xấu tiếng nhơ tức là tướng của nó vậy. 


          SAO: “Ba nghĩa” là Kinh A Hàm nói: 1. Ban đầu kiếp trụ do chúng sanh cõi trời Quang Âm bị đọa xuống ở mặt đất nầy. 2. Hòa hợp với 5 ấm để lẫn sanh ra. 3. Tùy theo mỗi chỗ (6 đường) để thụ sanh theo mỗi trường hợp; cho nên nói “chúng sanh trược”.

          “Năm ấm” tức là sắc ấm, thọ ấm ... Chữ “kiến” là không thật có chủ tể mà chấp bướng rằng thân nầy thật có chủ tể, thế là “ngã kiến” (chấp ta, tự ái, bản ngã:  tự nhận thấy có làm chủ thân nầy, vật nọ).

          Chữ Mạn là chấp cu sanh chủ tể (“cu sanh” là cái chấp đời trước, còn thừa lại đều theo sanh ra với thân đời nầy) gọi là “ngã mạn” (trọng mình khinh người).

          “Quả báo” là đời trước đã tạo nhơn, đời nầy phải chịu quả báo, cũng là nghĩa thọ sanh như trên.

          “Tên xấu, tiếng nhơ” là: Ðối với Phật thì “chúng sanh” là cái tên tuổi tiếng tăm rất hèn xạ xấu xa bởi luân hồi trong sáu đường, chịu đủ các việc thống khổ cho nên nói là Trược.

          Trái lại với trên là để rõ trong nước Cực Lạc, người người toàn là bực thượng thiện đồng hội hợp một xứ, vì chẳng phải như chúng sanh mang những danh xưng ác trược như cõi này! 



          SỚ:  Mạng trược là: Lấy sắc và tâm chuyền luôn, nối giữ làm thể, thâu thúc năm, tuổi, giảm ngắn số thọ tức là tướng của nó vậy. 


          SAO: “Chuyền luôn nối giữ” là: Y theo nghiệp lực nó dẫn dắt hột giống thức thứ tám; ngoài sắc thân, trong thời tâm thức, liên thuộc lẫn nhau.  Tức là do "hơi thở", "chất ấm" và "thần thức", ba cái nó cùng giữ gìn nhau, như hồ keo không cho tan rã (sống trong một thời kỳ) đó gọi là Mạng căn.  Nếu rủi ro một cái không luôn giữ cho nhau tức thì cái Mạng căn liền đoạn, như chất keo hết dính (chết), nên lấy ba cái đây làm thể của Mạng căn.

          “Thâu năm, giảm thọ” là đương trong kiếp giảm đây, mạng căn con người sống không đến trăm năm mà lại dường như bọt, bóng, như đèn giữa gió, trong giây phút chẳng dừng, rất là ngắn ngủi, cho nên nói là “trược” vậy.

          Trái lại với trên là để rõ trong nước Cực Lạc: Nhơn dân thọ mạng đồng với Phật vô lượng vì chẳng phải mạng căn ô trược như cõi này. 



          SỚ: Với ngũ trược mà giải nói như thế là căn cứ theo phần quả; còn như kinh Lăng Nghiêm nói, hoặc phối vớI tam tế, lục thô; hoặc phối với ngũ ấm thì nghĩa nó cũng chẳng khác. 


          SAO: “Phối với tam tế, lục thô” v.v... là: Lấy cái kiếp trược phối với nghiệp tướng, nghĩa là: Cái vô minh khi ban đầu khởi ra vì tánh nó liền nhơ trược vậy; kế lấy mạng trược phối với nghiệp hệ khổ tướng.

          “Phối với ngũ ấm” là: Lấy kiếp trược phối với sắc ấm, nghĩa là với điều không, điều thấy chẳng rành, cái thấy bậy vốn không, cả hai đều không thật thể vì tánh nó vẫn trược vậy. Kế lấy Kiến trược phối với Thụ ấm; kế lấy phiền não trược phối với Tưởng ấm; kế lấy chúng sanh trược phối với hành ấm; kế lấy mạng trược phối với thức ấm.

          Nói “không khác” là: Một thuyết trước nói: Tâm không có cái tướng ban đầu là vô minh thì vượt khỏi kiếp trược, nhẫn đến không có cái tướng nghiệp hệ khổ thì vượt khỏi mạng trược; thế là đoạn được cái vô minh v.v... Nên gọi Phật Ngài ở cõi ngũ trược mà chứng quả Bồ Ðề.

          Một thuyết sau nói: Phá được sắc ấm thì vượt khỏi kiếp trược, nhẫn đến phá được thức ấm v.v... nên gọi là Phật Ngài ở trong cõi đời ngũ trược mà chứng đặng quả Bồ Ðề. Vì hai thuyết nói có chút khác, nhưng nghĩa rất đồng nhau.


 

          SỚ: Trong Quán kinh nói: “Tạo cái nhơn trược ác, bất thiện nên bị cái quả năm món khổ ép ngặt”. Nay ở đây không nói năm món khổ là văn bớt. 


          SAO: “Năm món khổ” là: Lời SỚ nói: “Sự khổ giữa ngũ đạo (năm loài) là hoặc cái khổ ngũ thống, cái khổ ngũ thiêu, cái khổ ngũ ác ... rõ đủ như trong kinh Ðại Bổn, đây chẳng chép nhiều”. Do trược ắt có khổ, nói trược thì gồm khổ nên nói “bớt văn”. 



          SỚ: Ở trong cõi đời ngũ trược đây, những người có thể tự lập (làm nên mình) cũng đã ít lắm rồi; huống đặng thành bực chánh giác, đâu chẳng khó ư? Thế là việc khó lần thứ nhứt, thế là rõ công đức tự lợi thiệt không thể nghĩ bàn. 


          SAO: “Tự lập” là: Cái thời kỳ đủ năm điều ác trược mà loài người sanh ra nhằm trong đời ấy với hoàn cảnh ngoài thời bị thời thế ép ngặt; với trong thân tâm thì bị mê hoặc nghiệp chướng nó buộc ràng. Huống hồ cái thân thể buộc giữa bốn loài, mạng còn trong hơi thở. Bởi thế nên muốn sạch mà nó cứ nhơ, cầu lên mà lại rớt trở xuống. Thế mà có năng lực ở trong cõi này, khéo phân biệt điều thiện ác là trì giới tu phước để lập được cái địa vị chốn nhơn thiên. Kẻ mà được như thế cũng rất ít có lắm rồi! Huống nữa hay ở trong cõi ngũ trược này có một số người rất sợ cơn vô thường, biết tu pháp Tứ Ðế, pháp Thập Nhị Nhơn Duyên để tự lập cái địa vị các thánh Thanh Văn, Duyên Giác, lại càng ít có hơn nữa. Phương chi cũng ở giữa cõi này mà đoạn hẳn màn Vô Minh, vượt cao ngoài ba cõi để chứng đặng quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề; thiệt là chẳng khác nào đồng ở trong đám nhà cháy mà riêng một mình được ngồi trên chiếc xe báu đi ra; đồng chìm dắm trong sông mê mà riêng lên bờ giác. Thế đâu chẳng phải là kẻ nhẫn được những cái mà đại đa số người không thể nhẫn; làm được những cái mà đại đa số không thể làm! Vậy mới gọi là khó, thế mới là công đức tự lợi không thể nghĩ bàn. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh Thỉ Giác hiệp với Bổn Giác là nghĩa “ta khen chư Phật”. Bổn Giác ngầm hợp với Thỉ Giác là nghĩa “chư Phật khen ta”. Tự tánh tịch mà thường chiếu; chiếu mà thường tịch là nghĩa Thích Ca Mưu Ni. Tự tánh không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm là nghĩa “ở trong cõi ngũ trược mà chứng quả Bồ Ðề”.


          SAO: Nhơn trùm biển quả, quả suốt nguồn nhơn thời Thỉ, Bổn chẳng hai; dụng chẳng lìa thể, thể chẳng lìa dụng thời tịch và chiếu đồng thời, không nhiễm mà nhiễm, khó đặng tỏ biết, là quả Bồ Ðề chìm ngập trong cõi ngũ trược. Nhiễm mà không nhiễm, khó đặng tỏ biết, là đồng ở trong cõi ngũ trược mà riêng chứng quả Bồ Ðề.

          Nên biết rằng Phật đây, Phật kia cũng đồng qui về một cái tự tâm tịch vẫn chiếu; phiền não hay Bồ Ðề cũng chẳng ra ngoài một niệm Ngộ với Mê thế thì Bổn Sư tức là ta, ta tức là Bồ Ðề và chứng đặng Bồ Ðề thiệt không chỗ đặng.



Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tt c thế gian khó tin này”.



          SỚ: Văn trước là nói việc khó giữa loài người; văn đây là nói việc khó nhứt trong các việc khó vậy.

          Bởi vì với pháp môn Tịnh Ðộ, tất cả thế gian đều khó tin. Phật ở giữa đời ác trược mà chứng đặng đạo quả, lại ngay trong đời ác trược nói trắng ra pháp này để độ chúng sanh lại là việc khó rất tột bực trong các việc khó vậy. Thế là việc gấp hai lần khó để rõ rằng công đức lợi tha của ngài thật không thể nghĩ bàn. 


          SAO: “Nói điều khó tin” lược kể có mười nghĩa. Nay ở trong cõi uế ác đây, chúng sanh an tâm chịu đã lâu đời rồi, bỗng nghe nước kia trang nghiêm thanh tịnh, tất là nghi không có sự thật đó. Ấy là một điều khó tin vậy.

          Dầu tin có nước kia, nhưng lại nghi rằng 10 phương cõi Phật đều có thể tùy ý muốn sanh về cõi nào cũng được, hà tất quyết định sanh về Cực Lạc? Là hai điều khó tin vậy.

          Dầu tin sẽ được sanh về, nhưng lại nghi rằng cõi Ta Bà đây cách xa nước Cực Lạc, đến 10 muôn ức cõi, thế làm SAO rất xa mà đặng sanh về nước phước đức kia, là ba điều khó tin vậy.

          Dầu tin là không xa, nhưng lại nghi rằng tất cả phàm phu tội chướng sâu nặng, làm SAO mau đặng sanh về nước kia? Là bốn điều khó tin vậy.

          Dầu tin đặng sanh về, nhưng lại nghi rằng sanh về cõi Tịnh Ðộ đó quyết phải có tu pháp môn kỳ diệu gì và nhiều món công hạnh mới được; làm SAO chỉ tu trì danh hiệu Phật mà liền đặng sanh về? Là năm điều khó tin vậy.

          Dầu tin tu pháp trì danh, nhưng lại nghi rằng tu trì danh hiệu nầy ắt phải cho nhiều năm, nhiều kiếp mới đặng thành tựu, làm gì chỉ niệm một ngày hoặc bảy ngày mà liền đặng sanh về nước kia? Là sáu điều khó tin vậy.

          Dầu tin bảy ngày đặng sanh về, nhưng lại nghi rằng trong bảy thú thọ sanh, chẳng lìa noãn, thai, thấp, hóa, làm SAO sanh về, vì nước kia, đều là chỉ sanh bằng hoa sen hóa sanh? Là bảy điều khó tin vậy.

          Dầu tin gá nơi hoa sen để hóa sanh, nhưng lại nghi rằng kẻ sơ tâm vào đạo gặp nhiều chướng duyên phải thối lui, làm SAO một phen sanh về nước kia liền đặng bực Bất thối? Là tám điều khó tin vậy.

          Dầu tin không thối, nhưng lại nghi rằng: Pháp môn đây là để dẫn dắt những chúng sanh tối dốt, chớ bực thượng trí sáng suốt, không cần sanh về nước kia? Là chín điều khó tin vậy,

          Dầu tin người sáng suốt cũng sanh về, nhưng lại nghi rằng: Trong kinh khác hoặc nói có Phật, hoặc nói không Phật, hoặc có cõi Tịnh Ðộ, hoặc không cõi Tịnh Ðộ, rồi trong tâm hồ nghi chẳng quyết; là mười điều khó tin vậy.

          Cho nên nói pháp khó tin mà nói rằng “tất cả thế gian” đó là chẳng những chúng sanh trong ba đường ác nó khó tin mà là chúng sanh cõi nhơn, thiên hoặc còn nghi đó; chẳng những kẻ ngu mê khó tin mà bực hiền trí hoặc còn nghi đó; chẳng những kẻ sơ cơ khó tin mà đến những bực tu lâu hoặc còn nghi đó; chẳng những kẻ phàm phu khó tin mà đến hàng Nhị Thừa hoặc còn nghi đó; cho nên nói là cái pháp mà “tất cả thế gian khó tin” là vậy.

          Nay ở trong đời ác trược nầy, diễn nói ra pháp đây thiệt là chẳng khác nào như vào trong nước lõa hình mà trao bày việc oai nghi; đối với người mù quáng mà chỉ cho màu mè đen, trắng; thế mới gọi là khó, thế mới gọi là công đức lợi tha không thể nghĩ bàn vậy. 



          SỚ: Lại kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang đều nói nghĩa khó tin đó cũng đồng với ý đây. 


          SAO: Kinh Pháp Hoa nói: “Muốn cho chúng sanh đều đặng nghe biết cái pháp mà tất cả thế gian khó tin”.

          Lại nói: “Kinh nầy khó nghe, mà tín thọ cũng khó”.

          Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Nghe nói kinh nầy tâm bèn cuồng loạn, hồ nghi không tin”. Nay nói kẻ nghe rồi không kinh, không hãi, không sợ là ít có.

          Không kinh sợ v.v... tức là tin đặng. Nay kinh nầy (Di Ðà) nói cái điều khó tin của kinh thời đồng với hai kinh (Kim Cang, Pháp Hoa) đâu nên khinh vậy (Kinh nầy cũng như kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa là pháp tối thượng thừa chỉ ngay tự tánh thành Phật). Chúng sanh cõi này mê nhiều ngộ ít, khó nhận, nên gọi "nan tín".


 

          SỚ: Hỏi: Ðã nói rằng khó thời nói ra thêm rầy rà, vậy nói làm chi?  Ðáp: Nhưng vì Phật nói cũng có người tin. 

  

          SAO: Nhơn Phật nói có người tin là cái pháp nhiệm mầu đây. Nếu đức Như Lai chẳng từng nói ra thời muôn đời hằng đồng như đêm tối, trọn không có một người niệm Phật cầu sanh. Cho nên ngài than là pháp nan tín!  Ðó là để cho hiểu rằng: Nếu như người thấy mà không tin là tại người bỏ, còn người nào có thể tin là người có duyên, khiến cho tất cả chúng sanh tự biết thương tủi, e mất phần mà hân hạnh được nghe. Cho nên nay những người tin Tịnh Ðộ đều là nhơn nhờ Phật nói mà phát khởi lòng tin vậy.

          Mặc dầu nay không tin, nhưng một phen nghe lọt vào tai, hằng làm hột giống đạo muôn đời. 



          SỚ: Xứng lý thời với tự tánh không thể đo lường là nghĩa “pháp khó tin”. 


          SAO: Phải biết với tự tánh đây không thể lấy cái hữu tâm mà tìm, không thể lấy cái vô tâm mà đặng, không thể lấy lời để tạo, và không thể lấy cái vắng lặng mà thông, lìa bốn câu, dứt trăm lỗi, trồng hoa giữa hư không, đạp mặt trăng trong lằn sóng, không chỗ để cho nhà ngươi đặt tay chưn; cho nên trên hội Linh Sơn, bực thượng đức trọn thành cái hại bại Bắc. Ðất Hớn Ðịa, kinh Kim Cang mới có cái tưởng diệt Nam hay tín pháp nầy, há chẳng khó ư?



Xá-Li-Pht! Phi biết rng Ta  trong đi ác ngũ trược tht hành vic khó này: đng thành bc Vô Thượng Chánh Giác và vì tt c thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rt khó!



          SỚ: Nhắc lời của chư Phật lặp lại tỏ bày ra để cho chúng sanh nhơn thấy rõ hai việc khó đây đặng hiểu rằng: Phật xưa chẳng luống làm lời khen, Phật nay chẳng lầm chịu tiếng ngợi tốt, thật nói thật làm, cả hai đều phù hợp với nhau, muôn đời chúng sanh phải tin chắc mà chớ nghi, cảm ơn mãi không thôi. Ấy vậy khá gọi rằng cặn kẽ dặn dò, ba tâm rất thiết. 


          SAO: Ðắc Ðạo là khó, cái khó kia có hai nghĩa:

          Một là tu ở trong đời thiện thế đắc đạo, chưa đủ là khó vì hoàn cảnh thuận tiện. Nay Phật tu ở trong đời ác thế đắc đạo mới thiệt là khó (vì cảnh trái ngược).

          Hai là ở trong đời ác thế thuyết pháp, mà thuyết những pháp dễ tin ấy cũng chưa lấy làm khó vì chúng dễ hiểu. Nay thuyết pháp khó tin thế thiệt là khó vậy (vì mặc dầu có Phật quốc, nhưng ở rất xa bởi chưa từng nghe thấy).

          Lược làm bốn lời dụ: Lời dụ thứ nhứt:

          Ví như có người thân đi vào trong biển lớn, lại ngồi trong chiếc thuyền bể, lại nhằm gió ngược, lại đụng sóng to, lại gặp quỉ dữ (La Sát), cá lớn, rồng độc, sự nguy còn chỉ trong giây phút mà có thể ở trong đó an ổn đặng qua thiệt là khó, nhưng chẳng những qua một mình mà lại còn đem nhiều người đều qua, để trên bờ kia. Thế mới thiệt là cái khó trong các cái khó.

          Biển lớn, thuyền bể, gió ngược, sóng to và quỉ dữ, các điều ấy là dụ ở trong đời ngũ trược. Một mình qua khỏi là dụ Ðắc đạo. Cứu các người đều qua là dụ thuyết pháp vậy.

          Lời dụ thứ hai:

          Ví như có người thân mang bệnh nặng, lại ở chỗ sương gió, lại thiếu đồ ăn uống, lại bị trặc chơn gãy giò, lại gặp thầy dở cho uống lầm thuốc, sự nguy hiểm chỉ còn trong giây phút mà hay ở trong đó điều trị mạnh lành, thiệt gọi là khó; nhưng chẳng những mạnh khỏe một mình mà lại còn cứu luôn bệnh các người khác đều được bình phục. Thế mới thiệt là cái khó trong các cái khó!

          Lời dụ thứ ba:

          Ví như có người thân ở trong tù giam, lại bị tra tấn, lại gông cùm, lại nhiễm bệnh dịch, lại bị cấm cố, sắp đến kỳ giết, sự nguy chỉ còn trong giây phút mà hay ở trong đó, bỗng nhiên thoát khỏi, thiệt gọi là khó; nhưng chẳng những khỏi một mình, mà lại cứu luôn các người tội đều đặng lìa khỏi. Thế mới thiệt là cái khó ở trong các cái khó!

          Lời dụ thứ tư:

          Ví như có người thân té xuống giếng, lại gặp rắn độc, lại bị chông gai, lại dầm nước lạnh, lại trúng kẻ ác nhơn quăng liệng đất đá, sự nguy còn trong giây phút mà hay ở trong đó, vượt nhảy lên khỏi, thiệt gọi là khó. Chẳng những ra một mình mình mà lại đem luôn các người đồng té đều lên một lượt. Thế mới thiệt là khó trong các cái khó.

          Các lời đây đều dụ trong đời ngũ trược, nghĩa đã nói đồng văn trên:  Trong bốn lời dụ đây, lần lượt dụ đức Thích Ca với hai việc khó. Nói cạn dễ hiểu. Cho biết rằng: Ðức Như Lai chẳng sợ nhọc nhằn, từng trải cực khổ, là vì bọn chúng ta làm việc khó trong các việc khó làm, đến đỗi như thế nầy!  Người nghe cái khó đây đều phải mừng thương, khấp khởi, cảm tột kêu la, tiếng vang cả ba nghìn đại thiên thế giới, rồi chẳm hẳm sấn sướt, lo làm SAO để trả ơn Phật.

          Song muốn trả ơn cho Phật, chẳng ngoài hai việc: 1. Lợi mình. 2. Lợi người khác.

          “Lợi mình” là: Ở trong đời ác thế này, gắng sức tu pháp môn này, nhơn được vãng sanh, cũng đã gọi rằng khó.

          “Lợi cho người khác” là: Ở trong đời ác thế này, lại khuyên mọi người chung tu pháp môn này, đồng được vãng sanh, thế mới thiệt là khó trong các cái khó. 


        

          SỚ: Lại trong kinh Pháp Hoa rất khen các kinh, cũng đồng ý đây. 


          SAO: Kinh Pháp Hoa rất khen là: “Nói hết các kinh... tay quăng hòn núi Tu Di, chưn đá sập cõi Ðại Thiên đều chưa phải là khó, hay ở trong đời ác thế này, nói kinh Pháp Hoa thế mới thiệt là khó”. Nay nói kinh này (Di Ðà) sự khó nói lại cũng như vậy.    


     

          SỚ: Lại có hai nghĩa: Văn trước nói “rất khó” ấy để rõ lại rằng:  Bên nước Cực Lạc tu đắc đạo rất dễ. Văn sau nói “rất khó” đó là để cho chúng ta nghe được rõ lại rằng bên nước Cực Lạc thuyết pháp rất dễ. 


          SAO: Với điều đắc đạo rất dễ là: Trong luận Bà Sa nói: “Niệm Phật được vãng sanh, nhờ nguyện lực của Phật là cái đạo rất dễ làm. Còn ở trong đời ngũ trược ác thế này, tu các pháp khó tấn vì là cái đạo rất khó làm”, cớ vậy.

          Thuyết pháp rất dễ là: Trong nước kia chúng nhơn toàn là người bực thượng thiện, huệ nhiều chướng ít, chí ý hòa dịu, tiếng gió, cây, chim đều giúp cho mình tỏ ngộ. Vì chẳng phải như cõi này chúng cang cường khó dạy. Nói điều khó là để rõ dễ, chính là để chỉ rõ rằng với nước Cực Lạc chúng ta quyết định phải cầu về đó. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó vừa lẫn với tâm vừa lẫn với cảnh là nghĩa làm được hai việc khó đây. 


          SAO: Tâm niệm dù theo cảnh để sanh nhưng tâm thể nguyên thường vắng lặng, thời tâm tánh nó là "vô sở đắc". Thế đắc cái "vô sở đắc" đó gọi là đắc vô thượng Bồ Ðề. Cảnh tùy tâm hiện. Tự thể của cảnh vốn không, thời với cái mà không pháp nào khá thuyết đó mới gọi là thuyết đó. Vì ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không có tâm. Thế mới gọi là Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Mãn.



TIN NHẬN THỌ TRÌ 


Ðc Pht nói kinh này ri, ngài Xá-Li-Pht cùng các v Tỳ kheo, tt c trong đi: Tri, Người, A-Tu-La, ... 

 


          SỚ: Pháp ắt phải lưu thông vì Phật thuyết pháp để phổ độ chúng sanh. Lại kể bày chúng thính giả là: Ðầu kinh nói số chúng nghe pháp, cuối kinh lại nói chúng thọ pháp.

          Riêng nói một mình ông Thân tử là vì ông đương cơ kinh này.  Ðây không nói bồ tát là vì gồm thâu trong hàng tỳ kheo. A tu la dịch:  Phi Thiên. Chữ Ðẳng: Gồm luôn cả bát bộ và chúng sanh trong sáu đường. 


          SAO: “Lưu thông” là: Kinh Quang Minh lời SỚ nói: “Chữ Lưu cũng như nước chảy xuống, chữ Thông là nghĩa không ngăn trệ”.

          Lại ngài Khuê Phong nói: “Pháp nếu không có người đi tuyên truyền thời chẳng lưu động”. Lưu là không dừng, truyền mà gặp sự ngăn ngại thời chẳng thông. Thông là không phải ngăn; nghĩa là suốt thể lan rộng phổ cập vậy.

          Phổ độ là gì? Lưu thông khắp cả 10 phương, nhẫn đến ba đời chẳng những chỉ vì chúng sanh trong một xứ một thời mà thôi.

          “Ðương cơ” là chi? Do pháp khó tin đây, duy người trí mới tin nổi không nghi; cho nên từ đầu chí cuối đều gọi bảo nói ông Xá Lợi Phất vậy.

          “Nhiếp thuộc trong hàng tỳ kheo” là: Các Bồ Tát mặc dầu không thường theo đức Như Lai, song vì cùng với các hàng tỳ kheo đồng làm bạn lữ giữa hiền thánh.

          Lại các vị Bồ Tát đều có lẫn giữa Chơn đế và Tục đế. Vì tùy loại ứng cơ cũng có thể nói nhiếp thuộc trong cả thế gian cũng được.

          Tất cả trong thế gian chỗ bao gồm thì đông (nhiều) mà nay đây riêng nói về 3 đường lành là Thiên đạo, Nhơn đạo, A tu la đạo đó là để cho rõ biết rằng đối với "pháp trì danh niệm Phật" đây, tất cả chúng sanh trong sáu đường, so sánh ra thì phần nhiều hơn hết là chúng sanh trong đường lành đều tu pháp niệm Phật. “Phi Thiên” là: cõi thần a tu la sự giàu có vui sướng cũng đồng như cõi trời, nhưng vì cái đức hạnh không bằng trời; rõ có bốn loài (25), đây chẳng kể nhiều.

          Trong bài kể tên chúng hội trước kia không nói đến tên Tu La là vì nhiếp thuộc trong hàng Thiên nhơn và đại chúng.

          Hỏi: Loại thần Tu La rất là hung hăng, làm gì chấp trì thánh hiệu là để tu niệm Phật?

          Ðáp: Loài quỉ, súc sanh còn biết qui y, thần Tu La đâu không tín thọ ư? Há chẳng nghe trong phẩm Thế Chúa Diệu Nghiêm nó các thần Tu La v.v... đều đặng pháp môn giải thoát hay SAO? Nay ở giữa loài người đây mấy kẻ ngơ lửng không biết tin niệm đó mới đáng trách a!! 


        

          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó cứu cánh viên mãn là nghĩa “Phật nói kinh rồi”. Tự tánh châu biến hàm dung là nghĩa “tất cả thế gian”. 


          SAO: “Cứu cánh” thời trước sau viên chiếu, không thiếu không đủ.  “Châu biến” thời phàm thánh bao gồm, nghìn đủ, muôn đủ. Với bổn kinh như thế thì trước khi Phật chưa kêu ông Thân Tử đã nói hết toàn văn, lại nào đợi ngài Diệu Thủ (Văn Thù) bạch chùy, ông Song Lâm (Di Lặc) phủ xích sau rồi mới bảo là thuyết pháp hay SAO?

           Cho nên nói: Khi thăng đường nhập thất đại chúng không thêm, lúc trống lặng chuông ngưng các Nhơn Thiên cùng chẳng giảm.



nghe li ca đc Pht dy, đu vui mng tin nhn đnh l mà lui ra. 



          SỚ: “Hoan hỉ” là vì mừng chỗ được nghe. “Tín thọ” là vì lãnh thọ chỗ đã được nghe. “Làm lễ” là vì trọng chỗ đã được nghe. Chữ Khứ là  nghe rồi thời lui về giữ tu vậy. Cũng là ba món tư lương và ba huệ, như văn trước đã nói. 


          SAO: “Mừng chỗ được nghe” là: Nhiều kiếp phiêu linh là chính do chưa nghe pháp này. Nay biết pháp trì danh được vãng sanh, khá gọi như chứng bệnh mê man nơi chiếu gối, bỗng gặp phương hay thần diệu. Ví như khách ngụ lâu xứ lạ quê người, thoạt nghe tin nhà hân hạnh chi xiết, nên nói là “mừng”.

          “Lãnh chỗ đã được nghe” là: Tin rồi không còn nghi. Thọ rồi chẳng dám sái như vâng lời của quốc hội, tuân mạng lệnh của đấng gia thân (cha lành) cho nên nói là lãnh vậy.

          “Trọng chỗ đã được nghe” là: Trong lòng cảm kích, năm vóc kiều cần, như nhớ ơn rất tột, lạy tạ không thôi, cho nên nói là “trọng”.

          “Giữ tu” là: người xưa nói: “Tới mà nghe Ðạo nơi Thầy, lui về làm Ðạo nơi mình”, chẳng phải như đời bây giờ: nghe vào lỗ tai, nói ra lỗ miệng (năng thuyết bất năng hành).

          “Ba món tư lương” là như văn trước nói: Nghe mà tin là Tín tư lương; Tín mà chịu là Nguyện tư lương, chịu rồi đi là Hành tư lương.

          “Ba huệ” là: Văn tức thuộc văn huệ, hoan hỉ tín thọ đó tức thuộc Tư huệ, đi về giữ tu đó tức là thuộc tu huệ. 



          SỚ: Lại chữ hoan hỉ đây cũng đủ ba nghĩa thanh tịnh như lời SỚ trong Quán kinh nói.


          SAO: Ba nghĩa là: Lời SỚ trong Quán kinh nói: 1. Người năng thuyết được thanh tịnh. 2. Pháp bị thuyết được thanh tịnh. 3. Y theo pháp tu đạo quả, được Thanh tịnh. Ðủ ba nghĩa đây, cho nên nói “hoan hỉ”.

          Nay nói pháp trì danh được vãng sanh chính là đức Phật ngài thyết.  Phật là người bực Nhứt Thế Trí, chẳng phải như cái pháp của bốn hạng người kia thuyết vậy; thế là người được thanh tịnh. Gặp người như vậy đâu chẳng hoan hỉ?

          Trì danh được vãng sanh liền chứng pháp tam muội, thế là thật giáo Ðốn và Viên, chớ chẳng phải pháp quyền thừa vậy; thế là pháp được thanh tịnh. Nay nghe pháp như vậy đâu chẳng hoan hỉ.

          Trì danh được vãng sanh liền chứng đặng bực bất thối chuyển, thẳng đến thành Phật, chớ chẳng phải bực tiểu quả vậy; thế là quả được thanh tịnh. Chứng quả như vậy đâu chẳng hoan hỉ. 



          SỚ: Lại chữ “hoan hỉ” đây cũng gồm có cao có thấp, là mỗi mỗi đều tùy theo sở đắc của mỗi người tu. 


          SAO: “Cao và thấp” là như kinh Hoa Nghiêm bực sơ địa, gọi là bực Hoan Hỉ địa. Lại trong văn kinh nói: Ðủ hai mươi món hoan hỉ.

          1. Ðời sau được 10 câu: Như chỗ nói: Vì niệm được danh các vị Phật, nên sanh tâm hoan hỉ. Vì niệm được các pháp môn nên sanh tâm hoan hỉ v.v...

          Nay người nghe được kinh này tự mừng rằng: Ta đời sau cũng được như Phật A Di Ðà, ta đời sau cũng được các pháp mầu như thế của Phật A Di Ðà vậy.

          2. Hiện đời được 10 câu: Như chỗ nói: Ðã xa lìa tất cả cảnh giới thế gian nên sanh tâm hoan hỉ. Vì được thân cận tất cả vị Phật nên sanh tâm hoan hỉ v.v... Nay người nghe được kinh nầy, hiện đời được xa lìa cảnh giới Ta Bà ngũ trược. Hiện đời được sanh về Tịnh Ðộ cửu liên được gần gũi Phật A Di Ðà và chư Phật vậy.

          Hai mươi hoan hỉ đây thuộc về trong địa vị (ngôi thập địa). Cứ theo kinh Hoa nghiêm thì điều hoan hỉ của kinh nầy thuộc về trong ngôi thập địa Bồ tát. Ngoài ra thì ngôi thập hạnh, về sơ hạnh cũng tên là Hoan Hỉ; trong văn Thập trụ về ngôi sơ trụ cũng nói: “Ðược vô biên việc hoan hỉ” v.v... Cho nên nói: “Có cao có thấp”. Nếu thấp lại còn thấp nữa thời tùy theo phân lượng tu nhơn của mỗi người kia thì cũng được phần vui về pháp hỉ mà thôi. 



          SỚ: Lại kết qui về chữ Tín Thọ là do vì từ ban đầu cho đến cuối sau đều dùng chữ Tín làm căn bản.


          SAO: “Ban đầu, cuối sau” là: Ðầu kinh nêu hai chữ Như thị, là lời Tín Thuận. Nay cuối kinh lại nói Tín Thọ thời biết nhơn Tín mới sanh ra nguyện, nhơn nguyện mới khởi ra hạnh. Từ đầu phát tâm, kế cuối được vãng sanh, rốt ráo thành Phật đều nhờ sức Tín; cho nên nói: “Từ đầu chí cuối lấy chữ Tín làm căn bản”. 



          SỚ: Kinh Ðại Bổn lời kết kinh có nói đủ các chúng sanh đều được lợi ích được Long Thiên Hộ pháp xuống phước lành. Nay kinh này, không nói là bớt văn vậy. 


          SAO: Kinh Ðại Bổn nói: “Phật nói kinh này rồi, có vô lượng chúng sanh phát tâm để tu chứng bực vô thượng chánh giác. Một vạn hai nghìn số na do tha người chứng pháp Nhãn Tịnh; 22 ức vị chư Thiên, kẻ Nhơn dân đắc quả A Na Hàm. 80 vạn tỳ kheo đặng bực Lậu Tận Ý Giải; 40 ức Bồ tát đặng bực bất thối chuyển. Ba nghìn Ðại thiên thế giới sáu món rúng động, hào quang sáng lớn, tủa chiếu khắp 10 phương các quốc độ, trăm nghìn tiếng âm nhạc tự nhiên nổi lên. Vô lượng thứ hoa mầu, lăng xăng rải xuống, nhẫn đến trời A Ca Ny Tra đều sắm đủ món vi diệu cúng dường”.

          Lại nói: “Có 25 ức chúng sanh đặng bực bất thối chuyển nhẫn đến bốn vạn ức số na do tha chúng sanh đối với quả Vô Thượng Bồ Ðề chưa từng phát tâm, nay mới bắt đầu phát khởi, trồng các thiện căn, nguyện sanh về Cực Lạc thế giới, đồng sẽ sanh về, đều ở các phương khác theo thứ lớp thành Phật, đồng một danh hiệu là Diệu Âm. Lại có 80 vạn ức số na do tha chúng sanh được thọ ký pháp nhẫn”. 



          SỚ: Lại kinh Ðại Bổn có dặn dò công đức trì kinh, nay trì kinh này cũng phải có công đức như vậy. 


          SAO: Kinh Ðại Bổn Phật bảo Ngài Di Lặc: “Nay đem pháp môn này giao phó lại cho ông. Ở trong đại chúng, ông cũng khai thị cho chúng phải dạy viết tả, giữ gìn đối trong kinh nầy, sanh lòng tưởng như vị Ðạo Sư”.

          Lại nói có vô lượng ức các vị Bồ Tát cũng đều cầu pháp môn vi diệu nầy: “Các ông chớ trái lời ta (Phật) mà bỏ qua, sẽ khiến cho các ông mê man trong đêm dài, chịu đủ muôn điều nguy khổ. Thế cho nên ta nay nói lời đại chúc lụy”. Nay kinh này không nói, đều là bớt văn vậy. 


 

          SỚ: Lại kinh Ðại Bổn và kinh Pháp Diệt đều nói: “Ðến ngày Pháp của Phật tiêu diệt, riêng còn để lại kinh này”. Cho nên biết kinh nầy có cái năng lực tổng trì cho đời mạt pháp như trong luận Hoa Nghiêm nói.


          SAO: Kinh Ðại Bổn nói: “Qua đời đương lai trong buổi khói lửa, kinh điển và đạo lý đều bị diệt hết. Ta do tâm từ bi riêng để lại kinh này một trăm năm. Chúng sanh được gặp, không có một người nào mà chẳng đắc độ”.

          Nếu có chúng sanh đối với quyển kinh này, viết tả cúng dường thọ trì đọc tụng, vì người khác diễn nói, đến khi mạng chung Phật cùng các vị thánh chúng hiện ra trước mặt người ấy trong giây lát liền sanh về cõi kia vậy.

          Kinh Pháp Diệt nói: “Chừng đó, kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt trước, kế đến các kinh thảy đều diệt hết; riêng còn kinh Vô Lượng Thọ độ các chúng sanh” (kinh này có tên là Vô Lượng Thọ).

          Trong Hoa Nghiêm Luận nói đến cái thời chánh pháp đã diệt do nhờ sức tổng trì kinh này (Kinh Hoa Nghiêm) gìn giữ các tông pháp khác, làm cái nhơn cho giáo lý được hoạt động lưu chuyển.

          Nay đây nói các kinh đều lần lượt tiêu diệt, riêng còn kinh A Di Ðà tức kinh Vô Lượng Thọ này là một môn niệm Phật, rộng độ chúng sanh.   Thời ra các kinh đã diệt mà kinh Tiểu Bổn tức Ðại Bổn này không diệt, tức là còn để lại một món trì danh niệm Phật này lưu chuyển vô tận. Thế thì biết rằng: chính cái pháp trì danh niệm Phật của kinh này nó cũng có cái sức tổng trì như kinh Hoa Nghiêm kia.

          Tất cả chúng sanh phải nên tôn trọng cung kính, tín thọ phụng hành kinh này vì kinh này ở chỗ nào cũng như Phật ở chỗ đó.

          Hỏi: Câu “riêng để kinh này một trăm năm”, hai chữ “kinh này” số là chỉ cho kinh Ðại Bổn, này SAO lại đem chỉ cho kinh Tiểu Bổn này?

          Ðáp: Văn trước đã chẳng nói rồi hay SAO? Văn có nhiều và ít, nhưng nghĩa không hơn kém. Nghĩa là nói rộng thời là kinh Vô Lượng Thọ, còn nói hẹp thời là kinh Tiểu Bổn Di Ðà này, chớ chẳng phải có hai vậy. Vì A Di Ðà dịch là "Vô Lượng Thọ"; thế thì Vô Lượng Thọ kinh tức A Di Ðà kinh. 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh không phiền não là nghĩa “hoan hỉ tín thọ”. Tự tánh không trụ trước là nghĩa “tác lễ nhi khứ”. 


          SAO: Tâm phiền não vốn vắng lặng, tánh hoan hỉ cũng không thời cõi khổ đâu chẳng phải là cõi vui. Ðến, thiệt không biết từ đâu mà đến, đi cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.

          Thế thời vãng sanh mà rốt ráo vô sanh, dùng vô sanh đây để mà sanh về cõi kia. Ðúng ra chẳng phải sanh về cõi kia mà thiệt là sanh nơi tự tâm của mình vậy.

          Vậy sau không ai hỏi tự nói: Ðức Thế Tôn khỏi phụ lời không đàm; riêng lãnh đương cơ, ông Thân Tử khỏi phụ lời trọng thác (lời giao phó).  Ðây thiệt là hoan hỉ, đây thiệt là tín thọ, mới gọi là đúng phép làm lễ đức Như Lai.  Nếu ngoài cõi Cực Lạc Cửu Liên kia mà riêng nói là duy tâm; bỏ tên Di Ðà vạn đức mà riêng tìm tự tánh, nên gọi rằng: “Ðang qua sông mà hỏi bến đò, đối trước đèn mà đi tìm lửa” đó vậy. 



Bt Nht Thiết Nghip Chướng Căn Bn Đc Sanh Tnh Đ Đà-ra-ni :

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ D, ĐA THA DÀ ĐA D, ĐA ĐIT D THA.

A DI R ĐÔ BÀ TỲ, A DI R ĐA TT ĐAM BÀ TỲ, A DI R ĐA TỲ CA LAN Đ, A DI R ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI N DÀ DÀ NA, CH ĐA CA L TA-BÀ HA. 



          SỚ: Giải thích đại ý của bài thần chú này: Do chú để giúp với kinh, kinh có thần chú thời kinh càng rõ. Do kinh trước chú, chú có kinh văn thời chú càng linh, xen nhau mà dùng nên cần phải kết giải.  Chú này rõ thấy trong truyện Bất Tư Nghì Thần Lực.

          Người trì chú này, hết tội được vãng sanh. Nên dùng danh nghĩa là “nhổ hết nghiệp chướng được sanh về Tịnh Ðộ”. 

          Chữ Ðà La Ni dịch là Tổng Trì vậy. 


          SAO: Nghiệp chướng là: kể chướng có ba nghĩa: 1. Phiền não chướng.  2. Nghiệp chướng. 3. Báo chướng.

          Nay nói nghiệp chướng là nói cái giữa thì đã gồm luôn cái trước và cái sau. Bởi SAO? Vì phiền não là cái Nhơn của nghiệp; vì báo chướng là Quả của nghiệp. Nghiệp ắt có Nhơn; nghiệp ắt chịu Quả; nên nói nghiệp chướng thì đã gồm hai chướng kia. Nay chúng ta muốn trừ chướng, quí nhứt là trừ cội gốc của nó. Như gốc tuyệt thời không đâm chồi; chồi không nẩy thời cành lá hoa trái đều không sống vậy.

          Nay trì chú này thời phiền não không khởi là nghĩa “nhổ trốc gốc nghiệp chướng” vậy.

          Như trong truyện nói: Ngày đêm đều trì ba hoặc bảy hay là 21 biến diệt được tội ngũ nghịch, tội báng pháp ... các tội;  phải vậy.

          “Ðặng sanh về Tịnh Ðộ” là: Chúng sanh luân hồi trong cõi Ta Bà đều là do nghiệp chướng, nghiệp chướng đã không thời hột giống cõi uế độ liền diệt, tùy nguyện vãng sanh, nên được sanh về cõi nước Cực Lạc Phật A Di Ðà.

          “Tổng trì” là tổng thống, nhiếp trì lại không sót và mất; tức là tên riêng của chú nầy.

          Truyện tên "Bất Tư Nghì Thần Lực Chú", tức kinh này tên là "Bất Tư Nghì Công Ðức Kinh".

          Trì thần chú hay trì danh hiệu Phật cũng đều được vãng sanh một cách nên đồng tên là “Bất Tư Nghì”.

          Ðời nhà Tống, niên hiệu Nguyên Gia, nước Thiên trúc, ngài Tam Tạng tên Cầu Na Bạt Ðà La dịch ra thần chú này. 



          SỚ: Chữ Tống là tên nước thuộc về đời Nam Bắc triều, Nguyên Gia là niên hiệu. Chữ Thiên Trúc là nước Tây Vức, Cầu Na Bạt Ðà La dịch Công Ðức Hiền. 


          SAO: Ðời Tống mà nói là đời Nam Bắc đây, là đương thời đời đó Nam Bắc phân chia làm vua. Vua nhà Tống ở miền Giang Nam thì gọi là Lưu Tống.

          Chữ Nguyên Gia là vua Văn Ðế niên hiệu Nguyên Gia năm rốt vậy (453). Nước Thiên Trúc có chỗ khác nói: Nước Thân Ðộc, Thiên Trúc có năm nước đều chung gọi là cõi Tây Vức.

          Ngài Bạt Ðà là người rộng thông ba tạng, rất chuyên pháp Ðại thừa nên hiệu ngài là Ma Ha Diễn. Nhưng cái thần dị đặc sắc của ngài chẳng phải một, chép đủ trong bộ truyện ký; đây sợ nhiều không dẫn. Có một bổn dịch hai chữ Ðà La, mà dưới chữ Ðà không có chữ La. Hoặc có người nghi là ngài Cầu Na Bạt Ma. Do vì hai Ngài đồng thời đó, chưa rõ thần chú nầy là của ngài nào dịch (mà dầu của Ngài nào dịch cũng đều đúng cả).

          Tụng chú như đây:


         NAM-MÔ A DI ĐA BÀ D, ĐA THA DÀ ĐA D, ĐA ĐIT D THA.

A DI R ĐÔ BÀ TỲ, A DI R ĐA TT ĐAM BÀ TỲ, A DI R ĐA TỲ CA LAN Đ, A DI R ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI N DÀ DÀ NA, CH ĐA CA L TA-BÀ HA. 


          Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào hay tụng chú này thời Phật A Di Ðà thường đứng trên đỉnh đầu người đó, ngày đêm ủng hộ không cho kẻ oán thù làm hại, đương đời thường đặng an ổn, đến khi mạng chung, được tự tại vãng sanh.  

       


          SỚ: Các bổn kia nghe phân câu cách có hơi khác; nay y theo bản xưa, với thần chú không phiên dịch bất tất gì cưỡng giải. 


          SAO:  “Các bổn chẳng đồng” là: Như câu: Nam mô A Di Ða bà dạ, một bổn khác viết: “Nam mô a di đa bà da đa”, lấy chữ Ða ở đầu câu kế đem liên thuộc với câu trên, cho nên nói là “có hơi khác”. Nay bất tất gì nhọc nhằn tìm xét phải quấy, miễn y theo một bổn, chí tâm tụng trì tự thành lợi ích.

          Lại có chỗ nói: câu "Nam mô a di đa bà dạ, dịch: “Kính lạy đức Vô Lượng Thọ Phật”; câu" "đa tha dà đa dạ" tức là câu "đa đà a dà độ" dịch Như Lai. Câu "Ða điệt dạ tha", bản tân dịch: "Tha đích giả thát", bản cựu dịch:  "Ðát điệt tha".

          Chữ “điệt” bộ Mịch, âm chữ Ðiệt bộ Xước, tức hai chữ "địa dạ" nói nhập lại làm một tiếng, dịch: ‘tức thuyết chú viết”. Từ đây sắp sau mới thiệt là lời mật ngữ:

          Song câu thần chú từ xưa dịch để nguyên âm chứ không dịch nghĩa, lược nói có năm ý:

          1. Như lời mật chỉ của vị quốc chủ, chớ quấy rao truyền, vì chỉ phải kính vưng.

          2. Hoặc một danh từ hàm có nhiều nghĩa, ví như chữ Tiên Ðà Bà (33).

          3. Hoặc phương này không có ví như cây Diêm Phù Ðề (34).

          4. Hoặc thuận theo văn xưa ví như chữ A Nậu Bồ Ðề.

          5. Hoặc tôn trọng, chẳng phải tiếng nói của người Tàu đối chiếu đặng, ví như chữ "Bát Nhã" (dịch "Trí Huệ" cũng chưa hết nghĩa).

          Có một chỗ nói: “Cũng có thể cưỡng giải”, nhưng đã nói rằng “cưỡng” chi bằng nín là hơn. 



          SỚ: Kinh và chú tương liên với nhau, chính là nghĩa Hiển và Mật viên thông. 


          SAO: Rõ bày nước kia, y chánh trang nghiêm và môn Tín, Hạnh, Nguyện như trong kinh đã giải rõ đó gọi là Hiển.

          Tuân theo lời kín nhiệm của Phật, chỉ tụng chú này thời liền đặng vãng sanh, đó gọi là Mật.

          Hiển là bày rõ chỗ Mật ấy ra. Mật là giấu kín chỗ Hiển vậy. Gồm tụng cả hai thời đều tốt cả. Riêng tụng trì chừng một cũng tóm thâu không sót, nên nói rằng Viên Thông. 



          SỚ: Tuy nói rằng tóm thâu không sót, nhưng mà pháp chuyên trì danh hiệu còn hơn trì chú, cũng hơn thần chú khác và cũng hơn tất cả công đức khác. 


          SAO: Riêng khen pháp trì danh niệm Phật là:

          1. Hơn thần chú Vãng Sanh này.

          Vì lời giải của thần chú nói: “Tụng 30 vạn biến thời mới được thấy Phật A Di Ðà”, mà pháp trì danh niệm Phật này thời chỉ một ngày được nhứt tâm liền có Phật hiện trước mặt.

          Lại chú nói: “Ngày đêm 6 thời đều 3 hoặc 7 biến, hay là 21 biến diệt được tội ngũ nghịch cùng các tội khác”, mà pháp trì danh thời chỉ chí tâm niệm Phật một tiếng liền diệt được 80 ức kiếp đường sanh tử tội nặng.

          2. Hơn các thần chú khác là: Chuyên niệm danh hiệu Phật tức là chú Ðại Thần, chú Ðại Minh, chú Vô Thượng và chú Vô Ðẳng Ðẳng.

          Vì do 10 tiếng niệm Phật liền đặng vãng sanh, một phen sanh liền đặng bất thối, oai linh chẳng lường, thế gọi là Ðại Thần; còn mấy nghĩa khác so đó để biết vậy.

          Hỏi: Công đức của Chuẩn Ðề rất rộng, rất lớn mà thế nào chỉ niệm danh hiệu Phật lại đặng hơn kia?

          Ðáp: Vì phẩm và lượng của Chuẩn Ðề là còn ở nơi Nhơn Ðịa Bồ Tát, còn Di Ðà là quả vị Như Lai. Vậy nhơn đó để so mà biết được rằng:

          Trì chú Chuẩn Ðề đã có thần lực rất rộng rất lớn như thế thì niệm Phật A Di Ðà há chẳng linh ứng nhiều hơn chú Chuẩn Ðề à?

          Cho nên trong kinh nói: “Niệm 62 ức số hằng hà sa danh hiệu các vị Bồ Tát, chẳng bằng niệm một tiếng Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, phước kia bằng nhau”.

          Lại nói: “Niệm vô lượng vô số danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng bằng niệm một tiếng Nam Mô Ðịa Tạng Bồ Tát, phước kia bằng nhau”. Ðó, niệm Bồ Tát còn được như thế, huống chi là niệm Phật?!

          3. Cũng hơn các công đức khác là: Lục Ðộ vạn hạnh, pháp môn vô lượng, nhưng chuyên niệm một danh hiệu A Di Ðà thì gồm thâu được tất cả công đức của mỗi mỗi pháp môn khác do vì không ngoài một lý Nhứt Tâm như trong văn trước đã nói rộng.

          Vậy xin các bạn giữa "Tịnh nghiệp đệ tử" nên chuyên một đức tin, chuyên một tâm niệm Phật mà thôi, chớ đừng lưỡng lự gì nữa. Như trong kinh nói: “Dầu có một pháp nào cao hơn cõi Niết Bàn đi nữa, cũng là chẳng đoái đến”.

          Trong Thiền tông các vị tri thức có dạy người chỉ giữ một câu thoại đầu (một câu niệm Phật) không cần tu các pháp nào khác.

          Nên biết rằng: Nguyên những người đã tu học các pháp môn khác, còn phải bỏ đi để tu theo pháp niệm thay, huống chi những người vốn đã tu pháp môn niệm Phật lại đổi chỗ sở thú của mình mà chuộng về môn khác ư?

          Thế là tâm muốn hàng hai, chí chẳng qui nhứt, làm SAO để đặng thành tựu pháp Tam Muội?

          Rủi tới cơn vô thường, luống không đặng chi, chẳng xét nhớ lỗi mình, trở đem phao lời hủy báng. Than ôi! Lầm lắm!! 



          SỚ: Xứng lý thời tự tánh nó không thì vẫn là không là nghĩa “nhổ trốc hết nghiệp chướng’.

          Tự tánh nó có thì cũng vẫn có nó là nghĩa Ðà La Ni. Tự tánh nó chẳng có chẳng không là nghĩa “sanh về Tịnh Ðộ”. 


          SAO: Tìm tâm rốt không thể đặng thời là nghĩa tất cả nghiệp chướng ai làm cội gốc? Tức là tâm nó không chỗ nào mà chẳng đủ tất cả công đức, không đức nào nó chẳng tổng trì!

          Ðương khi nó tổng trì mà chẳng dính một mảy trần thì cái có đó là có bằng "tức không".

          Thể nó không có cội gốc mà sanh ra cả muôn pháp thì cái không đó là không bằng cái "tức có".

          Tức có thời chẳng phải thật không, tức không thời chẳng phải thật có. Chẳng không chẳng có, chỉ có nhứt Tâm, chẳng vượt ngoài nhứt tâm, ấy gọi là Tịnh Ðộ.



KINH 

A DI ÐÀ SỚ SAO


T Chu Hong Thut

Comments

Popular posts from this blog