PHÁP HOA KINH
CƯƠNG YẾU
IV.- PHẦN NHẬP PHẬT-TRI-KIẾN
23.- DƯỢC-VƯƠNG BỔN-SỰ PHẨM
Từ trước hiển 'lý' đã viên, nay sẽ hiện hạnh để chỉ rõ 'chứng nhập Phật-tri-kiến' vậy.
Trong phẩm đây nói bổn sự của ngài Dược-Vương để hiển 'hạnh', chính là chủ ý rằng dầu đã ngộ viên lý, nhưng vào tục lợi (sanh), ắt cần nhờ (thuốc hay) chỉ quán, phương (pháp) điều trị, để trị sạch vô minh phiền-não phá ngã-chấp và pháp-chấp, thành 'diệu hạnh', mới có thể thật 'chứng-nhập' vậy.
Tú-Vương-Hoa trước đem việc khổ-hạnh của ngài Dược-Vương hỏi đức Phật, để chỉ rõ rằng: chánh-hạnh của Bồ-tát phải trừ phiền-não vô-minh, mà muốn trừ phiền-não vô-minh phải dứt ngã-chấp và pháp-chấp, muốn trừ hai món chấp ấy phải nhờ định-huệ, muốn có định-huệ phải gắng công nơi chỉ-quán. Chỉ-quán viên-thành, định-huệ viên-phát không gì thù-thắng bằng nương kinh
Pháp-Hoa.
Ngài Hỉ-Kiến Bồ-tát, tiền thân của Dược-Vương nhơn nghe kinh Pháp-Hoa, cần khổ tinh-hành mà đặng 'hiện-nhất-sắc-thân tam-muội', phá ngã và pháp hai món chấp, do
đâu mà biết hai chấp phá, vì dùng thần lực cúng dường đức Phật vậy. Do phá pháp-chấp nên đối với pháp được tự-tại, mà có thể hiện ra các thứ đồ cúng-dường thù-thắng. Ngã tùy pháp sanh, pháp chấp phá
thời ngã-chấp cũng tùy phá. Thiêu thân cúng Phật là biểu-tượng phá
pháp-chấp. Hai môn chấp đặng phá đó là nhờ diệu-lực của kinh Pháp-Hoa, để chỉ rõ sự lợi ích của kinh rất thù-thắng phàm người nào chuyên tinh tu hành theo, không một ai chẳng đặng thắng quả vậy.
Ngã và pháp đều có
phân-biệt-chấp cùng cu-sanh-chấp. Ban đầu phá hai món phân-biệt-chấp thời lên sơ-địa rốt sau phá hai món cu-sanh-chấp cứu-cánh thời lên Phật-địa.
Phá xong hai món chấp
phân-biệt bèn là diệu hạnh bước lên thánh địa Bồ-tát, đến phẩm Dược-Vương này mới rõ ràng nghĩa đó. Thập-địa Bồ-tát là bực phần-phá hai món chấp cu-sanh, phần thân-chứng Pháp-thân, vì thế nên phán định từ phẩm này về sau thuộc về 'nhập Phật-tri-kiến' vậy.
Trong Lăng-Già Kinh nói: Bồ-tát
dùng sức chỉ-quán tấn phá hai món chướng, thiệt chứng chơn-lý. Bắt đầu từ Sơ-địa đến đệ Thất-địa liền bỏ tàng-thức vào đệ Bát-địa nhẫn đi chứng đặng ba môn ý-sanh thân:
1.- Tam-muội-nhạo-ý-sanh-thân
2.- Giác-pháp tự-tánh-tánh-ý-sanh-thân
3.- Chủng-loại-cu-sanh vô-hành-tác-ý-sanh-thân.
Trong phẩm này nói rõ ngài Hỉ-Kiến Bồ-tát mới bắt đầu đặng 'hiện-nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muội', thời chính là đệ Bát-địa Bồ-tát đặng món 'tam-muội-nhạo-ý-sanh-thân'. Bởi môn ý-sanh-thân này là lúc nhập định thời có,
lúc xuất định thời không nên gọi là 'Tam-muội-nhạo'.
Hai phẩm kế là 'Diệu-Âm' cùng 'Quan-Âm' theo thứ tự phối thuộc hai món ý-sanh-thân thứ hai và thứ ba.
Ðược ba món ý-sanh-thân này thời là chứng-nghiệm thật-chứng vậy.
24.- DIỆU-ÂM BỒ-TÁT PHẨM
Trong phẩm này, đại ý chỉ rõ do diệu-lực của Pháp-Hoa tam-muội mà thiệt lên đệ Bát-địa, đệ Bát-địa đã chứng 'bình-đẳng chơn-như' tấn lên đệ Cửu-địa phát 'chơn-như-dụng', sắc-tâm tự-tại đặng như-huyễn-tam-muội, trụ Pháp-Sư vị, nhẫn đến Ðẳng-Giác, phân thân thuyết pháp khắp mười phương để độ sanh, nên gọi 'Diệu-Âm'.
Từ nhục kế cùng bạch hào của đức Như-Lai đồng phóng quang-minh, nhục-kế là đãnh-tướng biểu 'quả-giác', bạch hào biểu 'trung-đạo nhơn-tâm', hai tướng đồng ánh sáng để biểu lộ nhơn cùng quả khế-hội.
Cõi nước tên Tịnh-Quang là biểu thức-tạng thanh-tịnh còn Phật hiệu Tịnh-Hoa-Tú-Vương-Trí là biểu trí hải thanh-tịnh khế-hội thanh-tịnh khế-hội quả-giác.
Diệu-Âm Bồ-tát diệu khế Phật-tâm cho nên nhơn cúng-dường Phật mà đặng vô-lượng môn tam-muội.
'Ðem quả hội nhơn', nên quang-minh của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật suốt chiếu thân Bồ-tát. Từ thể khởi dụng, nên nguyện qua ta-bà đem nhơn hội quả nên Bồ-tát muốn qua ra mắt Phật.
Thật hành Phật-sự, chính là dùng vô-tác diệu-lực nên chẳng rời những hoa-sen báu hiện ra trước núi Kỳ-Xà-Quật.
Diệu-Âm cùng tám muôn bốn nghìn Bồ-tát đồng qua Ta-bà, đó chính là Bồ-tát trụ trong địa vị này, trí thanh-tịnh đã diệu-viên, chuyển tám muôn bốn nghìn trần-lao làm thành tám muôn bốn nghìn diệu-hạnh.
'Ðem nhơn hiệp quả' nên đảnh lễ hỏi han đức Thế-Tôn, 'Diệu-khế pháp-thân' nên cùng Phật Ða-Bảo ra mắt nhau.
Toàn kinh Pháp-Hoa này dùng chánh-trí để lập thể, nên
trong 'tự-phẩm', tổng tướng pháp-giới vừa hiện, thời Ngài Văn-Thù phát biểu, đó là lấy quả-giác làm bổn nhơn-tâm; nay đã chứng chơn thỉ-giác nhơn hiệp nơi bổn-giác quả, cho nên Diệu-Âm cũng ra mắt Văn-Thù. Diệu nhơn diệu quả khế hiệp liền có thể hiện thân trong mười phương để nói pháp. Tuy loại hiện thân ấy chính là môn 'Giác-Pháp tự-tánh tánh ý-sanh-thân' vậy.
Tùy loại hiện thân trong đây cùng với ứng thân của đức Quán-Thế-Âm khác hẳn nhau, vì đây còn là tác ý xuất-nhập
tam-muội cho nên có qua có lại, còn về Quán-Âm thời là phổ-môn thị hiện không khứ-lai, không xuất nhập vậy.
25.- QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ-MÔN PHẨM
Do Pháp-Hoa tam-muội mà thỉ giác
nhơn viên, diệu khế bổn-giác quả-hải, hiện-thập-giới-thân, không tư niệm, không tác-ý mà không chỗ nào không ứng, đây là Thánh-chủng-loại-thân đồng thời đều hiện, là biểu tượng của 'chủng-loại-cu-sanh vô-hành-tác-ý-sanh-thân' vậy.
Bởi diệt căn-bổn vô-minh, đại-viên-cảnh-trí bình đẳng hiển hiện cho nên nói rằng: Phổ-môn thị-hiện.
Do ngài Quán-Âm Ðại-sĩ
khi ban sơ dùng như huyễn văn-huân, văn-tu kim (cang) tam-muội, nên
sanh-diệt đã diệt, tịch diệt hiện-tiền, bỗng nhiên siêu-việt thế xuất-thế-gian, liền đặng trên cùng mười phương chư Phật đồng một sức từ dưới cùng lục-đạo chúng-sanh đồng một bi-ngưỡng. Dùng một thân khắp ứng tất cả, hiện ba mươi hai tướng, mười bốn vô-úy, mười chín loại thuyết pháp, (tám món nạn, hai điều cầu thảy) đều cảm ứng. Ðây là diệu hạnh viên mãn. Sự thành công của Pháp-Hoa tam-muội diệu-cực nơi đây, dùng ba món ý-sanh-thân chứng hạnh
thành đức vậy.
Dầu rằng đến đây, diệu-hạnh đã viên, mà còn lo chướng tập của người tu-hành đời vị-lai khó điều khó phục, nên kế tiếp sau đây nói ba môn 'da trì' bèn chắc chắn khắc thành
diệu quả, cho nên đến ba phẩm kế thời chung kết pháp hội vậy.
26.- ÐÀ-LA-NI PHẨM
Dầu trước đả hiển diệu-hạnh, y diệu-hạnh, sẽ thành diệu-quả, ngặt vì tạng thức kín sâu, nhiễm huân đã nhiều kiếp tập-khí tiềm phục nhiều đời nếu không nhờ sức da-trì, để da hộ chỉ quán, chống vững định-huệ, thời khó trừ tận tuyệt, vì thế nên phẩm này cùng hai phẩm kế để hiển biểu tượng của ba môn da trì.
3 môn da trì là:
1.- Thần lực da-trì
2.- Pháp lực da-trì
3.- Hiện thân diện ngôn thuyết da-trì
Thần-lực da-trì chính là phẩm này:
Bởi vì thức-tạng là hang vực của hai loại sanh tử rất sâu rất kín. Tập khí tiềm phục trong đó, sức chỉ cùng quán khó có thể vào đến, vào còn không đến được thời thế nào dứt trừ được, dứt trừ không được thời bị nó làm tổn. Do đó nên cần phải nhờ sức tổng trì thần chú để công phạt tập-khí, vì tổng-trì là tâm ấn bí mật của chư Phật vậy.
Kinh Lăng Nghiêm nói: 'Nếu người tu hành tập khí chưa trừ, nên phải chuyên lòng tụng thần chú của Ta'.
Kinh Lăng-Già nói: 'Nếu không dùng thần-lực kiến-lập đó thời đọa vào vọng-tưởng ác-tri-kiến ngoại đạo ...'
Cho nên từ đệ Thất-địa trở lại mà không da-trì thời lạc ngoại đạo; đệ Bát-địa không da-trì thời trụ nhị-thừa: đệ Cửu-địa đến Ðẳng-giác không da-trì thời không thể nhập Diệu-giác. Cho nên cần phải da-trì vậy.
27.- DIỆU-TRANG-NGHIÊM-VƯƠNG BỔN-SỰ PHẨM
Phẩm này đại-ý hiển bày biểu-tượng chuyển-thức thành-trí để chỉ rõ môn 'pháp-lực da-trì' vậy.
Diệu-Trang-Nghiêm-Vương là
biểu-tượng Như-Lai-Tạng tại triền, mà toàn-thể thành đệ bát-thức tâm-vương.
Tịnh-Tạng cùng
Tịnh-Nhãn
là biểu-tượng đệ-lục và đệ-thất hai thức có công lực chuyển nhiễm làm cho tịnh.
Tịnh-Ðức
phu-nhơn
nhu-thuận nội-trợ, làm biểu-tượng chỉ-quán nội-huân, trị sạch vô-minh nên gọi Tịnh-Ðức.
Hai người con xin xuất-gia
trước, đó
là đệ-lục cùng đệ-thất hai thức trong khi tu nhơn đã trước chuyển thành trí.
Hai người con chuyển tâm
tà của Phụ-vương, làm cho Phụ-vương rồi cũng đồng xuất-gia, chính là hiển biểu-tượng bổn-giác xuất triền vậy.
Sức chỉ cùng
quán trong đây, là Pháp-thân Bồ-tát đặng vô-phân-biệt tâm, tương-ưng với tri-dụng của chư Phật, nương pháp-lực tự nhiên tu-hành, chơn-như nội-huân diệt vô-minh cho nên gọi là pháp-lực da-trì vậy.
28.- PHỔ-HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT PHẨM
Trong phẩm này đại-khái
chỉ rõ
'hạnh'
thành 'đức',
chính là môn 'hiện-thân-diện-ngôn-thuyết da-trì' vậy.
Kinh Pháp-Hoa này dùng chánh-trí lập thể, cho nên đầu tiên ngài Văn-Thù phát
thỉ, để chỉ nghĩa 'khai thị Phật-tri-kiến'. Mà kinh này lại dùng 'hạnh' thành 'đức' cho nên ngài Phổ-Hiền thành-chung, để rõ nghĩa 'nhập Phật-tri-kiến'.
Phổ-Hiền có
hai:
1.- Ðạo-tiền Phổ-Hiền, thuộc nhơn-hạnh,
2.- Ðạo-hậu Phổ-Hiền, thuộc quả-đức.
Hạnh khắp
pháp-giới là
'Phổ', ngôi
kề Ðại-Thánh là 'Hiền', đây là ngôi hạnh của bậc Ðẳng-Giác Bồ-tát thuộc 'nhơn'.
Xứng chơn-pháp-giới là 'Phổ', cứu vớt muôn loài là 'Hiền', đây là Diệu-Giác thuộc 'quả'.
Bởi Phổ-Hiền đây là toàn-thể pháp-giới, là nguyện thân trong mười thân của đức Tỳ-Lô-Giá-Na. Cho nên Bồ-tát nương toàn thể pháp-giới tu-hành rồi chứng pháp-thân chơn-thể, cho nên có câu 'Không
có gì chẳng từ pháp-giới lưu ra, không có gì chẳng trở về pháp-giới'.
Bồ-tát nhơn hạnh đã viên, đến bực Ðẳng-Giác mà còn phải da-trì, đó là vì sao, bởi đến bực này tất phải nhờ Quả-Giác tiếp-hộ mới đặng nhập Diệu-Giác.
Cho nên Phổ-Hiền Bồ-tát là chung kết chứng nhập vậy.
Người tu-hành nếu được nguyện-lực của ngài Phổ-Hiền thủ-hộ ắt thọ-trì đặng kinh này. Vì thế nên ngài hỏi đức Thế-Tôn như thế nào mà có thể đặng kinh này. Ðức Thế-Tôn nói thành tựu bốn pháp thời đặng kinh Pháp-Hoa này.
Bốn pháp là:
1.- Các đức Phật hộ niệm.
2.- Vun trồng cội
công-đức.
3.- Vào vị chánh-định.
4.- Phát-tâm cứu-hộ tất-cả chúng-sanh.
Bốn pháp này cùng ba món 'Tín-thành-tựu' trong luận Khởi-Tín rất đồng. Luận nói:
1.- Trực-tâm, vì chánh niệm chơn-như pháp vậy. Trong kinh đây nói:
'Chư Phật hộ niệm'.
2.- Thâm-tâm, vì ưa chứa nhóm tất cả cả công-đức lành vậy. Trong kinh đây nói vun
trồng
cội công-đức.
3.- Ðại-từ-bi
tâm, vì muốn cứu khổ cho tất cả chúng-sanh vậy. Trong kinh đây nói:
phát
tâm cứu-độ tất cả chúng-sanh.
Trong luận lại nói:
'Tín-tâm thành-tựu đặng phát tâm như thế, đó thời vào chánh-định tụ vậy'.
Trong phẩm khuyến-phát
này là hiển nghĩa
chứng nhập, mà lại nói tín-thành-tựu đó, là vì ban sơ do ngài Văn-Thù
phát tín nương tín
sanh giải, nương giải phát hạnh, hạnh khởi giải tuyệt thành chứng nhập, chính là viên-mãn
thành tựu
tín-tâm vậy. Nên
có câu 'Phát-tâm cùng cứu-cánh,
hai mà không khác, hai tâm như thế tâm trước khó'. Do những nghĩa trên đây, nên cần phải nhờ Phổ-Hiền khuyến-phát đặng bốn pháp thời tất đặng kinh này.
Trong Khởi-Tín luận y nơi tối-sơ phát tâm mà nói ba
tâm. Còn kinh này ước nghĩa
thành-tựu mà
nói bốn pháp,
cho nên luận
là ở ban
đầu mà kinh
là ở rốt sau vậy.
Phàm có người đúng pháp thọ-trì
kinh này, ngài Phổ-Hiền Bồ-tát liền tự hiện thân, đó là hiện-thân diện ngôn-thuyết-da-trì, có da-trì thời chắc chắn chứng-quả, cho nên phần này cũng thuộc về phần 'nhập Phật-tri-kiến'.
Một 'đại-sự-nhân-duyên' của đức Phật hiện ra nơi đời là muốn làm cho chúng-sanh: khai phát, chỉ-thị ngộ-trì, chứng-nhập Phật-tri-kiến. Trong 6 phẩm trên đây, 3 phẩm trước nhơn nơi hạnh khắc quả, thành-tựu ba môn 'ý-sanh-thân', ba phẩm sau dùng ba môn 'da-trì' thủ hộ thời quả-địa chắc chắn chứng thành, như thế thời phần 'nhập Phật-tri-kiến' đã hoàn mãn, 'đại-sự' ra đời của đức Phật cũng cáo thành, nên vào lưu thông để chung kết 'Diệu-Pháp Liên-Hoa đại hội'.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Thông Nghĩa
Đại Sư
Hám Sơn, Giảng Giải
Hòa Thượng
Thích Viên Giác, Việt dịch
Phẩm Dược Vương Bồ Tát
Thứ Hai Mươi Ba
Đại ý phẩm này là do phẩm
trước trình bày về lý đã tròn đủ, nay phải trình bày về sự hành trì để thuyết
minh nhập Phật tri kiến.
Trước hết là dạy về pháp
Bồ tát, sau là dựa vào lời dạy mà tu tập để thật sự đạt được kết quả. Lấy ngài
Dược Vương để thuyết minh sự hành trì, ý cho rằng hàng nhị thừa tuy giác ngộ đầy
đủ về lý, nhưng còn có vi tế vô minh tập khí chưa sạch, khó mà ở trong thế tục
để độ sinh. Do đó, cần trải qua nhiều kiếp phụng sự chư Phật, thực hành nhiều công
hạnh, trong đó phải nhờ phương thuốc chỉ và quán điều trị làm dứt sạch vi tế vô
minh, phá được câu sinh ngã chấp và pháp chấp, lấy đó làm diệu hạnh mới có thể
chứng nhập. Cho nên đầu tiên hỏi ngài Dược Vương rằng: Làm sao ở nơi cõi Ta bà
mà thực hành trăm ngàn ức việc khổ hạnh khó làm? Điều đó chính là trình bày
hàng nhị thừa khi đi vào con đường nguy hiểm của sinh tử phải nhờ vào năng lực
tu chỉ và quán. Cho nên lấy chuyện ngài Dược Vương xưa kia nhân nghe kinh Pháp
Hoa mà đạt được định “ Hiện nhất thiết sắc thân” nhờ đó mà phá được hai loại chấp
thủ là Câu sinh ngã và Pháp chấp. Có thể dùng thần lực cúng dường Phật, được thọ
ký và phó chúc. “Đốt thân cúng dường Phật” là tượng trưng cho việc phá chấp ngã
câu sinh. “Đốt cánh tay cúng dường” là tượng trưng cho phá chấp pháp câu sinh.
Hai chấp đều không, bởi sức mạnh của Pháp Hoa tam muội. Qua đó thấy rõ công đức
trì kinh mà thấy được sự tối thắng của diệu pháp. Vì vậy và ngợi khen rộng rãi
kinh này. Người có tu thì không ai không được lợi ích, nên mới có phẩm này.
Hai loại chấp thủ là
Phân biệt và Câu sinh. Ban đầu do khai thị ngộ Phật tri kiến, dứt được một phần
vô minh, phá được hai loại chấp thuộc phân biệt mà chứng được sơ địa. Hai loại
chấp thuộc câu sinh, từ nhị địa cho đến thất địa thuộc câu sinh ngã chấp; từ
bát địa đến Phật địa đoạn câu sinh pháp chấp. Nay nói phá nhị chấp là biểu hiện
từ nhị địa đến thất địa, ở đây gọi là “Phân biệt nhị chứng cực hỷ vô” (hai loại
chấp thủ phân biệt đến sơ địa thì hết) “Nhị chấp câu sinh địa địa trừ” (Hai loại
chấp thủ câu sinh các địa khác thì dứt). Nên gọi là nhập Phật tri kiến rất rõ vậy.
Kinh lăng Già thuyết
minh Bồ tát lấy sức chỉ và quán để phá hai loại chướng ngại, thật chứng chân
lý. Từ nhị địa trở lên thất địa thì xả bỏ tàng thức và vào bát địa. Từ đây về sau
đắc được ba loại ý sinh thân. Một là Tam muội lạc ý sinh thân. Hai là Giác pháp
tự tính ý sinh thân. Ba là Chủng loại câu sinh vô hành tác ý sinh thân. Đây
chính là bát địa đắc được nhất thiết sắc thân tam muội, đó là Tam muội lạc ý
sinh thân. Hai phẩm Diệu Âm và Quán Thế Âm theo thứ tự phối hợp hai loại sinh
thân sau. Do đắc được kinh này mới có kinh nghiệm thực chứng. Do ý sinh thân
này nhập định thì có, còn xuất định thì mất nên gọi là Tam muội lạc, ở nơi vị
trí thất địa.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Tú
Vương Hoa” đến câu: “Văn giai hoan hỷ” (Bấy giờ Tú vương Hoa … nghe đều vui mừng).
Đoạn này hỏi về khổ hạnh
của ngài Dược Vương, do ngài Tú vương Hoa phát khởi. Ý muốn nói thuở xưa hạnh
tu phù hợp với chân lý, lấy đó làm nhân chính để thành Phật.
Ngài Dược Vương ở trước
đã nguyện ở thế giới Ta bà giảng rộng kinh này, nay nói rõ công hạnh là lấy hạnh
vào đời độ sinh hoằng truyền kinh làm diệu hạnh. Do vậy hỏi ngài Dược Vương làm
sao ở nơi thế giới ta bà có trăm ngàn muôn ức điều khổ hạnh khó làm. Xin giải
nói cho một ít để mọi người vui mừng… Ý muốn nói pháp Chỉ và Quán là cốt yếu để
đi vào cuộc đời, muốn cho các vị Bồ tát mới được thọ ký đều được tâm thức không
sợ cảnh tệ ác của cõi ta bà. Bốn hạnh an lạc ở trước chỉ nói tránh được sự hủy
báng ganh tỵ, còn đây là diệu hạnh Chỉ và Quán, là diệu hạnh để chứng và thể nhập.Ý
muốn nói rằng phải trải qua các giai đoạn điều tâm mới đối trị được vi tế vô
minh, do vậy xin Phật nói cho chúng thanh văn được vui mừng. Nếu không có diệu
hạnh chỉ quán này thì không dám vào cõi Ta bà, do đó mà thỉnh cầu Phật nói.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Thuyết pháp Hoa kinh” (Lúc đó Phật bảo … nói kinh Pháp Hoa).
Đoạn này sắp sửa trình
bày sự khổ hạnh của ngài Dược Vương, do đó Đức Phật trước hết thuật lại nhân
duyên xưa: Thầy của ngài hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, đó là biểu tượng
dùng chánh trí quán chiếu diệt trừ vô minh, làm sạch cấu nhiễm. Pháp quyến của
Phật ấy có tám mươi ức Bồ tát, bảy mươi hai hằng sa Thanh văn, ý nói là phá thức
thứ bảy “Nhiễm ô vô tri tập khí”, sắp hiển lộ thức thứ tám “Thể tính viên minh”
khế hợp với bản giác chân tâm. Vì bản giác diệu thể không ngoài tứ đại, căn trần
nên Phật thọ bốn vạn hai ngàn năm. Trí thanh tịnh viên mãn, chấm dứt các nhiễm
ô nên đất nước không có nữ nhân và bốn ác đạo. Thức thứ bảy vốn là bình đẳng
tính trí cho nên “Đất bằng phẳng như bàn tay”. Thức thứ tám vốn là tạng thể của
Như Lai, đại viên cảnh trí gọi là “Chất lưu ly làm thành”. Có đủ hằng sa đức hạnh
nên gọi là “Cây báu trang nghiêm” các Bồ tát, Thanh văn đều ngồi trên tòa báu.
Nói ba thừa đều nương ở hai thức bảy và tám tu hành mà được thành tựu, tự nhiên
đắc quả, khiến “Chư thiên tấu nhạc cúng dường Phật”. Ngài Hỷ Kiến là tiền thân
của ngài Dược Vương, do nghe thuyết kinh Pháp Hoa là thật tướng diệu hạnh có thọ
ký mà đến nhận thọ ký. Đức Phật ấy vì Bồ tát Nhất thiết chúng sinh hỷ kiến mà
thuyết kinh Pháp hoa. Tất cả chúng sinh thấy mà vui, vì ly nhiễm được thanh tịnh.
Đây là tiền thân của ngài Dược Vương, nghe kinh Pháp Hoa nhờ sự khổ hạnh ban đầu,
là công hạnh có nguồn gốc vậy.
3. Từ câu: “Thị nhất thiết
chúng sinh hỷ kiến Bồ tát” đến câu: “Sắc thân tam muội” (Ngài Nhất thiết chúng
sinh hỷ kiến Bồ tát … sắc thân tam muội).
Đoạn này nói về tiền
thân của ngài Dược Vương, nhân nghe kinh giúp cho công hạnh nhiều lợi ích.
Ngài Hỷ Kiến tinh tấn
kinh hành nhất tâm cầu thành Phật. Vì nghe diệu pháp, lấy chỉ quán để điều tâm,
mà trong kinh Lăng Già gọi là Vô gián hạnh, còn Khởi Tính Luận gọi là Nhất hành
tam muội, nên gọi là nhất tâm. Do quán thật tướng của tất cả pháp là không có
tướng khác, cho nên quán chân như gọi là vô gián hạnh, còn gọi là nhất hành.
Mãn một vạn hai nghìn năm đắc được tam muội Hiện nhất thiết sắc thân. Trong
kinh Lăng Già ngài Đại Huệ hỏi về vô gián hạnh, Phật dạy người tu hành nhờ đại
phương tiện đạt được vô sinh pháp nhẫn, an trụ đệ bát địa, đắc ly tâm ý thức,
năm pháp tự tính và hai tướng vô ngã. Đắc ý sinh thân. Ý sinh thân có ba loại:
Kinh nói: “Thế nào là tam muội lạc chánh thọ ý sinh thân?” Nghĩa là từ địa thứ
ba, tư, và năm là tam muội lạc chánh thọ, các pháp tự nơi tâm tịch tịnh, an trụ
trong biển tâm. Sự nổi sóng của thức không sinh, biết tự tâm hiện cảnh giới
tính phi tính, đó gọi là tam muội lạc chánh thọ ý sinh thân. Giải thích rằng.
Ban đầu lên sơ địa chứng được bình đẳng chân như, đã xã tàng thức, cho nên gọi
là tự tâm các pháp tịch tịnh. Những ngọn sóng của thức thứ bảy không khởi nên gọi
là an trụ biển tâm. Các làn sóng thức không khởi là đã đoạn câu sinh ngã chấp.
Ngã chấp đã đoạn thì cảnh giới không có chỗ y cứ, nên gọi là biết tự tâm hiện cảnh
giới tính phi tính. Đây là chỗ định lực được duy trì cũng gọi là lực trì thân,
gọi là tam muội lạc chánh thọ ý sinh thân. Địa thứ bảy chứng cái này mà gọi là
địa thứ ba, tư, và năm, trong đó bao gồm sơ địa cho đến các địa sau.
Kinh văn nói: “Một lòng
cầu cầu Phật” chính là an trụ chân như nhất tâm. Do thức thứ bảy bị phá thì căn
và trần tự mất, nên gọi là “Mãn một vạn hai ngàn năm” an trụ trong tam muội
chân như viên minh, chiếu khắp tất cả không có chướng ngại. Tất cả các hình sắc
đều hiện trong tâm tam muội, như ngọc ma ni tùy duyên mà hiện, nên gọi là “Tam
muội lạc chánh thọ ý sinh thân”. Do gọi là đắc hiện nhất thiết sắc thân tam muội,
hoặc nói trong tam muội hiện ra. Ở trước phẩm Pháp Sư công đức nói người trì
kinh này được sáu căn thanh tịnh mà thôi, chưa có khả năng hiện nhất thiết sắc
thân. Nay ngài Hỷ Kiến trì kinh, nhờ nương nơi ngộ thật tướng mà tu hành, nhập
chân như tam muội, nương công hạnh mà thành tựu, nên gọi là nhất tâm cầu Phật
mà được Hiện nhất thiết sắc thân tam muội. Nên phân định phẩm này về sau là nhập
Phật tri kiến. Nghĩa là nương nơi lý giải mà khởi công hạnh. Hạnh khởi thì lý
giải hết, mà đượcï chứng nhập. Cho nên Kinh Lăng Già nói ba loại ý sinh thân là
trình bày hành tướng thật chứng vô gián hạnh. Trên cơ sở ấy mà giải thích mới
thấy kinh này là thực chứng nhập Phật tri kiến mà sáu phẩm sau chẳng phải là phần
lưu thông. Người trí xin nhìn sâu sẽ thấy.
4. Từ câu: “Đắc thử tam
muội” đến câu: “Dĩ cúng dường Phật” (Đặng tam muội đó … để cúng dường Phật).
Đoạn này nói về cảnh tượng
ngài Hỷ Kiến do được lợi ích của pháp, dùng sức tam muội, đoạn trừ tập khí.
Nghĩa là nghe diệu pháp thật tướng nên đắc tam muội. Nay muốn tùy thuận thật tướng
chân như để làm chánh nhân thành Phật, do vậy trên hư không rải hoa cúng dường.
Do chân như tam muội huân tập thay đổi tập khí, nên mưa hương cúng dường. Tam
muội là khí phần của chân như nên hương có giá trị ở cõi Ta bà.
5. Từ câu: “Tác thị cúng
dường dĩ” đến câu: “Kỳ thân nải tận” (Cúng dường thế đó rồi… thân Bồ tát mới hết).
Đoạn này nói ngài Hỷ Kiến
đốt thân, biểu tượng việc phá trừ câu sinh ngã chấp.
Ở trên dùng thần lực vận
dụng cúng dường, là tam muội vô tác diệu lực. Ở đây nói đốt thân là biểu tượng
chân như tam muội tiến phá câu sinh ngã chấp, nên gọi là từ tam muội khởi. Nhờ
tam muội huân tập chuyển hóa tập khí sạch hết căn trần, nên gọi là “Uống các loại
hương mãn một nghìn hai trăm năm”. Huân biến thân căn nên gọi là “ Lấy dầu thơm
xoa thân”. Đã xả tàng thức cấu nhiễm, nên gọi là “Dùng y báo cõi trời mà tự quấn
thân” Vì toàn thể chân như nên “Rưới các thứ dầu thơm”. Ngã chấp bị phá nên gọi
là “Tự đốt thân”. Tạng thức đã xả thì tám thức viên minh, hằng sa vô minh đều
trở thành diệu giác, gọi “Aùnh sáng soi khắp cả tám mươi ức hằng sa thế giới”
trong đó chư Phật đồng thời khen ngợi. Đó là do tinh tấn nhất tâm. Ngã chấp đã
phá thì khế hợp pháp thân nên khen là “Chơn thật tinh tấn” còn gọi là “Chân
pháp cúng dường Như Lai”. Trong các loại cúng dường, cúng dường pháp là tối thượng,
nên gọi “Hoa hương các vật đến đất nước thành trì … đem cúng dường đều không bằng”.
Chân như thật chứng, thì
diệu tuyệt vong ngôn nên các ngài đều im lặng. Vì căn trần đều mất, ngã chấp
cũng hết, nên “Lửa cháy 1200 năm thân ấy mới hết”.
6. Từ câu: “Nhất thiết
chúng sinh hỷ kiến” đến câu: “Cúng dường thử Phật” (Ngài Nhất thiết chúng sinh
hỷ kiến … cúng dường Đức Phật đó).
Đoạn này nói ngài Hỷ Kiến
đốt thân được lợi ích hóa sinh.
Do nhiễm ô đã trừ, ngã
chấp đã phá tức chứng được Chân như thanh tịnh, gọi là Bạch Tịnh thức. Do đó
chuyển sinh vào hoàng cung vua Tịnh Đức. Vì từ đệ bát địa mà xuất khởi chân như
tam muội, đó gọi là Ý sinh thân, Kinh nói: “ Ngồi kiết già phu toạ bỗng nhiên
hóa sinh ra, vì cha mà nói kệ” để trình bày nhờ nhân duyên đời trước mà hiện tiền
đủ lục thông túc mạng.
Nói: “Đức Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật nay vẫn hiện còn” là Phật tri kiến chưa quên, Pháp chấp vẫn còn.
Nhờ chứng thật tướng chân như nên tất cả thế đế, ngôn ngữ, sự nghiệp… đều phù hợp
chánh pháp, vì thế gọi là do cúng Phật mà được “Giải nhất thiết chúng sinh ngữ
ngôn Đà la ni”. Đà la ni dịch là Tổng trì, là tên gọi khác của chân như, do từ
địa thứ tám mà khởi. Với địa vị pháp sư khéo léo thuyết pháp, lại nghe kinh
Pháp Hoa tám trăm ngàn muôn ức bài kệ. Đây chính là pháp chấp chưa mất. Sắp sửa
phá chấp này nên nói là “Tôi nay lại nên cúng dường Đức Phật ấy”.
7. Từ câu: “Bạch dĩ tức
toạ” đến câu: “Do cố tại thế” (Thưa xong liền ngồi … vẫn còn ở đời ư).
Đoạn này nói cách thức
ngài Hỷ Kiến trở lại gần gũi đức Bổn sư. Vì ngã chấp đã phá, thể nhập pháp tính
không nên gọi là “Bay lên hư không” Vì sắp ngang bằng bậc đẳng giác nên nói là
“ Qua đến chỗ Phật” Do phần bản giác hiện nên “ Con vừa từng cúng dường, nay lại
về thân thấy” mà nói Đức Thế Tôn còn ở đời. Đó là nói tri kiến Phật chưa mất.
Tông Vân Môn nói: Pháp thân cũng có hai thứ bịnh: Đạt đến pháp thân, đó là pháp
chấp chưa hết, cái đã thấy vẫn còn. Ngồi một bên pháp thân, đây là một thứ bịnh.
Dầu chưa thấu suốt được pháp thân, bỏ qua thì không thể, kiểm điểm kỹ lưỡng
tương lai có hôi hám gì, cũng là bịnh. Trong tông môn này pháp thân có hai thứ
bịnh, cái trước thuộc về giáo nghĩa, sau thuộc pháp thân văn từ, đều không nhiếp
vào trong giáo. Nay nói phá pháp chấp chính là bịnh thứ nhất trong Vân môn, đó
gọi là vi tế pháp chấp. Nói “Thế Tôn còn ở nơi đời” chính là cái thấy về pháp
thân ở trong Tông môn, cần phá cái chấp này mới có thể bước vào chỗ diệu đạo.
8. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức” đến câu: “Dạ hậu phần nhập ư Niết bàn” (Bấy giờ đức
Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức … cuối đêm nhập Niết bàn).
Đoạn này nói về ngài Hỷ
Kiến trì kinh được pháp lợi ích, khế hợp với pháp thân, có thể nối tiếp tuệ mạng
Phật pháp. Cho nên Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức sắp nhập Niết bàn, giao
phó đại sự cho ngài.
Nói ngài sắp nhập Niết
bàn, đem Phật pháp mà di chúc rằng “Tất cả các đệ tử Bồ tát cùng với pháp Bồ đề,
pháp giới tam thiên đại thiên, thế giới thất bảo, chư thiên hầu hạ cùng với xá
lợi sau khi Phật diệt độ; tất cả đều giao phó cho”. Do vì quả Bồ đề được chứng
ngộ, thành phần quyến thuộc trang nghiêm, Chánh báo, Y báo và pháp thân Xá lợi…
đều do tu diệu pháp mà thành tựu nhất chân thật tướng, nên đều giao phó hết. Đó
là điều gọi là giao toàn bộ gia nghiệp. Nói “Phật pháp” là nói về pháp ứng cơ.
“Dặn dò nên xây tháp” ý muốn nói pháp thân nương vào chỗ giữ gìn chân cảnh tịch
diệt. Cho nên làm cho tuệ mạng không dứt; phó chúc xong liền vào Niết bàn.
9. Từ câu: “Nhĩ thời nhất
thiết chúng sinh Hỷ kiến Bồ tát” đến câu: “Huyền chư bảo linh” (Lúc đó ngài Nhất
thiết chúng sinh hỷ kiến Bồ tát … treo các linh báu).
Đoạn này nói ngài Hỷ Kiến
lãnh thọ phó chúc mà xây tháp, tiếp nối tuệ mạng của Phật.
Chiên đàn có tác dụng
mát mẻ, làm nguội nóng bức, khó chịu. Sử dụng chiên đàn làm củi đốt cúng Phật.
Đó gọi là cảnh nhập pháp thân thanh tịnh mát mẻ. Thâu lấy xá lợi tám vạn bốn
ngàn, xây tháp như số đó.Ý là một khi vào pháp thân tịch diệt thì tám vạn bốn
ngàn phiền não đều chuyển hóa thành tịch diệt chân tế. Nói “Chưng dọn trang
nghiêm…” nghĩa là pháp thân vốn đủ tính đức trang nghiêm vậy.
10. Từ câu: “Nhĩ thời nhất
thiết” đến câu: “Sắc thân tam muội” (Bấy giờ ngài Nhất Thiết … sắc thân tam muội).
Đoạn này nói về ngài Hỷ
Kiến đốt cánh tay, biểu tượng cho sự phá câu sinh pháp chấp.
Nói “Làm việc cúng dường
đó là lòng còn chưa đủ” là nói sở chứng chưa viên mãn, không cho được chút ít
là đủ. “Hàng Bồ tát đại đệ tử và trời rồng” là chúng được phó chúc từ Đức Phật
Nhật Nguyệt Tịnh Minh đức. Do vì trước kia đốt thân chưa đủ cúng dường, nay đốt
cánh tay mới là hết lòng. Ý nói hai loại chấp thủ câu sinh bị phá mới gọi là thật
sự chứng ngộ. Hai loại chấp thủ đều phá thì tám vạn bốn ngàn phiền não đều trở
về nơi tịch diệt; vậy bảy thức trước chấp trì giác quan và đối tượng, các pháp
đó cũng đều trở về tịch diệt. Cho nên gọi là “Đốt cánh tay cúng tám vạn bốn
ngàn Tháp xá lợi đến bảy vạn hai ngàn năm”. Hai chấp đã phá thì xả bỏ tiểu thừa
tức nhập vô thượng chánh giác. Nên vô số người cầu thanh văn đều phát tâm Bồ đề
và được an trụ tam muội “Hiện nhất thiết sắc thân”.
11. Từ câu: “Nhĩ thời
chư Bồ tát” đến câu: “Đắc vị tằng hữu” (Lúc đó các Bồ tát … được việc chưa từng
có).
Đoạn này nói chư Bồ tát,
trời người, bát bộ … thấy ngài hỷ Kiến không có tay đều buồn lo; vì pháp ái nhiễm
khó bỏ. Kinh Viên Giác nói: “ Pháp ái nhiễm không còn trong tâm thì tuần tự có
thể thành tựu” Ngài Hỷ Kiến lập lời thề xong hai tay trở lại như cũ, đó có nghĩa
là chỉ phá chấp mà không phá nơi pháp. Đến như đắc quả Phật thì không gì không
đầy đủ, nên hoàn lại như cũ. Bởi việc hy hữu nên ứng hiện điềm lành. Ở trên là
trình bày nhân duyên đời trước của ngài Dược Vương vậy.
12. Từ câu: “Phật cáo tú
Vương Hoa” đến câu: “Vạn ức na do tha số” (Đức Phật bảo ngài Tú Vương Hoa …
muôn ức na do tha như thế).
Đoạn này đúc kết những
việc xưa chứng minh cho việc ngày nay. Cho nên nói rằng: “Bồ tát Nhất Thiết
Chúng sinh Hỷ Kiến tức là Dược Vương Bồ tát vậy”.
Ngài Dược Vương xả thân
bố thí vô lượng trăm ngàn muôn ức na do tha, nghĩa là các loại ngã, pháp hai loại
chấp thủ. Ban đầu phẩm Pháp Sư đã nói kinh này khó trì, kế đó phẩm An lạc hạnh
dạy phương pháp trì kinh. Tuy nhiên bốn hạnh ấy chỉ có thể tránh xa cường bạo
mà không thể giáo hóa kẻ tăng thượng mạn mà chưa thể quên Phật kiến và Pháp kiến.
Đối với tri kiến Phật khó mà chứng nhập. Đều là do câu sinh ngã pháp hai loại
chấp chưa thể đoạn trừ, khó mà khế hợp pháp thân. Cho nên nói ngài Dược Vương đốt
thân mà được phó chúc, đốt cánh tay để nối tuệ mạng. Ý ở nơi tinh tiến phá hai
chấp mới được diệu hạnh trì kinh; mới nhập tri kiến Phật được.
13. Từ câu: “Tú Vương
Hoa” đến câu: “Chư trân bảo vật nhi cúng dường dã” (Tú vương Hoa … các vật trân
báu mà cúng dường).
Đoạn này nói muốn đắc quả
Bồ đề, có thể đốt một ngón tay, ngón chân để cúng dường xá lợi; hơn cả đem đất
nước, vợ con, tam thiên quốc độ, các vật trân bảo mà cúng dường. Ý nói có thể
phá một ít phần vi tế chấp pháp, thì có thể khế hợp pháp thân; siêu việt và thù
thắng hơn công đức hữu vi. Thế nên diệu hạnh trì kinh coi trọng việc tự phá hai
loại chướng ngại là phiền não và sở tri.
14. Từ câu: “Nhược phục
hữu nhân” đến câu: “Kỳ phước tối đa” (Nếu lại có người… phước của người ấy rất
nhiều).
Đoạn này so sánh sự trì
kinh, chỉ một bài kệ bốn câu, phước đó hơn công đức đem bảy thứ báu đầy cả tam
thiên thế giới cúng dường Phật. Vì công công đức kia phước điền hữu tướng, khó
so sánh với công đức pháp thân vô vi. Vì pháp thân vô vi không lệ thuộc số lượng,
nên siêu việt hơn.
15. Từ câu: “Tú Vương
Hoa” đến câu: “Chư kinh trung vương” (Tú Vương Hoa … là vua trong các kinh).
Đoạn này diễn rộng diệu
pháp có đủ mười loại công đức đệ nhất thù thắng, nên siêu việt hơn tam thừa,
nên dùng mười thí dụ để minh chứng.
1. Sâu rộng như biển,
các dòng nước không bằng được. Nên có nơi gọi là trí tuệ chư Phật thâm sâu vô
lượng.
2. Rất cao như núi Tu
di, các núi khác không bằng được.
3. Soi sáng đêm dài như
mặt trăng, các ngôi sao không bằng được
4. Phá tối tăm như mặt
trời, hàng sinh vật mù tối được lợi ích.
5. Rất cao quý như vua
chuyển luân.
6. Thống lĩnh nhiếp phục
tất cả, như trời Đế Thích là vua của 33 cõi trời. Kinh này thống lĩnh pháp
nghĩa của chư Phật.
7. Làm chỗ nương tựa cho
tam thừa, như Phạm thiên vương là cha của chúng sinh.
8. Là đệ nhất trong tam
thừa, như hàng nhị thừa là đệ nhất trong phàm phu.
9. Là đệ nhất trong các
kinh, như trong tam thừa Bồ tát là đệ nhất
10. Là vua trong các
pháp, như Phật là đấng pháp vương.
Lấy mười ví dụ này để dụ
chung cho Kinh Pháp Hoa này.
Trong một thời giáo lớn
thì diệu pháp nhất thừa là tối thượng, hết sức thù thắng. Trên là trình bày
pháp thù thắng, dưới đây trình bày công hạnh thù thắng.
16. Từ câu: “Tú Vương
Hoa” đến câu: “Giải nhất thiết sinh tử chi phược” (Tú Vương Hoa … mở sự trăn
trói cho tất cả sinh tử).
Đoạn này nói về công
năng thù thắng của diệu pháp, có thể cứu vớt tất cả và có thể phá nỗi khổ sinh
tử của chúng sinh.
Có thể xa lìa khổ não,
nhân của khổ và quả của khổ; làm lợi ích cho chúng sinh. Tức là nguyện được đầy
đủ. Đây là ba lần nêu lên công năng thù thắng như dụ ao nước trong mát và mười
hai thí dụ để trình bày sự thù thắng ấy. Từ câu: “Kinh Pháp Hoa này” trở xuống
là nói pháp hợp với các dụ trên.
Tóm lại mà nói thì có thể
làm cho chúng sinh đoạn trừ tất cả bịnh khổ não, cởi bỏ tất cả trói buộc của sự
sinh tử. Chúng sinh bị cái khổ trói buộc đều do vô minh sai lầm kết tụ. Nay tri
kiến Phật khi đã khai mở, ánh sáng trí tuệ hiện tiền có thể phá trừ vô minh tức
thì các khổ tự diệt, đó gọi là “Như tối tăm gặp đèn sáng”.
17. Từ câu: “Nhược nhân
đắc văn” đến câu: “Diệc phục vô lượng” (Nếu người đặng nghe … cũng là vô lượng).
Đoạn này nói về được
nghe diệu pháp nhờ có công năng thù thắng. Cho nên người biên chép công đức vô
biên và cúng dường công đức cũng vô lượng.
18. Từ câu: “Tú Vương
Hoa” đến câu: “Hậu bất phục thọ” (Tú Vương Hoa … không còn thọ lại nữa).
Đoạn này nói nếu nghe một
phẩm Dược Vương cũng được vô lượng công đức.
Đối với quẻ dịch nói càn
khôn, lấy càn làm dương, lấy khôn làm âm; nên càn là nam, khôn là nữ. Lấy càn
làm cương, lấy khôn làm nhu. Kinh Pháp Hoa này nói Phật tính chủng tử như kim
cương, chắc chắn không bị hư hoại. Cho nên người nữ trì kinh nhập tri kiến Phật
cũng vĩnh viễn làm nhân chính bát nhã. Phật tính chủng tử trải qua nhiều kiếp
không mòn, do vậy không trở lại thọ thân nữ nữa.
19. Từ câu: “Nhược Như
Lai diệt hậu” đến câu: “Chư cấu sở não” (Sau khi Như Lai diệt độ … các tánh nhơ
làm khổ).
Đoạn này nói người nữ có
thể như pháp tu hành, thâu hoạch nhiều lợi ích; so sánh với người nam thì người
nữ thù thắng hơn.
Tây phương cực lạc Thế
giới là liên hoa hóa sinh. Phật nói người có thể niệm Phật tức được vãng sinh.
Nay người nữ ở đời ác có thể dựa vào lời dạy của kinh mà tu liền được vãng
sinh. Vì nhập Phật tri kiến, phá hết vô minh và phiền não; nhờ tâm thanh tịnh
nên Phật độ cũng thanh tịnh. Đó là nhân duyên của tịnh độ. Tuy nhiên tham dục,
sân nhuế, ngu si, kiêu mạn, tật đố, là tâm lý nặng nề của người nữ. Nay y theo
kinh này tu hành mau chóng đoạn trừ không bị chúng làm hại. Thân được thanh tịnh
mà vãng sinh tịnh độ. Thật vậy, nói sau năm trăm năm Phật diệt độ, nghĩa là năm
trăm năm đầu là thời kỳ giải thoát kiên cố, năm trăm năm thứ hai là thiền định
kiên cố, năm trăm năm thứ ba là đa văn kiên cố, năm trăm năm thứ tư là phước đức
kiên cố; người nữ ở trong thời gian này khó trì kinh mà trì được thì lợi ích rất
lớn. Người nữ mà như vậy thì người nam có thể biết.
20. Từ câu: “Đắc Bồ tát
thần thông vô sinh pháp nhẫn” đến câu: “Trí tuệ chi lực” (Đặng thần thông vô
sinh pháp nhẫn của Bồ tát … sức trí tuệ công đức như thế).
Đoạn này căn cứ vào người
nữ trì kinh sinh tịnh độ mà nói về công đức.
Đắc vô sinh pháp nhẫn là
hàng đăng địa Bồ tát, đã chứng được chân như bình đẳng, đã phá được vọng kiến
nên nhãn căn thanh tịnh, chuyển được căn trần của bảy thức. Cho nên thấy được bảy
trăm muôn hai ngàn ức na do tha hằng hà sa chư Phật, vì pháp thân chư Phật ứng
nơi ý niệm hiện tiền, do vậy ở xa mà thấy và tán thán.
Câu “ Ông có thể ở
trong” trở xuống đến câu “ Không có ai bằng ông” Đó đều là lời khen ngợi của
chư Phật, do không phải là công đức hữu vi nên không bị lửa đốt, nước trôi; vì
phù hợp với pháp giới tính nên nói không thể hết được. Nói “Phá các ma”.v.v..
các ma tức là ngũ ấm ma. “Quân sinh tử” tức là Tử ma. Nói “Các oán địch khác” tức
là phiền não ma. Nói “Thảy đều trừ diệt” đó gọi là cùng với ngũ ấm ma, phiền
não ma, ma chiến đấu. Có đại công huân, ra khỏi tam giới, phá dẹp lưới ma, nên
nói là “Thảy đều trừ diệt”.
Do đắc tuệ mạng của chư
Phật nên chư Phật đồng hộ niệm. Vì siêu việt thế gian nên trời người không bằng;
vì đắc nhất thừa Phật tuệ nên thiền định của ba thừa không thể ngang bằng được.
Do tâm chưa đắc tuệ Phật, vậy câu kết nói rằng vị Bồ tát này thành tựu sức mạnh
công đức trí tuệ như thế. Đây là mượn người nữ để ca ngợi, nên nói là kết lợi
ích rộng lớn vậy.
21. Từ câu: “Nhược hữu
nhân văn” đến câu: “Như thượng sở thuyết” (Nếu có người nghe … như đã nói ở
trên).
Ở trên nói có thể y theo
toàn kinh mà tu hành, còn đoạn này nói có thể tùy hỷ một phẩm Dược Vương mà được
lợi ích. Có thể tùy hỷ khéo tán dương thì thiệt căn được thanh tịnh, nên miệng
thường phát ra mùi hương hoa sen xanh. Đã ngộ được xác thân là pháp thân, nên
trong các lỗ chân lông phát ra mùi thơm chiên đàn, công đức nói không hết được.
Ngài La Thập sau khi mất, trước tháp ngài mọc lên một cành hoa sen xanh, khi mở
tháp ra thấy hoa sen từ lưỡi ngài mọc ra. Đó là sự hiệu nghiệm do dịch kinh
Pháp Hoa.
22. Từ câu: “Thị cố Tú
Vương Hoa” đến câu: “Bất lão bất tử” (Tú Vương Hoa! vì thế … chẳng già chẳng chết).
Đoạn này lấy một phẩm
kinh mà giao phó cho Tú Vương Hoa. Ý nói trì kinh này lấy sự khổ hạnh làm căn bản.
Năm trăm năm sau trong
cõi diêm phù đề, là thời pháp Phật yếu mà pháp ma mạnh; nếu không khổ hạnh thì
không thể truyền bá rộng kinh này được. Nếu không có sự gia hộ thì không thể
tránh được sự chướng ngại.
Vậy nên ngài dặn dò Tú
Vương Hoa đừng để cho pháp ma phát triển thuận lợi; đặc biệt phải nhắc nhở Tú
Vương Hoa phải dùng thần lực để giữ gìn kinh này. Vì kinh này là thuốc hay cho
kẻ bịnh nơi cõi diêm phù đề, như vị cam lồ của cõi trời. Cho nên nói: “ Bệnh liền
tiêu diệt, chẳng già chẳng chết”.
Kinh này Phật phó chúc
cho chúng từ đất vọt lên, ý nói là ở nơi mười phương thế giới mà qua lại truyền
bá rộng rãi kinh này. Hơn nữa ngay cả ngài Dược Vương là người thường ở cõi Ta
bà mà còn không hợp ý Phật, nay lấy phẩm này giao cho Tú Vương Hoa; dặn ở nơi
cõi diêm phù đề truyền bá rộng rãi. Diêm phù đề là một trong bốn châu, cõi ấy rất
hẹp, con người rất hung ác. Sao Phật lại coi trọng riêng cõi này? Mười phương
dù rộng vốn thật là tâm Phật. Do vì Phật giáo hóa ở cõi Ta bà nên ba châu kia
không hiện, chỉ hiện diêm phù đề, là chỗ dùng thân để giáo hóa. Con người nhiều
sự tệ ác cho nên phó chúc cho. Ý nói người nơi cõi diêm phù cùng với kinh này
có duyên với nhau nên kinh là lương dược, không phải kinh này thì không thể nhiếp
hóa được. Không có khổ hạnh thì không thể truyền bá rộng rãi được. Cho nên lấy
riêng phẩm này làm trọng vậy.
23. Từ câu: “Tú Vương
Hoa” đến câu: “Sinh cung kính tâm” (Tú Vương Hoa … sinh lòng cung kính như thế).
Đoạn này dặn dò Tú Vương
Hoa kính thuận người trì kinh.
“ Hoa sen xanh” là dụ
cho tâm mầu nhiệm thanh tịnh và trong sáng. “Hương bột” là dụ cho thần thông vi
diệu. Nói: “Người trì kinh đó” là nói đã đủ kinh này. Cho nên lấy đây để tán
thán người kia. Vì người này không bao lâu sẽ ngồi nơi đạo tràng phá ma quân,
thuyết pháp độ người ra khỏi biển sinh tử, cần phải cung kính tưởng như Phật vậy.
24. Từ câu: “Thuyết thị”
đến câu: “Ngữ ngôn Đà la ni” (Lúc Phật nói phẩm … ngữ ngôn Đà la ni).
Đoạn này nói nghe phẩm
này được lợi ích.
Vì nhập Phật tri kiến,
chứng được thật tướng. Cho nên đạt được ngôn ngữ của tất cả chúng sinh đều nhập
pháp tính, đắc được pháp môn tổng trì Đà la ni. Nói ngài Dược Vương đắc được “
Hiện nhất thiết sắc thân tam muội” tức là tất cả sắc thân đều là Phật thân. Nay
nói ngôn ngữ Đà la ni tức là nói tất cả âm thanh ngôn ngữ đều là pháp âm. Do vì
bậc bát địa Bồ tát ra khỏi định chân như tiến đến cửu địa, xứng đáng là địa vị
pháp sư, hiện thân thuyết pháp. Đây ở thất địa đã đủ thể, nhưng nhỏ nên làm cơ
sở thăng tiến ở các địa sau.
25. Từ câu: “Đa Bảo Như
Lai” đến câu: “Nhất thiết chúng sinh” (Đức Đa Bảo Như Lai … tất cả chúng sinh).
Đoạn cuối này nhân nói về
việc khổ hạnh trì kinh ngày xưa của ngài Dược Vương đều khế hợp pháp thân. Cho
nên ngài Đa Bảo tán thán TúùVương Hoa mà hỏi việc này. Vì để lợi ích cho chúng
sinh nên trình bày khen ngợi. Đức Đa Bảo xuất hiện vốn là để chứng minh kinh
này. Ý nơi việc có được người tiếp nối tuệ mạng. Nay tán thán Dược Vương, kế đến
lại mời ngài Diệu Âm. Đã được người rồi thì mãn pháp hội không còn gặp lại nữa.
Phẩm Diệu Âm Bồ Tát Thứ
Hai Mươi Bốn
Đại ý phẩm này trình bày
địa thứ tám thật chứng Pháp Hoa tam muội. Khi chứng được chân như bình đẳng, từ
địa thứ tám tiến lên địa thứ chín. Phát huy tác dụng chân như. Sắc và tâm tứ đại
đạt được như huyễn tam muội, ở vào địa vị pháp sư; cho đến ngôi đẳng giác, phân
thân thuyết pháp không suy nghĩ mà ứng hiện. Đặc biệt lấy tên là Diệu Âm. Đó là
ý của phẩm này.
Ngài Diệu Âm tùy loại
chúng sinh mà hiện thân thuyết pháp. Đây chính là pháp giác ngộ tự tính, là tính
ý sinh thân. Phẩm trước ngài Dược Vương là tam muội lạc ý sinh thân, do nhập định
thì có mà xuất định thì không. Phẩm này thì “ Ý sinh thân” Vì xuất định hay nhập
định tùy loại mà thị hiện, là sự chín muồi mà biến hiện nên có hiện tượng tương
tác. Như ngài Quán Âm thì pháp giới duyên khởi phổ môn thị hiện, người đọc nên
biết.
1. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca” đến câu: “Chư Phật thế giới” (Lúc bấy giờ đức Thích Ca… cõi Phật ở
phương đông).
Đoạn này trình bày công
đức diệu hạnh trì kinh, nhân duyên đã viên mãn, sắp lên kết quả giác ngộ. Cho
nên hào quang chiếu, triệu Diệu Âm để trình bày tướng nhân quả tương hội.
Đức Phật có chín mươi bảy
loại tướng đại nhân mà nhục kế đãnh tướng là thứ nhất. Đây là Vô kiến đảnh tướng;
từ đây phóng hào quang biểu thị kết quả của pháp vô thượng phóng ra hào quang
trí tuệ. Tướng “ Hào quang giữa chặng mày” thì biểu thị trung đạo diệu trí
phóng ra hào quang. Do diệu trí này là nhân tố căn bản của tâm. Nay hai loại
hào quang cùng phóng biểu thị cho nhân tố căn bản của tâm khế hợp với quả giác,
là biểu tượng của thỉ giác và bản giác hợp lưu.
Ở đầu kinh, sắp sửa nói
diệu pháp. Trước hết phóng hào quang giữa chặng mày để biểu thị thật tướng chân
cảnh. Ý muốn người tu hành hiểu rõ thể tính của hào quang này để làm phát hiện
tâm giác ngộ ban đầu. Do đó mà tạo ra thật tướng nhập tri kiến Phật. Nay hai loại
chấp thủ đều đã phá, diệu hạnh đã tròn, nên hai loại hào quang cùng phóng để hiển
thị lý nhân quả nhất như.
Hào quang trước chỉ chiếu
Đông phương một vạn tám ngàn thế giới để biểu thị cho mê vọng, động loạn, căn
trần, thức giới của chúng sinh ngộ được thật tướng. Hào quang nay chiếu khắp
đông phương một trăm tám vạn ức Na do tha, hằng hà sa… thế giới. Tuy nói là chiếu
khắp nhưng nêu ra tiêu biểu một góc của chiếu khắp pháp giới mà thôi. Bởi lẽ
pháp giới là vô biên, không rời khỏi căn trần, động loạn của chúng sinh. Do mở
rộng mà sung mãn, nên dung chứa khắp không chướng ngại. Vì vậy trước hết chiếu
hào quang phương đông.
2. Từ câu: “Quá thị số
dĩ” đến câu: “Biến chiếu kỳ quốc” (Qua khỏi số cõi đó … soi khắp cõi nước đó).
Đoạn này nói hào quang
chiếu cõi Phật, để biểu thị thỉ giác có công đức thì bản giác mới hiện hữu.
Thế giới gọi là tịnh
quang trang nghiêm là Thường tịch quang tịnh độ, nơi pháp thân an trụ. Đức Phật
hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí. Tịnh Hoa tiêu biểu diệu hạnh làm nhân. Tú Vương
Trí là kết quả giác ngộ. Ý muốn trình bày quả giác ngộ kia là nhân duyên từ tâm
ta. Cho nên hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật.
Tịch quang của Phật chưa
có cơ hội xuất hiện, nay nhân vì hào quang trắng của đức Thích Ca chiếu khắp nước
ấy, hào quang trắng tiêu biểu cho nhân tố trí tuệ của tâm, nay chiếu nước Phật ấy
chính là hiển thị tướng thỉ giác của bản giác khế hội, nên hai hào quang mà chỉ
nói hào quang trắng
3. Từ câu: “Nhĩ thời nhất
thiết” đến câu: “Chư đại tam muội” (Lúc đó trong nước nhất thiết … các đại tam
muội như thế).
Đoạn này nói các bậc Bồ
tát thỉ giác chứng được các loại tam muội, để trình bày hiện tượng nhập tri kiến
Phật.
Trong nước Tịnh quang có
ngài Diệu Âm Bồ tát, ở địa vị cửu địa bồ tát ra khỏi chân như tam muội như từ
nước Tịnh quang đến, ở ngôi vị pháp sư, ứng cơ thuyết pháp, không tư duy mà
thuyết như tiếng trống cõi trời, nên gọi là Diệu Âm. Đây là do chứng sâu sắc thật
tướng chân như mà khởi lên tác dụng của trí tuệ, là biểu tượng của cửu địa đến
đẳng giác Bồ tát. Địa vị này từ sơ địa đến đã trải qua thờ phụng nhiều Đức Phật,
nên gọi là “Từ lâu đã trồng các cội công đức”. Gần gũi vô lượng Đức Phật, đã chứng
bình đẳng chân như thâm nhập pháp giới, cho nên gọi là “Đều đặng trọn nên trí
tuệ rất sâu” được “Diệu tràng tướng tam muội.v.v..” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ
tát cửu địa đắc được trí nhất thiết chủng trí, vào ngôi vị, mà liền đắc trăm vạn
A tăng kỳ tam muội”… Mười sáu loại tam muội đều từ chân như tam muội mà ra, về
mặt tác dụng thì có tên sai biệt, do nơi sự thành tựu trí tuệ thâm sâu mà có.
Hàng Bồ tát này khéo léo thuyết pháp, nhiếp phục ngoại đạo, dẹp tà hiển chánh.
Cho nên gọi là “Diệu tràng tướng tam muội”. Do trì kinh mà thâm chứng thật tướng
nên gọi là “Pháp Hoa tam muội”. Do tri kiến Phật làm thanh tịnh vi tế vô minh,
nên gọi là “Tịnh đức tam muội”. Do hiển hiện bản giác vĩnh viễn xả ly triền phược
đắc đại tự tại nên gọi là “Tú Vương hý tam muội”. Vì có lòng từ vô duyên ứng hiện
khắp quần cơ nên gọi là “Vô duyên tam muội”. Khi nói pháp dùng thật tướng ấn mà
ấn định các pháp nên gọi là “Trí ấn tam muội”. Do tất cả ngôn ngữ đều thuận
theo chánh Pháp nên gọi là “Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn tam muội”. Do
vì lấy chân như làm căn bản cho vạn hạnh nên gọi là “Tập nhất thiết công đức
tam muội”. Vì pháp thân hiển hiện nên gọi là “Thanh tịnh tam muội”. Do đắc đại
trí dụng không còn các trói buộc nên gọi là “Thần thông du hý tam muội”. Do ánh
sáng trí tuệ phá các tối tăm nên gọi là “Huệ cự tam muội”. Xứng hợp với diệu dụng
của chân như làm trang nghiêm pháp thân nên gọi là “Trang nghiêm vương tam muội”.Vĩnh
viễn rời ô nhiễm, chướng ngại, trí tuệ thường chiếu nên gọi là “Tịnh quang minh
tam muội”. Thức tạng tức Như Lai tạng nên gọi là “Tịnh tạng tam muội”. Chẳng phải
sở hữu của tam thừa nên gọi là “Bất cọng tam muội”. Vì trí tuệ như mặt trời,
các niệm luôn ở trong trung đạo nên gọi là “Nhật triền tam muội”. Đây là nêu
lên tổng quát các tam muội, kỳ thực đắc được trăm ngàn vạn hằng hà sa các đại
tam muội.
4. Từ câu: “Thích Ca Mâu
Ni Phật quang chiếu” đến câu: “Dược thượng Bồ tát” (Quang minh của Đức Thích Ca
… Dược thượng Bồ tát).
Đoạn này nói về Thỉ giác
có Căn bản giác mới hiển lộ.
Luận Đại thừa khởi tín
nói: “Nghĩa của Thỉ giác là dựa vào Bản giác”. Cho nên Diệu Âm thưa với Phật Tú
Vương Trí, ý là Thỉ giác hiệp với Bản giác, từ nơi thể mà khởi tác dụng. Do vậy
xin qua cõi Ta bà gặp Đức Thích Ca, nhờ đại trí làm nhân tố căn bản của tâm,
nên cùng gặp ngài Văn Thù Sư Lợi, sắp tập hợp các đức hạnh để nhập vào diệu
viên quả hải. Cho nên thấy ngài Dược Vương, Võng thí, Tú vương, Thượng hạnh,
Trang nghiêm, Dượng thượng.v.v.. các Bồ tát.
5. Từ câu: “Nhĩ thời Tịnh
Hoa” đến câu: “Trí tuệ trang nghiêm” (Khi đó đức Tịnh Hoa … trang nghiêm trí tuệ
của Như Lai).
Đoạn này nói ngài Diệu
Âm xin qua cõi Ta bà gặp đức Thích Ca để biểu thị cho diệu hạnh bình đẳng.
Câu: “Chớ khinh nước kia
sinh ý tưởng họ là thấp kém” Ý nói diệu hạnh của Bồ tát chắc chắn không còn nhiễm
tịnh, quên năng sở, diệt ảnh tượng mới nhập được bình đẳng pháp giới. “Thân của
chư Phật và Bồ tát đều kém nhỏ” chính là muốn nói do ứng hóa thân mà thấy pháp
thân, vậy vốn không phải nhỏ. Nói: “Thân ông cao đến bốn muôn hai ngàn do tuần”
là nhân tứ vô lượng tâm, do đại nguyện ứng hiện căn trần mà thành tựu. “Sáu
trăm tám mươi muôn do tuần” là sáu căn tám thức chuyển thành diệu tịnh pháp
thân, đều là do thần lực của Như Lai. Tác dụng của Bồ tát đều nương vào Phật
trí vô tác vô vi mà ứng biến vô phương. Cho nên gọi là thần thông du hý công đức
trí tuệ.
6. Từ câu: “Ư thị Diệu
Âm Bồ tát” đến câu: “Dĩ vi kỳ đài” (Lúc đó ngài Diệu Âm Bồ tát … chân thúc ca bảo
làm đài).
Đoạn này nói ngài Diệu
Âm sắp đến Ta bà nên trước hiện điềm hoa sen làm biểu tượng.
Nhờ vô tác diệu lực nên
không rời khỏi chỗ ngồi, do tam muội lực hóa làm 8. 4000 hoa sen báu, đều biểu
thị vô tác diệu lực. Tuy nhiên dùng sức tam muội hóa hiện hoa sen, thì trong
kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ tát cửu địa đắc được trăm vạn A tăng kỳ tam muội, tam
muội sau cùng là “Thọ nhất thiết trí thắng chức vị”. Tam muội này khi hiện ra,
thì trước hết có đại bảo liên hoa bỗng nhiên xuất sinh. Hoa ấy to lớn chứa được
tam thiên đại thiên thế giới, dùng các thứ báu xen vào là trang trí.
Hỏi rằng: Diệu Âm đến gặp
Thích Ca, vốn chưa có ngôi vị, mà lấy điều này giải thích, há chẳng phải lỗi lầm
sao?
Đáp rằng: Đây là dùng hiện
tượng để nói, bởi vì hàng Bồ tát thâm chứng nơi thật tướng, nhập tri kiến Phật,
nhân đã tròn, hạnh đã mãn, đang lúc nhân quả giao hội, nên tự nhiên có đủ lực bất
khả tư nghì, hiện ra tác dụng lớn. Do căn cứ về lý đã tương đồng, nên hiện tượng
cũng giống vậy. Hoa Nghiêm nói về tâm viên mãn mười địa, còn ở đây căn cứ vào
nhập Phật tri kiến, diệu hạnh đã tròn, ý nghĩa thâm hợp. Do vì kinh này là diệu
hạnh vô trụ, không nói tiệm thứ chỉ cần hiển lý, vốn phải như thế thì có gì mà
nghi.
7. Từ câu: “Nhĩ thời Văn
Thù”đến câu: “Thính Pháp Hoa Kinh” (Bấy giờ ngài Văn Thù… nghe kinh Pháp Hoa).
Đoạn này ngài Văn Thù Sư
Lợi thấy hoa sen đến nên hỏi. Sắp trình bày ý nghĩa của Diệu Âm đến, nên Phật
trả lời.
Kinh Hoa Nghiêm dùng trí
để lập thể, trong phẩm nhập pháp giới, ngài Thiện tài lần đầu gặp Văn Thù Sư Lợi
chỉ bày cho đi tham vấn các bậc thiện tri thức, sau cùng ngài Văn Thù Sư Lợi từ
xa duỗi tay phải xoa đầu ngài Thiện Tài, biểu thị cho trí đã viên mãn không
khác sơ tâm. Kinh này cũng lấy trí lập thể, nên ban đầu phóng hào quang, biểu
thị cảnh thật tướng, từ nơi ngài Văn Thù Sư Lợi phát khởi. Nay phần nhập Phật
tri kiến, ngài Diệu Âm đến làm chứng cũng từ nơi Văn Thù Sư Lợi mà phát huy. Ý
chỉ của hai kinh tương đồng nên dùng các biểu tượng cũng giống nhau.
8. Từ câu: “Văn Thù Sư Lợi”
đến câu: “Linh ngã đắc kiến” (Ngài Văn Thù Sư Lợi … khiến chúng con đặng thấy).
Đoạn này ngài Văn Thù Sư
Lợi vì cơ duyên mà khởi phát lời hỏi. Xem trong nguyên văn có thể biết.
9. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca” đến câu: “Dục kiến nhữ thân” (Lúc ấy Đức Thích Ca… muốn thấy thân của
ông).
Đoạn này Đức Đa Bảo triệu
mời Diệu Âm.
Ngài Diệu Âm vốn muốn
thân cận Đức Thích Ca và gặp Văn Thù Sư Lợi để nghe kinh Pháp hoa mà lại chờ Đức
Đa Bảo triệu kiến. Chính là ý nghĩa đẳng giác nhập diệu tức phải nhờ pháp thân
đến tiếp; không phải việc nơi đầu cửa ứng hóa thân. Sau khi Phật Đa Bảo triệu
ngài Diệu Âm, còn trụ trong hư không. Từ đây đến cuối pháp hội không nói gì nữa,
vì người hành trì kinh đã phối hợp pháp thân, đã đồng với bản thể, rõ ràng
không có hai tướng. Do rời bỏ nghiệp thức, pháp thân không bị bỉ thử, tương
thông với nhau, cho nên nêu lên khi ngộ thì thấy nhưng khi chứng nhập rồi thì
không thấy nữa.
10. Từ câu: “Vu thời Diệu
Âm” đến câu: “Bất cổ tự minh” (Bấy giờ ngài Diệu Âm… chẳng trỗi tự kêu).
Đoạn này nói về nghi thức
ngài Diệu Âm đến cùng với 8.4000 Bồ tát. Ý muốn trình bày trước do diệu hạnh
trì kinh mà nhập Phật tri kiến. Tập hợp 8.4000 phiền não mà trở thành diệu dụng
thần thông. Đã trải qua diệu hạnh tức thì phá vô minh, cho nên đi qua chỗ nào
thì chỗ ấy có sáu cách chấn động. Nếu có hành động gì thì điều ấy đều chân
nhân, nên khắp nơi mưa hoa sen. Pháp âm tự nhiên, thiên nhạc tự trỗi. Điều này
đều nương nơi công hạnh mà hiển lộ, nên điềm lành ứng hiện như thế.
11. Từ câu: “Thị Bồ tát
mục” đêán câu: “Phụng thượng anh lạc” (Mắt của vị Bồ tát đó … dâng chuỗi ngọc
lên).
Đoạn này nói về nghi thức
mà ngài Diệu Âm đã đến.
“Mắt như hoa sen xanh rộng
lớn” là trình bày thật tướng của ngài Diệu Âm. Thuyết minh thân phần đẹp đẽ
4.2000 do tuần. “Vào đài thất bảo” là đài trong hoa sen. “Bay lên hư không”
tiêu biểu bay lên pháp tính không. “Dùng anh lạc dâng cúng Đức Thích Ca” tiêu
biểu cho sử dụng diệu hạnh trang nghiêm pháp thân.
12. Từ câu: “Nhi bạch Phật
ngôn” đến câu: “Kham nhẫn cửu trụ phủ” (Mà bạch Phật rằng… kham nhẫn ở lâu đặng
chăng).
Đoạn này ngài Diệu Âm
kính trọng bổn sư của mình. Dùng lời thăm hỏi Đức Thích Ca.
Việc thăm hỏi đều là những
việc khó kham nhẫn ở cõi Ta bà. Đức Thích Ca hiện thân đồng lao cộng khổ với
dân chúng, nên hỏi thăm như vậy. Hỏi thăm ngài Đa Bảo cũng lấy vấn đề ít não
làm ngôn từ. Do đó đủ thấy cõi Ta bà là chốn không dễ vào vậy.
13. Từ câu: “Thế Tôn,
ngã kim dục kiến” đến câu: “Cố lai chí thử” (Thế Tôn! con nay muốn thấy … nên
qua đến cõi này).
Đoạn này ngài Diệu Âm gặp
cả hai Đức Thế Tôn.
Chính là biểu thị cho Thỉ
giác khế hợp với Bản giác. Nghe kinh Pháp Hoa và gặp ngài Văn Thù Sư Lợi là biểu
tượng nhập Phật tri kiến, là biểu thị hai trí ngầm hợp, đức Phật Đa Bảo là pháp
thân, Đức Thích Ca là Báo hóa thân, nay đều thấy đủ. Ý nghĩa là đã hiển lộ bản
giác thì ba thân cùng một gốc, không hai, không phân chia.
14. Từ câu: “Nhĩ thời
Hoa Đức Bồ tát” đến câu: “Hữu thị thần lực” (Lúc bấy giờ ngài Hoa Đức Bồ tát …
có sức thần thông như thế).
Đoạn này hỏi bản nhân của
ngài Diệu Âm.
Do ngài Hoa Đức hỏi, hoa
là biểu thị cho căn bản của diệu hạnh. Ý là trình bày sức mạnh thần thông tam
muội của ngài Diệu Âm. Đều nương nơi diệu hạnh mà thành tựu. Cho nên mượn cớ để
thưa hỏi.
15. Từ câu: “Phật cáo
Hoa Đức Bồ tát” đến câu: “Hữu thị thần lực” (Đức Phật bảo ngài Hoa Đức… có sức
thần như thế).
Đoạn này lời đáp trình
bày bản nhân của ngài Diệu Âm.
Ngài vốn có vị thầy là
Phật Vân Lôi Âm, dùng mây dày sắp mưa để thấm nhuận kẻ sơ cơ mê muội. Trước hết
phải có tiếng sấm trước, ứng cơ tự tại, nên gọi là Vân Lôi Âm Vương, là danh hiệu
từ pháp thân đến ứng thân. Ngài Diệu Âm thờ thầy đó có lý do: Vì tất cả thế giới
không rời pháp giới, nên cõi nước tên là Hiện nhất thiết thế gian. Đó là chỗ
nương tựa của cõi chân thật. Do chúng sinh có điều mong cầu, tùy cảm ứng mà hiện
nên gọi là Hỷ Kiến. “Một vạn hai ngàn năm” là biểu tượng căn và trần đối đãi với
nhau. “Mười muôn” là số lớn của trăm ngàn. “Kỹ nhạc” là tiêu biểu cho công hạnh
vi diệu đưa đến niềm vui. “Tám muôn bốn ngàn” là số trần lao phiền não và pháp
môn giải thoát đối lập nhau. Bát gọi là “Ứng lượng khí” tiêu biểu cho pháp ứng
cơ mà ứng lượng: Do vì Bồ tát này ngày xưa ở nơi đầu ngõ căn và trần, đã dùng
trăm ngàn diệu hạnh vi tế để rộng rãi độ sinh; có thể vì chúng sinh biết căn cơ
mà ứng hiện tùy thời giáo hóa. Do xưa đầy đủ nhân duyên diệu hạnh này, nên nay
chiêu cảm kết quả được gọi là Diệu Âm. Do đó mà có sự kiện thần thông tam muội
như thế. Đây là tự nhập tri kiến Phật mà chứng đắc, nên gọi là “Có sức thần như
thế”.
16. Từ câu: “Hoa Đức” đến
câu: “Na do tha Phật” (Hoa Đức! … Na do tha Phật).
Đoạn này nói rõ nhân xưa
để chứng minh cho duyên nay. Nên nói rằng người dùng kỷ nhạc cúng dường và dâng
lên bát báu, nay chính là Diệu Âm Bồ tát đây. Do ngài Diệu Âm đã cúng Phật nhiều
trồng đức đã dày, nên cảm quả báo có sức thần như thế.
17. Từ câu: “Hoa Đức! Nhữ
đản kiến” đến câu: “Thuyết thị kinh điển” (Hoa Đức! ông chỉ thấy … nói kinh điển
này).
Đoạn này sắp sửa nói sự ứng
hóa của ngài Diệu Âm để thấy thần lực quảng đại.
Thân ngài ở đây mà hóa
hiện các loại thân hình, ở khắp mọi nơi, vì chúng sinh mà nói kinh điển này. Vì
ngài Diệu Âm diệu pháp mà nhập Phật tri kiến, do phá hai loại chấp thủ mà trừ
được hai chướng ngại, đã chứng bình đẳng chân như. Nay từ chân như tam muội khởi
lên, nhập vào cửu địa cho đến bậc đẳng giác, ở vào địa vị pháp sư. Rồi dùng các
tam muội thị hiện thân ở mười phương. Sắp sửa nói về sự hiện thân nên trước hết
nêu lên sự kiện tổng quát.
18. Từ câu: “Hoặc hiện
Phạm Vương thân” đến câu: “Nhị thuyết thị kinh” (Hoặc hiện thân Phạm Vương …mà
nói kinh này).
Đoạn này nói hiện thân ở
mười cõi, theo sự hiện thân ấy mà thuyết pháp.
Trước hết nêu Phạm Thiên
cho đến tướng trạng của ba đường, sáu nẻo ở trong thiên đạo có thể nghe pháp.
Nên nói “Mà thuyết kinh này”. Đến nơi ba đường không thể nghe pháp chỉ có thể cứu
giúp nỗi khổ của họ mà thôi
19. Từ câu: “Hoa Đức! thị
Diệu Âm Bồ tát” đến câu: “Diệc phục như thị” (Hoa Đức! Diệu Aâm Bồ tát này …
cũng lại như thế).
Đoạn này lặp lại thần lực
đã nói ở trên và trình bày rộng rãi tác dụng vi diệu.
Nói có thể hiện thân
trong sáu nẻo, như các loại thần thông biến hóa này mà trí tuệ không giảm như
dùng một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn đèn khác, đèn vẫn như cũ. Đó gọi là
“Đã vì người mình lại có thêm. Đã cho người mình lại càng nhiều thêm”. Nói:
“Dùng ngần ấy trí tuệ sáng soi cõi Ta bà” nghĩa là dùng nhập Phật trí tuệ. Các
loại tam muội có thể đi vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh, nên gọi là “Tất cả
chúng sinh đều đặng hiểu biết”. “Ở trong hằng hà sa cõi nước trong mười phương
cũng lại như thế” đó là nói không riêng cõi Ta bà mà có thể phân thân vô lượng
thế giới. Đoạn này là phát khởi, trở xuống cũng nói về hiện thân tứ thánh.
20. Từ câu: “Nhược ưng
dĩ thanh văn” đến câu: “Kỳ sự như thị” (Nếu chúng sinh đáng dùng thân hình
thanh văn … việc đó như thế).
Đoạn này nói hiện thân tứ
thánh mà thuyết pháp, cứ như vậy tùy loại hiện thân mà thuyết pháp. Tuy là sức
thần thông tam muội, thực ra do sức nhập Phật trí tuệ mà được như vậy.
21. Từ câu: “Nhĩ thời
Hoa Đức” đến câu: “Vô lượng chúng sinh” (Lúc ấy ngài Hoa Đức Bồ tát … vô lượng
chúng sinh như thế).
Đoạn này hỏi ngài Diệu
Âm an trụ ở tam muội nào mà ứng hiện vi diệu như thế. Đức Phật đáp là: Hiện nhất
thiết sắc thân tam muội.
Đây chính là “Giác pháp
tự tính, tính ý sinh thân” Kinh Lăng Già nói Đức Thích Ca: Thế nào là giác pháp
tự tính, tính ý sinh thân? Nghiã là đệ bát địa, từ đó quan sát hiểu rõ các pháp
như huyễn, đều là vô sở hữu. Do vậy thân tam chuyển biến mà đắc Như huyễn tam
muội và các môn tam muội, vô lượng tướng trí tuệ tự tại, như Diệu hoa trang
nghiêm, nhanh chóng như tư tưởng ý nghĩ. Đều như huyễn mộng, như trăng dưới nước,
như ảnh tượng trong gương, không phải năng tạo và sở tạo, mà như có năng tạo sở
tạo. Tất cả sắc thân các loại chi phần đầy đủ trang nghiêm. Tùy ý vào tất cả cõi
Phật, tất cả chúng hội, vì thông đạt tự tính các pháp. Đó gọi là “Giác pháp tự
tính, tính ý sinh thân”.
Giải thích rằng: Ở nơi
bát địa Bồ tát chứng được nhất tâm chân như, tiến lên cửu địa, phát huy tác dụng
chân như, đắc như huyễn tam muội. Ở nơi nhất tâm mà chuyển biến có thể hiện vô
lượng thần thông tự tại, một lúc cùng phát khởi như hoa nở xoè. Thí dụ như ý
nghĩ đến đâu đất đá tường vách không ngăn chặn được. Cho nên gọi là “ Mau chóng
như ý nghĩ”. Tiến tới địa vị thứ mười, tùy điều mình nhớ nghĩ mà giáo hóa các
chúng sinh, nên gọi là “ Tùy ý vào tất cả cõi Phật và chúng hội” do Bồ tát ấy
tu hành đắc tự giác thánh trí. Ở đây chính là nhập Phật tri kiến, đoạn được mê
lầm chứng được chân lý, tự nhiên có được tác dụng bất khả tư nghì. Hiện thể
tương đương, không do địa vị mà hạn cuộc được. Nếu chẳng dùng hạnh mà thành đức
thì chỉ gọi là lưu thông mà thôi. Vậy thì Diệu Âm, quán Âm lại tầm thường, còn
nhập Phật tri kiến cũng vô ích.
22. Từ câu: “Thuyết thị
Diệu Âm Bồ tát phẩm thời” đến câu: “Cập đà la ni” (Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ tát
… và Đà la ni).
Đoạn này nói đi theo
pháp được lợi ích vi diệu, cho nên người nghe đều cùng đoạn hoặc chứng chân vậy.
23. Từ câu: “Nhĩ thời Diệu
Âm Bồ tát” đến câu: “Pháp Hoa tam muội” (Khi ngài Diệu Âm … Pháp Hoa tam muội).
Đoạn này nói ngài Diệu
Âm Bồ tát trở về bản quốc phục vụ thầy mình.
Nhiếp dụng quy thể nên gọi
là về bản quốc. Vì chưa vào bậc Diệu giác còn ở nơi nhân vị. Xuất nhập tam muội
nên còn có tướng qua lại. Sự vãng lai đều nhờ vô tác diệu lực, thành tựu diệu hạnh
nên mưa hoa sen báu và các thứ kỹ nhạc. Vì đồng hạnh và đồng chứng, nên khiến
cho các thân hữu 8.4000 người đều đắc Hiện nhất thiết sắc thân tam muội. Bốn vạn
hai ngàn thiên tử nhân nghe pháp mà đắc vô sinh pháp nhẫn. Ngài Hoa Đức Bồ tát
sau khi khởi phát lời hỏi lại đắc được Pháp Hoa tam muội, cũng dùng thật hạnh
mà chứng nhập vậy.
Quán Thế Âm Bồ Tát Thứ
Hai Mươi Lăm
Đại ý phẩm này là dùng
Pháp hoa tam muội để nhập Phật tri kiến. Nhân tố của thỉ giác đã tròn nên đưa đến
kết quả tối hậu. Ngược dòng đời mà hiện ra nơi mười cõi, tự nhiên mà ứng hiện.
Điều đó có nghĩa là các loại thân từ chủng tử thánh cùng lúc xuất hiện, nên có
hiện tượng được các loại thân cùng sinh ra không tạo tác mà tác ý sinh thân.
Trình bày tác dụng cùng cực của Diệu pháp tam muội, nên mới có phẩm này.
Do diệt trừ được sinh tướng
của căn bản vô minh mà Đại viên cảnh trí và Bình đẳng tánh trí hiển hiện, nên
mượn đức Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn thị hiện để phát hiện năng lực. Quán thế Âm
Bồ tát ban đầu lấy cái nghe như huyễn để mà nghe, tu Kim cang tam muội lực. Cho
nên sinh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền, bỗng nhiên siêu việt thế gian và
xuất thế gian, tức đắc được: Trên thì cùng một từ lực với mười phương chư Phật,
dưới thì cùng lục đạo chúng sinh chung hướng bi tâm. Do vậy có thể lấy một thân
mà ứng hiện tất cả; không gì là không cảm ứng. Đây là sự thành công của diệu hạnh
viên mãn Pháp hoa tam muội, vi diệu tột cùng là điều này.
Từ phẩm Dược Vương đến
phẩm này, gồm ba phẩm tương đương với ba loại Ý sinh thân để chứng đắc diệu hạnh
thành tựu công đức vậy. Nếu cho đây là phần lưu thông thì phần trước của kinh
chỉ có Tín Giải mà không có Hành chứng, tức là giải mà không giải. Hàng Bồ tát
mới được thọ ký tương lai phụng sự nhiều Đức Phật, lấy gì để bước lên Phật quả!
Ý của Phật rõ ràng, quán sát sâu xa sẽ thấy. Do Diệu hạnh tuy đã tròn, nhưng e
rằng người tu còn bị các tập khí còn sót lại chưa hết, nên trình bày ba loại
gia trì để có thể chứng đắc Diệu quả. Do đó, ba phẩm kế sau làm đúc kết cho bộ
kinh này.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Vô
tận ý” đến câu: “Danh Quán Thế Âm” (Lúc bấy giờ Ngài Vô Tận Ý… tên là Quán Thế
Âm).
Đoạn này trình bày Pháp
hoa tam muội nhập Phật tri kiến diệu chứng quả vị tối hậu, nên lấy Quán Âm phổ
môn thị hiện để chứng minh.
Do Ngài Vô Tận Ý thưa hỏi
tức là Như Lai tạng khi bị mê gọi là Alại da thức, tác dụng của nó ở nơi năm Ý,
nên có nghiệp lực không thể biết hết. Nay chuyển thức thành trí, thì năm ý thức
đều thành diệu dụng thần lực không thể nghĩ bàn. Quán Âm phổ môn nương vào đây
mà hiện, cho nên do Ngài Vô Tận Ý phát khởi.
Chỉ hỏi về ngài Quán Thế
Âm là muốn do cái tên mà nêu cái thực chất. Cho nên Đức Thế Tôn đáp vì sự thực
vậy.
2. Từ câu: “Phật cáo
Ngài Vô Tận Ý” đến câu: “Giai đắc giải thoát” (Phật bảo Ngài Vô Tận Ý … đều đặng
giải thoát).
Đoạn này nói về lý do vì
sao ngài Quán Thế Âm có tên như vậy.
Từ nơi âm thanh mà nói
quán. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Do ta không tự quán âm thanh người quán, nên mười
phương chúng sinh thọ khổ. Nếu quán âm thanh như vậy thì liền được giải thoát”.
Nên tên của ngài Quán thế Âm đi khắp mười phương. Do nhĩ căn như huyễn, huân tập
cái nghe và tu cái nghe mà đắc Kim Cang tam muội, nhờ sức quán chiếu mà đạt được
nhĩ căn viên thông. Nói không tự quán âm thanh để quán người quán, nghĩa là trở
lại nghe tự tính, không phải dựa vào trần cảnh mà khởi tri kiến, nên cái nghe
và bị nghe đều mất, tánh nghe viên thông. Vì từ âm thanh mà thể nhập nên có tên
là Quán Âm. Kinh lăng Nghiêm nói: “Do quán chiếu nhĩ căn mà có tên”.
Nay nói vô lượng khổ não
của chúng sinh, một lòng xưng danh hiệu Bồ tát, ngài quán âm thanh ấy mà được
giải thoát, đó là về phương diện cơ duyên mà có tên vậy. Vì Bồ tát cùng với lục
đạo chúng sinh chung một đường Bi tâm. Đây là quán tự tính viên thông nên cùng
với tất cả chúng sinh bình đẳng, đó là chúng sinh trong tâm của Bồ tát nên cái
khổ của chúng sinh tức là nỗi khổ của Bồ tát. Nếu âm thanh khổ của chúng sinh
được cảm nhận, thì Bồ tát quán tính tịch diệt của âm thanh, liền nhập vào pháp
tính, thần lực xuất sinh hộ trì, thì khổ của chúng sinh không biết khi nào
thoát được mà tự thoát ra được. Đây là tự tha cùng sáng cả hai năng lực Trí tuệ
và Từ bi.
Đoạn này nêu chung danh
để tỏ bày cái tác dụng, đoạn dưới giải thích chi tiết hơn.
3. Từ câu: “Nhược hữu
trì thị Quán Thế Âm” đến câu: “Danh Quán Thế Âm” (Nếu có người trì danh hiệu
Quán Thế Âm … tên là Quán Thế Âm).
Đoạn này trình bày riêng
về khả năng, tác dụng của ngài Quán Thế Âm, tức là mười trường hợp không sợ
hãi. Kinh Lăng Nghiêm nói rõ rằng: Tri kiến quay lại quán, sẽ làm cho chúng
sinh nếu như bị vào trong lửa dữ không bị cháy. Quán nghe quay lại bên trong
làm cho chúng sinh nếu bị lụt lội đẩy trôi thì không bị nhận chìm. Vì tri kiến
thuộc hoả, nghe thuộc thủy. Do Bồ tát Kiến văn đều dứt, căn trần đều tiêu nên
gia bị cho chúng sinh nước, lửa không hại được. Nhờ đoạn trừ vọng tưởng, tâm
không ác hại, khiến cho chúng sinh vào trong nước quỷ, do sức quán chiếu, gia hộ
cho người ấy, nên quỷ không thể hại được.
4. Từ câu: “Nhược phục hữu
nhân” đến câu: “Nhi đắc giải thoát” (Nếu lại có người …người ấy đặng giải
thoát).
Đoạn này nói do vì Bồ
tát không vướng vào hình ảnh âm thanh, không chấp thủ đối tượng, không sinh xúc
cảm nên dao gậy không hại được.
5. Từ câu: “Nhược Tam
thiên đại thiên” đến câu: “Huống phục gia hại” (Nếu quỷ dạ xoa … huống lại làm
hại đặng).
Đoạn này nói về thoát khỏi
nạn quỷ la sát.
La sát lấy u ám làm bản
tính, nhờ khả năng nghe tinh thuần sáng suốt nên trí tuệ phát sáng, thì các tướng
u ám không thể làm mờ tối được. Cho nên La sát không dám dùng mắt dữ mà nhìn.
6. Từ câu: “Thiết phục hữu
nhân nhược hữu tội” đến câu: “Tức đắc giải thoát” (Dầu lại có người có tội … liền
được thoát khỏi).
Đoạn này nói đặc tính âm
thanh tiêu trừ hết, quán trở lại cái nghe, tức bỏ được vướng mắc trần cảnh nên
có thể làm cho gông cùm đều đứt rã.
7. Từ câu: “Nhược tam
thiên đại thiên quốc độ mãn trung oán tặc” đến câu: “Nguy nguy như thị” (Nếu có
kẻ oán tặc … cao lớn như thế).
Đoạn này nói diệt tướng
âm thanh, tính nghe viên mãn nên lòng từ rộng khắp làm cho chúng sinh dứt được
oán tặc. Vì sự cướp giựt sinh ra từ sự đối địch. Nay âm thanh đã diệt, tánh
nghe viên mãn trần cảnh đốn không, không còn đối đãi. Do vậy giặc không cướp được.
Ở trên là nói về thoát nạn bên ngoài còn tiếp dưới đây là thoát nạn bên trong.
8. Từ câu: “Nhược hữu
chúng sinh đa ư dâm dục” đến câu: “Tiện đắc ly dục” (Nếu có chúng sinh nào nhiều
lòng dâm dục … liền đặng ly dục).
Đoạn này nói do tính
nghe không vướng đối tượng, sắc đẹp không làm hại được nên làm cho được ly dục.
Tham dục do duyên ái thủ, nay không vướng trần cảnh nên không nắm bắt, và do vậy
dục chống viễn ly.
9. Từ câu: “Nhược đa sân
nhuế” đến câu: “Tiện đắc ly dục” (Nếu người nhiều giận hờn … đặng lìa lòng giận).
Đoạn này nói do thuần
túy âm thanh mà không có đối tượng. Chủ thể và đối tượng viên dung, không trái
nghịch nhau, nên có thể ly sân.
10. Từ câu: “Nhược đa
ngu si” đến câu: “Tiện đắc ly si” (Nếu người nhiều ngu si … liền đặng lìa ngu
si).
Đoạn này nói do triệt
tiêu đối tượng nghe, xoay lại quán chiếu soi sáng vô ngại, nên trừ si tối. Do vậy
ngu si ám chướng được đoạn trừ. Đã chiếu sáng thì từ bỏ được ngu si.
11. Từ câu: “Vô Tận Ý” đến
câu: “Hữu như thị lực” (Vô Tận Ý … có sức thần như thế).
Đoạn này nói do hình
dung hòa nhập đời thường thờ phụng chư Phật đúng vai trò con của đấng Pháp
Vương, do vậy mà tăng thêm năng lực nên liền được sinh con trai. Vì con trai có
khả năng gánh vác công việc và lãnh thọ pháp môn của mười phương chư Phật. Có
được người con gái có đức tùy thuận nên liền sinh được con gái.
12. Từ câu: “Nhược hữu
chúng sinh cung kính” đến câu: “Bất khả cùng tận” (Nếu có chúng sinh cung kính
… không thể cùng tận).
Đoạn này nói về công đức
Vô úy thứ mười bốn.
Cõi Ta bà có sáu mươi
hai ức hằng hà sa Bồ tát dùng phương tiện độ sinh. Nếu trì một danh hiệu Quán
Thế Âm, thì sẽ cùng với sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ tát kia giống nhau. Do vì
ngài Quán Thế Âm chứng được bình đẳng pháp giới. Cho nên một danh hiệu đồng với
nhiều danh hiệu. Mười bốn loại vô úy này đều là sự thật, nếu dựa vào lý mà giải
thích thì không lột hết được năng lực cứu khổ của Bồ tát.
13. Từ câu: “Vô Tận Ý” đến
câu: “Phước đức chi lợi” (Vô Tận Ý … phước đức lợi ích như thế).
Đoạn này tổng kết thọ
trì được mười bốn công đức như thế.
14. Từ câu: “Ngài Vô Tận
Ý Bồ tát bạch Phật” đến câu: “Kỳ sự vân hà” (Ngài Vô Tận Ý Bồ tát bạch Phật …
việc đó như thế).
Đoạn này hỏi, để chuẩn bị
trình bày công đức ba mươi hai ứng thân.
Trong Kinh Lăng Nghiêm
nói: “ Do tôi cúng dường Quán Âm Như Lai, nhờ đức Như Lai ấy dạy cho tôi như
huyễn văn huân, văn tu Kim Cang tam muội, cùng với Phật Như Lai đồng một từ lực.
Nên khiến thân tôi thành tựu ba mươi hai tướng ứng thân vào các quốc độ”. Ban đầu
từ Phật thân đến cuối cùng là thân người và không phải người gồm ba mươi hai loại.
Đó là nói rõ “ Chủng loại câu sinh vô hành tác ý sinh thân” vậy.
15. Từ câu: “Phật cáo
Ngài Vô Tận Ý” đến câu: “Thanh văn thân nhi vị thuyết pháp” (Phật bảo Ngài Vô Tận
Ý … thân thanh văn mà vì đó nói pháp).
Đây là hiện thân tứ
thánh, ở đây không đề cập đến thân Bồ tát, vì đã hiện thân Bồ tát rồi.
16. Từ câu: “Ưng dĩ Phạm
Vương thân” đến câu: “Nhi vị thuyết pháp” (Người đáng dùng thân Phạm Vương … mà
vì đó nói pháp).
Đoạn này nói về sự hiện
thân sáu nẻo phàm phu.
Trước hết nêu thiên đạo
là chủ. Phạm thiên là thiên chủ cõi sơ thiền. Đế Thích là thiên chủ cõi trời
Đao lợi. Tự tại và Đại tự tại thiên ở trên đỉnh cõi trời dục giới. Thiên đại tướng
quân thống lĩnh quỷ thần. Tứ thiên Vương thống lĩnh thế giới. Tỳ Sa Môn thiên
vương chủ trì ở phương Bắc.
Phạm Vương và Đế Thích
thường theo chúng của Phật ngoài ra nêu tổng quát thống lĩnh các chư thiên
thôi.
17. Từ câu: “ Ưng dĩ tiểu
vương” đến câu: “Hiện Bà la môn thân nhi thị thuyết pháp” (Người đáng dùng thân
tiểu vương … hiện thân bà la môn mà vì đó nói pháp).
Đoạn này nói sự hiện
thân ở cõi người, từ vua quan cho đến thứ dân.
Phẩm Diệu Âm ở trước đề
cập đến Luân Vương. Nhưng Luân Vương có bốn thứ: kim, ngân, đồng, thiếc; đối tượng
thống lĩnh theo thứ lớp 4, 3, 2, 1, thiên hạ. Cõi họ thống lĩnh gọi là Túc tán
vương, nay nói Tiểu vương là Túc tán vương. Không nói luân vương vì nói lược,
hay nói chung. Còn Tiểu vương trị vì đất nước. Trưởng giả là suy tôn trong dòng
họ. Cư sĩ là người giữ danh tiết trong sạch. Tể quan cai trị ban ấp. Bà la môn
là hàng thuật sĩ, tướng số, tuân thủ một số nguyên tắc. Thật ra thì trăm công
việc bốn hạng dân đều ở trong đây, chỉ nêu đại khái.
18. Từ câu: “Ưng dĩ Tỳ
kheo” đến câu: “Ưu bà di thân nhi vị thuyết pháp” (Người đáng dùng thân Tỳ
kheo… thân ưu bà di mà vì đó nói pháp).
Đoạn này nói về sự hiện
thân của bốn chúng.
19. Từ câu: “Ưng dĩ Trưởng
giả” đến câu: “Đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp” (Người đáng dùng thân Tỳ kheo …
thân ưu bà di mà vì đó nói pháp).
Đoạn này nói về hiện
thân phụ nữ và đồng chơn, tức là phụ nữ của Trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la
môn.
20. Từ câu: “Ưng dĩ
thiên long” đến câu: “Chấp kim cang thần nhi vị thuyết pháp” (Người đáng dùng
thân trời rồng … chấp kim cang thần mà vì đó nói pháp).
Đoạn này nói về sự hiện
thân của Bát bộ. Chấp kim Cang thần là Thần cầm chày chấp kim cang để hộ pháp.
21. Từ câu: “Vô Tận Ý” đến
câu: “Thí vô úy giả” (Ngài Vô Tận Ý … là vị thí vô úy).
Đoạn này là kết của ba
mươi hai ứng thân, dạy nên cúng dường.
Trong lục thú chỉ nói ba
đường lành, không đề cập đến ba đường ác, vì cõi ác khổ không phải là nơi thuyết
pháp. Tuy nhiên không phải không cứu, như hiện thân Tiêu diện đại sĩ, đó cũng
là sự hiện thân, chỉ có điều không phân loại mà thôi.
22. Từ câu: “Vô Tận Ý” đến
câu: “Thử pháp thí trân bảo anh lạc” (Ngài Vô Tận Ý… trân bảo pháp thí này).
Đoạn này nói Ngài Vô Tận
Ý cúng dường.
Đây là biểu tượng của sự
nghe pháp được tăng tiến. Anh lạc là vật trang sức của Bồ tát. Cổ là chỗ đeo
chuỗi, nay cởi ra để cúng dường ngài Quán Thế Âm. Do vì nghe ngài tùy cơ cảm
chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, ngộ được diệu hạnh tùy duyên, xả ngay pháp ái
nhiễm. Cho nên cởi chuỗi anh lạc này cúng dường gọi là pháp thí.
23. Từ câu: “Thời Quán
Thế Âm” đến câu: “Nhất phần phụng Đa bảo tháp” (Khi ấy ngài Quán Thế Âm… một phần
dâng tháp của Phật Đa Bảo).
“Ngài Quán Thế Âm không
nhận” biểu thị cho trong pháp giới tính vốn không có thọ và xả. “Phật khuyên
nên nhận” biểu thị cho không xả một pháp nào. “Dâng lên hai Đức Thế Tôn”, tiêu
biểu cho sự hồi hướng ba chỗ (Chân như thật tế, Vô thượng Bồ đề, Pháp giới
chúng sinh).
24. Từ câu: “Ngài Vô Tận
Ý” đến câu: “Du ư ta bà thế giới” (Ngài Vô Tận Ý… dạo đi cõi Ta bà).
Đoạn này đúc kết lại ý hỏi
và đáp.
25. Từ câu: “Nhĩ thời
Ngài Vô Tận Ý” đến câu: “Danh vi Quán Thế Âm” (Lúc đó Ngài Vô Tận Ý … tên là
Quán Thế Âm).
Đoạn này Ngài Vô Tận Ý lặp
lại bằng kệ câu hỏi trước.
26. Từ câu: “Cụ túc diệu
tướng tôn” đến câu: “Năng diệt chư hữu khổ” (Đấng đầy đủ tướng tốt … hay diệt
khổ các cõi).
Đoạn này Đức Thế Tôn nói
lại tổng quát công đức của ngài Quán Thế Âm để trả lời. Do có thệ nguyện sâu cứu
khổ chúng sinh, vì diệt khổ mà có tên. Các cõi tức là hai mươi lăm cõi.
27. Từ câu: “Giả sử hưng
hại ý” đến câu: “Ba lãng bất năng một” (Giả sử sinh lòng hại … sóng mòi chẳng
chìm đặng).
Từ đây trở xuống là nói
riêng cứu các nạn khổ là năng lực mười bốn loại vô úy. Chỉ nêu các nạn tai nên
văn cú không theo thứ tự. Tám câu này đầu tiên là nạn tam tai.
28. Từ câu: “Hoặc tại Tu
di phong” đến câu: “bất năng tổn nhất mao” (Hoặc ở chót Tu di … chẳng tổn đến mảy
lông).
Đoạn này nêu tai nạn
nguy hiểm
29. Từ câu: “Hoặc trị
oán tặc nhiễu” đến câu: “Hàm tức khởi từ tâm” (Hoặc gặp oán tặc vây … đều liền
sinh lòng lành).
Đoạn này tụng lại nạn
oán tặc.
30. Từ câu: “Hoặc tao
vương nạn khổ” đến câu: “Đao tầm đoạn đoạn hại” (hoặc bị khổ nạn vua … dao liền
gãy từng đoạn).
Đoạn này tụng nói nạn tử
tội.
31. Từ câu: “Hoặc tù cấm
già tỏa” đến câu: “Thích nhiên đắc giải thoát” (Hoặc tù cấm xiềng xích … tháo
rã đặng giải thoát).
Đoạn tụng này nói về nạn
tù đày trói buộc.
32. Từ câu: “Chú trớ chư
độc dược” đến câu: “Hoàn trước ư bổn nhân” (Nguyền rủa các thuốc độc … trở lại
nơi bổn nhân).
Đoạn này nói nạn trù yếm
và thuốc độc.
33. Từ câu: “Hoặc ngộ ác
La sát” đến câu: “Thời tất bất cảm hại” (Hoặc gặp La sát dữ … liền đều không ám
hại).
Đoạn này nói về nạn quỷ
La sát.
34. Từ câu: “Nhược ác
thú vi nhiễu” đến câu: “Tầm thinh tự hồi khứ” (Hoặc thú dữ vây quanh … theo tiếng
tự bỏ đi).
Đoạn này tụng nạn trùng
độc làm hại.
35. Từ câu: “Vân lôi cổ
xiết diện” đến câu: “ Ứng thời đắc tiêu tán” (Mây sấm nổ sét đánh … liền đặng
tiêu tan cả).
Đoạn này nói về nạn tai
biến. Từ đây trở lên đều là cứu nạn bên ngoài. Đoạn dưới là cứu nạn bên trong.
36. Từ câu: “Chúng sinh
bị khổ ách” đến câu: “Năng cứu thế gian khổ” (Chúng sinh bị khổ ách … hay cứu
khổ thế gian).
Đoạn này nói chung dâm,
nộ, si, đều là phần nghiệp khổ bên trong của chúng sinh.
37. Từ câu: “Cụ túc thần
thông lực” đến câu: “Dỉ tiệm tất linh diệt” (Đầy đủ sức thần thông … lần đều
khiến dứt hết).
Đoạn này nói chung sự hiện
thân thuyết pháp. Trong văn xuôi không nói ác đạo, phần trùng tụng này có nói.
38. Từ câu: “Chơn quán
thanh tịnh quán” Đến câu: “Thường nguyện thường chiêm ngưỡng” (Chân quán thanh
tịnh quán … thường nguyện thường chiêm ngưỡng).
Đoạn này đúc kết trình
bày trí quán. Trình bày sự quán chiếu của Bồ tát có năm thứ: Một là Chân quán,
là quán chúng sinh vốn là nhất chân pháp giới, rõ ràng không có hai tướng, gọi
là chân quán. Hai là tâm tính của chúng sinh xưa nay vốn thanh tịnh không có ô
nhiễm, gọi là Thanh tịnh quán. Ba là dùng đại trí tuệ chiếu phá tối tăm, gọi là
Trí tuệ quán. Bốn là không khổ nào không cứu nên gọi là Bi quán. Năm là không
có niềm vui nào không cho nên gọi là Từ quán. Bồ tát dùng năm quán này mà quán
chiếu chúng sinh thường xuyên, nên tùy cơ cảm mà ứng hiện. Do vậy chúng sinh
thường mong chiêm bái và ngưỡng vọng.
39. Từ câu: “Vô cấu
thanh tịnh quang” đến câu: “Phổ minh chiếu thế gian” (Sáng thanh tịnh không dơ
… khắp soi sáng thế gian).
Đoạn này nói về tác dụng
của trí quán.
Vô cấu thanh tịnh quang
là nói về ba đức của pháp thân: Vô cấu là giải thoát đức, Thanh tịnh là pháp
thân đức, Quang minh là bát nhã đức. Đây là ba đức mà Bồ tát đã chứng đắc, tác
dụng của những đức này chiếu khắp thế gian. Đức ấy như mặt trời trí tuệ có thể
phá mọi u tối và tam tai. Do mê mờ về chân tính nên các pháp biến động, nay ba
đức viên mãn nên hàng phục được tam tai tránh được các nạn. Trí quán này thường
chiếu khắp thế gian, vậy nên biết rằng Bồ tát chưa từng có một niệm xa rời
chúng sinh.
40. Từ câu: “Bi thể giới
lôi chấn” đến câu: “Diệt trừ phiền não diệm” (Lòng bi răn như sấm … diệt trừ lửa
phiền não).
Đoạn kệ tụng này nói về ứng
cơ thuyết pháp.
Đã chứng pháp thân, đủ cả
ba đức. Nhưng pháp thân tịch diệt mà có thể ứng hiện thuyết pháp độ sinh là nhờ
sức mạnh của từ bi vô duyên. Tuy nhiên pháp thân không thể tính nên lấy từ bi
làm thể tính. “Giới” là giáo giới của pháp thân xuất phát. Cho nên sắp thuyết
pháp, trước dùng sấm sét để kích động tâm cơ chúng sinh, rồi dùng tâm từ mà
hưng khởi mây pháp rộng lớn, sau cùng mới tưới mát nước pháp cam lồ, do vậy mà
diệt trừ phiền não của chúng sinh. Vậy nên trong kinh nói: “Đối tượng của Bồ đề
là nỗi khổ của chúng sinh. Nếu không có từ bi thì Phật không ra đời, cũng không
có pháp mà nói.
41. Từ câu: “Tránh tụng
kinh quan xứ” đến câu: “Chúng oán tất thối tán” (Cải kiện qua chỗ quan …. Cừu
oán đều lui tan).
Đoạn tụng này nói do diệt
trừ phiền não, nên có thể làm tan đi oán hận thù hằn. Nhờ sức quán chiếu mà có.
42. Từ câu: “Diệu Âm
Quán Thế Âm” đến câu: “Niệm niệm vật sinh nghi” (Diệu Âm Quán Thế Âm … niệm niệm
chớ sinh nghi).
Đoạn tụng này dựa vào đức
mà lập danh, khuyến khích trì tụng được lợi ích.
Vô tâm thuyết pháp nên gọi
là Diệu Âm, không suy nghĩ mà biết nên gọi là Quán Âm. Do thanh tịnh không dính
mắc nên gọi là Phạm Âm. Cứu ứng kịp thời gọi là Hải triều Âm.Tất cả đều không
phải là Âm thanh của thế gian. Cho nên thường nghĩ nhớ, tin chắc đừng nghi vậy.
43. Từ câu: “Quán Thế Âm
tịnh thánh” đến câu: “Thị cố ưng đảnh lễ” (Quan Âm bậc tịnh thánh … cho nên phải
đảnh lễ).
Đoạn này tán thán công đức,
khuyên nên quy y để nói lên sự lợi ích. Do đã chứng pháp thân nên gọi là tịnh
thánh. Giúp cho mọi chúng sinh nên cùng ở trong khổ não sinh tử mà làm chỗ
nương tựa. Có đủ mọi công đức nên đủ mười bốn pháp vô úy. Do dùng mắt từ bi
nhìn chúng sinh, mà ba mươi hai ứng thân có đủ để làm nơi hội tụ phước đức cho
chúng sinh vô lượng như biển. Nên đáng đảnh lễ.
44. Từ câu: “Nhĩ thời
Trì Địa Bồ tát” đến câu: “Công đức bất thiểu” (Bấy giờ ngài trì Địa Bồ tát …
công đức người đó chẳng ít).
Đoạn này đúc kết lại tán
thán công đức nghe phẩm này.
Do ngài Trì Địa đúc kết
công đức, vì ngài Quán Âm chứng được pháp thân, tận cùng của Nhất chân địa.
Ngài có thể sử dụng tâm lượng rộng lớn để tự nhiên tiếp cận chúng sinh mà phát
xuất các công đức. Do vậy lấy ngài Trì Địa để đúc kết và tán thán.
Quán Thế Âm dùng diệu dụng
vô tác ứng hiện nơi chúng sinh gọi là “Nghiệp tự tại”, không chỗ nào mà không ứng
hiện nên gọi “Phổ môn thị hiện” không chỗ nào mà không cứu, nên gọi là “Thần
thông lực”. Ngài Quán Âm đã chứng bậc Diệu giác, tuy ở nơi quả vị mà ngài không
bỏ hạnh nguyện của mình. Ngài đã thành Phật mà thị hiện thân khắp pháp giới nên
gọi là “Phổ môn”. Như phẩm Diệu Âm ở trước là thuộc công hạnh của bậc Đẳng giác
trở về trước, nên còn nhờ sức tam muội, do vậy còn có tướng qua lại (vãng lai).
Ý Phật thuyết ba phẩm này là ở nơi công hạnh nhập Phật tri kiến, tất nhiên phải
phá trừ hai sự chấp trước, làm sạch đi hai chướng ngại, đạt được ranh giới của
chân như. Hiện diện dụng đại thần thông mà nhập địa vị Diệu giác, nhân quả nhất
như, mới là cứu cánh. Cho nên tôi (tác giả) căn cứ vào kinh Lăng Già để giải
thích ba loại ý sinh thân để thấy rõ thứ tự chứng nhập. Kinh này không nói đến
địa vị thứ tự, nên đặc biệt đặt kinh này vào vai trò trình bày thật hạnh.
Phật chuẩn bị dạy cho
các hàng Bồ tát mới được thọ ký làm thực nghiệm nhập Phật tri kiến cho vị lai.
Ý sâu xa muốn nói rằng Như Lai thuyết pháp, không thể dùng kiến thức nông cạn
mà xem thường được!
45. Từ câu: “Phật thuyết
thị Phổ môn phẩm” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề tâm” (Lúc Phật nói phẩm Phổ môn
này … vô thượng chánh đẳng chánh giác).
Đây là đoạn kết, nói về
thành tựu công hạnh Phật quả Bồ đề gọi là Vô đẳng đẳng, nghĩa là không có vật
gì bằng mà bằng tất cả. Do Quán Âm chứng đắc như vậy (Quả vị Bồ đề) nên người
nghe đều phát tâm Bồ đề để thành tựu diệu hạnh.
Phẩm Đà La Ni Thứ Hai
Mươi Sáu
Đại ý phẩm này là do phẩm
trước Diệu hạnh đã viên mãn, đương nhiên sẽ đắc kết quả mầu nhiệm. Nếu người
căn cơ bậc thượng đẳng thì một khi đã vượt lên là đi thẳng vào, hàng căn cơ bậc
trung thấp tạng thức sâu dày, trải qua nhiều kiếp tập khí dư thừa tiềm phục
trong đó, tuy có công đức tu tập chỉ quán, nhưng trí có chỗ vướng, thần có chỗ
chưa tới. Nếu không nhờ sức gia trì thì không dễ đoạn trừ tập khí, cho nên đến
đây nói thêm ba phẩm để trình bày hình tượng ba loại gia trì. Đó là đại ý của
phẩm này.
Ba loại gia trì là: Thần
lực, Pháp lực, và Hiện thân đối mặt nói pháp. Kinh Lăng Già chỉ nói hai, ở đây
thêm pháp lực. Phẩm này thuộc thần lực gia trì. Thần chú là tâm ấn bí mật của
chư Phật, như lá bùa riêng của nhà vua. Đại tướng cầm nó thì phá được những vật
cứng nhọn, không có địch quân nào không khắc phục được. Tạng thức là hang ổ của
sinh tử, rất là thâm u. Cho nên gọi là Tạng. Kinh Pháp Hoa thâm sâu kiên cố, xa
thẩm không người nào đến được.
Tập khí tiềm phục trong
tạng thức, năng lực chỉ quán không đến được nên phải nhờ sức tâm ấn bí mật của
Như Lai để công phá nó. Kinh Lăng Nghiêm nói: “ Nếu người tu hành tập khí chưa
trừ, thì nên nhất tâm tụng thần chú của ta” là ý như ở đây vậy. Kinh Lăng Già
nói: “ Nếu không dùng thần chú để kiến lập thì dễ đọa vào tà kiến vọng tưởng
ngoại đạo và các ước vọng của thanh văn và chúng ma” Cho nên từ thất địa trở về
trước không có gia trì thì đọa vào ngoại đạo. Đệ bát địa không có gia trì thì
đoạ vào nhị thừa. Đệ cửu địa cho đến đẳng giác không có gia trì thì không thể
nhập Diệu giác. Vì thất địa trở về trước tạng thức chưa bị phá, Đẳng giác về
trước Dị thục thức chưa hết, nên phải có gia trì. Tuy nhiên ba loại ý sinh thân
chiêm nghiệm những người đã đến, còn ba loại gia trì để cảnh giác những người
chưa đến. Đức Như Lai nói pháp nghĩa chung thông thường như vậy, đừng cho rằng
ý sinh thân mới có gia trì, không nên lấy cái có trước sau mà xem.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Dược
Vương” đến câu: “Tức thuyết chú viết” (Lúc bấy giờ ngài Dược Vương … liền nói
chú rằng).
Đoạn này nói về phước của
sự trì kinh.
Sắp sửa nói đến sự lợi
ích lớn của nhập Phật tri kiến. Nhân do ngài Dược Vương phát khởi, lấy ngài Dược
Vương làm biểu tượng của Chỉ và Quán, hơn nữa lấy sự khổ hạnh trì kinh làm đầu,
là sự giác ngộ ban đầu của nhập Phật tri kiến. Nên ở đây mới thỉnh hỏi để chỉ
bày cho Bồ tát mới được thọ ký. Đầu tiên dùng chỉ quán để điều tâm, sau cùng
dùng mật chú để tiêu trừ tập khí. Do Phật dạy tu hành có hai công hạnh: Hiển và
Mật. Vậy chỉ quán là hạnh Hiển, thần chú là hạnh Mật. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu
người tu hành tập khí chư trừ, nên phải nhất tâm tụng thần chú của ta” Vì vậy
người tu sắp lên địa vị giác ngộ, lúc ấy mà bị ma phá hoại là do tập khí tạo
nên như thế. Vào đời mạt pháp người trì kinh phải có thần chú gia trì mới bảo đảm
không bị hại. Kinh Lăng Già nói: Địa thứ bảy trở về trước không có gia trì thì
đọa vào ước vọng của ma, nghĩa là đây vậy.
Phẩm này được coi là phẩm
Thần lực gia trì mà trước tiên hỏi về phước đức của sự trì kinh là nói trước hết
về lợi ích trì kinh. Phật pháp phần nhiều nói về lợi tha, về đối tượng chúng
sinh, ở đây nói về phước đức, chuyên nói về tự lợi cho mình. Do kinh này chứa
nhiều lợi ích lớn, nếu phước không dày không thể gánh vác nổi. Như người nghe
kinh Bát nhã, không phải ở nơi một Đức Phật mà đã ở nơi hai, ba, bốn, năm Đức
Phật vun trồng thiện căn. Có nghĩa là không có phước thì không mang được tuệ.
Nói “Đọc tụng” là nói sự
thông minh lanh lợi. Do nhập Phật tri kiến nên gọi là “Đúng như lời mà tu
hành”. Vì trì kinh là phước của huệ lớn, nếu không nhờ thần lực không thể bảo
toàn nên cần phải có gia trì. Ở trước, khi so sánh công đức chỉ nói về thất bảo.
Nay căn cứ vào công đức cúng dường Phật, nói phước tức là tuệ vậy. Cho nên Phật
dạy: “Đúng như lời tu hành thời công đức rất nhiều”.
2. Từ câu: “An nhỉ, mạn
nhỉ” đến câu: “Ama nhã na đa dạ” (An nhỉ … na đa dạ).
Đây là thần chú bí mật,
là tâm ấn của chư Phật, từ trước đến nay không dịch ra. Vấn đề dịch thuật từ Phạn
qua Hán, có năm điều không dịch: Một là bí mật nên không dịch; tức là Thần chú.
Hai là chứa nhiều nghĩa nên không dịch như từ Bà già bà. Ba là ở nước này không
có nên không dịch, như Cây Diêm phù. Bốn là thuận theo xưa nên không dịch như từ
A nậu Bồ đề. Năm là tôn trọng nên không dịch như từ Bát nhã.Thần chú này thuộc
về một trong năm điều không dịch, như mật hiệu trong quân đội, chỉ làm cho xong
công việc, không cần cho biết nghĩa.
3. Từ câu: “Thế Tôn thị
Đà la ni” đến câu: “Thị chư Phật dĩ” (Thế Tôn! Thần chú Đà la ni này … các Đức
Phật rồi).
Thần chú được gọi là Đà
la ni, dịch là Tổng trì, nghĩa là bao gồm tất cả các pháp, giữ gìn vô lượng
nghĩa, đó là ý nghĩa tương đương với Tâm Ấn. Thần chú này được thuyết bởi sáu
mươi hai ức Phật, tức là tâm ấn của chư Phật, liên hệ đối với pháp sư trì kinh,
nên cần có chú này hộ trì. Trước ngài Dược Vương đã nói là khởi đầu việc thuyết
rõ hai công hạnh Hiển và mật.
4. Từ câu: “Thời Đức
Thích Ca Mâu Ni” đến câu: “Đa sở nhiêu ích” (Lúc đó Đức Thích Ca … được nhiều lợi
ích ở nơi các chúng sinh).
Đoạn này Đức Thế Tôn chấp
nhận và khen ngợi ngài Dược Vương.
5. Từ câu: “Nhĩ thời
Dõng Thí Bồ tát” đến câu: “Thị chư Phật dĩ” (Lúc bấy giờ ngài Dõng thí … Các Đức
Phật đó rồi).
Đoạn này ngài Dõng Thí Bồ
tát thuyết thần chú để hộ trì.
Muốn nhanh chóng đoạn trừ
tập khí nếu không dõng mãnh thì không thể được, nhờ sự trợ lực này mà thành tựu
diệu hạnh, nên thuyết chú này sau ngài Dược Vương. “ Dạ xoa”.v.v.. đều là các
loài quỷ não hại. Vị pháp sự trì kinh thời mạt pháp gặp nhiều sự hảm hại, nếu
không nhờ sức thần chú, không thể tránh khỏi sự phá hoại thành quả của mình.
Cho nên cần phải gia trì.
6. Từ câu: “Nhĩ thời Tỳ
sa môn” đến câu: “Vô chư suy hoạn” (Bấy giờ Tỳ sa môn … không có các điều tai
hoạn).
Tỳ sa môn là Thiên Vương
ở phương Bắc, một trong bốn vị thiên vương hộ trì thế gian, thống lĩnh quỷ thần
làm chủ cõi sinh tử. Phương Bắc nói thần chú trước, phương Bắc trong bát quái
là cung khảm; khảm là hảm. Do vì một dương bị hảm trong hai âm, là biểu tượng cho
đường sinh tử hiểm nạn. Người tu hành ở trong sinh tử hiểm nạn, muốn mau chứng
Bồ đề nếu không có thần lực gia trì thì làm sao ra khỏi sinh tử hiểm nạn được!
Tỳ sa môn là chủ nhân của hiểm họa nên nói thần chú trước.
7. Từ câu: “Nhĩ thời Trì
quốc Thiên Vương” đến câu: “Thị chư Phật dĩ” (Bấy giờ Trì Quốc Thiên Vương …
Các Đức Phật đó rồi).
Trì Quốc Thiên Vương ở
phương Đông. Phương Đông ở trong bát quái là quẻ Chấn, Chấn là động. Phương
Đông là nguồn của biến động; Kinh dịch nói: Sự kiết hay hung sinh từ nơi động.
Luận Khởi tín nói: “ Động tức khổ”. Vậy nên người tu hành ở trong cái loạn động
của sinh tử mà tu hành đạt được thanh tịnh. Nếu không có thần lực gia trì làm
sao đạt đến cảnh tịch diệt được! Đến như quẻ phương Nam là quẻ Ly, Ly là đẹp,
là biểu tượng rỗng rang đẹp đẽ. Quẻ phương Tây là quẻ Đoài, Đoài là vui vẻ, ở cảnh
rỗng rang vui vẻ thì không cần sự gia trì. Nên hai vị thiên vương không cần nói
thêm.
8. Từ câu: “Nhĩ thời hữu
La sát” đến câu: “Như thị pháp sư” (Bấy giờ có La sát … pháp sư như thế).
Nữ la sát này thuộc sự
cai quản của Tỳ sa môn, nên cũng nói thần chú cũng hộ trì vị pháp sư trì kinh.
La sát nữ là quỷ tối tăm, cùng quỷ tử mẫu cùng bay đi ăn thịt người. Người nữ
là tính âm tà, biểu thị cho vô minh tập khí sát nghiệp tàn hại pháp thân. Dùng
chỉ quán để thấu suốt, chuyển hóa vô minh thành ánh sáng tuệ tâm. Nên nữ La sát
đem thân mình ủng hộ người thọ trì, đọc tụng và thực hành kinh này. Nhanh chóng
làm cho vô minh và tam độc không còn tồn tại, đó gọi là “ Lìa các khổ hoạn,
tiêu các thuốc độc”.
“ Hoặc dạ xoa hoặc la
sát”.v.v.. đều là ác quỷ của các bộ chúng. Tất cả đều không gây rối loạn và
không thể gây rối loạn. Đức Phật chấp nhận và ca ngợi rằng chỉ hộ trì người trì
tên kinh, phước đã không thể đo lường rồi, huống gì cúng dường người thọ trì
kinh một cách đầu đủ. Phước đức ấy bất khả tư nghì.
Cúng dường Phật thì dùng
hương đèn, đó là biểu tượng cho khế hợp pháp thân, ngầm thông với pháp giới.
Cho nên cúng dường là cao nhất. Tất cả phiền não từ nơi niệm khởi, hóa thành
tri giác vô lượng. Nên gọi là các thứ đèn cúng dường là thứ nhất vậy.
9. Từ câu: “Thuyết thị
Đà la ni phẩm thời” đến câu: “Vô sinh pháp nhẫn” (Lúc nói phẩm Đà la ni … vô
sinh pháp nhãn).
Đoạn này nói, nghe phẩm
này mà thành tựu công hạnh, vì hiển mật song tu, tức được sáu căn thanh tịnh,
tám thức tròn sáng. Cho nên sáu vạn tám ngàn người đều được vô sinh pháp nhẫn.
Đây là lợi ích của thần lực gia trì vậy.
Phẩm Diệu Trang Nghiêm
Vương Bổn Sự Thứ Hai Mươi Bảy
Đại ý phẩm này là thuyết
minh hiện tượng chuyển thức thành trí để nói lên “Pháp lực gia trì”.
Diệu Trang Nghiêm Vương
là Như Lai tạng ở trong sự trói buộc sinh tử mà thành tám thức tâm vương. Nay
phát hiện nguồn chơn nên gọi là “Bản sự”. Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn
là thức thứ bảy và sáu, chuyển ô nhiễm thành thanh tịnh. Vị phu nhân nhu thuận
hỗ trợ bên trong là biểu tượng cho khả năng chỉ quán huân tập bên trong. Trừ hết
vô minh nên gọi là Tịnh Đức. Do hai thức thứ sáu và bảy được chuyển hóa các
nhân tố, nên hai vị vương tử xin xuất gia trước. Hai người con chuyển được tà
tâm của cha đồng loạt xuất gia là biểu tượng cho Trí bản giác, ra khỏi sự trói
buộc. Đây là sức mạnh của chỉ quán, là pháp thân Bồ tát được tâm vô phân biệt
và trí dụng của chư Phật tương ứng. Nhờ pháp lực tự nhiên tu hành huân tập chân
như, diệt hết vô minh. Đó gọi là “Pháp lực gia trì” chính là ý phẩm này. Ý
nghĩa là do thần lực gia trì, ngoại ma đã diệt, pháp lực được tăng trưởng bên
trong, diệt trừ hai chướng, chứng hai pháp chuyển y nên gọi là Diệu Trang
Nghiêm Vương Bổn Sự.
Trước nói thần lực gia
trì là biểu tượng cho địa thứ bảy trở về trước. Pháp lực gia trì là biểu tượng
cho ra khỏi bát địa chân như tam muội, tiến lên cửu địa cho đến bậc đẳng giác.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Kiếp danh hỷ kiến” (Lúc bấy giờ Phật bảo … kiếp tên là Hỷ kiến).
Đoạn này sắp sửa trình
bày việc xưa của Diệu Trang Nghiêm, trước trình bày thầy của Phật xưa tên là
Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa. Mây dày sắp mưa, sấm nổi lên trước nên gọi là Vân Lôi
Âm. Tú là quả giác ngộ, Hoa là nhân hạnh, là lấy quả giác ngộ làm nhân tố của
các địa vị tâm thức, tiến lên cửu địa, mây pháp, mưa pháp của chư Phật đều có
thể lãnh thọ. Cho nên thầy của Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí. Quốc độ
thường tịch quang lấy ánh sáng làm trang nghiêm nên gọi là Quang Minh Trang
Nghiêm. Tịnh độ là nơi quy tụ của các bậc thánh nên gọi là Hỷ Kiến. Đây là nêu
lên Phật thuở xưa vậy.
2. Từ câu: “Bỉ Phật pháp
trung” đến câu: “Nhất danh Tịnh Tạng nhị danh Tịnh Nhãn” (Trong pháp hội của Phật
… một tên Tịnh Tạng hai tên là Tịnh Nhãn).
Vua tên là Diệu Trang
Nghiêm, nghĩa là Như Lai tạng nguyên là Diệu nghiêm quả thể, vì mê mà thành A lại
da thức, gọi là tám thức tâm vương. Do vậy mà có chuyển thức thứ sáu và thứ bảy,
tạo ra các loại nghiệp, thọ nhận vô số khổ đau. Nếu chuyển hóa thức thứ bảy
thành Bình đẳng tánh trí, thì có thể tiếp nhận tạng thức vô nhiễm ô nên gọi là
Tịnh Tạng, nếu chuyển thức thứ sáu thành Diệu quang sát trí, thì phân biệt kiến
diệt trừ, kiến phần cũng mất liền được pháp nhãn thanh tịnh, gọi là Tịnh Nhãn.
Đây là biểu tượng của sự chuyển hóa từ ô nhiễm thành thanh tịnh.
3. Từ câu: “Thị nhị tử”
đến câu: “Minh liễu thông đạt” (Hai người con đó… rành rẽ suốt thấu).
Đoạn này nói về hai người
con có đại thần lực.
Do hiển lộ hai loại trí
tuệ nên có tác dụng rộng lớn. Những công hạnh của Bồ tát như: Sáu pháp ba la mật,
Từ bi hỷ xả, Tứ vô lượng tâm, cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đều nhờ sức tác
dụng của hai loại trí tuệ. Cho nên nói là “ Tất cả đều rành rẽ suốt thấu” Ba
mươi bảy phẩm gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực,
Thất giác chi, Bát chánh đạo. Những công hạnh thành Phật thì không nêu ra đây.
Công hạnh Bồ tát lấy Tứ vô lượng tâm làm nền tảng, sáu pháp ba la mật làm tác dụng,
ba mươi bảy phẩm trợ đạo làm hỗ trợ, đều là công hạnh tu tập chuyển thức thứ
sáu thứ bảy thành Trí tuệ.
4. Từ câu: “Hựu đắc Bồ
tát tịnh tam muội” đến câu: “Diệc tất thông đạt” (Lại được các môn tam muội của
Bồ tát … cũng đều thấu suốt).
Đoạn này nói về tam muội
của hai người con. Dùng hai trí quán chiếu, mỗi niệm tưởng đều thanh tịnh trừ sạch
vô minh nên gọi là Tịnh tam muội. Mặt trời là tượng trưng cho Căn bản trí, tinh
tú là biểu tượng cho quán sát vi tế, nên gọi là Nhật tinh tú tam muội. Chiếu
sáng ba thể gọi là Tịnh quang tam muội. Rõ thấu căn trần gọi là Tịnh sắc tam muội.
Mỗi niệm đều trang nghiêm pháp thân nên gọi là Trường trang nghiêm tam muội. Có
khả năng phá các phiền não, ma chướng nên gọi là Đại oai đức tịnh tạng tam muội.
Đó đều là biểu tượng sức chỉ quán của hai trí.
5. Từ câu: “Nhĩ thời bỉ
Phật” đến câu: “vãng chí Phật sở” (Lúc đó Đức Phật kia … qua đến chỗ Phật).
Đoạn này trình bày nhân
duyên hai người con giáo hóa người cha.
Không phải nhất thừa diệu
pháp, tri kiến Phật địa thì không thể chuyển hóa được các nghiệp thức kia. Cho
nên nói là “Muốn dẫn dắt Diệu trang Nghiêm Vương mà nói Kinh Pháp Hoa”, nếu
không phải là sức mạnh tác dụng của trí chỉ quán để chuyến hóa hai thức, thì
không thể khai mở tri kiến Phật. Nên hai người con thưa với mẹ, xin mẹ đến gặp
Phật nghe kinh. Công hạnh của chỉ quán là chuyển hóa tà pháp, nên khiến qua gọi
phụ vương cùng đi. Hai thức vốn là Phật trí diệu minh, nay là tác dụng của thức
nên nói là “ Sinh vào nhà tà kiến”. Nhờ chỉ quán mạnh làm chuyển biến vô minh mới
được từ nhiễm thành thanh tịnh, nên mẹ bảo hai con hiện thần thông, vua cha nếu
thấy tâm sẽ thanh tịnh.
6. Từ câu: “Ư thị nhị tử”
đến câu: “Tâm tịnh tín giải” (Lúc ấy hai người con … lòng thanh tịnh tin hiểu).
Đoạn này hai người con
thị hiện thần thông biến hóa để khuyến khích vua cha phát tâm. Nghĩa là dùng
trí tuệ thanh tịnh vô tác của tự tâm mà bay lên hư không. Đất, nước, gió, lửa đều
là biểu hiện của tám thức, nhưng lại chấp cho đó là cái ta và cái của ta. Nay mọi
thứ đều biến hóa một cách vô ngại, nhờ diệt trừ tâm lý chấp thủ. Điều đó làm
cho vua cha thấy được diệu dụng của tâm mà sinh lòng tin hiểu.
7. Từ câu: “Thời phụ kiến
tử thần lực” đến câu: “Khả cọng câu vãng” (Bấy giờ cha thấy con có sức thần …
cùng nhau đồng đi).
Đoạn này vua cha thấy được
thần lực phát tâm đại hoan hỷ muốn gặp được Phật. Ý nghĩa là tàng thức nhận được
tác dụng trí tuệ của thức thứ sáu và bảy liền có sự chuyển hóa. Do vậy mà hỏi
thầy các con là ai, muốn cùng đi gặp
8. Từ câu: “Ư thị nhị tử”
đến câu: “Phật nan trị cố” (Khi đó hai người con … vì Phật khó gặp)
Hai người con thấy vua
cha có lòng tin đến thưa với mẹ xin được xuất gia.
Do thức thứ sáu và thứ bảy
trong nhân tố đã chuyển hóa nên trước tiên xin xuất gia. Tuy nhiên nếu không nhờ
sức chỉ quán huân tập bên trong thì không thể chứng được trí tuệ của Phật, cho
nên mẹ cho hai con xuất gia để nói lên sự khó gặp được Phật. Ý muốn tâm phải
tin hiểu sâu sắc mới có thể nhập Phật tri kiến.
9. Từ câu: “Ư thị nhị tử”
đến câu: “Chư Phật nan trị thời diệc nan ngộ” (Bấy giờ hai người con … thời kỳ
gặp Phật cũng khó có)
Đoạn này hai người con mời
cha mẹ cùng đến gặp Phật.Ý muốn nói ban đầu do chỉ quán huân tập mà chuyển hóa,
tâm và cảnh là một, có thể nhập Phật tri kiến. Nên nguyện cùng đến gặp Phật.
Nói là Phật rất khó gặp, đó là muốn nói muốn biết ý nghĩa của Phật tính phải
quán thời tiết nhân duyên.
10. Từ câu: “Bỉ thời Diệu
Trang Nghiêm vương hậu cung” đến câu: “Vương đại hoan duyệt” (Lúc đó nơi hậu
cung của vua Diệu Trang Nghiêm … vua rất vui đẹp).
Đoạn này trình bày mọi
người trong cung đều có cơ duyên để giáo hóa.Ý muốn nói trong tạng thức dung chứa
những chủng tử tập khí phiền não, nhờ năng lực chỉ quán huân tập mà chuyển biến,
đều trở thành thanh tịnh. Cho nên vua và hậu cung gồm 84000 quyến thuộc đều có
thể thọ trì Pháp Hoa Kinh Tuy nhiên, Như Lai tạng không ra khỏi khổ thú sinh tử,
là vì thức thứ sáu tạo nghiệp lực lôi kéo và trói buộc. Nay thức thứ bảy không
còn chấp ngã thì thức thứ sáu phải chuyển biến và nhân tố sinh tử của thức thứ
tám chấm dứt, trở về bản thể thanh tịnh liền nhập Tri kiến Phật. Do đó Bồ tát Tịnh
Nhãn đắc “ Pháp Hoa Tam Muội” Bồ tát Tịnh Tạng thông đạt được “ Ly chư ác thú
tam muội”. Do thỉ giác có công nên bổn giác mới hiện. Do vậy nhà vua với phu
nhân đạt được “ Chư Phật tập tam muội” có thể biết được tạng bí mật của chư Phật.
Khi cả hai thức thứ sáu
và bảy đã chuyển thì ngũ thức và bát thức một lúc cùng chuyển, đưa đến bốn đại,
căn và trần, tất cả phiền não, không gì không chuyển. Cho nên vua và quần thần
84. người cùng lúc đều đến chỗ Phật ở. Đến đây thì tất cả các pháp không gì là
không Phật pháp. Cho nên Đức Phật vì nhà vua mà nói pháp, hiển thị giáo pháp lợi
ích và hoan hỷ.
11. Từ câu: “Nhĩ thời Diệu
Trang Nghiêm vương” đến câu: “Vi diệu chi pháp” (Bấy giờ vua Diệu Trang Nghiêm
… vi diệu thứ nhất).
Đoạn này nói về sự lợi
ích của vua Diệu Trang Nghiêm cúng Phật.
Do chuyển hóa ô nhiễm
thành thanh tịnh cởi bỏ mọi triền phược, nên mở chuỗi trân châu anh lạc để rải
lên cúng Phật. Vì khế hợp với pháp thân và diệu đức của Niết bàn là Thường, lạc,
ngã, tịnh nên hóa thành bốn trụ đài quý báu, ở trong trụ đài có giường báu quý
giá, trải trăm ngàn vạn thiên y. Ở trên đài có Đức Phật ngồi kiết già, vì hư
không bằng phẳng là đức “Chân thường”. Thiên y khoác thân là đức “Chân lạc”. Đức
Phật ngồi kiết già là đức “Chân ngã”. Phóng đại quang minh là đức “Chân tịnh”.
Do tạng thức đã không nên pháp thân mới hiện, nên suy nghĩ rằng: “ Thân Phật là
sắc thân vi diệu hiếm có”. Đây là hiện tượng khế hợp pháp thân.
12. Từ câu: “Thời Vân
Lôi Âm” đến câu: “Công đức như thị” (Bấy giờ Đức Vân Lôi Âm … công đức như thế).
Đoạn này Phật thọ ký cho
vua Diệu Trang Nghiêm.
Do giác ngộ tạng thức bản
tính vốn không, mở tri kiến Phật, đó là nhân chính để thành Phật. Do vậy được
thọ ký. Che khắp chúng sinh nên gọi là Phật hiệu “Ta la thọ vương”. Do vĩnh viễn
phá trừ si ám vô minh nên đất nước tên là “Đại quang”. Siêu việt các cõi nên kiếp
tên là “Đại cao vương” Đây đều là hiện tuợng tám thức thoát khỏi trói buộc.
13. Từ câu: “Kỳ vương tức
thời” đến câu: “Lai sinh ngã gia” (Vua Diệu trang Nghiêm liền… sinh vào nhà
con).
Đoạn này nói về sự lợi
ích của vua Diệu Trang Nghiêm xuất gia.
Do thức chuyển thành
trí, đồng với pháp thân. Dùng quyền trí phù hợp với cơ duyên nên nói là “Đem quốc
gia giao phó cho con”. Nói: “Cùng với phu nhân…” Ý muốn nói công đức chỉ quán
đã viên mãn, đồng thời thoát mọi trói buộc, nên tất cả năng lực tác dụng của
trí, căn trần, và các pháp đều là diệu dụng. Cho nên cùng với phu nhân, hai người
con và gia quyến ở trong Phật pháp, tinh cần tu tập, chuyển hóa tất cả phiền
não thành tri kiến Phật cả. Do đó trong tám vạn bốn ngàn năm tinh cần tu tập
Pháp Hoa Kinh. Đến đây thì mọi công hạnh đều là công đức thanh tịnh nhiệm mầu,
và đều là trang nghiêm pháp thân, nên gọi là được “ Nhất thiết tịnh công đức
trang nghiêm tam muội”.
Chứng được thân vô trụ,
nhập pháp tính không, nên nói là “Bay lên hư không”. Bản giác đã hiển lộ mới thấy
được công đức của thỉ giác. Do vậy nhà vua gặp được Phật, cảm xúc đối với hai
con đã làm thiện tri thức cho mình. Do nhờ pháp lực huân tập, chân như làn nhân
duyên Phật tính. Tu mà đắc quả nên nói là “ Hai con chuyển tà tâm của tôi làm
cho tôi được an trụ trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là
thiện tri thức của tôi. Vì muốn phát khởi căn lành đời trước mà đến sinh vào
nhà tôi”. Đây là thiện tri thức là đại nhân duyên giáo hóa dẫn dắt vua thấy được
Phật.
Những trình bày trên đều
do năng lực huân tập nhân duyên.
14. Từ câu: “Nhĩ thời
Vân Lôi Âm” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề tâm” (Lúc đó Đức Vân Lôi Âm … Vô thượng
chánh đẳng chánh giác)
Đoạn này Đức Phật đã ấn
chứng cho Diệu Trang Nghiêm. Chính là trình bày nhân duyên của Phật tính nên
coi trọng vai trò thiện tri thức. Ý muốn nói rằng nhân chính của Phật tính mọi
người vốn có đủ, chúng làm thiện căn đời trước. Điều cần thiết là nhờ nhân
duyên thiện tri thức giúp chúng phát triển huân tập chỉ quán mới làm hiển lộ,
đó gọi là “ Phật chủng tùy duyên khởi”. Cho nên ở đây coi trọng vai trò thiện
tri thức, coi đó là đại nhân duyên.
Kinh này lần lượt trình
bày nhân duyên xưa của Đức Đại Thông Trí Thắng đã gieo hạt giống nhất thừa. Đến
nay do đó mà được ngộ nhập Diệu pháp. Thế nên pháp sư trì kinh đều là nhân
duyên của Phật tính cho chúng sinh thời mạt pháp, nên không dám xúc phạm hủy
báng. Chính do thiện tri thức là nơi giữ gìn chủng tử Phật tính, nên lấy đó làm
quan trọng.
15. Từ câu: “Đại Vương”
đến câu: “Linh trụ chánh kiến” (Đại Vương! … làm cho trụ chánh kiến).
Đoạn này nói về nhân
duyên căn bản của hai vị vương tử, rằng đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm
nghìn muôn ức na do tha.v.v.. Nghĩa là sáu thức sinh khởi trí tuệ quán chiếu, ở
nơi năm giác quan, mỗi giác quan đều thanh tịnh sáng suốt không bị đối tượng
làm mê lầm, nếu có hành động gì thì đều là hành động thanh tịnh. Cho nên nói là
cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn ức na do tha chư Phật, gần gũi cung
kính. Thọ nhận kinh pháp Hoa từ nơi chư Phật, thương xót chúng sinh bị tà kiến,
làm cho họ an trụ chánh kiến. Thế mới biết vị pháp sư trì kinh thường sử dụng
quán chiếu, huân tập làm căn bản, mà công phu huân tập trải qua thời gian dài
nhiều kiếp, đó không phải là sự việc nhất thời mà được.
16. Từ câu: “Diệu Trang
Nghiêm Vương” đến câu: “Lễ Phật nhi xuất” (Vua Diệu Trang Nghiêm… lạy Phật mà
ra)
Đoạn này nói về Diệu
Trang Nghiêm ca ngợi Phật, để hiển thị hiện tượng khế hợp pháp thân. Do đó trước
hết ca ngợi tướng báo thân đẹp đẽ, sau đó ca ngợi công đức của pháp thân. Pháp
của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu bất khả tư nghì. Giáo huấn đường
lối tu hành để được an ổn, tốt đẹp, vui thích đều là công đức của pháp thân.
Kinh Viên Giác dạy: Ví như là tiêu quặng vàng, vàng không phải là tiêu quặng mới
có, nhưng để trở lại vàng nguyên phải nhờ làm tiêu đi quặng mà thành tựu. Khi
đã là vàng y rồi thì không trở lại làm quặng nữa. Cho nên Diệu trang Nghiêm
nói: “ Con từ ngày nay không còn tự theo tâm hành của mình, chẳng sinh những
tâm ác như kiêu mạn, giận hờn, tà kiến”. Đây là Diệu trang Nghiêm thấy suốt tự
tâm, đến thẳng chỗ không nghi, đều do công đức của Diệu pháp, gọi là ích lợi của
pháp lực gia trì.
17. Từ câu: “Phật cáo đại
chúng” đến câu: “Diệc ưng lễ bái” (Phật bảo đại chúng … cũng nên lễ bái).
Đoạn này nói về các nhân
duyên ngày nay của hai vị vương tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn. Ý muốn nói về khả
năng chuyển được tâm tà của Diệu Trang Nghiêm và sự giáo hóa phu nhân cùng quyến
thuộc đều thâm nhập Phật, đều nhờ công phu chỉ quán huân tập chuyển hóa của hai
con. Đó là nhân đời trước của ngài Dược Vương và Dược Thượng hôm nay.
Tất cả các Bồ tát tu
hành không ai không dựa vào chỉ quán mà tu, tất cả chư Phật thành tựu chánh đẳng
chánh giác chưa có vị nào không do chỉ quán mà được. Hai vị Dược Vương và Dược
Thượng Bồ tát thành tựu được các công đức lớn ấy là đã ở nơi vô lương chư Phật
vun trồng gốc rễ công đức nên mới có thể thành tựu được năng lực bất khả tư
nghì như vậy. Ý muốn đưa về pháp quán tâm đi đến tột cùng của diệu hạnh trì
kinh để trình bày công đức của pháp lực gia trì. Nên phải biết rằng tên của hai
vị Bồ tát, cần lễ bái.
18. Từ câu: “Phật thuyết
thị” đến hết phẩm (Lúc Phật nói …)
Đoạn này đúc kết nghe phẩm
kinh này trở thành tác dụng hành động.
Ý nói công phu chỉ quán
thành tựu thì tất cả phiền não trần lao ứng theo tâm niệm mà thanh tịnh, cho
nên tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh vậy.
Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát
Khuyến Phát Thứ Hai Mươi Tám
Đại ý phẩm này là nhờ sự
tin hiểu ở trước giúp cho Diệu hạnh thành tựu, diệu hạnh tác thành kết quả,
tăng thêm lợi ích để chứng nhập mà hiện thân nói lời gia trì. Kinh nói: “Người
đó nếu ngồi tư duy về kinh này, bấy giờ con lại cỡi tượng vương trắng hiện ra
trước người đó. Người đó nếu quên mất một câu hay một bài kệ, con sẽ dạy cho họ
chung cùng đọc tụng”. Lại nói: “Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ, chân
chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thấy nghe được Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, như được nghe kinh điển này từ miệng Phật”. Đây chính là
hiện thân nói lời gia trì vậy. Hàng Đẳng giác Bồ tát nếu không được gia trì thì
không vào được bậc diệu giác. Nhờ có pháp thân đến tiếp sức, cần có gia trì mới
được chứng nhập. Vì vậy mà có phẩm này.
Kinh Pháp Hoa này lấy
trí tuệ làm nền tảng nên do ngài Văn Thù phát khởi để tăng trưởng sự tin hiểu. Lấy
công hạnh để thành tựu đức, nên ngài Phổ Hiền ở sau cùng đã làm rõ sự chứng nhập,
đó là nhập Phật tri kiến vậy.
Phổ Hiền có hai: Một là
phần trước thuộc nhân, hai là phần sau thuộc quả nghĩa là công hạnh bao trùm
pháp giới nên gọi là Phổ, gần tột cùng thánh nên gọi là Hiền, đây là Đẳng giác
thuộc về Nhân. Xứng hợp chân pháp giới nên gọi là Phổ, biến khắp vạn hữu gọi là
Hiền, đây là bậc Diệu giác thuộc về Quả. Như vậy Phổ Hiền là toàn thể pháp giới,
là nguyện thân của mười thân Phật Tỳ Lư Giá Na, cho nên Bồ tát dựa vào đây,
phát tâm tin hiểu tu hành trở lại chứng bản thể này. Do vậy gọi là không gì
không từ pháp giới này mà xuất hiện, chẳng có gì không trở lại pháp giới này.
Tuy nhiên Bồ tát nhân hạnh viên mãn, đến bậc Đẳng giác rồi thì nhờ kết quả của
giác ngộ tiếp sức mà đi vào Diệu giác. Cho nên phẩm này làm vai trò cuối cùng của
sự chứng nhập. Ngài Phổ Hiền lấy nguyện lực để gìn giữ bảo vệ nên được kinh
này. Nhờ nhân tố Phổ Hiền mà được chứng nhập nên gọi là khuyến phát.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phổ
Hiền Bồ tát” đến câu: “Tùng Đông phương lai” (Lúc bấy giờ ngài Phổ Hiền Bồ tát
… từ phương Đông mà đến).
Đoạn này nói về nghi thức
Phổ Hiền đến.
Khi hội Pháp Hoa bắt đầu
ngài Phổ Hiền không có mặt trong chúng hội, nay ngài từ phương Đông mà đến.
Đông phương là nơi muôn vật sinh trưởng, bởi lẽ diệu hạnh Pháp Hoa phù hợp pháp
tính chân thật, có mặt khắp trong tâm vọng tưởng loạn động của tất cả chúng
sinh. Nay đã nhập tri kiến Phật, nên pháp giới tính mới được xuất hiện. Do đó
pháp hội sắp chấm dứt, ngài Phổ Hiền mới từ phương Đông mà đến. Ban đầu kinh
thì ánh sáng chiếu ở phương Đông, cuối kinh thì ngài Phổ hiền xuất hiện ở
phương Đông, chính là trình bày hịên tượng Trí và Hạnh phù hợp nhau. Do pháp
tính này có mặt khắp trong thân chúng sinh, không bị phiền não làm cho trở ngại,
nên gọi là sức thần thông tự tại. Do thể tính pháp thân từ bỏ tâm và đối tượng
của tâm nên gọi là “Oai đức” không gì không đủ, nên gọi là “Danh văn”. Đây là cội
gốc của muôn hạnh, nên cùng với vô lượng vô biên bất khả xưng số Đại bồ tát câu
hội.
2. Từ câu: “Sở kinh chư
quốc” đến câu: “Chủng chủng kỹ nhạc” (Các nước đi ngang qua… các thứ kỹ nhạc).
Đoạn này nói ngài Phổ Hiền,
phàm hành động gì đều là phá vô minh và thành tựu Diệu hạnh, làm tăng niềm vui
pháp lạc, nên gọi là “ Khắp nơi đều rúng động, mưa hoa sen quý và trỗi các thứ
kỹ nhạc”.
3. Từ câu: “Hựu dữ vô số”
đến câu: “Hữu nhiễu thất tráp” (Lại cùng vô số … đi quanh bên hữu bảy vòng).
Đoạn này nói về tám bộ
thần chúng đi theo ngài Phổ Hiền, họ đều nhờ diệu hạnh mà làm người bảo vệ Phật
pháp. Cho nên gọi: “Đều hiện sức oai đức thần thông”. Đi quanh bên phải bảy
vòng là nghi thức bày tỏ lòng kính trọng khi gặp Phật.
4. Từ câu: “Bạch Phật
ngôn Thế Tôn” đến câu: “Thị Pháp Hoa kinh” (Bạch Phật rằng: Thế tôn … Kinh Pháp
Hoa này).
Đoạn này ngài Phổ Hiền hỏi
pháp, nói rõ lý do đến cõi này của ngài.
Vì Diệu hạnh của Phổ Hiền
là toàn thể pháp thân, có đại oai lực, nên gọi là “Nước Phật Bảo oai đức thượng
vương”. Do tâm nghe thấu suốt nên gọi là “ Ở xa nghe”. Đã nói là ở xa nghe nên
đặc biệt xin Phật thuyết pháp. Đức Thế Tôn chưa đáp một lời, ý nói đạo vốn nằm
ngoài ngôn ngữ và âm thanh. Khi Đức Thế Tôn nói pháp Bát nhã ngài Tu Bồ Đề ngồi
yên lặng trong hốc núi. Đế thích rải hoa ca ngợi rằng: Tôn giả khéo nghe Bát
nhã. Tu Bồ Đề nói: Chưa nghe. Đế thích nói: Đức Thế Tôn lấy cái không nói mà
nói, còn tôn giả lấy cái không nghe mà nghe. Có lần Đức Thế Tôn thăng tòa, ngài
Văn Thù gõ kiền chuỳ thưa rằng: Đế quán pháp vương pháp, pháp vương pháp như thị
(quán rõ pháp của đấng pháp vương, pháp của đấng pháp vương là như thế) Đức Thế
Tôn lại xuống tòa.
Nay ngài Phổ Hiền đặc biệt
thỉnh Phật thuyết, Thế Tôn không đáp. Ngài Phổ Hiền liền hỏi rằng: Làm sao được
kinh này? Ý muốn nói diệu pháp là dứt đường ngôn ngữ, không nói không trình
bày, ly ngôn mặc chứng mới có thể ngộ nhập. Cho nên nói là có thể được kinh
này.
5. Từ câu: “Phật cáo Phổ
Hiền bồ tát” Đến câu: “Tất đắc thị kinh” (Phật bảo ngài Phổ Hiền Bồ tát … quyết
đặng kinh này).
Đoạn này Đức Phật dạy về
diệu hạnh Phổ Hiền để trợ giúp cho sự chứng nhập.
Do ngài Phổ Hiền đặc biệt
vì nghe kinh mà đến, nên xin Phật nói cho, Đức Thế Tôn không đáp một lời. Ý
trình bày đạo lý ly ngôn tịch diệt. Vì không dùng lời nói nên ngài theo đó hỏi
rằng: Làm sao được kinh này?. Do vậy Đức Phật dạy bốn pháp để được kinh này: “Một
là chư Phật hộ niệm. Hai là trồng các gốc công đức. Ba là nhập chánh định tụ. Bốn
là phát tâm cứu vớt chúng sinh”. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: Tín thành tựu ba
thứ phát tâm: Một là Trực tâm chánh niệm pháp chân như, nên gọi là chư Phật hộ
niệm. Hai là Thâm tâm vui làm tất cả các hạnh lành nên gọi là trồng các công đức.
Ba là Đại bi tâm, muốn cứu tất cả chúng sinh đau khổ nên gọi là phát tâm cứu vớt
tất cả chúng sinh. Lại nói rằng: Như vậy tín tâm thành tựu sự phát tâm, đó là
nhập chánh định tụ. Tuy nhiên phẩm này bày tỏ sự chứng nhập mà nói về Tín thành
tựu ấy. Nghĩa là ban đầu dùng trí tuệ Văn thù để khởi phát tín tâm nương vào
tin mà sinh hiểu biết, nương vào hiểu biết mà sinh hành động, khi đã hành động
thì sự hiểu biết dứt. Đó gọi là sự chứng nhập, là Tín thành tựu vậy. Đó gọi là:
“Phát tâm rốt ráo là không phân biệt hai tâm, trong hai tâm ấy tâm đầu là khó”.
Tuy nhiên Tín phải nhờ vào hạnh mà thành tựu. Cho nên Văn Thù đại trí phải nhờ
Phổ Hiền khuyến phát. Cuối cùng dùng bốn pháp thì được kinh này.
Trong luận căn cứ vào
tâm sơ phát mà nói. Ở đây thì căn cứ vào sự thành tựu mà nói, đủ thấy rằng Trí
và Hạnh nương vào nhau trước sau không hai vậy.
6. Từ câu: “Nhĩ thời Phổ
Hiền” đến câu: “Giai bất đắc tiện” (Lúc đó ngài Phổ Hiền… đều chẳng đặng tiện lợi).
Đoạn này trình bày sức
gia trì.
Nhờ có lực gia trì giữ
gìn nên các ma quỷ làm hại người không có cơ hội hoạt động. Ở đây là dứt được
tai nạn bên ngoài và diệt sạch phiền não bên trong. Do vì Diệu hạnh Phổ Hiền có
thể làm cho tất cả phiền não và các loài ma không thể hiện hành, không tàn hại
pháp thân và thương tổn huệ mạng, làm cho an ổn để chứng nhập.
7. Từ câu: “Thị nhân nhược
hành nhược lập” đến câu: “Hoàn linh thông lợi” (Người đó hoặc đi hoặc đứng… làm
cho thông thuộc).
Đoạn này nói về hiện
thân nói lời gia trì
Nói người này hoặc đi, đứng,
ngồi đều tư duy kinh này, thì trong bốn oai nghi mỗi niệm thâm nhập Pháp Hoa
tam muội, không quên, không ngu si. Nếu có quên mất một câu hay một bài kệ thì
Phổ Hiền Bồ tát cỡi voi trắng ngà hiện thân trước mặt người đó dạy họ, cùng họ
đọc tụng làm cho họ được chứng nhập mới thôi. Đây là hiện thân nói lời gia trì
vậy.
8. Từ câu: “Nhĩ thời thọ
trì đọc tụng” đến câu: “Như thị đẳng đà la ni” (Bấy giờ người thọ trì … những
môn Đà la ni như thế).
Đoạn này nói do sức gia
trì mà thấy hiện thân, đắc được tam muội và Đà la ni.
Đà la ni dịch là Tổng
trì là tên gọi khác của Nhất tâm Chân Như. Ba loại Đà la ni là nghĩa của Chỉ
Quán. “Triền” là triền của Kinh Lăng Nghiêm, tức là xoay ngược tánh nghe như nước
chảy mạnh có dòng xoáy, nghĩa là tất cả các pháp đều quy về nhất tâm, nên gọi
là Chân như. Lắng đọng thường tịch làm triền Đà la ni. Đây gọi là Chỉ. Nhất tâm
Chân Như có đại trí dụng mà không rời khỏi nhất tâm, làm ra trăm ngàn vạn ức
triền Đà la ni, đây gọi là Quán. Thể dụng không hai chỉ là nhất tâm. Chỉ Quán
cùng vận hành gọi là Trung đạo. Chỉ quán đồng thời, còn mất vô ngại làm Pháp Âm
phương tiện đà la ni. Nhân thấy ngài Phổ Hiền nhập pháp giới tánh, một niệm liền
đắc. Cho nên nói rằng: “Do thấy tôi liền được các tam muội”.
9. Từ câu: “Thế Tôn nhược
hậu thế” đến câu: “Nhi thuyết chú viết” (Thế Tôn! Nếu đời sau …mà nói chú rằng).
Đoạn này ngài Phổ Hiền
nói thần chú ủng hộ để hết sức gia trì. “Năm trăm năm về sau” là thời kỳ đấu
tranh kiên cố, là thời kỳ khó trì kinh. Nếu không nhờ lực gia trì thì không thể
thành tựu kết quả thù thắng, nên phải có gia trì.
Trước có nói khi đi, đứng,
ngồi trong bốn oai nghi niệm niệm tư duy – Nay nói rằng tu tập kinh này “ Phải
một lòng tinh tấn” nghĩa là không phải tụng đọc suông mà có được sự cảm ứng. Trải
qua hai mươi mốt ngày rồi dùng thân mà tất cả chúng sinh ưa thấy hiện ra trước
người đó là do trí sáng quán chiếu tăng trưởng như nước trong thì trăng hiện.
Tâm của hành giả cùng với pháp giới là một, nên Bồ tát hiện thân. Đây là nguyên
lý tự nhiên cảm ứng đạo giao. Vì muốn cho hành giả tiêu trừ tập khí vô minh mà
nói thần chú để gia trì.
10. Từ câu: “A đàn địa”
đến câu: “Kiết lợi địa đế” (Toàn bộ thần chú).
Thần chú này có năng lực
gia trì làm cho công phu nhanh chóng thành tựu. Vì thần chú có khả năng phá trừ
nghiệp chướng mà năng lực tu tập Chỉ quán có chỗ không bằng được. Nên cần có thần
chú gia trì, công phu dễ thành tựu.
11. Từ câu: “Thế Tôn!
Nhược hữu Bồ tát” đến câu: “Phổ Hiền uy thần chi lực” (Thế Tôn! Nếu có bồ tát …
sức oai thần của Phổ Hiền).
Đoạn này trình bày thần
chú là toàn thể pháp giới, nên nói rằng: “Nên biết sức thần thông của Phổ Hiền”
Nếu niệm oai thần của Phổ Hiền thì đại dụng của pháp giới sẽ hiện ra trước mặt,
nên tâm hành giả và thần chú là một, thì Bồ tát sẽ cảm ứng như vậy.
12. Từ câu: “Nhược hữu
thọ trì” đến câu: “Sở ma kỳ đầu” (Nếu có người thọ trì … lấy tay xoa đầu).
Đoạn này nói công hạnh
chính của sự trì kinh là lấy chánh niệm làm chủ.
Ở trước chỉ nói về thọ
trì mà thôi, đến đây phẩm Phổ Hiền đặc biệt nói về tư duy chánh ức niệm (chánh
niệm), thế mới biết trì kinh lấy quán chiếu làm công hạnh chính. Nếu không thì
chỉ xem hàng đếm chữ mà thôi. Trong luận khởi tín nói: “Tâm giác ngộ mới phát,
không có tướng trạng, vì xa lìa niệm vi tế, do vậy thấy được tâm tánh” Lại nói:
“Thường quán vô niệm có thể cho là hướng về Phật trí”. Ở đây nói chánh ức niệm
tức là vô niệm.Tu tập tư duy tức là quán vô niệm cùng với pháp giới chân như
tương ứng, vì vậy cảm ngài Phổ Hiền hiện thân gia trì, Như Lai lấy tay xoa đầu.
Phần sau có nói qua về chánh ức niệm đã giải nghĩa ý thú kinh này. Thế nên biết
nhập Phật tri kiến phải lấy chánh niệm làm công hạnh chánh yếu.
13. Từ câu: “Nhược đản
thơ tả” đến câu: “Như thuyết tu hành” (Nếu chỉ biên chép… đúng như lời mà tu
hành).
Đoạn này so sánh lợi ích
của thắng hạnh
Nếu chỉ biên chép thuần
túy mà không hiểu nghĩa lý thì được quả báo sinh vào trời Đao lợi, huống gì có
chánh niệm và hiểu nghĩa lý mà tu hành chẳng cảm được sự gia trì của Như Lai ư!
14. Từ câu: “Nhược hữu
nhân thọ trì” đến câu: “Như thuyết tu hành” (Nếu có người nào thọ trì … đúng
như lời tu hành).
Đoạn này nói về sự lợi
ích thù thắng của người hiểu được sự nghĩa lý để khích lệ sự tu trì.
Ở trên nói chỉ biên chép
thì được sinh lên cõi trời Đao lợi. Nay phước lợi của sự hiểu nghĩa là khi lâm
chung được 1000 vị Phật đưa tay tiếp dẫn lên cung trời Đâu suất, cùng với Bồ
tát bổ xứ Di Lặc ở một nơi. Đó là ba hội Long Hoa trong tương lai, còn làm nhân
duyên cho diệu pháp nhất thừa. Cho nên người có trí nên phải một lòng chánh niệm
như lời dạy mà tu hành, làm diệu hạnh vậy.
15. Từ câu: “Thế Tôn ngà
kim” đến câu: “Sử bất đoạn tuyệt” (Thế Tôn! Con nay … khiến chẳng đoạn mất).
Đoạn này ngài Phổ Hiền
phát nguyện lưu truyền kinh này, thề nguyện làm cho hạt giống Phật không mất.
16. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni Phật” đến câu: “Trì Phổ Hiền Bồ tát danh giả” (Lúc bấy giờ Đức
Thích Ca Mâu Ni Phật … thọ trì danh hiệu Phổ Hiền Bồ tát).
Đoạn này Đức Như Lai ca
ngợi công đức hộ trì kinh này của ngài Phổ Hiền, Đức Như Lai cũng dùng thần lực
bảo hộ người thọ trì danh hiệu Bồ tát Phổ Hiền, vì kinh này là pháp của Như Lai
hộ niệm. Ngài Phổ Hiền hộ trì người trì kinh thì kinh ở nơi Phổ Hiền. Cho nên
Như Lai cũng hộ trì danh hiệu Phổ Hiền thì kinh này cũng ở nơi người thọ trì
danh hiệu. Do vì bất cứ niệm khởi nào cũng đều là pháp giới tính hiện tiền chiếu
rõ.
17. Từ câu: “Phổ Hiền!
Nhược hữu thọ trì” đến câu: “Ngài Vô Tận Ý chi sở hộ” (Phổ Hiền! Nếu có người
thọ trì … lấy y trùm cho).
Đoạn này nói về tu tập
chánh ức niệm, là chứng đắc vi diệu của nhập Phật tri kiến.
Kinh này đã có toàn thân
Như Lai, vì vậy được thấy Đức Thích Ca diệu khế pháp thân, nên như từ miệng Phật
mà nghe. Vì niệm niệm nhập Phật tri kiến nên gọi là cúng dường Phật, được Phật
khen ngợi “ Lành thay” Vì thành tựu hạt giống thành Phật nên chắc chắn thấy Phật
thọ ký, nên Phật “Lấy tay xoa đầu”. Vì tất cả công hạnh đều là hạnh của Phật
nên “Lấy y trùm cho” đó đều là diệu chứng của sự tu tập chánh ức niệm.
18. Từ câu: “Như thị chi
nhân” đến câu: “Phổ Hiền chi hạnh” (Người như thế … tu hạnh Phổ Hiền).
Đoạn này nói về sự thành
công của sự chứng nhập vi diệu do trì kinh.
Ở trước phẩm An Lạc Hạnh
đã răn dạy người trì kinh không nên gần gũi kinh sách ngoại đạo, và luật nghi bất
thiện, các hàng nữ nhân … không khởi tam độc và các phiền não … thiết tha răn dạy
từng điều, sợ bị dẫn dắt trở thành tập khí, có hại cho công phu chánh niệm, nên
cần phải tránh xa không để chúng tác hại. Nay đã được nhập Phật tri kiến, tất cả
các tập khí bất thiện đều đã hết thì tự nhiên không còn tham và hỷ, không bị
chúng làm hại. Tất cả những gì đã tu đã làm đều là diệu hạnh của Phổ Hiền. Nếu
tri kiến chưa mở thì mọi hành động đều là vọng động. Giờ đây đã được chứng ngộ
và thể nhập thì mọi pháp đều mầu nhiệm, cho nên không cần chờ được viễn ly mà tự
tâm có viễn ly.
19. Từ câu: “Phổ Hiền!
Nhược Như Lai diệt hậu” đến câu: “Đương toạ thiên nhân đại chúng trung sư tử
pháp tòa thượng” (Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ … sẽ ngồi trên pháp tòa sư
tử trong đại chúng trời người).
Đoạn này nói về “Nhập Phật
tri kiến” tức được quả Bồ đề.
Do vậy khi thấy người
trì kinh thì nên nghĩ rằng người ấy sẽ thành Phật. Sự chứng quả có thời kỳ nên
trong kinh nói: “ Chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các ma.v.v..” đều là những
việc thành tựu Phật quả.
20. Từ câu: “Phổ Hiền!
Nhược ư hậu thế” đến câu: “Đắc kỳ phước báo” (Phổ Hiền! Nếu ở đời sau … đặng
phước báo đó).
Đoạn này nói về sự trì
kinh cảm ứng phước báo ngay trước mắt.
Do vì hương vị của giáo
pháp là tài sản vi diệu nên không còn tham đắm dục lạc thế gian, phước báu ấy
chính là trí tuệ, cái đối tượng mong cầu đều không màng, ba chướng ngày càng
tiêu trừ, nên phước báu ấy càng tăng trưởng. Quả báo hiện tại như vậy thì đời
sau quả báo sinh thiên thù thắng như thế nào có thể biết.
Trước sau phân biệt sự lợi
ích của trì kinh giống nhau, vì nhờ chánh niệm như pháp mà tu hành thì chẳng
bao lâu sẽ thành Phật, còn như chỉ đọc tụng biên chép thì cảm ứng phước báo của
nhân thiên.
21. Từ câu: “Nhược hữu
nhân khinh hủy” đến câu: “Chư ác trọng bịnh” (Nếu có ngưòi khinh chê … các bịnh
nặng dữ).
Đoạn này nói chung việc
khen ngợi hay hủy báng người trì kinh, nghiệp báo rõ ràng như bóng dáng hay tiếng
vang vậy. Hủy báng người trì kinh là người cuồng si, là người mất đi chánh kiến,
vì vậy chiêu cảm quả báo “Nhiều đời không có mắt”. Nếu người có cúng dường ca
ngợi thì người ấy thu hoạch được quả báo hiện tiền. Nếu nói ra lỗi ác của người
trì kinh bất luận là đúng hay sai đều bị mắc bệnh “ Bạch lại”, do làm thương tổn
pháp thân nên chiêu cảm quả báo này. Nếu khinh cười người trì kinh thì chiêu cảm
quả báo “Nhiều đời răng nếu thưa xấu và các quả báo khác” … Do vì từ khẩu nghiệp
làm thương tổn toàn thể diệu pháp nên cảm ứng toàn thân mắc các trọng bịnh.
Phẩm Phương Tiện ở trước
có nói về quả báo của người hủy báng kinh trong thời mạt pháp, là cảnh giác người
trì kinh không khéo chọn lựa người theo căn cơ, làm cho người căn cơ thấp kém
khinh khi hủy báng. Đó là nói riêng về người hủy báng Kinh. Còn từ phẩm Trì về
sau nói về sự hủy báng pháp sư trì kinh, là nói riêng hủy báng người trì kinh,
sợ người nghe lời hủy báng mà không tin pháp sư làm cho chủng tử Phật bị mất
đi. Nay nói về trì kinh, ý nói người dựa vào chánh niệm như lý mà tu hành, nghiệp
đã đi vào tri kiến Phật, chứng được pháp thân. Nếu khinh khi là làm thương tổn
pháp thân. Thế mới biết trước sau Đức Phật nói quả báo của sự hủy báng đều chủ
ý khác nhau, không nên cho rằng tiết này giống với đoạn văn ở trước. Tuy nhiên
Đức Phật dùng Đại viên cảnh trí, bình đẳng nói pháp, chiếu toàn thể pháp giới,
trước sau nhất quán. Điều được thuyết, đều tương ứng thể tính, đều để trừ diệt
tình ái của chúng sinh Phật không suy nghĩ phân biệt, nhưng nếu lấy văn chương
để làm phương tiện tìm kiếm chân lý thì dường như Phật có tâm phân biệt. Thế
nên dựa vào văn tự thì lại dựa vào lời nói của phàm tình, không phải là đại trí
vô tư thuyết pháp phù hợp với thể tính. Do đó người học nên khéo léo để hiểu được
nghĩa lý không nên bị vướng mắc vào ngôn từ.
22. Từ câu: “Thị cố Phổû
Hiền” đến câu: “Đương như kính Phật” (Cho nên Phổ Hiền … phải như kính Phật).
Đoạn này là lời kết về
kính trọng người trì kinh, lời kết chung về ý nghĩa tôn trọng giáo pháp. Trước
đây đã nói kính người trì kinh như kính Phật, Vì họ theo lời Phật tu hành thể
nhập tri kiến Phật, không lâu sẽ đắc quả Bồ đề. Diệu hạnh đã viên mãn nên phải
kính thờ như Phật chính là như vậy. Chữ “ Thị cố” là dựa vào lời trên để đúc kết
văn.
23. Từ câu: “Thuyết thị
Phổ Hiền khuyến phát phẩm” đến câu: “Cụ Phổ Hiền đạo” (Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền
khuyến phát … đủ đạo Phổ Hiền).
Đoạn này đúc kết việc
nghe phẩm này mà thành tựu công hạnh.
Do vì nhập Phật tri kiến
thì tất cả các pháp chung quy là pháp giới, cho nên được “ Trăm ngàn muôn ức
Triền Đà la ni”. Mỗi hành động đều phù hợp pháp giới, nên nói là “ Được đạo Phổ
Hiền”. Do nghe pháp Phổ hiền này mà thành tựu lợi ích lớn, lợi ích lớn của diệu
pháp thì quy về nơi đây. Diệu hạnh trong Kinh Lăng Nghiêm quy về vô sở đắc.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học tất cả các vị thiện tri thức,
sau khi nhập pháp giới chỉ thấy ngài Phổ Hiền. Bởi lẽ trong pháp giới tính vốn
không có chứng đắc. Cho nên chỉ có Phổ Hiền mới tương ứng với dung lượng của
pháp giới. Vì vậy ý tứ của hai Kinh (Hoa Nghiêm và Pháp Hoa) cần cùng một ý
nghĩa để thấy mục đích thuyết pháp của Như Lai.
24. Từ câu: “Phật thuyết thị
kinh thời” đến câu: “Tác lễ nhi khứ” (Lúc Phật nói Kinh này … làm lễ mà đi).
Đoạn này là phần lưu
thông sau cùng.
Kinh này lấy ngài Văn
Thù Sư Lợi để phát khởi, đến lúc kết thúc Pháp hội không nói đến tên ngài, vì
diệt mọi ba động thì thể tính như biển. Như Kinh Hoa Nghiêm khi hội muôn duyên
nhập vào thật tế thì không có ngài Văn Thù Sư Lợi mà chỉ quy về Phổ Hiền, ý
nghĩa ấy cả hai Kinh giống nhau.
Kinh này chuyên dẫn nhiếp nhị thừa nên hàng Thanh văn tín thọ phụng hành.
Comments
Post a Comment