PHÁP HOA KINH
CƯƠNG YẾU
III.-
PHẦN NGỘ PHẬT-TRI-KIẾN
12.- ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA PHẨM
Trong phẩm này chỉ bày ngộ Phật-tri-kiến có khó có dễ, khó để chúng-hội sanh lòng trân-trọng hi-hữu, dễ để chúng khỏi sợ-sệt dài-xa, nhắc túc-nhơn của đức Phật cùng Ðạt-Ða, nhơn đây mà đặt tên phẩm.
Do vì trước kia các hàng Thinh-văn từ xưa ôm lòng sợ-sệt Phật đạo dài xa cho nên không lòng ưa muốn. Ðến nay dầu đã nhờ đức Phật thọ-ký, nhưng còn
phải trải qua nhiều kiếp, mới đặng Phật-quả, sợ rằng trong thời gian đó túc-tập phát khởi, nửa chừng ngưng trệ không khứng siêng cầu, nếu rời diệu-pháp nhứt-thừa này thời Phật-đạo không do đâu thành-tựu.
Ðức Thế-Tôn tự dẫn việc đời trước của mình, dẫn việc một đời để lệ vô-lượng đời khác, cần cầu kinh Diệu-Pháp nhứt-thừa, không màu giàu-sang, không sợ nhọc-nhằn,
không tiếc thân mạng, dầu làm vua mà cũng phủi bỏ, xả thân để cầu Tiên-Nhơn, tiền thân của Ðề-Bà-Ðạt-Ða, truyền cho Diệu-Pháp, nhờ đó mà nay mới đặng viên thành quả-vị Bồ-đề, lại đem Diệu-Pháp đó tuyên dạy cho chúng-hội hiện-tại. Ðức Phật lãnh thọ Pháp-Hoa, Ðề-Bà-Ðạt-Ða tuyên truyền Pháp-Hoa, một hiện thành Phật, một sẽ thành Phật, để hiển rõ thành Phật chung quy không ngoài Diệu-Pháp Liên-Hoa. Như thế há lại không nên cố-gắng cần cầu tu tập ư! Há lại không nên phát tâm kính-trọng hi-hữu ư!
Ðức Phật từ lâu khổ nhọc cầu Diệu-Pháp mới đặng thành Phật, đó là hiểu nghĩa 'Ngộ Phật-tri-kiến' rất khó vậy. Vả sợ rằng hàng đệ-tử hạ-liệt vì thấy khó mà không gắng tấn, cho nên kế đó hiển bày việc giáo-hóa của ngài Văn-Thù-Sư-Lợi ở long-cung, chưa bao lâu mà đã có vô-lượng chúng thành Bồ-tát vị, cũng có người trước kia là Thinh-Văn mà nay tu-tập hạnh Bồ-tát. Lại thêm
Long-nữ mới tám tuổi đầu mà trong khoảng hiến bửu-châu, bỗng nhiên biến thành nam-tử, qua thế-giới Vô-Cấu ở phương nam thành bực Ðẳng-Chánh-Giác giáo-hóa chúng-sanh. Tất cả những kết quả vĩ-đại mau
chóng như trên đều nhờ sức của 'Diệu-Pháp Liên-Hoa'.
Vả lại biển là chốn sanh-tử trầm-nịch, rồng là đầu dọc tam-độc, người nữ là căn-khí âm-nhu cấu trược, Long-Nữ đủ cả ba điều ty-tệ này mà trong một thời-gian ngắn, liền có thể hiện chứng Bồ-đề. Sao lại quá dễ như thế! Nhơn vì gần-gũi bực đại-trí để làm chỗ y-quy vậy. Cũng là chủ ý bảo chúng-hội đương-cơ sau khi Phật diệt-độ nên gần gũi bậc tối thắng tri-thức, có thể chắc-chắn được rốt-ráo diệu-ngộ, trọn không còn phải lui vào hàng nhị-thừa nữa.
Kinh nói: 'Lúc bấy giời đức Phật bảo các vị Bồ-tát
cùng thiên, nhơn, tứ-chúng rằng: Ta ở trong vô-lượng kiếp về quá-khứ cầu kinh Pháp-Hoa không có trễ nải mỏi mệt, ở trong nhiều kiếp thường làm Quốc-Vương phát nguyện cầu đạo Vô-thượng Bồ-đề tâm không lui sụt, vì muốn trọn đủ sáu pháp ba-la-mật nên siêng năng thật hành hạnh bố-thí trong lòng không chút lẫn tiếc, từ của cải vợ con cho đến đầu mắt tay chơn không tiếc thân mạng ...
Khắp vì chúng-sanh, cần cầu pháp đại-thừa, cũng chẳng vì thân mình ... Do đó bèn đặng
thành Phật, nên nay vì các ông mà diễn nói...
Ngài Trích-Tích Bồ-tát hỏi ngài
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát rằng: 'Kinh Pháp-Hoa này rất sâu vi-diệu, là báu nhứt trong các kinh, trong đời rất ít có, vả có chúng-sanh nào siêng-năng tinh-tấn tu
hành kinh này mau đặng thành Phật chăng ?'
Ngài Văn-Thù Sư-Lợi đáp:
'Có con gái của Ta-Kiệt La Long-Vương mới tám tuổi mà lợi-căn trí-huệ, hay biết các căn-tánh hành-nghiệp của chúng-sanh, đặng đà-la-ni ..., trong khoảng sát na phát tâm Bồ-đề đặng trụ bậc bất thối-chuyển, biện tài vô-ngại, thương nhớ chúng-sanh dường như con đỏ, công-đức đầy đủ ... có thể đến bực Bồ-đề'... Ðương lúc đó cả chúng-hội đều thấy Long-nữ bỗng nhiên biến thành nam-tử, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, liền qua thế-giới Vô-Cấu phương nam, ngồi tòa sen báu thành bực đẳng chánh giác đủ 32 tướng đẹp, 80 hình tốt, khắp vì mười phương tất cả chúng-sanh diễn nói Pháp-Hoa.'
13.- TRÌ PHẨM
Do về trước chúng-hội đương cơ đã khai ngộ, dầu được thọ-ký, nhưng còn phải trải qua nhiều kiếp mới thành Phật, đức Thế-Tôn sợ rằng tập-quán hẹp hòi hèn yếu, sợ khó, ngại xa, hoặc giả giữa đường lại sanh lòng lo sợ Phật-đạo dài xa, nên đức Thế-Tôn tự thuật tiền thân cầu pháp dầu khó nhọc đủ điều nhưng vẫn không một niệm nhàm mỏi, để làm gương cho chúng-hội phấn khởi, để cho tập-quán yếu hèn tiêu tan. Rồi lại việc Long-Nữ thành Phật trong khoảnh khắc, để thấy lực dụng thù-thắng của Pháp-Hoa, làm chúng dứt kiến chấp xa gần mau chậm. Lòng phấn khởi không yếu hèn, quên bặt gần xa, thời có thể an-trụ nơi Phật-đạo.
Chúng hội đương-cơ đã được đủ nhơn đủ duyên như thế, còn chúng-sanh sau khi đức Phật diệt-độ thời thế nào mà được trụ nhứt-thừa, do vấn đề sau đây nên có phẩm 'Trì' này.
Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa này là Huệ-mạng của chư Phật, là chánh-nhơn Phật-tánh của chúng-sanh. Trong thời kỳ sau khi đức Phật diệt-độ, người nhiều tệ-ác, tội nặng, phước mỏng, chướng sâu, huệ kém, khó có thể phụng-trì được. Nếu không người phụng-trì thời giống Phật phải dứt mất, đây là chỗ của đức Phật Thế-Tôn thầm lo vậy. Các vị Bồ-tát cũng thầm hiểu ý của Thế-Tôn, mới cung kính an ủi xin Thế-Tôn chớ lo, các ngài đều nguyện phụng trì kinh này ở đời vị-lai rộng bày diễn nói chẳng quản khổ nhọc, chẳng tiếc thân mạng.
Năm trăm vị đệ-tử cùng hàng học vô-học, tất cả chúng-hội vừa được thọ-ký, cũng lãnh hội ý đức Thế-Tôn, nên đều nguyện rộng tuyên diễn ở tương-lai, song lại nguyện truyền pháp ở các thế-giới phương khác, vì người cõi nước ta-bà này phần nhiều tệ ác thượng-mạn, các ngài tự lượng sức mình chẳng kham hóa-độ được.
Các vị đại Tỳ-kheo-ni như Ðại-Ái-Ðạo, Liên-Hoa-Sắc v.v... từ giờ vẫn tự cho thân phụ-nữ nhiều cấu-chướng không dám vọng cầu Phật-quả, nhơn vừa rồi tận mắt thấy Long-Nữ thành Phật, cũng nên tự tin rằng mình cũng có phần được làm Phật, mới khao khát trông mong đức Thế-Tôn thọ-ký, sau khi đã được thọ-ký, liền phát nguyện tuyên truyền kinh Pháp-Hoa ở tha phương thế-giới, để tự tỏ bày tâm chí, không lui sụt trễ nải.
Bấy giờ đức Thế-Tôn bèn ngó tám mươi ức na-do-tha chúng Bồ-tát mà vẫn chẳng thốt lời. Chính ý đức Thế-Tôn sợ rằng: chúng Thinh-văn dầu nguyện trì kinh mà chưa quen những công-hạnh thiệp-tục lợi-sanh, pháp lực không đủ, e lại bị chướng nạn mà làm cho pháp-duyên khó rộng, nên muốn nhờ các vị Bồ-tát hộ trợ, các vị Bồ-tát hội ý của đức Thế-Tôn đồng phát nguyện trong thời kỳ Phật đã diệt-độ, các ngài sẽ qua lại cùng khắp mười phương thế-giới, dùng sức nhẫn-nại giúp cho chúng-sanh thọ-trì kinh này, song không dám tự phụ sức mình,
nên nói hộ trì được đó là nhờ thần lực của Như-Lai.
Kinh nói: 'Bấy giờ Dược-Vương Bồ-tát và
Ðại-Nhạo-Thuyết Bồ-tát
cùng hai vạn Bồ-tát đều ở trước đức Phật thệ rằng: 'Cúi xin đức Thế-Tôn chớ lấy thế làm lo, sau khi đức Phật diệt-độ, chúng con sẽ phụng-trì đọc tụng diễn nói kinh này. Chúng-sanh trong đời ác
sau này căn lành càng ít, nhiều tăng-thượng-mạn, tham lợi cúng-dường, thêm căn chẳng lành, xa lìa giải-thoát, dầu khó giáo-hóa được, chúng con sẽ khởi sức đại nhẫn đọc tụng kinh này, phụng-trì, biên chép, các thứ cúng-dường chẳng tiếc thân mạng ...
Lại có hàng học vô-học tám nghìn người được thọ-ký cũng phát thệ rằng: 'Thế-Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi nước khác rộng diễn thuyết kinh này. Vì trong quốc độ Ta-bà này người nhiều tánh tệ-ác, ôm lòng tăng-thượng-mạn, công-đức cạn mỏng, sân trược dua dối, tâm không thiệt vậy...
Na-do-tha chúng Bồ-tát bạch Phật ...
Chúng con chẳng mến thân mạng chỉ tiếc đạo vô-thượng. Chúng con nơi đời sau hộ-trì Diệu-Pháp của đức Phật phó-chúc. Trong các tụ-lạc, thành ấp, có người cầu đại pháp, chúng con là sứ thần của đức Phật, ở trong chúng con sợ sệt. Chúng con sẽ khéo nói pháp, mong đức Phật an lòng.
14.- AN-LẠC-HẠNH PHẨM
Nhơn vì vừa rồi hàng Thinh-văn cùng chúng Bồ-tát phát nguyện trì kinh, Thinh-văn thời nguyện ở tha-phương, Bồ-tát thời nói dùng sức nhẫn nại để đương lại với những điều hoạn nạn khó khăn ở thời mạt thế, ý của ngài Văn-Thù cho rằng: dầu dùng nhẫn-lực để trì kinh cũng đã hay, song không bằng làm
thế nào để cho khỏi có xảy ra những điều hoạn nạn khó khăn thời ổn thỏa hơn, nên ngài bèn thưa thỉnh cùng đức Thế-Tôn. Ðức Thế-Tôn liền nói bốn hạnh an-lạc, các vị pháp sư trì kinh Pháp-Hoa ở đời ác sau, nếu có đủ bốn hạnh này thời có thể vì chúng-sanh nói kinh Pháp-Hoa khỏi các
chướng-nạn, thường thường được an-vui.
Bốn hạnh an-lạc là:
1.- Hành-xứ và thân-cận-xứ. Chỗ sở-hành và chỗ thân cận của Bồ-tát phải thường tương ưng với tánh giới, bề trong thời an trụ nơi đệ-nhứt-nghĩa thật-tướng, bề ngoài thời xa những mầm nạn những ác-hạnh, tránh tất cả những điều cơ-hiểm.
Tương-ưng tánh giới; an trụ thật-tướng thời tâm an, xa tránh ác-hạnh, cơ hiểm, mầm-nạn thời thân an, thân và tâm an thời vì chúng-sanh nói kinh Pháp-Hoa tất khỏi bị chướng-ngại.
Cũng có vị Cổ đức cho rằng hành-xứ cùng thân-cận-xứ là thân nghiệp an-lạc-hạnh. Lấy ý mà suy thời cùng với nghĩa trên vẫn cũng tương đồng.
2.- Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp và khéo nói pháp, làm cho mọi người đều hoan hỉ thời khỏi chướng nạn mà được an vui, chính là khẩu-nghiệp an-lạc-hạnh vậy.
3.- Dứt trừ những tánh đê hèn, như dua dối, ghét ganh v.v... tức là nơi tâm xa rời tất cả phiền não cấu trược, kính trọng người trên, không khinh kẻ dưới, được như thế thời không xúc ngổ tâm mọi người, khỏi những điều oán hận mà tự mình được an-vui. Ðây thuộc về ý-nghiệp an-lạc-hạnh.
4.- Bồ-tát ở đời sau phải sanh lòng từ-bi thệ-độ tất cả, như thế thời không xa bỏ chúng-sanh thường nguyện giáo-hóa, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chán. Ðây tức là thệ-nguyện an-lạc-hạnh vậy.
Ðủ bốn hạnh trên đây thời là đủ sức thủ-hộ giảng-thuyết kinh Pháp-Hoa ở đời ác trược vị-lai, khỏi chướng nạn, được an-ổn vui-vẻ.
Bốn hạnh này là phép tắc của đức Thế-Tôn truyền dạy để giữ-gìn gia-nghiệp vĩ-đại của đấng cứu thế, tất cả luật hạnh oai nghi đều gồm nhiếp trong 4 hạnh này, người xuất gia trong đời mạt pháp, nếu có thể giữ hạnh này hoàn toàn, thời có thể gọi là chẳng phụ ân sâu của Ðức Thế-Tôn vậy.
15.- TÙNG ÐỊA DŨNG
XUẤT
Trong phẩm này đại-ý là để hiểu rõ tự-tâm khi phát ngộ, thời hằng-sa tánh đức hiện tiền, mới cùng tột đến chỗ cực diệu trì kinh Pháp-Hoa vậy.
Dầu rằng đã có rất nhiều Thanh-Văn cùng Bồ-tát phát nguyện trì kinh, nhưng Thanh-Văn tự lượng sức không đủ, chẳng kham ở Ta-bà mà nguyện truyền diệu-pháp ở tha phương, các vị Bồ-tát dầu đông nhưng vẫn hữu hạn. Thế-giới vô-biên, chúng-sanh vô-tận, kinh Pháp-Hoa lại khó trì thứ nhứt, như trong phẩm hiện bửu tháp nói: 'Nếu có người để cõi đại địa trên móng chơn mà bay lên cõi Phạm-Thiên cũng chưa lấy làm khó, đây là rất khó... nếu có người trì tám muôn bốn nghìn pháp tạng, mười hai bộ kinh vì người diễn nói, làm cho những người nghe pháp đều đặng sáu món thần-thông nhẫn đến chứng A-La-Hán cũng chưa lấy làm khó, sau khi Phật diệt-độ, nếu có người phụng-trì kinh điển như thế này thời rất khó...'
Xứ rộng vô-biên người đông vô-lượng, pháp lại khó trì thứ nhứt, mà người hoằng-pháp có số hạn thời thật là khó nỗi hoàn-toàn, tất phải có một số đại Bồ-tát vô-lượng vô-hạn, công việc trì kinh mới được trọn vẹn, mà đức Thế-Tôn mới thật an lòng. Vì cớ này nên các vị Bồ-tát ở hạ phương đúng thời dũng-xuất để ứng tâm của đức Thế-Tôn.
Ðức Phật trước khước từ lời nguyền hộ trì kinh nơi cõi Ta-bà của tám hằng-hà-sa Bồ-tát ở tha phương, chính để hiển rõ ý từ ngoài đến không quí bằng tự nhà có sẵn. Cho nên đức Phật nói: 'Cõi ta-bà của ta tự có sáu vạn hằng-hà-sa chúng đại Bồ-tát, mỗi vị Bồ-tát đó đều có sáu vạn hằng-hà-sa quyến thuộc, những người đó có thể lúc sau khi ta diệt-độ, kham hộ trì đọc tụng giảng nói kinh này ...' Ứng theo lời Ðức Phật đại địa rúng nức, vô-lượng nghìn muôn ức Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, đến tháp báu lễ Phật ...
Ðến đây thời kiến chấp sanh-diệt dứt, lâu mau đồng thời, cho nên năm mươi tiểu kiếp mà cho như trong khoảng bữa ăn. Do vì xứng tánh đức mà thành hạnh, nên bốn vị thượng-thủ trong vô-lượng Bồ-tát đều dùng chữ 'Hạnh' đặt tên Chính là ý dùng tánh đức thành hạnh này trì kinh, mới đúng với bổn-hoài của Phật.
Tánh đức hiện tiền trọn chẳng phải là tâm-thức có thể lường biết được, cho nên ngài Di-Lặc Bồ-tát cùng tám hằng-hà-sa Bồ-tát đều sanh lòng nghi. Nhẫn đến không biết đặng một người; các vị Thị-Giả của mười phương chư Phật cũng đồng thưa hỏi.
Ðây không phải là
duyên sự nhỏ, không phải là dễ tin cho nên đức Phật trân trọng răn gắng, bảo trước khi nghe lời đức Phật tuyên bày, phải mặc giáp tinh-tấn, phát ý kiên-cố, mới khỏi sanh lòng nghi sợ.
Ðức Như-Lai nói: 'Nay đức Như-Lai muốn hiển phát tuyên thị trí-huệ của chư Phật, sức thần-thông tự-tại của chư Phật, sức sư-tử phấn-tấn của chư Phật, sức oai-mãnh đại-thế của chư Phật'. Tất cả công-đức quảng-đại thâm-diệu của chư Phật đều gồm đủ trong những lời sẽ nói của đức Như-Lai há lại là việc nhỏ thay! Xét đây thì thấy rằng ý-chỉ trong đoạn văn của đức Phật sắp tuyên bày rất sâu, không thể dùng tri-kiến thông thường mà đến được, mà đúng thật như thế, nên lúc đức Phật nói các đại-chúng Bồ-tát từ đất vọt lên đó, đều là từ khi đức Như-Lai thành đạo giáo-hóa khiến cho đó phát tâm, thời ngài Di-Lặc và chúng-hội đều sanh lòng nghi. Bởi vì chính mắt các ngài thấy đức Như-Lai từ khi thành đạo đến nay mới trải qua hơn 40 năm. Những người được đức Phật giáo-hóa đều đủ mặt tại hội Linh-Sơn.
Còn đại-chúng Bồ-tát đó, chúng-hội không biết mặt được một người, huống nữa là đại-chúng Bồ-tát đó đều đã nhiều đời nhiều kiếp vun trồng cội đức căn lành mới đặng đầy đủ thần-thông đạo-hạnh như thế, đức Như-Lai mới thành đạo đây, sau lại nói các vị đó ban đầu do đức Phật giáo-hóa mà phát-tâm. Vì vậy nên các ngài nói dụ 'cha trẻ con già' thuật lòng nghi ngờ của mình, để cầu đúc Như-Lai giải quyết, chẳng những để quyết nghi cho chúng-sanh ở đời vị-lai. Phẩm kế đức Như-Lai tự nói thọ-lượng để quyết nghi vậy.
16.- NHƯ-LAI THỌ-LƯỢNG PHẨM
Do vì vừa rồi ngài Di-Lặc cùng chúng-hội nghi việc đức Thế-Tôn mới thành Phật trong thời gian ngắn mà thế nào giáo hóa thành tựu được vô-lượng đại Bồ-tát từ nhiều kiếp huân-tu công-đức, cho nên đức Thế-Tôn tự nói thọ-lượng của Phật. Vì vậy cơ-duyên giáo-hóa, đức Như-Lai dùng sức bí-mật thần-thông hiện thân ra nơi đời, tất cả chúng-sanh đều cho rằng: nay đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni Phật giáng-sanh nơi cung vua dòng họ Thích, ngồi nơi đạo tràng thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Ðây là chúng-sanh chỉ biết một phần
tích-môn quyền-hiện của đức Thế-Tôn. Nhưng kỳ thật về bổn-môn chơn-thật, thời từ khi đức Thế-Tôn thành Phật đến nay trải qua vô-lượng vô-biên trăm ngàn muôn ức
na-do-tha kiếp.
Ðức Thế-Tôn hiển-bày tự bổn và tích để phá kiến chấp sanh diệt của hàng nhị-thừa, để hiển pháp-thân thường-trú, tùy cơ-duyên khắp ứng để giáo-hóa, hoặc ẩn hoặc hiện đều vô-ngại. Ðủ thấy trí-huệ của Như-Lai phương-tiện độ sanh rất sâu vô-lượng, khó hiểu, khó vào.
Người ngộ đạo tu hành, nếu chẳng đạt pháp-thân thời trọn chẳng phải chơn ngộ, đều còn thuộc về tri-kiến chúng-sanh, chớ chưa phải Phật-tri-kiến.
Phẩm 'hiện-bửu-pháp' ở trước, mượn đức Ða-Bửu Như-Lai để hiển bày pháp-thân chơn-cảnh, mà trong chúng hàng hội chỉ tin Ða-Bửu mà chưa tin Thích-Ca đồng là một thân một sức trí-huệ; mặc dầu từ khi tháp báu hiện ra đến đây, hai đức Như-Lai đồng ngồi chung một tòa sư-tử trong tháp. Bởi hàng Thinh-Văn cố-chấp sanh diệt pháp, tập quán quá sâu, chỉ nhận đức Phật nói pháp bắt đầu từ vườn Lộc nơi thành Ba-La-Nại đó là chơn thật Thích-Ca Mâu-Ni Như-Lai thôi, chẳng còn lại biết Chơn-Phật bổn thật. Lại nghe đức Như-Lai nói sắp sẽ diệt-độ, thời càng tăng-trưởng kiến giải sanh diệt. Dầu đã được thọ-ký, nhưng chỉ mới tin lời của đức Như-Lai chớ chưa thấy được tâm của đức Như-Lai, chưa thấy Phật-tâm thời thật khó thành-tựu Phật-quả vậy, vì còn chưa phải chơn-ngộ thời chỗ tu-hành cũng chẳng phải chơn-tu, ngộ cùng tu không phải chơn làm thế nào kết chơn-quả được. Cứ đây mà suy, thời thấy rằng từ trước, những phương-pháp khai-thị của đức Thế-Tôn thi-thiết đó đều thuộc về tùy-cơ phương-tiện, dầu cũng có lúc ám-chỉ chơn-thường cùng thác sự hiển thật-tướng, song chưa lộ bày rõ rệt, đến phẩm thọ-lượng này thời thật là đức Thế-Tôn trải hết bổn-tâm bày hết thần-lực, chỉ rõ toàn thể pháp-thân mà nói thọ-lượng vô-lượng.
Pháp-thân chơn thường là
chỗ mà tất cả chúng-sanh khó hiểu khó vào, mặc dù Phật có hết cách trải bày, nên trước khi tuyên nói, đức Như-Lai ba phen đinh-ninh dặn bảo đại-chúng nên gắng tin lời nói chắc thật của đức Như-Lai, rồi lại chờ chúng-hội ba phen cần cầu thưa thỉnh, lòng khát ngưỡng đã thiết, rồi sau đức Như-Lai mới nói. Vì nếu trong lòng chưa quyết chắc lời Phật thời tình-thức phân-biệt dễ sanh, mà tình-thức phân-biệt là bức trường-thành ngăn cách Pháp-thân, là con đường đi
ngược hướng của thật-tướng. Và cũng vì Pháp-thân của Như-Lai thường-trú, hiện diệt-độ mà không thiệt diệt-độ khó hiểu khó vào, nên tiếp đó đức Như-Lai nói dụ: 'Thầy-thuốc' vì chữa bịnh cho các con mà phương-tiện nói chết, kỳ thật thời vẫn còn.
Ngộ được Pháp-thân chơn-thường này thời mới là chơn-ngộ, chơn-ngộ mà tu thời tu là chơn-tu là chơn-nhơn, dùng chơn-nhơn mới kết thành chơn-quả được.
Ðến phẩm đây thời đức Như-Lai hiển lý đã viên-mãn, mà cũng là đã thổ lộ hết cả bổn loài
vậy.
Kinh nói: 'Tất cả người, trời,
a-tu-la trong đời đều nói đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, sanh trong cung vua dòng họ Thích, ngồi nơi đạo-tràng cách thành Già-Da không bao xa mà chứng
thành đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Nhưng thiệt thời từ Ta thành Phật đến nay, đã vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức
na-do-tha kiếp... Ta tuy theo chúng-sanh, nên dùng phép gì để được độ, nơi nơi nói
danh-tự không đồng, niên kỷ lớn nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ vào Niết-bàn... Vì muốn cho chúng-sanh sanh các căn lành nên dùng ngần ấy nhơn-duyên
thí-dụ ngôn-từ nhiều cách nói pháp, chỗ làm Phật-sự chưa từng tạm bỏ. Ta thành Phật đến nay rất là lâu xa như thế, thọ-mạng vô-lượng vô-số kiếp thường-trú bất-diệt... Nhưng nay chẳng phải thiệt diệt-độ mà bèn xướng rằng sẽ diệt-độ, đức Như-Lai dùng phương-tiện đó để giáo-hóa chúng-sanh... Vì nếu đức Phật ở lâu
trong đời, những chúng-sanh hạ tiện thấy đức Như-Lai thường còn không diệt bèn sanh lòng kiêu-tứ biếng trễ... Nay nghe đức Phật nhập diệt, tất sẽ sanh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm lòng luyến-mộ khát-ngưỡng nơi Phật bèn vun trồng căn lành, cho nên Ðức Như-Lai dầu thiệt chẳng diệt-độ mà nói diệt-độ... Như thầy thuốc chước khéo vì để trị cuồng-tử, thiệt còn mà nói chết... Ta thường tự nghĩ rằng: lấy vì cho chúng-sanh đặng vào đạo Vô-thượng mau thành-tựu thân Phật'.
17.- PHÂN-BIỆT
CÔNG-ÐỨC PHẨM
Do nghe đức Phật nói thọ-mạng dài xa, đã ngộ pháp-thân thường-trú, cùng trước thấy ba phen biến cảnh tịnh-độ, đã rõ ba cõi duy-tâm sở-hiện, đây bèn là dùng chơn tín-giải để làm chơn-nhơn, có thể khế-hiệp chơn quả thường-trú của Như-Lai, dùng đây trì kinh mới đặng diệu-lợi. Bởi pháp-thân vẫn thường-trú ở thế-gian, cảnh tịnh-độ không rời cõi trược nên đức Thế-Tôn khuyên gắng trong chúng-hội: nếu có người quán được như thế, phải biết đó là tướng thâm tín-giải. Thâm tính-giải là tin và hiểu Pháp-thân thường-trú duy-tâm chơn-cảnh. Thân và cảnh đây rất sâu rất diệu, tin hiểu được thời công-đức vô-lượng vô-biên nên sau khi đức Phật nói thọ-lượng rồi, tuyên nói đó đến vi-trần số Bồ-tát đắc pháp lợi, để chứng thành công-đức diệu-ngộ Pháp-thân thường-trú. Diệu-ngộ đã cùng tột, thời mới thật là chơn trì kinh.
Do đây nên biết rằng: chơn
trì-kinh chính tại diệu-ngộ, chẳng phải chỉ một mặt thế-gian văn tự, cho nên đức Như-Lai phân biệt công-đức trì-kinh bất-khả tư-nghì siêu-việt tất cả hữu-vi công-đức vậy.
18.- TÙY-HỈ CÔNG-ÐỨC PHẨM
Dầu rằng vừa rồi đức Thế-Tôn phân biệt công-đức của người trì-kinh đã là thù-thắng vô-lượng, nhưng còn muốn cho rõ thêm công-đức lợi ích bất khả tư-nghì, nên trong phẩm này lấy công-đức một niệm tùy hỉ của người lần lượt nghe pháp thứ năm mươi, còn gấp bội hơn phước đức của nhà đại-thí-chủ trải tám mươi năm đem thất bảo và đồ tư-sanh, bố thí cho tất cả bốn loài chúng-sanh trong bốn trăm muôn ức vô-số thế-giới, cùng giáo hóa cho cả thảy đều chứng tứ thánh quả. Huống là công-đức của người ban đầu nghe pháp mà sanh tâm tùy-hỉ, có thể nào nghĩ hay bàn đến đặng.
Ðại khái trong phẩm đây cùng cùng tột hiển bày sự lợi ích rộng lớn thù-thắng của kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa này, chú ý để làm cho tâm nguyện của hàng nhị-thừa và sơ-tâm Bồ-tát được bền vững chắc chắn vậy.
19.- PHÁP-SƯ CÔNG-ÐỨC PHẨM
Trước đã rộng khen công-đức trì-kinh, nay trong phẩm này nói vị Pháp-sư trì-kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa liền đặng sắu căn thanh-tịnh, để chỉ rõ sự lợi ích thù-thắng của Pháp-Hoa tam-muội, chính đương hiện tiền lên bực bất thối, để phát khởi lòng tinh-tấn không nhàm mỏi cho đương-hội và vị-lai.
Về phẩm Pháp-sư trước trong phần khai Phật-tri-kiến, chỉ nói nhiệm-vụ của năm cách trì-kinh Pháp-Hoa. Ðến phẩm này mới chánh
chỉ rõ công-đức trì-kinh của Pháp-sư được diệu-đức thù-thắng tại hiện-tiền. Bởi chủng-tử Phật tánh cần phải nhờ duyên huân mới sanh trưởng phát hiện, Phật-tánh sanh phát thời huệ-mạng chẳng dứt. Huân-trường nhờ nơi Pháp-sư nên công-đức rất là thù-thắng vô-lượng.
Nhưng kinh nói: 'Nếu có người thiện-nam thiện-nữ thọ-trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm nhãn công-đức, một nghìn hai trăm nhĩ công-đức, tám trăm tỉ công-đức, một nghìn hai trăm thiệt công-đức, tám trăm thân công-đức và một nghìn hai trăm ý công-đức.
Mắt thường của người đó thanh-tịnh thấy suốt cả vật sắc trong tam-thiên đại-thiên thế-giới; lưỡi thường của người đó thanh-tịnh nói thông vô-lượng pháp; thân thường của người đó thanh tịnh ảnh hiện cả vạn vật trong đại-thiên thế-giới; tâm ý của người ấy thanh-tịnh rõ biết vô-lượng pháp, thông đạt vô-lượng nghĩa, biết tất cả tâm niệm của mọi loài, kham lãnh thọ tất cả pháp của tất cả Ðức Phật....
20.- THƯỜNG-BẤT-KHINH
BỒ-TÁT PHẨM
Từ trước, trong nhiều phẩm nói công-đức trì-kinh rất thù-thắng, đến đây Ðức Phật chỉ rõ công hạnh trì-kinh bền vững như thế nào, kết quả như thế nào, nên Ðức Phật tự thuật tiền thân của Ðức Phật để chứng thật.
Ðức Phật tự nói thuở quá-khứ lâu xa vô-lượng kiếp về trước, trong thời tượng-pháp của Phật Oai-Âm-Vương, Ðức Phật là một vị Bồ-tát tên Thường-Bất-Khinh, trì kinh Pháp-Hoa này chỉ chuyên
đem Phật-huệ bình-đẳng giáo-hóa chúng-sanh. Nhẫn đến nhiều phen bị hủy nhục, nào bị mắng nhiếc, nào bị đánh đập v.v... mà vẫn tuyệt nhiên không hề móng một niệm chán nản, cũng không chút giận hờn cũng không biết mỏi nhọc.
Do đức nhẫn nại trì-kinh kiên cố như thế mà hiện thân trong đời đó được sáu căn thanh-tịnh, biện-tài vô-ngại, thần-thông quảng-đại, tuổi thọ thêm dài, vì mọi người mà nói kinh Pháp-Hoa, những người trước kia khinh hủy Bồ-tát, lúc thấy Bồ-tát được đạo-lực thần-thông như thế đều trở lại kính tin. Nhờ công-hạnh trì-kinh Pháp-Hoa thuở xưa như thế nên hiện ngày nay mới đặng thành Phật.
Công-hạnh trì-kinh Pháp-Hoa kết thành diệu-quả rộng lớn hiện thật của Ðức Phật, đủ để khuyến-tấn hàng nhị-thừa cùng sơ-tâm Bồ-tát nếu tuân theo qui-phạm đó mà trì-kinh Pháp-Hoa trong thời mạt-thế sau
này, thời dầu có gặp muôn nghìn nghịch-duyên chướng ngại, cũng có thể không nhàm không nản, mà tâm-chí không bị thối-đọa.
Kinh nói: ...Bất-Khinh
Bồ-Tát
qua đến chỗ của tứ-chúng cố chấp nơi pháp kia mà bảo đó rằng: Ta chẳng dám khinh quý ngài, quí ngài hành đạo đều sẽ đặng
thành Phật'. Những người đó nghe Bồ-tát nói thế, bèn khinh hủy mắng nhiếc. Bất-Khinh Bồ-tát hay nhẫn thọ. Khi tội Bồ-tát hết rồi, đến lúc mạng chung đặng nghe kinh này, sáu căn thanh-tịnh, do
sức thần-thông
thêm dài thọ mạng, lại vì mọi người mà rộng nói kinh này... Vì diễn nói kinh này đặng vô-lượng phước, lần lần đủ công-đức mau thành Phật-đạo. Bất-Khinh Bồ-tát thuở đó thời chính thân ta...
Ức ức muôn kiếp đến bất-khả-nghị lâu mới đặng nghe kinh Pháp-Hoa này. Ức ức muôn
kiếp đến bất-khả-nghị, các Phật-Thế-Tôn mới nói kinh này, đời đời gặp Phật, mau thành Phật-đạo.
Từ phẩm Ðề-Bà-Ðạt-Ða đến đây đều lo những việc về sự Tỏ-ngộ trì-kinh, nay tuân theo công-hạnh của đức Phật vậy sau mới là
trì-kinh được tinh thuần vậy.
21.- NHƯ-LAI THẦN-LỰC PHẨM
Từ trước đức Thế-Tôn rộng nói công-đức trì-kinh lại thuật công-hạnh trì-kinh của Phật, đây thời đương-cơ pháp-hội chỗ viên-ngộ đã cùng tột, bổn nguyện xuất-thế của đức Thế-Tôn đã thỏa mãn. Kế lại vô-lượng chúng Bồ-tát từ đất vọt lên phát thệ trì-kinh. Chúng-hội hiện tiền đã viên-ngộ, quần sanh ở vị-lai, cũng sẽ được bảo-vệ vững-vàng, cho nên đức Như-Lai vui lòng bèn tận hiện thần-lực mà ấn chứng, và cũng chỉ pháp-giới bình-đẳng cho đương cơ, làm cho chúng-hội, hiện-tiền thấy Phật-cảnh, đương-hạ nhận tịnh-độ, để hiển bày sự lợi-ích của diệu-pháp đã trọn vẹn, Ðức Thế-Tôn sắp sẽ đem gia-nhiệp của Pháp-vương mà phó chúc vậy.
Chúng Bồ-tát từ đất vọt lên phát thệ làm duyên khải phát đó, chính để chỉ rằng, tánh đức nơi tự-tâm đầy đủ mới thật là toàn-thể của Pháp-Hoa.
Ðức Như-Lai liền hiện sức thần-thông khắp thân tất cả chân lông đều phóng ánh sáng soi khắp mười phương thế-giới, lưỡi rộng dài đến trời Phạm-Thế, tiếng vang khắp mười phương, cõi đất sáu diệu vang động, đó là toàn thân thổ lộ, triệt để khích dương vậy. Ðương hội chư Phật, tất cả cũng đều phóng ánh-sáng hiện tướng lưỡi rộng dài, tiếng vang khắp mười phương đó là hiểu rõ nghĩa 'Phật-Phật đạo đồng' vậy.
Thập phương chúng-sanh đều ở tại cõi mình mà đồng thấy cõi ta-bà, thấy bảo-tháp, thấy các Ðức Như-Lai, thấy chúng-hội v.v..., đó chỉ rằng: hễ tình-mê cố chấp thời tri-kiến chỉ hạn cuộc trong gang tất, nay nhờ thần-lực của Ðức Phật tình chấp tạm thông nên chỗ thấy triệt thấu.
Thập-phương xướng truyền đức Phật, cùng kinh Pháp-Hoa, chúng-sanh mười phương cũng
đồng
quy-kính, đó là hiểu nghĩa: Phật, tâm và chúng-sanh cùng tương ưng, tất cả mọi loài đồng đủ tự-tánh Phật tri-kiến vậy.
Mười phương thế-giới thông-đạt không ngại như một cõi Phật; chính là soi rỗng pháp-thân chơn-cảnh để tiêu tâm hẹp hòi hữu hạn của sơ-tâm cùng nhị-thừa vậy.
Thần-lực của đức Phật quảng-đại tự-tại như thế, mà đức Như-Lai còn nói rằng: Dầu ta có dùng thần-lực trải qua vô-lượng vô-biên trăm nghìn muôn ức vô-số kiếp cũng
không hề nói hết công-đức của kinh Pháp-Hoa này, đó chính bởi vì
kinh này gồm nhiếp tất cả pháp của Như-Lai, tất cả thần-lực của Như-Lai, tất cả tạng bí-yếu của Như-Lai cùng tất cả sự-vụ của Như-Lai.
Cũng vì thế nên ý nghĩa của kinh này rất rộng sâu vi-diệu, vì rộng sâu vi-diệu nên khó tin hiểu, vì khó tin khó hiểu nên từ lâu đức Như-Lai vẫn không tuyên nói, đến nay thời cơ đã phải lúc nên đức Như-Lai mới hiển bày.
Vì ý nghĩa của kinh
rộng sâu
vô-hạn, nên người tin hiểu tỏ ngộ phụng-trì diệu-pháp này thời công-đức cũng rộng sâu vô-hạn chẳng thể nghĩ bàn được.
Kinh nói: 'Chư Phật trụ nơi đại thần-thông,
vì để vui đẹp lòng chúng mà hiện vô-lượng thần-lực; tướng lưỡi đến Phạm-thiên thân phóng vô-số quang-minh... Tiếng tằng-hắng cùng tiếng khảy móng tay của Phật vang khắp cả mười phương, cõi đất sáu điệu vang động. Bởi sau khi đức Phật diệt-độ, các Bồ-tát trì được kinh này, nên các đức Phật đều vui-mừng hiện vô-lượng thần-lực...
Sau khi đức Như-Lai diệt-độ phàm chỗ nào có người thọ-trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này, đều nên dựng tháp cúng-dường. Phải biết chỗ đó chính là đạo-tràng, các đức Phật ở nơi đây chuyển pháp-luân, các đức Phật ở nơi đây nhập Niết-bàn'.
22.- CHÚC-LỤY PHẨM
Ðức Phật từ trước đã nhiều phen khai-thị hiển lý đã viên mãn, chúng hội ngộ tự bổn-tâm đã thấu đáo, lòng tín-giải đã chơn, như thế thời chơn-nhơn thành Phật đã đầy đủ. Vô-lượng đại Bồ-tát thệ quyết dốc lòng trì-kinh ở vị-lai, đức Như-Lai đã hiện đại thần-thông ấn chứng để cho tâm-chí kia vững chắc. Ðến đây, đức Như-Lai đem kinh này hai ba phen đinh ninh thận trọng phó
thác dặn dò các đại Bồ-tát gắng-gỗ hộ-trì ở tương-lai để cho Phật-chủng khỏi tổn dứt. Nếu có thể hộ-pháp lợi sanh thời là báo ơn các đức Phật.
kinh nói: 'Bấy giờ đức Phật từ pháp-tòa
đứng dậy hiện đại thần-lực, lấy tay hữu xoa đảnh của vô-lượng đại Bồ-tát mà
bảo rằng: Ta
trải qua vô-lượng trăm nghìn muôn ức vô-số-kiếp, tu tập pháp vô-thượng khó đặng này nay đem phó-chúc cho các ông, các ông phải dốc lòng
thọ-trì đọc tụng tuyên nói rộng truyền pháp này làm cho tất cả chúng-sanh đều đặng nghe biết...:'
Các ông nếu đặng như vậy thời là đã báo ơn các đức Phật...
Từ phẩm 'Chúc-lụy' này về trước gồm có 11 phẩm thuộc về phần 'ngộ Phật-tri-kiến'. Sau khi nhờ đức Như-Lai chỉ thị Pháp-thân chơn-cảnh trong phần 'thị Phật-tri-kiến' mà đặng tỏ ngộ, lần đến phẩm 'dũng xuất', 'thọ-lượng' chỗ tỏ ngộ mới chơn, đến phẩm 'thần-lực' chỗ tỏ ngộ được viên-cực, mà phẩm 'chúc-lụy' là ngộ-trì hoàn mãn vậy. 'Ngộ Phật-tri-kiến' tức là ngộ tự-pháp-thân tự-pháp-thân chính là thể-tánh bình-đẳng, chúng-sanh và Phật vẫn đồng, mình người không khác.
Mình người đã đồng không khác, thời người tức là mình do đây mà có sự trì kinh ở vị-lai. Trì từ nơi ngộ mà khởi, nên toàn trong phần 'ngộ Phật-tri-kiến' này, phần nhiều nói về việc trì-kinh. Tự-ngộ chính là tự-trì, ngộ tha tức là tha-trì. Trì từ ngộ khởi thời trì mới tinh, ngộ có trì ngộ mới diệu. Như thế thời tự-độ độ-tha, độ-tha chính là tự-độ, đó là chơn thật Bồ-tát hạnh vậy.
Gồm cả ba phần: Khai, thị, ngộ, 22 phẩm thuộc về phần 'tín-giải' trong 'tín giải hạnh chứng' đều là hiển lý nên thuộc về 'chơn' trong 'nhơn-quả'.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Thông Nghĩa
Đại Sư
Hám Sơn, Giảng Giải
Hòa Thượng
Thích Viên Giác, Việt dịch
Phẩm Đề Bà Đạt Đa Thứ Mười
Hai
Đại ý phẩm này là liên
quan với mười phẩm dưới cùng chung ý nghĩa Ngộ tri kiến Phật.
Ở trước đã khai thị ba
châu chỉ bày tri kiến Phật. Hàng nhị thừa chỉ tin tâm này mà thôi, tuy tin chân
tâm mà chưa đạt được diệu cảnh gọi là thị Phật tri kiến. Từ đây trở xuống là ngộ
Phật Tri kiến.
Các vị Thanh văn dù tin
tâm mình là Phật, nhưng vì trải qua nhiều kiếp vô minh chưa hết. Từ lâu tri kiến
của họ yếu kém và tập khí chưa mất, tuy nói là tin hiểu mà còn thuộc về tri thức
phân biệt. Cần phải dùng nhiều phương tiện, diệu hạnh để điều trị, mới đắc pháp
thân thanh tịnh. Sợ họ khi vào thế tục độ sinh, không khéo dùng phương tiện, cần
chuẩn bị cho họ các phương thức để giữ gìn. Từ nơi diệu hạnh mà được ngộ nhập,
để họ không rơi vào phàm tình. Không sinh tâm lo sợ.
Đây chính là lòng từ bi
rộng lớn của Đức Như Lai, đó là ý nói là “Để phương thuốc lại”. Từ đây trở xuống
trình bày chung về hạnh và chứng, trong kinh văn đều có phần riêng. Như đã nói
phần này thuộc ngộ tri kiến Phật, nên lấy Đề Bà Đạt Đa làm tên của phẩm, muốn
nói sự giác ngộ khó mà dễ, đều lấy hành trì làm căn bản. Do các vị Thanh văn từ
lâu ôm lòng lo sợ Phật đạo dài xa nên không khởi tâm mong cầu, dù họ mong được
thọ ký. Hơn nữa Thanh văn còn trải qua nhiều kiếp mới được chứng quả, sợ họ yên
trí nghiệp xưa mà không chịu kích thích lòng ước nguyện. Cho nên Đức Thế Tôn tự
dẫn chứng việc xưa của mình, tuy làm vua mà không tiếc thân mạng để mong cầu Diệu
pháp, hành trì khổ hạnh đến nay chứng quả Bồ đề. Đây là giác ngộ khó vì tiệm ngộ.
Nhưng sợ hàng hạ liệt sợ khó mà không tiến tới nên nói việc Văn Thù giáo hóa
Long nữ mới bảy tuổi thành Phật để thấy việc thành Phật là dễ. Vả lại biển là
nơi sinh tử chìm đắm, Long nữ là đứng đầu trong tam tộc. Nữ là khí âm tà ô trược
rất khó giáo hóa, thế mà trong khoảng khắc dâng hạt châu lập tức thành Phật, thế
không dễ sao? Đây là đốn ngộ vậy. Nhờ nương tựa bậc Đại trí làm chỗ quy hướng,
ý muốn nói chúng đương cơ sau khi Phật diệt độ nên gần gũi bậc tối thắng tri thức
mới có thể đạt được giác ngộ tột cùng, vĩnh viễn không rơi vào cõi Nhị thừa.
Cho nên lấy Ngộ làm đầu để lập Tiệm Đốn, do vậy mà có phẩm này.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo chư Bồ tát” đến câu: “Tinh cần cấp thị linh vô sở phạp” (Lúc bấy giờ Đức Phật
bảo các vị Bồ tát… cung cấp hầu hạ cho tiên nhân không thiếu thốn).
Đoạn này Phật tự trình
bày sự khó khăn nỗ lực cầu diệu pháp đã qua của mình để cảnh tỉnh tâm lười biếng
của Nhị thừa.
Nói rằng: “Trong vô lượng
kiếp cầu kinh Pháp Hoa không có lười biếng và mệt mỏi”, đó là tâm cầu diệu pháp
không chỉ trong một kiếp. Huống chi trong nhiều kiếp thường làm vua một nước mà
luôn tinh tấn mong cầu, đó không phải là người tầm thường. Hơn nữa vì cầu diệu
pháp mà bố thí voi, ngựa, các vật sở hữu … là “Ngoại thí”. Bố thí đầu, mắt… là
“Nội thí” xã bỏ ngôi vua là “Bố thí tất cả”. Mong có người nói Diệu pháp để
nguyện trọn đời theo hầu, phục dịch tinh cần nhẫn nại là “Vong ngã đến tận
cùng”.
Bấy giờ có vị tiên nhân
đáp lại nguyện vọng của vua mà nói Diệu pháp đó là “Cảm ứng của lòng tinh tấn
thành khẩn”. Vua nghe tin liền vui mừng đi theo hầu hạ khổ cực không chán nản,
cho đến lấy thân làm ghế, ngồi mà không mệt mỏi, trải qua thời gian dài đến
nghìn năm mà không bỏ cung cấp đầy đủ. Đây là tâm cầu pháp chịu khổ sở khó khăn
lâu dài như vậy. Hàng Nhị thừa hiện tiền được thọ ký, mỗi người tự xét lại tâm
cầu pháp của mình có tinh tấn thành khẩn như vậy không? Ta nay vì họ thuyết
Pháp vương đại bảo, mọi người không mong cầu mà tự được. Thế có phải là tầm thường
dễ thấy không? Trong tương lai phải trải qua việc phụng sự nhiều Đức Phật, phải
kiên cố phù hợp với tâm như thế của ta thì mới gọi là người trì pháp. Người xưa
nói “ Đã ngộ ra rồi giữ gìn (cái ngộ) ấy là khó”. Nếu được thành quả thánh nên
trước hết nói ngộ tâm phải căn cứ ở đây.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa” đến câu: “Kim cố vị nhữ thuyết” (Bấy giờ Đức Thế
Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên … nay vẫn vì ông nói).
Câu: “Ta nhớ thuở quá khứ”
trở xuống 22 câu, nói tổng quát về sự tinh cần cầu pháp thuở xưa của Đức Thế
Tôn. A Tư Đà nghĩa là vô tỷ, là bổn sư quá khứ của Phật. Nếu pháp mà có sự so
sánh thì không thể làm cho người mong cầu quên thân đến như vậy. Câu: “Khắp vì
các chúng sinh” trở xuống 8 câu, là nói sự khó khăn của cầu pháp thuở xưa, mà
nay nói cho mọi người quá dễ, muốn cho đại chúng biết mà tôn trọng.
3. Từ câu: “Phật cáo chư
Tỳ kheo” đến câu: “Giai nhân Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố” (Phật bảo cáo Tỳ
kheo rằng… Đều là nhân thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa cả).
Đoạn này Phật kể lại người
thầy xưa, nay chính là Đề bà Đạt Đa. Chính là muốn nói sự khắc khổ là nhân
duyên thành Phật.
Đề bà Đạt Đa có nghĩa là
thiên nhiệt, khi sinh ra tâm của trời người đều nóng, nên lấy sự kiện ấy đặt
tên. Còn nữa, mẹ ông cầu trời mà sinh nên gọi là thiên thọ, là con của Họ Phạn
Vương, là em đồng họ với Phật. Tuy nhiên vì hành nghịch hạnh nên đời đời chuyên
tâm hại Phật, nay càng nặng nề, thường lấy chất độc giấu trong 10 ngón tay, chờ
khi lễ Phật tiếp xúc với chân Phật bấu vào. Nhưng chân Phật không bị thương mà
móng tay bị hư gãy. Lại cùng với vua A Xà Thế âm mưu giết Phật để tự mình lên
thay, vua thả 500 voi say đến chà Phật, nhưng Phật lấy ngón tay chỉ thì hiện
con sư tử, bầy voi liền bị nhiếp phục. Lại xô đá lớn đè Phật, địa thần ngăn đá
lại, đá bể ra từng mảnh nhỏ, trúng chân Phật chảy máu, do đó bị rơi vào địa ngục.
Đức Phật sai người đến thăm, hỏi ông ở đây được an ổn không? Ông liền đáp: Ta ở
đây vui như ở Tứ thiền thiên. Lại hỏi: Ông bao giờ ra khỏi địa ngục? Đáp: Đợi
chừng nào Đức Thế Tôn vào địa ngục ta mới ra. Các loại ngũ nghịch đến như vậy
cái hại của chúng không phải chỉ một đời.
Đề bà Đạt Đa là tiên
nhơn thuyết Diệu pháp ngày xưa, do đó nói Đề bà Đạt Đa là thiện tri thức đã làm
cho ta đầy đủ sáu pháp Bala mật, Tứ vô lượng tâm.v.v… Nhờ đó mà thành chánh
giác, rộng độ quần sinh. Như Lai hôm nay có được Phật quả đều do Đề bà Đạt Đa
tác thành, ân đó rất lớn không thể nói hết được. Thật ra đều là làm hại mà Đức
Thế Tôn coi trọng như thế, đủ biết Phật quả khó thành. Còn gọi là “Hoặc thị hiện
oan gia, dùng oán hại để bức bách, phải kiên cố đức nhẫn tinh tấn không lui”. Nếu
không như thế thì làm sao có được ngày hôm nay! Điều gọi là Nhất xiển đề chẳng
phải là Nhất xiển đề, giải thoát thế gian do ai mà chuyển hóa!
Thế Tôn nói lại việc
này, do phẩm trước nói tận cùng cái khó của sự giữ gìn Diệu pháp. Đời ô trược
có nhiều oán hại, ngài muốn hàng Nhị thừa vừa được thọ ký, là người giữ gìn
kinh trong tương lai, ở nơi đời ô trược, nên quán việc Đức Như Lai nhờ sự hãm hại
của Đề bà Đạt Đa, coi đó là mô phạm. Sau đó mới có thể làm cho pháp được an trụ
lâu dài.
4. Từ câu: “Cáo chư tứ
chúng” đến câu: “Phát Bồ đề tâm, chí bất thối chuyển” (Phật bảo hàng tứ chúng…
phát tâm Bồ đề đến bậc bất thối chuyển).
Đoạn này Đức Phật thọ ký
cho Đề bà Đạt Đa, mà không liệt vào hàng đệ tử. Vì đó là bổn sư của Đức Thế
Tôn, hơn nữa nhờ rèn luyện đức hạnh mà nhẫn lựa của Như Lai càng kiên cố. Do vậy
mà thành tựu Bồ đề, được coi là bước đầu để giữ gìn sự giác ngộ và là mô phạm
cho người trì kinh ở đời ác trược.
Phật hiệu là Thiên
vương, nghĩa là do oán hại làm cho sức mạnh nhẫn nhục của Phật càng kiên cường,
đạt đại tự tại mà cảm ứng kết quả như thế. Nước tên là Thiên đạo nghĩa là các
Phật thành đạo chưa thấy ai không do cần khổ tu nhẫn mà thành, đó là lý tự
nhiên. “Thường nói Diệu pháp” vì trong nhân duyên ban đầu lấy Diệu pháp mà giáo
hóa Đức Thế Tôn, nên quả trên gọi là Thường thuyết chúng sinh nghe Diệu pháp đều
được quả tam thừa. Chính là bày tỏ ý nghĩa Pháp chỉ có một mà căn cơ thì có nhiều.
Khi Phật Thiên vương diệt
độ rồi, người cúng dường tháp được quả tam thừa, do từ nơi nhân hạnh mà cảm ứng
ra như vậy.
5. Từ câu: “Phật cáo chư
tỳ kheo” đến câu: “Liên hoa hóa sinh” (Đức Phật bảo các Tỳ kheo … Hoa sen hóa
sinh).
Đoạn này nói trong tương
lai có người nghe phẩm này tin kính không hoài nghi thì vĩnh viễn không đoạ vào
3 đường ác, cho đến nếu sinh ở trước Phật thì từ hoa sen hóa sinh. Do thấy Thế
Tôn cầu pháp khó khăn, gặp nhiều hãm hại, oán cừu mới được thành tựu; đối với
diệu pháp tinh tấn hành trì, kiên nhẫn không thối lui, nên gặt được quả báo thù
thắng như vậy.
6. Từ câu: “Ư thời hạ
phương” đến câu: “Khả hoàn bổn độ” (Bấy giờ ở hạ phương … sẽ về bổn độ)
Đoạn này nói ở phương Hạ
ngài Trí Tích Bồ tát thỉnh Phật Đa Bảo nên trở về bổn độ, đã chứng minh xong
pháp sự, không nên ở lâu. Ý tiêu biểu sự chúng ngộ chưa mất, còn có chấp pháp.
Khi không còn một dấu vết gì, năng sở đều mất mới được diệu ngộ. Thiền tông bảo
rằng: “Khi ngộ thì một chữ cũng phải nhã bỏ mới là hiện tượng phản bổn hoàn
nguyên”. Đức Thích Ca giữ ngài Đa Bảo lại chờ ngài Văn Thù, là tiêu biểu cho sự
chứng ngộ diệu pháp, phải dung thông quán chiếu, trừ hết pháp chấp mới là tận
cùng vi diệu của sự trì pháp. Nên đợi Văn Thù cùng gặp mặt để luận thuyết diệu
pháp.
7. Từ câu: “Nhĩ thời Văn
Thù Sư Lợi” đến câu: “Khước toạ nhất diện” (Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi … rồi ngồi
một phía).
Đoạn này nói ngài Văn
Thù ngồi trên hoa sen quý từ biển lớn vọt lên. Tiêu biểu cho người giác ngộ
chân tâm như hoa sen nở, trí tuệ mầu nhiệm hiện ra trước mắt từ trong biển tạng
thức tự nhiên hiển lộ. Đến trước Phật đảnh lễ hai vị tôn túc, đó là “Trí thỉ
giác” hiệp với “Bổn giác”. Qua chỗ ngài Trí Tích hỏi thăm là hai trí tương hội.
Nếu không như vậy không đủ để nói là Diệu ngộ.
8. Từ câu: “Trí Tích Bồ
tát vấn” đến câu: “Kỳ sự như thị” (Ngài Trí Tích Bồ tát hỏi … việc đó như thế).
Đoạn này nói ngài Trí
Tích hỏi về chúng sinh mà ngài Văn Thù giáo hóa. “Nói số chúng sinh là vô lượng
không thể tính đếm”, ý là trong biển lớn sinh tử, trong hang nhà tam độc nếu
không phải là Đại trí thì không thể thâm nhập. Nếu không đi sâu vào thì không
thể chuyển hóa phiền não thành diệu hạnh. Nhờ trí tuệ khởi lên mê hoặc tan biến,
nên vô số phiền não thể tức đều thanh tịnh. Do vậy mới có vô số Bồ tát ngồi
trên hoa sen báu đến núi Linh thứu trụ ở trên hư không. Phiền não một khi đã
chuyển hóa thì tất cả công hạnh đều là Phật hạnh. Cho nên họ đều tu hạnh nghĩa
không của Đại thừa. Do đó ngài Văn Thù nói: “Ta ở trong biển giáo hóa việc đó
như thế”.
9. Từ câu: “Nhĩ thời Trí
Tích Bồ tát” đến câu: “Linh tốc thành Bồ đề” (Lúc ấy ngài Trí Tích Bồ tát … khiến
mau thành bồ đề).
Đoạn này là ngài Trí
Tích ca ngợi ngài Văn Thù.
Bốn câu đầu, nói nếu chẳng
phải là bậc đại trí mạnh mẽ thì không thể giáo hóa nhiều chúng sinh như thế. Bốn
câu kế, nói nếu chẳng phải là Diệu pháp thì không thể chuyển biến mau chóng như
vậy.
10. Từ câu: “Văn Thù Sư
Lợi ngôn” đến câu: “Diệu pháp hoa kinh” (Ngài Văn Thù Sư Lợi nói … Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa).
Đoạn này ngài Văn Thù Sư
Lợi đáp lại kệ trước, nghĩa là chỉ thường nói Kinh Diệu pháp Liên Hoa không có
pháp khác. Ý hiển lộ sự thành tựu mau chóng của diệu pháp. Cho nên dưới mới hỏi
có thể có người được thành tựu Phật mau chóng chăng!
11. Từ câu: “Trí Tích vấn
Văn Thù” đến câu: “Tốc đắc Phật phủ” (Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn Thù … Mau đặng
thành Phật chăng?).
Ngài Trí Tích hỏi lại
ngài Văn Thù: Nói Diệu pháp thâm sâu, có thể có chúng sinh nương theo mà tu
hành mau thành Phật không? Câu hỏi này quan trọng ở chỗ trình bày công năng của
Diệu pháp là thành tựu rất nhanh chóng.
12. Từ câu: “Văn Thù Sư
Lợi ngôn” đến câu: “Tiện thành chánh giác” (Ngài Văn Thù Sư Lợi nói … chúng
thành bậc chánh giác).
Đoạn này ngài Văn Thù
khen ngợi sự lợi căn của Long nữ mới tám tuổi, nương theo Diệu pháp tu hành mà
có thể tức khắc chứng Bồ đề, đây chính là người đó vậy (tức là trả lời câu
trên).
Trong biển có nhiều loại
ba độc, các uế trược, thân nữ yếu đuối mà có thể đầy đủ uy đức thù thắng như vậy.
Chính là hiển lộ ý nghĩa sinh tử ô trược, phiền não, thể của nó là trí dụng
thành Phật, nên nói có thể đến Bồ đề. Hơn nữa nói trong sát na phát tâm tức đắc
bất thối, đó gọi là sức mạnh của một niệm làm chuyển hóa. Việc này bậc thường
tình khó tin ngài Trí Tích sinh nghi rằng: Đức Thích Ca nhiều kiếp tu nhân mới
được Bồ đề, vì sao Long nữ trong khoảng khắc thành tựu được chánh giác! Còn gọi
là được ý chỉ này thì đồng với chư Phật trong sát na. Mất đi cánh cửa này thì
phải tu nhân nhiều kiếp! Đó là hiển lộ công năng thù thắng của diệu pháp, không
phải phân biệt lâu mau, tịnh hay uế mà có thể đo lường được.
13. Từ câu: “Ngôn luận vị
ngật” đến câu: “Độ thoát khổ chúng sinh” (Nói luận chưa xong… Độ thoát khổ
chúng sinh).
Đoạn này Long nữ xuất hiện
chứng quả đã làm tan đi tình chấp nhỏ hẹp nơi tướng. Chấp Đức Thích Ca tu lâu,
thấy tội cấu của Long nữ, đó đều là không đạt được tánh không của tội phước. Chỉ
có ngài Văn Thù đại trí thấy khắp mới hiểu không có tướng sai biệt, đều bình đẳng
làm gì có chậm nhanh! “Ta xiển dương Đại thừa giáo hóa độ chúng sinh thoát khổ”
là ý nói chỉ trì diệu pháp để độ chúng sinh vậy.
14. Từ câu: “Thời Xá Lợi
Phất ngữ” Đến câu: “Tốc đắc thành Phật” (Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất nói … đặng
mau thành Phật).
Đoạn này ngài Xá Lợi Phất
sinh tâm nghi để hiển thị cái nhìn chấp tướng của Nhị thừa.
Như cái nhìn của ngài Xá
Lợi Phất, thân nữ có năm chướng ngại tuyệt đối không có cơ hội thành Phật. Đây
là chấp thủ chung của thường tình. Vì không đạt pháp tính vốn không, không có
tướng nam nữ, tịnh uế. Biết vậy mới có thể vào được thật tướng bình đẳng.
15. Từ câu: “Nhĩ thời
Long nữ hữu nhất” đến câu: “Diễn thuyết Diệu pháp” (Lúc đó Long nữ có một… Diễn
nói pháp mầu).
Đoạn này Long nữ tự thị
hiện nhanh chóng thành Phật.
Cái yêu thích của loài rồng
là hạt châu, nay Long nữ cúng dường hạt châu trong khoảng khắc liền được thành
Phật. Đó tiêu biểu cho khả năng đoạn trừ nhanh chóng tham ái thì Phật tính hiện
tiền, đó gọi là tuệ giác bẩm sinh ở tâm không nhờ bên ngoài. “Long nữ đột nhiên
biến thành nam tử”, biểu thị cho Phật tính bất định không có tính nam nữ, để
phá sự chấp tướng của hàng Nhị thừa. Qua phương Nam là nói minh chánh là nam,
tiêu biểu cho rời khỏi sự ám độn của vô minh thì tạng tính hiển hiện. Phật thể
hiện tiền tức thì qua phương Nam, thế giới vô cấu, ngồi trên hoa sen báu mà
thành chánh giác.
Do từ diệu pháp mà được
ngộ, cho nên vì mọi chúng sinh mà diễn thuyết Diệu pháp. Vì Xá Lợi Phất sinh
tâm nghi mà Long nữ lập tức biến thành nam tử thành Phật. Như vậy để khích lệ
hàng nhị thừa, rằng mỗi người đều là bậc trượng phu không phải người nữ yếu đuối
vậy.
16. Từ câu: “Nhĩ thời Ta
bà thế giới” đến câu: “Mặc nhiên tín thọ” (Khi ấy trong cõi Ta bà … yên lặng mà
tin nhận đó).
Đoạn này nói pháp hội được
lợi ích.
“Thế giới vô cấu chấn động
sáu cách”, là chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh, là biểu tượng của đốn ngộ do
tâm. Chúng sinh cõi Ta bà ở cõi bất thối mà được thọ ký. Nhân do Long nữ kích
phát mà thâu hoạch được lợi ích. Ngài Trí Tích, Xá Lợi Phất và đại chúng, lòng
nghi được giải tỏa nên yên lặng tin nhận.
Phẩm này trình bày sức
nhẫn kiên cố, qua sự tinh cần của Đức Thích Ca mà tự mình không có tâm mệt mỏi.
Biết Long nữ mau chứng Bồ đề, tự mình không sợ Phật đạo dài xa. Đây là Đức Thế
Tôn phương tiện giáo hóa hàng Bồ tát vậy.
Phẩm Trì Thứ Mười Ba
Đại ý phẩm này là ở phẩm
trước chúng hội đã được khai thị và thọ ký, tuy vậy còn phải trải qua nhiều kiếp
mới được thành Phật. Đức Thế Tôn sợ rằng hàng tiểu thừa tập khí thấp kém chưa hết,
sinh tâm sợ con đường thành Phật dài lâu nên ngài tự nêu ra sự khó khăn cầu
pháp ngày xưa, để diệt trừ tâm mệt mõi. Lại lấy việc Long nữ lập tức thành Phật
để khích lệ lòng hâm mộ. Cho nên tiếp theo đây là phẩm Trì.
Kinh này là tuệ mạng của
chư Phật, là chánh nhân Phật tính của chúng sinh. Sau khi Như Lai diệt độ, con
người nhiều tệ hại và tội ác, rất khó phụng trì; nếu mất khả năng phụng trì thì
chủng tử Phật bị diệt. Đây là mối lo của Đức Thế Tôn. Các vị Bồ tát hiểu được ý
Phật, an ủi Đức Thế Tôn, xin ngài đừng lo, các vị đều nguyện phụng trì kinh và
sẽ truyền bá kinh này sâu rộng mà không tiếc thân mạng. Năm trăm đệ tử cùng với
các bậc hữu học, vô học đều lĩnh ý của Phật và đều phát nguyện truyền bá kinh
này đến các nước khác.Vì họ thấy cõi Ta bà nhiều người tăng thượng mạn, họ tự
lượng sức mình không thể hóa độ được.
Bấy giờ mẹ kế của Phật
cùng các Tỳ kheo ni … từ trước đến nay tự thấy thân nữ nhiều chướng ngại không
dám mơ ước quả vị Phật. Nay thấy Long nữ thành Phật một cách dễ dàng, thì cũng
tự tin mình có cơ hội thành Phật, nên xin Thế Tôn thọ ký cho mình. Do đó họ
cũng nguyện truyền bá kinh này đến các nước khác, nhờ họ thấy tâm mình không thối
chuyển.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nhìn
tám mươi ức Na do tha Bồ tát mà không nói lời nào. Ý là các vị Thanh văn tuy
phát nguyện trì kinh mà chưa thực hành hạnh ở trong đời mà cứu độ đời, chưa biết
phương pháp tránh các tai hoạ và pháp lực chưa đủ, e bị tai họa, làm cho duyên
pháp không rộng. Ngài muốn các vị Bồ tát hộ trì cho. Các Bồ tát biết ý Phật nên
cùng phát thệ nguyện, sau khi Như Lai diệt độ sẽ đi khắp mười phương thế giới,
chỉ tu hạnh nhẫn để thọ trì kinh này. Tuy nhiên không phải do sức mình, mà đều
nhờ thần lực của Như Lai thủ hộ. Đây là để dẫn dắt kẻ sơ tâm, do vậy họ an ủi
Như Lai xin ngài đừng ưu tư. cho nên Phẩm lấy tên là Trì. Trì nghĩa là giữ gìn
đừng cho mất. Đối với thế tục, giữ gìn gia nghiệp là khó. Thí như ông Trưởng giả
giàu có đem hết gia nghiệp mà giao phó cho con. Nếu một khi mất đi thì mạch nguồn
đoạn tuyệt, đâu có thể việc nhỏ ư! Cho nên Kinh văn Phẩm này, chỉ nói việc trì
kinh để nói rõ ngộ mà giữ được là khó. Nên có phẩm này vậy.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Dược
Vương” đến câu: “Tâm bất thực cố” (Lúc bấy giờ ngài Dược Vương … Tâm không chân
thật).
Đoạn này, nhân vì đức Thế
Tôn ở đoạn trước nói hết sự khó khăn trì Kinh, ân cần khuyến khích. Hơn nữa nói
rằng: Ai có thể hộ trì Kinh này thì tự nói lời thệ nguyện, cho nên ngài Dược
Vương và ngài Nhạo Thuyết phát lời nguyện phụng trì. Ngài Dược Vương thì quên
thân xả chấp, còn ngài Nhạo Thuyết thì có đủ khéo nói và biện tài. Đó gọi là “Lấy
tâm không giải đãi mới có thể trì kinh”, nên hai ngài đứng đầu trong chúng mà
phát nguyện. Điều lo của Đức Thế Tôn là đời mạt pháp khó trì Kinh này, vì nhiều
người tệ ác. Do vậy Dược Vương nguyện trì. Trước tiên thuật về người tệ ác, vì
thiện căn thiếu kém, khó có thể giáo hóa. Muốn trì kinh phải khởi sức mạnh nhẫn
nhục, chẳng tiếc thân mạng. Ở đây chính là nhập Như Lai thất … và cung cấp hầu
hạ tiên nhân, cần khổ để cầu pháp ở trước. Như vậy mới có thể trì được.
Do hai vị đại sĩ khích lệ
hàng nhị thừa phát khởi thệ nguyện trì kinh. Cho nên năm trăm vị A la Hán cùng
lúc phát nguyện Trì Kinh, sau đó không dám đi qua cõi Ta bà, mà xin ở nước khác
rộng thuyết Kinh này.Đủ thấy tâm của hàng tiểu thừa hẹp hòi, chưa thể bỏ ngay
được.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
Di mẫu” đến câu: “Quảng tuyên thử kinh” (Khi đó Di mẫu của Phật … Tuyên nói
Kinh này).
Đoạn này Di mẫu mong được
thọ ký, bà cùng đem các Tỳ kheo ni phát khởi tâm trì kinh.
Hàng đại chúng thuộc nữ
nhân theo Phật 6000 người, đều là người mới nhập đạo, mà mẹ kế của Phật đứng đầu.
Trước cho rằng thân nữ nhiều chướng ngại, không có cơ hội làm Phật. Nay thấy
Long nữ thành Phật, nên hy vọng được thọ ký. Có điều không dám xin thẳng, nên lấy
mắt nhìn Như Lai với tâm lo lắng, tha thiết, Đức Như Lai gọi tên họ mà bảo rằng:
Các người sở dĩ có vẻ lo lắng mà nhìn Như Lai, có lẽ sợ rằng ta chẳng gọi tên
các người mà thọ ký sao! Tuy nhiên trước đây ta đã nói tổng quát cho 1200 Thanh
văn đều được làm Phật. Các người nay muốn đặc biệt biết thọ ký sao! Ngươi cùng
với 6000 Tỳ kheo ni sẽ phụng sự sáu vạn hai ngàn ức Phật, đều làm pháp sư, do
nhân duyên thuyết pháp này dần dần đầy đủ đạo Bồ tát, sẽ được làm Phật hiệu là
Nhất thiết chúng sinh Hỷ Kiến. Nhờ nói pháp khai thị cho chúng sinh đều được
hoan hỷ mà cảm ứng được danh hiệu như vậy.
Sáu ngàn người ấy lần lượt
được thọ ký. Mẹ của La Hầu La là Tỳ kheo ni Gia Du Đà La lòng cũng muốn được thọ
ký. Đức Thế Tôn đặc biệt thọ ký cho, bảo rằng: Ngươi ở đời vị lai cũng phụng sự
nhiều Phật làm đại pháp sư, dần dần đầy đủ Phật đạo, tương lai thành Phật hiệu
là Thiên Vạn Quang Tướng. Do vì trong nhân duyên làm vợ của Phật mà không dính
mắc si ái, giúp cho Phật thành tựu được vạn đức, lại còn thuyết pháp khai thị
tâm tính cho chúng sinh, nên thành Phật hiệu là Thiên Vạn Quang Tướng. Khi đã
được thọ ký rồi cũng nguyện trì kinh. Nhưng chỉ ở phương khác truyền bá kinh
này, vẫn sợ cõi Ta bà. Do vì hàng sơ học, pháp lực chưa đầy đủ.
3. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Tha phương diêu kiến thủ hộ” (Bấy giờ Đức Thế Tôn … Ở phương
khác xa giữ gìn cho).
Đoạn này Đức Thế Tôn nhìn
lại tám mươi muôn ức Na do tha Bồ tát, miệng tuy không nói nhưng trong lòng
nghĩ rằng: Hàng nhị thừa yếu kém không thể ở nơi thế giới này mà tuyên thuyết
kinh, ta muốn các vị Bồ tát này ở thời mạt pháp hộ trì kinh. Đó gọi là “Phó
chúc có nơi” vậy. Bởi vì các vị Bồ tát này đều ở địa vị bất thối, chứng đắc
pháp môn Tổng Trì, là chúng ở mười phương tụ hội lại, có thể gánh vác nổi.
Các vị Bồ tát đều khế hợp
với tâm Phật, nên cung kính thuận theo ý Phật, lại muốn tự mình tròn đủ bản
nguyện. Vì vậy họ ở trước Phật, rống tiếng như sư tử, phát nguyện rằng: “Chúng
con nguyện sau khi Đức Như Lai diệt độ, sẽ đi qua lại trong 10 phương thế giới
mà hộ trì kinh này, chẳng phải chỉ một quốc độ Ta bà”.
Đoạn trước Đức Thế Tôn
đã nói: “Ai có thể hộ trì kinh này tự phát lời thệ nguyện” cho nên các Bồ tát
này đã hiểu sâu ý Phật, họ còn nguyện Đức Thế Tôn dù ở phương xa nhìn thấy và
giữ gìn cho họ.Thời mạt pháp khó trì, nên phải nhờ sức oai thần của Phật vậy.
4. Từ câu: “Tức thời chư
Bồ tát” đến câu: “Phật tự tri ngã tâm” (Tức thời các vị Bồ tát … Phật tự rõ
lòng con).
Ngày nay một hội Linh
sơn, Đức Thế Tôn có thể hoan hỷ, vì các hàng tam thừa đã khế hợp Phật tâm, mọi
người đều được thọ ký. Điều lo của Phật là ở trong đời ác kinh này khó trì, và
cũng khó chứng đắc. Người kiên nhẫn mạnh mẽ mới trì được. Đây là nỗi lo của Thế
Tôn, sơ Phật chủng bị đoạn tuyệt. Các hàng thanh văn đã được thọ ký đều không
thể làm xong. Vì vậy chỉ lặng nhìn các Bồ tát vân tập, các vị Bồ tát này kính
thuận theo ý Phật, thệ nguyện hoằng dương và phụng trì. Cho nên 4 câu tụng đầu
là nói kính thuận ý Phật, vào đời ác mà nguyện trì. Từ đây trở xuống là nói sự
nhẫn các tai nạn đã qua, để nói lý do vì sao khéo trì.
Câu: “Có những người vô
trí” trở xuống 4 câu, là nói chung về người tệ ác, sau sẽ là loài ma đi xuất
gia. Từ câu: “Tỳ kheo trong đời ác” trở xuống 4 câu, là nói chung kẻ tà mạng xuất
gia. Câu: “Hoặc người mặc áo nạp” trở xuống 8 câu, là nói loài ma giả danh tu
hành. “A Luyện Nhã” gọi là chỗ vắng lặng, giả danh tu hành là lấy giả làm thật,
vọng tưởng cho mình là lớn như bậc Ala Hán có sáu thần thông. Từ câu: “Người đó
ôm lòng ác” trở xuống 12 câu, là tâm nhẫn được việc ác. Nói tình trạng phá Phật
pháp như ngụy tạo kinh điển, tham cầu lợi dưỡng, hủy báng bậc hiền, thật sự là
ma vậy. Từ câu: “Thường ở trong đại chúng” trở xuống 14 câu, là nhẫn được sự hủy
báng và phá hoại Phật pháp. Đây là các Tà mạn rất khó nhẫn, đều nhẫn được cả. Từ
câu: “Trong đời ác kiếp trước” trở xuống 12 câu, là tụng nhẫn việc ác. Như nói
đem việc ác để khủng bố, là bị ác quỷ dựa vào mà làm hại. Hoặc mắng nhiếc, hạ
nhục. Do vì kính tin Phật nên nhẫn được các nạn này, thân mạng còn chẳng tiếc
huống việc xâm hại ư! Nói “Chỉ tiếc đạo vô thượng” bởi vì coi trọng chủng tử huệ
mạng của Phật, ngoài ra tất cả đều không tính đến. Điều quan trọng vẫn là phó
chúc hộ trì Phật pháp. Câu “Thế Tôn tự nên biết” trở xuống 10 câu, là nói nhẫn
được sự xua đuổi, nghĩa là khi nói kinh điển này, có hàng Tỳ kheo trong đời ác,
không biết đây là do Phật tùy cơ duyên mà nói, họ lại cho rằng các ông tự ngụy
tạo, do đó lớn tiếng hủy báng, hoặc có nổi oán ghét, thậm chí đuổi đi không cho
ở chùa, tháp… Đức Thế Tôn tự biết sẽ có những người này. Chúng tôi nhớ đến tấm
lòng phó chúc và khuyến cáo của Phật, thì sẽ nhẫn chịu tất cả điều ác đó. Thật
vậy, Phật pháp khó truyền rộng.
Hàng bạch y sinh lòng hủy
báng còn có nguyên do, còn đây đều là đệ tử xuất gia của Phật mà tự phá hoại,
người xuất gia mà chưa tin thì ai có thể tin được! Giống như con trùng trong
thân con Sư tử tự ăn thịt con Sư tử. Đức Phật cũng không biết làm sao nữa! Nổi
lo của Thế Tôn chính là việc này đây. Nếu không có sức mạnh nhẫn nhục kiên trì,
làm sao có khả năng chịu được sự oán hại này!
Câu: “Các thành ấp xóm
làng” trở xuống 8 câu, là nói khi ở nơi chốn nói pháp, nếu có người đến cầu thì
tôi đều đích thân đến chỗ đó để thuyết những pháp mà Đức Phật phó chúc. Vì ta
là sứ giả của Phật, dựa vào uy lực của Phật mà không sợ gian nan, đều thuyết cặn
kẽ. Xin Đức Thế Tôn an tâm đừng lo lắng. Bởi lẽ chủng tử Phật tánh nhất thừa,
đã được khai thị chính nơi Phật, còn ngộ nhập thì ở nơi cơ duyên. Cho nên người
tu hành nếu không kiên nhẫn để không thay đổi chí hướng, thì lấy gì mà ngộ nhập,
đạt đến thực tại! Vì vậy phải gần gũi bậc thiện tri thức điều phục, hộ trì, dần
dần đạt chỗ thâm sâu. Đức Thế Tôn ngày nay phó chúc giữ gìn kinh này, là hiển lộ
nhân duyên Phật tánh, nếu nhớ, tụng đọc kinh văn, thì có gì mà khó đạt!
Câu: “Con ở trước Thế
Tôn” trở xuống 4 câu, là nói kết thúc về ý chỉ. Ở trước trong bảo tháp Phật dạy
rằng: “Sau khi ta diệt độ, ai có thể hộ trì, đọc tụng kinh này, nay ở trước Phật
nên phát lời thệ nguyện”. Nên đây là lãnh ý chỉ của Phật, do đó thỉnh Phật Đa Bảo
và phân thân Phật để chứng minh.
Phẩm An Lạc Hạnh Thứ Mười
Bốn
Đại ý phẩm này, do phẩm
hiện Bảo tháp, Đức Như Lai đang cần người thọ trì Kinh. Đại chúng đều là mới học
đã được thọ ký, dù tuân theo lời dạy của Phật, nhưng đều sợ cõi Ta bà nhiều tệ
ác nên không dám dấn thân, mà nguyện qua cõi khác để tuyên dương Phật pháp.
Ngài Dược Vương và ngài Nhạo Thuyết thuận theo ý Phật, thề lấy đức kham nhẫn mà
phụng trì. Dù các ngài có thể hành trì, nhưng khả năng nhẫn chịu sự chê bai hủy
báng, không phải hạng sơ tâm làm nổi; cũng không phải là kế duy trì lâu dài.
Cho nên ngài Văn Thù đặc biệt vì đại chúng xin Phật dạy phương pháp trì kinh ở
thời mạt pháp, nhờ đó mà biết phương pháp giữ gìn tâm giác ngộ. Đức Phật vì
chúng mà nói về bốn hạnh an lạc.Ý muốn nói rằng các tai nạn ở nơi đời sống xấu
ác là tự mình chiêu cảm lấy, nếu mình tự có phương thức ứng xử thì tự nhiên các
nạn không đến.
Bốn hạnh được đầy đủ thì
có đủ sức giữ gìn tâm giác ngộ, mới đạt được chỗ vi diệu của sự trì kinh. Do vậy
nói về dụ “Kế châu” để trình bày công hạnh thứ nhất. Đó là lý do có phẩm này.
Chỉ có bốn hạnh này:
Hành xứ, Thân cận xứ, Thâm tâm và Đại bi tâm. Phân ra chương tiết để giải
thích, phần nghĩa có phần thích hợp, phần văn thì chưa rõ để hiểu. Các nhà chú
giải xưa thì cho rằng bốn pháp là: Chánh thân, Chánh ngữ, Chánh ý, Đại bi tâm.
Lời lẽ phân tiết rất rõ. Lời giải ở đây sẽ theo ý này. Bốn pháp này lấy tánh giới
làm chủ, cũng như Kinh Lăng Nghiêm lấy nhiếp tâm làm giới, từ đó mà vào vậy.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Văn
Thù Sư Lợi” đến câu: “Năng thuyết thị kinh” (Lúc bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi …
có thể nói kinh này).
Đoạn này nói ngài Văn
Thù, do các ngài Dược Vương và các Bồ tát thuận theo ý Phật phát nguyện đời sau
sẽ trì kinh, ngài đặc biệt vì hàng tân học Bồ tát xin Phật chỉ dạy phương pháp
trì kinh. Ngài muốn tất cả những người này có được phương thức tránh được tai
hoạ, không còn sợ các việc tệ ác nữa.
2. Từ câu: “Phật cáo Văn
Thù Sư Lợi” đến câu: “An trú tứ pháp” (Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi … An trụ
trong bốn pháp).
Đoạn này Đức Thế Tôn
nhân Văn Thù Sư Lợi thưa thỉnh Ngài liền nói về bốn hạnh an lạc. Dựa vào các
pháp này mà truyền bá kinh, thì có thể tránh các tai hoạ. Bốn hạnh là gì? Tức
là Chánh thân, Chánh ngữ, Chánh ý và Đại bi. Các vị Bồ tát đi vào đời làm lợi
ích cho chúng sinh không ra ngoài hai hạnh là tự lợi và lợi tha mà thôi. Ba
nghiệp chân chánh là tự lợi, hạnh đại bi là công đức lợi tha. Nếu ba nghiệp
không chánh thì mối hoạ sinh ra, nếu không có lòng bi mẫn thì đó là nguyên do của
tai họa. Đâu có phải là hợp với thế tục? Đây là Đức Như Lai thương mà dạy
nguyên tắc giữ gìn gia nghiệp. Cả hai hạnh tự lợi, lợi tha đều lấy trí tuệ làm
căn bản dẫn đạo. Nên ngài Văn Thù Sư Lợi mới đặc biệt thưa thỉnh.
3. Từ câu: “Nhất giả an
trú Bồ tát hành xứ” đến câu: “Thị danh Bồ tát Ma ha tát hành xứ” (Một là an trụ
nơi hành xứ … đó gọi là chỗ hành xứ của Bồ tát).
Đoạn này nói riêng pháp
hành xứ trong bốn pháp.
Trước hết là hạnh “Chánh
thân”. Ở trước phẩm Pháp Sư có dạy phương pháp trì kinh, nói rằng: Vào nhà Như
Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Nhà Như Lai chính là tâm từ bi, Aùo Như
Lai chính là tâm nhẫn nhục, tòa Như Lai chính là các pháp đều không. như thế là
nói đến tận cùng của sự tùy thuận thân cận. Nay bốn pháp này giải rộng nghĩa ấy.
Hành xứ, Cận xứ có hai hạnh
là Lý và sự. Nhưng đều lấy nhẫn nhục làm đầu. Đó gọi là mặc y Như Lai vậy. Nên
lời nói đầu của Hành xứ là: An trụ nơi nhẫn nhục, là nơi cứu cánh tịch diệt. Nhẫn
có ba: Sinh nhẫn, Vô sinh nhẫn, Tịch diệt nhẫn. Sinh nhẫn là sức nhẫn sự chửi mắng,
chưa hết chấp ngã. Ngã chưa mất thì làm sao quên được những trái nghịch kia! Vô
sinh nhẫn là những tai hoạ đến, chỉ cần quán tâm vốn không sinh; dù người kia
đem điều hại đến cho mình, mà tâm mình không sinh khởi thì không bị chúng làm
loạn động. Tuy nhiên tâm được an mà chưa quên vật (đối tượng) nên mới cảnh giác
là đừng có thân cận, để đề phòng cái tâm phân biệt (ác giác) và tập khí (ác tập).
Đó là thể nhập Vô sinh nhẫn. Tịch diệt nhẫn là quán thân tâm trong ngoài vốn tịch
diệt. Tịch diệt nên tâm cảnh đều mất, không có pháp đối đãi, hoàn toàn không thấy
các tướng chửi mắng hạ nhục. Cho nên có thể nhu hòa hiền hậu không có bạo động,
tâm không có gì sợ. Đây gọi là nhẫn nhục địa, mới gọi là vào nhà Như Lai.
Do đối tượng và chủ thể
đều diệt, nên không có người chửi mắng cũng không có người nhận sự chửi mắng,
tướng nhẫn cũng không. Gọi là đối với pháp vô sở hành. Nếu có sở hành tức là
nhân ngã chưa mất không phải là chỗ tịch diệt. Sở dĩ nói không thấy có sở hành,
do quán các pháp là như thật, nghĩa là thực tại là Tịch diệt, bản thể như như,
nên không thấy chỗ hoạt động của nhẫn cũng không phân biệt cái nhục để nhẫn,
đây là bình đẳng bất nhị. Chủ thể và đối tượng đều mất, tâm hành xứ diệt, đó gọi
là “ Lấy pháp không làm tòa”. Lý và Hạnh đều vi diệu. Đó gọi là Hành xứ.
4. Từ câu: “Vân hà danh
Bồ tát Ma ha tát thân cận xứ” đến câu: “Thị danh sơ thân cận xứ” (Thế nào là chỗ
thân cận của Đại Bồ tát? … đó gọi là chỗ thân cận ban đầu).
Đoạn này nói về thân cận
xứ ban đầu, lấy giới định làm căn bản.
Chuyên tâm giữ giới
không gần gũi những người không đáng gần gũi. Sợ rằng tập nhiễm điều ác làm hại
Chánh hạnh. “Không gần quốc vương” để đề phòng nhiễm tập khí phú quý và kiêu mạn
làm chướng ngại cho Chánh niệm. “Không gần các ngoại đạo” đề phòng tập khí tà
kiến. “Ni Kiền Tử” là người tại gia tà kiến. Nói “Không gần gũi văn chương chữ
nghĩa thế tục”.v.v… Vì đó là vọng ngôn. “Ỷ ngữ” là tạp luận, làm chướng ngại
Chánh tư duy. Nói “Lộ gia da đà” là ác luận thầy phá đệ tử, “Nghịch lộ gia da
đà” là ác luận đệ tử phá thầy, không nên gần, làm chướng ngại Chánh tri kiến.
Nói “Không gần gũi những người hung hiểm đánh đập lẫn nhau”, đề phòng tập khí
điên đảo tán loạn. Nói “Na la diên” nghĩa là sức mạnh (lực). “Chiên đà la” đây
gọi là nghiệm xí, nghĩa là dùng điều ác để làm tiêu chí của mình, làm chướng ngại
hạnh Tịch tịnh.
“Nuôi heo, dê”.v.v.. là
ác luật nghi, đề phòng tập khí sát, đạo. Những người như vậy mà đến thì vì họ
mà thuyết pháp để giúp họ tiêu trừ ác niệm, đó gọi là tâm đại từ đại bi vậy.
“Không gần người cầu quả Thanh văn”.v.v.. là đề phòng tập khí hẹp hòi của Tiểu
thừa. Kinh Lăng Nghiêm nói: Nên bỏ ngoại đạo, Tiểu thừa, ác kiến mà nghị luận.
Nên gần gũi bậc tri thức cao siêu. Nói rằng: “Chẳng thăm hỏi, cho đến không ở
chung” là đề phòng tập khí nhiễm dần dần. Họ đến thì vì họ mà thuyết pháp, giáo
hóa tập khí hẹp hòi ấy nhập vào đạo lớn, đó gọi là vào nhà Như Lai.
“Không gần gũi người nữ”.v.v…
đề phòng tập khí dâm dục. “Không gần người bán nam bán nữ” vì người này chẳng
phải là pháp khí, đề phòng tập khí nham nhở hẹp hòi. “Không đi một mình vào nhà
người khác” là đề phòng hiềm nghi tà vạy, sợ mất chánh niệm. “Thuyết pháp cho
người nữ không lộ răng cười cho đến vì pháp còn không thân cận” là vì đề phòng
cơ hội dẫn đến phá vỡ tâm giới. “Không nuôi một đệ tử trẻ tuổi”, sợ chướng ngại
hạnh an lạc. Suy xét nơi đáng gần hay không là căn bản của giới phẩm. Điều đó gọi
là giữ thân không làm, giữ tâm không khởi, đó là ba ngàn oai nghi, tám muôn tế
hạnh, không ra khỏi các điều ấy. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhân giới sinh định
nhân định phát tuệ” thường thích ngồi thiền thì định nương vào giới mà vững. Đó
gọi là nơi gần gũi ban đầu, thuộc về hành động cụ thể.
5. Từ câu: “Phục thứ Bồ
tát Ma ha tát” đến câu: “Đệ nhị thân cận xứ” (Lại nữa vị đại Bồ tát … chỗ thân
cận thứ hai của Bồ tát).
Đoạn này nói về thân cận
xứ thứ hai, lấy quán chiếu làm căn bản.
Ở trước đã nói là thuộc
giới không gần gũi các ác luật nghi, đề phòng huân tập ô nhiễm, giữ tâm không
khởi mà được vô sinh nhẫn. Còn đoạn này là quán tất cả pháp đều Không thuộc về
Tịch diệt nhẫn, đó gọi là “Các pháp không làm tòa”, tức là quán tất cả pháp thực
tại là không tịch, là chân thật tướng, không có một pháp nào để nắm bắt. Không
thấy có tướng điên đảo, động chuyển, sinh diệt, động hay loạn. Tuyệt đối không
động chuyển vì thể tánh là như như. Cho nên tâm cảnh như hư không, vốn không có
chỗ có. Tâm cảnh đã tịch diệt thì tất cả đều tịch diệt, do vậy ngôn ngữ chấm dứt.
Nếu được như vậy thì không có người hủy nhục ta, cũng không có người thọ lãnh.
Vì vắng bặt đối đãi nên không có tướng sinh diệt, gọi là vô danh vô tướng, tất
cả đều không. Ngôn ngữ, tư duy đều dứt gọi là vô lượng, vô biên, vô ngại, vô
chướng.
Quán các pháp là tịch diệt
nhưng không phải là đoạn diệt. Do nhân duyên tạm hòa hợp mà gọi là có, tất cả đều
do vọng tưỏng điên đảo mà sinh. Vì vậy mà có ngôn từ nói năng. Đây là cảnh tâm
an và tịch diệt. Đó gọi là trụ nhẫn nhục địa, nên trong Kinh Văn nói là: “Thường
ưa quán sát pháp tướng như thế”, là chỗ thân cận thứ hai. Hạnh vi diệu để trì
kinh trong đời ác không ngoài các điều này. Tuy gọi là chánh thân, thực ra ba
nghiệp đều tịch tịnh, bao gồm muôn hạnh, vào đời độ sinh. Không gì hơn đây vậy.
6. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Năng an lạc thuyết” (Lúc đó Đức Thế Tôn … có thể an lạc nói).
Câu: “Nếu có vị bồ tát”
đến câu: “Có thể an lạc nói” gồm 60 câu, là nói chung về hành xứ và thân cận xứ.
Sáu câu đầu, là nên lên tổng quát. “Thường xa lìa quốc vương” trở xuống 6 câu,
nói không gần gũi quốc vương, người hung hiểm, ác luật nghi, và ngoại đạo gồm bốn
việc vậy. Câu: “Cũng chẳng ưa gần gũi” trở xuống 20 câu, là nói không thân cận
người cầu tiểu thừa. Câu: “ Những gái goá, gái trinh” trở xuống 4 câu, là nói
không gần gũi phụ nữ và lưỡng tính. Câu: “Cũng chớ nên gần gũi” trở xuống 12
câu, là nói không nên gần gũi ba việc sát, đạo, dâm. Câu: “Chớ nên riêng chỗ
khuất” trở xuống 8 câu, là nói không vì người nữ mà thuyết pháp. Nói: “Khất thực
nên đem theo một tỳ kheo” là muốn nói những vị Thượng toạ A xa ølê cần ngăn ngừa
sự sơ suất, như ngài Anan không theo điều này mà gặp tai họa. “ Phải một lòng
niệm Phật” là muốn nói làm cho tâm luôn thanh tịnh. Câu: “ Đây thời gọi tên là”
trở xuống 4 câu, là tổng kết cả hai: Hành xứ và Thân cận xứ thuộc về hành động
cụ thể.
7. Từ câu: “Hựu phục bất
hành” đến câu: “Thuyết Pháp Hoa Kinh” (Lại cũng chẳng vịn theo… diễn nói kinh
Pháp Hoa).
Câu: “Lại cũng chẳng vịn
theo” trở xuống 32 câu, là nói chung lý và hạnh của hành xứ và thân cận xứ. Mười
câu đầu, nói pháp không có sở hành, nghĩa là khi tâm đã tịch chỉ thì không khởi
phân biệt. Nói: “Lại chẳng được các pháp” nghĩa là không có một pháp nào có thể
nắm bắt được, nên chẳng biết chẳng thấy. Đây là nói lý và hạnh của “Hành xứ”.
Câu: “Tất cả các món
pháp” trở xuống 22 câu, là nói lý và hành của “Cận xứ”. Câu: “Đều không chẳng
phải có”.v.v.. là nói quán tất cả pháp là không, là vô sở hữu, là tướng như thật.v.v…
Vì tư duy và ngôn ngữ đều dứt, nên tâm an trụ bất động. Câu: “Quán sát tất cả
pháp” trở xuống, là nói quán ý nghĩa là tất cả pháp như hư không. Vì vậy chúng
thường trụ nhất tướng. Câu: “Nếu có vị Tỳ kheo” trở xuống 6 câu, là nói tổng kết
cả hai hành xứ và cận xứ, được như trên thì có thể an lạc mà thuyết pháp. Nhờ
tâm không khiếp nhược mà được an lạc. Câu: “Vị Bồ tát có lúc” trở xuống 12 câu,
nói lý do không khiếp nhược, là Bồ tát khi vào thiền định tùy theo nghĩa mà
quán pháp. Nói quán sát các pháp như lý thì đạt được sự đúng đắn, nên từ thiền
định mà khởi dậy thuyết pháp, tâm rất an ổn không khiếp sợ. Câu: “Văn Thù Sư Lợi
này” trở xuống năm câu, là nói tổng kết về chánh thân vậy.
8. Từ câu: “Hựu Văn Thù
Sư Lợi” đến câu: “Nhất thiết chủng trí” (Lại Văn Thù Sư Lợi… Bậc nhất thiết chủng
trí).
Đoạn này là hạnh chánh
ngữ.
“Nên an trụ hạnh an lạc”,
tức là Hành xứ và cận xứ ở trên. Quán sát như lý, tâm đạt được không phân biệt,
như vậy phù hợp với chân lý, sau đó nói pháp, thì không có lỗi ở ngôn ngữ.
Không nói lỗi của kinh, vì đạt được thật tướng của các pháp, biết Phật tùy cơ
duyên mà nói pháp. Do vậy không nói pháp kia có lỗi. Nói lỗi như nói đó là pháp
thiền không, là trí tuệ tiểu thừa.v.v.. không khinh mạn các thầy khác vì không
có tướng ngã nhân. Nên không nói lỗi người. Đối với các vị thanh văn không nêu
danh chỉ lỗi, vì quán sát như lý nên không thấy người khác có lỗi. Không nêu
danh ca ngợi sợ không thấy đúng mà sinh hận. Không sinh tâm oán giận hiềm khích
vì không thấy có người hủy báng ta. Các người đến hỏi chỉ lấy pháp Đại thừa mà
trả lời làm cho họ được nhất thiết chủng trí. Đây chính là lòng đại bi, như vậy
có thể nói là khéo tu hạnh an lạc.
9. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn dục trùng tuyên” đến câu: “Thuyết bất năng tận” (Khi ấy Thế Tôn muốn tuyên
lại… nói chẳng thể hết đặng)
Đoạn này nói về Chánh hạnh.
Từ câu: “Vị Bồ tát thường
ưa” trở xuống 36 câu, là nói chung hạnh chánh ngữ. Mười câu đầu “An ổn thuyết
pháp”. Nói “Trong ngoài đều thanh tịnh”. An ổn nghĩa là trong thì tâm thanh tịnh,
ngoài thì nơi chỗ sạch dầu thoa, tắm giặt, y phục sạch. Dầu thơm thoa thân là
loại dầu tô hiệp, người Ấn độ lấy dầu ấy xoa thân, lấy mùi hương làm sạch. Ngồi
yên nơi pháp tòa, thì trong ngoài đều không. Tùy theo điều hỏi mà nói là không
nghịch ý người.
“Nếu có vị Tỳ kheo” trở
xuống 26 câu, là nói về nghi thức thuyết pháp. Bốn chúng, quốc vương.v.v.. là
nói chung những người cầu pháp. “ Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu” là chỉ dạy thật tướng
đại thừa. “Khuôn mặt từ hòa” là thuyết một cách hoan hỷ, tùy nghĩa lý mà trả lời,
phù hợp với căn cơ mà nói, đều giúp họ phát tâm, đó là đại từ bi vậy. “Trừ lười
biếng và trễ nãi”, tức là kẻ dũng mãnh tinh tiến, lấy Phật pháp làm niềm vui
nên xa lìa mọi ưu phiền. “ Ngày đêm thường tuyên nói” là nói sự tinh tấn tột
cùng làm sinh tâm hoan hỷ. Đó gọi là dạy cho họ được lợi ích và hoan hỷ.
“Y phục, ngoạ cụ” trở xuống
10 câu, là nói thuyết pháp thanh tịnh không mong cầu lợi lộc. “Nguyện thành Phật
đạo” nên lấy pháp cúng dường. Đó là điều thường nói: “Trong các pháp cúng dường,
cúng dường pháp là tối thượng” Nghĩa là lấy pháp làm niềm hạnh phúc tức là tự
nhận được sự cúng dường an lạc, nên không mơ ước bên ngoài.
“Sau khi ta diệt độ” trở
xuống 12 câu, là nói về hạnh nhẫn của phẩm trước. Do tâm được an nhẫn nên miệng
không nói lỗi, nhờ vậy mà có thể tránh được tai hại. Khi nói các tai nạn đều do
tự tâm không nhẫn mà có. Do an trụ nơi nhẫn nên gọi là “Binh không chỗ dùng
đao” nên không có chết chóc, tất cả đều không. Câu: “Người trí khéo tu tập” trở
xuống 8 câu, là nói kết luận hạnh chánh ngữ. Nghĩa là Bồ tát khéo tu tập tâm thức
có để đạt được an lạc, tự mình không có cái tai hoạ, thiện pháp ngày càng tăng,
người được giáo hóa ngày càng đông. Vì vậy công đức vô cùng tận, nói không hết
được.
10. Từ câu: “Hựu Văn Thù
Sư Lợi” đến câu: “Tôn trọng tán thán” (Lại Văn Thù Sư Lợi… cung kính tôn trọng).
Đoạn này nói về hạnh
Chánh ý.
Ý căn có các phiền não
ác mà tham, sân, si là đứng đầu. Tật đố thuộc sân, siểm khúc là đối với người
trên, cuống hoặc (khinh khi) đối với người dưới, là tham cộng với si. Khinh mắng
người học Phật là tìm chỗ hay chỗ dở sợ người hơn mình. Đó là nghiệp của ba độc.
Trong đời mạt pháp là
lúc ba độc hưng thịnh, người trì kinh vì muốn giáo hóa người cường bạo, mà lấy
tam độc, đối chọi với họ, chẳng khác nào lửa đã cháy lại thêm lửa, không thể tốt
lành được. Cho nên cảnh giác người trì kinh phải tự thanh tịnh tâm mình để
tương ưng với diệu pháp.
Từ câu: “Nếu hàng Tỳ
kheo” trở xuống, là trong bốn chúng có những người cầu mong con đường tam thừa,
thì mình đừng khoe khoang là học giả Đại thừa, làm rối lòng họ, làm họ nghi hối
mà mất đi bản hạnh. Nên dùng tâm từ bi để điều phục và nhiếp hóa họ dần dần tiến
bộ. Câu: “Nói với người đó rằng” trở xuống, là nói cái lỗi làm phiền não rối loạn
lòng người; đã không thể điều phục họ mà nói nghịch họ chê bai đường lối tu học
của họ rằng họ cách đạo rất xa không được Nhất thiết trí. Trách họ phóng dật …
lời trách thì phải nhưng dụng tâm thì trái, làm xúc động tâm lý kẻ khác. Vì vậy
họ sinh tâm phỉ báng là do tự mình gây ra vậy.
“Các pháp hí luận” nghĩa
là phân biệt pháp Đại thừa, Tiểu thừa, pháp không, pháp hữu, pháp phiến diện,
pháp toàn diện … cho đến khởi tâm tranh cãi. Những điều ấy đều khởi lên từ ba độc,
là ý căn chưa thanh tịnh, nên không thể an trụ hạnh an lạc được.
“Phải ở nơi tất cả chúng
sinh” trở xuống, là dạy phương pháp trì kinh: Nên lấy từ bi làm đầu. Đối với
chúng sinh mê mờ điên đảo, nên lấy tâm thương yêu như thương con một, hãy nhớ
tưởng đến lòng từ của Như Lai, như đấng cha lành thương đứa con một, thì không
còn tâm chán nản mệt mỏi. Đối với Bồ tát, là người khéo học theo hạnh Phật,
chuyên làm việc lợi sinh. Đối với các ngài ta nên nhớ tưởng như bậc thầy, để nối
theo hạnh các ngài. Nên đối với Bồ tát trong mười phương thường phải cung kính
lễ bái một cách chân thành. Câu: “Với tất cả chúng sinh” trở xuống, dạy lấy hạnh
trì kinh mà điều phục. Bình đẳng nói pháp tức là không lấy tâm phân biệt cao
quý hay hạ tiện, trí tuệ hay ngu si. Lấy tâm đại bi từ bỏ bốn sự hủy báng: Hữu
là tăng ích báng. Vô là tổn giảm báng. Phi hữu, phi vô, là hí luận báng. Do vì
phù hợp với pháp tính mà thuyết nên xa rời bốn lỗi này. Đó gọi là chẳng nói nhiều,
chẳng nói ít. Đối với người ái mộ pháp một cách sâu sắc thì không nên vì vậy mà
nói nhiều, như bà mẹ nuôi con dại, không cho ăn nhiều thục tô, sợ chúng ăn nhiều
không tiêu hóa sẽ sinh độc. Ở đời mạt pháp mà trì kinh có thể an trú hạnh này
thì không làm lòng người rối loạn. Đó gọi là khéo tu tâm mình.
Được như vậy thì chói
sáng đối với bạn đồng phạm hạnh, được mọi người nghe giảng làm cho lợi ích Phật
pháp dần tỏa rộng, sáu loại công đức tự thành tựu, đây thật là Diệu hạnh của
trì kinh. Có người như vậy ai mà không thích sự giáo hóa của họ! Làm sao có việc
oán hận hãm hại! Đó gọi là chân an lạc hạnh.
11. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Vô lượng chúng sở kính” (Lúc bấy giờ Thế Tôn… Vô lượng chúng
cung kính).
Đoạn kệ tụng này, từ
câu: “Nếu muốn nói kinh này” trở xuống 4 câu, là tiết thứ nhất nói về hạnh chất
trực, nghĩa là trực tâm chánh niệm pháp Chân như, thì ba độc nơi ý căn và các
phiền não tự buông xả. Câu: “Chẳng nên khinh miệt người” trở xuống 4 câu, là tiết
thứ hai nói về sự khinh thường, nghĩa là khinh họ thấp kém, như trong văn Kinh
Trường Hàng có nói: “Chê họ cách đạo rất xa” như vậy là coi thường họ. Câu: “Phật
từ đó nói pháp” trở xuống 12 câu, là tiết thứ ba nói sự kham nhẫn làm chủ, nên
gọi là “Thường nhu hòa hay nhẫn” tưởng nhớ Phật như cha, kính trọng Bồ tát như
thầy, do vậy phá được tâm tự kiêu, ngã mạn. Như vậy thuyết pháp không có chướng
ngại gì. Câu: “Pháp thứ ba như thế” trở xuống hết bài kệ tụng là phần tổng kết
kệ tụng.
12. Từ câu: “Hựu Văn Thù
Sư Lợi” đến câu: “Vô hữu quá thất” (Lại Văn Thù Sư Lợi … Không có lầm lỗi).
Đoạn này nói về hạnh đại
từ bi.
Ba hạnh trước, tức là mặc
y Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Còn một hạnh nữa là vào nhà Như Lai.
Phẩm Pháp Sư ở trước chỉ
dạy pháp Bồ tát nói lược những hạnh cốt yếu, đến phẩm này giải thích rộng rãi
nghĩa ở trước. Từ là đem đến niềm vui, Bi là có thể cứu cái khổ. Nếu người xuất
gia cũng như tại gia tin nhận pháp này thì được tăng trưởng pháp lạc, phát sinh
tâm Đại từ. Đối với hạng Nhất xiển đề không có lòng tin, thì nên thương họ u
mê, điều phục dẫn dắt làm họ có chánh tín, vì cứu nổi khổ của họ mà sinh tâm đại
bi.
Từ câu: “Phải nghĩ thế
này” trở xuống, là nói phát sinh ý tưởng thương xót đối với hạng người không
tin, thương họ mất điều lợi lớn. Sở dĩ nói mất là đối với diệu pháp mà Như Lai
đã tùy cơ nghi nói, một mực không nghe, không biết, không ngộ. Hơn nữa còn cố
chấp cái ngu của mình là đúng, nên không học hỏi, không nghe ngóng nên không
tin và không hiểu. Người mà ngoan cố ngu muội như thế, ta cũng không bỏ họ. Khi
sắp thành Phật, bất cứ chỗ nào, quyết dùng thần thông và trí tuệ dẫn dắt họ an
trụ trong pháp này, làm cho chánh nhân của họ không mất, cuối cùng có cơ hội
thành Phật. Đây là tâm đại từ bi cùng tột.
Trong đời mạt pháp, người
trì kinh có đủ bốn hạnh mà thuyết pháp mới không có lỗi lầm và khế hợp tâm Phật
gọi là làm việc làm của Như Lai.
13. Từ câu: “Thường vi Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni” đến câu: “Thọ trì đọc tụng” (Thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ
kheo ni … thọ trì đọc tụng).
Đoạn này tổng kết sự thù
thắng của bốn hạnh.
Nói người trì kinh có đủ
bốn hạnh này sẽ được bốn chúng, quốc vương.v.v.. ca ngợi, kính trọng và cúng dường,
huống gì có thêm đức tính nhẫn được sự hủy báng! Chư thiên ở trên hư không thường
đi theo hộ vệ, làm sao có sự khuấy nhiễu tác loạn! Nếu ở chỗ vắng vẻ không người,
có kẻ sinh tâm chất vấn thì chư thiên hộ vệ dùng thần lực làm cho người nghe được
hoan hỷ. Ở trước đã nói “Ta sai chư thiên, long thần thường theo hộ vệ vì kinh
này tất cả ba đời chư Phật dùng thần lực hộ trì”, vì vậy biết rằng chư thiên
ngày đêm thường thủ hộ là do sự sai khiến của chư Phật. Do vì công hạnh người
trì kinh phù hợp với hạnh của Phật nên được chư Phật hộ niệm như vậy. Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa này, trong vô lượng quốc độ, danh từ còn không đuợc nghe huống gì
thấy thọ trì và đọc tụng! Vì pháp khó gặp, nên ngưòi trì kinh cần phải thận trọng.
Đây là tuệ mạng của chư Phật, là con mắt của chư thiên, do vậy không thể không
hộ niệm. Nếu không nghe, không tin thì chẳng phải là làm mất việc lớn sao!
14. Từ câu: “Văn Thù Sư
Lợi” đến câu: “Tất đại kinh quái” (Văn Thù Sư Lợi … ắt rất kinh lạ).
Đoạn này nói về thí dụ hạt
châu trong búi tóc của vua Chuyển luân thánh vương, để dụ cho kinh này không dễ
ban cho người.
Phật là vua trong ba
cõi, còn gọi là Đại Hùng vì có thể phá tan ba cõi – Như sức mạnh của Luân vương
oai phục các nước. “Các vua nhỏ chẳng thuận mạng lịnh” là dụ cho các loài ma
phiền não, năm ấm trong sinh tử, trái với tánh giác. Đức Như Lai xuất thế vì một
việc lớn mà đặc biệt là nhiếp phục các loài ma, nên hiện thân thuyết pháp.
Thuở đầu từ vườn Lộc uyển
thuyết pháp hữu để phá nổi khổ sự vướng mắc sinh tử của kẻ phàm phu. Kế đến là
thuyết Bát Nhã, luận về pháp không để phá kiến chấp chán sinh tử. Kế đến thuyết
Kinh Giải Thâm Mật để hòa hợp giữa không và hữu, phá đi thiên chấp của nhị thừa.
Kế nữa nói kinh Lăng Già chỉ thẳng thức tạng tức là Như Lai tạng, liền thấy được
Phật tánh, phá đi công hạnh phương tiện của Nhị thừa. Đó là thuyết kinh trong bốn
mươi năm, đã dùng vô số vô lượng phương tiện để phá tình chấp của tam thừa, nên
nói “Đem các đạo binh qua đánh dẹp” là nêu lên cái tội phải phạt là phá nước của
họ, đó là Phật quở trách hàng nhị thừa, phá hoại thành Niết bàn. Nhưng hàng tam
thừa nghe pháp đều có chỗ chứng đắc nên ví dụ như binh lính có công, luận theo
công mà ban thưởng cho. Ruộng, đất, đến nô tỳ, nhân dân … là dụ cho những tác dụng
lợi ích của quả tam thừa. Riêng viên minh châu trong búi tóc không cho, là dụ
không nói ngay cho họ kinh Pháp Hoa này, lý do không nói ngay là vì sợ đại
chúng sinh nghi, như viên châu trong búi tóc không cho vậy.
15. Từ câu: “Văn Thù Sư
Lợi” đến câu: “Nhi phu diễn chi” (Văn Thù Sư Lợi … mà bày nói đó).
Đoạn này nói Pháp hợp với
Dụ.
Nói: “Như Lai cũng như
thế” là phù hợp với tiết đầu. Câu: “Những người có công” trở xuống, là phù hợp
với tiết thứ hai. Câu: “Như vua Chuyển luân” trở xuống, là trùng điệp dụ, nghĩa
là thuyết minh riêng viên minh châu trong búi tóc không đem cho. “Đức Như Lai
cũng lại như thế” trở xuống, là trùng hợp tiết thứ hai, nói rõ thuyết tất cả
các kinh, nhưng không thuyết kinh Pháp Hoa vì khó tin. “Trước chưa tùng nói mà
nay nói đó” là vì pháp này khó tin, ít có giống như Luân Vương mở búi tóc lấy hạt
châu để ban cho. Nếu không phải là kẻ có công lớn thì không được cư xử như vậy.
Nên nói kinh này là lời nói đệ nhất của chư Phật. Sau cùng mới cho, như viên
minh châu trong búi tóc đợi người có công lớn vậy.
“Kinh Pháp Hoa này là tạng
bí mật của chư Phật Như Lai” là câu nói kết, nói rõ chư Phật ở trong cõi đêm
dài sinh tử giữ gìn hơn bốn mươi năm để chờ đợi cơ duyên.
16. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn”đến câu: “Như nhật chi chiếu” (Lúc đó Đức Thế Tôn … Như mặt trời chói
sáng).
Từ câu: “Thường tu hành
nhẫn nhục” trở xuống 4 câu, là nói chung hạng nhẫn nhục làm căn bản. Câu: “Đời
mạt thế về sau” trở xuống 12 câu, là nói về hạnh Từ Bi. “Làm cho trụ trong đó”
nghĩa là an trụ trong pháp tịch diệt – Từ câu: “Thí như vua Chuyển Luân” trở xuống
16 câu, là nói thí dụ. Câu: “Đức Như Lai cũng thế” trở xuống 20 câu, là nói
Pháp hợp với Dụ. Đức pháp Vương dùng sức mạnh nhẫn nhục mà nói pháp, cho nên diệu
hạnh để giữ gìn kinh phải lấy nhẫn nhục làm đầu. Câu: “Kinh này là bậc tôn” trở
xuống 6 câu, là nói lại sự cao thượng của kinh. Câu: “Sau khi ta diệt độ” trở
xuống 6 câu, là nói đúc kết lại ý đáp lời hỏi. Câu: “Người đọc tụng kinh này”
trở xuống 14 câu, là nói người trì kinh có thể xa rời chướng ngại và các tai hại.
Câu: “Dạo đi không sợ sệt” trở xuống 4 câu, là nói người trì kinh được vô úy.
“Quang minh” là nói tâm với pháp là một, nên được đại vô úy.
17. Từ câu: “Nhược ư mộng
trung” đến câu: “Như sái tận đăng diệt” (Nếu ở trong chiêm bao … Như khói hết
đèn tắt).
Đoạn kệ tụng này nói về
lợi ích thù thắng của sự trì kinh.
“Nếu như ở trong giấc mộng
thường thấy những điều vi diệu”, do vì người trì kinh tâm và lý hợp nhau, tập
khí tiêu trừ, ô nhiễm diệt hết. Như nước trong thì bóng trăng hiện, được cảnh mầu
nhiệm trước mặt. Đây là hiển thị lợi ích thù thắng.
Câu: “Thấy các Đức Như
Lai” trở xuống 16 câu, là nói về các việc vi diệu ở trong mộng. Thấy Phật thuyết
pháp cho đại chúng, thấy Long thần đến nghe mình nói pháp, thấy Phật phóng hào
quang thuyết pháp. Câu: “Phật vì hàng tứ chúng” trở xuống 12 câu, là nói thấy
Phật nói pháp. Tự thân mình ở nơi chúng hội nghe pháp, đắc được pháp tổng trì,
chúng được bất thối chuyển, đầy đủ nhân hạnh, Phật biết tâm mình, và thọ ký
cho.
Từ câu: “Thiện nam tử
người này” trở xuống 8 câu, là nói việc thọ ký. Câu: “Lại thấy thân của mình”
trở xuống 10 câu, là nói sau khi được thọ ký thấy tự thân mình ở trong núi tu
hành, chứng thật tướng, đắc thiền định. Trong định lại thấy thân Phật kim sắc
trang nghiêm, thấy rồi theo Phật nghe pháp, rồi thuyết pháp cho người khác.
Câu: “Lại mộng làm quốc vương” trở xuống 16 câu, là nói trong mộng làm quốc
vương, rồi bỏ ngôi vua đến đạo tràng cầu đạo bảy ngày đạt được trí Phật, thành
đạo vô thượng. Cho đến thuyết pháp ngàn muôn ức kiếp, độ các chúng sinh, hóa
duyên đã mãn, sẽ vào Niết bàn. Trong giấc mộng này từ đầu tới cuối thấy Phật,
nghe pháp, ngộ đạo, mong Phật thọ ký. Sau khi thọ ký lại bỏ ngôi vua cầu đạo Bồ
đề. Cho đến một đời thành Phật, rốt cuộc nhập Niết bàn.
Qua thời gian rất lâu
ngàn vạn ức kiếp, mọi việc diễn ra như đã diễn ra trong hào quang đã nói ở trước.
Chư Phật trước hay sau đều vì một đại sự nhân duyên mà thôi, vì chưa từng khai
mở tri kiến Phật, nên Phật dùng tướng hào quang biểu thị sự thành Phật từ đầu tới
cuối. Những sự biểu thị ấy không rời ý niệm hiện tiền, nhờ vậy làm cho người ta
hiểu rõ. Nay nghe được Diệu pháp, đã khai mở xong tri kiến Phật, đó là lợi ích
của trì kinh. Tự mình thấy được từ đầu đến cuối của sự thành Phật, tức là lâu
dài đến ức kiếp chỉ ở nơi một niệm của người, không rời một sát na. Làm họ tự
tin không còn hoài nghi. Tuy nhiên đây chỉ dựa vào giấc mộng mà nói. Đó gọi là
“Sinh tử Niết bàn dường như giấc mộng đêm qua” Ý muốn người trì kinh thành tựu
được bốn hạnh, nên quán sát các pháp như việc trong mộng, không có gì để nắm bắt
được. đó là lợi ích thù thắng của sự chứng đắc thật tướng tam muội.
Lạ thay! Lạ thay! Trong
mộng thấy Phật, nghe pháp ngộ đạo; lại trong mộng nhập định, trong định nói
pháp lợi ích cho người; cho đến bỏ vương vị mà cầu đạo, thành Phật độ sinh mà
nhập Niết bàn. Trải qua lâu vô lượng kiếp, đây dù là việc trong mộng, kẻ thường
tình có thể đo lường được sao! Kinh Hoa Nghiêm nói: Xưa và nay là một, dài và
ngắn cùng thời, đủ thấy như đây vậy. Dùng hơn ba ngàn lời nói việc vô tận, nếu
không phải biện tài của Phật thì đâu có thể được như vậy.
18. Từ câu: “Nhược hậu
ác thế trung” đến câu: “Thượng chư công đức” (Nếu trong đời ác sau … Các công đức
như trên).
Đoạn tụng này đúc kết lại
sự lợi ích thù thắng của bốn hạnh vậy.
Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất
Thứ Mười Lăm
Đại ý phẩm này là trình
bày tự tâm phát ra sự giác ngộ, vô số tính hạnh có mặt, để nói lên hết diệu hạnh
của sự thọ trì kinh.
Ở trước đã nói, hàng
Thanh văn được thọ ký tuy phát nguyện thọ trì kinh, nhưng tự lực không đủ, khó
đi vào cõi sinh tử nguy hiểm, nên cần nhờ vào tha lực. Do đó Phật sai hàng Bồ
tát điều phục và hộ trì, ở trong lòng họ vẫn có chỗ chưa an. Nay từ các phương
khác có tám hằng hà sa số Bồ tát đến, đều xin bảo vệ giữ gìn người trì kinh
này. Nhưng Đức Phật không chấp nhận. vì sao? Vì họ đều từ bên ngoài mà đến,
trong Thiền tông gọi là “Từ ngoài cửa mà vào không phải là trân bảo của nhà
mình”. Hướng vào tự tâm mà lưu xuất thì mới che trời che đất, nên Phật nói “Ta
tự có sáu muôn hằng hà sa chúng từ đất vọt ra”. Thể và dụng đều hiện bày, nên gọi
là quyến thuộc đông đủ.Tánh đức trì kinh như thế mới có thể khế hợp với pháp
thân. Cho nên từ nơi hư không, hướng về hai Đức Thế Tôn. Đến đây cái thấy sinh
diệt đều mất, dài ngắn đồng thời, nên nói năm mươi tiểu kiếp giống như nữa
ngày, do vậây xứng hợp pháp tánh thành tựu hạnh lành. Nên bốn vị thượng thủ đều
do hạnh mà đặt tên. Ý nói là trì kinh như vậy mơí phù hợp với bản hoài của Đức
Phật. Nhờ bốn thành tựu hạnh an lạc mà có như vậy.
Nhờ tính đức thành tựu
hiện tiền, chư không do tâm thức phân biệt mà biết, nên ngài Di Lặc cùng tám
ngàn hằng hà sa chúng đều sinh tâm nghi, nói rằng: Chẳng biết một ai. Ngài với
các vị thị giả của Đức Phật cùng thưa hỏi. Đây không phải là duyên nhỏ, nên trước
hết khuyên phải mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố mới có thể tin nhận. Đức
Như Lai tự nói ngài muốn hiển hiện chỉ bày pháp Trí tuệ, sức tự tại thần thông,
sức sư tử phấn tấn, sức oai mạnh đại thế của chư Phật. Như vậy ở nơi đây bản
hoài của Phật mới cùng tận, đâu thể việc nhỏ ư! Tuy nhiên Thế Tôn bảo rằng các
đại chúng này đã được giáo hóa từ khi Như Lai thành đạo, làm họ phát tâm cho đến
nay. Ngài Di Lặc và đại chúng đều khởi tâm nghi. Di Lặc dùng mắt nhìn Thế Tôn,
nghĩ rằng: Ngài thành đạo đến nay là bốn mươi năm, những người được giáo hóa đều
ở trong hội linh sơn, còn ở đây là các chúng từ đất vọt lên, điều đó chưa từng
thấy. Hơn nữa chúng tôi đều được Phật giáo hóa được như thế này mà vẫn còn yếu
kém, còn đại chúng này đều là những người từ lâu đã trồng cội đức, gieo sâu căn
lành. Làm sao mà trong thời gian ngắn mà giáo hóa được chúng đông như vậy. Nên
nói thí dụ cha trẻ con già để bày tỏ lòng nghi của mình. Nói từ đất vọt lên để
biểu hiện dấu tích mầu nhiệm. Còn phẩm Như Lai Thọ Lượng đặc biệt đã biểu hiện
cái gốc mầu nhiệm, diệt trừ kiến chấp thế giới hiện tượng của Hàng nhị thừa và
để làm sáng tỏ pháp thân thường trú không lệ thuộc pháp sinh diệt.
Vì thế phẩm này liên hệ
với phẩm Như Lai Thọ Lượng, làm nối kết cho nhau.
1. Từ câu: “Nhĩ thời tha
phương quốc độ” đến câu: “Quảng thuyết thử kinh” (Lúc bấy giờ các vị … rộng nói
kinh này).
Đoạn này Bồ tát ở phương
khác, phát nguyện ở cõi Ta bà thọ trì kinh. Phật im lặng không hứa. Ý Phật muốn
trì kinh này, nên trụ ở nơi tính đức hoàn hảo của mình, không mượn bên ngoài, sắp
bày tỏ sự vi diệu của Bổn và Tích, và pháp thân thường trú, không tùy thuộc
sinh diệt, khứ lai. Ngài nói: Không cần các ông, ta tự có sáu muôn hằng hà sa
quyến thuộc hộ trì, rộng nói kinh này. Số lượng Bồ tát đều lấy sáu vạn mà nói.
Ý tiêu biểu cho sáu thức thành trí. Tức thì hằng hà sa tính đức hiện tiền, đó gọi
là “Tự tánh dung thông diệu hạnh vô cực”. Nếu dựa vào sáu thức ngoài thì lạc
vào danh ngôn phân biệt, không phải chỗ vi diệu của trì kinh. Nên điều kiện bên
ngoài không phải là chỗ nương nhờ được.
2. Từ câu: “Phật thuyết
thị thời” đến câu: “Tùng hạ phát lai” (Lúc Phật nói lời đó … nên từ dưới mà đến).
Đoạn này Phật tự nói
mình có sáu vạn hằng hà sa chúng, đồng thời từ dưới đất vọt lên trước chúng.
Trong kinh nói “tam thiên đại thiên cõi nước đất đều rung nứt, từ đó vọt lên”.
Đất nghĩa là Nhất chân pháp giới, trước kia do vô minh mê hoặc kết tụ nên tính
thể bị che lấp không lộ ra được. Nay pháp âm của Phật đi vào, làm vô minh bị
phá, tự tánh được hiển lộ, ngộ được tự tâm. Vô số tính đức đều ở cội nguồn của
tâm, tác dụng vô biên. Như vậy mới có thể trì kinh không phải phân biệt danh
ngôn bên ngoài mà so sánh được. Nên gọi là không cầu phương khác là vậy.
Bồ tát đều đầy đủ đức tướng
của Phật, vì đức và dụng không hai, tâm thể bổn giác sáng soi, nên thân đều sắc
vàng và ánh sáng vô lượng. Thế giới nương vào pháp tính không, nên ở tại Hạ
phương của thế giới này, an trú trong hư không. Nhờ công đức của thỉ giác mà bản
giác hiển lộ, cho nên nghe pháp âm của Phật từ dưới đất vọt lên. Ý dùng âm
thanh làm căn bản giáo hóa.
3. Từ câu: “Nhất nhất Bồ
tát … sở bất năng tri” (Mỗi vị Bồ tát… chẳng thể biết được).
Đoạn này nói các Bồ tát
đến đem theo quyến thuộc nhiều ít không đồng nhau.
Nghĩa là các quyến thuộc
đem theo đó, lấy số chung là Hằng hà sa, tính dần dần từ nhiều đến ít Hằng hà
sa, cho đến riêng một mình không có quyến thuộc. Con số hằng hà sa là ý muốn
nói số lượng không cùng. Chủ bạn không đồng, thể dụng không bình đẳng.
4. Từ câu: “Thị chư Bồ
tát tùng địa xuất dĩ” đến câu: “Bá thiên vạn ức quốc độ hư không” (Các vị Bồ
tát từ dưới đất lên… nghìn muôn ức cõi nước hư không).
Đoạn này nói về nghi thức
diện kiến với Phật của các Bồ tát vừa vọt lên. Nói là các vị từ hư không hướng
về hai Đức Thế Tôn, nghĩa là nhập vào pháp giới không tính, khế hợp pháp thân.
Dùng các pháp tán dương mà ca ngợi Phật, như thế trải qua thời gian năm mươi tiểu
kiếp. Đại chúng cho là như nửa ngày. Nói chứng đắc thâm sâu thật tướng như Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Một niệm quán khắp vô lượng kiếp, không đi, không đến, cũng
không trụ”. Gọi là “ mười đời xưa nay trước sau không ngoài một niệm hiện tiền”
không có tướng lâu mau vậy.
Bốn chúng đều nhờ thần lực
của Phật mà thấy các Bồ tát đầy khắp hư không. Đó gọi là “Cảnh giới vô biên, tự
tha không cách xa bằng đầu sợi lông”. Do pháp giới tính không, diệu lực vô tác.
Không phải là đối tượng của tam thừa có thể thấy, nên phải nhờ thần lực của Phật
mới thấy.
5. Từ câu: “Thị Bồ tát
chúng trung” đến câu: “Sinh bì lao da” (Trong chúng Bồ tát đó … sinh mệt nhọc
đó ư!).
Đoạn này nói, các bậc
thượng thủ của chúng đến thăm Đức Thế Tôn. Đó là biểu tượng gần gũi và tùy thuận
tính giác. Trì kinh lấy diệu hạnh làm đầu, nên đều có tên là Hạnh cả. Lời thăm
hỏi nói, bệnh não và mệt mỏi.Vì thấy Đức Thích Ca thị hiện đồng hoạn nạn như mọi
người. Hơn nữa muốn nói cõi Ta bà tệ ác, khó mà giáo hóa.
6. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Nhập ư Phật Tuệ” (Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn… vào trong Huệ của Phật).
Đoạn này Đức Như Lai đáp
lại lời thăm hỏi của đại chúng, chính là trình bày sự vi diệu của bản thể.
Nói rằng chúng sinh này,
đời đời được giáo hóa tức là duyên pháp đã chín muồi. Cúng dường nhiều Phật tức
là huân tập phước đức sâu dày. Đây là chứng được nhân duyên từ xưa của Đức Đại
Thông Trí Thắng, nên ngày nay chỉ một lần gặp Phật, nghe pháp liền bước vào trí
tuệ Phật. Đó là chỉ cho Bồ tát thượng căn thượng trí. Trừ những người trước đã
tu tập Tiểu thừa, ai nay nghe kinh này cũng được nhập trí tuệ Phật. Thế mới biết
chư Phật hóa độ chúng sinh chủ yếu là những người có duyên. Kẻ phàm phu ngày
nay là người tệ ác không tin, chưa gieo nhân duyên nay ở đây trì kinh để kết
nhân duyên mai sau. Do đó mà Như Lai vội vã tìm người, nhưng phải là người có
tâm khế hợp với tâm Phật, mới có thể nhẫn chịu chướng duyên. Rất khó gặp người
như vậy.
7. Từ câu: “Nhĩ thời chư
đại Bồ tát” đến câu: “Phát tùy hỷ tâm” (Lúc ấy các vị đại Bồ tát… phát lòng tùy
hỷ).
Đoạn này chúng Bồ tát mới
đến, nghe nói chúng sinh dễ độ nên mọi người đều phát tâm. Cho nên nói: Chúng
con tùy hỷ. Đức Phật tán thán chúng Bồ tát đã có lòng tùy hỷ. Việc tốt lành là
pháp đã có người phó thác.
8. Từ câu: “Nhĩ thời Di
Lặc Bồ tát” đến câu: “Dĩ kệ vấn viết” (Bấy giờ ngài Di Lặc Bồ tát … nói kệ hỏi
rằng).
Đoạn này ngài Di Lặc
nhân vì chúng khởi tâm nghi mà hỏi về nhân duyên của chúng Bồ tát mới đến.
Nói tám ngàn người sinh
tâm nghi là biểu tượng của tám thức chưa phá. Nghĩa là tính đức diệu dụng này
không phải là đối tượng nhận thức của tâm phân biệt, nên đều sinh nghi, do vậy
mà nói “Không thấy, không nghe”.
Di Lặc là bậc tôn sư của
Duy thức, biết tâm niệm của đại chúng, nên thỉnh Phật nói để dứt nghi ngờ, dùng
kệ để hỏi vậy.
9. Từ câu: “Vô lượng
thiên vạn ức” đến câu: “Dĩ hà nhân duyên tập” (Vô lượng nghìn muôn ức… do nhân
duyên gì nhóm).
Đoạn này hỏi lý do gì mà
đại chúng đến tập họp.
10. Từ câu: “Cự thân đại
thần thông” đến câu: “Vi tùng hà sở lai” (Thân lớn đại thần thông … là từ chốn
nào đến).
Đoạn này thấy chúng Bồ
tát đến thân hình khác thường, không biết từ đâu đến.
11. Từ câu: “Nhất nhất
chư Bồ tát” đến câu: “Kỳ số chuyển hóa thượng” (Mỗi mỗi hàng bồ tát … số đây
càng hơn trên).
Đoạn này hỏi về chư Bồ
tát đến gồm chủ, bạn nhiều ít sao không đồng nhất.
Có người mang theo sáu
muôn hằng hà sa, cho đến những người mang theo một phần của ức vạn, là trình
bày những bạn quyến thuộc được đem đến, người đem theo chúng ít thì nhiều hơn,
đông hơn người dắt theo quyến thuộc nhiều. Đầu tiên là tính số ít mà nói ngàn
muôn Na do tha, ở đây tính theo từng chúng mà hỏi, từ số chúng cho đến người đi
một mình. Số ít dần dần trở nên đông hơn chúng số nhiều. Văn dịch rất hay, suy
nghĩ một chút sẽ nhận ra. Chỉ xem câu kết là “Số đây càng hơn trên” thì tính
theo lớp trở xuống, dần dần đông hơn số nhiều ở trên.
12. Từ câu: “Như thị chư
đại chúng” đến câu: “tu tập hà Phật đạo” (Các đại chúng như thế… Tu tập Phật đạo
nào?)
Đoạn này hỏi rõ các Bồ
tát mới đến do ai giáo hóa họ.
Vì họ từ dưới đất vọt
lên là hiện tượng rất đặc biệt. Hơn nữa Hạ phương ở giữa hư không. Cõi ấy không
ai thấy được nên sinh nghi. Chúng Bồ tát này quá đông mà oai nghi, trí tuệ đều
siêu việt, nên mọi người đều suy nghĩ rằng: Không thể một Đức Phật và trong một
thời điểm mà giáo hóa được như vậy. Cho nên mới hỏi cho rõ ai là người thuyết
pháp độ cho họ, họ theo ai mà phát tâm? Xưng tôn pháp gì? Trì kinh nào? Tu tập
Phật đạo nào? Mà họ có khả năng xuất chúng như vậy. Chính những câu hỏi này mà
phát sinh thuyết về Thọ lượng.
13. Từ câu: “Như thị chư
Bồ tát” đến câu: “Duy nguyện phát chúng nghi” (Các Bồ tát như thế … Cúi mong
quyết lòng nghi).
Đoạn này hỏi: Tuy thấy từ
đất vọt lên mà không biết từ nơi nào. Do đâu mà họ đến, tức hỏi tên quốc độ họ ở.
Cổ đức nói: “Nếu không có quốc độ, thì gặp nhau chỗ nào” nên nói rằng: Đi khắp
ác quốc độ mà chưa từng thấy chúng như vậy. Nay đại chúng muốn biết nhân duyên
của các Bồ tát này. Nên xin Đức Thế Tôn giải quyết lòng nghi ngờ cho.
14. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni phân thân chư Phật” đến câu: “Nhân thị đắc văn” (Khi ấy các vị
Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni phân thân … nhân đây mà được nghe).
Đoạn này là các đệ tử đi
theo phân thân Phật đều hỏi Phật bổn sư mình. Do nghi mà hỏi.
15. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni Phật” đến câu: “Đại thế chi lực” (Bấy giờ Đức Thích Ca … sức
oai thế mạnh của các Đức Phật).
Đoạn này Đức Thế Tôn hứa
sẽ giải đáp. Trước hết ngài khuyên đại chúng phải tinh tấn, vì việc này rất khó
tin.
“Đức Di Lặc” hiệu là A Dật
Đa dịch là Vô Năng Thắng. Nói “ Việc lớn” nghĩa là trí tuệ, thần thông, oai lực
của chư Phật và sự hiển hóa nhân duyên của chúng Bồ tát ở dưới đất vọt lên, đều
là “Việc lớn” Nay sắp nói rõ, nếu không có tinh tấn thì không thể lãnh hội, nên
khuyên bảo như vậy.
Trí tuệ của chư Phật,
như trước đã nói là sâu thẳm không đo lường được, đây chỉ biểu hiện sơ lược mà
thôi. Một lần khai thị là nói đến sự thành Phật rất lâu và xa, giáo hóa nhiều
chúng sinh, và phẩm kế tiếp nói đến Thọ Lượng.v.v.. đều là “Hiển thị rộng ý
nghĩa trí tuệ Phật thâm sâu vô lượng”. “ Năng lực thần thông tự tại của chư Phật”
như trước đã nói việc ba lần biến tịnh độ, tiếp chúng sinh ở trên hư không, lấy
ngón tay mở tháp, sau đó đến Phật dùng lưỡi trùm đến cõi phạm thiên, tiếng tằng
hắng, khảy móng tay âm thanh chấn động cả đại thiên.v.v.. Đều là sức mạnh thần
thông tự tại cả. Nói: “ Sức sư tử mạnh nhanh của các Đức Phật” là nói như loài
Sư tử vẫy vùng xoay trở dùng vừa sức lực của nó, không thừa không thiếu. Như Phật
nói một tiếng là âm thanh đi khắp, các phân thân của ngài đều tập họp. Nói về
căn gốc của Thọ lượng thì chỉ thẳng toàn thể pháp thân, không thừa pháp nào,
nên như Sư tử chuyển động vậy. Nói: “ Sức oai thế mạnh lớn của các Đức Phật” tức
là nói sự giáo hóa nhiều Bồ tát từ đất vọt lên, phá chấp chặt của hàng tam thừa,
hàng phục năm ấm và các ma phiền não, đều nhờ sức mạnh đại thế lực.
Bốn câu nói trên, Đức Phật
tự nói về năng lực có đủ của mình, suy đó mà ra chư Phật đều giống nhau. Tác dụng
toàn diện của Phật còn ẩn chưa hiện. Nay do chư Bồ tát từ đất vọt lên, mới luận
bàn về công đức, về thọ lượng… đều là việc khó tin. Do vậy khuyên đại chúng phải
mặc áo giáp tinh tấn mới có thể tin nhận để không sợ hãi, nghi ngờ. Phật bảo Di
Lặc bổ xứ là vì muốn xây dựng đường hướng pháp Phật cho tương lai.
16. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Nhữ đẳng nhất tâm thính” (Khi đó Đức Thế Tôn … các ông một lòng
nghe).
Đây là đoạn kệ tụng nói
lại việc Đức Thế Tôn hứa nói và khuyên nghe.
Những vấn đề như trí tuệ,
thần thông.v.v.. gồm bốn việc, vì không phải là tầm thường nên khó tin và dễ
nghi. Bốn việc đều thuộc về trí tuệ của Phật, nên nói là “Trí Phật chẳng nghĩ
bàn” khi niềm tin không có sức mạnh tức là không có niềm tin. “Trụ trong pháp
nhẫn” là trụ vô sinh nhẫn mới có thể tin mà không nghi. Nay nói rằng trí tuệ Phật
không thể suy lường, là pháp đệ nhất, sâu thẳm không phân biệt nổi. Thế mà hôm
nay nói ra, nên lập lại ba lần an nhẫn đừng nghi, khuyên đại chúng tin tưởng và
lắng nghe.
17. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn thuyết” đến câu: “Cầu vô thượng tuệ” (Khi Đức Thế Tôn nói … cầu tuệ vô thượng).
Đoạn này Phật đáp lại
câu hỏi của Di Lặc.
Nói rằng chúng từ đất vọt
lên đều là do Phật giáo hóa khi ngài thành Phật ở cõi Ta bà. Đây là đáp lại các
câu hỏi như: Ai thuyết pháp giáo hóa họ thành tựu? Họ theo ai mà phát tâm? Nói
thế giới ấy “Ở trong hư không”, ý nói không rời đương xứ (thực tại) để trả lời
việc họ từ nơi nào đến. Đối với các “Kinh điển đều đọc tụng thông suốt “là ý
nói sự ức niệm để trả lời hành trì kinh của ai. Nói các kinh đều thông suốt,
không chỉ một kinh, ý nói tất cả các pháp đều là Phật pháp. “Không thích ở
trong chúng đông” để đáp câu tu hành theo Phật đạo nào, là nói từ nơi chỉ quán
mà vào được tuệ Phật. “Thường ở nơi thanh tịnh, không nương tựa vào nhân,
thiên”. Ý là tu tập thiền chỉ. Người xưa nói: “Ta chẳng từ nơi nhân thiên mà đến”.
Trong luận nói: “Tu thiền chỉ thì không nương vào thế giới của hình ảnh, màu sắc,
thân và tâm.v.v.. tất cả đều từ bỏ”. “Thường thích trí tuệ thâm sâu”, tức là tu
tập quán, quán chiếu rõ ràng là phương pháp đạt được thật tướng pháp. Ý muốn
nói rằng tất cả Bồ tát muốn cầu Phật đạo đều phải từ tu chỉ quán mà thể nhập.
Câu “ Hạ phương trong hư không” là nói về biểu tượng của chỉ quán, nếu sức chỉ
quán chưa mạnh để phá vô số phiền não, thì không thể từ dưới đất mà vọt lên được.
18. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Giáo hóa thị đẳng chúng” (Lúc đó Đức Thế Tôn … giáo hóa các
chúng đó).
Đoạn kệ tụng này, lập lại
lời đáp.
Sáu câu đầu của kệ tụng,
đáp: ai giáo hóa họ, họ theo ai mà phát tâm.Câu: “Chúng đó là con ta”, trở xuống
8 câu, là đáp thọ trì kinh gì, tu tập theo đường nào. Đây là nói về pháp thiền
chỉ. Câu: “Ngày đêm thường tinh tấn” trở xuống 6 câu, là đáp câu từ nước nào đến,
là nói về pháp thiền quán. Do vì cầu Phật đạo nên trụ trong hư không. Khuyến
khích mong cầu trí tuệ nên nói các diệu pháp. Nói đã vào được Phật tuệ là tâm
không còn sợ hãi. Nói hai pháp trang nghiêm có đủ, hai câu này nói về đức độ của
họ (Bồ tát).
Câu: “Ta ở thành Già Da”
trở xuống 8 câu, là nói nhân duyên gốc ngọn ở thành Già da thành đạo. Nói tuy dấu
tích gần, giáo hóa thành đạo là ý chỉ cho nhân duyên xa xưa. Cho nên Di Lặc từ
đây sinh nghi. Nói thí dụ cha trẻ mà con già, để phát khởi bàn về thọ lượng, lý
giải bản thể vậy. Câu: “Ta nay nói lời thật” trở xuống 4 câu, là tụng kết các hỏi
đáp ở trên. Đã nói là làm cho phát tâm ban đầu, lại nói sự giáo hóa lâu xa.
Thành Phật là việc gần mà lại nói xa, việc này khó tin. Nên mới lấy lời thật dặn
dò, ý muốn đừng nghi nên tin tưởng. Việc này chắc có nguyên do, nên đại chúng
sinh nghi.
19. Từ câu: “Nhĩ thời Di
Lặc Bồ tát” đến câu: “Như thử chi sự thế sở nan tín” (Lúc bấy giờ ngài Di Lặc…
việc như thế đời rất khó tin).
Đoạn này nói về đại
chúng sinh lòng nghi.
Ý nói là Đức Thế Tôn
thành đạo chưa lâu, làm sao giáo hóa được số chúng đông như thế, ai cũng đều được
an trụ Bồ đề. Vấn đề này dấu tích thì gần nhưng ý chỉ thì xa nên đáng nghi vậy.
Nhưng đại chúng nghĩ rằng: “Ngài Di Lặc thưa thỉnh nghĩa là thấy Như Lai lúc
làm thái tử, đi xuất gia, thành đạo đến nay mới hơn 40 năm.Thờn gian ấy quá ngắn”.
Đây là chấp vào hiện tướng trước mắt. Nghĩ rằng: Tại sao thời gian ngắn mà giáo
hóa chúng đông như vậy đều thành quả Bồ đề, ý nghĩa rất sâu xa nên dễ nghi ngờ.
Huống gì các Bồ tát đều là vốn trồng gốc đức lâu xa, không phải trong thời gian
ngắn mà thành tựu được, việc này ở đời rất khó tin.
20. Từ câu: “Thí như hữu
nhân” đến câu: “Thị sự nan tín” (Thí như có người … việc đó khó tin)
Đoạn này thiết lập thí dụ
để giải quyết tình huống nghi thời gian ngắn không thể giáo hóa nhiều chúng.
Tuổi hai mươi lăm là nói
rất trẻ, 100 năm là nói rất già. Trẻ là dụ cho Đức Thế Tôn, già là dụ cho số Bồ
tát đông đảo từ đất vọt lên, trái ngược rất xa. Cho nên cả thế gian đều nghi.
21. Từ câu: “Phật diệc
như thị” đến câu: “Đại công đức sự” (Đức Phật cũng như thế … việc công đức lớn
này).
Đoạn này nói về Pháp phù
hợp với Thí dụ.
Đắc đạo chưa lâu là hợp
với dụ cha trẻ. Đại chúng này rất hiếm có là hợp với dụ con già. Hôm nay Thế
Tôn làm công đức lớn này hợp với dụ trái nhau. Nói các Bồ tát này khéo vào ra
trong vô lượng tam muội. Hơn nữa đại chúng chưa thấy biểu hiện gì mà Di Lặc lại
nói họ đều đắc tam muội. Như thế là diệu dụng tự tại đó không phải là không biết.
Cho nên ở dưới đây tự nói là tin lời Phật dạy.
22. Từ câu: “Ngã đẳng
tuy phục tin Phật” đến câu: “Diệc bất sinh nghi” (Chúng con dầu lại tin Phật …
cũng chẳng sinh nghi).
Đoạn này vì người đời
sau mà xin giải quyết lòng nghi ngờ.
Ngài Di Lặc tự trình
bày, theo Phật đã lâu, tin lời nói của Phật. Tuy nhiên trí tuệ của Phật đều
thông đạt mọi pháp, nên không chỗ nào không biết, đối với vấn đề này tất nhiên
không hoài nghi. Chỉ sợ rằng hàng Bồ tát mới phát tâm, trí cạn tâm thô, hơn nữa
sau khi Phật diệt độ, khi nghe mà lòng không tin thì mang lấy tội phá pháp. Cho
nên xin Phật nói rõ để phá nghi, do vậy khẩn thiết thỉnh cầu. Nếu Như Lai không
lấy thuyết Thọ Lượng mà trả lời thì sự nghi lâu dài khó mà giải được. Thế nên
chúng từ đất vọt lên là để phát dương cội gốc của Thọ Lượng vậy.
23. Từ câu: “Nhĩ thời Di
Lặc Bồ tát” đến câu: “Trụ bất thối địa” (Lúc đó ngài Di Lặc Bồ tát … mà trụ bậc
bất thối).
Đoạn này trình bày chỗ
nghi. Câu: “Phật xưa từ dòng Thích” Đến câu: “Như thật phân biệt nói” gồm 20
câu, là trình bày sự chấp cái gần, nghi ngờ cái lâu, nên khởi lên lời hỏi này.
Như hoa sen ở dưới nước khen ngợi cái đức từ đất mà vọt lên. Câu: “Thí như người
trẻ mạnh” trở xuống 8 câu, là nói lặp lại điều dụ. “Thế Tôn cũng như thế” trở
xuống 16 câu, là nói Đức lão thành của đại chúng. Câu: “Chúng con từ Phật nghe”
trở xuống 12 câu, là nói vì đời sau mà giải quyết điều nghi vậy.
Phẩm Như Lai Thọ Lượng
Thứ Mười Sáu
Đại ý phẩm này là từ phẩm
trước có hiện tượng chúng Bồ tát ở dưới đất vọt lên, ngài Di Lặc khởi tâm nghi
hoặc, nên Đức Thế Tôn nói số lượng tuổi thọ của mình để trình bày sự mầu nhiệm
của Bổn môn và Tích môn. Nói hết hoài bão của mình để loại bỏ kiến giải sinh diệt
của nhị thừa, hiển lộ pháp thân thường trụ, tùy duyên mà hiển hiện mọi nơi, ẩn
hay hiện không chướng ngại. Qua đó làm sáng tỏ trí tuệ Như Lai rất thâm sâu và
phát huy vô lượng phương tiện để độ sinh. Ý muốn nói rằng cánh cửa trí tuệ ấy rất
khó vào. Tuy nhiên người tu hành không thấy được Pháp thân thì không chứng ngộ
thực sự, chỉ cần một chút dục niệm tồn tại thì vẫn ở nơi tri kiến của chúng
sinh, không phải là tri kiến của Phật.
Phẩm Hiện Bảo Tháp ở trước
đã nói, nhờ Đức Đa Bảo Như Lai hiện bày cảnh giới của Pháp thân mà đại chúng có
lòng tin nơi Đức Đa Bảo. Nhưng lại không tin rằng Đức Thích Ca và Đa Bảo là một
thân, một tuệ giác như nhau. Do các vị thanh văn ngày xưa chỉ thấy Phật thuyết
pháp ở vườn Lộc uyển, cho đó là Phật thật, họ không biết có việc hướng thượng,
rồi nghe Phật muốn nhập Niết bàn, nên khởi lên nhận thức sinh diệt. Dù được Phật
thọ ký, dù tin vào lời Phật dạy mà chưa thấy được Phật tâm, đây là điều khó đạt
được quả vị giác ngộ. Nếu sự giác ngộ không phải là chân ngộ thì sự tu không phải
thật tu, mà như vậy thì bổn hoài xuất thế của Như Lai vẫn chưa toại nguyện. Cho
nên các Phẩm trước dùng nhiều phương tiện để khai thị, thuộc về “Y tha khởi” Ở
đây nói đến tận cùng thần lực của Như Lai, bày tỏ bản hoài xuất thế, lộ toàn thể
pháp thân. Ngài nói về thọ lượng không cùng tận của mình, dùng thí dụ người thầy
thuốc dụ rõ: Tuy diệt mà không diệt.Ý muốn các hàng Thanh văn thực sự chứng ngộ
được pháp thân thường trụ này. Đây mới chính là nhân tố chính.
Phẩm này tiếp nối phẩm
Tùng Địa Dõng Xuất về lý đã đủ, phẩm kế là Phân biệt công đức, ý là tùy thuận
thì chứng ngộ được.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Ngã đẳng đương tín thọ Phật ngữ” (Lúc bấy giờ Phật bảo … chúng
con sẽ tin nhận lời Phật).
Đoạn này Đức Thế Tôn
nhân vì chúng Bồ tát từ đất vọt lên ở phẩm trước, ngài Di Lặc khởi lòng nghi
nên thưa hỏi, vì vậy Phật thuyết phẩm này để đáp lại.
Trước hết ngài chưa nói
ngay mà ba lần nhắc nhở nên tin lời nói đúng đắn của Như Lai, vì vấn đề số lượng
tuổi thọ của Phật khó tin khó hiểu. Có thể nói trí tuệ của chư Phật thâm sâu
không đo lường nổi. Nay nếu nói sợ người nghe cho là hoang đường và lầm lẫn, hoặc
có người sinh nghi không tin lại mang lấy tội lỗi. Cho nên Đức Như Lai nhiều lần
nhắc nhở rồi mới nói.
Ngài Di Lặc và đại chúng
ba lần bạch “Chúng con sẽ tin nhận lời Phật, cúi mong nói đó”. Đó là tâm thỉnh
cầu khẩn thiết tột cùng vậy.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Bí mật thần thông chi lực” (Bấy giờ Đức Thế Tôn… sức bí mật thần
thông của Như Lai).
Đoạn này đáp lời hỏi của
đại chúng.
Nói là “Ba phen thỉnh chẳng
thôi” chính là phát huy phẩm phương tiện. Lúc đầu Như Lai xuất định, tự nói rằng
trí tuệ Phật thâm sâu vô lượng cánh cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào. Trước kia
Phật tự ca ngợi trí tuệ ấy mà không nói, nhờ ngài Xá Lợi Phất ba lần thưa thỉnh
rồi mới nói. Vì muốn dẫn dắt hàng nhị thừa dần dần bước vào Phật tuệ, ngài sắp
nói khai Phật tri kiến. Cho nên ngài Xá Lợi Phất làm đối tượng thuyết pháp
(Chúng đương cơ).
Nay nói về Thọ Lượng là
nói rõ và rộng hơn ý trước, nhân ngài Di Lặc thưa thỉnh, lấy ba châu ở trước
làm phương tiện khai thị. Như đã nói, vì cánh cửa trí tuệ mà thọ ký cho hàng nhị
thừa, nhưng các vị được thọ ký, chưa ngộ pháp thật tại vi diệu. Nhân việc Bồ
tát từ đất vọt lên mà thuyết về thọ lượng. Sắp sửa vì hàng Bồ tát mới được thọ
ký, ngộ được pháp thân này mới là thực ngộ, tức đắc Phật quả. Cho nên Di Lặc Bồ
tát là bậc Đại sĩ nhất sinh bổ xứ đứng ra thưa thỉnh. Xem phẩm phân biệt công đức
ở sau thì biết ngộ bản pháp này mới là thực ngộ, có thể nhập tri kiến Phật.
Đức Phật xuất thế vì một
đại sự nhân duyên vì chúng sinh mà khai thị trí tuệ Phật. Trí tuệ ấy là thể
tánh pháp thân làm họ ngộ nhập điều ấy. Do vậy lúc đầu xuất định đặc biệt dạy
cho, nhưng chỉ nêu ra thôi. Các điều dạy để khai thị khác phải đến phẩm Hiện Bảo
Tháp mới rõ ràng hiển thị trí tuệ Phật. Nhưng vẫn còn mượn Phật Đa Bảo để trình
bày, coi là đồng thể với nhau, Đức Thích Ca chưa tự thân mình nói về sự việc
căn nguyên của mình.
Nay nói thẳng Thọ Lượng
của mình, đó gọi là “Tám chữ mở tung” thẳng thắn thổ lộ mới cạn được tâm tình.
Sự việc này bốn mươi năm qua im lặng không nói, nay đã phơi bày vẫn chưa nói
ngay, phải bỏ ba châu và các phương tiện để mà nói. Đây là điều thần thông bí mật
của Như Lai vậy. Vậy mới biết Như Lai xuất thế từ đầu cho đến toàn kinh Pháp
hoa này, đều vì nói rõ trí tuệ thâm sâu vô lượng của chư Phật. Cánh cửa trí tuệ
ấy khó hiểu khó vào, chỉ hai chữ mà thôi.
3. Từ câu: “Nhất thiết
thế gian thiên, nhân, Atu la” đến câu: “Vạn ức na do tha kiếp” (Tất cả trong đời,
trời, người, Atula… muôn ức na do tha kiếp).
Đoạn này là một lời đáp
phá hết mọi nghi ngờ của nhân thiên và tam thừa.
Do chỉ thấy hiện tượng
mà không thấy bản thể, đó gọi là “Hễ đạt bổn thì tình mất” biết được tâm thì khế
hợp với thể tính, biết được thể tính thì đó là tri kiến chân chính.
4. Từ câu: “Thí như ngũ
bách thiên” đến câu: “Na do tha Atăng kỳ kiếp” (Ví như năm trăm nghìn … Na do
tha Atăng kỳ kiếp).
Đoạn này nói về sự thọ
lượng lâu dài khó nghĩ bàn, cho nên dùng ví dụ bụi đất để lấy con số thế giới
vi trần.
Ở trước phần “Nhân duyên
châu” có dẫn chuyện Đức Thế Tôn ở nơi Đức Đại Thông Trí Thắng, lúc làm vương tử
thuyết kinh Pháp Hoa kết duyên nhất thừa, khi bàn về nhân duyên xưa có nói lấy
một thế giới Tam thiên đại thiên làm địa chủng mài thành mực. Nay lại lấy năm
trăm ngàn ức na do tha Atăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới làm địa chủng, đều
làm thành vi trần, mà vi trần đó nhỏ hơn điểm mực. Ở trước đã nói rằng qua
phương Đông ngàn cõi nước mới rơi xuống một giọt mực. Nay thì qua phương đông
năm trăm ngàn muôn ức Na do tha Atăng kỳ quốc độ mới rơi xuống một hạt vi trần,
thì quốc độ chẳng dính vi trần lại nhiều hơn thí dụ trước. Số vi trần này không
thể biết được, cái biết của tâm không đến được. Như vậy người tu học trong tam
thừa cho đến bất thối Bồ tát đều không thể đạt đến. Huống chi các thế giới vi
trần và không dính vi trần đều lấy nghiền làm vi trần, một vi trần làm một kiếp,
sao có thể nghĩ bàn được! Vậy mới biết Đức Đại Thông Trí Thắng phần nhiều dựa
vào nơi tích môn mà nói, nên phẩm phương tiện nói ngài Xá Lợi Phất, hàng Tam thừa
cho đến Bồ tát bất thối đầy cả tam thiên đại thiên thế giới đông như lúa, mè,
tre, lau. Tập hợp tất cả sức mạnh trí tuệ ấy cũng không biết được trí tuệ của
Phật. Ý nghĩa ấy nằm ở dưới đây vậy.
5. Từ câu: “Tự tùng thị
lai” đến câu: “Đạo lợi chúng sinh” (Từ đó nhẫn lại … dẫn dắt lợi ích chúng
sinh).
Đoạn này nói số lượng tuổi
thọ thành Phật.
Như trên nói trần kiếp
lâu xa và nhiều như vậy, còn nói rằng từ xưa đến nay thường ở tại thế giới Ta
bà thuyết pháp giáo hóa, và ở cõi khác dẫn dắt làm lợi ích cho chúng sinh, điều
này thật khó tin khó hiểu. Cho nên hàng Nhị thừa trời, người, nghe vậy không ai
không lấy làm lạ và hoài nghi.
Đây chính là chỉ thẳng
pháp thân thường trụ vốn không sinh diệt, thế giới y báo đồng nhất với tịch
quang tịnh độ. Đó gọi là “Có Phật hay không Phật tánh và tướng vẫn thường trụ”.
Cho nên phải biết rằng chư Phật vốn không Niết bàn, chúng sinh vốn chẳng sinh tử.
Đó là pháp giới bình đẳng, diệu pháp thật tướng đều hiện ở đây. Vậy hàng tam thừa
kiến giải yếu kém sao có thể tin được! Cho nên, quyết mở bày Phật tri kiến, để
biết và thấy hết. Chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu thật tướng của các
pháp này. Ngài muốn các vị trong hàng tam thừa biết tri kiến này mới gọi là ngộ
Phật tri kiến.
6. Từ câu: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “Dĩ phương tiện phân biệt” (Các thiện nam tử … dùng phương tiện
để phân biệt).
Đoạn này là ngầm trả lời
văn khó hiểu.
Trên nói thành Phật lâu
xa, còn nói trí tuệ của chư Phật thâm sâu vô lượng. Ở đây nói Niết bàn và thọ
ký đều là phương tiện, còn nói cánh cửa trí tuệ ấy lấy phương tiện quyền xảo, đặc
biệt để hiển thị cái chân thật. Cho nên khó hiểu khó vào.
7. Từ câu: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “phát hoan hỷ tâm” (Các thiện nam tử …. Phát lòng vui mừng).
Đoạn này nói về pháp
thân trạm nhiên thường trụ mà hiện thân ứng hóa độ sinh.
Chỉ tùy theo căn cơ có
lanh lợi, có ngu độn, nên dùng danh tự ngôn ngữ không giống nhau. Như Kinh Hoa
Nghiêm phẩm Danh hiệu nói thọ mạng dài ngắn, phẩm Atăng kỳ nơi pháp có đốn tiệm.
Như phẩm Tứ thánh đế, đều là tác dụng của tùy duyên chẳng phải là gốc của pháp
vậy.
8. Từ câu: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “Tác như thị thuyết” (Các thiện nam tử … nên nói như thế)
Đoạn này nói tích môn
thì gần mà bổn môn thì xa, điều thi thiết đều là phương tiện.
9. Tu cau: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “Giai thật bất hư” (Các thiện nam tử.. điều thật chẳng dối).
Đoạn này nói những pháp
được nói hoặc tự hoặc tha đều giống như việc làm của Phật Đăng Minh, Phật Đại
Thông Trí Thắng, Phật Đa Bảo… đều là một thân, cùng một trí tuệ, là sự thị hiện
cả, đều là sự thật chẳng phải hư dối. Do chúng sinh trí cạn nên sinh lòng nghi
mà không tin, khởi lên tri kiến không đúng.
10. Từ câu: “Sở dĩ giả
hà” đến câu: “Vị tằng tạm phế” (Vì sao? … chưa từng tạm bỏ).
Đoạn này giải thích đều
là ý chân thật không hư dối, để trình bày thật tướng thường trụ của các pháp.
Thấy như thật các tướng
của ba cõi, nghĩa là các pháp như thị tướng, tánh, thể, lực, bổn mạt, cứu cánh
… Do Như Lai thấy rõ các tướng của ba cõi vốn không sinh tử, xuất một, sinh diệt,
hư, thực, như, dị. Nghĩa là các pháp chỉ một tướng một vị, tướng ly, tướng diệt,
tướng rốt ráo tướng vắng lặng. Do chúng sinh trong ba cõi mê mờ đối với thể
tánh các pháp nên thấy lầm có tướng sai biệt. Đức Như Lai thấy rõ tất cả bình đẳng
không có lầm lẫn, đó gọi là Phật tri kiến. Cho nên nói “Chẳng phải như ba cõi
mà thấy nơi ba cõi”. Nay vì chúng sinh mà khai tri kiến Phật, là muốn chúng
sinh thấy trực tiếp tướng như thật của tam giới mà thôi. Vì vậy ở trước nói
“Như thị” diệu pháp ấy chính là đây vậy.Đó gọi là trí tuệ của chư Phật thâm sâu
vô lượng. Do căn tính chúng sinh không đồng, có các loại dục tính, dục tưởng
phân biệt, nên Phật tùy cơ mà thiết lập phương tiện, sử dụng biết bao nhân
duyên, thí dụ… để nói pháp, tất cả đều là Phật sự. Đây gọi là cánh cửa trí tuệ
khó hiểu khó vào vậy.
11. Từ câu: “Như Lai ngã
thành Phật” đến câu: “Thường trụ bất diệt” (Như thế từ ta thành Phật … thường
còn chẳng mất).
Đoạn này là kết, biểu thị
pháp thân thường trụ bất diệt.
12. Từ câu: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “Giáo hóa chúng sinh” (Các thiện nam tử … giáo hóa chúng
sinh).
Đoạn này nói sẽ diệt độ
để làm rõ quyền pháp.
Ở trước dùng kiếp số nhiều
như vi trần để dụ cho thọ mạng, là thuyết minh pháp thân thường trụ vĩnh cửu bất
diệt. Ở đây nói “Ngày xưa tu hành đạo Bồ tát cảm thành thọ mạng vẫn chưa hết
nay lại tăng hơn số trên” đó gọi là việc pháp thân hướng thượng. Như vậy mà nói
diệt độ thì chỉ là phương tiện ứng cơ, biểu hiện quyền pháp.
13. Từ câu: “Sở dĩ giả
hà” đến câu: “Dĩ phương tiện thuyết” (Vì sao …. Dùng phương tiện nói rằng).
Đoạn này giải thích lý
do vì sao phải diệt độ.
Nếu Phật ở đời quá lâu
thì người đức mỏng không khởi ý tưởng khó gặp, không sinh tâm cung kính. Vì những
hạng người này mà nói diệt độ, đó là dùng quyền tích để thị hiện. Thực sự vẫn tồn
tại mà nói diệt độ, nên khó tin.
14. Từ câu: “Tỳ kheo
đương tri” đến câu: “Giai thật bất hư” (Tỳ kheo phải biết … đều thật chẳng dối).
Đoạn này nói Như Lai thật
ra không diệt độ mà nói diệt độ, là muốn chúng sinh phát khởi tâm lý khó gặp,
sinh lòng ái mộ làm cho họ trồng được gốc lành. Vì vậy không thật diệt mà nói
diệt. Ở đây dùng quyền pháp hiện ra diệt độ, pháp lợi sinh của chư Phật đều như
vậy, tất cả đều vì chúng sinh. Quyền tức là Thật, cho nên nói là chân thật
không dối.
15. Từ câu: “Thí như
lương y” đến câu: “Nãi chí bách số ” (Ví như vị lương y … nhẫn đến số trăm).
Đoạn này thiết lập thí dụ
người thầy thuốc dụ cho Đức Như Lai thật còn mà nói diệt, để giải thích về ý vì
độ chúng sinh.
Lương y dụ cho Phật,
phương thuốc dụ cho giáo pháp, diệu dược dụ cho hợp chân lý, các thứ bịnh, các
loại dược tính dụ cho đối trị các bịnh tính dục của chúng sinh. Đó là điều mà
Phật thường dạy: Tất cả pháp là đối trị tất cả tâm ý, nếu không có tất cả tâm
thì dùng tất cả pháp làm gì. “Các con đến số trăm” là nói chúng sinh trong ba
cõi. “Hoặc mười hoặc hai mươi” là chỉ cho người và trời cho đến mười loại.
16. Từ câu: “Dĩ hữu sự
duyên” đến câu: “Uyển chuyển ư địa” (Do có sự duyên … lăn lộn trên đất).
Đoạn này dụ cho duyên
giáo hóa của Phật đã hết nên ẩn thân không xuất hiện nữa.
Ngài lại xuất hiện ở
phương khác chính là vị lương y cũ. Trước kia Phật đã diệt độ, chúng sinh trong
ba cõi gần gũi huân tập ngoại đạo và tiểu thừa, như uống độc dược. “Lăn lộn
trên đất” là dụ cho lấy cái khổ để trừ cái khổ luân hồi trong lục đạo.
17. Từ câu: “Thị thời kỳ
phụ” đến câu: “Vô phục chúng hoạn” (Bấy giờ người cha … không còn lại có các bịnh
hoạn).
Đoạn này dụ cho Đức Như
Lai quán sát thấy chúng sinh trong ba cõi bị các nỗi khổ bức bách, cho nên xuất
hiện ở đời. Như vậy cho là vị lương y mới. Tuy nhiên đó gọi là “Cha họ trở về”,
không phải là hai người cha (trước sau chỉ một người cha). Chúng sinh đang mê
muội cách Phật rất xa, cho nên nói là “ Xa thấy”. Biết tên biết hiệu nên nói là
“ Đều rất vui mừng”. Phát tâm nỗ lực tu hành nên nói là “ Quỳ lạy thăm hỏi”. Đã
biết phiền não là nguồn gốc của khổ, sinh tử là khốn đốn, nguyện cầu ra khỏi,
cho nên nói rằng “ Chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc xin cứu lành cho”. Bỏ vọng
về chân nên gọi là “ Ban thọ mạng cho chúng con”.
Đức Phật tuân thủ theo
phương thức ứng cơ giáo hóa của chư Phật; đem nhất thừa phân biệt nói thành ba
thừa, nên nói là “ Y theo các kinh phương tìm cỏ thuốc tốt.v.v..” Vạn hạnh đầy
đủ, nên gọi là “ Mùi sắc vị ngon” Các pháp được thuyết đều nhất quán, nên gọi
là “ Đâm nghiền hòa hiệp”. Dùng phương tiện quyền xảo để cứu độ, nên gọi là “
Các con nên uống”. Đoạn hoặc chứng chân, nên gọi là “ Mau trừ khổ não, không
còn lại có các bịnh hoạn”.
18. Từ câu: “Kỳ chư tử
trung” đến câu: “Nhi vị bất mỹ” (Trong các con… mà cho là không ngon).
Đoạn này dụ đối tượng
giáo hóa có khó có dễ “Thấy thuốc liền uống” là bậc thượng trí căn tính lanh lợi,
gặp Phật pháp tức thì tin hiểu, đó là người giáo hóa dễ. Nói rằng “Thấy cha về,
dẫu cũng vui mừng cũng cầu trị bịnh, song trao thuốc mà không chịu uống” dụ cho
người nhị thừa tuy gần Phật pháp mà không chịu tiếp nhận Bồ đề. Vì tích luỹ
nghiệp chướng sâu dày nên gọi là “ Hơi độc đã vào sâu”.
19. Từ câu: “Phụ tác thị
niệm” đến câu: “Nhữ phụ dĩ tử” (Người cha nghĩ rằng … cha các ngươi đã chết).
Đoạn này dụ sắp sửa nói
lên sự diệt độ, chính là nói kinh này. “Những người con này đáng thương”… là dụ
cho hàng nhị thừa chấp quyền pháp không bỏ không chịu cầu Đại thừa gọi là “Chẳng
chịu uống thuốc”. “Để lại lương dược” là dụ cho thuyết kinh này. Nói “Cha các
ngươi đã chết” là dụ cho nói về nhập Niết bàn. Thật ra qua ở nước khác mà nói
đã chết là dụ cho thật sự không phải diệt độ mà thị hiện diệt độ.
20. Từ câu: “Thị thời
chư tử văn phụ bối táng” đến câu: “Tầm tiện lai quy hàm sử kiến chi” (Bấy giờ
các con nghe cha chết … Liền trở về cho các con đều thấy).
Đoạn này dụ cho sự trì
kinh này tức được khai ngộ tri kiến Phật, cho nên nói “Tìm trở về nhà cho các
con đều thấy”. Đó gọi là “Ta ở núi Linh Thứu thường còn không mất”. Đây hiển thị
pháp thân thường trụ, tùy cơ duyên mà ẩn hay hiện mà thôi.
21. Từ câu: “Chư thiện
nam tử” đến câu: “Bất giả Thế Tôn” (Các thiện nam tử… thưa Thế Tôn không thể được).
Đoạn này thẩm xét hư vọng
để trình bày lòi Phật không dối gạt, tổng kết lời dụ trên.
22. Từ câu: “Phật ngôn”
đến câu: “Hư vọng quá giả” (Phật nói … có lỗi hư dối).
Đoạn này nói pháp thân
chân thật của Phật thường trụ bất diệt, chỉ vì tùy theo cơ cảm mà tạm hiện sự
diệt độ. Cho nên nói “Dùng sức phương tiện”…
23. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Nhĩ lai vô lượng kiếp” (Khi đó Đức Thế Tôn … đến nay vô lượng kiếp).
Đoạn này nói chung về
pháp thân thường trụ, tùy theo cơ cảm mà ẩn hiện. Từ câu: “Từ ta thành Phật lại”
trở xuống 8 câu, là nói việc thành Phật lâu xa, thường trụ bất diệt.
24. Từ câu: “Vị độ chúng
sinh” đến câu: “Trụ thử thuyết pháp” (Vì độ chúng sinh vậy … thường trụ đây nói
pháp).
Đoạn này nói diệt mà
không diệt. Vì cái diệt chỉ là cái thấy bên ngoài không thật có diệt độ.
25. Từ câu: “Ngã thường
trụ ư thử” đến câu: “Hiện hữu diệt bất diệt” (Ta thường ở nơi đây … hiện có diệt
chẳng diệt).
Đoạn này giải thích ý
nghĩa diệt mà không diệt. Kỳ thật pháp thân thường trụ mà nói diệt là do sức thần
thông, làm cho chúng sinh bị đảo lộn tuy gần mà không thấy, nên cho rằng Phật
đã diệt độ. Câu: “ Chúng thấy ta diệt độ” trở xuống 14 câu, là giải thích lý do
bất diệt. Nếu chúng sinh do thấy ta diệt độ đều cúng dường xá lợi mà khởi tâm
luyến mộ khát ngưỡng, muốn mong thấy Phật, cho đến không tiếc thân mạng, khẩn
thiết khổ sở cầu mong thì ta và chúng Tăng ở núi Linh Thứu đồng thời xuất hiện,
mà nói cho chúng sinh rằng ta thường trụ nơi đây. Đây nghĩa là thiện xảo của
quyền pháp, nên gọi là dùng sức phương tiện thị hiện diệt độ mà không có diệt,
không phải thật diệt.
26. Từ câu: “Dư quốc hữu
chúng sinh” đến câu: “Đãn vị ngã diệt độ” (Nước khác có chúng sinh … chỉ nói ta
diệt độ).
Đoạn tụng này nói pháp
thân ứng hiện khắp nơi, tùy cơ mà ẩn hiện. Đó gọi là “Nước trong thì trăng hiện
cảm ứng đạo giao” Vốn không có tâm phân biệt cái này cái kia.
27. Từ câu: “Ngã kiến
chư chúng sinh” đến câu: “Nãi xuất vị thuyết pháp” (Ta thấy các chúng sinh … hiện
ra vì nói pháp).
Đoạn này ý nói ẩn hay hiện
tùy cơ, cơ duyên giải đãi thì ẩn, cơ duyên cảm ứng thì hiện. Như vậy biết rằng ứng
hay hiện là tùy cơ chứ không phải ở nơi Phật.
28. Từ câu: “Thần thông
lực như thị” đến câu: “Cập dư chư trụ xứ” (Sức thần thông như thế … và các trụ
xứ khác).
Đoạn tụng này hiển thị
pháp thân thường trụ, không nói là cõi này hay cõi khác, đều thường còn bất diệt.
29. Từ câu: “Chúng sinh
kiến kiếp tận” đến câu: “Tán Phật cập đại chúng” (Chúng sinh thấy tận kiếp …
rãi Phật và đại chúng).
Đoạn tụng này nói, kiếp
tam tai hoại rồi mà cõi này vẫn an ổn, chính là cõi Thường tịch quang tịnh độ
và Thật báo trang nghiêm độ. Nói rằng Đức Phật thường ở núi Linh Thứu không diệt
độ, là nói cõi ta bà này trải qua nạn của tam tai, diệt mà không diệt. Thế mới
biết cõi ô uế này chính là cõi Thật báo trang nghiêm, không cần chờ ba lần biến
tịnh độ. Do chúng sinh ô nhiễm nặng, bởi cái nhìn của vô minh, nên độc ác đầy dẫy.
Mắt Phật mà nhìn thì là chân không tịch tịnh, vi diệu trang nghiêm. Cho nên ở
trước ba lần biến thành tịnh độ là đặc biệt hiện tri kiến Phật cho chúng sinh.
“ Vườn rừng.v.v..” Đều là biểu hiện của Thật báo trang nghiêm. Chính cõi Ta bà
này là Thật báo, đâu phải chỗ thấy của kẻ thường tình!.
30. Từ câu: “Ngã tịnh độ
bất hủy” đến câu: “Như thị tất sung mãn” (Tịnh độ ta chẳng hư … như thế đều đầy
dẫy).
Đoạn tụng này nói cõi tịnh
độ ấy thật chẳng hư hoại mà chúng sinh thấy bị cháy hết, đó là biệt nghiệp, là
cái thấy sai lầm do chiêu cảm của ác nghiệp.
31. Từ câu: “Thị chư tội
chúng sinh” đến câu: “Vị thuyết Phật nan trị” (Các chúng sinh tội đó … vì nói
Phật khó gặp).
Mười hai câu này nói tịnh
hay uế, tùy cơ mà ẩn hiện chứ không do Phật. Tùy theo cảm mà có ứng, không có
tướng nhất định.
32. Từ câu: “Ngã trí lực
như thị” đến câu: “Phật ngữ thật bất hư” (Trí lực ta như thế… lời Phật thật
không dối).
Đoạn này tổng kết pháp
thân thường trụ, vốn không có ẩn hay hiện, khuyên đại chúng nên tin tưởng.
Phạn ngữ nói là Tỳ Lô
Giá Na, đây dịch là Quang Minh Biến Chiếu. Do pháp thân trí tuệ, ánh sáng ấy
chiếu vô lượng nên tuổi thọ cũng vô lượng.
33. Từ câu: “Như Y thiện
phương tiện” đến câu: “Vô năng thuyết hư vọng” (Như lương y chước khéo … không
thể nói hư dối).
Đây là tụng về Dụ.
34. Từ câu: “Ngã diệc vi
thế phụ” đến câu: “Đọa ư ác đạo trung” (Ta là cha trong đời … sa vào trong đường
ác).
Đoạn tụng này đem Pháp hợp
với Dụ.
Do phàm phu điên đảo nên
Phật còn mà nói diệt độ. Hiển lộ diệt độ chỉ vì sợ thường gặp Phật mà sinh lòng
kiêu mạn buông lung. Như vậy mới biết Phật hoặc ẩn hoặc hiện đều vì độ sinh,
không có ngày nào là rảnh hay trôi qua vô ích.
35. Từ câu: “Ngã thường
tri chúng sinh” đến câu: “Tốc thành tựu Phật thân” (Ta thường biết chúng sinh …
mau thành tựu Phật thân).
Đoạn này nói lý do phải
thiết lập quyền pháp. Đó gọi là “Chiều theo theo cơ nghi, tùy phương tiện nói
pháp”.
Tóm lại không có điều gì
mà không vì làm cho chúng sinh mau thành tựu trí tuệ Phật.
Phẩm Phân Biệt Công Đức
Thứ Mười Bảy
Đại ý phẩm này, do nghe
Phật nói thọ lượng lâu dài nên ngộ được pháp thân thường trụ, thấy được cảnh ba
lần biến tịnh độ; hiểu được ba cõi do tâm. Đây là giác ngộ vi diệu tin và hiểu
một cách sâu sắc, lấy đó làm nhân chính có thể khế hợp quả vị Như Lai thường trụ.
Từ đây trì kinh mới là diệu hạnh.
Do pháp thân thường trụ,
thế gian hay tịnh độ đều không rời khỏi niệm hiện tiền. Thực hiện quán sát ấy,
là hiện tướng của sự tin hiểu sâu xa. Phẩm phân biệt công đức này là bất khả tư
nghì, đến phẩm này cái nhìn cảm tính sinh diệt đều mất, cái thấy tịnh và uế dứt
hẳn, sự giác ngộ đã cao, vậy mới là người trì kinh. Đó là lý do có phẩm này.
Ngài Thiên Thai chia làm
năm loại pháp sư, thuộc về quán hạnh vị, do đó trì kinh cốt yếu ở chỗ giác ngộ
không phải trì văn tự. Như vậy có thể siêu việt tất cả công đức hữu vi.
1. Từ câu: “Nhĩ thời đại
hội” đến câu: “Đắc đại nhiêu ích” (Lúc bấy giờ trong đại hội… đặng lợi ích lớn).
Đoạn này là nhà kết tập
kinh này trình bày bố trí. Đại chúng trong pháp hội nghe thuyết thọ mạng được
nhiều lợi ích lớn.
2. Từ câu: “Ư thời Thế
Tôn” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề” (Khi đó Đức Thế Tôn … Chánh đẳng chánh giác).
Đoạn này Như Lai nói về
người nghe nói thọ lượng được nhiều lợi ích lớn.
Điều nói về người được lợi
ích thì ý nghĩa có cạn sâu, tức là phân biệt sự ngộ nhập cạn sâu. Nhân đắc quả
có cái trước cái sau. “ Vô minh pháp nhẫn” là do trước tu an lạc hạnh, ban đầu
trụ nhẫn nhục địa. Nay nghe thọ lượng, pháp thân thường trụ, biết rõ không có
sinh diệt, đắc nhẫn hạnh thành tựu. Nhờ ngộ pháp không sinh, nên nơi tâm có khả
năng nhẫn. Như thế hằng sa chúng sinh đắc vô sinh nhẫn. Kinh Lăng Nghiêm nói:
Do ba pháp tuần tự mà được vô sinh nhẫn, nghĩa tương đương thành tựu quán hạnh,
tức đốn ngộ vô sinh mà nhập Tín vị. Trong kinh này do tu bốn an lạc hạnh, trong
đó lấy nhẫn làm chủ yếu. Ban đầu do sinh nhẫn đến vô sinh nhẫn. Như nhĩ căn của
Quán Âm động và tịnh đều không sinh, nghe và đối tượng nghe đều dứt. Đó cũng là
do quán chiếu liễu ngộ được vô sinh, đó là nghĩa tương đương tín vị vậy, do Tín
vị thuộc ngoại phàm cho nên nêu lên chúng sinh “ Văn Trì Đà La Ni”. Đà la ni dịch
là Tổng trì, nghĩa là gồm tất cả pháp, giữ gìn vô lượng nghĩa. Nay gọi là văn
trì, do nghe về thọ lượng ngộ được pháp thân mà an trụ thật tướng giữ không để
mất, nghĩa tương đương Thập trụ. Giữ gìn chân lý, gồm cảûviên ngộ và viên trì,
không cần trải qua thứ lớp nên gọi là tổng trì, nghiã là viên ngộ pháp thân gồm
cả 10 vị, viên thành nhất tâm nên gọi là văn trì Đà La Ni. Đắc được nhạo thuyết
vô ngại biện tài, ý nghĩa tương đương thập hạnh. Do vì thập trụ viên ngộ thật
tướng chân không, chỉ an trụ nơi không lý. Nay từ nơi lý Không xuất ra Giả để
phù hợp thế tục, lợi ích quần sinh, đó là thập hạnh “Nhạo thuyết vô ngại biện
tài” là hạnh thuyết pháp độ sinh, dùng một hạnh thành tựu tất cả các hạnh, đắc
được “Vô lượng Triền đà la ni”. Triền, giống như dòng nước xoáy chảy mạnh, thì
chỗ ấy sẽ xoáy quấn lại. Ý nghĩa này tương đương Thập hồi hướng. Do trước hai hạnh
không và giả quy về Trung đạo, hồi hướng ba chỗ (chơn như thật tướng, vô thượng
bồ đề, pháp giới chúng sinh) mà trở thành nhất tâm. Do niệm niệm là không, giả
nên niệm niệm là Trung đạo. Như dòng nước chảy nhanh tạo nên xoáy nước, nghĩa
là tâm tâm thu nhiếp vào Trung đạo đệ nhất nghĩa đế vậy.
“Có thể chuyển được pháp
luân bất thối” đó là nghiã tương đương sơ địa, tức là một khi bước lên địa đại
hoan hỷ này thì vĩnh viễn không trở lui “Có thể chuyển được pháp luân thanh tịnh”
ý nghĩa tương đương nhị địa. Nhờ ly được một phần ô nhiễm của vô minh và phá giới
nên gọi là thanh tịnh, đều gọi là có khả năng chuyển pháp luân. Tùy theo sự
giác ngộ mà hành trì, nên nghĩa kinh này ngộ tức là hành. Như vậy trải qua tám
đời cho đến một đời sẽ được quả Bồ đề. Trải qua thứ lớp ba địa cho đến thập địa,
rồi một đời bổ xứ sẽ được thành tựu Phật quả. Nói về địa vị là nói từ cạn đến
sâu. Chúng sinh thì rất nhiều mà Bồ tát thì từ nhiều giảm dần đến ít. Ban đầu từ
số thế giới vi trần. Lý càng sâu thì địa vị càng cao, người càng ít. Ở đây ta
thấy căn cơ lợi hay độn không phải là một.
Hỏi rằng: Kinh này thuần
túy nói về thật tướng, trực ngộ pháp thân mau lên Phật quả. Không nói đến hạnh
vị, tiệm thứ, giai cấp. Nay lại dựa nơi địa vị để giải thích, vậy có giải sai ý
Phật không?
Trả lời: Về lý thì tất
nhiên như vậy. Kinh Hoa Nghiêm là Kinh nhất thừa viên đốn pháp môn, khi nói bốn
mươi hai địa vị đều lấy tín làm căn bản. Cho nên nói rằng khi mới phát tâm liền
được Bồ đề, là lấy một niệm làm nhân tố tâm pháp giới, bao trùm nhân quả ba đời.
Địa vị trước sau đều do nhân tố của tâm, đó là tiệm thứ trong vô tiệm thứ.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói về vị thứ là do ba sự tăng tiến, thành tựu năm mươi
lăm địa vị đều nương vào bốn giới căn bản viên mãn nhất tâm. Thâu nhiếp vào tam
quán, nên từ ba pháp tiệm thứ mà ngộ vô sinh nhẫn, năm mươi lăm vị đều nương
vào nhất tâm tam quán. Chỉ do thành tựu đoạn trừ lậu hoặc cạn sâu mà lập địa vị.
Tuy trình bày các địa vị chung quy ở nơi nhất tâm, đây cũng là tiệm thứ trong
vô tiệm thứ.
Nay Kinh này dựa vào bốn
an lạc hạnh để nói hết sự vi diệu của trì kinh. Do nghe pháp thọ lượng mà ngộ
được pháp thân, vậy cùng với kinh Lăng Nghiêm nói do ba tiệm thứ mà ngộ vô sinh
nhẫn, ý nghĩa đồng nhau. Chỉ vì kinh Lăng Nghiêm chủ trương nhất tâm tam quán
còn kinh này chủ trương nói thẳng thật tướng làm chánh nhân Phật tính cho chúng
sinh. Ý mượn duyên nhân mà ngộ nhập, liền gọi là Phật. Do đó không nói tu, đoạn,
hạnh, vị tiệm, thứ. Chỉ lấy sự ngộ tri kiến Phật làm căn bản.
Nay nhờ bốn an lạc hạnh,
diệu ngộ được pháp thân, thẳng lên Phật địa. So sánh công đức căn cứ nơi các cấp
độ để giải thích, lấy cơ sở duyên nhân Phật tính có cạn có sâu, nên giác ngộ có
gần có xa. Chỉ lấy ngộ mà nói, không đề cập vấn đề đoạn trừ vô minh mà phân
chia địa vị.
Kinh này thuần túy nói về
thật tướng, đó gọi là “Thật tính của vô minh tức Phật tính”. Cho nên không có
phiền não để đoạn, dựa vào ngôi vị để chiêm nghiệm sự giác ngộ chứ không phải
thật có danh mục của địa vị. Nếu dùng việc phân giai cấp mà nạn vấn thì quá
đáng. Cổ đức nói: Thánh đế còn không lập thì làm gì có giai cấp. Đây thật là ý
chỉ viên đốn vậy.
3. Từ câu: “Phục hữu bát
thế giới” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề tâm” (Lại có tám thế giới … Chánh đẳng
chánh giác).
Đoạn này nói riêng những
chúng sinh phát tâm, là những người chưa nhập đạo.
4. Từ câu: “Phật thuyết
thị chư” đến câu: “Tán thán chư Phật” (Lúc Phật nói các … ngợi khen các Đức Phật).
Đoạn này trình bày trên
hư không hiện điềm lành để chứng minh cho pháp.
Thọ lượng như hư không,
đầy đủ vạn đức, nên trong hư không mưa hoa. Vì thể tính pháp thân là đồng đẳng
nên cúng dường Đức Thích Ca, đức Đa Bảo và các đại chúng. Lại mưa bột mịn chiên
đàn, trầm thủy và các hương thơm khác. Ý nói pháp thân mầu nhiệm thần thông diệu
hạnh, không gì là không có. “Trên đến trời phạm thiên” là hiển lộ pháp thân biến
khắp đến sắc biên tế. “Trên không trung phát ra âm thanh ca ngợi Phật” là nói về
pháp tánh diệu không pháp âm sung mãn ca ngợi công đức của Phật là bất khả tư
nghì vậy.
5. Từ câu: “Nhĩ thời Di
Lặc” đến câu: “Giai phát vô thượng tâm” (Khi ấy ngài Di Lặc … đều phát tâm vô
thượng).
Đoạn này ngài Di Lặc
dùng kệ ca ngợi nói lên lợi ích của pháp này vì đây là nhân tố chính cho sự
thành Phật trong tương lai.
Câu: “Phật nói pháp ít
có” trở xuống 8 câu, là ca ngợi sự lợi ích của pháp. Câu “Hoặc trụ bất thối” trở
xuống 12 câu, là nói về ban đầu mới nhập đạo cho đến khi đăng địa. Câu “Lại có
tiểu thiên giới” trở xuống 12 câu, là nói tam địa cho đến thập nhất địa. Câu
“hàng chúng sinh như thế” trở xuống 4 câu, là nói nhờ nghe thọ lượng như trên
mà đắc quả chân thật. Câu “Lại có tám thế giới” trở xuống 4 câu, là nói về
chúng sinh phát tâm nhưng chưa nhập đạo.
6. Từ câu: “Thế Tôn thuyết
vô lượng” đến câu: “Ca vịnh chư Như Lai” (Thế Tôn nói vô lượng … ca vịnh các
Như Lai).
Đoạn này nói điềm lành ứng
hiện. Do vì pháp thân như hư không, bản chất đầy đủ vạn đức, nên trong hư không
hiện các điềm lành để cúng dường chư Phật.
7. Từ câu: “Như thị chủng
chủng sự” đến câu: “Dĩ trợ vô thượng tâm” (Như thế các món việc … để trợ tâm vô
thượng).
Đoạn này đúc kết lại những
gì đã trình bày.
Nói các loại điềm lành
như thế, xưa chưa từng có. Vì nghe nói thọ lượng dài lâu, mà Pháp không biểu hiện
những ứng hiện mầu nhiệm để giúp phát tâm vi diệu. Trước đã hiện điềm lành để
trợ giúp hiển lộ đệ nhất nghĩa. Nay hiện điềm lành để trợ giúp phát tâm vô thượng.
8. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Vô hữu hạn lượng” (Lúc bấy giờ Phật bảo… đặng công đức không thể
hạn lượng).
Đoạn này nói nhờ nghe
pháp thọ lượng mà có sự so sánh lợi ích về sau.
Một niệm tin và hiểu được
công đức vô lượng. Do thọ lượng như hư không nên một niệm tin và hiểu liền thể
nhập pháp tính Diệu không, công đức lại hữu lượng hay sao!
9. Từ câu: “Nhược hữu
thiện nam tử” đến câu: “Vô hữu thị xứ” (Nếu có thiện nam tử… thời quyết không
có lẽ đó).
Đoạn này nói rằng sự tin
hiểu pháp thọ lượng tức thì nhập vào trí tuệ Phật. Dù nhiều kiếp tu hành năm
pháp ba la mật, ngoại trừ trí tuệ ba la mật, đều thuộc tu hành hữu vi. Duy ma cật
nói: “Vô huệ phương tiện phược” nên nhiều kiếp tu hành không thể so sánh với
công đức của trí tuệ Phật. Đã vào được pháp vị thì sẽ không trở lại sinh tử.
10. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Kỳ phước vi như thử” (Khi ấy Thế Tôn … phước đó nhiều như thế).
Từ câu: “Nếu người cầu
Phật huệ” trở xuống 4 câu, là nêu chung năm độ. Từ câu: “Ở trong các kiếp nói”
trở xuống 12 câu, là nói riêng bố thí độ. Từ câu: “Nếu lại gìn cấm giới” trở xuống
4 câu, là nói trì giới độ. Từ câu: “Nếu lại tu nhẫn nhục” trở xuống 8 câu, là
nói nhẫn nhục độ. Từ câu: “Hoặc lại siêng tinh tấn” trở xuống 4 câu, là nói
tinh tấn độ. Từ câu: “Lại trong vô số kiếp” trở xuống 12 câu, là nói về thiền định
độ. Từ câu: “Người đó trong trăm nghìn” trở xuống 4 câu, là tổng kết chung năm
độ và các loại công đức. Từ câu: “Có thiện nam tín nữ” trở xuống 8 câu, là nói
so sánh công đức, nghĩa là một niệm tin hiểu pháp thọ lượng, phước ấy nhiều hơn
nhiều kiếp tu hành năm độ. Nhờ đoạn trừ lòng nghi hối, an trụ thật trí và dứt bặt
sự suy nghĩ bên ngoài, cho nên công đức nhiều hơn, không thể nghĩ bàn.
11. Từ câu: “Kỳ hữu chư
Bồ tát” đến câu: “ Thuyết thọ diệc như thị” (Nếu có các Bồ tát … nói thọ mạng
cũng thế).
Đoạn này nói bậc thượng
căn nghe thuyết về pháp thọ lượng liền tin không nghi.
Từ câu: “Nếu có các Bồ
tát” trở xuống 16 câu, là nói vô số kiếp hành đạo, đời trước đã vun trồng sâu
dày, nên nghe nói thọ mạng tất nhiên có thể tin nhận, và lãnh thọ kinh này,
nguyện ở đời vị lai sống lâu độ sinh. Như hôm nay Đức Thế Tôn nói pháp vô úy.
Chúng con tương lai thành Phật nói về thọ mạng cũng như vậy. Do tin chắc không
nghi nên nguyện lực kiên cố như thế.
12. Từ câu: “Nhược hữu
thâm tâm” đến câu: “Ư thử vô hữu nghi” (Nếu có người thâm tâm … nơi đây không
có nghi).
Đoạn này nói người tin
chắc là người thượng căn thượng trí, là người thâm đạt thật tướng.
Nói “Trong sạch” là nói
giới căn được đầy đủ. Nói “Ngay thật” là nói chí nguyện kiên cố. Nói “Học rộng”
là nói thừa sự chư Phật. Nói “Tổng trì” là nói thông đạt pháp tạng. Nói “Tùy
nghĩa giải lời Phật” là nói diệu khế ly ngôn. Nói “Những người như thế mới quyết
định tin” đó gọi là kinh này không vào tay chúng sinh khác.
13. Từ câu: “Hựu A dật
đa” đến câu: “Vô thượng chi huệ” (Lại A dật đa… Huệ vô thượng của Như Lai).
Đoạn này nói ý nghĩa và
chỗ quy thú của thọ lượng.
Chỗ quy thú của thọ lượng
ở nơi tột cùng của pháp thân, cho nên công đức có được không tính số lượng. Vì
khéo léo thể nhập trí tuệ Phật nên có thể phát khởi tuệ vô lượng của Đức Như
Lai, chữ “Khởi” nghĩa là khai phát vậy.
14. Từ câu: “Hà huống quảng
văn” đến câu: “Nhất thiết chủng trí” (Huống là người rộng nghe… sinh nhất thiết
chủng trí).
Đoạn này nói về sự lợi
ích của người nghe và thọ trì.
“ Hà huống gì!” đó là lời
so sánh với ở trên. Nói chỉ biết nghĩa thú tức khai phát trí tuệ Phật, huống gì
học rộng và truyền dạy cho người khác. Thọ trì sáu cách thì công đức càng vô
biên, tự nhiên sinh nhất thiết chủng trí.
15. Từ câu: “Adật đa” đến
câu: “Thâm tín giải tướng” (A dật đa… là tướng tin hiểu sâu chắc).
Đoạn này nói hành tướng
của sự tin hiểu thâm sâu.
Nói có thể tin hiểu sâu
sắc pháp thân thường trụ thì một hội linh sơn vẫn còn tồn tại, cõi Ta bà ô nhiễm
là thế giới hoa tạng. Quán được như vậy, đó là tướng tin hiểu sâu sắc, dùng một
niệm mà vượt qua 10 địa tức được thành Phật, nên gọi là tin hiểu sâu sắc.
Trong phẩm phương tiện ở
trước có nói ngài Xá Lợi Phất nhờ tín mà vào, và bốn đại đệ tử liễu ngộ, nên phẩm
có tên là Tín Giải. Dù mong được Phật thọ ký nhưng sự tin hiểu chưa sâu, chỉ là
tin theo lời Phật nên mỗi lần nói đều nhắc rằng: “Lời nói của Như Lai không hư
dối”, nên đối với Phật tâm chưa tin. Đến phẩm Hiện Bảo Tháp dù thấy Phật Đa Bảo
bất diệt và ba lần biến tịnh độ, vẫn chưa biết Đức Thích Tôn pháp thân thường
trụ, cõi ô uế này vốn là tịnh độ, do tự tâm chưa khai ngộ. Đến khi nói về trì
kinh bốn an lạc hạnh, nương theo đó mà hiểu rõ. Từ đất vọt lên trước mắt, tâm mới
phát khởi giác ngộ. Cho nên Đức Như Lai tự nói về thọ lượng dài lâu để trình
bày pháp thân thường trụ bất diệt. Đến đây mới thấy vĩnh viễn vô sinh diệt, tịnh
và uế nhất như, mới tin Phật tâm. Do vậy lời kết chỉ dẫn quán tâm rằng: “Nếu có
thể quán sát như thế mới là tướng tin hiểu sâu sắc” Thế nên tôi (người giảng) ở
trước nói rằng: Nêu phẩm Tín giải cho đến phẩm Hiện Bảo Tháp đều do tin mà hiểu.
Từ phẩm Đề Bà Đạt Đa đến đây đều do hạnh mà ngộ, gọi là tin hiểu sâu sắc, là
giác ngộ tột cùng pháp thân.
Ngài Thiên Thai dùng
chung tam quán để giải thích kinh, giáo nghĩa nằm ở đây, do ngộ Pháp hoa tam muội
đích thân thấy hội Linh sơn vẫn còn. Đó là ngài tự chứng cái tướng tin hiểu sâu
sắc. Không chỉ riêng ở đây (mà các nơi khác cũng có), chỉ vì người học, trí cạn
tâm thô không thể dung nhâïp diệu quán nên cho là phiền phức. Sao có thể biết sự
diệu ngộ của người xưa!
16. Từ câu: “Hựu phục
Như Lai” đến câu: “Đảnh đái Như Lai” (Và lại sau Đức Như Lai… đầu đội Đức Như
Lai).
Ở trên là thuyết minh về
sự lợi ích của phẩm thọ lượng, còn ở đây thuyết lợi ích của toàn kinh.
Nói rằng chỉ có tùy hỷ
kinh này đã là tướng của sự tin hiểu sâu sắc huống gì đọc tụng thọ trì. Đó
không phải là đầu đội Như Lai ư! Do vì kinh này là toàn thể pháp thân của Như
Lai.
17. Từ câu: “A dật đa” đến
câu: “Tác thị cúng dường dĩ” (A dật đa… việc cúng dường đó rồi).
Ở đây nói nếu có thể thọ
trì đọc tụng kinh này tức là cúng dường Phật và chúng tăng. Vì kinh này là nhất
thể Tam bảo, trì kinh tức là cúng dường Tam bảo vậy.
18. Từ câu: “A dật đa” đến
câu: “Cập tỳ kheo tăng” (A dật đa … và Tỳ kheo tăng).
Đoạn này nói người trì
kinh tức là đã cúng dường Tam bảo, để trình bày pháp cúng dường là hơn hết.
19. Từ câu: “Thị cố ngã
thuyết” đến câu: “Cúng dường chúng tăng” (Cho nên ta nói … cúng dường chúng
tăng).
Đoạn này kết lại để
trình bày pháp cúng dường là hơn hết, “Chẳng cần chùa tháp”.v.v.. để nói rõ lý
hạnh tối thắng.
20. Từ câu: “Huống phục
hữu nhân” đến câu: “Nhất thiết chủng trí” (Huống lại có người… nhất thiết chủng
trí).
Đoạn này nói người trì
kinh lại kiêm tu hạnh lục độ thì công đức vô lượng, vì có thể mau đến quả vị nhất
thiết chủng trí.
21. Từ câu: “Nhược nhân
đọc tụng” đến câu: “Bồ tát công đức” (Nếu có người đọc tụng… công đức của Bồ
tát).
Ở trên nói chỉ có thể
trì kinh, không cần tạo dựng chùa tháp, tăng phòng.v.v… sợ rằng có người cho rằng
hạnh phá hoại nên nay lại nói người trì kinh mà chuyên tu hạnh phụng sự xây dựng
chùa tháp, tăng phòng, lại có thể ngợi khen người ở tam thừa. Như vậy lý sự
song tu, chẳng phải là thù thắng sao!
22. Từ câu: “Hựu vị tha
nhân” đến câu: “Như Phật chi tháp” (Lại vì người khác … như tháp của Phật).
Ở đây nói đã có thể trì
kinh, lại có thể giảng giải, có thể tu nhiều lý hạnh. Đó không phải là người đã
đến đạo tràng, được gần Bồ đề, ngồi dưới đạo thọ, sắp sửa thành đẳng chánh giác
ư! Đây là giải thích nghĩa của đoạn trên mau được nhất thiết chủng trí.
Có người được diệu hạnh
như vậy thì ở nơi bốn oai nghi đều được xây tháp cúng dường. Vì người này đã đầy
đủ Phật tâm, Phật hạnh, cách Phật không xa, vốn nên cúng dường.
Đây là tổng kết công đức
của tướng tin hiểu sâu sắc vậy.
23. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Kinh hành cập toạ ngoạ” (Khi ấy Đức Thế Tôn… kinh hành và ngồi nằm).
Từ câu: “ Sau khi ta diệt
độ” trở xuống 4 câu, là nói tổng quát về công đức thù thắng của sự trì kinh.
Câu: “Đó thời là đầy đủ” trở xuống 18 câu, là nói các việc cúng dường chư Phật.
Câu: “Nếu hay trì kinh này” trở xuống 12 câu, là nói việc cúng dường chư Tăng.
Câu: “Nếu có lòng tin hiểu” trở xuống 12 câu, là nói riêng công đức của người
trì kinh. Câu: “Huống lại trì kinh này” trở xuống 4 câu, là nói kiêm tu hạnh lục
độ. Câu: “Cung kính nơi tháp miếu” trở xuống 6 câu, là nói về đầy đủ các hạnh
lành. Câu: “Nếu làm được như hạnh đó” trở xuống 22 câu, là nói tổng kết người
trì kinh. Do cung kính người trì kinh như kính Phật, thì chỗ đứng ngồi nằm của
người ấy, nên làm cho trang nghiêm như cúng dường Phật. Vì người Phật tử này
như Phật nên sự thọ dụng cũng như Phật.
Ở trên nói từ “Tu mạn
na” còn gọi là Tô ma na dịch là Thích ý “Chiêm bặc” cũng gọi là “Chiêm bặc ca”
dịch là Huỳnh hoa. “A đề mục đa già” đây gọi là Vô long thủy. Cả ba thứ hoa này
rất thơm, dùng ướp mè lấy dầu cúng Phật.
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức Thứ
Mười Tám
Đại ý phẩm này là do phẩm
trước phân biệt về công đức trì kinh, chỉ nghe một phẩm thọ lượng đã được sự
thù thắng.
Tuy nhiên chưa nói hết về
lợi ích của sự tùy hỷ toàn bộ kinh. Nay lấy một niệm của công đức tùy hỷ so
sánh thù thắng hơn tám mươi năm đem bảy thứ báu bố thí cho bốn trăm muôn ức
Atăng kỳ thế giới chúng sinh trong sáu đường, và làm cho họ mỗi người đều được
phước của bốn thánh quả. Như vậy là để hiển lộ lợi ích cùng cực của pháp thù thắng
này, làm cho tâm nguyện của hàng nhị thừa được kiên cố, nên có phẩm này.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Di
Lặc Bồ tát” đến câu: “Đắc cơ sở phước” (Lúc bấy giờ ngài Di Lặc … lại đặng bao
nhiêu phước).
Đoạn này ngài Di Lặc do
nghe công đức trì kinh và thọ lượng của Phật thì đã là như Phật, cho là sự thù
thắng cao tột. Nhưng không biết ngẫu nhiên tạm thời tùy hỷ công đức thì như thế
nào? Cho nên ngài mới thưa hỏi.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Nhữ đương thiện thính” (Khi đó Phật bảo … ông phải lắng nghe).
Đoạn này nói về người
sau cùng, chuyển dạy cho nhau nhằm mục đích so sánh công đức với người nghe đầu
tiên trong pháp hội.
Trong bốn chúng không luận
già trẻ đều là người đích thân tham dự pháp hội. Từ pháp hội mà đi đến các nơi
khác hoặc nơi tăng phòng… Nói không chọn nơi chốn, như nói bàn lý thuyết ngoài
pháp hội, cha mẹ, thân thích chẳng câu nệ người nào. Đây không phải là hàng
thính chúng trong pháp hội, đều là những người thô lậu không có oai nghi nghiêm
chỉnh. “Nói tùy sức của diễn thuyết” là nói họ thuyết không hết ý chỉ của kinh.
Những người này nghe thuyết, họ chỉ tùy thuận hoan hỷ mà thôi, chứ chẳng phải
tinh chuyên trì kinh. Họ lại xoay vần chuyển dạy đến người thứ năm mươi, như thế
đối với pháp hội đã xa càng xa thêm. Nay lấy cái công đức được nghe ban đầu
trong pháp hội so sánh với người thứ năm mươi. Đây là lấy cái xa so sánh với
cái gần để hiển lộ sự lợi ích thù thắng của người nghe pháp lúc ban đầu. Kinh
Hoa Nghiêm nói: Năm mươi quả vị thánh đều chú trọng sơ phát tâm, công đức không
so sánh được. Ở đây người thứ năm mươi mới nghe đến danh tự phát tâm thôi. (Năm
mươi thánh vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa).
3. Từ câu: “Nhược tứ
bách vạn ức” đến câu: “Cung điện lầu các đẳng” (Nếu bốn trăm muôn ức … những
cung điện lầu các).
Đoạn này đem công đức
tài thí rộng lớn so sánh với phước đức tùy hỷ.
“Bốn trăm vạn ức Atăng kỳ
thế giới” là nói đến thế giới vừa rộng vừa nhiều. “Sáu nẻo, bốn loài chúng
sinh” tức là nói hết số chúng sinh không thể tính đếm. Nói tận cùng sự mong cầu
của chúng sinh, tùy theo sở thích và cần dùng của họ, mà đem cho họ thì tâm ấy
không có giới hạn. Cùng với vàng bạc, thất bảo, lầu các đầy cả diêm phù đề, thì
sự rộng lớn của tài thí ấy là vô biên. Đây là nói sự lớn lao của tài thí.
4. Từ câu: “Thị đại thí
chủ” đến câu: “Cụ bát giải thoát” (Vị đại thí chủ đó … đủ tám món giải thoát).
Đoạn này lấy pháp thí để
so sánh công đức tùy hỷ.
Dùng tài thí rộng lớn
qua tám mươi năm tức đã trọn đời, thời gian khá dài. Rồi còn thương xót chúng
sinh già suy. Suy nghĩ phương pháp độ cho họ, do vậy thuyết pháp làm cho rất
nhiều chúng sinh đều chứng được Tứ quả thánh, thoát khỏi nỗi khổ sinh tử, được
sự an lạc thâm sâu của thiền định. Đây là pháp thí vô cùng vậy.
5. Từ câu: “Ư nhữ ý vân
hà” đến câu: “Ala hán quả” (Ý ông nghĩ sao? … đặng quả Ala hán).
Đoạn này Đức Thế Tôn nói
rõ công đức của hai sự bố thí để so sánh với công đức tùy hỷ.
6. Từ câu: “Phật cáo Di
Lặc” đến câu: “Sở bất năng tri” (Phật bảo Di Lặc… không thể biết được).
Đoạn này lấy hai sự bố
thí là Tài thí và Pháp thí so sánh với công đức của người thứ năm mươi.
Những ngoại tài thuộc hữu
lậu còn tiểu quả thuộc quyền thừa, nên khó mà so sánh với chủng tử Phật tánh.
Công đức của một bài kệ tùy hỷ siêu việt hơn phước đức của hai sự bố thí.
7. Từ câu: “A dật đa” đến
câu: “Bất khả đắc tỷ” (A dật đa… không có thể sánh đặng).
Đoạn này lấy cái xa so
sánh với cái gần, nên không thể so sánh được. Hơn nữa người nghe pháp sau cùng
như là người sơ phát tâm, còn người nghe pháp đầu là biểu tượng của địa thượng
Bồ tát. Do đích thân tham dự pháp hội nghe thuyết diệu pháp, đi thẳng vào trí
tuệ Phật, nên công đức không thể nghĩ bàn và so sánh được.
8. Từ câu: “Hựu A dật
đa” đến câu: “Cập thừa thiên cung” (Lại A dật đa! … và đặng ở thiên cung).
Đoạn này nói rõ sinh báo
thù thắng của người tùy hỷ.
Ở trước nghe nói về thọ
lượng thì được quả báo cùng với Phật không khác nhau. Cho nên đi kinh hành ngồi
nằm đều thọ dụng như Phật. Nay sự lợi ích của tùy hỷ là chuyển thân hưởng được
quả báo voi ngựa, xe cộ tốt đẹp và được cung điện cõi trời. Do tùy hỷ pháp nhất
thừa vi diệu này nên cảm ứng quả báo tốt đẹp như thế.
9. Từ câu: “Nhược phục hữu
nhân” đến câu: “Sở toạ chi xứ” (Nếu có người … chỗ ngồi của chuyển luân thánh
vương).
Đoạn này nói về quả báo
chia chỗ ngồi nghe pháp cho người khác.
Do nghe kinh này lấy
pháp không làm tòa. Nay tạm chia chỗ ngồi nên cảm quả báo được chỗ ngồi của
chuyển luân thánh vương. Do một niệm nhường nhau, cùng với Pháp không bình đẳng
như nhau vậy.
10. Từ câu: “A dật Đa” đến
câu: “Cọng sinh nhất xứ” (A dật Đa …. Sinh cùng một chỗ).
Đoạn này nói về quả báo
khuyên người khác nghe.
Người được khuyên chỉ
nghe trong chốc lát mà người khuyên cảm thọ được quả báo công đức khi chuyển
thân được sinh cùng một chỗ với Đà La Ni Bồ tát. Do nhờ diệu pháp nhất tâm này,
là “Pháp giới tổng tướng đại pháp môn”, cho nên khuyên người tạm nghe thì tâm đồng
pháp giới nên được sống chung với Bồ tát tổng trì.
11. Từ câu: “Lợi căn trí
tuệ” đến câu: “Tín thọ giáo hối” (Căn tính lanh lợi … tin nhận lời dạy bảo).
Đoạn này nói về quả báo
lục căn của người khuyên.
Lợi căn trí tuệ là ý
căn. Nói “Chẳng ngọng câm” là thiện căn. Nói có tiếng mà không thành chỉ thuộc
về ám, còn cả tiếng và chữ đều không thì gọi là Á (câm). Nói chữ “Sai” là không
bằng. Nói chữ “Khúc” là méo lệch. Nói “Khiên súc” là môi ngắn. Nói “Chẩn” tức
là ghẻ lở ở môi. Nói “oa tà” tức méo miệng. Tất cả đều là quả báo của thiện
căn. Nói mũi trở xuống là thuộc về tỷ căn. Nói “Biển thê” là mũi dẹp. Nói “Khúc
lệ” là mũi cong gãy. Từ sắc mặt trở xuống là nói thân căn. Chữ “Oa khúc” là
trán gãy. Nói sinh ra thấy Phật là thuộc về nhãn căn. Nói nghe pháp tin nhận là
thuộc về nhĩ căn.
Đoạn này nói khuyên người
nghe pháp cảm ứng quả báo sáu căn đầy đủ đoan chính như vậy. Ý muốn nói quả báo
của người trì kinh thì lục căn đều thanh tịnh.
12. Từ câu: “A dật Đa” đến
câu: “Như thuyết tu hành” (A dật đa … như lời dạy mà tu hành).
Đoạn này dùng cái yếu
kém đi làm sáng tỏ cái thù thắng.
Khuyên một người nghe
pháp cảm ứng quả báo như vậy, huống gì nhất tâm nghe pháp và tinh chuyên thọ
trì! Ở đây nói quả báo lục căn thanh tịnh là có lý do vậy.
13. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Kỳ phước bất khả hạn” (Khi đó Đức Thế Tôn … phước đó chẳng lường
được).
Từ câu: “Những người
trong pháp hội” trở xuống 4 câu, là nói về một người ban đầu trực tiếp nghe
pháp mà tùy hỷ. Câu: “Xoay vần dạy như thế” trở xuống 4 câu, là luân chuyển
giáo hóa đến người thứ năm mươi, lấy người sau cùng mà so sánh công đức tùy hỷ
với các công đức khác. Câu: “Như có đại thí chủ” trở xuống 4 câu, là nói về tài
thí. Câu: “Thấy chúng tướng già suy” trở xuống 16 câu, là nói về pháp thí.
“Pháp Niết bàn chân thật” nghĩa là Niết bàn của tiểu thừa. “Đời đều chẳng bền
chắc, như bọt bóng ánh nắng” nghĩa là pháp vô thường.
Từ câu: “Người năm mươi
rốt sau” trở xuống 4 câu, là so sánh công đức người sau cùng. Từ câu: “Xoay vần
nghe như thế” trở xuống 4 câu, là đem công đức người sau cùng so sánh với người
ban đầu. Từ câu: “Nếu có khuyên một người” trở xuống 20 câu, là nói quả báo của
luân chuyển giáo hóa. Từ câu: “Nếu cố đến tăng phường” trở xuống 8 câu, là nói
quả báo chuyên nghe. Từ câu: “Nếu trong chỗ giảng pháp” trở xuống 4 câu, là nói
phước báo chia chỗ ngồi.
Từ câu: “Huống là một
lòng nghe” trở xuống 4 câu, là dùng cái thấp kém để so sánh với cái ưu việt.
Đây là so sánh công đức tạm nghe mà tùy hỷ thì đã ưu việt không so sánh nổi. Điều
đó nói lên ý nghĩa người chuyên tinh trì kinh thì chắc chắn được lục căn thanh
tịnh.
Phẩm Pháp Sư Công Đức Thứ
Mười Chín
Đại ý phẩm này, do phẩm
trước tán thán một cách rộng rãi công đức ích lợi của người trì kinh. Nay phẩm
này nói về người pháp sư trì kinh thì được sáu căn thanh tịnh. Đó là trình bày
lợi ích đặc biệt thù thắng của Pháp Hoa tam muội; trước mắt sẽ được đắc quả bất
thối, qua đó khích lệ tâm kiên định của hàng nhị thừa, nên mới có phẩm này.
Trước ở phẩm pháp sư chỉ
lấy pháp sư làm nhân duyên trợ lực phát tâm, phẩm này mới chính thức nói về
công đức trì kinh. Tên thì giống nhau mà nghĩa thì có khác.
Chủng tử Phật tính cần
phải nhờ duyên huân tập, nhờ đó mà tuệ mạng không đứt đoạn, vậy nên công đức của
người thầy là tối thắng, nên lấy công đức để phân biệt.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: Giai linh thanh tịnh” (Lúc bấy giờ Phật bảo… đều khiến thanh tịnh).
Đoạn này nói về công đức
của Pháp sư, Phật nói cho ngài Thường Tinh Tấn, nghĩa là người trì kinh thì phải
tâm trí thuần nhất, không còn giải đãi, quyết tiến không lùi mới gọi là pháp
sư. Trước có nói sáu hạng pháp sư tức là: Đọc tụng, thọ trì, giảng thuyết, viết
chép, cúng dường. Nay không nói cúng dường, ý là trong sự trì kinh là cúng dường.
Không nói thọ trì vì bốn loại: Đọc tụng, giải thuyết, biên chép đều là công hạnh
của sự thọ trì nên không nói thêm.
Nói về công đức của sáu
căn có sáu sai khác như tám trăm hay một ngàn hai trăm. Kinh Lăng Nghiêm nói về
sự ưu và liệt của sáu căn rằng: Thế giới cùng đan xen vào nhau, tam thế tứ
phương (bốn phương ba đời) xoay vần chuyển động thành mười hai. Vận động biến đổi
ba lần, sáu căn công đức thành tựu có đến một ngàn hai trăm, vì năng lực tác dụng
không đồng nhau. Con mắt chỉ có tám trăm, do phía sau mắt hoàn toàn tối. Lỗ mũi
thiếu sự giao tiếp trung gian. Thân căn chỉ biết trong tiếp xúc trực tiếp. Thế
nên mắt mũi và thân có tám trăm công đức. Kinh Lăng nghiêm thì nói về ý nghĩa
toàn diện cuả các căn, dựa vào tác dụng không đồng mà phân biệt. Kinh Pháp Hoa
thì đề cập đến thân bình thường do cha mẹ sinh ra, để trình bày quả báo được
sáu căn thanh tịnh, y cứ vào nhục thân hiện tại mà nói thanh tịnh, không dựa
vào sự ưu việt hay thấp kém. Kinh kia nói công đức là nói công dụng của sáu
căn. Ở đây nói công đức tức là việc trì kinh không ngoài sáu căn. Cho nên mọi
công đức trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh là ý nói ở công đức trì kinh.
Nói “Đều được thanh tịnh” tuy nhiên thanh tịnh là nói tương đối, vì sáu căn thuộc
thân vật lý đều bị chướng ngại không thông suốt, chạy theo sáu trần nên vốn
không thanh tịnh. Nay nói thanh tịnh là để nói lên công đức trì kinh, nên nói “
Đều được thanh tịnh”.
Hỏi: Kinh nói lục căn
thanh tịnh, nói rằng cái thân do cha mẹ sinh ra có thể thấy và nghe suốt cả tam
thiên đại thiên thế giới. Đây là điều khó tin, xin giải cho điều nghi này.
Đáp: Về lý thì như vậy,
không có gì lạ. Tri kiến của chúng sinh vốn là bản thể tròn sáng của tâm, là thế
giới nhất chân, vô biên vô lượng. Mười đời xưa nay không gì không soi sáng, mảy
may chẳng dời, đồng thể với mười phương Phật. Chỉ vì một niệm vô minh ban đầu vọng
động làm ngăn che ánh sáng. Do vậy cảm kết thủy, hoả, phong, thổ ngăn lấp làm
cho chướng ngại mà không ra khỏi âm thanh. Đây vốn là tri kiến của chúng sinh.
Nay người trì kinh này, một niệm đốn ngộ chân tâm vốn tịnh. Cho nên nói: Một
người phát hiện chân nguyên thì mười phương hư không đều tiêu mất, huống gì các
quốc độ sinh ra ở trong hư không mà chẳng bị khai thông. Đây chính là lục trần
tiêu vong thì giác tâm thanh tịnh, mười phương thế giới viên minh chiếu tỏ. Còn
nói “Tam thiên” là ước lượng để nói thôi. Nói “Thanh tịnh” nghĩa là lục căn
tiêu phục, là cái tên khác của hư không. Vì thành tựu từ nhục thân nên gọi là
“Ngăn” như ngài Quán Âm nhĩ căn viên thông, sinh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện
tiền. Cho nên ở trên thì cùng một lòng từ với mười phương chư Phật, dưới thì
tâm bi thấu suốt lục đạo chúng sinh, đâu chỉ có sáu căn thanh tịnh thôi đâu!
Kinh Lăng Nghiêm nói: Ngài A Na Luật Đà không có con mắt để thấy, ngài Bạt Nan
Đà không có lỗ tai để nghe, cho đến ngài Ca Diếp sáng suốt hiểu rõ, không phải
do tâm niệm, họ đều do cha mẹ sinh ra nhục thân. Lăng Nghiêm lại nói: Không cần
sáng suốt mà tự phát sáng thì cái ấy không bị những tướng u tối làm nó tối được.
Căn và trần đã diệt, sao lại giác tính không thành tựu được! Đó là biểu hiện của
6 căn thanh tịnh, vậy thì con mắt thấy tam thiên thế giới … không có gì lạ.
2. Từ câu: “Thị thiện
nam tử thiện nữ nhân” đếncâu: “Nhục nhãn lực như thị” (Thiện nam tử và thiện nữ
nhân đó…. Sức nhục nhãn như thế).
Đoạn này nói về công đức
thanh tịnh của nhãn căn.
Nói nhục nhãn thanh tịnh
là sắc trần, hư không đều không chướng ngại. Bản thể vi diệu hiện tiền thấy suốt
tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả tâm niệm của chúng sinh, số lượng … đều hiện
cả trong tâm, ba đời hiện rõ, nên quả báo nơi chốn sinh tử đều thấy. Kinh Lăng
Nghiêm nói: Hành ấm nếu hết thì sinh tử nghiệp lực của chúng sinh xoay vần
không gì không thấy, huống gì được tự tính viên minh soi chiếu!
Trong kệ tụng nói: “Tâm
vô sở úy”, đó là trực tâm chánh niệm pháp chân như. Như vậy là trì kinh vậy,
nên công đức tự đầy đủ. Thật ra chiếu đủ cả pháp giới, nhưng đây nói tám trăm
công đức là chỉ căn cứ vào nhục thân mà nói thôi. Núi “ Di lâu” dịch là Quang
minh, tức là một trong Thất Kim Sơn vậy.
3. Từ câu: “Phục thứ Thường
Tinh Tấn” đến câu: “Đức dĩ như thị” (Lại nữa Thường Tinh Tấn…. công đức đã như
thế).
Đoạn này nói về công đức
thanh tịnh của lỗ tai.
Ngài Phổ Hiền tâm nghe
thấu mười phương. Nay người trì kinh đã ngộ được diệu tâm thì 10 phương đều
nghe rõ không có chướng ngại. “Lời nói hữu lý” là tiếng pháp “Lời nói phi lý”
là tiếng phi pháp. Trong kệ tụng có câu: “Soạn tập giải nghĩa kinh” là chưa có
lời mà đã nghe được, vì người này do tư duy mà biết, nên ta dùng không tư duy
mà nghe. Đó chính là tâm nghe. Trong kệ tụng nói: “Đều hay phân biệt biết” tức
không riêng nghe âm thanh mà thôi. Đây là sự vi diệu của nhĩ căn viên thông.
4. Từ câu: “Phục thứ Thường
Tinh Tấn” đến câu: “Tiên đắc thử tỷ tướng” (Lại nữa Thường Tinh Tấn … trước đặng
tướng mũi này).
Đoạn này nói về công đức
thanh tịnh của lỗ mũi. “Tu mạn na” dịch là Thiện nhiếp ý. “Chiêm bặt” dịch là
Huỳnh hoa. “Đa ma la bạt” dịch là Hiền, mùi thơm thanh khiết. “Đa dà la” dịch
là Mộc hương. “Mùi chúng sinh” là thân chúng sinh có khí sắc huân tập riêng, dựa
vào ý nghĩa nói chung thôi. “Ba lợi chất đa la” là cây mọc trong vườn trời Đế
Thích. “Câu bệ đà la” gọi là Đại du hý địa thọ, không hư hoại và xen tạp. Nói
mùi hương của Thanh văn, Phật và tứ thánh. Nghĩa là Giới hương, Định hương, Huệ
hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương, đều là hương không có hình
sắc. Như vậy tỷ căn có thể nghe được ư! Phải dùng tỷ căn thanh tịnh mới có thể
nghe được. Đó gọi là tâm không mới nghe được tính hương.
Kệ tụng nói “Tạng báu ở
trong đất” và “Thai nghén nam nữ” nghe mùi đều biết được. Lúc mới thọ thai liền
biết thành tựu hay không thành tựu, biết được tâm niệm ái nhiễm của nam nữ, biết
đuợc những cất giấu của quý dưới đất, các đồ đồng và những đồ quý hay không
quý. Việc này tỷ căn làm sao biết được! Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ tát có mười loại
trí rất vi tế, nếu không phải sáng cả pháp giới thì thể dùng để biện bác như vậy.
Nói tỷ căn thanh tịnh đó là nương nơi căn mà nói. Cho đến chúng sinh ở trước mặt
Phật nghe Kinh đều hoan hỷ, như pháp mà tu. Nghe mùi đều biết rõ, ở đây nếu
không do pháp tính bình đẳng thì không thể thấu rõ như vậy. Lỗ tai của nhục
thân, vật tướng tự nhiên, không nhờ chứng pháp vô lậu mà có.
5. Từ câu: “Phục thứ Thường
Tinh Tấn” đến câu: “Hoặc thời vi hiện thân” (Lại nữa Thường Tinh Tấn… hoặc lúc
vì hiện thân).
Đoạn này nói về công đức
của giác quan lưỡi thanh tịnh.
Lưỡi dực vào sự nếm mùi
vị, các vật dù ngon dở, đắng, rít, xấu, tốt … một khi vào trong lưỡi đều biến
thành vị ngon, thành pháp vị cam lồ. Đây là sự biết thoát khỏi mùi vị. Về vấn đề
thuyết pháp thì trong chúng sinh, chư thiên, bát bộ, người thuộc năm chúng đều
đến nghe pháp, trọn đời cúng dường. Còn đối với tứ thánh: Thanh văn, Bích chi,
Bồ tát chư Phật thường thích thấy người đó, hơn nữa cảm ứng đến chư Phật nên
các ngài đều hướng về người đó thuyết pháp, người ấy có thể thọ trì. Đó là pháp
thân của chư Phật nhập vào tự tánh của mình, tự tánh của mình cùng hòa hợp với
tánh Như Lai. Đây là lý do có thể xuất ra pháp âm chân thật vi diệu. Kệ tụng
nói chư Phật thường nhớ nghĩ, giữ gìn và hiện thân nghĩa là khế hợp với pháp
thân.
6. Từ câu: “Phục thứ Thường
Tinh Tấn” đến câu: “Nhất thiết ư trung hiện” (Lại nữa Thường Tinh tấn … tất cả
hiện trong đó).
Đoạn này nói về công đức
thanh tịnh của thân căn.
Do thân thể thanh tịnh
như lưu ly nên chúng sinh thích thấy. Chúng sinh trong cõi sinh tử thiện, ác,
nghiệp báo, xứ sở hình sắc ba cõi, thể dụng tứ thánh… tất cả đều hiển hiện
trong thân như gương hiện rõ ảnh tượng. Ngài Tịch Âm có dẫn chứng ngài Phật Đồ
Trừng ở đời Tùy Tấn, vốn là người Thiên Trúc, vào năm Vĩnh Gia thứ tư ngài đến
Lạc Dương tự nói mình hơn trăm tuổi, một bên bụng của ngài có cái lỗ, ngài lấy
cái nút bằng tơ đậy lại, ban đêm tụng kinh rút cái nút ra ánh sáng chiếu sáng cả
cái thất. Có lần sắp đi thọ trai ngài đến bể nước, từ trong cái lỗ ấy ngài kéo
ra ruột và bao tử rửa sạch rồi nhét trở vào trong bụng, lấy dầu xoa tay, gọi Đồng
tử đến nhìn, Đồng tử kinh sợ nói: Trong ấy có quân mã. Bởi chiếu thấy Thạch Thị
bắt Lưu Diệu (tên của hai ông vua ở hai nước tính ra thì hai chỗ khác nhau hơn
ngàn dặm). Đây cũng là thân thường của cha mẹ sinh ra. Kệ tụng nói:
“ Bồ tát nơi tịnh tâm
Thấy cả vật trong đời
Chỉ riêng mình thấy rõ
Người khác không thấy được”.
Đây chính là Kinh Lăng
Nghiêm gọi là một người phát chân quy nguyên, mười phương hư không đều rung động
nứt nẻ. Đây là phát hiện chân tâm thì được thấy, còn người khác thì không thể
được.
7. Từ câu: “Phục thứ Thường
Tinh Tấn” đến câu: “Trì Pháp Hoa kinh cố” (Lại nữa Thường Tinh Tấn… bởi trì
Kinh Pháp Hoa).
Đoạn này nói về công đức
thanh tịnh của ý căn.
Do ý căn thanh tịnh mà
không có suy lường phân biệt, nên ở nơi một bài kệ một câu kinh đạt được vô lượng
ý nghĩa. Nhờ thâm đạt thật tướng mà nói kinh thư của thế tục, những sách xử thế,
các nghề nghiệp kiếm sống … đều thuận theo chánh pháp. Như cơ duyên của cổ đức
(các công án) giá gạo lư lăng, ba cân gai, que cứt khô, cây bách trước sân, đi
rửa bát đi … tất cả điều ấy đều là ý căn thanh tịnh. Vì vậy nêu lên để bày tỏ ý
nghĩa hướng thượng đệ nhất.
Lục đạo chúng sinh, tâm
lý, các tác động hành vi đều biết được cả, vì tâm biến mười phương mà cùng một
thể. Điều người này nói ra là pháp của Phật đời trước, nhờ đạt được trí tuệ của
chư Phật, người này trì kinh an trụ được hy hữu địa. Nói chung lục căn thanh tịnh
như vậy là hy hữu địa.
Đến đây là nói về ngộ Phật
tri kiến. Từ bốn an lạc hạnh là bắt đầu diệu ngộ, nên so sánh công đức trì toàn
kinh cho đến sáu căn thanh tịnh mới là sự thật của diệu ngộ. Tuy nhiên đối với
sáu căn thuộc nhục thân do cha mẹ sinh ra, thì kinh Lăng Nghiêm nói: Lúc thức ấm
đã hết, như trong tịnh lưu ly hàm chứa mặt trăng quý. Do vậy lục căn dung thông
chiếu khắp pháp giới. Đó đều là chưa hết sự trói buộc của quả báo, tức là nơi
nhục thân mà khai phát Diệu ngộ như vậy, là biết diệu ngộ của trì kinh. Đầu mối
của thức phá hết, tâm phân biệt mất, nên mọi sự đều sáng, thật tướng thanh tịnh
là pháp nhĩ như nhiên, vốn sáng ở trong tâm không phải cầu bên ngoài. Như vậy từ
xưa chư tổ giác ngộ tự tâm đều biết như trên. Chỉ vì không muốn bày tỏ sợ làm
mên hoặc thế gian. Xem các việc khi lâm chung phó chúc, thọ ký, không gì không
đúng như vậy, lấy đó mà suy nghiệm. Cho nên Thiên Thai trí giả đại sư diệu ngộ
Pháp Hoa tam muội tự thân thấy một hội Linh sơn vẫn còn tồn tại, đây chẳng phải
là kinh nghiệm của nhãn căn thanh tịnh ư?
Phẩm Thường Bất Khinh Bồ
Tát Thứ Hai Mươi
Đại ý phẩm này, do trước
nói về sự thù thắng của công đức trì kinh, nay chính là trình bày hạnh kiên
trì.
Đức Như Lai tự thuật thuở
xưa đã từng làm Bồ tát tên là Thường Bất Khinh trì Diệu pháp này. Chỉ lấy Phật
tuệ bình đẳng mà giáo hóa chúng sinh, cho đến gặp nhiều sự hủy báng nhục nhã,
tuyệt đối không khởi niệm chán ghét, nên ngày nay mới đắc quả Bồ đề. Đây là hiệu
nghiệm của sự trì kinh.
Căn cứ vào đây để khích
lệ hàng nhị thừa, nên tuân theo nguyên tắc này vào đời mạt pháp trì kinh có thể
không chán nản, tự mình không bị thối đọa. Diệu pháp này ngộ được là khó, ngộ rồi
mà giữ gìn được càng khó hơn, hơn nữa ở trong đời ác mà thường trì kinh này
càng khó hơn nữa. Cho nên Đức Thế Tôn có ý lo lắng rất sâu xa mà dặn dò rất tha
thiết. Do vậy tuần tự nói công hạnh trì kinh. Từ phẩm Đề bà Đạt Đa đến phẩm này
đều thuyết minh việc ngộ và giữ gìn sự ngộ. Đến phẩm này tuân theo hạnh Như
Lai, sau mới tinh tấn hành trì đắc được sáu căn thanh tịnh mà thấy rõ chúng
sinh. Do vậy mà có phẩm này.
Trước sau các phẩm, văn
thì không đồng nhưng nghĩa thì nhất quán, tham cứu kinh văn có thể thấy được ý
chỉ và ý hướng thuyết pháp của Như Lai.
1. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Thân ý thanh tịnh” (Lúc bấy giờ Phật bảo … thân cùng ý thanh tịnh).
Đoạn này trình bày lợi
ích của sự tinh tấn trì kinh.
Trước hết lập lại việc hủy
báng trì kinh để cảnh giác cái tội hủy báng, như cuối phẩm trước đã thí dụ, phẩm
Pháp Sư cũng đã nói. Phước đức của sự nghe và thọ trì, như phẩm Pháp sư công đức
đã nói. Sắp sửa trình bày sự tinh tấn trì kinh mà trước hết lập lại sự mất lợi
ích, ý nói là không khéo thọ trì, mà để cho người hủy báng thì mình cũng mang tội.
Người pháp sư tuy khéo thọ trì lục căn được thanh tịnh mà không thể giáo hóa kẻ
cứng đầu thì chỉ có tự lợi mà không có lợi tha. Nay ngài Thường bất Khinh dùng
Phật tính thọ ký phổ cập đại chúng, làm cho hàng tăng thượng mạn đều chuyển tà
tâm mà sinh chánh tín thì tự mình cũng được lục căn thanh tịnh. Đó gọi là hai hạnh
tự lợi và lợi tha đều được đầy đủ. Phật sắp nói sự tinh thuần trì kinh, mà trước
hết nhắc lại tội và phước, ý muốn nói trì kinh thì phải như ngài Thường Bất Khinh
mới trọn vẹn sự vi diệu của tinh thuần trì kinh. Phật gọi ngài Đắc Đại Thế Chí
mà nói, là trong nhẫn có sức mạnh vậy.
2. Từ câu: “Đắc Đại Thế”
đến câu: “Danh Thường Bất Khinh” (Đắc Đại Thế … tên Thường Bất Khinh).
Đoạn này sắp nói đến người
tinh thuần trì kinh.
Trước nêu vị Phật là thầy
người đó. Phật Oai Âm Vương. Đáng nể sợ là Oai, nghe tiếng mà khuất phục là oai
âm, không cần tác ý mà người nể sợ nên gọi là Oai Âm Vương.
Bồ tát an trụ nơi tịch
diệt nhẫn, lấy tâm bình đẳng đại bi mà rải ban khắp chúng sinh, chúng sinh nghe
tiếng mà tự lo sợ và phục tùng. Cho nên thầy của người ấy là Phật Oai Âm Vương,
mà người ta gọi mình là Thường Bất Khinh, đó là lấy cái quý của đức hạnh ban
cho mọi người. Nhờ an trú nơi tịch diệt nhẫn, ngã pháp đều mất, vĩnh viễn hết
ưu phiền khổ não, nên kiếp tên là Ly suy. Chỉ lấy hạnh nhẫn, không làm tổn hại,
tăng lợi ích, nên nước tên là Đại Thành. Đây là Đức Phật thành đạo đầu tiên của
kiếp không. Trước đó không có Phật nên trong Tông môn gọi là hướng thượng, là
oai âm vương na bạn.
Nay nói về trì kinh tinh
thuần mà trước hết chỉ bày tội hủy báng, ý cho rằng nếu thấy tổn hại cho người
thì không nên trì kinh, vì không lợi ích gì. Trước có nói về bốn hạnh an lạc,
tuy có thể giữ mình khỏi bị người đến hủy báng, không làm tổn hại người. Nhưng
không thể chuyển được người không tin phát khởi tín căn, thì pháp sư trì kinh
tuy có thể đắc lục căn thanh tịnh mà không làm cho người khác cùng thể nhập,
thì chỉ tự lợi, chưa có lợi tha, nên không phải là tinh thuần trì kinh. Nay Thường
Bất Khinh Bồ tát, lấy chủng tử Phật tính bình đẳng đại bi thọ ký cho mọi người,
không chỉ an trụ nhẫn nhục đối với sự hủy báng mà còn có thể giáo hóa kẻ tăng
thượng mạn, chuyển hóa tội lỗi thành phước đức. Đó mới là hạnh tinh tấn chân thật,
có thế lực lớn, mới nói hết sự mầu nhiệm của trì kinh. Vì vậy Đức Phật sắp
trình bày hạnh này, trước nêu lên cái hại và lợi là có thâm ý.
3. Từ câu: “Đắc Đại Thế”
đến câu: “Đương đắc tác Phật” (Đắc Đại Thế … sẽ đặng làm Phật).
Đoạn này nói về nhân
duyên có tên là Thường Bất Khinh. Do thấy mọi người đều có Phật tính mà lễ bái
ca ngợi là hành Bồ tát đạo sẽ được làm Phật. Đó là lấy tâm bình đẳng đại bi mà
nhìn chúng sinh nên không khinh kẻ khác.
4. Từ câu: “Nhi thị Tỳ
kheo” đến câu: “Giai đương tác Phật” (Mà vị Tỳ kheo đó … đều sẽ làm Phật).
Đoạn này nói không
chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ thực hành lễ lạy, đó là nhờ kinh nói rõ về pháp
thân Phật tính chủng tử Như Lai. Nay quán sát mọi người thấy pháp thân có mặt
trong thân của họ. Đây là chân kinh ở nơi con người chứ không phải ở nơi giấy mực
văn tự. Đây mới là chân thật trì kinh.
5. Từ câu: “Tứ chúng chi
trung” đến câu: “Hiệu chi vi Thường Bất Khinh” (Trong hàng tứ chúng … gọi ông
là Thường Bất Khinh).
Đoạn này nói do như thế
mà được gọi tên là Thường Bất Khinh. Mắng nhiếc mà không giận, đánh đập mà
không oán, còn lên tiếng thọ ký nguyện cho người ta làm Phật. Đây chính là an
tâm tịch diệt, ngã pháp đều mất, là sự tột cùng của vô ngã, cho nên lâu ngày mà
không thối, các hạng xiển đề và mọi người đều khởi tín căn. Nếu không như vậy
thì không đủ sức giáo hóa kẻ cường bạo. Nên gọi tên hiệu là Thường Bất Khinh.
Thật cao lớn thay! Ý Phật sâu xa vi diệu như thế.
Buổi đầu hàng nhị thừa
không nghe kinh này, nên không có điều kiện thành Phật. Pháp thân tuệ mạng đầy
đủ trong kinh này, nên nói trong kinh này có toàn thân Đức Như Lai. Hàng nhị thừa
khi đã nghe kinh này đều được thọ ký thành Phật.
Phật pháp phải do con
người truyền bá, nếu không có người truyền thì tuệ mạng bị đoạn tuyệt. Vì vậy đều
quan trọng là người trì kinh, vả lại đời ác khó trì, không khéo trì làm cho người
sinh không tin mà còn hủy báng, thì không những vô ích mà còn có hại. Đó là việc
trì khó có người đảm đương. Phật thuyết bốn hạnh an lạc để dạy phương pháp trì
kinh, không để cho người ta hủy báng, còn làm cho người khác cùng trì như mình.
Người như vậy nên cúng dường như cúng dường Đức Phật. Đó là Phật tính tuệ mạng
đang ở trong người trì kinh, chứ không phải ở nơi kinh. Điều ấy gọi là: “Người
còn thì chánh sự còn được nêu lên”.
Người trì kinh được lợi
ích là lục căn thanh tịnh, đây mới là tự lợi, chỉ có thể trì kinh mà chưa thể
hoằng truyền kinh. Ngài Thường bất khinh không giỏi tụng kinh, chỉ thực hành lễ
bái, đem chủng tử Phật tính ban rải khắp mọi người, nên biết rằng Phật tính ở
trong khắp mọi người không riêng ở nơi người trì kinh. Do vậy có thể chuyển hóa
tà tâm của họ, giáo hóa từ con người hung bạo trở thành chánh tín, đó là trồng
hạt giống thành Phật. Như thế mới gọi là tận cùng bổn hoài nhập thế của Phật. Với
những ý nghĩa sâu xa như vậy, chẳng những bốn mươi năm trước là giáo lý phương
tiện mà như kinh Pháp Hoa này, đặc biệt những sự kiện này cũng đều là phương tiện
dẫn dắt tuần tự từng chút, đến đây mới hiển lộ cái tột cùng. Đâu phải là điều
bình thường được! Người xem kinh không thấy tâm Phật mà lấy văn tự, trí biện giải
làm chính thì phụ lòng thương sâu sắc của Đức Như Lai, cần phải cảnh giác.
6. Từ câu: “Thị tỳ kheo
lâm dục chung thời” đến câu: “Thị Pháp Hoa kinh” (Vị Tỳ kheo đó lúc sắp chết …
Kinh Pháp Hoa đó).
Đoạn này nói ngài Thường
bất khinh nghe kinh được lợi ích tự lợi. Nói “Sắp chết” là nói lên ý khi chưa
nghe kinh, chưa được tuệ mạng. Nói “Ở trong không trung nghe Phật Oai Âm Vương
nói kinh này” là muốn nói kinh này là chỗ lưu xuất của pháp giới chân không.
Nói “Hai mươi muôn ức bài kệ” ý là khi có đối đãi thì có hai. Đối với kinh này
thì tâm và cảnh, cả hai đều mất, là pháp tịch diệt vô tướng. Tâm cảnh chúng
sinh mỗi loại là vô lượng, khi nghe kinh này rồi thì tất cả tâm cảnh đều trở
thành pháp tịch diệt. Nên kinh nói hai mươi muôn ức bài kệ chưa phải là nhiều.
Nói “Liền được sáu căn thanh tịnh” là nói sự lợi ích của trì kinh. Nói Tăng thọ
mạng vì khi sắp chết nghe kinh, vì có thể thọ trì nối mạng tuệ Phật, tương xứng
với tính tịch diệt của pháp giới, nên được hai trăm muôn ức na do tha tuổi. Vì
xứng hợp với pháp tính mà diễn đạt, nên trọn đời nói kinh này.
7. Từ câu: “Ư thời tăng
thượng mạn” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề” (Lúc đó hàng tăng thượng mạn … chánh
đẳng chánh giác).
Đoạn này nói về ngài Thường
Bất Khinh do nghe pháp trì kinh chuyển được tà tâm được lợi ích và lợi tha.
Hàng tăng thượng mạn và
mọi người … Trước kia khinh miệt ngài Thường Bất Khinh mà đặt cho ngài mỹ danh
là Bất Khinh, tức là đã không còn hủy báng và biết điều tôn trọng. Nay thấy Thường
Bất Khinh được “Đại thần thông” tức là được lục căn thanh tịnh. “Sức nhạo thuyết
biện tài” tức là giảng giải kinh này “Sức đại thiện tịch” là an trụ nhẫn tịch
diệt. Cho nên họ đều tin phục và thuận theo, vì do sức nhẫn của Thường Bất
Khinh mà có tác dụng như thế. Do vậy mà còn “Giáo hóa nghìn muôn ức chúng sinh”
an trụ Bồ đề. Đây là hạnh lợi tha thấy được sự lợi ích của trì kinh.
Trước kia Đức Thế Tôn sắp
nói Diệu Pháp mà có 5000 người tăng thượng mạn lễ Phật lui ra, vậy biết rằng những
người này đến như Phật cũng không hóa độ được. Nay gặp ngài Thường Bất Khinh
thì được cảm hóa như vậy. Đó là điều gọi là “Xem mặt người có đức, xem ý người
đi sứ” như vậy lợi ích của sự đem sức mình thực hành, hơn là sự phân biệt của ngôn
ngữ lý thuyết.
8. Từ câu: “Mạng chung
chi hậu” đến câu: “Đương đắc tác Phật” (Sau khi mạng chung… sẽ đặng làm Phật).
Đoạn này nói về ngài Thường
Bất Khinh trì kinh được lợi ích là gặp được Phật.
Khi mạng chung được gặp
hai nghìn ức Phật đều đồng danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ý nghĩa là an trụ
trong pháp tịch diệt, chủng tử Phật tính và trí tuệ thường sáng như mặt trời, mặt
trăng và đèn. Cho nên gọi là “Ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa”. Lại còn gặp
2000 ức Phật cùng có hiệu là Vân Tự Tại Vương. Ý nghĩa là Diệu pháp như mây,
che mọi chúng sinh, ánh sáng của trí tuệ phá tan si ám mà được tự tại tự do lớn.
Do đắc lục căn thanh tịnh, không còn đối nhị nguyên nên thuyết pháp không sợ
hãi. Cúng dường đã nhiều, thiện căn đã sâu nên nói kinh này lâu dài mà không mệt
mỏi, sẽ được làm Phật vậy.
9. Từ câu: “Đắc Đại Thế
” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề” (Đắc Đại Thế… chánh đẳng chánh giác).
Đoạn này nói ngài Thường
Bất Khinh là tiền thân của Đức Phật Thích Ca. Do trì kinh đã lâu nên mau chóng
thành Phật. Ý là khuyến khích mọi người chuyên trì kinh.
10. Từ câu: “Đắc Đại Thế”
đến câu: “Giáo hóa Anậu Đa la tam miệu tam Bồ đề” (Đắc đại thế … giáo hóa đạo
vô thượng chánh đẳng chánh giác).
Đoạn này nói lợi ích gặp
lại Thường Bất Khinh giáo hóa. Mọi người vì giận ghét Thường Bất Khinh mà không
tin, nên chiêu cảm nỗi khổ ở địa ngục 1000 kiếp. Tội hết trở lại gặp Thường Bất
Khinh giáo hóa cho thành Phật. Nghe mà không tin cũng còn kết được nhân duyên
chủng tử Phật.
11. Từ câu: “Đắc Đại Thế”
đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề bất thối chuyển giả thị” (Đắc Đại Thế… bất thối
chuyển nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác).
Đoạn này nói về chúng hội
hôm nay, chính là những người hủy báng ngày xưa. Do ban đầu hủy báng Kinh Pháp
Hoa, nay do nghe kinh này mà được khai ngộ, vậy hiện tiền bốn chúng được lợi
ích lớn.
12. Từ câu: “Đắc Đại Thế”
đến câu: “Thử tả thị kinh” (Đắc Đại Thế… biên chép kinh này).
Đoạn này trình bày đúc kết
lợi ích thù thắng về khuyến khích trì kinh.
Trước nói về tội hủy
báng kinh, chỉ nói khổ địa ngục và khổ ba đường, khi hết quả báo làm người
không thâu hoạch được lợi ích gì.Ý nói không khéo trì kinh làm cho người khi đến
câu trọn đời không tin, tuệ mạng bị đoạn tuyệt. Nay nói người hủy báng chiêu cảm
quả báo địa ngục, khổ hết rồi được giáo hóa, tuệ mạng không đoạn tuyệt. Đây là
lợi ích của sự khéo léo trì kinh.Ý Phật muốn nói là phải chịu khổ nhục như Thường
Bất Khinh mới tinh tấn hành trì rồi mới khuyên người khác thọ trì. Dẫn chứng việc
đã qua để dạy việc tương lai, đó là lòng thương sâu xa của Phật.
13. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Tật thành Phật đạo” (Khi đó Đức Thế Tôn… mau chóng thành Phật đạo).
Đoạn này thuật lại nhân
duyên xa xưa của ngài Thường Bất Khinh.
Từ câu kệ tụng: “Thuở
quá khứ có Phật” trở xuống 40 câu, là nói chung việc trì kinh của ngài Thường Bất
Khinh, rồi nói mạng chung nghe kinh. Trước hết nói tăng tuổi thọ, sau đó nói gặp
vô số Phật thế mới biết tuệ mạng được tiếp nối vĩnh viễn không cùng tận.
14. Từ câu: “Bỉ thời Bất
Khinh” đến câu: “Thính pháp giả thị” (Thuở đó Thường Bất Khinh… nghe kinh Pháp
Hoa đó).
Đoạn này nói duyên ngày
hôm nay để chứng minh cho nhân thuở xưa. “Thuở đó Thường Bất Khinh” trở xuống
14 câu, nói ngài Thường Bất Khinh chính là Đức Phật Thích Ca. Những người hủy
báng trước kia chính là thính chúng trước mắt hiện nay.
15. Từ câu: “Ngã ư tiền
thế” đến câu: “Tật thành Phật đạo” (Ta ở trong đời trước … mau chóng thành Phật
đạo).
Đoạn này đúc kết sự khuyến
khích trì kinh. “Ta ở trong đời trước” trở xuống câu “Lúc ấy nói kinh này” gồm
16 câu, trình bày lợi ích của sự khuyến khích ngày xưa. Câu: “Cho nên người tu
hành” trở xuống 8 câu (tức hết kệ tụng) nói lợi ích của sự khuyến khích ngày
nay. Nói lúc nghe lúc nói là muốn nói muốn biết ý nghĩa Phật tính nên quán thời
tiết nhân duyên.
Người xưa giải thích từ
phẩm này trở về trước 20 phẩm là phần Chánh Tông, tám phẩm sau thuộc phần lưu
thông. Nay tôi (ngài Hám Sơn) lấy bốn chữ Khai, thị, ngộ, nhập, phân làm 28 phẩm
chung làm phần Chánh Tông. Lấy phẩm Đề bà Đạt Đa đến phẩm Chúc Lụy gồm 11 phẩm
là Ngộ Phật tri kiến. Từ phẩm Dược Vương đến phẩm Phổ Hiền khuyến phát gồm sáu
phẩm là Nhập Phật tri kiến. Hai mươi hai phẩm về trước gọi chung là Tín Giải.
Trở về sau sáu phẩm trình bày hành chứng là Nhập Phật tri kiến. Điều này đối với
xưa thì giải thích không giống nhau, tôi lấy nghĩa lý làm tiêu chuẩn, đọc vào
trong văn sẽ biết rõ.
Phẩm Như Lai Thần Lựcthứ
Hai Mươi Mốt
Đại ý phẩm này do trước
Đức Thế Tôn nói đầy đủ công đức giảng thuyết trì kinh, còn nói đến công hạnh tự
tu trì, đó là thời cơ giác ngộ đỉnh điểm, đã thoả mãn bản hoài xuất thế của Như
Lai. Hơn nữa lại được đại chúng từ đất vọt lên trì kinh, nên Đức Như Lai rất
hoan hỷ, Phật đã lấy thần lực siêu việt để ấn chứng cho, còn biểu thị pháp giới
bình đẳng cho chúng đương cơ, có thể trực tiếp thấy cảnh Phật ở trước mắt, cảnh
tịnh độ hiện tiền. Như vậy hiển lộ pháp lợi ích quần sinh đã đầy đủ, sắp sửa
giao phó gia nghiệp của đấng pháp vương. Sau đó đại chúng từ đất vọt lên phát
nguyện. Đây chính là tính đức của tự tâm viên mãn, là toàn thể của Pháp Hoa.
Đức Như Lai hiện thần lực
nơi toàn thân, các lỗ chân lông đều phóng hào quang, lưỡi trùm đến trời Phạm
thiên và đều bị chấn động. Đó gọi là thân thể thông suốt bày tỏ niềm phấn khởi
tột cùng. Chư Phật đồng phóng là để nói lên con đường của chư Phật là một. Mười
phương chư Phật đều ngồi trong hào quang trong hư không phát ra âm thanh từ xa
tán thán Đức Thích Ca thuyết kinh Pháp Hoa. Đã nói mười phương chư Phật tâm tâm
ấn chứng cho nhau. Mười phương thế giới thông suốt không chướng ngại giống như
đồng một nước, đó là soi sáng của cảnh thật pháp thân để tiêu trừ tâm hữu hạn của
hàng nhị thừa. Đến đây Đức Như Lai sử dụng tận cùng thần lực bày tỏ công đức bất
tận của kinh này. Như Lai có tất cả pháp, tất cả thần lực tự tại, tất cả tạng
bí mật, tất cả việc sâu xa, đều ở nơi kinh này mà hiển hiện. Cho nên im lặng
trong thời gian rất lâu, nay mới hiển bày. Điều khó tin khó hiểu nay đã tin sâu
hiểu sâu, nên gọi là ngộ Phật tri kiến. Công đức phụng trì không thể luận bàn
suy nghĩ đến được.
Khai thị đến đây nghĩa
lý đã tột cùng, diệu ngộ đã viên mãn, thần lực ấn chứng của Phật đã tận lực. Do
vậy coi phẩm này trở về trước là nhân tố chính của Tín Giải, tâm đã chân mới có
diệu quả, do vậy tiếp sau là phẩm Chúc Lụy. Trước hết nói về phẩm này chúng từ
đất vọt lên đều là những người con làm nên gia nghiệp. Người xưa cho rằng phẩm
này tiếp với bảy phẩm sau thuộc về phần lưu thông. Phẩm này là phát khởi, ý
nghĩa chưa hết, cho nên tôi (ngài Hán Sơn) cho rằng phẩm Dược Vương cùng với
năm phẩm sau là nhập Phật tri kiến, do hạnh mà chứng quả, như vậy mới nói hết
được phương thức nói pháp của Đức Như Lai.
1. Từ câu: “Nhĩ thời” đến
câu: “Thơ tả nhi cúng dường chi” (Bấy giờ… biên chép mà cúng dường đó).
Đoạn này nói chúng từ đất
vọt lên xin trì diệu pháp, chúng từ đất vọt lên đều là những người con làm nên
gia nghiệp, đặc biệt vì trì kinh mà xuất hiện. Vì sao đồng đứng lặng yên? Chờ đến
phương này thỉnh Phật. Vì đại chúng ở đây trước kia, ở phương hạ trong hư
không, thực hành việc đầu đà. Tâm chí vui thích chỗ yên tĩnh, tựa hồ như chưa đạt
được hành động lợi sinh. Cho nên chờ Đức Thế Tôn phân biệt công đức trì kinh để
củng cố tâm nguyện và nói về ngài Thường Bất Khinh để trình bày công đức lưỡng
lợi. Vì vậy các Bồ tát đến phương này, trước Phật phát nguyện sau khi Phật diệt
độ, nếu nơi nào phân thân Phật diệt độ, họ nguyện quảng bá kinh này và bản thân
cũng muốn thành tựu đại pháp, do đó mà thưa thỉnh.
Đại chúng mới được thọ
ký nguyện đến phương khác hoằng truyền kinh mà không dám ở cõi Ta bà. Ngài Dược
Vương thì nguyện ở Ta bà mà không qua phương khác. Chỉ cho chúng ở dưới đất vọt
lên nguyện đến các chỗ có phân thân của Phật để giảng thuyết kinh này, thì tâm
nguyện rất lớn, đồng với tâm của Phật, nên được đặc biệt giao phó cho họ.
2. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Lục chủng chấn động” (Lúc đó Đức Thế Tôn… sáu điệu vang động).
Đoạn này Đức Như Lai hứa
khả chấp nhận sự trì kinh. Nên hiện đại thần lực để trình bày mãn nguyện bản
hoài của sự hoan hỷ. Những vị đã ở từ lâu nơi cõi Ta bà như Văn Thù Sư Lợi.v.v..
ở trong đại hội cùng với đại chúng xuất hiện từ đất và Bồ tát không phải từ
phương khác đến. Vì Phật sắp sửa giao phó gia nghiệp nên trước tiên, thị hiện
thần lực để cảnh tỉnh đại chúng. Thần lực là pháp giới vô tác diệu lực. Kinh
Hoa Nghiêm gọi là thần biến tướng. Tướng lưỡi rộng dài, trong ba mươi hai tướng
của Như Lai có tướng lưỡi rộng dài trùm cả mặt, nay nói xuất ra tướng lưỡi rộng
dài là hiện ra thần lực. Lưỡi tuy lớn mà không ra khỏi miệng, ở đây nói xuất ra
lưỡi rộng dài trên đến cõi trời Phạm thiên; Phạm thiên là trời Sắc cứu cánh,
nói lưỡi đến đó là muốn nói chỗ có sắc tướng. Thường thì tất cả hình sắc âm
thanh đều là âm thanh nói pháp, lỗ chân lông rất nhỏ, còn thế giới thì rất lớn,
mà nói tất cả lỗ chân lông phóng ra vô số sắc màu ánh sáng chiếu khắp mười
phương thế giới.Ý nói Chánh báu là lỗ chân lông, Y báu là vi trần; trong đó mọi
thứ đều đầy đủ ánh sáng trí tuệ, đều là nơi thuyết pháp cả. Như vậy Đức Thích
Ca thực hiện thần lực vĩ đại.
Dưới các cây quý báu các
Đức Phật phân thân tụ họp, tất cả tướng lưỡi rộng dài và ánh sáng đều giống như
Đức Phật Thích Ca, ý nói các Phật bản chất đều giống nhau. Phật hiện thần lực
qua một trăm ngàn năm, trong một khoảng khắc phóng hào quang mà trải qua trăm
ngàn năm thời gian dài như vậy là muốn nói ba đời bình đẳng. Đến trời Phạm
thiên tức là tột cùng chiều dọc; biến mười phương là tận cùng chiều ngang. Trăm
ngàn năm tức là cả ba đời, ý muốn nói thiệt căn dọc ngang tột cùng, mười phương
tam thế thần lực đều khắp, pháp âm đến đủ mọi chốn. Ý rằng dù dùng thần lực như
vậy mà thuyết về công đức của kinh này vẫn chưa thể hết được. Tiếng tằng hắng,
khảy móng tay, là âm thanh rất nhỏ mà có thể đến khắp mười phương đều chấn động,
ý muốn nói biểu hiện của pháp âm phù hợp với pháp giới chân như, nên nơi mà âm
thanh đến, ai nghe được thì hiện tượng vô minh bị diệt trừ.
Do sắp khen ngợi công đức
của kinh nên trước hết hiện thần lực như vậy.
3. Từ câu: “Kỳ trung
chúng sinh” đến câu: “Đắc vị tằng hữu” (Chúng sinh trong đó … đặng điều chưa từng
có).
Đoạn này nói chúng sinh
bát bộ đều do thần lực mà được nhiếp thọ khai Phật tri kiến.
Chúng bát bộ đều ở trong
mười phương thế giới, được nhiếp thọ trong hào quang, họ đều mang nhục nhãn nên
không thể thấy xa, nhờ hào quang Phật nhiếp thọ nên đều thấy xa ở cõi ta bà,
trong hư không tụ hội mười phương phân thân của chư Phật và Đức Thích Ca, Đa Bảo
cùng vô biên pháp hội nhiễu quanh đức Thích Ca. Đó là khai Phật tri kiến nên thấy
một hội linh sơn vẫn chưa tan, nên đều hoan hỷ được điều chưa từng có. Đây là
do được thần lực nhiếp thọ.
4. Từ câu: “Nhĩ thời chư
thiên” đến câu: “Như nhất Phật độ” (Tức thời hàng chư thiên … như một cõi Phật).
Đoạn này nói về chư
thiên ở trong không trung do ánh sáng chiếu đến thấy một hội linh sơn nói kinh
Pháp hoa, giáo hóa chúng sinh nên họ tùy hy. Ý muốn nói có thể nhập vào pháp
tính chân không mới ngộ được diệu pháp này. Căn cứ vào đó mới có thể chuyển
giáo hóa chúng sinh tùy hỷ. Chính muốn nói rằng ngồi tòa Như Lai mới có thể
truyền rộng kinh này. “Các chúng sinh kia nghe tiếng nói giữa hư không rồi đều
hướng về Đức Thích Ca nói ba lần”. Đây là nhân chuyển hóa nên các người được
nghe đều khai Phật tri kiến. Dùng các thứ âm nhạc, các vật quý từ xa rải đến
cõi Ta bà. Vì các diệu hạnh đều hồi hướng về Phật đạo. Nơi được rãi các vật báu
đều biến thành màn báu, ý là lý dung thông như sự, chung thông với pháp giới,
mười phương thế giới thông đạt vô ngại như một cõi Phật. Khai Phật tri kiến nên
căn, trần, thức, giới đều rỗng rang vô ngại. Đây đều do thần lực mà có vậy.
5. Từ câu: “Nhĩ thời Phật
cáo” đến câu: “Do bất năng tận” (Khi đó Phật bảo… vẫn chẳng hết được).
Đoạn này đúc kết sự
trình bày của kinh Pháp Hoa. Về trước trình bày các loại thần lực không thể nói
hết được, hơn nữa sử dụng tướng lưỡi trùm đến cõi Phạm thiên, hào quang trên đầu
sợi lông chiếu đến mười phương; thời gian dài một trăm ngàn năm. Đó là “Thụ
cùng tam tế, hoàng biến thập phương”. (chiều dọc thông ba đời, chiều ngang rộng
khắp mười phương) làm chấn động cõi đại thiên đến các cõi Phật. Thần lực như vậy,
đem nói trong vô lượng kiếp về công đức của kinh này cũng không hết được. Như vậy
là trình bày tột cùng kinh này là toàn thể của pháp giới. Nhưng dù thần lực của
chư Phật rộng lớn không thể so sánh được mà vẫn chưa thể hiện trọn vẹn dung lượng
của pháp giới. Như có nơi nói: “Chưa hiển hiện hết trên đầu sợi lông của ngài
Phổ Hiền”. Lấy toàn thể pháp giới lỗ chân lông của chư Phật chúng sinh làm
chánh báo, hạt bụi của thế giới làm ý báo, tất cả đều biến trùm mười phương quốc
độ, kinh Hoa Nghiêm nói: Trong mỗi lỗ chân lông của ngài Phổ Hiền không thể nói
hết số quốc độ được tuần tự đưa vào trong đó. Lỗ chân lông có thể nhận các Đức
Phật ấy, các cõi không thể lấp đầy lỗ chân lông như thế, một lỗ chân lông như tất
cả lỗ chân lông đều như thế. Như một hạt bụi cùng tất cả các hạt bụi, hạt nào
cũng như vậy. Do kinh này dù chưa nói rõ sự sự vô ngại, nhưng mà nhất chân pháp
giới là nền tảng của bốn pháp giới, (lý, sự, lý sự, sự sự) do vậy kinh này là
nơi trình bày thật tướng tịch diệt của nhất tâm, là thật tướng của nhất chân
pháp giới. Cho nên chư Phật hiện thần lực mà không thể nói hết công đức của
kinh này. Hoa Nghiêm nói: Giả sử có người đem hư không làm giấy, biển cả làm mực,
núi Tu di làm bút, viết chép công đức một chữ của kinh cũng không hết được,
chính là ý này vậy.
6. Từ câu: “Dĩ yếu ngôn
chi” đến câu: “Thử kinh tuyên thị hiển thuyết” (Tóm nói đó … tuyên bày nói rõ
trong kinh này).
Đoạn này nói lý do tại
sao thần lực vẫn không nói hết công đức của kinh này.
Tất cả vật sở hữu (mà
Như Lai có) là trọn vẹn tất cả pháp giới. Tất cả thần lực tự tại là trọn vẹn đại
dụng của pháp giới vô tác; tất cả bí mật là trọn vẹn của bí mật pháp giới, tất
cả sự thâm sâu là tột cùng nguồn đáy của pháp giới. Đây là toàn thể pháp thân đặc
thù, không thể dùng thấy, nghe để tìm cầu. Nay kinh này nói rõ ràng rằng: Các
thần lực trên tuy rộng lớn vô biên, nhưng còn tùy thuộc cái thấy cái nghe, do vậy
mà không thể nói hết công đức của kinh này vậy.
7. Từ câu: “Thị cố nhữ đẳng“
đến câu: “Nhi bất Niết bàn” (Cho nên các ông … mà nhập Niết bàn).
Đoạn này dặn dò chúng từ
đất vọt lên tuyền bá và giữ gìn kinh này, để kết thúc lời nói ở đoạn trước.
Trong kinh này do có
toàn thân Như Lai đều nên xây tháp… các ý nghĩa như vậy. Từ câu: “Vì sao như vậy”
trở xuống là giải thích lý do. Giải thích rằng: Vì tất cả chư Phật thành đạo, độ
sinh, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn, đều từ kinh này mà ra, cho nên xây tháp
cúng dường kinh. Do vậy phải hoằng trì để huệ mạng không dứt.
8. Từ câu: “Nhĩ thời Thế
Tôn” đến câu: “Quyết định vô hữu nghi” (Lúc đó Đức Thế Tôn… quyết định không có
nghi).
Từ câu: “Các Phật đấng cứu
thế” trở xuống 12 câu, là nói việc thần thông. Từ câu: “Sau khi Phật diệt độ”
trở xuống 12 câu, là nói thần thông không thể nói hết công đức trì kinh. Từ
câu: “Người trì được kinh này” trở xuống 6 câu, nói trì kinh được thấy Đức
Thích Ca và Đa Bảo cùng chư Phật phân thân và việc giáo hóa Bồ tát ngày nay của
Đức Thích Ca. Tất cả các vấn đề phân thân chư Phật ứng hiện đều ở trong kinh
này. Từ câu: “Người trì được kinh này” trở xuống 8 câu, nói thường trì kinh này
nên thấy được chư Phật, nên chư Phật hoan hỷ. Từ câu: “Các Phật ngồi đạo tràng”
trở xuống 10 câu, nói do trì kinh này mà được pháp tạng bí yếu của chư Phật,
nên được bốn pháp biện tài vô ngại, các pháp là vô ngại biện, các nghĩa là
nghĩa vô ngại biện, danh tự ngôn từ là Từ vô ngại biện, lạc thuyết vô cùng là
Nhạo thuyết vô ngại biện. Cho nên đúc kết rằng: Tất cả đều không chướng ngại. Từ
câu: “Sau khi Như Lai diệt” trở xuống 10 câu, nói do lợi ích lớn của bốn vô ngại
biện nên có thể thuyết pháp giáo hóa vô lượng Bồ tát đều đạt được nhất thừa. Từ
câu: “Cho nên người có trí” trở xuống 6 câu, là nói đúc kết bài tụng khuyến
khích trì kinh. Sắp sửa chúc lụy, trước hết hiện thần lực để trình bày không thể
nói hết công đức của kinh. Ý nói kinh này là Pháp sở đắc của Đạo tràng Như Lai,
công đức rộng lớn để phát khởi nguyện lực kiên cố của các vị Bồ tát trì kinh.
Phẩm Chúc Lụy Thứ Hai
Mươi Hai
Đại ý phẩm này là từ trước
khai thị về mặt lý đã đầy đủ. Đối tượng thính chúng giác ngộ về tâm đã thông suốt,
người tin hiểu đã thật sự hiểu. Như vậy nhân tố thành Phật đã đầy đủ, và bản
hoài xuất thế của Phật đã viên mãn. Điều đó như ông Trưởng giả, tình cha con đã
mất, nên giao phó gia nghiệp. Cho nên đúc kết lại sự tin hiểu mà thuyết phẩm
Chúc Lụy. Vậy từ phẩm này không thể phân chia là phần lưu thông. Từ phẩm này về
trước mười một phẩm là Ngộ Phật tri kiến, cùng với hai mươi mốt phẩm trước
chung là Tín Giải, đều thuộc phần nhân duyên hiển lộ lý tính. Sáu phẩm sau là
trình bày về hạnh, để nói rõø chứng nhập làm quả.
1. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni Phật” đến câu: “Phổ đắc văn tri” (Lúc bấy giờ Đức Thích Ca … đều
đặng nghe biết).
Sắp sửa phó chúc, trước
hết xoa đầu an ủi mà dạy bảo, đó là trình bày lòng thương yêu của Đức Như Lai,
làm cho đại chúng không hoang mang sợ hãi và củng cố niềm tin. Vì vậy, ba lần
xoa đầu, lặp lại ba lần rất chí thiết rằng pháp vô thượng Bồ đề rất khó được. Đức
Phật đã trải qua nhiều kiếp tinh cần cực khổ, cho đến tam thiên đại thiên thế
giới không có một khoảng trống nào bằng một hạt cải mà không phải là nơi Bồ tát
vì cầu đạo Bồ đề mà bỏ thân mạng. Nhờ chịu sự cần khổ lâu dài mới có thể thành
tựu, do vậy mà nói là khó được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên giờ đây
sắp sửa phó chúc lại nói ba lần “Khó được”. Như ông Trưởng giả là nhà đại phú,
cần người con có trí tuệ hiểu được sự khai sáng sự nghiệp là rất khó khăn. Nay
lấy pháp này phó chúc cho hàng Bồ tát, không phải chỉ muốn sự giữ gìn mà thôi,
mà còn muốn họ truyền bá rộng rãi cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Vì
chỗ uỷ thác rất quan trọng nên ý dạy bảo rất tha thiết. Đó là một đại sự nhân
duyên không phải việc nhỏ vậy.
2. Từ câu: “Sở dĩ giả
hà” đến câu: “Chư Phật chi ân” (Vì sao? … ân của các Đức Phật).
Đoạn này giải thích ý tứ
của việc muốn truyền bá rộng rãi kinh này.
Mười phương Như Lai chỉ
lấy chúng sinh làm tâm, có vật sở hữu gì đều muốn cho chúng sinh, do có tâm Đại
bi nên không bao giờ tiếc nuối, cũng không sợ chúng sinh nhiều, chỉ cần có mong
cầu thì đều cho cả. Đây là bản tâm của chư Phật. Có thể cho chúng sinh trí tuệ
của Phật. Trí tuệ của Như Lai là trí tuệ tự nhiên. Nhưng gọi là trí tuệ Phật có
ba loại là sao? Nói trí tuệ của Phật là nói cái mà chúng sinh mê, nay họ được
khai thị nên giác ngộ và thể nhập. Trí tuệ Như Lai là loại trí tuệ mà chúng
sinh và Phật cùng có, nhờ tu mà chứng đắc.
Trí tuệ tự nhiên là
thiên nhiên tự tính vốn không có mê ngộ, không thuộc về tu chứng. Trí tuệ vốn
là một nhờ khai thị mà ngộ nhập, do ngộ nhập mà có tu, do tu mà có chứng được tự
tính thiên nhiên vốn có, cho nên nói có ba loại. Hôm nay Đức Phật đã khai thị
cho, thì chắc chắn giác ngộ, tu hành mà chứng được trí tuệ bản hữu, vậy mới là
cứu cánh. Tất cả đều được cho không có nuối tiếc. Ngài là đại thí chủ của chúng
sinh. Đó là tâm Như Lai lấy chúng sinh làm tâm mình, Ngài dạy các Bồ tát nên học
theo pháp ấy của Như Lai là cho tất cả đừng luyến tiếc gì. Ở đời vị lai nếu có
người tin tưởng trí tuệ Phật, thì nên vì họ mà thuyết kinh này, làm cho họ đắc
được trí tuệ Phật.
Ở đoạn trên có nói đến
ba loại trí tuệ, nay dạy Bồ tát ngài chỉ nói về trí tuệ Như Lai, vì trước hết
khai thị cho chúng sinh tri kiến của Phật để họ tự mình giác ngộ, tu tập và chứng
đắc, nên vấn đề khai thị là cần thiết nhất, do đó nói riêng như vậy. Nếu như
chúng sinh có người không tin trí tuệ Như Lai thì ở trong giáo pháp thâm sâu
khác mà giáo hóa họ được niềm vui lợi ích, nghĩa là ở trong pháp tam thừa
phương tiện dẫn dụ làm cho họ tin nhận.
Đây chính là ý phó chúc,
cho nên nói: “Các ông nếu được như thế thì đã báo được ân của các Đức Phật”. Cuối
phẩm phương tiện ở trước, các ngài Xá Lợi Phất.v.v… cảm ngộ ân của Phật đến mức
đầu đội trần sa kiếp, thân làm giường ngồi khắp cả tam thiên thế giới, rốt cuộc
không thể báo được ân của Phật. Ở đây đúc kết khuyên rằng chỉ có thể truyền bá
rộng kinh này thì báo đáp được ân của chư Phật. Đó gọi là:
“ Giả sử đảnh đới kinh
trần kiếp
Thân vi sàng tọa biến
tam thiên
Nhược bất hoằng pháp độ
chúng sinh
Tất cánh vô năng báo ân
Phật”
Dịch nghĩa:
Giả như đầu đội qua trần
kiếp
Thân làm sàng tọa khắp
tam thiên
Nếu không thuyền pháp độ
chúng sinh
Rốt cuộc không báo được
ân Phật.
3. Từ câu: “Nhĩ thời Bồ
tát” đến câu: “Nguyện bất hữu lự” (Lúc đó các vị Đại Bồ tát… kính xin Thế Tôn
chớ có lo).
Đoạn này Đức Phật phó
chúc và các Bồ tát nhận lãnh sứ mệnh.
Do Phật xoa đầu ba lần
khi phó chúc nên ở đây ba lần thọ nhận, an ủi Thế Tôn xin Đức Thế Tôn chớ lo.
Đây là lúc các người con lãnh lấy gia nghiệp, đủ để an ủi lòng lo của cha.
4. Từ câu: “Nhĩ thời
Thích Ca Mâu Ni Phật” đến câu: “Hoàn khả như cố” (Khi đó Đức Thích Ca … đặng
hoàn như cũ).
Đoạn này việc phó chúc
đã xong, chư Phật phân thân trở về chỗ ở của mình.
Ở trước có thí dụ người
cùng tử, ông Trưởng giả lo nghĩ về đứa con này, lòng muốn giao phó gia nghiệp,
vừa lúc cùng tử về đến. Mới đầu còn sợ hãi, nghi ngờ thời gian lâu mới tin,
càng lâu càng gần, cha con tình vong, cho nên Trưởng giả hội họp thân tộc, quốc
vương, đại thần (làm chứng) giao phó gia nghiệp. Nay Phật Đa Bảo xuất hiện, các
phân thân Phật đều tập họp chính là ý hội họp quốc vương đại thần. Khi việc phó
chúc đã xong các phân thân Phật đều trở về bổn độ, chỉ còn lưu lại tháp Đa bảo
như cũ. Về trước đã ngộ được pháp thân nhưng chỉ thân cận tùy thuận mà thôi.
Sau đó trình bày sự chứng nhập, là muốn nói khế hợp pháp thân mới thâm nhập thật
chứng. Cho nên lưu lại tháp Đa bảo. Nói “ đóng tháp trở lại như cũ”, chính là
hiển lộ chứng nhập pháp thân bí mật tạng, nên lưu lại để chứng minh.
5. Từ câu: “Thuyết thị
ngữ thời” đến câu: “Giai đại hoan hỷ” (Phật nói lời đó rồi … đều rất hoan hỷ).
Đoạn này do chứng pháp
có được người để phó chúc nên đều hoan hỷ.
Phân thân chư Phật và
các Bồ tát đều hoan hỷ. Vui vì Đức Thích Ca có chỗ để giao phó. Ngài Xá Lợi Phất
và các đệ tử mới được thọ ký vui mừng, mừng vì có các Bồ tác nhận sự phó chúc,
chúng sinh đời sau có chỗ nương về.
Kinh Kim Cang nói: “Đức
Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ tát, khéo phó chúc chư Bồ tát” Do vậy biết rằng
Như Lai xuất thế mục đích hộ niệm chư Bồ tát, chuyên vì họ mà giao phó việc
này. Bốn mươi năm đến nay tìm người giao phó không được, nay may có người mà
giao phó. Vậy đã rốt ráo bản hoài xuất thế của Như Lai, việc lợi sinh đã xong.
Đó gọi là “Giáo hóa Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm” sự nghiệp đã tận tình thổ lộ.
Nay phó chúc người thọ nhận chỉ ấn chứng tâm của họ mà thôi. Muốn chứng thật quả
thì phải tu hành, nên gọi là trước ngộ sau mới tu. Vì vậy sáu phẩm sau từ phẩm
Dược Vương … là trình bày y theo pháp tu hành mới có thể chứng nhập, gọi là nhập
Phật tri kiến. Đâu có thể coi là thọ nhận mơ hồ ư! Cho nên tôi cho rằng phần
này là Nhập Phật tri kiến, ý ở nơi hiển lộ hành trì. Nếu nói đó là phần lưu
thông thì toàn kinh đều là lưu thông của một đời giáo hóa của Đức Phật. Người
trí nên biết rõ.
Comments
Post a Comment