PHÁP HOA KINH

CƯƠNG YU


I.- PHN KHAI PHT TRI-KIN

 

 

2.- PHƯƠNG TIN PHM

 

Va ri, đc Pht nhp Vô-lượng-nghĩa-x tam-mui, phóng bch-hào quang-minh hin chơn-cnh diu-minh ý mun chúng-hi dương-cơ, hin tin mc-kích, khế-ng biu-tượng chơn-ti uyên, khi cn phi nói phô bày v.

Nhưng ngt vì cơ-lit, mt chm, trí m, không thu được đo tch-dit ly-ngôn, chng đt được th-tánh chơn vô-nim, nên đc Pht t tam-mui dy, li phi dùng li nói phô bày, t-tán t-dương, trước khích đng sau ch bày, m mi tri kiến, gi là phương tin, vì phàm h xen vào vòng nói-năng tc là phương-tin vy.

C theo trong li s kinh Hoa-Nghiêm v phương-tin có 2:

1.- Vin phương-tin.

2.- Cn phương-tin.

Suy cùng v trước, các kinh ca đc Pht tuyên nói trong hơn 40 năm, đu là phương-tin ca kinh Pháp-Hoa. Kinh nói: 'Du là ch bày các đo-hnh, nhưng chính tht vì mt Pht-tha', đó là vin phương-tin. Còn lun v hin ti, thi tt c các vic, như nhp-đnh, phóng quang, đng đa, khai phát v.v... đu là phương-tin ca đương hi. Kinh nói: 'Nay đc Pht phóng quang-minh đ tr phát nghĩa tht tướng', đó là cn phương-tin.

Bi t trước, vì căn cơ ca chúng-sanh chưa thun, nên mc đích hin ra nơi đi, đc Pht chưa tng th l.

Hin nay khí-tánh ca chúng đã thun thc, đã phi lúc phi thi, đc Pht cùng tn phô bày ch ý ra đi, phế ba-tha quyn-giáo đ hin nht-tha chơn-tht. Do đó mà sau khi xut đnh, đc Pht cùng cc khen ngi Trí-hu rng sâu ca Pht, ngoài Pht cùng Pht ra, không mt ai có th suy lường thu đáo được, đ làm cho chúng hi sanh lòng hâm-m. Kinh nói: 'Trí-hu ca Pht rt sâu vô-lượng, môn Trí-hu đó khó hiu khó vào'. Li nói: 'Tri-kiến ca Như-Lai rt rng ln sâu xa, vô-lượng cũng vô-ngi, thp lc, t vô-úy, thin-đnh, gii-thoát, tam-mui đu sâu xa không ngn mé, trn nên tt c pháp v-tng-hu'. Li nói: Pháp ít có th nht khó hiu ca đc Pht trn thành. Ch có Pht cùng Pht mi có th rõ thu cùng tn thit tướng ca các pháp'.

Sau khi tán-thán công-đc Trí-hu ca Pht, đc Pht còn chưa vi ch th tht bày, vì e rng trong chúng bng nhiên nghe pháp chơn-tha cao sâu, khó ni sanh lòng kinh hãi. Ðc Pht đi ngài Xá-Li-Pht thay mt chúng-hi ba phen thưa thnh, lòng cu khn đã thiết, ý-khí đã thun tùng, ri sau mi nói. Ðc Pht nói nhng gì ? Ðc Pht thn trng dy rng: 'Mi người ri s thành Pht c'. Kinh nói: 'Nếu có loài chúng-sanh, gp các Pht quá-kh, hoc nghe pháp, b-thí, hoc trì-gii, nhn-nhc, tinh-tn, thin-trí thy, tu các món phước-hu, tt c hng người đó đu đã thành Pht-đo. Nhng người xây tháp Pht, người đp tượng, dng chùa, cho đến đng t chơi, vun cát làm tháp Pht, các hng người như thế đu đã thành Pht-đo ... Hoc người lòng vui mng ca ngâm khen đc Pht ... cho đến đem mt bông cúng-dường nơi tượng v ... Hoc có người l bái, hoc li ch chp tay, dơ tay cùng cúi đu, đ cúng-dường tượng Pht, ln thy vô-lượng Pht t thành đo vô-thượng ... Nếu có người nghe pháp, không mt ai chng thành Pht...'

Ðc Pht thut li ngày trước, khi đc Pht mi thành đo, trong 21 ngày suy nghĩ phương thế đ đi, đ mi loài trong đi đu thành Pht như Pht. Du bn nguyn ca đc Pht mun khp c chúng-sanh thng vào Pht-hu, song vì căn-trí chúng-sanh ám-đn, nên đc Pht phi chiu theo, dùng phương-tin quyn-xo dn dt d-d ln ln. Kinh nói: 'Lúc ta ngi đo tràng, xem cây cùng kinh-hành, trong khong hăm mt (21) ngày suy nghĩ vic như vy: 'Trí-hu ca ta đng, vi-diu tt th nht, chúng-sanh các căn đn, b tham si làm mù, các hng người thế này, làm sao đ đng đó ... ngày nay ta đng đo, cũng nên nói ba tha'. Mười phương chư Pht cũng nói: ... 'Chúng ta cũng đu đng pháp th nht rt mu, vì các hng chúng-sanh phân bit nói ba tha, Trí hèn ưa pháp nh, chng tin mình làm Pht, nên Pht dùng phương-tin, phân bit nói các qu, du li nói ba tha ch đ dy B-tát'. Kinh li nói: 'Ta li nghĩ như vy: Ta hin ra nơi đi ác trược, cũng nên tùy thun làm theo như li ca các đc Ph mười phương va nói.'

Như thế ba tha là quyn gi, gc t nht-tha mà ra, như kinh nói: 'Chư Pht dùng sc phương-tin nơi mt Pht-tha, phân bit nói thành ba'.

Mc du là phương-tin dn d, nhưng kỳ tht là đưa đến con đường chơn-tht-đo, con đường thng đến qu vô-thượng. Trong kinh nói: 'S dĩ Pht ra đi vì đ nói Pht-hu, nay chính đã đến gi ... Nay Ta vui mng không lo s nơi trong chúng hi B-tát, b phương-tin trước, chánh-trc tuyên bày, ch nói đo giáo nht-tha vô-thượng ... nghìn hai trăm La-Hán, cũng đu s làm Pht, sanh lòng rt vui mng t biết s làm Pht'.

Bt đu t phm 'phương-tin th 2' này đến phm 'pháp-sư th 10', chính là khai hin chơn-tri-kiến ca Như-Lai, nên thuc v phn 'khai Pht-tri-kiến'.

 

3.- THÍ-D PHM

 

Nhơn vì trong phm phương-tin trước, đc Thế-Tôn thng mt mc th l chơn-tha, mc đích duy nht ca đc Pht hin ra nơi đi, ngài Xá-Li-Pht, bc trí-hu thượng-th trong chúng-hi Thinh-văn, nghe pháp chơn-tha lin lãnh hi t ng trước nht, nghĩ nh li t trước mê lm không t nhn, nên t trách t hn, đến nay mi tin chc rng s đng làm Pht không còn nghi ng. Kinh nói: 'Nhưng vì chúng con không hiu rng Pht phương-tin tùy cơ-nghi nói pháp, va nghe Pht nói pháp lin tin nhn nghĩ suy chng qu.

Thế-Tôn! con t trước đến nay trn ngày mãn đêm thường t khc trách... Ngày nay mi biết mình tht là Pht-t, t ming Pht nói mà sanh ra, t pháp hóa-sanh, đng phn Pht-pháp... Lòng con rt vui mng, nghi hi đã tr hn, an tr trong Pht-trí. Con quyết s làm Pht, được tri người cung kính, chuyn pháp-luân vô-thượng, giáo hóa các B-tát'. Vì ngài Xá-Li-Pht đã t tin nhn làm Pht, đã lãnh-hi chơn-tha, nên lin đng đc Thế-Tôn th ký, s thành Pht hiu Hoa-Quang  cõi nước Ly-cu rng đ vô-lượng chúng. Hàng Thinh-văn t lâu trm tr nơi quyn-tha, nay mt phen nghe tht-giáo sanh tín tâm lin đng th ký, đó chính làm 'Rõ tt c pháp tc tâm t tánh' thành tu hu-thân, t ng chng phi do người khác'. Du vy, song còn phi tri qua nhiu kiếp s tu hành mi đng thành, vì vô-minh chưa hết hn, mi thit chng Pht-qu. Th-ký, ý nghĩa đi khái như thế.

Trong chúng-hi tiu-tha, t trước tình chp sâu nng nghi ng không tin, mi người đu t cho rng: mình quyết không đng d phn làm Pht, cũng không có chí mong cu. Nay chính tai nghe, tn mt thy ngài Xá-Li-Pht được đc Thế-Tôn th ký s làm Pht. Ngài Xá-Li-Pht đã vy, chc mình cũng thế, nên c thy đu sanh lòng rt vui mng, đu ci y tung lên cúng-dường đc Thế-Tôn, đ tiêu biu ý hướng-thượng mun gii-thoát. Kinh nói: 'Thế-Tôn nói pháp đó, chúng con đu tùy-h, đi-trí Xá-Li-Pht, nay đng Pht th ký, chúng con như thế, quyết s đng làm Pht, trong tt c thế-gian, rt tôn quí vô-thượng'. Du t mình đã quyết đnh tin chc nhưng còn lo trong chúng hi ch tin nhn chưa hoàn-toàn thu-đáo, nên ngài Xá-Li-Pht, li ân cu thnh đc Thế-Tôn vì t chúng mà nói rõ: s nhơn vì sao thu trước Pht li nói quyn nay li b quyn nói tht, đ dt hn lòng nghi ca toàn chúng-hi.

Ðc Thế-Tôn nói nhà la đ t-d.

T cnh nhà ca hư sp nguy him, đy nhng ác qu, trùng đc, thú d, li thêm la dy tư b, đ l vòng sanh-t khn kh trong tam-gii.

Các con ngu di, t thân  trong ch him-nguy ha dit-vong p đến, mà vn mê say vui đùa không hay không biết, đ l s mê lm tham chp ca chúng-sanh.

Trưởng-gi vì cu con mà phi t mình vào nhà la, đôi ba phen kit tâm-tư tìm phương d dn đ đem các con ra khi nn chết: trước nói tht trng him-nguy, mà các con không hiu, không nghe theo, sau cc chng đã phi quyn nói ha cho ba th xe đ ngoài ca. Trúng tâm bnh, các con ham xe mà ra khi nhà la. Рl đc Thế-Tôn lòng t tha-thiết vì đ qun-sanh mà phi vào trong đi ác trược khn nguy, phi kit tâm-tư suy tm phương thế cu vt, nói tht không hiu, không tin, bt đc dĩ phi nói quyn-giáo ba-tha đ d dn.

Trước ha ba xe, mà lúc sau, khi các con đã ra khi chn kh nguy, đng ban cho mt th xe trân báu cao rng đp nht trong đi. Chính ch rõ ý nghĩa ngày nay Ðc Pht tht-giáo phế quyn-tha, mi người s đng cu-cánh Pht-qu.

Kinh nói: 'Xá-Li-Pht! Như ông Trưởng-gi đó, ban đu dùng ba th xe đ d dn các con, nhưng v sau ch cho đng mt th xe ln vt báo trang-nghiêm an n hng nht, mà ông Trưởng-gi đó không có li hư-vng. Ðc Như-Lai cũng li như thế, không có hư-vng ban đu nói ba tha dn dt chúng-sanh, v sau ch dùng đi-tha mà đ thoát đó. Bi vì sao ? Vì Ðc Như-Lai có vô-lượng trí-hu, thp-lc, t vô-s-úy tng các pháp mu, có th ban cho tt c chúng-sanh pháp đi-tha, ch vì chúng-sanh không th lãnh th được hết. Xá-Li-Pht! Do vì nhơn-duyên đó, nên phi biết rng các Ðc Pht, dùng sc phương-tin nơi mt Pht-tha phân bit nói ba'.

 

4. TÍN GII PHM

 

Ngài Ma-Ha Ca-Diếp v.v.. bn v đi đ t, nhơn thy ngài Xá-Li-Pht đã lãnh hi t ng, được th ký thành Pht, li nhơn nghe li thí-d va ri ca Ðc Thế-Tôn: 'Phương-tin nói ba-tha hi qui v mt Pht-tha', cho nên sanh lòng vui mng vô-lượng, hiu rõ qu-v ca mình đã chng trước kia là quyn, tin chc Pht-tha được nghe hôm nay là chơn; hi hn ngày xưa si mê, va được tiu qu Thanh-Văn thoát ly tam gii đã t ly làm đ, không lp chí hướng-thượng, không mong cu đi qu, như kinh nói: 'Chúng con  đu hàng chúng tăng, tui đu già suy t cho rng đã đng Niết-bàn không còn kham nhim tu pháp đi-tha, nên chng tn cu đo Vô-thượng Chính-đng Chính-giác'. Hôm nay nghe đc Pht th ký cho Thanh-Văn thành Pht, t lâu tưởng rng: đi vi Pht-tha mình đã tuyt phn, nay bng nhiên li đng, mng này còn mng nào hơn, như Kinh: 'Nay chúng con  trước Pht nghe th ký đo vô-thượng cho Thanh-Văn, lòng chúng con rt vui mng đng điu t hi nào chưa tng có, chng ng hôm nay bng nhiên đng nghe pháp mu hi-hu, mng r chng xiết, đng li lành ln, vô-lượng trân-bu chng cu mà đng.

Ri bn ngài  trước Ðc Pht t nói d: 'cùng-t' nào b cha chn đi, nào gp cha không nhn mà tr li s, nào ch ham ht ra phân nhơ đ được tin công tng ngày, cho đến trên my mươi năm sau, mt ngày kia bng nhiên được hưởng c gia-tài to ln ca cha. Bn ngài mượn vic ca cùng-t đ l cnh hung ca mình, mà cũng là ca mi người, thơ ngây xa Pht lưu lc trong luân hi, ni trôi trong sanh t; đến ngày gp đng Pht li không biết là chính cha lành mà tr li s, nh Pht phương-tin cho  qu v tiu-tha, t an phn nơi đó, không tin mình chính là con ca Pht, có ph Pht-đo, s hãi pháp chơn-tha, mãi đến ngày nay mi t hiu t tin. Kinh nói: 'Thế-Tôn! chúng con vì ba món kh  trong sanh t b các nhit-não, mê lm không biết, ham ưa pháp nh, ngày nay Thế-Tôn bo chúng con suy nghĩ dt tr phn nhơ hí-lun ca các pháp. Chúng con  trong pháp đó siêng-năng tinh-tn, đng đến Niết-bàn tin công mt ngày. Ðã đng đó ri lòng rt vui mng t cho đó đã đ.

Chúng con t xưa nhn li chính tht là Pht-t, mà ch ưa pháp tiu-tha, nếu chúng con có lòng ưa mến pháp đi-tha thi Ðc Pht vì chúng con nói pháp đi-tha,  nơi hi nói kinh Pháp-Hoa này, Ðc Pht ch nói pháp nht-tha ... Cho nên chúng con nói t trước không lòng mong cu, hôm nay Pháp-Vương đi-bo t nhiên mà đến ...'

Hiu trước quyn, tin nay tht nên gi phm này là 'TÍN GII'.

 

5. DƯỢC THO D PHM

 

Nhơn vì va ri bn v đi đ-t đã tín-gii, lp d đ t trn đã hiu nơi quyn tin nơi tht ca mình, Ðc Thế-Tôn ling chng cho. Song do vì còn chưa có th biết thu sc trí-kiến bình-đng thâm-diu ca Ðc Như-Lai, hoc gi nhng hàng chp tướng li cho rng: Ðc Như-Lai thit có tác ý tùy cơ, do Ðc Như-Lai tác ý tùy cơ nói ba tha sai khác, và thit có qu v nói ba-tha nên chng và đáng được. Nếu chp cho như thế thi thành có thit Niết-bàn cùng thit pháp. Nim Niết-bàn cùng chp pháp không tiêu thi có th nào trit sut ngun đáy ca các pháp, đáy ngun ca các pháp không trit thi tt là PHT-TRI-KIN khó khai hin được. Du Ðc Như-Lai nói pháp ba-tha, nói qu-v, nói Niết-bàn, nhưng kỳ tht Ðc Như-Lai bao gi cũng vn vô tâm hành bình-đng thuyết pháp, viên-âm nht v vang khp, ch vì chúng-sanh chng-tánh không đng, nên theo căn, tùy theo tánh, tùy theo loi mà t thành lãnh th sai khác thôi.

Vì mun gii quyết nghĩa bình-đng thuyết-pháp đ nga s nhn lm, nên đc Như-Lai nói d 'DƯợC THO': mây đy khp tri che trùm muôn vt, đng mt lot mưa xung ch rưới mt th nước, cũng không ch ít nhiu. Mc du mt trn mưa không my mún riêng tư, nhưng ba th c cùng hai loi cây tùy phn được đượm nhun mi mi riêng khác. C xem nơi c cây thi thy s hp th không đng, nhưng không đng là t nơi c cây ging loi sai khác, ch nước mưa ch mt v thôi.

Ðc Như-Lai thuyết pháp cũng thế, lòng t rng ln bao bc c qun-sanh, dùng viên âm ban cho phép nht-v bình đng. Pháp ca Như-Lai vn không sai khác, mà có sai khác là t  nơi cơ ca chúng không đng. Do đây mà thy rõ ý thú 'ch có mt Pht-tha, không hai cũng không ba'. Làm cho người nghe xong d 'Dược-tho', lin tr chp kiến, có th sâu vào pháp-hu bình đng ca Như-Lai, chính là khai trin 'PHT-TRI-KIN' vy.

Kinh nói: 'Ðc Như-Lai làm vua trong các pháp, nơi tt c pháp dùng trí phương-tin mà din nói ra đó thy đu đến bc nht-thiết-trí'.

Kinh li nói: 'Mây kia tuông ra nước thun mt v, c cây lùm rng tùy phn th nhun. Tt có các cây hng ln, va, nh, xng theo ln nh đu đng sanh trưởng, gc, thân, nhánh, lá, bông, trái tươi sáng, mt trn mưa rưới đến đu đng tt tươi. Xng như th tướng ca c cây kia, tánh loi chia ra ln nh, mưa nhun vn mt v mà mi th đu sum-sê. Ðc Pht cũng thế, hin ra nơi đi ví như mây ln khp che c. Ta là đng tôn trng nht trong đi không ai có th sánh bng, vì mun làm cho chúng-sanh được an n mà hin ra đi, vì hàng đi chúng nói pháp cam l thanh-tnh, pháp đó thun mt v gii thoát Niết-bàn. Dùng mt th diu âm din thông nghĩa đó, thường vì đi-tha mà làm nhơn duyên. Ta đu bình đng khp xem chúng-sanh không có lòng b th ưa ghét, ta không tham chp, cũng không hn cuc tr ngi, hàng vì tt c chúng-sanh mà bình đng nói pháp ... Tt c chúng-sanh nghe ta nói pháp, tùy theo sc mình mà lãnh th an tr nơi các đa v ho nơi nhơn, thiên, vua Chuyn-Luân Thánh-Vương, Ðế-Thích, Phm-Vương, như ging c thuc nh. Hoc đng Niết-bàn, chng qu Duyên-giác như c thuc bc trung. Hoc hng cu qu Pht, ta s làm Pht, là c thuc ln. Li có các Pht-t chuyên lòng cu Pht-đo, thường hành đo t-bi t biết mình làm Pht quyết đnh không nghi, đó gi là hng cây nh. Bc an tr thn thông chuyn pháp-luân bt thi, đ vô-lượng c trăm nghìn chúng-sanh B-tát như thế gi là đi-th. Ðc Pht bình đng nói pháp như mưa mt v, tùy nơi tánh chúng-sanh mà t bm th không đng ... Ðo hnh ca các ông tu chính là đo đi-tha B-tát, ln ln tu hc đu s thành Pht.

 

6. TH KÝ PHM

 

Do ngài Ma-Ha Ca-Diếp v.v... bn v đ-t trong phm trước lãnh ng ý-ch bình đng nht v, đã hiu ba-tha vn không thit. Pht tri kiến bn hu khai-hin, thi chánh-nhơn chơn-tht thành Pht đã đ, nên Ðc Thế-Tôn tun t th-ký cho bn ngài.

 

7. HÓA THÀNH D PHM

 

Nghe 'pháp-thuyết' khai quyn hiu tht, ngài Xá-Li-Pht đã sm lãnh ng chơn tha. 'D-THUYT' va tuyên bài, bn v đi đ t tin sâu hiu chc, mà đu được th-ký.

Trong pháp hi còn có mt loi Thanh-Văn căn chm lt, t lâu cho rng qu v đi-giác ca Pht, không phi trí phn ca mình, không th đến, không th chng. Ðến nay thói quen kém hèn vn chưa dt, hoc gi toan cho rng: Năm ngài là bc đ t ca Pht, là bc đo th trong chúng, nên đáng đng th-ký, còn chúng ta chc khó đng d phn. Nhơn thế nên vn còn ôm lòng tuyt phn.

Ðc Thế-Tôn d biết lòng chúng, bèn dn vic mười sáu v Vương-t giáo-hóa vô-lượng chúng, trong thi kỳ Pht Ði-Thông Trí-Thng, tri qua vi trn s kiếp v trước, đ cho chúng-hi biết rng: Ðc Pht vi đi chúng đã cùng kết thin duyên vi nhau t lâu xa. Vi trn s kiếp trước, Ðc Pht, v Vương-t th mười sáu, đã tng gieo duyên chng Pháp-Hoa nht-tha vào tâm đin ca đi-chúng ri. T đó v sau, đi đi vn không ri Pht, đu được Ðc Pht tiếp-tc giáo-hóa. Nay cơ-duyên đã thun-thc chính đã đến lúc n ha làm Pht đ phá nghi tính chp trước ca đi-chúng, làm cho chúng phát khi lòng hâm m đi-tha, quyết đnh Pht-tri-kiến. Ðc Pht nhc vic Ði-Thông Trí-Thng thu xưa, dn vic mười sáu v Vương-T ging Pháp-Hoa kinh ngày trước, đ hin rõ duyên nhơn Pht tánh. Pht-tri-kiến đã sn, duyên nhơn Pht-tánh li đã đ, thi liu-nhơn t thành.

Bn ý ca Ðc Pht bao gi cũng mun đưa toàn chúng thng mt đường đến qu v giác-mãn ca Pht, ngt vì chúng sc kém, chí chúng lt, tánh chúng chm, nguyn chúng yếu, ngó qu cao xa sanh lòng chán nn s st, bt đc dĩ đc Pht phi quyn lp tam-tha Niết-bàn đ cho chúng tm thi an ngh, đ cho lòng chúng hết s hết nhàm. Lòng s nhàm đã hết, đc Pht lin dt chúng thng bước đến mc đích chánh ca Pht đã đnh.

Mun hiu rõ nghĩa tam-tha Niết-bàn rt-ráo là quyn tm lp ra ch đ tr lòng chán nn s st ca chúng mà thôi, nên Ðc Pht nói d 'HÓA THÀNH'. Ðc Pht là v Ðo-Sư tài-trí, dn đường, đưa chúng vượt qua con đường him tr dài xa vô-minh hoc chướng, đ đến bo-s chơn-thường. Na đường chúng mt, chúng s, chúng mun tr li. Ðo-Sư phi dùng thn-lc hóa ra thành-trì đ cho chúng có ch tm ngh khi phi tr lui. Thành-trì do thn-lc biến hóa ra ch nào phi tht. Chúng hết mt hết s. Ðo-Sư lin nhiếp thn-lc dit hóa-thành, li đưa chúng tiến lên con đường thng đến bo-s, trước sau cũng ch là mt con đường phi noi theo đ đến bo s thôi.

Tam-tha Niết-bàn nào khác hóa-thành, tm thi tr nơi đó ri li phi ri ra mà thng đến trước, vì nào phi là cơ-s chơn-tht mà  mãi được, th chung ri cũng ch mt Pht-tha là chơn tht, mt con đường duy nht đến qu vô-thượng chánh-giác.

Kinh nói: 'Các v sa-di đó .... mi v ngi pháp tòa nói kinh đi-tha này ... mi v sa-di đó đ các hàng chúng-sanh có sáu trăm muôn c hng-sa các chúng... Chúng được nghe pháp do nơi trong các cõi Pht thường cùng thy sanh chúng ... Ta trong s mười sáu, cùng tng vì các ông nói kinh Pháp-Hoa cho nên dùng phương-tin dn các ông đến Pht-hu, do nhơn-duyên trước đó nên nay li nói kinh Pháp-Hoa đưa các ông vào Pht-đo, cn thn ch sanh lòng kinh s...

Mi người đu mi mt mà thưa cùng Ðo-Sư rng: nay chúng tôi mi mt, nơi đây mun tr li mà đành mt trân bo ln. Lin nghĩ chước phương-tin, nên dùng sc thn-thông hóa làm thành quách ln các nhà ca trang-nghiêm ... Hóa xong ri bo chúng: ch s, các ngươi vào thành này đu đng tùy ý ưa mun ... V Ðo-Sư biết chúng ngh ngơi xong bèn nhóm chúng mà bo rng: đây là thành-quách biến-hóa thôi, các người nên đi đến trước, đng nhau đến bo-s.

Ta cũng li như thế, là Ðo-Sư ca tt c, thy nhng người cu đo gia đường mà tr b, chng có th vượt qua các đường him sanh-t phin-não, ta dùng sc phương-tin nói Niết-bàn đ chúng ngh-ngơi: Biết đã đến Niết-bàn đu đng A-La-Hán, bèn nhóm chúng li vì đó nói pháp chơn tht. Các đc Pht có sc phương-tin phân-bit nói ba-tha, vì đ ngh nên nói hai, kỳ tht ch có mt Pht-tha ...'

 

8. NGŨ BÁ Ð-T TH-KÝ PHM

 

Năm trăm v đ-t trước kia nghe năm trăm v thượng-th được th-ký, va ri li được nghe vic nhơn-duyên đi trước, đn ng tích-nhơn, mi biết rng Ðc Pht dùng vô-lượng thn-thông phương-tin dn dt chúng-sanh, t tin chc mình quyết đnh thành Pht. Lòng nghi ng đã dt, mi lo lng đã tan cho nên nói rng: 'tâm tnh', chí hâm m được đc Pht th-ký nên nói rng: 'dũng bước', t biết đã kham đm đương gia nghip Pht-tha, cho nên nói rng: 'Ch có Ðc Pht Thế-Tôn biết rõ được thâm tâm bn nguyn chúng ta'. Pht-hu đã hin, tri-kiến đã khai, nên Ðc Thế-Tôn tun t th-ký cho c.

Ðược th-ký xong, năm trăm v nói d 'h châu', đ t ch mê lm ca mình ngày trước, bày ý ng túc nhơn ngày nay, t lâu không h ri Pht-tha na bước mà trước không t nhn, đến nay mi tin chc.

 

9.- TH HC VÔ-HC NHƠN KÝ PHM

 

Do vì t trước, đc Thế-Tôn nhiu ln khai th nào 'pháp', nào 'd', nào 'nhơn-duyên' ba phen nói bày đã cùng, đã khp, mi người trong pháp hi đu tin,  nơi li Pht dy, chng còn nghi ng đu đã nhn thit, cho nên các v đi đ-t t bc thượng-th, năm trăm đ t nhn đến c mt nghìn hai trăm A-La-Hán đu được th-ký. Như thế là đã an i lòng đi-chúng ri. Nhưng còn hàng tân hc Thinh-Văn, như các ngài A-Nan, La-Hu-La v.v... đu mun được th-ký đ toi lòng trông mong ca chúng mà cũng là ch ý đ thy rng Pht-pháp không h tha sót. Nhơn đó mà đc Pht đu th-ký cho.

Lun v Pht-tánh, có ba th nhơn, tc là: 'chánh nhơn', 'duyên nhơn' và 'liu nhơn'. Ba nhơn nếu đy đ thi quyết đnh thành Pht không nghi vy. T-tánh Pht mi người đu sn đ đó là 'chánh-nhơn Pht-tánh'. Cn phi nh giáo pháp ca Pht, các thin-tri-thc v.v... tr giúp cho khai phát, đó là 'duyên-nhơn Pht-tánh'. Còn t-tin liu ng đó là 'liu-nhơn Pht-tánh', các ngài Xá-Li-Pht v.v... mau t ng đó chính vì 'chánh-nhơn Pht-tánh' thâm hu vy.

Vi năm trăm v A-La-Hán, đc Pht rng dn duyên xưa đ thy rng các v đã được Ðc Pht giáo hóa t lâu xa, đó là duyên-nhơn Pht-tánh đng thun-thc vy. Trong duyên-nhơn li có hai phn, tc là thân-duyên cùng sơ-duyên. Các bc hc, vô hc gn k bên Ðc Pht, d pháp hi ca Pht đó là thân duyên, v li A-Nan là em, La-Hu-La là con, thi li là ti thân trong thân-duyên, có lý nào không đng đ, nên đu được th-ký c. Mi thy rõ rng lòng t-bi ca Ðc Pht tht là rt ráo bình-đng vy.

 

10.- PHÁP-SƯ PHM

 

Do vì v trước Ðc Thế-Tôn cùng cc rng khen pháp nht-tha nhim-mu rt sâu, người nào có th tin được lin đng thành Pht, các đi-đ t đã tin, đã nhn, nên đu đã đng th-ký làm Ph tương-lai.

Pháp nht-tha này chính là chánh-nhơn Pht-tánh bn lai sn đ ca tt c chúng-sanh. Nay nh Ðc Như-Lai lòng t bình đng khai th phương-tin, nói Diu-Pháp Liên-Hoa này, đ làm duyên-nhơn tr giúp cho chánh-nhơn hin phát, Ðc Pht là duyên thân nht, Diu-Pháp là duyên thng nht, được gp duyên-nhơn thân thng, không mt ai là không liu-ng trn thành liu-nhơn Pht-tánh, ba nhơn đã đ bèn có th kham đm-đương s nghip nhà Pht.

Xem kết qu ca chúng hi hin nay, chng rõ vic gieo mm trong vi-trn s kiếp trước, du lâu xa, thay đi nhiu thân, tri qua nhiu đi, nhưng ch càng tăng trưởng ny n, vn không mt my bt hao.

Ðã biết rõ bn-nhơn ca Ðc Pht thu Ðc Ði-Thông Trí-Thng Như-Lai, trong tâm đin mt phen đã huân np thng-pháp, thi rt ráo thun-th pháp-hi ngày nay.

Suy quá-kh, chng hin-ti. Xưa đã thế thi nay cũng thế. Mt hi pháp-duyên hin nay li là mt chng-t thng diu vô tn mãi mãi, đ ri s rt-ráo thun-t tương lai đó chính là 'nếu có người nào nghe pháp không mt ai chng thành Pht': nhn đến 'ch mt nim vui theo thi cũng nên Pht qu': vì thế nên dùng hai ch 'Pháp sư' nêu tên phm này. Ðây là chú ý rng chánh nhơn Pháp-Hoa ngày nay, cn nh các v Pháp-sư đ khai hin, đ truyn đăng làm thng duyên vô tn cùng kiếp v-lai. Du rng tt c chúng-sanh, đu có chánh-nhơn Pht-tánh, nhưng nếu không có 'diu-pháp' đ làm thng-duyên giúp cho phát l, thi tt khó mong chng thành giác qu. Vì có 'nhơn' mà không có 'duyên' thi tt c không sanh 'liu', liu-nhơn đã không, làm thế nào đng cu cánh. Do các nghĩa như thế, nên chng t Pht-tánh cn phi nh 'duyên' huân khi. 'Duyên' huân có hai phn: 'tân huân' và 'cu huân'. Thu Pht Ði-Thông Trí-Thng, mười sáu v Vương-T khai hóa đó là 'cu huân'. Hin pháp hi hôm nay là 'tân huân' vy.

Pháp-sư có 5 hng: 1.- Tùy h Pháp-sư

2.- Ðc tng Pháp-sư

3.- Th-trì Pháp-sư

4.- Thơ t Pháp-sư

5.- Ging-thuyết Pháp-sư.

Trong năm hng trên đây, nếu có th hoàn toàn mt tc là v Pháp-Hoa Pháp-Sư.

Kinh Pháp-Hoa này là toàn thân ca Như-Lai, gánh vát Kinh này chính là gánh vát đc Như-Lai, vì thế nên phi kính trng pháp-sư xem như đc Pht, đ hiu rõ pháp mu thù-thng, cn phi nh nơi người hong truyn, có hong truyn thi ging Pht không dt mt, đó là 'Pháp thâm diu như thế, nếu không người tuyên nói, du có trì cũng không hiu biết'. Kính trng thi phước đc vô-lượng, còn nếu hy-báng mc ti báo rt nng, vì kính trng là ni ging Pht, còn hy-báng là dt ging Pht vy.

Ðến đây thy rng bn tâm hin ra nơi đi ca đc Pht cũng có th gi rng là đã va khp đ.

Kinh nói: 'Ðc Pht bo ngài Dược-Vương B-tát: Tt c đi-chúng trong pháp-hi này, t hàng t-chúng đến thiên, long, bát-b v.v... đ trước đc Pht nghe kinh 'Diu-Pháp Liên-Hoa', mt bài k mt câu, nhn đến mt nim tùy-h đó, ta đu th-ký cho nhng ngườy s đng đo vô-thượng b... Sau khi ta dit đ cũng thế, nếu có người nghe kinh Diu-Pháp Liên-Hoa, nhn đến mt câu, mt nim tùy-h đó, ta cũng th-ký đo vô-thượng b cho nhng ngườy... Nếu li có người th-trì, đc-tng, gii-nói, biên-chép kinh Diu-Pháp Liên-Hoa, nhn đến mt bài k, đi kinh quyn này kính xem như Pht, các th cúng-dường... Phi biết nhng hng người như trên đó đã tng cúng-dường mười muôn c đc Pht, nơi các đc Pht đã thành tu nguyn ln, vì thương chúng-sanh mà sanh trong nhơn-gian. Dược-Vương! Nếu có người hi, chúng sanh nào s làm Ph tương-lai! Thi nên ch nhng hng người trên đó,  đi v-lai chc đng làm Pht ... Nếu có trai lành gái tín nào sau khi ta dit-đ có th riêng vì mt người ging nói kinh Pháp-Hoa này nhn đến mt câu, phi biết người đó là s-thn ca đc Như-Lai, đc Như-Lai sai làm vic Pht, hung li là ngườ trong đi-chúng rng vì người mà nói.

Dược-Vương! nếu có người ác dùng tâm chng lành nơi trong mt kiếp, hi trước Pht thường mng nhiếc Pht, ti đó còn nh. Nếu có người dùng mt li ác chê mng người ti-gia hay xut-gia đc tng kinh Pháp-Hoa này, ti đây rt nng...

Dược-Vương nên biết! Sau khi Như-Lai dit đ, người mà có th biên chép, th-trì, đc-tng, cúng-dường kinh này vì người khác din nói, thi là đc Như-Lai ly y trùm người đó, li được các đc Pht hin-t mười phương h nim... Thi được đc Như-Lai tay xoa nơi đu ... Nếu sau khi ta dit đ người có th ging thuyết kinh này, ta lin sai hóa t-chúng cúng-dường v pháp-sư đó dn dt các chúng-sanh nhóm li nơi đó (khiến) nghe pháp...

T phm Pháp-Sư này tr v trước phán thuc v phn Khai Pht-tri-kiến'.

Khai có hai-nghĩa 1.-  nơi đc Pht, thi đc Pht vì (chúng) khai-th, khai-hin, khai phát, ct yếu làm cho người nghe (được) t hiu t tin Pht tri-kiến. 2.-  nơi người nghe pháp thi (t khai) ng Pht-tri-kiến, bi chúng t lâu mê lm không tin nay (được) đc Pht ging nói thi bng nhiên liu ng. Chính là liu (ng t) tâm, ví như hoa sen n'.


Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Thông Nghĩa

Đại Sư Hám Sơn, Giảng Giải

Hòa Thượng Thích Viên Giác, Việt dịch

 

 

Phẩm Phương Tiện Thứ Hai

 

Phẩm này là phần chánh thuyết của Kinh Pháp Hoa, lấy tên là phương tiện.

Pháp đệ nhất nghĩa đế là bình đẳng tịch diệt, vượt ra ngoài tình cảm và tri thức, không có tạo tác, sinh khởi. Đó là lúc Phật chưa ra đời, Tổ chưa từ Tây qua. Một giai đoạn thuần túy, đức lý viên mãn, chưa tạo phân biệt nhị nguyên, được gọi là con đường hướng thượng chỉ có một. Từ không kiếp về trước, chỉ có Phật với Phật mới biết nhau, đó là Phật tri kiến, không nhờ tạo tác.

Chúng sanh vì mê muội không ngộ được tri kiến Phật, nên Đức Thế Tôn một phen phải chịu nhọc, từ bỏ báo thân an lạc, cởi áo trân quý, khoác y dơ xấu, hiện thân trong tam giới, uốn mình theo thời thế mà hoằng dương pháp này. Đó là, ra khỏi thai mẹ, một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói: “ Trên trời dưới trời chỉ có ta là tối thượng” Đây là triệt để vì chúng sanh mà tỏ lộ chân lý, ngay từ đầu đã khai phương tiện rồi vậy. Đến lúc xuất gia, vào rừng sâu tu hành, thành Phật, thuyết pháp, qua hơn bốn mươi năm đi, đứng, ngồi đều vì hiển lộ tri kiến Phật chứ không có gì khác. Ngài đã từng dùng nhiều phương cách mà dạy cho chúng sanh phần căn bản của con đường hướng thượng, những điều ấy không phải là phương tiện hay sao? Nhưng vì chúng sanh tâm ô nhiễm, tình nặng sâu nên một mực không giác ngộ, có điều qua quá trình gạn lọc, căn tánh và khí chất dần dần thuần thục, sắp sửa có cơ hội khai phát.

Ngày nay Đức Thế Tôn đặc biệt vì đại chúng mà bày tỏ nỗi niềm, làm rõ cái vốn có (Phật tri kiến). Vì vậy trong pháp hội này thuyết kinh Pháp Hoa để khai thị Phật tri kiến và thuyết minh lý do Đức Phật xuất hiện ở đời. Nhờ đó mà chúng sanh tự biết tự thấy, tự khẳng định (Phật tánh) mình mà ngộ nhập tính ấy, vậy mới hợp với bổn hoài của Đức Phật. Đạt được như vậy mới được thọ ký, chính là biểu hiện được niềm tin và tự tâm mình là Phật. Một khi ta đã ngộ được tự tâm này thì ô nhiễm hết, tham luyến không còn, tất cả pháp đều trở nên mầu nhiệm, ngoài tâm không có pháp, vạn pháp đều hiển lộ trong tâm, nên gọi là nhất thừa diệu pháp Phật tri kiến. Đây là đạo tịch diệt vô ngôn, thì không thể dùng ngôn ngữ mà đạt được. Cho nên trước hết nhập định để hiển thị cái tế nhị sâu kín, rồi mới phóng quang để hiển hiện cái vi diệu, đó là phóng quang trước rồi lập phương tiện sau. Phóng quang nhưng đại chúng không hiểu mà còn nghi hoặc, nhờ Di Lặc và Văn Thù cộng thông con đường Bồ tát mà lập phương tiện trong phương tiện. Buồn thay! Đại chúng đều mờ mịt. Đức Thế Tôn lại phải nhiều lần đánh thức, phải đi vào thế giới ngôn ngữ, lấy đó làm phương tiện, nên lấy chữ “Phương tiện” đặt tên cho phẩm kinh này.

Phẩm này liên hệ với tám phẩm sau, được coi là phần khai Phật tri kiến. Chúng sanh vốn có tri kiến Phật, song bị vô minh che lấp nên không tự biết. Đức Phật ra đời chủ yếu là mở bày cái mà chúng sanh đã có. Chữ “ Khai” này đối với Phật là nêu cao cái tự tánh, là khai phá, là khai của khai trừ (vô minh). Cho nên gọi là ”Khai phương tiện môn”. Đoạn dưới Kinh có dạy như tháo khóa chốt của thành lớn, căn cứ vào căn cơ mà khai mở, thì khai đó là khai phát, điều đó nghĩa là giác ngộ tự tâm như hoa sen nở. Thuyết pháp đủ cả ba phạm trù: phương tiện, thí dụ, nhân duyên gọi là khai.

Đức Thế Tôn trong bốn mươi năm trước tạm dạy về ba thừa, ý muốn cho người nghe ngộ được cái vi diệu của tâm, nhưng họ không nhận được ý chỉ” ly ngôn thuyết” ấy mà chỉ chấp vào cái tạm thời cho là chân thật, vì vậy không tin mình có thể thành Phật. Nay loại bỏ cái tạm thời để khai sáng kho tàng bí mật ấy làm rõ cái chân thật duy nhất, nên người có căn trí bậc thượng tin ngay tự tâm mình, nếu không có trí thì không có tin như thế. Khi mới nghe thuyết pháp chỉ một mình Xá Lợi Phất lãnh hội, còn người trí bậc trung thì nhờ thí dụ mới hiểu. Vì thế, sau khi nghe thí dụ thì bốn đại đệ tử lãnh hội, còn người trí bậc hạ thì không có sự lãnh hội nào. Vì vậy phải giảng giải những sự việc nhân duyên đời trước, nhờ đó mà lãnh hội. Thế nên 1200 vị nhờ thuyết về nhân duyên mà tỏ ngộ. Điều Phật thuyết tuy dài nhưng cốt yếu là lòng của đại chúng tin vào tự tâm mình là Phật. Do vậy mà mọi người được thọ ký thành Phật. Đó là đem hết thần lực của Như Lai vì chúng sinh mà khuyến phát. Ngày nay mới được đại chúng thật sự có tín tâm. Gọi là lãnh hội, nhưng chỉ lãnh hội trên mặt ý thức chứ không phải lãnh hội về mặt chứng nhập (thể nhập). Đó mới là bước vào cánh cửa của niềm tin mà thôi.

Xem qua đoạn văn tiếp sau, Đức Phật hứa khả cho những người có niềm tin đó được thể nhập chân lý và các đại đệ tử thuật lại tâm trạng không tin của mình ngày xưa. Xá Lợi Phất lãnh hội, bốn đại đệ tử khác cũng trình bày sự thành tựu của mình, do đó phẩm có tên là Tín giải. Cho nên Phật tri kiến chú trọng ở nơi tín tâm. Điều này cũng giống kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy biết tất cả pháp đều là tự tánh của tâm, thành tựu trí tuệ không nhờ bên ngoài được. Do vậy lấy tín tâm làm căn bản. Dù được thọ ký phải trải qua nhiều kiếp phụng sự chư Phật, tức giống như bốn mươi hai vị Bồ tát của Kinh Hoa Nghiêm. Vậy do tín giải rồi mới hành trì và chứng đắc được. Nếu không thành lập các giai đoạn thì vô minh nhiều kiếp chồng chất sao mà thanh tịnh một cách mau chóng được! Phật quả vô thượng, sao có thể thành tựu được! Xin xem rõ về các phương cách giáo hóa của Phật thì sẽ hiểu được đường lối thuyết pháp trước sau của Ngài.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn tùng tam muội” đến câu: “Bích chi Phật sở bất năng tri” (Lúc bấy giờ Thế Tôn từ chánh định… Bích Chi Phật đều không biết được).

Đức Thế tôn xuất định tán thán hai trí (quyền và thật) rất sâu của chư Phật để chứng minh cho trí của mình. Sắp sửa khai mở tri kiến Phật. Căn bản trí của chư Phật bao gồm pháp giới, thông suốt đến từng hạt bụi, đó là sự sâu thẳm của thật trí. Tùy theo căn cơ của ba thừa mà thuyết chín quyển kinh pháp, đều vì để dẫn nhiếp chúng sanh nhập tri kiến Phật, đó còn gọi là “Vào cửa trí tuệ”. Giáo thuyết của Phật mênh mong bao la, sai biệt không đồng, đều vì mục đích chỉ rõ bản tâm Phật tri kiến. Lời thì gần gũi mà ý chỉ thì sâu xa, khó hiểu, khó hội nhập, nên gọi là quyền trí sâu xa. Những người căn cơ Nhị thừa (Thanh văn Duyên giác) trí cạn và chấp tướng không thể hội nhập được ý chỉ siêu việt ngôn ngữ, không thể biết. Nên không phải trí thì không vào được ngài Xá Lợi Phất làm đối tượng thuyết pháp là có ý khích lệ căn cơ Nhị thừa.

2. Từ câu: “Sở dĩ giả hà Phật tằng thân cận” đến câu: “Tùy Nghi sở thuyết ý thú nan giải”. (Phật đã từng gần gũi… ý thú khó hiểu)

Đây là giải thích lý do, hai trí rất sâu xa. Nhờ sự gần gũi nhiều Phật nên được hết mọi tâm ấn của nhiều Phật, thật hành hết mọi pháp, thực tập mọi sự vi diệu tu hành của các Phật và những nguyên tắc lợi ích chúng sanh. Nhờ đó mà tinh tấn đi tới, nếu chưa đến chỗ tận cùng của pháp thì không nghỉ. Do dũng mãnh tinh tấn như vậy nên công đức bên trong được tích luỹ dồi dào, danh tiếng nghe được khắp nơi.Như vậy danh và thật đều đầy đủ, đó là điều thành tựu chưa từng có. Cho nên vì chúng sanh mà tùy duyên thuyết pháp, đều truyền đạt ý chỉ hoằng dương “Đệ nhất nghĩa đế”. Do ý thú khó hiểu nên hàng căn cơ Nhị thừa không thể hiểu được.

3. Từ câu: “Xá Lợi Phất ngô tùng thành Phật dĩ lai” đến câu: “Tri kiến Ba la mật giai dĩ cụ túc” (Xá Lợi Phất! Từ lúc ta thành Phật đến nay… tri kiến Ba la mật đều đầy đủ).

Đoạn này Đức Phật tán thán sự thâm sâu của hai trí, để thuyết minh pháp phương tiện như đã nói về trước. Do chư Phật đã chứng ngộ nên sự sâu sắc của trí tuệä. Vì vậy từ khi xuất hiện thành Phật đến nay, đã trải qua bốn mươi năm, đã thuyết chín bộ Kinh, sử dụng vô lượng nhân duyên, thí dụ, pháp môn, phương tiện quyền xảo. Tất cả đều chỉ để hiển thị pháp nhất thừa, dẫn dắt chúng sanh rời bỏ chấp trước sanh tử, vào được tri kiến Phật mà thôi. Pháp tuy có sai biệt, mà tâm vốn nhất chơn. Đức Như Lai hai trí quyền và thật đầy đủ nên nói pháp luôn phù hợp với Phật tánh, trong cái phương tiện đã có đủ yếu tố chân lý. Người căn cơ nhị thừa nương theo ngôn ngữ mà chấp nghĩa lý nên không thấy được đích hướng tối hậu, do vậy khó tin khó hiểu. Mở cửa phương tiện để hiển lộ chân lý tối hậu đã được trình bày ở đây vậy.

4. Từ câu: “Xá Lợi Phất Như Lai tri kiến” đến câu: “Vị tằng hữu pháp Phật tất thành tựu” (Xá Lợi Phất tri kiến Như Lai… Pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu).

Đoạn này là lời tán thán nhân tố đưa đến hai trí thâm sâu. Nhờ gần gũi nhiều Đức Phật, hành trì nhiều pháp môn mà chứng được tri kiến chân thật, rộng lớn, sâu xa. Đó là diệu dụng công đức của chư Phật như: Tứ vô lượng tâm, Tứ vô ngại biện, thập lực, tứ vô sở úy, thiền định, giải thoát v.v… tất cả đều được chứng đắc viên mãn. Do sự chứng ngộ thật trí của Phật sâu thẳm nên năng lực của Phật vô biên. Đây là ý mà kinh Hoa Nghiêm nói về trí Phật, cảnh giới Phật và công đức Phật… tất cả đều phù hợp với pháp giới tánh, nên dùng chữ “Hải” (biển) để ví dụ mới biết được sự rộng lớn sâu xa ấy. Do sự chứng ngộ của Phật thâm sâu nên phải tùy thuận căn cơ, khéo léo phân biệt các pháp, nói ra không trái ý người. Nhu nhuyến hợp thời, hợp cơ làm mọi người đều hoan hỷ. Đây là chỗ sâu xa của quyền trí (trí phương tiện). Năng lực tuệ giác của Phật không thể nói hết được, nên chỉ nói một cách tổng quát rằng. Đức Phật đều đã thành tựu vô lượng vô biên các pháp chưa từng có. Đây là lý do các hàng nhị thừa không thể biết được.

5. Từ câu: “Chỉ Xá Lợi Phất bất tu phục thuyết”đến câu: “Như Lai bổn mạt cứu cánh đẳng” (Thôi Xá Lợi Phất không nên nói nữa… như vậy gốc ngọn cứu cánh).

Đoạn này là làm biểu lộ thật tướng của các pháp.

Đã nói mà lại thôi, là vì trình bày pháp vượt ra ngoài các thường tình, chưa nên khinh xuất luận bàn, sợ người nghe nghi ngờ không tin. Cho nên chỉ có thể nói là khó hiểu, không dám nói nhiều. Lý do không dám nói là vì pháp của Phật thành tựu là pháp hy hữu. Người trong ba thừa khó tin khó hiểu, chỉ có Phật với Phật mới biết một cách rốt ráo thật tướng của các pháp. Đây là pháp ly ngôn khó hiểu. Sao có thể coi thường mà luận bàn ư! Trở xuống dưới giải thích lý do thật tướng các pháp là khó hiểu. Tuy nhiên các pháp dù khó nhưng không ra ngoài tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bổn mạt, bao gồm trong mười pháp này mà thôi. Đều là dễ hiểu dễ tin, có gì không khó đâu! Cái khó ở chỗ hiển lộ thật tướng, vì nó thâm sâu vi diệu nên khó hiểu.Thật tướng các pháp là gì? Nếu nói đến tướng thì tướng là vô tướng, ấy là tướng Như. Nếu nói về tánh, thì diệu tánh tự nhiên, ấy là tánh Như. Nếu nói về thể, thể tự chân thường đó là thể Như. Nếu nói về lực thì tác dụng là chân, đó là lực Như. Nếu nói về tác dụng thì tác dụng mà không tạo tác, đó là tác Như. Nếu nói về nhân thì sinh vốn không sinh đó nhân. Nếu nói về duyên thì tánh không mà thành mọi vật, đó là duyên Như. Nếu nói về quả thì quả không rời nhân, đó là nhân Như. Nếu nói về báo thì tánh nghiệp rõ ràng, đó là báo Như. Nếu nói bổn mạt thì trước sau một thời, đó là bổn mạt Như.

Các pháp như trên, tất cả đều là pháp Như, nên rốt ráo bình đẳng, thanh tịnh không hai (đối tượng chủ thể), đó là thật tướng của các pháp. Vì có những pháp có thể tin có thể hiểu, nên ba thừa đều biết. Có những pháp khó tin khó hiểu chính là những pháp nói về thật tướng. Pháp này chỉ có Phật với Phật mới hiểu được tận cùng, còn căn cơ Nhị thừa không thể biết được.

6. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa” đến câu: “Như thị chư nhân đẳng kỳ lực sở bất kham” (Bấy giời Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩ này… các hạng người như vậy, sức họ không kham được”.

Đoạn này là bài kệ tụng lập lại ý nghĩa sâu xa khó hiểu của hai trí để làm hiển lộ ý nghĩa thật tướng.

Đức phật được gọi là bậc Thế Hùng, không thể so sánh gọi là Hùng. Nghĩa là Đức Phật được tôn xưng là bật duy nhất, là bậc thánh của các bậc thánh. Nói “ Đạo tràng được chứng quả” là chỉ cho Phật Tỳ Lô Xá Na, ở nơi Bồ đề đạo tràng lúc mới thành chánh giác, chứng đắc pháp giới hải tuệ (trí huệ như biển của pháp giới), là kết quả của nhiều kiếp tu nhân. Đây là cảnh giới Phật tự chứng, cho nên chỉ có Phật mới biết. Nói “Quả bảo lớn như vậy” là chỉ cho thế giới vô lượng trang nghiêm, giao thoa không chướng ngại, nên gọi là “Các món tánh tướng nghĩa”. Điều này chỉ có Phật với Phật mới hiểu mà thôi.

Vì kết quả sở chứng ấy xa rời ngôn ngữ nên không thể thuyết minh, mới gọi là “Vắng bặt tướng nói năng”. Con đường ly ngôn thuyết này không phải là đối tượng của phân biệt tư duy, làm sao mà căn cơ Tam thừa có thể hiểu được! Chỉ có thể nhờ “Niềm tin” mà đi vào.

Bài tụng này nói về bản địa cứu cánh chân thật, nay làm chỗ quy nạp rốt ráo mà ở nơi văn Trường hàng chưa nói hết, nên bài tụng này đặc biệt khai thác ý ấy.

7. Từ câu: “Giả sử mãn thế gian giai như Xá Lợi Phất” đến câu: “Diệc phục bất năng tri” (Giả sử đầy thế gian như Xá Lợi Phất… cũng lại chẳng biết được).

Đoạn tụng này nói qua về hàng Tam thừa không biết được sự thâm sâu của hai trí.

Ngài Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ đệ nhất, hoặc dù đầy khắp cả mười phương các bậc có trí tuệ như Xá Lợi Phất cũng không biết. Nghĩa là tất cả đại chúng trí tuệ giống như Xá Lợi Phất thì đại chúng ấy vẫn không hiểu được. Xá Lợi Phất tuy có trí tuệ nhưng không bằng trí tuệ của bậc Độc giác. Trí tuệ của bậc Độc giác, hoặc vô số vị Độc giác nhiều như rừng trúc mà hợp lại cũng không thể hiểu được. Độc giác tuy trí tuệ linh lợi nhưng không bằng đại căn cơ của Bồ tát, đại căn cơ của Bồ tát dù nhiều như cây lúa, cây lau trong mười phương và trải qua hằng hà sa kiếp hợp lại một tâm để mà hiểu cũng vẫn không hiểu được. Các vị Bồ tát mới phát tâm không bằng Bồ tát địa thượng bất thời chuyển, dù hợp tất cả tâm trí của đại chúng Bồ tát ấy cũng không hiểu được. Như vậy mới thấy rằng trí tuệ của Phật thậm thâm vi diệu. Do Phật trí như hư không, không thể nắm bắt, vượt thoát ngoài sự suy nghĩ của tâm thức. Hàng Tam thừa lấy cái tâm phân biệt của mình để phân biệt cảnh giới Phật, làm sao mà hội nhập được?! Hàng Tam hiền va thập thánh đều ở nơi cảnh giới của quả báo, chỉ có một mình Phật là ở nơi Tịnh độ, giống như sự bí mật ở nơi Cửu trùng, người dân ngoài không thể biết được. Cũng vậy, trí huệ thâm sâu của Phật đều không phải là đối tượng hiểu biết của chúng sanh trong chín cõi.

8. Từ câu: “Hựu cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Dẫn chi linh đắc xuất” (Lại bảo Xá Lợi Phất… dắt đó khiến ra khỏi).

Đây là bài tụng nhắc nhở khuyến khích làm cho đại chúng tin tưởng Diệu pháp, cũng để tin tưởng việc phân biệt ba thừa là tạm thời.

Do thật tướng là con đường ly ngôn, không phải là đối tượng của tư duy hay nói năng, cái mà mọi người tam thừa đều lấy tâm tư duy của mình để nhận thức. Đó là lý do khó hiểu được. Pháp ấy thâm sâu mầu nhiệm không phải đối tượng của tâm thức, chỉ có Phật với Phật mới biết. Con người chỉ nên tin vào mà thôi. Nếu có được niềm tin rằng điều hôm nay Phật dạy mới là cái thật, còn cái Đức Phật dạy ngày xưa chỉ là tạm thời, thì có thể xả bỏ được chấp trước mà ngộ nhập pháp vi diệu ấy. Trong Kinh Hoa Nghiêm dạy: “ Nếu người nào muốn biết cảnh giới Phật, thì nên làm tâm ý thanh tịnh như hư không, xa rời vọng tưởng và chấp thủ, làm cho lộ trình tâm vô ngại”. Vậy làm sao có thể còn chấp thủ mà vào được thậm thâm vi diệu!

9. Từ câu: “Nhĩ thời đại chúng trung” đến câu: “Nan giải chi pháp” (Khi đó trong đại chúng… pháp mầu nhiệm rất sâu khó hiểu).

Đoạn này nói Ngài Xá Lợi Phất vì Đức Phật dừng lại mà không nói, nhân lúc đại chúng đang thắc mắc mà hỏi Đức Phật.

Đức Thế Tôn ở trong chúng hội này, nhập định phóng quang, thị hiện các việc hy hữu, đại chúng ai cũng kinh nghi, may được Ngài Văn Thù giải thích. Đức Phật vừa mới xuất định không đợi đại chúng hỏi mà tự tán thán hai trí là sâu xa. Ngài còn nói rằng những pháp đã nói từ trước, ý nghĩa khó hiểu, hàng Nhị thừa đều không thể biết. Tuy nhiên chúng tôi một lòng nghe Phật dạy một nghĩa giải thoát và chúng tôi đều đắc được, sao nói là không hiểu? Nay Đức Thế tôn một lúc vô cớ mà nói lý thuyết này, tâm của chúng con đều rất Hoài nghi. Đây chính là hàng Nhị thừa chỉ tin lời Phật, còn sự chấp trước vẫn chưa xả được, nên lấy việc xưa để minh chứng là thật, mà không biết đó là pháp tạm thời, do vậy mà khởi tâm hoài nghi. Ngài Xá Lợi Phất tuy có trí tuệ mà vẫn chưa hết lòng nghi, muốn nghe nhân duyên mà Đức Phật tán thán ngày hôm nay. Nên Ngài vì đại chúng mà thưa hỏi.

10. Từ câu: “Nhĩ thời Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn” đến câu: “Dục văn cụ túc đạo” (Khi đó ngài Xá Lợi Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng… muốn nghe đạo đầy đủ).

Đoạn kệ này lại nói ý thưa thỉnh.

Nếu thánh nhân không xuất hiện thì vạn cổ như đêm dài, cho nên gọi Phật là “ Đấng Huệ Nhật”. Bốn mươi năm trước chưa từng ca ngợi pháp thâm sâu bất khả tư nghì, cho nên mới nói rằng: “ lâu mới nói pháp này”. Không hỏi mà tự nói là do vì pháp chứng đắc nơi đạo tràng là cảnh giới tự chứng của Phật, không phải là đối tượng biết của chúng sanh, nên không thể có sự thắc mắc. Dù chúng ta có trí tuệ cũng khó đo lường, nên không thể hỏi, do vậy không ai hỏi mà Phật tự nói. Hơn nữa pháp mà Đức Phật tán thán là những việc tầm thường của Đức Thế Tôn, đại chúng ai cũng cho rằng đã hiểu rồi, mà nay lại ca ngợi là thậm thâm vi diệu, rồi cho rằng chỉ có Phật mới biết, không phải là điều tam thừa với tới được ngoài ra không ai với tới được, đó là lý do đại chúng sinh nghi hoặc. Đại chúng đã nghi, Xá Lợi Phất cũng chưa rõ. Vì vậy mạo muội hỏi Đức Thế Tôn cái pháp được ca ngợi ấy là pháp cứu cánh ư! Đó là biểu hiện của đạo sao? Nếu đây là pháp cứu cánh tức là nội dung chứng đắc nơi đạo tràng (hay dưới cội Bồ đề) thì chỉ có Phật mới biết, cố nhiên không phải là đối tượng của con và đại chúng. Nếu là những biểu hiện hằng ngày thì trong bốn mươi năm đại chúng đều thấy, đều nghe và đã chứng đắc rồi, còn có gì thâm sâu hơn nữa? Vì thế đại chúng sanh nghi hoặc muốn nghe cái đạo viên mãn, nên Xá Lợi Phất mới dám thưa hỏi.

11. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Giai đương kinh nghi” (Khi ấy Phật bảo Xá Lợi Phất… đều kinh sợ nghi ngờ).

Đoạn ngắn này nhân việc xin nói mà Phật một lần nữa ngăn lại.

Phật ngăn lại không nói là vì hôm nay sẽ mở cái tạm thời, bỏ hết ba thừa, triệt phá hang ổ trú ẩn, như nước nhà bị mất, e rằng đại chúng sẽ kinh sợ hoài nghi. dạ quang ném đến người, tất người phải thủ thế. Cũng thế, vô thượng diệu pháp, chưa dám xem thường mà trao cho người khác.

12. Từ câu: “Xá Lợi Phất trùng bạch Phật ngôn” đến câu: “Tắc năng kính tín” (Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng… có người hay kính tin).

Đoạn ngắn này lập lại ý quyết thỉnh Phật thuyết.

Ý tứ là Đức Thế Tôn sở dĩ không nói là vì trong hội chúng trí cạn căn cơ kém mà không tin. Nay Xá Lợi Phất quán thấy tứ chúng căn lợi trí sáng chắc có thể kính tin, ắt không phụ lòng khai thị của Thế Tôn.

13. Từ câu: “Phật phục chỉ Xá Lợi Phất” đến câu: “Văn tất bất kính tin” (Đức Phật lại ngăn Xá Lợi Phất… nghe ắt không kính tín).

Đoạn này nói ý ngăn lại mà không nói.

Lý do không nói không phải vì bí mật, cũng không phải vô cớ, mà e ngại người tăng thượng mạn nghe thì không tin. Vì trong chúng có những kẻ chưa đắc mà nói rằng đã đắc quả, chưa chứng mà cho là đã chứng, tự lấy đó cho là đã đủ tất sẽ sanh tâm hủy báng, thì chẳng những không được lợi ích mà còn tai hại, sẽ đọa vào ác đạo. Để đề phòng sự kiện ấy nên không nói tốt hơn.

14. Từ câu: “Nhĩ thời Xá Lợi Phất” đến câu: “Tắc sinh đại hoan hỷ” (Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất… thì sinh lòng vui mừng).

Đoạn này đã tỏ ý ba lần thưa thỉnh.

Xá Lợi Phất được cậy nhờ mà cẩn thiết thỉnh Phật, xét thấy trong hội chúng đều được sự dạy dỗ của Phật từ lâu, không thể có hạng tăng thượng mạn. Tuy nhiên đoạn dưới những người rút lui bỏ đi đều là những người cùng chung pháp hội với Ngài Xá Lợi Phất, dù sống với nhau lâu như vậy mà vẫn không biết họ. Điều ấy cho thấy rằng biết mặt người mà biết luôn lòng người là rất khó.

15. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Ngô đương vị nhử phân biệt giải thuyết” (Bấy giờ Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất…Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói).

Đoạn này vì sự khẩn thiết thưa thỉnh nên Đức Phật hứa thuyết cho.

Phật đã vì đại chúng này mà nhập định, phóng quang, chấn động đại địa, trước hết là để cảnh tỉnh phát động tâm cơ đại chúng, điều đó chứng tỏ không phải nhân duyên nhỏ bé. Sau đó vừa mới xuất định đã tán thán sự thâm sâu của hai trí, rồi lại không hỏi mà nói, vậy lẽ ra Phật liền thuyết pháp, sao lại sắp nói rồi lại ngưng? Sao lại chờ thưa thỉnh tới ba lần mới nói?! Điều đó một là: làm hiển lộ sự thâm sâu của hai trí khó tin khó hiểu, chưa có thể khinh suất luận bày. Hai là làm phát khởi tâm thích Đại thừa ở nơi hàng Nhị thừa, làm vững chắc niềm tin của họ và làm cho họ sanh tâm khó gặp. Những người Nhị thừa sống quanh Phật nên xem thường, những pháp mà Phật thường dạy, đều dễ tin dễ hiểu, nghe dạy là tin nhận không có gì khó. Có người nào không tin thì thiệt hại không nhiều, vì những pháp ấy là pháp tạm thuyết. Người được quả nhỏ, có thể chờ đợi thời gian.

Nay khai mở tri kiến Phật đó là chủng tử chân thật của Nhất thừa chân thật rất thâm sâu vi diệu. Nếu khinh suất mà nói thì sẽ như lời nói trước kia, họ sẽ chấp theo ý nghĩa mà không hội nhập Phật Tri kiến hoặc họ ngã mạn khinh lờn mà không tin, thì cắt đứt chủng tử Phật, diệt mất nhân tố thành Phật. hoặc phỉ báng mà sa vào đường ác, như thế sự tổn thất rất lớn. Cho nên Phật chờ đợi ba lần tha thiết xin rồi mới nói. Xem trong Kinh Hoa Nghiêm, khi sắp nói Thập địa, Ngài Kim Cang cũng phải ba lần gia hộ, năm lần thưa thỉnh, sau đó mới nói. Một là sợ họ bị tổn hại mà không nói. Hai là Thập địa là pháp thâm sâu khó hiểu không dễ nói. Hơn nữa Pháp giới hải hội thuần nhất căn cơ bậc thượng, tuy nghi mà nói, còn cẩn trọng như vậy. Nay Kinh Pháp Hoa nói về thật tướng nhất thừa, chính là bản thể của pháp giới Hoa nghiêm. Mặt khác nữa, hàng Nhị thừa sự hiểu yếu kém, sức họ không kham nổi, nếu khinh suất nói ra mà họ không tin thì làm cho họ vĩnh viễn đoạn mất căn lành, lại mất cơ hội thành Phật. Vả lại cơ duyên giáo hóa của Như Lai sắp hết, thời gian không chờ người, đâu phải như những ngày tháng an nhàn thuở trước. Do vậy phải để tâm trí đại chúng kiên cố một lòng, để rồi chỉ một lần thay đổi là đắc đạo ngay. Chủ ý ba lần không chịu nói là vậy.

16. Từ câu: “Thuyết thử ngữ thời” đến câu: “Thế Tôn mặc nhiên nhi bất chế chỉ” (Khi Đức Phật nói lời đó… Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản).

Đoạn này nói về hàng tăng thượng mạn rời bỏ chỗ ngồi, để sách tấn quần cơ.

Trong lúc Đức Phật hứa nói pháp thì dưới tòa có 5000 người lễ Phật mà lui ra, Thế Tôn im lặng không ngăn cản. Chính vì cảnh tỉnh làm phát khởi tâm hàng Nhị thừa, hầu từ bỏ những huân tập từ trước, giữ lòng trống rỗng mà tiếp nhận giáo pháp. Những người tăng thượng mạn thực ra chưa chứng chưa đắc mà tự cho đã đắc đã chứng, nên gọi là tăng thượng mạn. Những người tự cho là đủ, tâm họ đã chật chội không còn chỗ để thọ nhận giáo pháp, nếu nghe Diệu pháp mà không tin sẽ vĩnh viễn đoạn chủng tử Phật. Ở nơi tòa ngồi, các vị đồng hàng Nhị thừa đều tự có ý nghĩ cho mình là đủ rồi. Như sau Ngài Xá Lợi Phất cùng bốn vị đại đệ tử khác đều nói rằng: “Phật nói một nghĩa giải thoát chúng tôi đều đã đắc, lại nói chúng tôi đều đã đắc Niết bàn” mà chẳng cầu vô thượng Bồ đề, đây là hạng tăng thượng mạn cả. Do vì họ chấp trước tri kiến đã tu tập từ trước, nên không thể nhập Diệu pháp nhất thừa được. Cho nên nay họ rút lui mà Phật không ngăn cản, chính là muốn kích phát hạng người này (tăng thượng mạn), làm cho họ xả bỏ những danh ngôn tập khí cũ. Tự thanh tịnh tâm mình để có thể thọ nhận giáo pháp mới. Nếu giữ họ lại sẽ làm đại chúng thêm mê lầm thì phụ lòng từ của Đức Như Lai.

17. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Nguyện nhạo dục văn” (Bấy giờ Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất… con nguyện ưa muốn nghe).

Đoạn này nói đến đây thiện căn đã thuần thục có thể thuyết được rồi.

Không còn cành lá chỉ còn hạt chắc, nên nói rằng: “Lui về cũng là tốt”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: Nếu có một người không thanh tịnh sẽ làm cho đạo tràng không thành tựu, huống gì đến năm ngàn người. Do vậy thối lui của những người ấy là tốt vậy.

18. Từ câu: “Phật cáo Xá Lợi Phất như thị diệu pháp”, đến câu: “Ưu đàm bát la hoa thời nhất hiện nhĩ” (Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất… hoa Linh Thoại đến thời tiết mới hiện một lần).

Đoạn này chính là nói về diệu pháp.

Thần lực viên mãn của Như Lai mới nói hai chữ “ Như thị” mà thôi, phải tin rằng tướng của các pháp là tịch diệt, không thể dùng lời nói mà trình bày được. “Như thị” là từ dùng để chỉ thẳng thực tại. Pháp là các pháp gồm tánh và tướng ở trước. Tuy nhiên chưa thấy sự vi diệu của các pháp, chỉ khi nào thấy được tánh Như như của các pháp mới thấy cái vi diệu của các pháp. Nếu thấy sự vi diệu của các pháp sẽ thấy ngoài tâm không có pháp. Tất cả pháp đều là chân thường, đều không pháp nào là không thật tướng, rõ được lý này thì gọi là Phật. Cho nên nói như hoa Ưu đàm đúng thời mới hiện. Hoa Ưu đàm dịch là thụy ứng hoa, ba ngàn năm mới nở một lần, khi hoa nở thì có thánh nhân ra đời, nên ở đây nói là chờ thời mới hiện. Đó là dụ cho Nhất thừa diệu pháp. Đối với căn cơ Hoàn cảnh tầm thường thì không nói, phải chờ thời cơ chín muồi mới nói vậy.

19. Từ Câu: “Phật cáo Xá Lợi Phất”, đến câu: “Xá Lợi Phất nhữ đẳng đương tín Phật chi sở thuyết ngôn bất hư vọng” (Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất… Xá Lợi Phất các ông nên tin lời của Phật nói không bao giờ hư vọng).

Từ trên đến đoạn này là chỉ thẳng toàn thể diệu pháp, do vì khó tin khó hiểu.

Từ đây trở xuống phân biệt trình bày giải thích, nói là bất đắc dĩ mà nói, vì diệu pháp khó tin. thuở ban đầu dạy là tin, vì đó là pháp Tam thừa, hàng Nhị thừa chấp là có thật. Nay đột nhiên phủ nhận thì e rằng họ không chấp nhận. Cho nên mới khích lệ răn nhắc nên tin vào lời nói của Phật là không hư dối. Đây chính là Đức Thế Tôn xác định pháp phương tiện đã nói lên rồi, từ đây phải tuyên thuyết pháp chân thật cứu cánh. Nay khai quyền hiển thật, một lời nói đã xác định hết những gì còn lại. Nên từ đây trở xuống chỉ triển khai ý này.

20. Từ câu: “Xá Lợi Phất chư Phật”, đến câu: “Vô hữu dư thừa nhược nhị nhược tam” (Xá Lợi Phất chư Phật… không có các thừa hoặc hai hoặc ba).

Đoạn này nói rõ ý nghĩa “Quyền chính là thật”, để làm biểu lộ ý nghĩa vi diệu của Nhất thừa.

Chư Phật tùy nghi thuyết pháp nên đều là pháp quyền, do không biết ý hướng ấy nên khó hiểu, và Quyền chính là Thật nên càng khó tin. Tiếp đoạn dưới là gạn hỏi: Thế nào là Quyền tức thật? Dùng vô số phương tiện trình bày các pháp, các pháp ấy lại nằm ngoài sự nắm bắt của tâm, ý và thức. Vì pháp ấy làm hiển lộ cõi giới tri kiến Phật, vốn không phải là đối tượng của phân biệt, mà hàng Nhị thừa phân biệt mong cầu. Nên gọi là không thể hiểu. Chỉ có Phật với Phật mới biết mà thôi. Đó là lý do gọi là tức quyền hiển lộ pháp thật. Chứ không phải chờ đến hôm nay. Vì vậy Kinh nói: “ Chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”. Điều nói là “Một” nghĩa là pháp giới nhất chơn, chân tâm thường trụ, ngoài tâm không có pháp nào nên gọi là ”Một”. Chân tâm ấy rộng lớn bao trùm, chúng sanh và Phật bình đẳng, y báo chánh báo không hai nên gọi là “ Đại”. Chư Phật chứng đắc tâm ấy mà đầy đủ tự lợi và lợi tha nên gọi là “ Sự”. Lấy chúng sinh vốn đủ Phật tánh làm “Nhân”. Chư Phật vì điều này mà ra đời làm phát khởi làm “Duyên”. Do nhân và duyên này mà xuất hiện ở đời, chứ không vì việc nào khác. Cho nên trải qua hơn bốn mươi năm đến nay dùng các phương tiện để chỉ rõ tâm này. Ở phần dưới có lời gạn hỏi rằng: Thế nào gọi là một đại sự …? Đây là lời phân biệt lại ý nghĩa “Một đại sự”. Điều gọi là một đại sự là chúng sanh vốn đủ chân tâm, tức tri kiến Phật. Tuy nhiên do tâm bị vô minh che lấp, Chư Phật phải xuất thế vì chúng sanh mà chỉ bày làm cho họ diệt mê vọng ô nhiễm được tâm thanh tịnh, làm họ tự ngộ nhập vì việc này mà thôi. Làm sao có việc gì khác được! Nên lời kết nói rằng: “Đó là các Đức Phật do vì một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời”.

Nên biết rằng chư Phật chỉ vì giáo hóa hàng Bồ tát trở thành vị Phật chỉ một việc này chứ không phải chủ trương đưa đến Nhị thừa, Tam thừa?! Đây là lúc Như Lai nêu rõ bổn hoài xuất thế, xoá hết pháp tạm thời của ba thừa, chỉ hiển lo sự vi diệu của Nhất thừa, tột cùng là ở đây vậy.

21. Từ câu: “Xá Lợi Phất nhất thiết thập phương chư Phật”, đến câu: “Thượng vô nhị thừa hà huống hữu tam” (Xá Lợi Phất pháp của tất cả các Đức Phật… không có hai thừa hà huống có ba).

Đoạn này dẫn chứng nghi thức thuyết pháp đã trải qua của chư Phật ba đời trong mười phương.

Để chứng minh lời nói của Đức Thích Ca hôm nay là không dối gạt. Ýù Phật nói rằng: Ta dùng vô lượng phương tiện, trình bày giáo pháp đều vì nhất thừa tri kiến Phật. Điều đó không phải tự Ngài sáng lập mà theo thông lệ của mười phương ba đời chư Phật. Chư Phật đều dùng mọi phương tiện, các thí dụ, ngôn từ khác nhau để trình bày chân lý. Chân lý thì chỉ có một (Phật thừa). Điều đó có nghĩa là làm cho chúng sinh nghe được giáo pháp toàn thiện, đạt được Nhất thiết chủng trí, thẳng đến Phật quả mới thôi. Chư Phật nối tiếp nhau đều làm như vậy. Thế mới biết biết rằng chư Phật chỉ vì giáo hóa hàng Bồ tát chỉ thẳng cho họ ngộ nhập tri kiến Phật. Nay lấy điều ấy làm công việc Đức Phật y theo nghi thức sẵn của chư Phật mà thuyết pháp ba thừa. Do vậy Phật biết chúng sinh có nhiều lòng dục, tâm chấp trước sâu nặng nên bất đắc dĩ phải tùy thuận tâm lý của mỗi người mà mở lối. Đức Phật thuyết nhiều pháp khác nhau để đối trị nhiều tâm lý khác nhau. Nếu tâm chúng sanh không loạn thì cần gì thuyết các pháp. Vì vậy điều chính là thuyết pháp để chúng sanh đạt được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí. Mười phương thế giới đều không có Nhị thừa hay Tam thừa không lẽ một mình Phật Thích Ca là khác với các đức Phật sao! Đây là điều Đức Phật quở trách hàng Nhị thừa để diệt hết quyền pháp ngày trước Phật đã lập. Bổn hoài xuất thế của Phật được hiển lộ ở đây vậy.

22. Từ câu: “Xá Lợi Phất chư Phật xuất ư ngũ trược ác thế…”, đến câu: “Ư nhất thừa phân biệt thuyết tam” (Xá Lợi Phất, các Đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược… nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba).

Đoạn này trình bày ý của chư Phật xuất hiện ở đời, vì bất đắc dĩ mà phải thiết lập ba thừa.

Các Phật ra đời nói ba thừa vì ở cõi đời đang lúc ô trược, xấu ác, chúng sinh cang cường rất khó dạy, không thể không tùy căn cơ để điều phục. Đó là lý do Phật dùng vô số phương tiện. Cho nên đem pháp Nhất thừa nói thành ba, vậy đâu có thể dừng ngang đó được!

Kiếp trược nghĩa là chúng sanh cùng làm điều ác giống nhau, cùng sống trong một thời kỳ. Kiến trược là chấp đoạn, chấp thường… đủ sáu mươi hai tà kiến. Phiền não trược là tâm thức chúng sanh chỉ do vọng tưởng tham, sân, si … làm nhiểu loạn tâm của họ. Do chủng tử ô nhiễm sanh ra nghiệp chướng nên gọi là chúng sanh trược. Nghiệp thức mạng căn đi theo nghiệp sinh tử gọi là mạng trược Như thế đương lúc ô nhiễm rối loạn cùng cực như vậy làm sao có thể sớm dạy họï thành Phật ngay được! Do đó mới dùng phương tiện độ sanh vậy.

23. Từ câu: “Xá Lợi Phất nhược ngã đệ tử” đến câu: “Vô hữu dư thừa duy nhất Phật thừa” (Xá Lợi Phất nếu đệ tử ta… không có thừa nào khác chỉ có một Phật thừa thôi).

Đoạn này chỉ trích hàng Nhị thừa làm cho họ tin chắc chỉ có nhất thừa.

Trong Kinh Hoa Nghiêm gọi hàng Địa Thượng Bồ tát là chân A la hán, hơn nữa hàng Địa Thượng Bồ tát, đại A la hán lại không biết việc Phật hay sao!. Cho nên Kinh nói rằng: “Nếu đệ tử ta cho mình là A la hán hay Bích chi phật mà không biết rằng chư Phật chỉ giáo hóa cho hàng Bồ tát thì đó không phải là đệ tử của ta, những A la hán, Bích chi phật ấy là giả danh”. Ở đoạn dưới các ngài sau khi lãnh hội nói rằng: “Chúng tôi hôm nay là chân Thanh văn, chân A la hán. Điều không phải chân A la hán chính là không tin pháp này”. Hơn nữa, đệ tử của ta đã chứng A la hán, được ra khỏi sanh tử, tức phải trên cầu Phật quả, nếu chấp trước tiểu thừa cho là đủ mà không cầu tiến nữa, đó đều là tăng thượng mạn.Còn nếu quả thật là chân A la hán mà lại không tin việc thành tựu Phật quả ư!. Đó là lời quở trách để tăng thêm lòng tin hơn nữa. Nếu hiện tiền gần gũi thấy Phật nghe pháp thì sự tin tưởng không khó nhưng sau Phật diệt độ rồi không còn thấy Phật, chỉ có thể trì tụng kinh điển thì có người không tin. Tuy lúc bấy giờ không tin nhưng chỉ cần thọ trì giải nghĩa cũng có thể tạo nhân duyên xa để thành Phật, người ấy nếu gặp Phật khác sẽ quyết định liễu ngộ. Đó là điều gọi là chủng tử kim cương trải qua nhiều kiếp không mòn, như người nuốt vào cuối cùng cũng qua da mà ra ngoài. Đây là lời nói của Kinh Hoa nghiêm nghe mà không tin vẫn kết nhân chủng tử Phật. Chủng tử Phật tánh là chánh nhân để thành Phật, nên phải tin tưởng và trân trọng. Cho nên nói rằng: “Các ông phải một lòng tin hiểu thọ trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật, Như Lai không hư vọng. Như vậy là lời nói kết của chương đầu vậy.

24. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn…” đến câu: “Duy hữu chư trinh thực” (Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng… chỉ có những hạt chắc).

Bài tụng này nói về chúng đã lui.

Ở nơi văn trường hàng nói chung là năm ngàn người, còn ở bài tụng thì liệt kê thành ba hạng là: thượng mạn, ngã mạn và bất tín, gọi chung là nhất xiển đề. Khuyết điểm về giới và bịnh chấp thủ, tức là căn khí bất tịnh; trí nhỏ như cám tấm, là trí cạn tâm thô. Do thiếu phước đức nên chẳng kham lãnh thọ giáo pháp, do đó họ mới bỏ đi.Chúng ở đây là hạt chắc cho nên mới nói vậy.

25. Từ câu: “ Xá Lợi Phất thiện thính” đến câu: “ Dĩ cố thuyết thị kinh”

(Xá Lợi Phất khéo nghe … nên mới nói kinh này).

Đoạn kệ tụng này thật chất là nói rõ về “ Quyền pháp”.

Bài tụng đầu là tụng nói chung.Nghĩa là pháp mà Phật đã chứng đắc đại pháp đã chứng nơi đạo tràng là Thật trí nhất thừa Phật tri kiến. Vì chúng sinh không tin nhận nổi nên phải dùng phương tiện quyền xảo mà nói. Ý nghĩa của hai mươi mốt ngày tư duy dưới cội Bồ đề là vấn đề này. Bài kệ tiếp theo “tâm của chúng sinh nghĩ …” xuống bốn câu là nói về lý do chúng sanh không đủ sức nhận lãnh giáo pháp. Do tâm chúng sanh đi con đường chánh tà, tính dục, nghiệp quả, thiện ác… các xu hướng khác nhau. Đều là không phải căn khí đã thọ nhận Đại thừa. Vì vậy Phật không nói Đại thừa. Đoạn kệ tiếp sau từ câu: “Phật biết hết thế rồi” cho đến “Luận nghị cộng chín kinh” là nói rõ về thiết lập quyền giáo, nghĩa là vì biết căn cơ chúng sinh không hiểu nỗi nên không thể không dùng phương tiện quyền xảo mà dạy họ. Chín bộ kinh này đều vì đối tượng này mà nói.Tu đa la gọi là khế kinh. Dà đà gọi là cô khởi tụng. Bổn sự là nói về bản hạnh của Phật như nói về Đề bà đạt đa, nhẫn nhục tiên nhân … Bổn sanh là nói nhân đời trước của Phật như chuyện mười sáu vương tử. Vị tằng hữu tức là việc hy hữu. Nhân duyên là cái loại pháp duyên sinh. Trùng trùng thí dụ là như nhà lửa dưới đây. Kỳ dạ là ứng tụng. Ưu ba đề xá gọi là luận nghị. Đây là trình bày chín bộ kinh phương tiện quyền xảo dành cho hàng Nhị thừa. Nếu thêm Phương quảng, Tự thuyết, thọ ký là thành mười hai bộ kinh đều vì căn cơ khác nhau mà nói. Từ câu “Căên độn ưa pháp nhỏ” đến câu “Nên mới nói kinh này”. Đại ý là nương nơi “Quyền” để thuyết minh cái “Thật”, nghĩa là người căn cơ chậm thích pháp nhỏ, tuy gần chư Phật mà không thực hành diệu đạo. Cho nên đức Phật vì sự quấy nhiễu các khổ trong sinh tửû, thương họ mà không Niết bàn an vui của Tiểu thừa thiết lập phương tiện này. Thực ra ý Phật là muốn dẫn họ vào biển tuệ của Phật.Như thiết lập hóa thành phần sau, chủ ý là dẫn đến mục đích cuối cùng. Bảo sở Đức Phật chỉ có ẩn ý điều phục chưa có lần nào nói rõ là họ sẽ thành Phật, một mực không nói. Bởi lẽ kỳ chín muồi chưa đến. Nay chính là lúc quyết định nói Đại thừa. Tuy nhiên không phải là pháp nằm ngoài chín bộ kinh mà tồn tại riêng. Phải biết rằng chín bộ kinh là tùy cơ mà nói. Chỉ vì dẫn vào Đại thừa làm hoài bảo. Nhân vì muốn chúng sanh nhập vào con đường Đại thừa mà nói kinh này chứ không có pháp đại thừa riêng. Đó là chủ ý lấy quyền để làm rõ cái thật, được nói đầy đủ ở đây vậy.

26. Từ câu: “ Hữu Phật đệ tử tâm tịnh” đến câu: “Giải thành Phật vô nghi” (Có Phật tử tâm tịnh… đều thành Phật không nghi).

Đoạn kệ tụng này nói nay vì hàng đại căn mà trình bày chân lý.

Tâm thanh tịnh, căn cơ lanh lợi thực hành thâm sâu đạo vi diệu thì khác với độn căn ở trên. Họ có thể gánh vác pháp lớn, nên vì họ mà thuyết Đại thừa. Điều đó nghĩa là thực sự từ bỏ phương tiện, do đó thọ ký cho họ đời sau thành Phật. Những người căn lớn tâm họ sâu sắc nhớ nghĩ đến Phật, thì tâm họ và tâm Phật tương đương với nhau. Giữ gìn thì tịnh giới và không còn đắm nhiễm sanh tử. Mỗi khi nghe đến Phật là niềm hoan hỷ tràn ngập cả người. Điều đó gọi là các lỗ chân lông đều an lạc. Chủng tử Phật tánh ở nơi người ấy rất thù thắng do đó vì họ mà thuyết Đại thừa. Nếu chưa nghe được diệu pháp thì căn tánh thông minh hay ngu độn còn phân biệt. Nhưng nếu nghe được pháp Đại thừa này rồi thì không kể là Tiểu hay Đại đều chắc chắn được thành Phật. Đó là điều gọi là Lợi căn và độn căn, bình đẳng dưới mưa pháp đều được sung mãn. Đây là trình bày sự lợi ích lớn của Thật pháp.

27. Từ câu: “Thập phương Phật độ trung”, đến câu: “Thuyết Phật trí tuệ cố” (Trong cõi Phật mười phương … Vì nói trí tuệ Phật).

Đoạn kệ bài tụng này đúc kết ý nghĩa hiển bày một lý chân thật. Nghĩa là tuy có ba thừa là giả nói để dẫn dắt chúng sanh, kỳ thật chỉ hiển bày trí tuệ duy nhất của Phật. Đó là lý do nói Quyền tức là Thật.

28. Từ câu: “Chư Phật xuất ư thế”, đến câu: “Giai linh nhập Phật đạo” (Các Phật ra nơi đời … Đều khiến vào Phật đạo).

Đoạn kệ tụng này trình bày ý của Phật xuất hiện ở nơi đời chỉ để nói nhất thừa.

Năm câu đầu nói về chư Phật xuất thế chỉ chứng đắc một sự thật, cho nên không dùng Tiểu thừa để độ người.

Hai mươi câu tiếp theo trình bày vì sao Phật không dùng pháp tiểu thừa để độ người. Do Phật tự an trú ở Đại thừa nên luôn thực hành với tâm từ bi bình đẳng lợi lạc quần sanh. Pháp mà chư Phật chứng đắc ở nơi đạo tràng là Pháp thân chơn thể, định tuệ trang nghiêm thị hiện báo thân tha thọ dụng thân. Pháp thân và Báo thân hợp nhất, cho nên gọi là bình đẳng. Do Phật chứng ngộ pháp lớn bình đẳng, vậy sao lại đem pháp nhỏ mà độ người được! Nếu dùng pháp Tiểu thừa để độ dù chỉ một người cũng là rơi vào pháp xan tham rồi, huống chi là nhiều người! Nếu có người tin và nương vào Đức Phật thì Phật một lòng thành thật mà đối đãi họ. Ngài không bao giờ lừa dối hay tham lam ganh ghét họ vì tất cả pháp ấy đều là bất thiện pháp. Ngài là người đã đoạn trừ. Cho nên Đức Phật không còn sợ hãi, ai trong mười phương thế giới chỉ trích ngài là ác (chưa hoàn thiện), đồng thời cũng không sợ hãi bất cứ một hội chúng nào. Vì vậy Ngài dùng thân tướng đẹp đẽ trang nhiêm của mình phóng hiện ánh sáng chiếu khắp nơi mà thuyết pháp lớn nhất thừa thật tướng. Điều này muốn đề cập đến việc Ngài ở Bồ đề đạo tràng (đã nói ở trước).

“Nhất thừa thật tướng ấy” gọi là Hải ấn tam muội. Phật thuyết pháp dùng thật tướng ấy để xác định pháp mình thuyết không lẫn lộn với ma pháp hay ngoại đạo.

Từ câu kệ: “Xá Lợi Phất nên biết” đến câu: “ Bằng như ta không khác” là trình bày bản Hoài xuất thế của Phật.

Từ câu: “Như ta xưa đã nguyện” đến câu: “Đều khiến vào Phật đạo” là trình bày ý nguyện mà ngày nay đã viên mãn phù hợp với bản hoài vậy.

29. Từ câu: “Nhược ngã ngộ chúng sinh” đến câu: “Lai thế đắc tác Phật” (Nếu ta gặp chúng sanh… Đời sau được thành Phật).

Đoạn kệ tụng này trình bày lý do khai mở Quyền pháp.

Bản nguyện ý của Phật là muốn giáo hóa tất cả chúng sinh đều được thành Phật. Sao lại nói pháp ba thừa? Lý do là Phật gặp hạng chúng sanh vô trí, sợ họ lầm lạc mê mờ không có cơ hội thọ lãnh giáo pháp nên tùy căn cơ họ mà nói chứ không phải bản ý của Phật. Đoạn kệ tụng ở dưới ý trong đời ác ngũ trược chúng sinh khó giáo hóa không thể không thiết lập phương tiện.

Từ câu: “Ta rõ chúng sanh đó” đến câu: “Chịu đủ thứ khổ độc” nói về Phiền Não Trược. Câu “Thân mọn thọ bào thai” đến “Các sự khổ bức ngặc” nói về Mạng Trược. Câu “Vào rừng rậm tà kiến” đến câu; “Dua nịnh lòng không thiệt” là nói về Kiến trược. Câu “Trong nghìn muôn ức kiếp” đến câu: “Người như thế khó độ” là nói về Kiếp Trược. Trong đời ác trược này chúng sinh chìm đắm trong khổ não, nên thiết lập phương tiện, trước hết nói pháp thoát khổ biểu thị con đường đưa đến Niết bàn hết khổ. Đây chỉ là con đường chấm dứt cái khổ phân đoạn sanh tử, chưa thật sự chấm dứt được biến dịch sanh tử. Từ câu: “Các pháp từ bổn lai” đến: “Đời sau đặng thành Phật” là trình bày pháp chân thật, thế nào gọi là thật sự diệt độ? Vì các pháp vốn là chân thường tịch diệt, đó là diệu đạo Nhất thừa. Người Phật tử thực hành pháp này đời sau sẽ thành Phật. Hàng Nhị thừa chỉ thấy pháp sanh diệt trong Tứ đế, nay đặc biệt vì họ mà trình bày mới nói hết được bản ý của Như Lai.

30. Từ câu: “Ngã hữu phương tiện lực”, đến câu: “Duy Nhất vô Nhị thừa” (Ta có sức phương tiện … chỉ một không hai thừa).

Đoạn kệ tụng này nói về pháp chân thật.

Đức Như Lai đầy đủ phương tiện, tuệ giác nên gọi là “Có sức phương tiện” do phương tiện mà nói tam thừa. Chư Phật đều nói Nhất thừa nên Đức Phật chỉ nói Nhất thừa. Đại chúng nên tin tưởng một cách chắc chắn đừng nghi ngờ.

31. Từ câu: “Quá khứ vô số kiếp” đến câu: “Linh nhập ư Phật đạo” (Vô số kiếp đã qua … Khiến nhập nơi Phật đạo).

Đoạn kệ tụng này nói về đạo của mười phương ba đời chư Phật đều giống nhau. Trước nói đến chư Phật trong quá khứ, đều nương vào pháp Quyền mà làm hiển lộ pháp Thật. Cho nên Đức Thích Ca Thế Tôn tiếp nối con đường ấy.

32. Từ câu: “Hựu chư đại thánh chúa” đến câu: “Trợ hiển đệ nhất nghĩa” (Lại các đại thánh chúa … Giúp bài nghĩa đệ nhất).

Đoạn kệ tụng này thuyết minh rộng rãi về sự trợ giúp làm hiển bày đệ nhất nghĩa, nói cách khác là dùng phương tiện đặc biệt để giúp đỡ.

Ý này trong phẩm Tựa, Ngài Văn Thù đã nói: “Nay Phật phóng hào quang là trợ giúp để phát huy nghĩa thật tướng”. Ý muốn nói thật tướng diệu pháp không thể dùng ngôn ngữ để trình bày. Vì vậy Đức Phật trước hết phóng một luồng ánh sáng, toàn ảnh của bản thể thâm diệu, tức thì thật tướng chân cảnh bình đẳng được hiển lộ, nhờ đó không nói mà người ta hiểu. Đó là phương tiện chứng mà chư Phật đều sử dụng vô số phương tiện để thuyết pháp tam thừa. Nay nói mở bày quyền pháp để làm rõ thật pháp, vì pháp này vi diệu khó tin, sợ hàng tam thừa một mực chấp vào quyền pháp không bỏ cái cũ, họ không thể bỏ ngôn ngữ để hiểu lý thâm sâu, thì thật tướng không được hiển lộ. Trước đó Phật phóng ánh quang minh để thị hiện các pháp bình đẳng, tiếc rằng mọi người vẫn chưa lãnh hội. Đó là lần đối diện với pháp thật đầu tiên.

Phần trước đã nói: Phật tử thực hành pháp này đời sau sẽ thành Phật. Ý vẫn còn e ngại hàng Nhị thừa sợ con đường thành Phật quá dài lâu, họ còn hy vọng chần chờ chưa quyết định ngay, chưa chắc đã tin hết lòng, không chịu bỏ Quyền pháp, như vậy sẽ phụ lòng của Phật và mất đi cơ hội. Nay Phật trình bày đệ nhất nghĩa đế, nói về thật tướng của các pháp, ở trong thật tướng ấy thì chúng sanh và Phật đều bình đẳng, chẳng luận là thánh hay phàm, có phước hay không phước, cho đến nhơn thiên có ít thiện pháp, chỉ cần theo lời Phật dạy nhất tâm kính tin, tức thì thành Phật, không cần chờ đợi mới thành. Đức Thế Tôn muốn hàng Nhị thừa phát khởi niềm tin ấy, nên dẫn chứng chư Phật quá khứ đều sử dụng phương tiện giúp hiển lộ ý nghĩa đệ nhất nghĩa. Cho nên ở đoạn dưới dẫn chứng các Bồ tát nhân thiên dù chỉ chút ít thiện pháp như đưa tay hay cúi đầu, một tiếng xưng danh hiệu Phật đã được thành Phật, không chờ đợi sẽ thành. Huống chi hàng Tam thừa và Quyền pháp của chín bộ kinh lại không có cơ sở để thành Phật hay sao?! Tương tự trong các tông môn pháp phái đường lối hướng thượng phát minh hoặc đánh, hét, nhướng mày, nháy mắt, chê bai, rầy la, nộ mắng làm cho người hữu duyên mau thoát tình căn sanh tử. Đó chẳng phải là dơ tay, cúi đầu để thành Phật hay sao?! Ở trước đã dùng một hào quang làm hiển lộ tánh bình đẳng, sợ họ hoảng hốt, lại nói mọi nhân duyên thuyết pháp đều vì pháp Nhất thừa. Nay lại sử dụng các hạnh nhỏ để trợ giúp thêm, nên nói là dùng phương tiện khác để hiển lộ đệ nhất nghĩa. Do đó mà biết tất cả quyền pháp Tam thừa đều là pháp Nhất thừa. Cho nên nói là gọi chín bộ Kinh pháp của ta đều là pháp căn bản để thể nhập Đại thừa vậy.

33. Từ câu: “Nhược hữu chúng sanh loại”, đến câu: “Giai dĩ thành Phật đạo” (Nếu có loài chúng sanh… Đều đã thành Phật đạo).

Đây là bài tụng lần lượt trình bày các phương tiện đặc thù.

Phương tiện đặc biệt này trước hết nêu lên Bồ tát, kế đến là nhân thiên mà không đề cập đến Nhị thừa. Bởi lẽ chín bộ kinh là phương tiện cho hàng Nhị thừa thành Phật, vì sợ họ không tin như vậy nên trước dẫn chứng Bồ tát và hàng phàm phu không có phần trong pháp ấy nên phải giúp cho họ hiển lộ chân tánh, làm cho họ tin tưởng không nghi ngờ. Vả lại Bồ tát là người chưa thành Phật, mà nói đã thành, ý muốn hiển lộ lục độ là công hạnh xứng với Thật tướng. Kẻ phàm phu là người không thành Phật. Nay nói nếu người có tâm thiện nhu nhuyến là người dễ giáo hóa không phải hạng cang cường khó độ. Họ chỉ có thể tùy theo pháp Phật, lòng tin không chống đối. Hạng phàm phu có tâm thiện nhu nhuyến, sau khi Phật diệt độ dù không được thấy Phật, vẫn có thể có nhân duyên với Phật pháp mà phát tâm như là cúng dường xá lợi, thành tâm xây tháp hoặc dùng bảy thứ báu cho đến trẻ con nhóm cát. Hoặc cúng tượng bằng thất bảo, cho đến dùng cỏ cây, móng tay hoạ vẽ hình tượng, hoặc vì thành tâm đem hoa hương, âm nhạc cúng dường Phật. Cho đến có lòng tin mà đưa tay hay cúi đầu, hoặc trong lúc loạn tâm thấy Phật xưng danh hiệu. Các công hạnh ấy tuy nhân duyên ít, điều thiện cũng nhỏ bé, nhưng đều từ nơi Phật mà phát tâm, vì thế mà nói mỗi người đều đã thành Phật. Chúng sanh là chúng sanh trong tâm chư Phật, sử dụng hằng ngày mà không biết. Nay từ nơi Phật mà phát tâm, tức biết có Phật, nếu biết có Phật thì toàn thể của tâm là Phật. Cho nên làm một hành động đều là hạnh của Phật. Đó là điều gọi là “Một niệm tín tâm tức được Bồ đề”. Cho nên mọi việc đều nói đã thành Phật đạo, không phải là nói gạt. Nói rằng đã thành Phật là nói theo cách “Lục tức Phật” của Thiên Thai tông. Nếu nói “Lý tức Phật” thì tức thời có đủ Phật, nếu nói “Danh tự tức Phật” thì biết tên và chữ, nghĩa là đã biết rõ ý nghĩa “đã thành”. Do đó nêu lên các công hạnh để làm hiển lộ Phật tánh, hàng Nhị thừa nếu tin vào pháp lục độ của Bồ tát, hoặc các thiện pháp của phàm phu là đã thành Phật đạo. Vậy thì chín bộ Kinh phương tiện sao lại không phải là diệu pháp thật tướng! Và Niết bàn của Nhị thừa chẳng phải là thánh hạnh để thành Phật ư?! Điều chính yếu là do niềm tin ở nơi tự tâm, không còn nghi ngờ lời Phật dạy thì tức khắc chứng được thật tướng. Đây là thiện xão của Như Lai đã khai quyền hiển thật, làm cho hàng Nhị thừa phát tâm khẩn thiết, khó mà dùng lời để diễn tả hết được. Xem đó, nếu chỉ theo ngôn ngữ mà không thâm nhập tâm thể sâu thẩm thì đối với diệu pháp, khó mà nắm bắt được cái mầu nhiệm.

34. Từ câu: “Ư chư quá khứ Phật”, đến câu “Giai dĩ thành Phật đạo” (Nơi các Phật quá khứ… Đều đã thành Phật đạo).

Đoạn kệ tụng này tổng kết lại con đường chư Phật quá khứ đều giống nhau. Hàng Tam thừa gần Phật, thấy Phật, nghe Phật thuyết Pháp cho đến kẻ phàm phu cúng dường tháp… đều là sau khi diệt độ, nhân nơi Phật mà phát khởi công hạnh thì đều tự nhiên thành Phật, huống chi người được nhập pháp đặc biệt?

35. Từ câu: “Vị lai chư Thế Tôn” đến câu “Đạo sư phương tiện thuyết” (Các Thế Tôn vị lai… Đức Phật phương tiện nói).

Đoạn kệ tụng này nói đến chư Phật tương lai cũng đồng nhau như vậy. Chư Phật vốn thệ nguyện bốn câu. Nói chư Phật ở vị lai là các nối nghiệp của Phật hiện tại. Do bổn nguyện của Đức Thích Ca luôn muốn làm cho chúng sanh được thành Phật như Ngài, các Phật vị lai cũng cùng ý nguyện như vậy. Từ câu: “Các Phật đời vị lai” đến câu: “Cho nên nói Nhất thừa”. Nói chư Phật chứng đắc pháp rất sâu thẳm, phù hợp với thể tánh mà thuyết pháp, nên phương tiện cũng sâu thẳm. Các pháp thường vô tánh v.v… nghĩa là nhất chân pháp giới, là nền tảng an trụ của các pháp hiện tượng, còn gọi là Thường trụ chân tâm, cho nên gọi là “Thường” (Biết pháp thường không tánh). Tuy nhiên, pháp giới lấy duyên khởi làm căn bản nên gọi là vô tánh. Vô minh hay mười hai nhân duyên cũng chính là Phổ Quang Minh Trí, tùy theo nhân duyên ô nhiễm hay thanh tịnh, vấn đề gặp duyên gì rất quan trọng. Nếu gặp duyên ô nhiễm thì thành hạt giống nghiệp sanh tử, nếu gặp duyên thanh tịnh thì thành hạt giống Phật. Đức Phật chứng đắc viên mãn trí này nên nói Nhất thừa, để làm nhân duyên thành Phật cho chúng sinh, nên trong Kinh nói: “Cho nên nói Nhất thừa”. Câu: “Pháp đó trụ ngôi pháp”… Do Đức Phật nói pháp phù hợp với thể tánh khách quan, nghĩa là tướng trạng vạn hữu là thường trụ tướng. Pháp Phật nói đều là pháp bất động vi tế, nên gọi là trụ ở pháp vị. Do trụ ở pháp vị nên coi tướng vô thường của thế gian là tướng thường trụ, là thật tướng. Vì vậy không có pháp nào là pháp không thực, điều mà Phật chứng ở đạo tràng như vậy mà thôi. Điều gọi là bản trụ pháp tức là thật trí. Đệ nhất nghĩa đế thì tịch diệt vô ngôn chỉ dùng phương tiện quyền trí thuyết cho chúng sinh. Vì vậy thuyết pháp nào cũng phù hợp với thật tướng, nên Quyền tức là thật, đó gọi là hai trí thâm sâu. Vậy đây là đặc biệt trình bày ở chư Phật trong đời vị lai. Ý muốn làm nguyên tắc cho người sắp được thọ ký.

36. Từ câu: “Thiên nhơn sở cúng dường”, đến câu: “Tùy ứng phương tiện thuyết” (Bậc trời người cúng dường… Tùy cơ phương tiện nói).

Đoạn kệ tụng này nói về con đường của Phật hiện tại đồng nhau.

Tám câu tụng đầu trình bày quyền tức là thật. Từ câu: “Biết các hạng chúng sinh” trở xuống thuyết minh nhiều phương tiện để giúp xu hướng Phật đạo.

37. Từ câu: “Kim ngã diệc như thị” đến câu: “Giai linh đắc hoan hỷ” (Ta nay cũng như vậy… Đều khiến đặng vui mừng).

Đoạn kệ tụng này nói xa về ba đời.

Bốn câu đầu thuyết minh quyền tức thật. Từ câu: “Ta dùng sức trí tuệ” đến hết, nói về tùy cơ mà giúp chúng sinh giác ngộ, còn gọi là làm cho chúng sinh được an vui.

38. Từ câu: “Xá Lợi Phất đương tri” đến câu: “Thuyết vô phân biệt pháp” (Xá Lợi Phất nên biết… Nói pháp không phân biệt).

Đoạn kệ tụng này nhân quán sát chúng sinh nơi lục đạo ô trược, trình bày qua nhân duyên mà Phật xuất hiện ở đời.

Mười sáu câu đầu trình bày quan sát năm thứ ô trược của cuộc đời. Đức Phật đủ cả ngũ nhãn, nếu không phải Phật nhãn thì không thể thấu suốt được cảnh giới của chúng sinh, cho nên dùng Phật nhãn để quan sát. “Nghèo cùng không phước huệ”â là chúng sanh trược. “Vào đường hiểm sanh tử” là mạng trược. “Chìm đắm trong ngũ dục” là phiền não trược, “Chẳng cầu Phật pháp” là kiếp trược, “Thâm nhập tà pháp” là kiến trược. Do vì thấy chúng sanh trong năm trược này mà phát khởi đồng thể đại bi để khởi tâm tế độ. Từ câu: “Xưa ta ngồi đạo tràng” đến câu: “Làm sao mà độ được” là trình bày nhân duyên xuất thế để làm rõ ý nghĩa của hai mươi mốt ngày tư duy dưới cội Bồ đề. Đức Xá Na Như Lai ở nơi Bồ đề trường, lúc mới thành chánh giác, pháp thân và báo thân hợp nhất, Ngài tự hưởng thụ pháp lạc. Do thấy chúng sinh đau khổ, Ngài cảm động tâm từ vô duyên. Cho nên tuần lễ đầu tiên suy tư về phương thức độ thoát chúng sinh. Ngài nghĩ rằng trí tuệ mà Ngài chứng được quá vi diệu, hàng căn cơ kém khó mà tiếp nhận. Mặt khác, vì suy nghĩ về phương pháp độ sinh, nên kinh văn nói câu: “Làm sao mà độ được”? Từ câu: “Bấy giờ các phạm vương…” đến câu: “Thỉnh ta chuyển pháp luân” là trình bày cảm ứng đạo giao, nghĩa là khi Ngài vừa suy nghĩ về cứu độ thì cũng là lúc chư thiên đến thỉnh. Đây là lúc cơ hội đã đến nên cảm ứng như vậy. Đoạn vào sau cho rằng nghe người khác nói. Từ câu: Ta liền tự suy nghĩ” đến câu: “Mau vào cõi Niết bàn” là nói tuần thứ hai Ngài ngồi suy tư Hàng độn căn không đủ sức tiếp nhận pháp lớn sẽ đưa đến thất bại, thà nhập Niết bàn hơn là xem nhẹ mà truyền bá. Từ câu: “Liền nhớ Phật quá khứ”, đến câu: “Cũng nên nói ba thừa”. Nói về tuần lễ tư duy thứ ba, rằng nên thể theo phương thức nói pháp của chư Phật mà nói. Lấy pháp Nhất thừa chia ra thành ba thừa. Từ câu: “Lúc ta nghĩ thế đó” đến câu: “Chỉ vì dạy Bồ tát”, trình bày việc chư Phật khuyến khích đức Thích Ca thể hiện theo tâm chư Phật mà sử dụng phương tiện dùng “quyền” để hiển “thật”. Nên nói rằng “Chỉ giáo hóa Bồ tát”. Từ câu: “Xá Lợi Phất nên biết”, đến câu: “Ta cũng thuận làm theo”, trình bày Đức Phật Thích Ca nhân nghe chư Phật khích lệ mà thực hiện theo. Từ câu: “Suy nghĩ việc đó rồi” đến câu: “Tên pháp, tăng sai khác” là trình bày rõ hai tướng, thị hiện ứng hóa thân vì đệ tử hiện nay mà thuyết pháp có ba thừa. Trước khi Phật chưa xuất hiện ở đời thì chưa có Tam bảo, ngày nay mới có tên Tam bảo vậy. Từ câu: “Từ kiếp xa vẫn lại” xuống 4 câu là nói tuy thuyết ba thừa. Bản Hoài chỉ vì hiển bày Thật pháp. “Niết bàn” là vô thượng đại Niết bàn, cái khổ sinh tử vĩnh viễn không còn nữa. Chư Phật từ xưa đến nay luôn tán dương điều đó (Niết bàn), đều muốn sử dụng cái giả để hiển lộ thật pháp. Cho nên ta thường như chư Phật thuyết. Tuy thuyết ba thừa chỉ vì dạy hàng Bồ tát.Từ câu: “Xá Lợi Phất phải biết” đến câu: “Nay chính đã đúng giờ”, đoạn này trình bày về bản Hoài xuất thế. Nhân do chờ đợi căn cơ, nay là lúc căn cơ đã thuần thục, đúng lúc để nói về trí tuệ của Phật. Như vậy đối với diệu pháp thì chư Phật chờ đúng lúc mới nói. Còn gọi là: “Muốn biết ý nghĩa của Phật tính phải quán sát thời tiết nhân duyên, nếu căn cơ đã chín muồi thì ăn và no cùng một lúc, thì chẳng có gì khó khăn”. Vì vậy các pháp thế hay xuất thế nói chung quý ở chỗ đúng lúc. Chỗ diệu dụng của Phật của Tổ không để cho cơ hội qua đi, nên nói: “Nay chính là đúng thời”. Câu: “Xá Lợi Phất phải biết”, đến câu: “Chỉ nói đạo vô thượng” nói về những người thối lui, rằng người căn tánh yếu ớt đã bỏ đi thì không làm cho đại chúng hoang mang, nên rất vui mừng không có gì sợ hãi, vì không có tâm quanh co bất ổn. Như vậy mới có thể nói thẳng xã bỏ pháp phương tiện để nói đạo vô thượng. Từ câu: “Bồ tát nghe pháp đó” đến câu: “Cũng đều sẽ thành Phật” nói dù lúc trước là Tiểu thừa nhưng khi đã nghe được pháp này đều trở thành Bồ tát. Ngày trước còn ôm lòng hoài nghi, nay hoài nghi không còn nữa, ai cũng có lòng tin rằng mình sẽ thành Phật, nên một ngàn hai trăm người đều làm Phật cả. Ở đây làø không phải chờ thọ ký cho từng người mà Đức Phật đã sớm nói rõ vấn đề. Từ câu: “Như nghi thức nói Pháp” đến câu: “Nói pháp không phân biệt” là phần kết luận chung rằng Đức Phật Thích Ca thuyết pháp tuân theo phương thức mà chư Phật ba đời đã thuyết.

39. Từ câu: “Chư Phật hưng xuất thế” đến câu: “Vô Thanh văn đệ tử” (Các Đức Phật ra đời… không thanh văn đệ tử).

Đoạn kệ này ca ngợi pháp Nhất thừa rất khó gặp để củng cố niềm tin cho hàng Nhị thừa.

Lúc đầu nói diệu pháp như thế các Đức Như Lai đều đúng lúc mới nói, như hoa Ưu đàm đúng lúc mới nở một lần. Cho nên trình bày trải qua bao nhiêu sự gian nan, chư Phật nhiều kiếp mới xuất hiện một lần, há dễ gặp sao! Dù đã xuất hiện rồi không tiện nói pháp này phải ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ, trải qua bốn mươi năm. Pháp này không dễ chút nào! Bấy giờ mới nói mà còn có người bỏ đi, huống gì, nghe nói mà tin không có mấy người. Do vậy mới nói pháp này như hoa ưu đàm đúng thời mới nở. Chữ “thời” cũng như chữ “Thị” (vậy, phải vậy). Hơn nữa Phật tuy khó gặp mà đã gặp, pháp vốn khó nói mà nay đã nói, tuy khó mà không lấy làm khó, chỉ có điều khó là nghe pháp mà tin tưởng là rất khó. Có người nghe được pháp rất hoan hỷ không những đón nhận bằng cả toàn thân của mình mà còn ca ngợi rất hy hữu pháp hiếm có hơn cả hoa ưu đàm. Như vậy đã nói cùng cực về tín tâm khó phát khởi. Từ câu: “Các ông chớ có nghi” trở xuống là khuyên đại chúng đừng có nghi ngờ, phải tin vào lời Phật dạy. Câu: “Ta nay đã bảo khắp trong đại chúng”, muốn nói rằng Đức Phật chỉ dùng pháp Nhất thừa để dạy cho Bồ tát mà thôi, các ông là hàng Nhị thừa cố gắng đừng nên dừng lại địa vị Thanh văn. Đức Phật vì lòng đại từ bi sợ hàng Nhị thừa không tin nên cố thuyết phục họ như thế.

40. Từ câu: “Nhữ đẳng Xá Lợi Phất” đến câu: “Quảng thán Nhất thừa đạo” (Xá Lợi Phất các ông… Rộng khen đạo Nhất thừa).

Đoạn kệ tụng này có ý phó chúc để giữ gìn giáo pháp, nghĩa là Diệu pháp này là tâm yếu sâu kín của chư Phật, không thể khinh thường luận bàn.

Ngài nhắc nhở Xá Lợi Phất và đại chúng khi đã chứng ngộ Diệu pháp này rồi, không nên dễ dãi thuyết cho mọi người, e họ không tin rồi chuốc lấy tai hoạ nơi ác đạo. Nếu thật quả có người thượng căn tuệ lớn, đó là người khó kiếm thì không nên để mất họ, phải tức khắc thuyết cho họ nghe. Do vậy gọi là rộng khen, không ngại gì mà không nói nhiều.

41. Từ câu: “Xá Lợi Phất đương tri” đến câu: “Tự tri đương tác Phật” (Xá Lợi Phất nên biết… Tự biết sẽ thành Phật).

Bài tụng này tổng kết ý ở trước, pháp của chư Phật là như thế, nghĩa là mười phương chư Phật ba đời đều nói pháp tạm thời (quyền) để làm hiển lộ pháp chân thực, các ông đã biết vấn đề phương tiện tùy duyên của chư Phật. Đã biết rằng không có ba thừa thì không nên nghi ngờ Thanh văn không thành Phật thì các ông phải vui mừng tự tin ở nơi mình sẽ làm Phật. Thật quả rất khó làm sáng tỏ tự tâm và chủng tử Phật tánh. Chúng sanh và Phật là một, không cách xa một mảy lông chỉ ở chỗ tin hay không tin mà thôi. Ngày xưa có vị tăng hỏi một vị thầy: Như thế nào là Phật? Vị thầy đáp: Sợ ta nói ông không tin. Vị tăng nói: Lời của Hòa thượng nói đâu dám không tin. Vị thầy mới nói: Phật chính là ông đó. Vị tăng mù mờ không hiểu. Thế nên tự tin nơi mình rất khó. Do vậy Đức Thế Tôn đã nói pháp này lại sợ người ta cho là tầm thường nên dặn dò khuyên họ phải nên tin tưởng. Đây là nhân duyên chính để thành Phật: Lấy lòng tin làm căn bản.

 

Phẩm Thí Dụ Thứ Ba

Tên của Phẩm là Thí dụ, dùng để so sánh sự kiện phù hợp với thường tình nên gọi là Thí dụ. Đại ýù của phẩm này là Đức Phật thuyết pháp xoá bỏ Quyền pháp tạm ngày xưa để hiển lộ pháp chân thực ngày nay.

Hàng nhị thừa một mực từ bỏ hy vọng thành Phật. Nhưng ngài Xá Lợi Phất, là bậc thượng căn đã từng nghe nói về trí huệ cuả Phật, ngài rất vui mừng tự tin mình có thể làm Phật. Cho nên trình bày sự lãnh hội cuả mình. Đức Phật đặc biệt vì ngài mà thọ ký.

Hàng trung căn và hạ căn còn chấp thủ Quyền pháp nên Đức Phật phải nói thí dụ về ngôi nhàlửa và hứa ban cho các con ba xe, một trong ba xe là quyền thật. Người căn cơ bậc trung mới có thể lãnh hội, do đó mới có phẩm này, cộng với chín thí dụ ở dưới, mỗi dụ đều có chủ đích riêng.Như trước đã nói Đức Như Lai ra đời vì một nhân duyên lớn, nay lấy hình ảnh ông trưởng giả liều mình vào nhà lửa cứu giúp các con mình đó cũng là một thí dụ cho việc lớn phải làm.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Xá Lợi Phất hoan hỷ” đến câu: “Tùng pháp hóa sanh đắc Phật pháp phần” (Lúc bấy giờ ngài Xá lợi Phất hớn hở vui mừng… được pháp phần cuả Phật).

Đoạn này ngài Xá Lợi Phất tự bày tỏ niềm vui mừng có được hôm nay và hối hận đã không biết lỗi lầm ngày xưa.Từ câu: “ Vui mừng hớn hở” (dũng dước) trở xuống trình bày về niềm vui mà ngày nay có được. Từ câu: “ Vì sao” Trở xuống là nói sự luyến tiếc đã để mất thời gian.Từ câu: “ Vì sao con thường khi một mình” trở xuống là hối tiếc về lỗi oán Phật.

Ngài Xá Lợi Phất tuy là Tiểu thừa, đã được thấm nhuần ân Phật dạy dỗ không phải là một ngày mà vẫn không hiểu ý Phật, cho là Phật thiên vị, huống chi những đệ tử thông thường! Do vậy mới biết thầy trò như nước với sữa xưa nay khó có.

Từ câu: “Nếu chúng con chờ Phật” trở xuống là trình bày đã biết tâm của Phật không thiên vị, do vì tham chấp Tiểu thừa thành ra lỗi lầm. Từ câu: “Con từ xưa đến nay” trở xuống nói về niềm vui đã được hôm nay.

Từ trước đã nói, nếu đệ tử của ta mà không tin pháp này thì không phải là A la hán chân thực. Cho nên ngài Xá Lợi Phất tự tin dùng từ ngữ “chân tử” (đứa con đích thực) mà hứa với Phật. Chân tử là nhờ nghe Phật thuyết pháp chân thật mà có, nên nói rằng từ miệng Phật sinh. Chuyển hóa tâm chấp thủ một chiều, gọi là từ pháp hóa sanh. Nay pháp quý báu của đấng Pháp Vương tự nhiên đến nên gọi là được Pháp phần của Phật.

2. Từ câu: “Nhĩ thời Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thư nghĩa nhu thuyết kệ ngôn” đến câu: “Giáo hóa chư Bồ tát” (Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất muốn nói lại nghĩa trên mà nói kệ rằng …giáo hóa các Bồ tát).

Đoạn kệ tụng này nói về sự lãnh hội cuả ngài Xá Lợi Phất.

Ngài tự trình bày sự nghi ngờ ngày xưa đã hết.Ngài lập lại nhiều lần sự kiện này và sự vui mừng đã được như vậy.

Từ câu kệ đầu: “Con nghe tiếng pháp này” trở xuống 10 câu. Trình bày rằng hôm nay đã được nghe pháp lớn, biết rằng mình không mất pháp Đại thừa nên không lo sợ gì nữa.

Từ câu kệ: “Con ở nơi hang núi” trở xuống 24 câu. Trình bày sự hối hận về sai lầm trước kia làm mất pháp Đại thừa.

Từ câu kệ: “ Con thường trong ngày đêm” trở xuống 8 câu. Trình bày tâm thường nghĩ ngợi Hoài nghi không quyết định.

Từ câu kệ: “Nay nghe tiếng Phật nói” trở xuống 20 câu. Trình bày hôm nay nghe pháp được lỗi lầm, hối hận tự trách ngày trước lầm chấp tà kiến.

Từ câu kệ: “Phật ở trong đại chúng” trở xuống 4 câu. Trình bày sự vui mừng do hôm nay nghi ngờ đã hết, đến đây là kết thúc của tụng trường hàng.

Từ câu: “Khi mới nghe Phật nói” trở xuống 36 câu. Trình bày lại tâm trạng nghi ngờ. Thật vậy, tâm con người khó giác ngộ, Đức Phật dạy rõ mà vẫn không tin như món đề hồ mà tưởng thuốc độc. Lúc đầu Xá Lợi Phất xin Phật nói Đức Thế Tôn từ chối, vì nếu nói vấn đề này thì trời người đều nghi sợ. Bây giờ ngài Xá Lợi Phất trình bày cảm nghĩ của mình rằng lúc đầu nghe Phật dạy ngài rất sợ hãi ngờ vực, thậm chí cho Phật là ma, điều đó gần như dứt tuyệt pháp phần (Đại thừa) này. Sự kinh nghi ấy là trạng thái có thể biết rõ. Nếu Đức Phật không dùng các phương thức khác nhau để thuyết phục thì điều nghi này không thể giải tỏa được, rốt cuộc tâm không an ổn được nhờ dẫn chứng nghi thức thuyết pháp của chư Phật ba đời mới tin là tâm Phật mới biết ma ba tuần không có sự kiện như vậy. Do tôi rơi vào lưới nghi nên mới cho Phật là ma.

“Nghe tiếng Phật êm dịu, sâu xa rất nhiệm mầu” là cảm xúc được pháp mà Phật dùng nhiều cách khác nhau để làm hiển lộ thực tại. Hơn nữa Phật dạy rằng hãy sinh tâm hoan hỷ tự biết mình sẽ thành Phật. Cho nên tâm tôi rất vui mừng vì biết chắc mình sẽ thành Phật.

Đức Như Lai xuất thế là vì hàng Nhị thừa, không kể đến nhân duyên ngày trước, mà nay đã khổ tâm trải qua bốn mươi năm, để rồi có được một người tin nhận không nghi. Do vậy mới biết thầy trò khế hợp, việc độ sanh đâu có dễ dàng!

3. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm” (Lúc bấy giờ đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất …Giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm).

Đoạn này trình bày ngài Xá Lợi Phất từ lâu được nhân duyên dạy dỗ của Phật, làm hiển lộ duyên nay đã thuần thục nên được thọ ký.

Pháp giới lấy duyên khởi làm căn bản nên Phật tánh có chánh nhân và nhân duyên (điều kiện chính và phụ), thường gọi là Phật tính từ duyên mà sinh. Chúng sinh dù đủ điều kiện chính là có Phật tính, nhưng nếu không gặp chư Phật, Bồ tát, thiện hữu giáo hóa làm duyên thì khó mà hiển lộ tính Phật. Điều ấy gọi là: Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời. Do vậy Kinh Pháp hoa này chú trọng yếu tố duyên hổ trợ.

Ngài Xá Lợi Phất dù tin mình sẽ làm Phật, mà vẫn nói sự nghi ngờ ngày xưa, cho rằng mình đã mất lợi ích làm Phật. Do vậy Phật nói nguyên do giáo hóa ngày xưa, là đã dạy nhân duyên Phật đạo cho Xá Lợi Phất rồi, nhưng chỉ vì quên chứ không thật sự mất mát. Nay tuy nói hàng thanh văn thành Phật là để chỉ cái vốn có để làm tăng lòng tự tin. Thực ra không có thêm riêng một cái gì. Kinh Pháp Hoa này chỉ nói nhân duyên thành Phật. Một mực không nói nên gọi là hộ niệm. Nay đã nói rồi thấy nhân duyên đã thuần thục, đó gọi là phó chúc, cũng gọi là thọ ký. Dưới đây là các đệ tử được thọ ký.

4. Từ câu: “Xá Lợi Phất nhữ ư vị lai thế” đến câu: “Tượng pháp trụ thế diệc tam thập nhị tiểu kiếp” (Xá Lợi Phất! Ông đến đời vị lai… trụ đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp).

Đoạn này nói về việc thọ ký.

Ký cũng gọi là ký biệt, biệt là hạt giống của rau cỏ, ý muốn nói nhân quả không sai. Ngài Xá Lợi Phất tự biết mình sẽ làm Phật mà được thọ ký còn trải qua nhiều kiếp phụng sự chư Phật, đầy đủ đạo Bồ tát rồi sau đó mới thành Phật. Do hàng thanh văn một mực an trú Tiểu thừa, đã diệt mất cơ hội thành Phật, đó không phải là bổn hoài giáo hóa của Phật. Cho nên trải qua bốn mươi năm đến nay tạo nhiều điều kiện để phát khởi tâm lý buông bỏ Tiểu thừa xu hướng Đại thừa, để rồi cuối cùng không đạt được gì. Vì họ không tin tâm mình là Phật. Do không tin là Phật nên tất cả con đường Bồ tát, con đường lợi lạc quần sinh không có phần mình. Do vậy mà trải qua nhiều kiếp vô minh vẫn y nguyên chưa phá được. Đây là hạng tiêu nha bại chủng vậy.

Đức Thế Tôn mở nhiều phương tiện để điều phục, đến nay mới khẳng định niềm tin. Nhưng điều tin tưởng đó, chính là tâm bất sinh bất diệt, tâm này là chánh nhân để thành Phật, trên cơ sở này thực hành tu tập thành Phật. Tuy nhiên Bồ tát thực hành con đường thành Phật sử dụng bốn thệ nguyện rộng lớn làm cơ sở. Đó là: Hóa độ vô biên chúng sinh, dứt trừ vô tận phiền não, học tập vô lượng pháp môn, thành tựu vô thượng Phật đạo.

Hàng Nhị thừa sợ hướng về Phật đạo lâu dài và xa xôi, đâu có chịu phát tâm Đại thừa này! Đến nay đã tin tự tâm nên có thể dạy hạnh đại thừa. Đó gọi là giáo Bồ tát pháp. Cúng dường nhiều Phật là tu phước, đầy đủ hạnh lành là tu huệ. Phước huệ đều đủ tứ hoằng thệ nguyện đã viên mãn, đó là nhân tố để thành Phật. Cho nên trải qua nhiều kiếp sau nửa mới thành kết quả, danh và thật đều đủ, y báo chánh báo trang nghiêm vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thành Phật hiệu là Hoa Quang. Danh hiệu này căn cứ vào gieo nhân mà có được. Hoa là nhân, Quang là trí. Ngài Xá Lợi Phất do trí tuệ quá khứ làm nhân, nên kết quả cũng như vậy. Mười hiệu các nơi khác đều đã giải rõ. Đây là danh hiệu chung của chư Phật.

Nước tên là Ly cấu, tất nhiên không giống cõi Ta bà, tuy nhiên Phật cũng dùng ba thừa để giáo hóa, bởi tùy theo bản nguyện.

Kiếp tên là Đại bảo nghĩa là thời kỳ không có năm trược Bồ tát hiện diện vô số, chỉ thuần bậc thượng căn, thọ mạng mười hai tiểu kiếp, không phải là kiếp giảm. Khi sắp diệt độ Phật chuyển thọ ký cho Kiên Mãn Bồ tát, làm cho chánh pháp tiếp nối vô cùng. Chánh pháp và tượng pháp tồn tại ba mươi hai tiểu kiếp. Do thời kỳ không có năm trược, con người không ba điều ác, Phật pháp tồn tại ở đời lâu như vậy. Đây gọi là Phật vị lai vậy. Nhưng các đệ tử được thọ ký thành Phật, y báo và chánh báo đều trang nghiêm, hàng quyến thuộc rất ưu việt, chánh pháp tồn tại lâu xa; tất cả đều trội hơn đức Thích Ca Mâu Ni: Vì sao? Vì thế giới hoa tạng có hai mươi tầng cõi Phật nên thù thắng vi diệu rất đặc biệt. Cõi ta bà thì ô nhiễm không chịu nổi, vì cũng đồng với ác nghiệp cuả chúng sinh, là nơi cảm ứng quả báo phiền não; là nơi Đức Phật ứng thân điều phục chúng sinh. Đó không phải là cảnh Thật báo trang nghiêm vi diệu. Nay các Thanh văn thành Phật là đi thẳng vào cõi thật báo trang nghiêm, nơi mà chư Phật đều đoạn diệt mọi phiền não, thuần nhất nhân tố thanh tịnh. Nhân đã thanh tịnh thì cảm ứng quả báo thanh tịnh mà thành cõi thanh tịnh, không chỗ nào so sánh được. Ở đây tuy thù thắng nhưng mới chỉ là một hạt bụi, một sợi lông nhỏ xíu trong thế giới hoa tạng, đâu có thể đo lường được toàn thể pháp giới! Chỉ có Đức Phật Tỳ Lô Giá Na chứng nghiệm cái tuyệt đối của pháp giới mới biết rõ cảnh giới hoa tạng. Điều đó cho thấy trí huệ của Phật không thể suy nghĩ hay bàn luận đến được, khó tin khó hiểu là như vậy. Phần sau nói đến nhà của ông Trưởng giả giàu có, con của ông tất nhiên được kế thừa gia nghiệp, điều đó chẳng qua muốn nói hết cái tâm lượng của mình mà thôi chứ làm sao mà hết được gia sản của Trưởng giả được.

Xem đây có thể biết đường hướng của Kinh này.

5. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên”, đến câu: “Nghi ưng tự hân khánh” (Lúc ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại… nên phải tự vui mừng).

Đoạn kệ tụng này nói lại việc thọ ký.

Tụng nói Hoa Quang cũng là vương tử xuất gia. Ngày xưa Phật Đăng Minh cho đến Đức Thích Ca Mâu Ni đều từ vị trí vương tử mà xuất gia. Vì vậy phải biết rằng không có vị Phật nào không chuyển thức thành trí mà chứng được tam thân, nên gọi là bỏ quốc gia, bỏ vinh hoa. Đâu phải do trời sinh Di Lặc, tự nhiên sinh Thích Ca, không tu thì thành sao được!

6. Từ câu: “Nhĩ thời tứ bộ chúng” đến câu: “Tận hồi hướng Phật đạo” (Bấy giờ bốn bộ chúng… Trọn hồi hướng Phật đạo).

Đoạn này trình bày bốn chúng và tám bộ có mặt trong đại hội, thấy ngài Xá Lợi Phất được thọ ký ai cũng đều vui mừng.

Đức Như Lai ở đời làm chỗ nương tựa cho bốn chúng, tám bộ. Họ một lòng theo Phật nghe pháp mà chưa biết được chân lý tuyệt đối, như các tướng quân nhà Hán, mỗi người đều nghĩ đến việc được phong đất nhiều hay ít. Vừa thấy Đức Như Lai phóng hào quang, thị hiện các điềm lành lòng đã sinh Hoài nghi, không biết sắp có vấn đề gì. Ngài Văn Thù đã biết Đức Phật sắp nói Kinh Pháp hoa. Phật xuất định thuyết Kinh, chỉ tán dương hai loại trí tuệ thâm sâu. Nghĩa là tất cả trời người ba thừa đều không biết gì. Họ lại sinh lòng nghi ngờ buồn bã. Tuy nhiên thấy ngài Xá Lợi Phất, là trưởng tử của Như Lai, là người được bốn chúng trời người kính ngưỡng. Lúc đầu ngài cũng hoang mang nghi ngờ nhưng sau đó lãnh hội được chân lý và được thọ ký thành Phật. Như ông Trưởng giả tìm được con mình mà giao phó gia nghiệp thì thân thuộc có nơi nương tựa về sau. Cho nên bốn chúng đều vui mừng, tự thân được giải thoát, họ cởi áo cúng dường Phật. Từ đây mọi người đều tự biết mình chắc chắn sẽ làm Phật, nên họ hết lòng phát tâm hồi hướng.

Đây là lúc Đấng Pháp vương đang ở đời cùng chiến đấu với ma quân. Nay thưởng công để nước nhà pháp giới được an định, đâu phải là chuyện nhỏ! Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, đến nay đã mãn nguyện. Những người chưa đủ niềm tin thì tự mình tuần tự tiến lên, nên những lời đàm luận dưới đây giống như đóng binh ở chỗ cao, trông theo gió mà lướt đi, không làm hao phí sức lực.

7. Từ câu: “Nhĩ thời Xá Lợi Phất” đến câu: “Linh ly nghi hối” (Bấy giờ Xá Lợi Phất… khiến lìa lòng nghi hối).

Đoạn này ngài Xá Lợi Phất tự vui mừng về sự lãnh hội chân lý và được Phật thọ ký. Ngài lại vì những người chưa ngộ xin Phật giúp họ hết nghi. Vì vậy mà khởi phát được thuyết bằng thí dụ.

8. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Dĩ thí dụ đắc giải” (Khi ấy Phật bảo ngài Xá Lợi Phất… do thí dụ mà đặng hiểu).

Đây chính là nghe thuyết về thí dụ. Nghĩa là trước đây sử dụng các nhân duyên, thí dụ hay ngôn từ, đều vì triển khai đạo Bồ đề nhất thừa vô thượng, là pháp dạy cho các Bồ tát. Nói rõ pháp của ta không có hai thừa, thì mỗi người nên biết rằng đều có cơ hội thành Phật, lại còn nghi hay sao! Tuy nhiên đã ở trong giai đoạn chưa ngộ thì sẽ dùng thí dụ để khởi phát tâm ngộ.

Phần trước có nói một đại sự nhân duyên, do khó hiểu nên cuối phẩm Phương Tiện nói thẳng rằng Xá Na thị hiện ứng hóa thân đem pháp nhất thừa phân biệt nói thành ba thừa, là nói rõ Phật có pháp thân và hóa thân. Hàng nhị thừa chỉ nhận thức Phật qua ứng thân Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện hữu trong ba cõi ô nhiễm. Họ chấp trước đã chứng quả nhị thừa, không biết có vấn đề hướng thượng. Tuy trước đã nói rõ việc hiện thân ở ba cõi, việc hai mươi mốt ngày tư duy dưới cội Bồ đề. Nhưng hàng thanh văn kiến giải thấp kém nên chưa hiểu được, cho nên lại phải dùng thí dụ nếu rõ nhân duyên có mặt nơi ba cõi của Phật. Vì ậy dưới đây nói thí dụ rất rõ.

9. Từ câu: “Xá Lợi Phất nhược quốc ấp tụ lạc” đến câu: “Vô cầu xuất ý” (Xá Lợi Phất như quốc ấp… không có ý cầu ra khỏi).

Đoạn này trình bày ba cõi không an, giống như ngôi nhà lửa làm thí dụ để nói.

Nói rằng thế giới Ta bà ở trong thế giới hoa tạng, chỉ như một hạt bụi hay một sợi lông hoặc giống như một xóm, một thôn trong một quốc gia. Người trưởng giả, ám chỉ cho Phật từ nơi Báo thân mà xuất hiện ứng thân. Nói tuổi già là dụ cho pháp thân và báo thân là một, là nơi tự hưởng thụ pháp lạc. Dụ như trưởng giả tuổi đã già suy là thời kỳ an nghỉ thanh tịnh. Do vì con đường tiến tu giống như người trai trẻ cố gắng lập công danh, khi công danh hết về hưu thanh thản vô sự. Nói giàu có về tiền tài là dụ cho trí tuệ siêu việt. Nói về nô bộc tôi tớ là dụ cho trí phương tiện sử dụng sai khiến. Trong tông môn cho rằng đầy tớ con cái là việc bên ngoài. Nói nhà ông rộng lớn chỉ có một cửa ra vào là dụ cho Nhất thừa, Phật tri kiến. Đó gọi là con đường mà mười phương chư Phật chỉ có một đường thoát khỏi sinh tử. Cho nên nói là năm trăm người đứng ở trong đó. Ba cõi có đủ chúng sinh của năm đường (địa ngục, ngã quỷ, xúc sinh, nhân, thiên). Nói lầu gát đã mục là dụ cho chánh báo và y báo của chúng sinh trong ba cõi là hiện tượng vô thường biến hoại. Trong tâm chúng sinh đang mát mẽ, vô cớ mà nổi lên lửa của năm dục. Cho nên gọi là lửa bổng nổi lên. Nói các con của ông trưởng giả là dụ cho ba thiện đạo. Nói chúng sinh trong năm đường có thể chấp nhận sự giáo hóa là nói mười mà được một mà thôi. “Trưởng giả thấy lửa lớn” xuống cuối đoạn văn này là dụ cho Phật nhãn thấy chúng sinh trong lục đạo rất nghèo nàn về trí tuệ và phước đức, không biết không thấy mà nhận khổ làm vui. Do đó không có ý cầu ra khỏi chốn khổ. Đức Phật thấy cái khổ cuả chúng sinh như thế nên khởi phát tâm đại bi cứu độ họ.

10. Từ câu: “Xá Lợi Phất! Thị trưởng giả tác thị tư duy” đến câu: “Thị phụ nhi dĩ” (Xá Lợi Phất! Ông trưởng giả đó lại nghĩ … nhìn cha mà thôi).

Từ đoạn này trở xuống dụ cho hai mươi mốt ngày tư duy, dựa vào chân lý tuyệt đối mà mở bày chân lý tương đối.

Nói “ Thân và tay có sức mạnh” là dụ cho Phật đủ thần lực và trí tuệ. Nói “Dùng vạt áo, hoặc dùng ghế bàn” … vạt áo có thể nắm lấy được còn ghế bàn có thể leo lên hay vịn mà đi là dụ sự dẫn dắt của Phật. Nói “ Một cửa” là dụ cho pháp nhất thừa. Nói “ Cửa hẹp nhỏ” là nói sự lợi ích không rộng. Nếu Phật chỉ dùng thần lực và trí tuệ lực mà không sử dụng phương tiện, chỉ ca ngợi tri kiến Phật, hoặc pháp vô sở úy của Như Lai, thì chúng sinh không được cứu độ. Do vì người tin vào pháp nhất thừa rất ít, người được độ hiếm, ý muốn thực thi pháp phương tiện để chúng sinh có lòng tu tự tin khẳng định mà nhận được sự giáo hóa một cách đông đảo.

Thí dụ chỉ cho lúc ban đầu Đức Phật ngồi ở đạo tràng tư duy trong bảy ngày đầu, rằng nếu ca ngợi Phật thừa thì chúng sinh đang chìm trong cảnh khổ không thể tin hiểu pháp này được. Bảy ngày tư duy thứ hai dựa nơi thật tướng mà trình bày cái giả lập, nên trước có nói: “ Một cửa nhỏ hẹp” là ý thiết lập phương tiện. Đức Phật đã dùng thần lực dẫn dắt nhiếp phục chúng sinh mà không thành công, nên ngài muốn họ có sự tự tin, tự khẳng định. Chứ cầm tay người dắt đi không được, họ tự khẳng định mới có thể gần gũi họ. Nếu họ không có lòng tin thì chư Phật không có cơ sở để giáo hóa.

Từ câu: “Các con còn thơ bé” trở xuống là dụ cho chúng sinh vô trí khó dạy. Sắp thiết lập ra phương tiện, trước tiên trình bày cái nguy hiểm làm cho chúng biết sợ hãi mà tự mình thoát ra khỏi tình trạng ấy. Là lúc đầu tiên tạm chuyển pháp luân, nói về cái khổ của ba cõi. Từ câu: “ Cha dẫu thương xót” trở xuống là dụ cho chúng sanh mê mờ không chấp nhận sự giáo dục, chúng không có lòng mong cầu thế lực của Phật để chấm dứt pháp khổ. Cho nên giống như các con chỉ nhìn cha mà thôi, không có lòng tin sâu sắc.

11. Từ câu: “Nhĩ thời trưởng giả tức tác thị niệm” đến câu: “Tranh xuất hoả trạch” (Bấy giờ trưởng giả liền suy nghĩ… tranh ra khỏi nhà lửa).

Đoạn này nói ông trưởng giả cứu lửa cháy. Dụ cho Đức Phật tư duy hai mươi mốt ngày.

Ngài hiện thân nơi ba cõi, lúc đầu thuyết về ba thừa, nhưng Phật là người đã khỏi ba cõi, mà ở đây nói Phật cùng với các đệ tử đều bị lửa đốt cháy là dụ cho Phật tánh ở trong ngũ dục, phiền não cuả chúng sinh. Nếu không sử dụng phương tiện để khai hóa tức sẽ bị diệt mất hạt giống Phật. Cho nên gọi là cùng bị đốt cháy. Nói “Tâm vẫn ưa thích” là dụ cho chúng sinh bị vướng mắc vào năm dục mà rơi vào dòng sinh tử. Nay Đức Phật cũng lấy các đồ vật mà chúng ưa thích để dẫn dụ chúng. Cho nên thuyết ba thừa và các pháp phương tiện. Đó gọi là trước thì dùng dục lạc để dẫn dắt, sau đó làm cho chúng sinh đi vào trí tuệ của Phật. Nói “Các con đua nhau tranh ra khỏi nhà lửa” là dụ cho Đức Phật ở vườn Lộc uyển các thành phần trí thức, ngoại đạo như ngài Xá Lợi Phất..v..v.. thống lĩnh đồ chúng tranh nhau quy y với Phật.

Nói “Chen lấn” là dụ cho tình trạng của các đệ tử mới phát tâm bỏ tà theo chánh. Do đó đủ để thấy sức mạnh của phương tiện tam thừa.

12. Từ câu: “Thị thời trưởng giả kiến chư tử đẳng” đến câu: “Phi bổn sở vọng” (Khi đó trưởng giả thấy các con … không phải chỗ trước kia mình trông).

Thí dụ này ý là phế bỏ ba thừa hiển thị nhất thừa.

Ông trưởng giả thấy các con được thoát ra khỏi nhà lửa, lòng ông rất vui mừng… đó là dụ cho các hàng Tiểu thừa nhờ nghe Phật dạy mà ra khỏi tam giới, chứng được Tứ thánh quả không còn bị trói buộc bởi phiền não sinh tử nữa, nên giống như: “Ngồi chỗ đất trống” như các người con lòng đã an ổn thì người cha tâm cũng hân hoan mừng rỡ. Con mà bịnh thì cha cũng bịnh theo, con an ổn thì cha an ổn. Đức Phật sử dụng tâm Đại bi mà nhiếp hóa chúng sinh là ý này vậy.

Khi các con đến bên cha lấy xe, dụ cho hàng Thanh văn chấp thủ kết quả tạm thời cho là thực. “Ông trưởng giả đều cho chung một loại xe lớn”, dụ cho nay thuyết Kinh Pháp hoa, tất cả đều được thọ ký thành Phật. Gọi là “Cho bình đẳng” để nói lên ý nghĩa Phật tánh là bình đẳng. Xe ấy cao rộng dụ cho pháp nhất thừa rộng lớn. Các vật trang Hoàng quý giá, nói lên sự giàu có vô lượng của ông Trưởng giả, dụ cho hai loại trí tuệ của nhất thừa thâm sâu vi diệu. Đó là phương tiện tri kiến Ba la mật đã được đầy đủ. Các loại hoa trang trí bên ngoài dụ cho Trí tuệ phương tiện. Các loại màn gối, nệm bày biện ở bên trong xe dụ cho Trí tuệ căn bản và niềm vui tự nội. Xe giá do trâu trắng dụ cho pháp lớn, chỉ có người căn lớn mới gánh vác nổi. Sắc da.v.v… dụ cho căn lớn thuần tịnh. Sức mạnh lớn dụ cho có thể mang vác. Bước đi ngay bằng dụ cho chánh hạnh. Mau lẹ như gió dụ cho căn cơ lanh lợi. Nhiều tôi tớ dụ cho nhiều phương tiện để tự sống an ổn.

Từ câu hỏi: “Vì cớ sao” trở xuống dưới là tự giải thích ý tứ cho xe lớn nghĩa là ông Trưởng giả giàu có vô lượng không nên keo kiệt mà xử bạc bẽo với con cái. Chính là dụ cho Đức Phật an trụ Đại thừa nếu lấy Tiểu thừa mà giáo hóa rơi vào keo kiệt bỏn xẻn. Từ câu: Nay những trẻ thơ này” trở xuống là đúc kết lại. Xem các con đồng nhau là dụ Phật xem chúng sinh trong ba cõi như con một, nên thương yêu không thiên vị. Câu: “Vì sao?” trở xuống dụ cho Phật là vô tận tạng đem cho người lại càng có nhiều thêm nên nói: “Còn không thiếu”. Các con đều cùng ngồi xe lớn dụ cho nhị thừa đều thành Phật, đó là điều ngoài dự kiến, mong chờ của mọi người.

13. Từ câu: “Xá Lợi Phất ư nhữ ý vân hà” đến câu: “Như nhữ sở ngôn” (Xá Lợi Phất! Ýù ông nghĩ sao … như lời ông nói).

Đoạn này Phật thẩm định lại với ngài Xá Lợi Phất rằng: Ông Trưởng giả hứa cho ba xe mà nay chỉ cho một xe vậy là nói dối chăng?

Thực ra ba xe vốn không có, dụ ba xe là giả thiết, chỉ có một xe là thật. Ngài Xá Lợi Phất nói rằng đó không phải là nói dối, rằng cái thân mạng mới đáng quý hơn đồ vật, được bảo toàn tánh mạng là được may lớn rồi, huống gì được thoát khỏi nạn nhà lửa. Ngay cả trường hợp không cho một chiếc xe nhỏ nào cũng không mắc lỗi nói dối. Vì bản ý của ông Trường giả là muốn giả lập để dẫn dụ, huống gì còn cho một chiếc xe quý báu to lớn ngoài sự mong đợi của các con, sao gọi là hư dối được! Đây là lúc ngài Xá Lợi Phất đã tin rằng ba thừa là giả, nhất thừa là thật. Do vậy các đệ tử nhờ thí dụ mà ngộ được chân lý. Cho nên Đức Phật mới khen rằng Lành thay! Lành thay! Các ông khéo léo lãnh hội tâm ý của Phật.

14. Từ câu: “Xá Lợi Phất, Như Lai diệc phục như thị” đến câu: “Phân biệt thuyết tam” (Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế… phân biệt nói thành ba).

Đoạn này trình bày pháp phù hợp với thí dụ.

Đức Như Lai xem chúng sinh như con một, là cha của thế gian nên dụ như ông Trưởng giả làm chủ nhà. Từ câu: “Mà sinh vào nhà lửa tam giới” trở xuống, nói nhà của Trưởng giả rộng lớn phù hợp với ý nghĩa thành tựu được vô lượng tri kiến… Ông Trưởng giả giàu có, vốn có lòng cứu lửa cháy, nên sinh vào ba cõi cùng với dân chúng chịu khổ, giáo hóa cho để họ đạt an lạc và đắc đạo Bồ đề. Từ câu: “Thấy các chúng sinh” trở xuống, nói nhà cửa bốn phía lửa nổi lên mà các người con thì đam mê vui đùa không lo sợ. Từ câu: “Xá Lợi Phất” trở xuống, nói ông Trưởng giả muốn cứu lửa cháy mà không có phương cách, nhà chỉ có một cửa và nhỏ hẹp. Ông suy nghĩ cách để giúp chúng, rằng nếu ta chỉ dùng thần lực… chúng sinh không nhờ vậy mà được độ thoát, đó là ý nghĩa của “ Một cửa nhỏ hẹp”. Từ câu: ”Vì sao?” trở xuống, nói các người con si mê nên suy nghĩ thiết lập phương tiện thích hợp. Từ câu: “Như ông Trưởng giả kia” trở xuống, nói về giả lập ba xe đã dụ dẫn các con, chứ trong lòng là muốn sau này sẽ cho một chiếc xe lớn. Câu: “ Mà bảo rằng” trở xuống, là khéo nói để dẫn dụ các con. Câu: “Các ông mau ra khỏi ba cõi” trở xuống, nói ông Trưởng giả hứa ra ngoài cửa cho ba xe, có thể sử dụng để dạo chơi vui đùa. Từ câu: “Nếu có chúng sinh” trở xuống, nói các người con đã ra khỏi nhà lửa đến với người cha mà đòi xe. Trong thí dụ hứa cho ba xe mà vốn không có ba xe, trong pháp có hứa ba loại chứng đắc, ý muốn làm cho người ở ba thừa biết các quả vị thuở trước là tạm thời chứ không thực. Lời văn tuy giữa Pháp và dụ không đồng mà ý là khai quyền hiển lộ pháp chân thực. Một đoạn Kinh này, trình bày chung rằngquyền pháp của ba thừa, tương tợ với thí dụ các người con nghe hứa cho ba xe mà tranh nhau ra khỏi nhà lửa. Câu: “Như ông Trưởng giả kia” trở xuống, nói về sắp hiển lộ thật pháp, phù hợp với dụ ông Trưởng giả đồng cho một xe trâu trắng lớn. Lặp lại thí dụ ấy để phù hợp với pháp vậy.

Đức Như Lai cũng như vậy, nay nói thẳng sự thật là các người tam thừa đều được thọ ký thành Phật. Cho nên nói là “Đem pháp diệt độ của Như Lai, mà làm cho chúng sinh được diệt độ”. Từ câu: “Những chúng sinh” trở xuống, nói về sự bình đẳng, cho các con một loại xe quý, to lớn, có các vật báu làm trang trí, không có vật quý nào mà không đầy đủ. Chính là dụ cho pháp giới trang nghiêm đầy đủ vạn đức. Thanh tịnh vi diệu an lạc đệ nhất là phù hợp với ví dụ nệm êm gối đỏ. Những điều đó gọi là Thật trí tự thọ dụng pháp lạc. Từ câu: “Như ông Trưởng giả kia” trở xuống, là lặp lại lời hứa ban đầu cho ba xe là không phải nói dối, phù hợp với ý nghĩa bỏ pháp tạm thiết lập pháp thật là không dối gạt. Câu: “Đức Như Lai cũng như thế” trở xuống, là tổng kết các dụ đã thuyết để làm rõ ý mở quyền hiển bày chân thật. Điều chứng đắc của chư Phật là pháp tạng thâm sâu, không có gì là không cho hết chúng sinh. Tuy nhiên pháp thì lớn mà căn cơ thì nhỏ, không thể thọ nhận hết được. Do vậy đem pháp nhất thừa phân biệt nói thành ba thừa.

15. Từ câu: “Phật dục trùng tuyên thử nghĩa” đến câu: “Hữu ngũ bách nhân chỉ trụ kỳ trung” (Đức Phật muốn trùng tuyên lại nghĩa trên … có đến năm trăm người ở trong đó).

Đoạn tụng này dụ cho Phật làm chỗ quy y cho ba cõi, như người chủ nhà.

Từ câu: “Nhà đó đã xưa cũ” trở xuống 12 câu. “Ba cõi”, dụ cho y báo của chúng sinh do cọng nghiệp tạo ra. “Nhà cửa”, là dụ chung cho chánh báo của chúng sinh do biệt nghiệp tạo ra.

“Cao nguy” là dụ cho trạng thái vô thường hư hoại. “Xưa cũ” nghĩa là từ xưa cũng như bây giờ, chẳng phải riêng nay mới có. “Có năm trăm người nghỉ ở trong đó” là dụ cho ngũ đạo chúng sinh đều không thoát khỏi cái khổ của vô thường, sinh, lão, bịnh, tử.

16. Từ câu: “Si, Hiêu, Điêu, Thứu” đến câu: “Chúng nạn phi nhất” (Chim Si, Hiêu, Điêu, Thứu … các nạn chẳng phải một).

Đoạn này dụ nói rõ tình trạng nhân quả ác nghiệp của chúng sinh trong ba cõi một cách rõ ràng.

Như trên đã nói nhà cửa mục nát, trong nhà đó có năm trăm người, mà nói các người con chỉ có 10, 20 cho đến 30 người. Ý muốn nói chúng sinh trong năm đường tuy đông, số người có thể chấp nhận sự giáo hóa của Phật không được 1/10 (mười người được một).

Đặc biệt chỉ cho loài người và trời mà nói, ngoài ra không được giáo hóa luôn tạo ác nghiệp là số đông. Nay nói tổng quát ác nghiệp của chúng sinh, do tham sân si và các phiền não nhiễm ô, lớp lớp tập khí điên đảo chi phối, không giống nhau nên chiêu cảm kết quả đau khổ trong tam đồ cũng không giống nhau, rất đáng sợ.

Lời thí dụ gồm 132 câu trình bày tổng quát nhân quả của tam đồ đều do ác nghiệp, tập khí, tình ái, tâm tưởng mà chiêu cảm không đồng. Nêu cái quả để chiêm nghiệm nguyên nhân. Tuy nói là dụ mà thật ra là pháp, như Kinh Lăng Nghiêm nói: Nguyên nhân và kết quả giao thoa với nhau rất vi tế. Đoạn trước từ câu: “Như ông trưởng giả” xuống dưới 16 câu là dụ chung cho ba cõi chúng sinh. Câu: “Si, Hiêu, Điêu, Thứu” trở xuống 24 câu là nói riêng nhân quả của loài súc sinh. Súc sinh có loài bay, loài chạy, sâu bọ các loài côn trùng… thân hình lớn nhỏ không đồng nhau. Có loài do tập khí dâm mà buông lung lòng tham, có loài do tập khí sân mà buông lung lòng độc ác. Các điều ác đều như nhau, ba độc bộc phát không kiềm chế nên gọi là: “Ngang dọc xen ruỗi chạy”. Thân thể nam nữ, mọi thứ đều bất tịnh, phẩn uế chảy tràn, do tham ái không buông xả, giống như con bọ hung tập hợp trên đống phân dơ bẩn; như chồn sói ăn xác chết tham lam không bỏ; như bầy chó sợ hãi mong ăn, tranh đấu không ngừng, giành giựt mà phát ra tiếng kêu tru dễ sợ. Đây là nhân quả của loài súc sinh, đều do ba độc biểu hiện ra. Cho nên mới nói: “Nhà đó đáng sợ, những biến trạng dường ấy”. Đó là nói một cách khái quát tình trạng của súc sinh. Câu: “Khắp chỗ đều có ” trở xuống, nói riêng về nhân quả của loài quỷ. Nói “ Khắp chỗ đều có” là nói tất cả chúng sinh đều do nơi tâm ly, mị, vọng, lượng làm nhân tố cho cảnh quỷ. Dạ xoa, gọi là khổ hoạt quỷ, chúng ăn thịt người, là do loài người trước đã tạo ác nghiệp rất nặng, làm thương tổn pháp thân và tuệ mạng, đoạn tuyệt thiện căn nên đọa vào loài quỷ. Lấy cái khổ làm sự sống, dùng thịt người để ăn, là do từ con người mà đi vào loài quỷ.

Ba độc tham sân si hỗ tương lẫn nhau nên gọi là “Sản sinh” chấp chặt tham lẫn không bỏ nên gọi là “Tàng hộ”(giữ gìn). Đây là quả khổ do từ loài súc sinh, lại vào loài quỷ. Nên quỷ dạ xoa phải tranh giành mà có ăn, vì do từ loài súc sinh mà vào loài quỷ vậy. Loài súc sinh thì rất nhiều mà loài quỷ cũng rất thịnh. Càng ăn no thì tâm ác càng mạnh, tập khí bộc phát, chúng giao tranh nhau, tiếng của chúng đánh cãi nhau thật đáng sợ.

Cưu bàn Trà gọi là Khả úy quỷ còn gọi là vô thường sát quỷ. Hoặc có lúc đi hỏng mặt đất, hoặc vì một niệm thiện mà cảm nhân thiên, rồi lại đọa lạc nên gọi là: “Qua rồi lại dạo đi”. Nói: “Vui đùa” là nói chúng ở nơi ác đạo như đi dạo trong vườn, chúng thường bắt nạt loài vật, loài vật sợ chết thì quỷ rất thích, nên nói: “Khủng bố chó để vui”. Súc sinh có nhiều loài, riêng loài chó quen gần loài người, lòng tham sân còn mạnh nên có chuyện như vậy. Từ câu: “Lại có các giống quỷ” trở xuống, nói riêng trạng thái của loài ngạ quỷ, thân hình to lớn trần truồng, tiếng nói lớn hung ác. Thường ở trong tình cảnh ấy nên gọi là: “Thường ở luôn trong đó”. Một khi đã rơi vào đó rồi trải qua năm trăm kiếp không nghe đến tên của nước nên gọi là: “ Kêu la tìm món ăn”. Bụng như cái trống mà cổ như cái kim, đầu như đầu trâu, hình dạng xấu xí, ăn người nuốt chó, từ người đến súc vật đều có thể đọa vào loài này. “Đầu tóc rối tung lên”ø là nói trạng thái độc ác phá hoại, hung hiểm. Nói tánh ác đều do tập khí tự nhiên như vậy. Nói “ Kêu la rong chạy” là vì bị khốn khổ bức bách. Từ câu: “Dạ xoa cùng quỷ đói” trở xuống, tổng kết cả loài quỷ và súc sinh, đều có lòng mong cầu ra khỏi nhưng không có cửa để thoát ra nên chỉ nhìn xem ra cửa sổ.

Tóm lại các nạn như thế sợ hãi vô cùng, đều do quả báo từ ba độc. Đều là nêu kết quả để hiểu rõ nguyên nhân. Quan trọng ở nơi nhân. Cả hai loại đều có trạng thái tạo nghiệp hổ tương nhau, nên phần sau nói đến địa ngục tức cùng chung quả khổ. Câu “Nhà cũ mục” trở xuống, là nói chung nhân quả của địa ngục, do cái khổ của địa ngục bức bách mà hai loài cảm nhận riêng không tự tạo nên được. Sắp thuyết minh địa ngục mà nêu lên người chủ nhà. Ý dụ cho ba cõi hư mục, chỉ có Phật mới có thể giáo hóa được nên gọi: “Thuộc ở nơi một người” Chúng sinh trong ba cõi do ba độc hưng thạnh nên gọi “Bổng nhiên lửa cháy đỏ”. Khi cơn vô thường biến hoại đến, thì không kể là quỷ hay súc sinh đều quy về địa ngục. Nhà bị lửa thiêu mà cháy các quỷ kêu to, các côn trùng đều sợ hãi không làm sao ra được. Đó gọi là sống không tu phước, chết rơi vào chốn khổ. Các loài ác thú, độc trùng ban đầu nghênh ngang nhã độc nay bị chết giấc không biết gì, nên gọi là: “Chui núp trong lỗ hang” là trạng thái khổ của trong địa ngục vậy.

Tỳ Xá Xà gọi là não hại quỷ, phiền não của chúng sinh đến đây cũng không có chỗ để thi triển nên gọi là: “Cùng ở chung một hang”. Đó đều do sống không có phước đức nên bị lửa bức bách. Vào nơi địa ngục oán dối hại nhau nên gọi là: “Tàn hại lẫn nhau”. Dã can ban đầu buông lung tánh tham lam sân hận ăn thây chết người khác. Nay bị chết, thây bị thú lớn ăn lại. Địa ngục là do lửa nghiệp thiêu đốt cho nên “Khói tanh bay phùn phụt, phủ khắp bịt bốn bề”. Loài rết, rắn độc ban đầu phun độc hại người nay bị đốt mà tranh nhau ra, lại bị ác quỷ bắt ăn thịt. Đây là từ địa ngục mà lại đọa trong loài súc sinh.

Ngạ quỷ vốn do tập khí dâm mà chiêu cảm. Sống trong lửa dục, chết bị nghiệp lửa, cho nên trên đầu lửa cháy không được ăn uống, lo sợ đói khát mà chạy, nhưng không thể ra được. Đây là chỗ tột cùng của ba độc, ác nghiệp quy về. Nên nói tổng kết rằng: “Ngôi nhà như thế rất đáng sợ hãi, các nạn chẳng phải một”.

Chúng sinh quá si mê, ba độc quá hưng thịnh nên chiêu cảm quả báo trong ba đường. Đều mê ở nơi tâm mà ra. Nên biết điều ác trong ba đường đều cảm do tâm biến hiện. Đức Phật ban đầu dùng nhà lửa để dụ cho ba cõi, nêu ngôi nhà lớn để nói trong nhà đó có cầm thú ác độc và các loài ác quỷ đều là việc thật trong ba ác đạo.

Như Kinh Lăng Nghiêm cho rằng có phần nhân quả ở bên trong. Tuy nói là dụ nhưng thật ra là quả để chỉ rõ nhân, không phải chỉ lấy vật bên ngoài làm thí dụ. Nhưng chúng sinh lấy ba độc làm nhân cho ba đường ác, hình thể tuy chưa chết mà tâm cùng ba độc đã đi qua (cảnh khổ rồi). Cổ đức giải thích phối hợp với pháp tuy rõ, nhưng không bằng lý giải đến sự thật của lý nhân quả làm cốt yếu. Ở đây không tiện nói hết các vấn đề mà chỉ tổng quát chung ý nghĩa chính. Nếu muốn biết đủ xin xem nhưng ï lý giải khác.

17. Từ câu: “Thi thời trạch chủ” đến câu: “Tự tại vô ngại”(Lúc bấy giờ chủ nhà… tự tại không ngăn ngại).

Đoạn kệ tụng này lặp lại ông Trưởng giả cứu lửa cháy.

Chủ nhà đứng ngoài cửa, là dụ chỉ riêng Phật ra khỏi ba cõi. Có người nói rằng đây là dụ cho hai mươi mốt ngày tư duy dưới cội Bồ đề, chư thiên Phạm vương thỉnh Phật chuyển pháp luân. Câu: “Trước đây vì dạo chơi” nghĩa là ba cõi chúng sinh ban đầu do vô minh trôi theo phiền não, mà đọa vào ba cõi. Lúc đầu không có tâm nghĩ đến sự sa đọa nên gọi là “Dạo chơi”. Từ câu: “Trưởng giả vừa nghe xong” trở xuống 4 câu, dụ cho Đức Phật thị hiện trong tam giới, cùng với dân chúng chịu hoạn nạn tai ương. Từ câu: “Mà dụ bảo các con” trở xuống 16 câu, dụ cho sắp nói pháp Tam thừa nên trước hết bày tỏ hiện tượng đau khổ trong sinh tử. Từ câu: “Các con nhỏ không hiểu” trở xuống 4 câu, nói các con không có lòng muốn ra khỏi. Ví dụ chúng sinh tuy nghe Phật dạy mà không tin. Từ câu: “Bấy giờ Trưởng giả kia” trở xuống 24 câu, dụ cho Phật lúc đầu giả nói pháp ba thừa để dẫn dắt chúng sinh. Từ câu: “Các con nghe cha nói” trở xuống 6 câu, các con nghe nói có ba xe liền tranh nhau mà ra khỏi nhà, dụ cho chúng sinh nương tựa vào Phật pháp mà ra khỏi ba cõi. Từ câu: “Trưởng giả thấy các con” xuống dưới 20 câu, nói dụ cho chúng sinh xa lìa được khổ nên cha mới vui. Câu: “Đẻ nuôi rất khó” là nói thân người khó được. Từ câu: “Khi ấy các người con” xuống 12 câu, dụ cho hàng Tam thừa chấp pháp tạm làm pháp thật. Từ câu: “Trưởng giả giàu có lớn” xuống 30 câu, dụ nay chỉ nói diệu pháp nhất thừa. “Các của báu trang nghiêm” dụ cho kết quả của pháp Nhất thừa đầy đủ mọi công đức. Câu: “Các con lúc bấy giờ” xuống 6 câu, dụ cho nay nghe được pháp mà vui mừng.

18. Từ câu: “Cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Thành đắc Phật đạo” (Bảo Xá Lợi Phất này … chứng thành quả Phật đạo).

Bài tụng này đem pháp hợp với dụ, như trên cả thảy 10 tiết, đều có thể nắm rõ. Tóm lại là xả bỏ pháp quyền để thành tựu pháp thật vậy.

19. Từ câu: “Thị thừa vi diệu” đến câu: “Dư Phật phương tiện” (Phật thừa đây vi diệu… Trừ Phật dùng phương tiện).

Bài tụng ca ngợi công đức rộng lớn của Pháp nhất thừa, đó là niềm vui của Phật.

Nói nhất thừa là điều Phật thích nói nhất. Vậy pháp tam thừa vốn không phải bản ý của Phật. Câu: “Ngày đêm cùng kiếp số” nghĩa là một khi đã vào Diệu pháp, thì không còn giới hạn của thời gian, không gian hay tâm lý nữa.Thẳng tiến đến Phật quả không còn trở lại. Cho nên câu kết của bài tụng mới nói “Lại không thừa nào khác”.

20. Từ câu: “Cáo Xá Lợi Phất” đến câu: “Cố hiện ư thế”(Bảo Xá Lợi Phất … nên hiện ra nơi đời). Đoạn kệ tụng này lặp lại ý Phật vì cứu chúng sinh mà ra đời, tùy căn cơ mà thuyết pháp.

Bài tụng nói lại ý ta là cha của tất cả thế gian…, đều là con của ta. Nói rằng tam giới chúng sinh đều là con một của Phật. Chưa có người cha nào mà không thương con. Do thấy chúng sinh trải qua nhiều kiếp bị thiêu đốt. Nên khởi tâm từ bi, xuất hiện ở đời để cứu vớt. Vì chúng sinh căn trí thấp kém nên trước tiên thiết lập quyền thừa. Tuy được thoát ly sinh tử nhưng chưa thật sự diệt độ. Nay nói về trí tuệ cuả Phật, đây mới là pháp chân thật. Xưa các Phật giáo hóa có chúng sinh nghe mà sinh tâm tin tưởng đều trở thành Bồ tát và có phần thành Phật cả.

Từ câu: “Nếu có người trí nhỏ” trở xuống 24 câu, là nói rõ vì sao ngày xưa thiết lập quyền pháp, là pháp Tứ Đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Vì chúng sinh trí tuệ kém, vướng sâu vào ái dục, nên trước hết nói khổ đế để cảnh tỉnh chúng, làm chúng biết cái khổ mà nhàm chán ái dục. Chữ Đế nghĩa là chân thật không thay đổi, chúng sinh biết khổ mà không biết nguyên nhân của khổ. Cho nên nói tham dục là nguyên nhân của khổ, làm cho chúng sinh biết để diệt khổ.

Nếu đã đoạn trừ tham dục thì khổ không có cơ sở nữa, biết vậy mà tu tập Đạo đế chứng đạt được Diệt (Niết bàn). Vìø hết khổ, gọi là giải thoát.Từ câu: “Người đó nơi pháp gì” xuống dưới 12 câu, nói diệt mà chưa thật diệt. Nói là giải thoát chỉ là thoát ly cái hư vọng phân đoạn sinh tử. gọi là giải thoát, kỳ thật chưa giải thoát Hoàn toàn, vẫn còn biến dịch sinh tử. Cho nên nói người này chưa thật sự diệt độ, vì chưa đắc được vô thượng đại niết bàn. Thế nên gọi là quyền pháp. Bản ý cuả Phật là muốn chúng sinh thành Phật. Đâu có cho đây là đủ rồi được! Đại tiểu tam thừa đều là pháp ứng cơ mà nói, tuy tiểu pháp không thực Như Lai vẫn nói. Do Phật là Pháp vương, đối với mọi pháp đều tự tại, tùy duyên mà nói, không pháp gì là không vì sự an ổn cho chúng sinh. Cho nên xuất hiện ở đời.

21. Từ câu: “Nhữ Xá Lợi Phất” đến câu: “Vật vọng tuyên truyền” (Xá Lợi Phất phải biết… chớ có vọng tuyên truyền).

Đoạn kệ tụng này nói nay thuyết Đại pháp, nhắc nhở ngài Xá Lợi Phất, phải chọn lựa căn cơ mà dạy, đừng truyền bừa bãi, vì lời pháp ta thuyết hôm nay gọi là Pháp ấn.

Pháp mà Phật thuyết lấy thật tướng ấn để ấn định các pháp. nên ngoại đạo không xen lẫn dễ dàng được. Pháp này chỉ làm lợi ích cho cuôïc đời, có điều phải chọn lọc đối tượng, nếu không đúng đối tượng thì nên truyền dạy.

22. Từ câu: “Nhược hữu văn giả” đến câu: “Phi kỷ trí phần” (Nếu có người nghe đến… chẳng phải trí của mình).

Đoạn kệ tụng này nói về lựa chọn căn cơ. Nếu có người nào nghe mà cung kính thọ trì, thì người đó là Đại Bồ tát bất thối. Tức là không phải căn cơ lớn chỉ nghe mà có thể tin, trường hợp này khó gặp cũng có thể vì họ mà thuyết.

Từ câu: “Nếu có người tin nhận” trở xuống 12 câu, nói về Tín cơ, người có khả năng tin tưởng pháp này, là người đã từng cúng dường Phật, nghe Phật pháp, phước huệ sâu dầy nếu họ có thể tin vào ông (Xá Lợi Phất) thì cũng như thấy được ta và hội chúng tỳ kheo Bồ tát như hội linh sơn hôm nay. Người này có khả năng gánh vác (pháp Đại thừa) cho nên vì họ mà thuyết.

Từ câu: “Phật vì người trí sâu” trở xuống 8 câu, nói pháp này lớn (Đại thừa) vì đối tượng căn trí sâu sắc mà nói chứ không vì hàng trí thức kém có thể theo kịp. Từ câu: “Chính ông Xá Lợi Phất” trở xuống 8 câu, nói lý do vì sao theo không kịp. Như ông là bậc trí tuệ đệ nhất còn nhờ niềm tin mà thọ trì huống gì các hàng Thanh Văn chỉ tin vào ngôn ngữ mà không có lòng tin! Do vậy không phải do trí cuả mình.

23. Từ câu: “Hựu Xá Lợi Phất” đến câu: “Nhữ kim phục thính” (Lại này Xá Lợi Phất… ông nay lại lắng nghe)

Đoạn kệ tụng này cảnh giác nếu chẳng phù hợp căn cơ thì không truyền dạy.

Vì pháp này thâm sâu khó khó hiểu, ngay cả khi Phật trụ thế đích thân dạy chúng mà còn phải chờ thời cơ trong bốn mươi năm, không vội truyền dạy. Đến khi nói vẫn còn những kẻ tăng thượng mạn, huống gì sau khi Phật diệt độ! Hơn nữa ngài Xá Lợi Phất là thành phần Tiểu thừa, dù khéo nói đi nữa ai mà tin được! Ở đây còn có hạng người kiêu mạn, tự cao, hạng lười biếng không chịu lắng nghe, và hạng người chấp vào kiến thức của mình cho là đúng. Ba hạng người ấy không nên truyền dạy. Có dạy chúng cũng không tin ngược lại còn sinh lòng phỉ báng, thà không nói còn hơn. Còn người phàm phu vô trí đắm sâu trong năm dục lạc có nghe cũng chẳng hiểu thì nói với họ có lợi ích gì! Cho nên cảnh giác chớ vội mà truyền dạy. Không phải đúng đối tượng thì không tin, nói không những vô ích mà còn hại mình.

Kinh này là chủng tử Phật tánh của mỗi người, người không tin vào điều ấy chắc chắn sẽ chỉ trích phỉ báng Kinh. Nếu phỉ báng Kinh này tức là đoạn diệt tất cả chủng tử Phật ở thế gian. Hoặc nếu không phỉ báng mà sinh tâm chê cười và chán nghe, tâm nghi ngờ không quyết định đều cũng là loại không tin cả. Nói có hại là nói rước lấy tội lỗi đọa lạc trong ba ác đạo. Ông nay lại lắng nghe, ta nay vì ông mà nói rõ.

24. Từ câu: “Kỳ nhân mạng chung” đến câu: “Chí vô số kiếp” (Người đó khi mạng chung … nhẫn đến vô số kiếp).

Đoạn kệ tụng này nói về tội hủy báng kinh để răn đe những người không có lòng tin.

Tội của người phỉ báng kinh trước hết là đọa vào địa ngục, một khi vào địa ngục thời gian rất dài khó thoát ra được. Vì lẽ chủng tử Phật tánh là chân tâm thường trụ, đã đi ngược với tâm này thì muôn kiếp trầm luân, thường ở điạ ngục, cố định nơi đó.

25. Từ câu: “Tùng điạ ngục xuất” đến câu: “hoạch tội như thị” (Từ trong địa ngục ra… mà mắc tội như vậy).

Đây là kệ tụng nói rõ quả báo làm súc sinh.

Súc sinh có nhiều loại, tùy theo nghiệp lực mà nhận loại gì. Loài chó cẩu thả, do mất chánh tín mà đọa loài chó. Do lòng đa nghi mà đọa vào loài Dã can; vì thương tổn pháp thân mà thân hình gầy ốm đen đủi và ghẻ lở; vì không cung kính Tam bảo nên bị kẻ khác khinh khi ghét bỏ; vì không nếm pháp vị nên bị khốn khổ đói khát; da thịt khô kiệt do mất hết thiện căn, nên sống gặp khổ sở, độc hại, chết bị ngói đá. Tất cả đều là tội báo đoạn diệt chủng tánh Phật. Trên là nói loài súc sinh bé nhỏ, còn nếu làm lạc đà thì có sức lực mang vác, do nặng phiền não si, cho nên thường mang nặng mà còn bị đánh đập, do vì bản tính ngu si nên chỉ nhớ đến cỏ, nước, ngoài ra không còn biết gì khác. Đều là do quả báo do phỉ báng kinh này mà ra. Hoặc do tà kiến mà sinh làm con Dã can, chỉ có một mắt; vì sống không biết cung kính nên bị trẻ nhỏ ném đánh đến chết. Xả bỏ thân này lại đoạ vào thân rắn, dài lớn không có chân do quả báo sân si mà ra. Chịu sự khổ do loài trùng rúc cắn ăn thịt. Phần nhiều dùng miệng chê bai, nên thọ khổ bất tận, đó đều do tội báo phỉ báng kinh này mà ra.

26. Từ câu: “Nhược đắc vi nhân” đến câu: “mạc thuyết thử Kinh” (Nếu được sinh làm người… chớ nên nói Kinh này).

Đoạn kệ tụng này nói về quả báo trong loài người.

Nói: “Nếu được làm thân người” là nói từ địa ngục, súc sinh may mắn ra khỏi. Sinh ra không có trí tuệ, các giác quan chậm lụt do không cung kính Tam bảo nên bị quả báo lùn xấu, què quặc. Làm người thấp nhỏ là do khinh miệt người khác. Do sống không lắng nghe, không học hiểu nên bị quả báo mù điếc. Do ngã mạn tự cao nên bị quả báo lưng gù. Do phỉ báng Phật pháp nên nói người ta không tin. Do miệng nói lời ác nên miệng thường hôi thối. Do cố chấp tà kiến nên bị quỷ ma ám dựa. Do sống không nguyên tắc nên làm người hèn hạ bị người sai khiến. Do không ăn cơm pháp lạc nên nhiều bịnh ốm gầy. Do xa rời Đức Từ phụ nên không có chỗ nương cậy, dù ở gần người, người ta không để ý tới mình. Do không có chánh niệm nên thiện pháp có được dễ mất. Do tánh khí điên đảo nên học nghề y dược, trị đúng phương thang mà bịnh người càng nặng thêm. Chính mình bị bịnh gặp thầy thuốc nhưng bịnh thêm nguy kịch. Vì vu khống chỉ trích không hợp lý nên gặp quả báo người khác phạm tội mà mình bị tai hoạ. Ở trên đều là quả báo trong cõi người. Do dứt hẳn thiện căn nên không có cơ hội gặp Phật nghe pháp, nhiều kiếp câm điếc, các giác quan không đầy đủ. Vừa mới ra khỏi ba đường dữ mà vào cõi người, rồi tạo nghiệp dữ trong loài người quay trở lại ba đường dữ. Cho nên mới nói thường ở trong địa ngục như dạo chơi trong vườn, ở trong các đường ác như ở trong nhà mình. Đường đi của các loài lạc đà, lừa, heo, chó.v..v… là đường đi của nghiệp hủy báng kinh chiêu cảm ra.

Câu: “Nếu được sinh làm người” trở xuống 16 câu, nói trước đây ba đường dữ mà thoát ra rồi từ người mà trở lại ba đường dữ, nay từ ba đường dữ trở lại làm người, nên gọi là “Như đi dạo xem vườn cảnh”. Đã được làm người nhưng do nghiệp trước chưa hết mà bị mù loà, điếc lác làm phong độ. Các bịnh sưng tấy, bịnh nặng làm y phục, gọi là khổ không rời thân vậy, còn thêm hôi hám ô nhiễm nữa. Hơn nữa người bị ngã kiến trói buộc không bỏ, sân hận không xả, dâm dục hưng thịnh, như vậy hạng này sao thoát khỏi đường khổ, làm sao mà đình chỉ được bánh xe của quả báo khổ! Đây đều là tội báo do khinh chê kinh này.

Từ câu: “Bảo cho Xá Lợi Phất” trở xuống là tổng kết đối với hạng không đủ căn cơ thì nói nhiều thêm hại, cái hại ấy không thể nói hết được. Vì lý đó mà cảnh giác “Ông đối với người vô trí chớ nói Kinh này”.

27. Từ câu: “Nhược hữu lợi căn” đến câu: “Diệu pháp hoa kinh”

(Nếu có người lợi căn… Kinh Diệu Pháp Liên Hoa).

Bài kệ tụng này nói đối với người có thiện căn thì có thể nói Kinh này. Như trên đã nói … những người như vậy mới thật là pháp khí, nên vì họ mà truyền dạy, nếu không nói thì mất đi cơ hội làm cho tuệ mạng không được tiếp nối.

“Nói cầu Xá Lợi của Phật” là muốn nói lòng thành tín rất cao, xưa ngài Khương Tăng Hội ở Tây Vực trông thấy ánh chớp có ánh sáng năm màu chiếu tỏa bầu trời biết là Xá lợi của Phật, ngài tìm theo ánh sáng mà đến nơi Giang Đông, thôn Phật Đà. Ngài kết cỏ làm am tranh thiết lập tượng Phật, hành đạo ở đó. Có người tâu với Ngô chúa là Tôn Quyền, cho rằng ngài lập dị. Tôn Quyền mời ngài đến và hỏi rằng: Làm đệ tử của Phật, vậy Phật ở đâu? Đáp: Phật đã nhập diệt nhưng còn có Xá lợi để làm chứng Hỏi: Có thể thấy được không? Đáp: Nếu tín thành cầu xin thì thấy được. Do đó Tôn Quyền sai lập cầu xin. Nếu không linh nghiệm thì phải chết. Ban đầu bảy ngày qua không linh ứng, lại thêm bảy ngày nữa cũng không linh ứng, lần ba qua bảy ngày vẫn không linh ứng. Khương Tăng Hội mới cầu đảo rằng tôi có chết cũng không tiếc gì nhưng chúng sinh cõi này bị diệt mất nhân duyên đối với Phật phá. Lòng chí thành của ngài cao độ, nửa đêm dùng hết sức hô lên danh hiệu Phật ba lần, toàn thân đổ mồ hôi máu. Bấy giờ bỗng nhiên nghe trong chiếc bình có tiếng khua, ánh sáng chiếu cả trời đất. Đem dâng Ngô chúa, Tôn Quyền rất vui lòng, xây tháp thờ Xá lợi. Đây là Tháp Trường Can, là chùa Phật đầu tiên ở Giang Nam. Nếu có người cầu Kinh như vậy sao lại không nói được!.

Từ câu: “Bảo cùng Xá Lợi Phất” trở xuống là phần tổng kết chánh cơ. Trước là tội nói không đúng căn cơ, nói hết kiếp cũng không hết. Nay vì lợi ích của người đúng căn cơ nên nói hết kiếp cũng không hết.

 

Phẩm Tín Giải Thứ Tư

Phẩm này nói về hạng người căn cơ bậc trung lãnh hội chân lý, nhờ nghe thí dụ mà tin hiểu.

Ý tứ của phẩm này là bốn vị Đại đệ tử do nghe Đức Thế Tôn nói thí dụ lại và thấy ngài Xá Lợi Phất lãnh hội và được Phật thọ ký. Các ngài mới tin rằng quả vị trước đây đã đạt chỉ là pháp tạm, hiểu được rằng pháp nhất thừa mới là pháp chân thật. Do vậy sinh tâm hối hận mình đã si mê, nên nói thí dụ về người Cùng tử để trình bày Hoài bão của mình. Nói rõ tình trạng lòng cha thương con khờ dại, để dụ cho tâm sợ Đại thừa pháp. Đã nghe và khai mở tâm trí, có lòng tự tin, hiểu được tình trạng trước đây là sai lầm. Vậy mới có phẩm Tín Giải này.

Tín Giải bắt đầu từ đây, ý đó tiếp tục cho đến phẩm Chúc Lụy mới hết ý nghĩa Tín Giải. Vì các con nhờ tín và giải mới có thể nhận lãnh sự giao phó cuả cha.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Huệ Mạng Tu Bồ Đề” đến câu: “Hoan hỷ dõng dước” (Lúc bấy giờ ngài huệ Mạng Tu Bồ Đề… hớn hở vui mừng)

Đoạn này mở đầu trình bày bốn vị Đại đệ tử nghe nói thí dụ sinh tâm tin hiểu nên hớn hở vui mừng, chuẩn bị nói lên bổn hoài của mình.

Pháp nói ở trước chỉ có ngài Xá Lợi Phất, bậc trí tuệ thượng thủ lãnh hội. Nói dụ này, cũng khó tin. Vì từ trước đã lặp đi lặp lại nhiều thí dụ, nhân duyên, sự đàm luận đã thuần thục. Giờ không cần so sánh với ngày xưa nữa, cái chính là không phải trí tuệ thì không hiểu, nên ngài Tu Bồ Đề còn gọi là huệ Mạng đứng đầu. Vì ngài tiêu biểu cho pháp không của Tiểu thừa. Bậc thượng thủ đã xả tất nhiên đại chúng có thể buông xả theo. Do nghe pháp hy hữu nên phát tâm hy hữu, do vậy mà vui mừng hớn hở.

2. Từ câu: “Tức tùng tòa khởi” đến câu: “Dĩ minh kỳ nghĩa” (Liền từ chỗ ngồi đứng dậy… để chỉ rõ nghĩa đó).

Đoạn này trình bày tình trạng được và mất.

Câu: “Chúng con ở đầu trong hàng tăng” trở xuống, trước hết trình bày lý do ngày xưa chấp chặt tin tưởng quả Tiểu thừa là thật. Vì cho rằng tuổi tác đã già, may mắn được an trụ nơi Niết bàn, tự cho mình không được việc lớn, nên không có lòng mong cầu tiến đến Vô thượng bồ đề, tự cho là đủ rồi. Vì thế Đức Thế Tôn một hướng thuyết pháp, mà chúng con mệt mõi, lười biếng không còn nổ lực tinh tấn nữa, chỉ nghĩ đến “Pháp không” mà mình đã chứng, cho là đầy đủ. Tuyệt không có tâm độ thoát chúng sinh. Thế nên đối với pháp Bồ tát đại thừa, thanh tịnh Phâït quốc, giáo hóa chúng sinh, tâm không hứng thú gì. Sở dĩ không thích thú vì ban đầu Đức Thế Tôn dạy chúng con ra khỏi Tam giới, chúng con đã ra khỏi đã chứng quả Niết bàn. Huống gì nay tuổi đã già, chỉ lấy vô làm an ổn, cho nên đối với việc Bồ tát lợi sinh thành Phật không có một niệm ưa thích. Mỗi khi nghe Phật quở trách, tự cho mình không có phần thành Phật, đâu biết rằng quả Niết bàn xưa là do tạm thiết lập mà thôi! Câu: “Chúng con hôm nay” trở xuống, trình bày hôm nay lòng đã tin hiểu. Nhân nghe Phật thọ ký cho Thanh văn thành Phật nên lòng con rất vui mừng, vì đột nhiên nghe được pháp hy hữu. Đại bảo của Đấng Pháp vương, không cầu mà tự có. Đó không phải là niềm vui lớn sao! Tâm vui mừng, không do tự thấy nên nói thí dụ để trình bày sự lãnh hội của mình.

3. Từ câu: “Thí nhược hữu nhơn quý ký ấu trĩ” đến câu: “Thản nhiên khoái lạc vô phục ưu lự” (Thí như có người lúc còn thơ bé… thản nhiên khóai lạc không có sầu lo).

Đoạn này dụ cho lòng tin hiểu.

Trước hết trình bày ngày xưa không có lòng tin, bởi chúng sinh bị vô minh che lấp chân tính, như trẻ con không biết gì, quay lưng lại với tánh giác, đối mặt với bụi trần, luân hồi trong sinh tử. Như con bỏ cha trốn đi, ở lâu dài một quốc gia khác, chìm đắm trong ngũ đạo, sinh tử lâu dài, như năm mươi năm. Đến lúc khôn lớn do không có thiện căn, khốn đốn trong bốn loài (tứ sinh) lấy cái khổ mà sinh sống, như mong cầu ăn mặc, nhờ có nhân duyên chánh đạo huân tập dần dần trở về bổn quốc. Do pháp thân bản giác lưu chuyển trong năm đường nên gọi là chúng sinh. Đó gọi là Như Lai tạng chuyển ba mươi hai tướng tốt vào trong thân chúng sinh như mặc chiếc áo dơ bẩn. Cho nên nói rằng: “Người từ trước đến nay”. Quay lưng với trí giác, đối mặt với trần lao nên gọi là “Cầu con chẳng được”.

Câu: “Ở trong một thành nhà của cha giàu có”.v.v… là thí dụ như đức Như Lai Lô Xá Na ở trong Hoa tạng giới, biểu hiện uy đức của thân tướng, đặc biệt phù hợp với sự trang nghiêm của pháp giới nên gọi là Đại phú (giàu lớn). Châu báu vô lượng, dụ cho thật trí của Phật. Phật có vô lượng tri kiến Ba la mật, tất cả đều đầy đủ nên gọi là “Thảy đều đầy tràn” Nói “Tôi tớ”.v..v… là dụ trí tuệ phương tiện, sự nghiệp lợi sinh của Phật. “Thần dân” thì có thể sai khiến. “Voi ngựa”… có thể chuyên chở, đều dụ cho quyền trí cả. Công đức giáo hóa trở về mình nên gọi là “Lời lãi”. Ứng thân vô lượng khắp cõi nước trong mười phương nên gọi là “Khắp các nước khác”. nhiều người buôn bán. Buôn bán lấy người chủ làm gốc để được lợi, dụ cho ứng thân của Phật.

Trôi lăn trong sinh tử, qua khắp sáu đường, ở trong Kinh Thí dụ là “Trải qua nhiều quốc ấp”. Nay may mắn gặp Phật ra đời giống như dần dần đi đến thành phố của cha. Cha luôn luôn nghĩ đến con, như trong Kinh nói lạ thay! lạ thay! Tất cả chúng sinh đều vốn đầy đủ trí tuệ và đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo mà không chứng được. Đó gọi là cha và con cách biệt hơn năm mươi năm. Phật biết chúng sinh có đầy đủ Phật tánh mà chưa thiết lập giáo hóa cho nên nói là “Chưa từng đối người nói việc như thế”.

Từ câu: “Ông tự nghĩ” trở xuống, dụ cho 21 ngày tư duy dưới cội Bồ đề phương pháp độ sinh, lòng ôm sự hối hận. Hối hận ngày xưa đã có chủng tử nhân duyên nhất thừa, không nên bỏ mất. Hối hận vì nhất thừa dễ mất mà khó gặp. “Già yếu” dụ cho công viên quả mãn, như duyên sinh đã hết. “Có nhiều tài vật” dụ cho hai trí (quyền thật) thâm sâu vi diệu. “Không có con cái” dụ cho không có người thượng căn để tiếp nối tuệ mạng. Phật pháp mà không lưu truyền như gia nghiệp tan mất. Muốn có nơi để giao phó, nên trong bảy ngày đầu Phật tư duy để hưng khởi tâm vô duyên đại bi. Suy nghĩ giáo pháp có nơi trao truyền, nên nói “Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra nơi đời”, chỉ vì bổn hoài trao truyền chánh pháp. Như ông Trưởng giả suy nghĩ về con trai để giao phó gia nghiệp, mới hết lo nghĩ vậy.

4. Từ câu: “Thế Tôn nhĩ thời cùng tử” đến câu: “Dĩ cầu y thực” (Thưa Thế Tôn, bấy giờ gã cùng tử … cầu sự ăn mặc).

Đoạn này dụ cho hàng Nhị thừa trong hội Hoa Nghiêm sợ Đại thừa.

Lúc thuyết Kinh Hoa nghiêm hàng nhị thừa cũng có tham dự, nhưng chưa nhập vào cửa pháp giới. Cho nên dụ cho kẻ cùng tử tình cờ đến nhà cha mình mà đứng ngoài cửa, nhìn từ xa cha mình đang ngồi tòa sư tử… là dụ thuyết Kinh Hoa Nghiêm. Các vị Bồ tát địa thượng, chủ bạn vây quanh, chư thiên, các thần, vua chúa, thứ dân, tôi tớ, chính là dụ sợ pháp Đại thừa. Vì có mắt mà không thấy thân của Đức Xá Na, có tai mà không nghe được pháp của Hoa Tạng. Ví như oai đức quá cao làm cho tâm lo sợ, nghĩ đó là vua không phải đồng hàng với ta. Cái thấy của nhị thừa nhỏ hẹp và yếu nên mới nghĩ không phải là nơi đủ sức tìm kiếm. Vì Thế giới Hoa nghiêm rộng lớn, tự tại tương ưng với pháp tánh, không phải là đối tượng của hàng nhị thừa. “Xóm nghèo” dụ cho nhân thiên tiểu thừa, dễ tu dễ đắc, nên nói rằng “Có chỗ để nỗ lực kiếm được áo cơm”. Hoặc thấy bức bách dụ cho không có tâm mong cầu. Nếu gượng ép mà giáo hóa bằng pháp Đại thừa e sẽ mất sự lợi ích cho mình, nên gọi là “Liền chạy nhanh đi thẳng”. “Cha thấy con liền biết” dụ cho thấy tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Nếu người có thành tâm, chắc chắn sẽ làm Phật. Cho nên dụ vì nghĩ việc có nơi giao phó, mà nghĩ về đứa con này không phải do thấy mới nhớ. Điều đó dụ cho Phật thường quán chiếu chúng sinh không thấy có tướng chúng sinh. Do chúng sinh tùy cảnh tự nhiên mà hiện ra trong tâm đại bi bình đẳng nên giống như tình cờ mà đến thích hợp với sở nguyện. “Già nua tham tiếc” là dụ cho công đức pháp thân và báo thân hộ niệm cho. “Liền sai người hầu” dụ cho Hoa Nghiêm đốn giáo Đức Phật hộ trợ cho các Bồ tát bằng pháp môn thập tín. Biết tất cả các pháp là tự tánh của tâm, nên thành tựu được trí tuệ, không nhờ bên ngoài. Đều gọi là “Đuổi gấp theo bắt lại”. Thường thì điều mình không làm mà bị ép gọi là oan, nay việc thành Phật không phải là điều cầu mong của hàng nhị thừa, nên dụ chẳng xúc phạm mà bị tìm bắt. Trong Kinh Hoa Nghiêm có bốn mươi vị mỗi vị đều nói về việc Bồ tát luôn mong cầu Phật quả để lợi ích chúng sinh, nên nói “Mau chóng cưỡng bách đem về”. Bồ tát qua lại trong 3 cõi dùng thần thông dạo chơi tự tại, còn hàng nhị thừa xem ba cõi như lao ngục, chán sinh tử như gông cùm. Cho nên dụ người cùng tử nghĩ mình vô tội mà bị bắt ở tù, đây chắc là phải chết. “Chết giấc té xuống” chính là dụ cho có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe. Nhị thừa bỏ quả Phật rất xa nên thí dụ “Cha thấy con từ xa”. Tuy nhiên nhất thừa đốn pháp, phạm trù không rộng nên suy nghĩ phải khai mở phương tiện. Nên nói: “Thả ra đừng cưỡng ép”.

Từ câu: “Vì sao như vậy?” trở xuống, giải thích lý do phải thả ra, sắp nói lên ý muốn thiết lập quyền giáo. Đức Phật biết rằng nhất thừa đốn giáo hàng căn tánh kém không thể nhận lãnh nổi. Do vậy dụ như người Trưởng giả tự biết mình giàu sang, muốn cho đứa con biết rất khó. Nói: “Biết chắc” là dụ cho nếu chúng sinh không có Phật tánh thì thôi, còn nếu có thì lo gì không giáo hóa được chúng, nên dùng phương tiện mà cứu độ. Đây chính là dụ cho sắp mở cửa phương tiện. “Không nói người khác biết là con của mình” dụ cho chờ đến thời cơ chín muồi nó sẽ nghe được và có lòng tự tin. “Thả cho tự ý mà đi” là dụ cho không cưỡng ép giáo hóa. “Qua đến xóm nghèo” dụ cho thích làm việc thấp kém. Đã biết con mà phải thả ra là ý quyết định sử dụng phương tiện, đây là pháp tạm của nhị thừa, đặc biệc thiết lập riêng cho những chúng sinh căn tánh yếu hèn không có lòng tin vậy.

5. Từ câu: “Nhĩ thời Trưởng giả” đến câu: “Diệc vị năng xả” (Bấy giờ ông Trưởng giả… cũng chưa bỏ được).

Đoạn này dụ cho thiết lập quyền pháp.

Câu: “Toan muốn dụ dẫn”, nói toan muốn… là lời nói chưa dứt khoát, dụ cho Phật chưa hiện ứng hóa thân, trước hết bên trong chứa Bồ tát mà bên ngoài hiện tướng Thanh văn để thực hiện pháp Đồng sự nhiếp, dẫn dụ người nhị thừa mà làm người dẫn đường. Nói “Dọn phân” là dụ cho đoạn trừ phiền não. Trong Kinh Hoa nghiêm thuyết mười hai nhân duyên tức là trí tuệ phổ quang, trí này hàng nhị thừa không lãnh hội nổi! Nên nói rằng tiểu thừa chỉ đoạn kiến hoặc và tư hoặc, mau chứng tiểu quả một cách dễ dàng. Vì vậy nói “Trước hết lấy giá tiền thuê”. Thích kết quả mà tu nhân, dụ là “Tìm con cho việc hốt phân”. Câu: “Cha thấy con thương xót và thấy quái lạ” dụ cho Phật hưng khởi tâm đại bi. Câu: “Ở trong cửa sổ xa trông thấy” là dụ cho Phật chưa hiện thân, dùng Phật nhãn mà quan sát chúng sinh trong lục đạo nghèo nàn không phúc tuệ. Do đó ngài ngồi tư duy hai mươi mốt ngày dùng phương tiện hóa độ chúng sinh. Câu: “Ông liền cởi chuỗi ngọc” là dụ cho Phật ẩn thân tôn quý đặc biệt ngàn trượng, mà hiện tướng tỳ kheo già cao một trượng sáu. Câu: “Tay mặt cầm đồ hốt phân” dụ cho tùy thuận theo căn cơ thấp kém làm việc đoạn trừ ba mươi bốn tâm kiết sử mà thành Phật. Nhờ vậy gần gũi được hàng nhị thừa nên dụ là dùng phương tiện để được gần gũi con mình. Câu: “Gã nam tử này” là ngài la rầy và làm cho con an tâm để không ham việc khác. Dụ cho hàng Tiểu thừa ban đầu theo ngoại đạo nay gần gũi với Phật, sợ họ có tâm thối lui, nên la rầy làm cho an tâm. Câu: “Sẽ trả thêm giá tiền cho ngươi” dụ cho tiểu thừa ban đầu tu học bảy phương tiện được chứng Tu đà Hoàn giống như giá tiền lương một ngày. Từ đó mà tu tiến lên quả thứ 2, thứ 3, thứ 4, dần dần vào quả vị Đại thừa, nên thí dụ tăng giá trị tiền lương vậy.

Câu: “Những đồ cần dùng…” là dụ cho pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Câu: “Kẻ tớ già hèn hạ” dụ cho thần thông của tiểu thừa, là điều Phật bỏ đi thật, nên gọi là tớ già hèn hạ. Câu: “Ta như cha ngươi đó” dụ cho Đức Thích Ca thị hiện tam tạng và Phật quả, do không phải là Phật thật nên gọi là “Như cha”.

Câu: “Vì sao như vậy” trở xuống, dụ coi như cha mà ý dần dần gần gũi. Câu: “Giận hờn thán oán” là dụ ngoại đạo phỉ báng Phật. Lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là con, dụ cho nhị thừa cùng các Bồ tát đều vào pháp tính, đều được gọi là con. Chỉ vì còn nhỏ sức yếu nên gọi là “Nhi”.

Câu: “Lúc bấy giờ cùng tử” trở xuống, dụ cho trải qua thời kỳ A Hàm và Phương đẳng, đoạn trừ phiền não Kiến hoặc và Tư hoặc. Nên trong 20 năm thường sai hốt phân. Câu: “Sau đó lòng gã” trở xuống, dụ cho đã qua giai đoạn Phương đẳng mà vào Bát nhã. Nhờ công đức quở trách, đào thải của Phật. Nhị thừa từ đây dần dần đồng với Đại thừa nên gọi là đồng tâm đồng tính. Trong pháp hội Bát nhã, Đức Phật bảo Tu Bồ Đề dạy cho Bồ tát, vì ngài tuy tiểu thừa mà thường dạy pháp Đại thừa nên gọi là “Ra vào không ngại”, chưa bỏ quả tiểu thừa nên nói là “Vẫn còn ở chỗ cũ”.

Câu: “Trưởng giả có bệnh” dụ cho lo lắng Tuệ mạng chưa có người kế thừa mà thời điểm nhập Niết bàn sắp đến. Lý Bát nhã chưa phổ biến khắp pháp giới. Lượng là nhiều hay ít lấy cho nhị thừa chuyển giáo nên truyền dạy nên nói: “Ngươi phải biết hết đó”. Sắp dạy phân định cha con nên trước hết dặn rằng: “ngươi nên thể theo ý ta”. Bát nhã là trí tuệ bình đẳng của Phật nên dụ là: “Cha con không khác”. Sắp sửa phó chúc nên gọi là: “Nên gắng dụng tâm, chớ để sót mất”.

Trên đây đều dụ cho lời dạy của Phật do hàng nhị thừa chuyển qua giáo hóa Bồ tát. Câu: “Liền nhận lời dạy” trở xuống, là phụng mạng Phật chuyển qua giáo hóa Bồ tát. Vạn hạnh của Bát nhã hàng nhị thừa đều biết, nên dụ là: “Lãnh biết các của vật…”. Chỉ vì chưa phải phạm trù trí tuệ của mình nên dụ nói rằng: “Không mong lấy một bữa ăn”. Vì hàng nhị thừa chưa chịu bỏ ngay quả nhỏ, cho nên dụ “Tâm hèn kém của cùng tử chưa thể bỏ được”.

Phần trên là dụ chung lỗi lầm xưa, khoảng bốn mươi năm về trước. Phần dưới là dụ nay đã được pháp lớn, chính là để hiển bày hội Pháp Hoa này.

6. Từ câu: “Phục kinh thiếu thời” đến câu: “tự nhiên nhi chí” (Lại trải qua ít lâu sau… tự nhiên mà đến).

Đoạn này dụ rằng đến đây đã được thành tựu.

Câu: “Lại trải qua thời gian ngắn” là dụ sau khi thuyết Bát nhã hàng nhị thừa đã có tâm ưa thích Đại thừa. Câu: “Lúc lâm chung…” dụ thời gian nhập Niết bàn sắp đến liền thuyết Kinh này thọ ký cho hàng nhị thừa thành Phật. Sắp muốn phó chúc, là nhân lúc Phật Đa Bảo tập hợp phân thân của Phật trong mười phương để chứng minh cho pháp này, nên gọi là: “Hội họp cả thân tộc”. “Lời tuyên bố” dụ cho trong Kinh này nói về nhân duyên giáo hóa xa xưa: “Tất cả tài vật đều là con ta có” dụ cho việc thọ ký về chánh báo và y báo, kiếp số, quốc độ trang nghiêm.v.v… “Người cùng tử nghe cha nói những lời này rất hoan hỷ”, là dụ chính để nói cái được hôm nay.

7. Từ câu: “Thế Tôn! Đại phú Trưởng giả” đến câu: “Giai dĩ đắc chi” (Thế Tôn! Ông phú Trưởng giả… đều đã đặng đó).

Đoạn này đem pháp hợp với thí dụ.

Phật xem chúng sinh như con một, mà tâm ý người nhị thừa cho rằng Bồ tát là con thực sự, tự coi mình là tương tợ như con mà thôi. Đức Phật vì chúng sinh khổ, nên thuyết pháp ly khổ tiểu thừa. Các Thanh văn vì bị cái khổ phiền não thiêu đốt mê muội, tâm họ tha thiết mong thoát khổ. Cho nên thích thú pháp nhỏ, đây là tâm lý thích tiểu thừa. Ba khổ là Khổ khổ, Hoại khổ và Hành khổ. Câu: “Ngày nay Đức Thế Tôn” trở xuống, là dụ hợp với tình trạng mượn pháp tạm. Câu: “Thế Tôn dùng sức phương tiện” là trình bày Đức Phật bảo hàng nhị thừa thuyết Bát nhã để chuyển hóa Bồ tát. Do vì được tiểu quả cho là đủ, nên đối với Bát nhã Đại thừa không có lòng mong cầu. Câu: “Chúng con lại nhân nơi trí tuệ của Phật” trở xuống, trình bày Đức Thế Tôn biết chúng con thích pháp tiểu thừa nên không thọ ký ngay. Cho nên chúng con không biết, chúng con thật sự là con Phật.

Nói chung phần trên phù hợp với sự mất mát ngày xưa. Câu: “Ngày nay chúng con” trở xuống, là nói ngày nay mới biết chẳng mất mát gì. Vì ngày nay thấy Đức Phật từ bi, mới biết ngày xưa vốn không lẫn tiếc giấu, mà chúng con cũng chưa từng mất mát gì, chỉ có điều không thích Đại thừa. Câu: “Ở trong Kinh này” trở xuống, trình bày, giác ngộ được tâm Phật. Thấy ngày nay vì chúng con mà thuyết Nhất thừa thì biết thuở xưa quở trách là muốn dùng pháp Đại thừa giáo hóa đó là lỗi chúng con. Câu: “Vì thế nên” trở xuống, là phù hợp với cái được ngày nay. Nay thấy Đức Thế Tôn thuyết pháp đại thừa, đặc biệt thọ ký cho ngài Xá Lợi Phất và nói một ngàn hai trăm đệ tử đều sẽ làm Phật. Đúng là đại bảo của pháp vương không cầu mà tự đến, do vậy mà có sự vui mừng.

8. Từ câu: “Nhĩ thời Ma Ha Ca Diếp” đến câu: “Đắc vị tằng hữu” (Bấy giờ ngài Ma Ha Ca Diếp… đặng điều chưa từng có).

Đoạn kệ bày trình bày chung sự tin hiểu. Câu: “Thí như” trở xuống 8 câu kệ tụng, dụ chuyện ngày xưa đã mất. Tám câu đầu này nói lại ý con trốn, cha tìm. Câu: “Kiếm tìm đó đã mõi” trở xuống 34 câu, dụ cho Đức Phật ngồi Bồ đề đạo tràng suy tư giáo hóa người có duyên. Câu: “Giờ chết toan sắp đến” dụ cho nếu không giáo hóa được chúng sinh thì tuệ mạng sắp tuyệt dứt. Câu: “Bấy giờ gã cùng tử” trở xuống 12 câu, dụ cho việc mê muội: “Tìm kiếm cơm ăn áo mặc” là dụ cho ở trong đường mê có tâm muốn ra khỏi cảnh khổ. “Hoặc có lúc có, có lúc không” dụ cho theo tiểu thừa và ngoại đạo mà tu tập. Nói: “Đói thiếu”.v.v.. dụ cho chưa tu hành con đường chánh, ngược lại làm thương tổn pháp thể. “Đến thành cha ở” dụ cho đã đi đến đạo tràng mà chưa dám vào. Câu: “Lúc ấy ông Trưởng giả” xuống 10 câu, là dụ cho lúc nói Kinh Hoa Nghiêm. Câu: “Cùng tử thấy cha” trở xuống 14 câu, dụ cho vừa thấy sự biểu hiện của pháp giới.

Câu: “ Lúc bấy giờ Trưởng giảø” xuống 12 câu, là dụ nói pháp Đại thừa Hoa Nghiêm. Thấy tất cả các chúng sinh đều có đủ phật tánh mà chưa nói được, nên gọi là: “Thầm lặng mà ghi nhớ”. Mê ngất ngã trên đất dụ cho sự sợ hãi khi nghe thuyết Đại thừa đốn pháp. “Trưởng giả biết con mình” xuống 12 câu, là dụ cho mở bày quyền pháp. “Lại sai hai người khác” tức trong tâm là Bồ tát mà ngoài từng hiện thanh văn, biểu thị cho pháp đồng sự nhiếp. “Gã cùng tử nghe rồi” xuống 4 câu, dụ cho sự ưa thích pháp nhỏ. “Trưởng giả trong cửa sổ” xuống 10 câu, là che dấu cái thù thắng mà thị hiện cái thấp hèn. Câu: “Trả thêm giá cho ngươi” xuống 8 câu, dụ cho nói pháp nhỏ quả nhỏ để tiến tu. Nói “Như con ta” là tương tợ như con chứ chẳng phải con: “Ông Trưởng giả có trí” trở xuống 12 câu, dụ cho thời kỳ thuyết Kinh Bát nhã “Vào ra hai mươi năm”, chính là nói về sự giáo hóa tư tưởng Bát nhã. Vì không phải trí tuệ của Thanh văn, nên nói “Ta không có vật đó”, nên không trông mong lấy được. Đoạn trên tụng chung thí dụ chuyện ngày xưa mất. Câu: “Cha biết lòng con mình” trở xuống 22 câu, là nói về vấn đề nhân duyên thuyết Kinh Pháp hoa Câu: “Nay ở nơi cha mình” trở xuống 6 câu, dụ cho nay đã được (gia bảo của cha). Trên là nói về dụ, dưới là phù hợp với pháp vậy.

9. Từ câu: “Phật diệt như thị” đến câu: “ứng thọ cúng dường” (Đức Phật cũng như thế… đáng lãnh của cúng dường).

Từ câu: “Đức Phật cũng như thế” trở xuống 8 câu, nói về việc ưa thích pháp tiểu thừa, nên Đức Phật vì họ mà thuyết tiểu pháp. Câu: “Đức Phật bảo chúng con” trở xuống 32 câu, nói chung về sự dừng lại ở nơi pháp tạm.

Từ câu: “Đức Phật bảo chúng con” đến câu: “Để nói đạo vô thượng” là hợp với lý Bát nhã giáo hóa hàng Bồ tát. Câu: “Các hàng Phật tử thảy” đến câu: “Sẽ được thành Phật đạo” là nói về các hàng Bồ tát nghe thuyết Bát nhã đều được thọ ký thành Phật. Câu: “Pháp mầu rất bí tàng” đến câu: “Nói pháp chơn yếu này” là nói tự mình trì trệ nơi pháp tiểu thừa, nghi ngờ Phật không muốn nói pháp Đại thừa cho họ. Câu: “Như gã cùng tử kia” trở xuống, là lặp lại dụ trì trệ nơi quyền pháp, nên gọi là “Tự mình không có chí nguyện” chứ không phải Phật tiếc mà không nói. Từ câu: “Chúng con diệt bề trong” trở xuống 22 câu, là nói rõ lại tâm ban đầu thích tiểu thừa. Do vì vướng mắc tiểu thừa nên được quả nhỏ mà cho là đủ, nên không thích pháp lớn. Do vậy đối với trí tuệ Bát nhã của Phật không có mong ước. Cho rằng pháp mình đã đắc là pháp cứu cánh. Từ câu: “Chúng con từ lâu nay” trở xuống 10 câu, là trình bày lại cái tâm thích tiểu thừa, tức là được quả nhỏ mà cho là báo đáp được ân đức của Phật. Vì vậy cho là đủ mà không cầu tiến. Câu: “Chúng con dầu lại vì” xuống 22 câu, lặp lại sự trì trệ nơi Quyền. Đức Phật phải bỏ để chờ thời gian chín muồi, chờ tâm họ được điều phục rồi mới thuyết pháp cho bậc trí lớn. Ân Phật rất khó báo đáp là ở nơi đây vậy.Từ câu: “ Chúng con ngày hôm nay” trở xuống 28 câu, trình bày ngày nay đã được. Nói là đắc đạo, đắc quả chính là nói rõ ngày nay ngộ được thật trí nhất thừa.Do từ lâu giữ gìn tịnh giới và tu hành phạm hạnh, mà nay mới được quả lớn của đạo vô thượng. Thế biết rằng cái thật ngày nay do quyền pháp ngày xưa mà đến. Ở trước có nói nếu không tin pháp này thì không phải là A La Hán. Nay mới biết A La Hán chân chính, xứng đáng nhận sự cúng dường của trời người.

10. Từ câu: “Thế Tôn đại ân” đến câu: “Tùy nghi thuyết tam” (Ơn lớn cuả Thế Tôn… tùy cơ nghi nói ba).

Đoạn này nói rõ sự biết ân lớn một cách sâu sắc, nghĩ rằng không thể báo đáp nổi.

Từ câu: “Ân lớn của Thế Tôn” trở xuống 26 câu, là nói về ơn lớn khó đền đáp, nghĩa là Đức Phật đã đem việc hiếm có, từ bi thiết lập phương tiện giáo hóa làm cho chúng con được lợi ích, thoát khỏi cái khổ của muôn kiếp, chứng quả vô thượng Bồ đề. Còn có ân nào lớn hơn nữa! Do vậy mà vô lượng ức kiếp không thể báo đáp được.

Câu: “Tay lẫn chân cung cấp” trở xuống, nói về sự khó báo đáp, vì ân ấy như hư không, không thể dùng thân tâm hữu tướng hay các vật ngoài thân mà báo đáp được. Do vậy mà nói: “Trải qua số kiếp hằng sa, cũng không đền đáp được”. Câu: “Các Phật thật ít có” trở xuống 10 câu, trình bày lặp lại lý do khó báo ân Phật, bởi vì Phật tự chứng thần thông vô thượng không thể nghĩ bàn, có thể làm cho chúng ta và chúng sinh thấp kém tiếp nhận được pháp lớn. Hơn nữa Phật vì chúng ta chấp nhận lấy thân tướng phàm phu, thiết lập phương tiện, tùy cơ duyên nói pháp. Đây là ân lớn từ bi của Phật, không thể lấy gì dụ được, làm sao báo được!

Câu: “Các Phật ở nơi pháp” trở xuống 16 câu, trình bày Phật tùy căn cơ mà thuyết pháp, để cảm kích cái ân lập phương tiện. lý do có thể tùy nghi mà nói pháp, vì Phật chứng đắc pháp đại tự tại. Đó là điều Phật dạy: “Ta là đấng Pháp Vương đối với mọi pháp đều tự tại”. Do đó Ngài biết các đối tượng ưa thích của chúng sinh mà tùy theo khả năng của họ làm cho chúng chấp nhận. Ngài đã dùng vô lượng ngôn từ, thí dụ mà thuyết pháp cho họ, tùy căn cơ mà nhận pháp, mọi thứ đều được tính toán, biết rõ, cũng vì vậy mà từ pháp nhất thừa tùy nghi thuyết thành ba thừa. Đây chính là sự lãnh hội ý nghĩa hai mươi mốt ngày tư duy của Phật. Do vậy cảm kích ân đức về lòng ẩn khúc thiết lập phương tiện. Khó báo đáp là như vậy, đã không thể báo đáp thì chỉ tâm cảm xúc sâu xa mà thôi..

Từ ở trên thấy rằng người tri ân Phật tổ rất ít. Còn có thể biết tri ân thì đó chính là người con cốt tuỷ vậy. Một thí dụ về cùng tử, mô tả tình trạng trước và sau của cùng tử lộ rõ bản tâm của Phật và chúng sinh, không có chỗ nào tường tận như vậy. Nếu không biết ân làm sao có được điều đó.

 

Phẩm Dược Thảo Dụ Thứ Năm

Đại ý phẩm này là nhân vì bốn đại đệ tử ở trên lãnh hội được ý nghĩa: hứa ba xe mà cho một xe. Thuyết dụ về vấn đề trình tự xưa mất nay được. Đức Thế Tôn đã ấn khả cho tâm các vị ấy. Nhưng vẫn chưa biết hết sức mạnh của Tri kiến Như Lai. Sợ họ rơi vào đường chấp tướng mà không hiểu được ý tứ của Phật bình đẳng thuyết pháp, tùy loại mà giải thích. Sợ họ cho rằng có thật quả tam thừa để chứng đắc, tập khí Niết bàn chưa quên, không thể thấu triệt cội nguồn của pháp. Cho nên Phật thuyết thí dụ Dược thảo, để hiển lộ ý nghĩa Đức Như Lai chỉ thuyết một vị pháp là pháp bình đẳng. Chỉ vì căn cơ lớn nhỏ, khả năng lãnh thọ không đồng như một trận mưa không vì riêng ai, mà ba loại cỏ, hai loại cây tùy loại mà tiếp nhận khác nhau. Thế mới biết Pháp vốn không sai biệt, sai biệt là do căn cơ. Đây muốn nói rõ chỉ có một thừa không có hai hoặc ba thừa, để cho người nghe được diệt trừ kiến chấp, được thể nhập trí tuệ bình đẳng của Như Lai. Đây chính là “Khai mở tri kiến Phật”. Sau đây vì các đệ tử ấy mà thọ ký, nên có phẩm này.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Nhất thiết trí tuệ” (Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn… tất cả trí tuệ).

Đoạn này Như Lai nói dù bốn đại đệ tử đã lãnh hội nhưng chưa rốt ráo.

Các ngài Ca Diếp.v.v.. tuy lãnh hội được thí dụ, nói lên sự hiểu biết của mình, như đưa ra ví dụ gã cùng tử sợ cha, rồi lòng ông Trưởng giả tùy theo căn cơ con mà lập phương tiện dẫn dụ, các thí dụ đó nói lên ý tứ của Như Lai đối với hàng Nhị thừa hết sức từ bi. Điều đó có thể nói là khéo nói về công đức chân thật của Như Lai. Nhưng cái ngộ của các đệ tử, giống như cho rằng Như Lai có tâm chú ý, riêng vì hàng Nhị thừa mà thiết lập Tam thừa. Họ không biết rằng Như Lai thuyết pháp, dựa trên tâm đại bi bình đẳng, không luận hữu tánh hay vô tánh; một lời phát âm làm cho tất cả đều nghe, cùng thành Phật đạo, chứ không chia ba hay một. Đây là sức mạnh vô tác diệu lực của Như Lai, nghĩa là có vô lượng vô biên công đức dù có nói vô lượng ức kiếp cũng không hết được.Từ ngày ra đời cho đến nay, điều mà ta thấy và nghe ở Đức Phật giống như giọt nước trong biển, cho nên công đức của Phật không phải là đối tượng tri thức. Bởi Đức Như Lai là vua của các pháp, nên Ngài tự tại vô ngại; điều gì mà Đức Thế Tôn nói đều là pháp giới tánh, chân thật không dối trá.Do vậy đối với tất cả các pháp có thể dùng phương tiện quyền trí tùy cơ mà nói, nghĩa là điều Phật nói đều hướng về mục tiêu trí tuệ chân thật cứu cánh, không nói mông lung. Do Đức Như Lai biết rõ bản chất cuả vạn pháp nên thấy rõ quy luật vận động của vạn pháp. Đức Phật lấy trí tuệ phương tiện mà quán chiếu căn cơ nên biết tâm lý bản năng, dục vọng, xu hướng của mọi chúng sinh, không chỗ nào không biết. Ngài lại còn khéo phân biệt mọi hiện tượng của vạn pháp: cái gì là bản chất, cái gì là hiện tượng, cái gì là tương đối, cái gì là tuyệt đối. Do vậy những điều Ngài dạy có thể khai thị trí tuệ vốn có trong mỗi chúng sinh.

Đây là nói một cách sơ lược về công đức vô lượng của Phật. Các ông làm sao biết hết được!

2. Từ câu: “Ca Diếp thí như tam thiên” đến câu: “Các đắc sinh trưởng” (Ca Diếp! Thí như trong cõi tam thiên… đều được sinh trưởng).

Đoạn này thí dụ pháp chỉ có một nhưng căn cơ thì có nhiều.

“Trong cõi tam thiên đại thiên”, là dụ chung cho nhất chân pháp giới, là tâm vốn có của mọi chúng sinh. Núi sông, khe suối, là chỗ sinh ra của thảo mộc. Thí dụ cho chúng sinh có mặt trong ba cõi, chủng loại, tánh tướng khác nhau. Như sự sai biệt của ba thừa, năm tánh. Cây thì có loại tốt, loại tạp, cỏ thì có loại có dược tính, có loại độc tính. Nay lấy loại chúng sinh có thể chấp nhận sự giáo hóa, như loại cỏ có dược tính; như loại cây gỗ tốt, còn loại người không chấp nhận sự giáo hóa đều là loại cây cỏ mục nát và độc hại. Cho nên gọi là dược thảo. Căn tính của chúng sinh các loại không đồng nhau, nên có ba thừa và năm tánh. Nên gọi là: “Bao nhiêu giống loại, tên gọi, màu sắc đều khác”. Trên đây là dụ cho cơ hội có đủ.

Đức Phật dùng pháp giới thân, có mặt khắp mười phương, như mây dày trải khắp nơi. Một lời nói ra mười cõi đều nghe như một trận mưa khắp nơi đều thấm nhuần. Chúng sinh nghe được, tùy người mà hiểu dụ như ba thứ cỏ 2 loại cây đều có cách tiếp nhận. Phù hợp với chủng tánh thì đều được thành tựu, nghĩa là Phật nói một lời pháp, chúng sinh tùy loại mà hiểu. Ban đầu từ trời người và tiểu thừa rồi đến các vị Bồ tát, đều được tự lợi lợi tha, không ai không thành tựu, trừ diệt bệnh sinh tử, đạt được an ổn Niết bàn.Vì vậy Kinh lấy dược thảo làm thí dụ, còn hạng tà kiến ngoại đạo và chúng sinh phạm mười điều ác, không có lòng tin, đều là những loại cỏ hoang độc dữ đều không được thấm nhuần. Chỉ vì họ không tin và không chấp nhận. Đó không phải là đối tượng giáo hóa.

Nói: “Dầu rằng một cõi đất mà sinh” là dụ cho mọi người đều cùng ở pháp tính nhất chân, tùy chủng tử nên không đồng nhau. Đó nghĩa là nói pháp vốn không khác chỉ khác ở nơi căn cơ. Do đây mới biết, pháp của ba thừa không phải Phật có tâm phân biệt. Đức Phật chỉ thuyết về pháp giới hải hội, bình đẳng đều khắp, nhưng do căn cơ nghe và thấy khác nhau, tự phân chia Đại, Tiểu sai biệt. Đó là quyền pháp ngày xưa đều nói về trí tuệ của Phật. Do trí tuệ yếu kém nên không nhận được, không phải Phật quyết định ba thừa để nắm giữ.Các ngài Ca Diếp..v..v.. dù đã liễu ngộ pháp tạm trước kia, nhưng không biết vốn không có ba hay một gì hết.

Đây là trí tuệ bình đẳng vô lượng công đức của Như Lai, nói không cùng được. Không phải là đối tượng nhận thức của nhị thừa.

Từ câu: “Đức Như Lai cũng lại như thế” trở xuống là pháp phù hợp có thể biết được. Câu: “Ở trong đại chúng mà nói lên lời này” đến câu: “Vì để nghe pháp vậy” là nói Đức Phật lúc mới thành đạo, Ngài thuận theo sứ mệnh mở lời cảm hứng kêu gọi ba cõi. Ở vào thời kỳ kiếp không thì không có Phật, chúng sinh ba cõi chưa thấy được Phật, nay đấng Pháp Vương từ trong chân giới mà xuất hiện, họ không biết Phật là gì? Lý do gì mà đến đây? Ngài có pháp gì? E họ hoảng sợ nên mới nói cho họ biết ta là Đấng Như Lai… để mọi người biết đây là vị Phật. Nói: “Những người chưa được độ làm cho được độ” là muốn họ biết Đức Phật ra đời vì hóa độ chúng sinh làm cho chúng sinh hết khổ, hưởng được an lạc. “ Biết đúng như thật…” là nói đem pháp đã chứng có thể mở bày, có thể nói năng, để chúng sinh ba cõi đều đến đây mà nghe pháp. Đây là bản hoài xuất thế vì một đại sự nhân duyên của Phật, như một vầng mây mưa lớn vậy.

Câu: “Bấy giờ có vô số” trở xuống, nói chúng sinh trong ba cõi do nghe lời triệu tập mà đến. Câu: “Lúc đó Đức Như Lai”..v..v..là quán xét căn cơ mà thuyết pháp, như ba thứ cỏ hai loại cây tùy thân phận mà thọ nhân. Loài trời người và tam thừa đều được thuần thục, nên nói: “Đều khiến vui mừng đặng nhiều lợi lành”. Đây là pháp tùy theo căn cơ, tuồng như trước đó có tâm phân biệt.Thực ra Phật dùng trí tuệ bình đẳng, thấy chúng sinh mọi loài không đồng, nên dùng lời diễn đạt mà đầy đủ giáo pháp lớn hay nhỏ. Như pháp Tứ đế mà ba thừa giải thích khác nhau, chánh pháp chỉ có một mà căn cơ khác chứ không có tâm phân biệt.Vì vậy Ngài Thiên Thai chia giáo pháp có bí mật giáo và bất định giáo là ý nghĩa như vậy.

Trước nói rằng Như Lai không thuyết Đại thừa, cũng không phải ngày nay thuyết riêng pháp Đại thừa. Chỉ nói rõ rằng pháp nói ngày xưa đều là Đại thừa cả, vì ngài Ca Diếp hiểu là pháp hôm nay mới là Đại thừa mà cho rằng pháp ngày trước là Tiểu thừa. Đức Như Lai lại nói thí dụ này để rửa sạch tập khí hẹp hòi ngày trước, giác ngộ được trí tuệ bình đẳng của Phật mới có thể được thọ ký vậy.

Từ câu: “Các chúng sinh này…” trình bày nghe pháp được lợi ích, đều được thành tựu, dần dần được nhập đạo. Như một đám mây, làm mưa khắp nơi, ba thứ cỏ hai thứ cây đều thấm nhuần đầy đủ, được tăng trưởng cả. Nên nói: “Lần lần đều được vào đạo”. Không phải Phật có tiệm pháp nên biết pháp vốn là đốn pháp. Chỉ vì người nghe dần dần được thuần thục, như trận mưa thì đều khắp, cây cỏ đều thấm nhuần đầy đủ, chỉ có điều tùy rễ dài hay ngắn.Trong Kinh Hoa nghiêm các bậc Bồ tát địa thượng tu tập từ năm giới, mười thiện, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, trải qua tuần tự từ thấp đến cao. Như vậy chẳng phải các pháp thiện nhỏ của nhân thiên đều là pháp lớn của pháp giới hay sao! Huống hồ nếu phân biệt các pháp thì đó là trình độ của nhị thừa, còn nếu phân biệt cái vô phân biệt thì đó không phải là khả năng của nhị thừa.

3. Từ câu: “Như Lai thuyết pháp” đến câu: “Nan giải nan tri”(Đức Như Lai nói pháp… khó hiểu khó biết).

Đoạn này trình bày các pháp của Phật bình đẳng chỉ có một hương vị.

Pháp được Phật thuyết vốn chỉ có một thật tướng, không còn tướng nào khác, thuần túy một hương vị của Đề hồ “Giải thoát”. Tuy nói tất cả pháp mà không nắm bắt một pháp nào. “Tướng xa lìa”, tuy nói về tất cả các tướng mà không chấp thủ bất cứ tướng nào. “Diệt tướng”, tuy nói các pháp sinh diệt mà hiển thị tịch diệt vô sinh. Đó gọi là nói pháp một tướng, một vị. Cho nên mà nói pháp Phật thuyết đều là cứu cánh, đều để đạt đến nhất thiết chủng trí. Làm sao mà có ba thừa được!

Chúng sinh nghe pháp tùy theo căn tánh mà tiếp nhận vàø tu tập, đều có thành tựu riêng mà tự mình không biết. Pháp này chỉ một còn căn cơ thì khác. Câu: “Vì sao?” giải thích lý do chúng sinh không tự biết Phật thuyết pháp tuy là một loại âm thanh giống nhau, nhưng thì căn cơ, khí chất chúng sinh về: chủng tướng, thể tánh, ưa muốn, nhớ nghĩ, và sự thành tựu khác nhau. Nên trước hết phải quan sát biết rõ, sau đó mới nói pháp. Đó là Phật như thật biết rõ tính dục của chúng sinh. Còn chúng sinh thì không tự biết gốc rễ của mình là lớn hay nhỏ. Do vậy nghe pháp như con muỗi uống nước biển, đều tùy dung lượng mà đầy đủ, nên cho rằng Phật pháp chỉ chừng này thôi. Sao mà biết được pháp bìng đẳng chỉ có một vị!.

Câu: “Như Lai biết pháp” trở xuống, là giải thích lý do không ngay nói Đại thừa. Tuy nhiên ngài dùng đại pháp bình đẳng thuyết cho tất cả chúng sinh, chúng sinh tiếp nhận nhiều, ít, lớn, nhỏ, không giống nhau. Đức Phật không nói sớm pháp bình đẳng để phá chỗ bất đồng, mà Ngài im lặng thời gian dài. Thật ra Phật thuyết dù chỉ một chữ, một câu đều là cứu cánh, là chân không pháp giới. Chỉ vì tâm chúng sinh xu hướng bất đồng, nên dẫn dắt họ chờ đợi thời cơ. Do vậy mà không nói ngay về Nhất Thiết Chủng Trí, sợ họ kinh nghi nên ngài ẩn nhẫn chờ đợi, chứ không phải là không nói. Đến nay căn khí đã thuần thục, giờ nhập Niết bàn sắp đến, không thể không nói. Ngài Ca Diếp biết Đức Như Lai sẽ tùy cơ nghi mà thuyết pháp đặc biệt hiếm có, là pháp bình đẳng. Đây gọi là khó giải, khó biết.

4. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Kim đắc chánh kiến” (Khi đó Đức Thế Tôn… cho chúng đặng chánh kiến).

Đoạn kệ tụng này lại nói nghĩa trước đã nói.

Từ câu: “Pháp vương phá các cõi” xuống 4 câu, là nói chung ý nghĩa Ca Diếp tán thán Đức Phật. Chúng sinh trong chín cõi đều rơi vào nơi hữu (cái có). Phàm phu thì có sinh tử, Nhị thừa thì có Niết bàn, Bồ tát thì có chúng sinh để độ, có Phật quả để mong cầu. Cái có ấy chỉ có Phật phá được nên gọi là phá hữu. Đối với các pháp đều tự tại nên gọi là Pháp vương.

Từ câu: “Đức Như Lai tôn trọng” trở xuống 12 câu, đoạn kệ này nói ý của Phật chờ thời gian để thuyết Đại thừa, nên Như Lai im lặng không nói pháp lớn dài như vậy. Sợ kẻ trí tuệ kém sinh nghi ngờ, nên tùy sức mà nói, dần dần giúp họ có được chánh kiến. Đây là điều mà ngài Ca Diếp chưa biết.

5. Từ câu: “Ca Diếp đương tri” đến câu: “Nhi các tư mậu” (Ca Diếp ông nên biết… mà đều được sum sê).

Đoạn này dụ cho lòng thương bình đẳng của Phật.

Thân Phật như mây, thuyết pháp như mưa. Có thể biết được sự bình đẳng ấy. Nói như mây dày, mây lớn, đến nổi có thể nắm bắt được mây ấy. Ý muốn nói Pháp thân phổ biến đến mọi loài. Chưa mưa mà sấm chớp có trước, là dụ cho khi thuyết pháp thì trước hết hiện tướng hào quang, điềm lành và động đất. Ban đầu nói ba thứ cỏ, hai loại cây cho đến trăm giống lúa mạ… là dụ cho Tam thừa và ngũ tánh không ai không thấm nhuần, đất khô còn được thấm ướt cho đến hạng bất tín (xiển đề) cũng được lợi ích. Câu: “Mây kia mưa xuống”… là dụ cho Phật chỉ có một thân, một trí tuệ bình đẳng không hai nhưng đối tượng thọ nhận không giống nhau, tùy theo khả năng mà chúng được đầy đủ và thành tựu.

6. Từ câu: “Phật diệc như thị” đến câu: “Nhi vô giải quyện” (Đức Phật cũng như thế… mà không chút nhàm mỏi).

Từ câu: “Đức Phật cũng như thế” trở xuống, nói pháp của Phật cũng như thế.

Bốn câu đầu phù hợp với thí dụ trước, kế xuống 4 câu nói về bổn hoài xuất thế của Phật. Câu: “ Đấng Đại thánh” trở xuống 14 câu, là lời kêu gọi. Câu: “Các chúng trời người” trở xuống 10 câu, là triệu tập trời người để nói pháp bình đẳng. Câu: “Pháp đó thuần một vị” trở xuống 6 câu, nói về pháp bình đẳng nhất tướng nhất vị. Nếu có trình bày pháp nào đều là nhân duyên cho Đại thừa. Đó gọi là cứu cánh, đều được Nhất thiết chủng trí. Câu: “Ta xem tất cả chúng” trở xuống 24 câu, là đoạn chính thức thuyết pháp bình đẳng, bất luận sang hèn, trì giới, phạm giới, chánh, tà, lanh lợi hay ngu độn… Tất cả đều có được sự hỗ trợ của trí tuệ bình đẳng. Như vậy đủ biết Tam thừa ngũ tánh không chờ đến hôm nay mới thọ ký.

7. Từ câu: “Nhất thiết chúng sinh” đến câu: “Giai đắc đạo quả” (Tất cả chúng sinh… rồi đều đặng đạo quả).

Đoạn này từ câu: “Tất cả hàng chúng sinh” trở xuống, nói về chúng sinh tùy theo căn cơ mà nhận được sự ích lợi không giống nhau, rồi đều được thành tựu cả.

Bốn câu đầu là nói chung các địa vị, nghĩa là từ ba cõi, chín địa, cho đến mười địa của Bồ tát, sau đó là giải thích về các địa vị ấy.

Từ câu: “ Hoặc là ở trời người” trở xuống 4 câu, nói rõ về loài người và chư thiên. Từ câu: “Hoặc rõ pháp vô lậu” trở xuống 8 câu, nói rõ về Thanh văn và Duyên giác. Từ câu: “Hoặc cầu bậc Thế Tôn” trở xuống 4 câu, nói rõ về Bồ tát thuộc tạng giáo, nương nơi giáo lý phương tiện mà tu nên gọi là: “Cỏ thuốc nhỏ”. Kệ tụng nói: “Ta sẽ đặng thành Phật” nhưng chỗ mong cầu của tạng giáo trong Tam tạng thì quả Phật là trên hết. Từ câu: “Lại có hàng Phật tử” trở xuống 6 câu, nói về Bồ tát thuộc Thông giáo. Từ câu: “Hoặc an trụ thần thông” trở xuống 6 câu, nói về Bồ tát thuộc Viên giáo. Từ câu: “Phật chỉ bình đẳng nói” trở xuống 6 câu, nói pháp chỉ có một nhưng căn cơ thì có khác. Từ câu: “Phật dùng món dụ này” trở xuống 6 câu, nói tóm lại ý công đức của Phật nói không cùng tận. Do ngài Ca Diếp không thể biết hết công đức của Như Lai cho nên mới nói thí dụ này để làm rõ hơn. Như một đám mây, một trận mưa bình đẳng thấm nhuần khắp nơi, ba thứ cỏ, hai thứ cây, đều đầy đủ và thành tựu. Tuy thí dụ nói công đức của Phật rộng lớn không thể suy lường được. Thật ra đối với biển trí tuệ của Phật, chỉ là một giọt nước. Làm sao dụ hết được công đức của Phật! Nên ngài Ca Diếp không thể biết hết được.

Từ câu: “Ta rưới trận mưa pháp” trở xuống 8 câu, nói tổng quát về sự lợi ích của thành thục. Từ câu: “Pháp của các Đức Phật” trở xuống 6 câu, nói tổng quát về cơ hội của sự thành thục. Phần còn lại nói riêng tùy theo căn cơ mà đắc đạo quả.

8. Từ câu: “Thanh văn Duyên giác” đến câu: “Các đắc thành Phật” (Hàng Thanh văn Duyên giác… đều đặng kết trái cả).

Đoạn này từ câu: “Thanh văn” trở xuống, là nói tất cả đều được tăng trưởng.

Sáu câu đầu bài tụng, nói về hàng Thanh văn và Duyên giác đều được tăng trưởng. Từ câu: “Nếu các vị Bồ tát” trở xuống 6 câu, là nói về sự tăng trưởng của Bồ tát thuộc Quyền giáo. Từ câu: “Lại có vị trụ thiền” trở xuống 8 câu, nói về sự tăng trưởng của Bồ tát thuộc Thật giáo. Đó gọi là đều được thấm nhuần nên lớn mạnh. Từ câu: “như thế Ca Diếp này” trở xuống 6 câu, nói tổng kết sự thành tựu.

9. Từ câu: “Ca Diếp đương tri” đến câu: “Tất đương thành Phật” (Ca Diếp ông phải biết… thảy đều sẽ thành Phật).

Đoạn này từ: “Ca Diếp” trở xuống, nói mở Quyền pháp làm hiển lộ Thật pháp, phương pháp của chư Phật đều giống nhau.

Sáu câu đầu, nói về ở nơi Quyền pháp mà hiển lộ Thật pháp, chư Phật đều như vậy. Từ câu: “ Nay ta vì các ông” trở xuống 8 câu, là tổng kết ngày nay mới là Thật pháp, bỏ hết quyền trước đây. Đây là lời văn khai mở cho việc thọ ký. Nói: “Lần lần tu học xong, thảy đều thành Phật”. Đó là muốn nói rằng ngày trước chưa phải là thật sự tu tập. Từ nay giờ khai mở tri kiến Phật mới là nhân chính của sự thành Phật. Điều đó nghĩa là điều gọi là tâm bất sinh diệt làm căn bản cho sự tu hành. Như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Lý tu đốn ngộ sự nâi tiệm trừ” (Lý tuy đốn ngộ nhưng thực tiễn tu tập từ từ).

 

Phẩm Thọ Ký Thứ Sáu

Đại ý của phẩm này, do bốn vị đại đệ tử lãnh hội ý chỉ Phật thuyết pháp bình đẳng chỉ có một vị. Các ngài đã hiểu sự thực vốn không có ba thừa. Tri kiến Phật vốn có đã mở thì nhân tố thành Phật đã đủ. Đức Phật vì bốn vị đệ tử mà thọ ký cho. Do vậy lấy tên Thọ ký mà đặt cho phẩm này. Đó là lý do có phẩm này.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Kỳ sự như thị” (Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn… việc của ngài như thế).

Đoạn này nói về thọ ký cho ngài Ca Diếp.

Việc thọ ký cho các đệ tử, có nhân có quả, mà đạt được kết quả thì có cái giống nhau, có cái không giống nhau đều tùy theo nhân đã gieo mà cảm ứng. Tất cả đều nhờ hôm nay khai mở tri kiến Phật, làm khởi phát tâm ban đầu. Từ đây trở đi động cơ tu hành này là nhân tố thành Phật. Do tác nhân viên mãn mới đắc quả đầy đủ. Trong cái nhân tố ấy có nhân tố thờ Phật, cúng dường Phật. Cúng dường Phật là tu phước, tuyên dương giáo pháp là tu huệ, cả hai đức tính đều đủ gọi là nhân tố đầy đủ sau mới đắc quả. Cho nên mà thân sau cùng được thành Phật quả. Thân sau cùng trong luận nói rằng: “Bồ tát ở địa vị sau cùng (Pháp vân địa) tâm giác mới khởi lên, tâm không còn tướng, xa lìa niệm vi tế, thấy được bản thể của tâm. Đây là lúc vô minh hết, hai loại sinh tử đều mất, gọi là “Thân sau cùng”.

Sự thờ Phật nhiều ít không giống nhau còn vô minh thì dày mỏng không đồng. Việc có tạo dựng tháp hay không tạo dựng tháp đều do tích luỹ phước đức có sâu có cạn không giống nhau. Danh hiệu sai biệt, đều do ở nơi nhân tố căn bản, còn quốc độ được thanh tịnh trang nghiêm thì như nhau, vì do một tâm thanh tịnh thật báo thân cảm ứng mà ra. Giáo hóa chúng sinh không có ba ác đạo là do bổn nguyện chiêu cảm. Quyến thuộc nhiều hay ít, thọ mạng dài hay ngắn, pháp ở đời lâu hay mau, đều do từ nguyện lực mà sắp đặt. Thông lệ như vậy.

Ngài Ca Diếp gọi là Ẩm Quang, do nhân thờ phụng Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật, đốt đèn duy trì tiếp nối ánh sáng, dùng vàng tía mà phết lên hình tượng của Phật, do đó cảm ứng quả gọi là Quang Minh. Đất nước tên là Quang Đức. Kiếp tên là Đại Trang Nghiêm thọ mạng và Phật pháp trụ thế dài hai mươi tiểu kiếp. Có sự sai biệt nào đối với ngài Xá Lợi Phất đều do ở nơi bản nguyện mà ra. Đất nước thanh tịnh là do tâm tịnh. Quyến thuộc ba thừa là do duyên đời trước. Không phải là thế giới ô nhiễm, nên dù có ma và dân ma nhưng đều hộ trì Phật pháp.

2. Từ câu: “Nhĩ thời Đại Mục Kiền Liên” đến câu: “Như cơ tu giáo thực” (Lúc bấy giờ ngài Đại Mục Kiền Liên … như đói cần bảo ăn).

Đoạn này ngài Mục Kiền Liên… vì thấy ngài Ca Diếp được thọ ký nên mong được thọ ký mà thỉnh cầu Phật.

Ở trước Đức Phật đã nói chung 1200 vị Thanh văn đều sẽ được thành Phật, mọi người đều được thành Phật. Nay ba vị Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên muốn Phật chỉ tên mình mà thọ ký thành Phật. Do sợ mình không được thành Phật nên run sợ cầu thỉnh. Đó chính là hàng Tiểu thừa còn tập khí chấp tướng đời trước, tâm địa hẹp hòi, chưa thể buông bỏ ngay được. Nay dù mong Phật hứa khả nhưng tự bản thân lại không dám nhận, như đói mà gặp món ăn của nhà vua chưa dám ăn. Chỉ khi nào bảo ăn mới dám ăn.Vì vậy tuy nghe sẽ thành Phật mà trong tâm nghi sợ, chờ mong Phật nói mới được an lòng.

3. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Nhị thập tiểu kiếp” (Lúc bấy giờ Thế Tôn… cũng hai mươi tiểu kiếp).

Đoạn này là ngài Tu Bồ Đề được thọ ký.

Nhân hạnh phụng sự Phật trong tương lai giống như ngài Ca Diếp. Ngài thành Phật hiệu là Danh Tướng, đều tùy theo bản nhân. Do ngài Tu Bồ Đề là giải không đệ nhất, nhưng cái không ấy ngoài danh và tướng không thể có, nên tương lai thành Phật hiệu là Danh Tướng. Đó chính là hiển lộ pháp không mà được chứng. Tôn giả Tu Bồ Đề khi sinh ra thì các kho tàng đều trở nên trống rỗng, cho nên tên gọi kiếp ấy là Hữu Bảo, tên đất nước là Bảo Sinh. Do cái không mà lộ ý nghĩa bất không, cũng là bản nhân vậy. Nước ấy thanh tịnh đồng với tâm tịnh. Dân chúng đều ở trên lâu đài quý báu nên có nghĩa là Hữu Bảo. Hàng quyến thuộc thọ mạng, Phật pháp trụ thế lâu mau, đều giống như ngài Ca Diếp. Có điều Đức Phật ấy thường ở trên hư không thuyết pháp, bởi lẽ do thực chứng không pháp mà kết quả như vậy.

4. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Trang nghiêm kỳ quốc” (Khi đó Đức Thế Tôn… trang nghiêm cõi nước đó).

Đoạn này là ngài Ca Chiên Diên được thọ ký.

Nhân duyên thọ ký là do đời trước đã phụng sự tám ngàn ức Phật. Sau khi Phật diệt độ xây dựng chùa, tháp bằng bảy thứ quý báu, cúng dường Xá Lợi Phất trải qua hai vạn ức Phật. Tổng cộng lại thì ngài ít hơn Ca Diếp và Tu Bồ Đề mà lại mau thành Phật, do ngày xưa ngài giỏi về luận lý làm sáng tỏ bản chất của pháp. Thành Phật hiệu là Na Đề Kim Quang, nghĩa là tột cùng của sự trong sáng. Thọ mạng mười hai tiểu kiếp, tùy theo thời cơ mà cảm ứng việc Phật pháp trụ thế lâu hay mau, đều do nguyện lực mà thành.

5. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn phục cáo đại chúng” đến câu: “Nhữ đẳng thiện thính” (Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các đại chúng… các ông khéo lắng nghe).

Đoạn này ngài Mục Kiền Liên.

Ngài Mục Kiền Liên thờ phụng Phật ít hơn Ca Chiên Diên, nhưng sau khi Phật diệt độ, xây tháp cúng Phật hai trăm vạn ức và còn nhiều hơn thế nữa, cũng do công hạnh xây dựng cúng dường không đồng nhau. Mục Kiền Liên đời trước là thần thông số một nên thành Phật quả hiệu là Chiên Đàn Hương. Tuy nhiên Hương thì có Thanh, Viễn, Tiềm, Thông là biểu tượng của thần thông. Quyến thuộc thì cũng giống nhau nhưng thọ mạng khá dài, đều do cơ cảm mà ra Phật pháp trụ thế bốn mươi tiểu kiếp, đều do nguyện lực mà duy trì.

Các đệ tử Thanh văn thường lo sợ con đường thành Phật dài và xa. Vì chưa thấy thật quả có thể đạt được, thấy không có quy củ hay nguyên tắc rõ rệt nào nên sinh sợ. Nay được thọ ký làm Phật nhưng phải tu qua nhiều kiếp nên không lo sợ. Do có kết quả thật sự trước mắt, có thời gian chứng đắc thì nghiệp cũ dễ bỏ. Hàng Tiểu thừa rất coi trọng danh từ, ngôn ngữ. Nếu không có lời Phật dạy thì lòng không an ổn. thế mới biết vấn đề thọ ký là dùng lời lẽ ngôn ngữ để mà sách tấn. Như lá vàng ngưng khóc, (?) chính là dùng một cái nêm để đánh bật một cái nêm khác. Cũng như người ta dùng giấc mộng để bàn việc tốt hay xấu, thì cứ theo lời đoán mộng mà làm chuẩn, chứ mộng làm gì có xấu tốt! Vào thời Hán Võ Đế có người giỏi đoán mộng, nhà vua giả đò nằm chiêm bao để thử rằng: Trẫm nằm mộng thấy trong điện có hai mảnh ngói hóa thành một đôi chim uyên ương bay đi. Người đoán mộng nói: Trong cung chắc sẽ có kẻ giết nhau. Bổng chốc lát có người đến báo rằng trong cung có người giết nhau chết. Nhà vua mới nói: Trẫm chỉ nói chơi chứ không có mộng mị gì hết. Vậy vì sao mà có ứng? Người đoán mộng nói rằng: Mộng là chỗ tinh thần biểu hiện, tâm thần đã động thì tốt xấu xuất hiện. Cho nên Đức Phật thuyết pháp độ sinh như nói chuyện mộng, thật đúng vậy.

Từ câu: “Các đệ tử của ta” trở xuống 10 câu, nói để phát khởi lý do cho phẩm sau.

 

Phẩm Hóa Thành Dụ Thứ Bảy

Đại ý phẩm này do năm vị đại đệ tử đều được thọ ký. Trong khi đó trong chúng hội còn một loại Thanh văn độn căn, tự cho mình không có phần dự vào Bồ đề Phật quả, tập khí hẹp hòi chưa mất. Họ cho rằng năm vị Đại đệ tử đó, là những vị đứng đầu trong việc xương minh Phật pháp nên được thọ ký. Còn họ nghĩ mình thấp kém không có phần.

Cho nên Đức Thế Tôn dẫn chứng từ nhiều kiếp về trước, Đức Phật Đại Thông có nhân duyên giáo hóa 16 vị vương tử, trồng được chủng tử Nhất thừa, từ đó về sau đời đời được giáo hóa (nhất thừa). Nay nhân duyên đã chín muồi, đúng lúc ấn chứng để phá tâm chấp chặt hoài nghi của đại chúng. Làm phát khởi tâm hân hoan hâm mộ Đại thừa để dứt trừ tập khí. Do vậy mà dẫn giải việc xưa của Đức Phật Đại Thông và nhân duyên giảng pháp cho 16 vị vương tử để làm hiển lộ nhân duyên Phật tánh. Trình bày thí dụ Hóa thành chỉ là giả lập để thuyết minh ba thừa là tạm thiết lập mục đích là làm cho chúng sinh đừng sợ đường xa và sự mệt nhọc, tạo cho họ tạm nghỉ ngơi để tiếp tục tiến về bảo sở (Niết bàn tối hậu).

Do vậy, đây là khai phát và khích lệ hàng độn căn. Đại chúng nghe nói như vậy hiểu được nhân đời trước mà tự tin được thành Phật. Nên người đều được thọ ký. Nên mới có phẩm này vậy.

1. Từ câu: “Phật cáo chư Tỳ kheo” đến câu: “Thông đạt vô lượng kiếp” (Đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo… suốt thấu vô lượng kiếp).

Đoạn này Như Lai dẫn chứng nhân duyên từ Đức Phật Đại Thông Trí Thắng để minh chứng cho hạt giống nhân duyên nối tiếp ngày nay.

Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng nghĩa là Nhất Thiết Chủng Trí, là thể tính pháp thân của chư Phật, là Phật tính vốn có của chúng sinh. Trí tuệ bản thể này siêu việt dung lượng của pháp giới nên gọi là Đại. Thấu triệt thánh phàm nên gọi là Thông. Thường sáng không mờ nên gọi là trí. Nghĩa Thù thắng trong những Thù thắng nên gọi là Thắng. Trí tuệ tối thắng này thì tác dụng không rời thể tánh, đủ cả mười hiệu, thường ở trong trạng thái thanh tịnh và chiếu sáng, cho nên tên nước ấy gọi là Hảo thành. Kể từ không kiếp về trước nên gọi thời gian ấy là Đại Tướng, chúng sinh đi ngược với thể trí này từ vô thỉ nên gọi là trải qua A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Ngài Tịch Âm lấy pháp giới quán của Hoa Nghiêm, gồm ba phép quán: Chơn không tuyệt tướng quán; Lý sự vô ngại quán; Châu biến hàm dung quán, để giải thích ba chữ Đại Thông Trí, ba nghĩa đầy đủ nên gọi là Thắng, rất phù hợp nghĩa lý. Trong kinh nói Trí vốn có. Trong quán pháp nói tu mới hiển lộ, làm như Trí có cái trước cái sau. Ở đây Trí còn gọi là Vô Sư Trí, Tự nhiên trí. Chư Phật chứng được bản thể của trí này nên gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lạ thay! Lạ thay! tất cả chúng sinh đều có đủ trí tuệ, đức tướng của Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà không chứng được. Nếu bỏ được vọng tưởng điên đảo chấp trước ấy thì nhất thiết Trí, Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí lập tức có mặt. Vậy nên biết rằng trí này là nền tảng của chư Phật, là Phật tính của tất cả chúng sinh. Hàng nhị thừa vì không biết Trí này, nên cho cho rằng trước nay không có (trí này) nên bảo là không có phần thành Phật.

Đoạn trước tuy có năm đại đệ tử được thọ ký, họ có lòng tin vào tâm Phật không còn nghi, nhưng những người căn cơ thấp kém, còn vướng mắc vào danh ngôn và tập khí nhị thừa điều nghi ngày xưa chưa mất. Nay nghe được thọ ký mà lòng nghi vẫn chưa hết, không ngộ được lý do không mất. Cho nên Đức Phật đặc biệt chỉ dạy nhân duyên để thấy rõ nguồn cội của Phật tính từ xưa đến nay không mất đi đâu. Đó là lý do nói việc đã qua của Phật Đại Thông Trí Thắng làm sáng tỏ việc hiện nay. Như vậy vấn đề thọ ký đắc quả ở tương lai không phải là vấn đề không có thật. Có thể nói, đây là dùng nhân duyên để phá bỏ cái chấp của người căn tánh thấp kém.

Trước đã nói qua trí Phật không phải là đối tượng hiểu biết của hàng Nhị thừa, ngoài ra công đức quả mãn của Phật không thể nghĩ bàn, đây cũng là điều mà nhị thừa không biết. Nói “Từ khi Phật diệt độ đến nay đã rất lâu” là muốn nói rằng pháp thân ẩn không có cơ hội hiển lộ, do chúng sinh mê muội từ lâu rồi nên nói số kiếp nhiều như chấm mực nhỏ để so sánh. Lấy cõi đất cả Tam thiên đại thiên thế giới mài làm mực rồi đi khắp mười phương, bắt đầu từ phương Đông đi qua 1000 quốc độ chấm một giọt mực nhỏ như hạt bụi. Chỉ một giọt cho 1000 quốc độ, như thế từ phương Đông đi qua các phương khác nữa như trên. Những quốc độ chấm mực ta không thể biết nổi, không con số toán học nào tính được, huống gì những quốc độ không có chấm mực và có chấm mực cộng lại rồi nghiền thành bụi thì số bụi này quá lớn. Lấy một hạt bụi tính một kiếp thì số lượng kiếp ấy có thể tính được sao! Đó là truy nguyên cái khởi đầu là vô thỉ.

Đức Phật Đại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay lâu hơn số lượng trên. Như vậy biết rằng chúng sinh đã mê mờ bản tính đến nay là lâu lắm rồi. Làm sao hàng nhị thừa có thể biết được! Ở trước đối với hàng thượng căn chỉ nói thành Phật đến nay, không nói về thời gian. Đối với hàng trung căn nói việc giáo hóa, chỉ nói hai vạn ức Phật, đều là một cách nói. Nay đối với hàng hạ căn thì nói vô lượng kiếp như vi trần, do nhị thừa kiến giải yếu kém còn nhị thừa vướng mắc vào tri kiến về đoạn diệt, trước sau. Sự chấp thủ khó buông xả, nếu không nói như thế khó phá bỏ. Đây là phương tiện tiếp dẫn của Như Lai. Hơn nữa tri kiến Như Lai xem thời gian lâu dài ấy như thời gian hiện tại, huống gì ngài ra đời độ sinh hơn bốn mươi năm qua không khi nào rời khỏi Tam muội (thiền định) Lại nói lời dối trá sao! Điều Như Lai nói là chân thật không lừa dối. Hàng hạ căn nghe điều này dù ngu muội đến đâu cũng có thể tin lời nói của Phật là chân thật. Đức Phật vì hàng nhị thừa mà khổ tâm, như ông Trưởng giả trong ngôi nhà lửa và cha của đứa con khốn cùng. Há có thể nói hết lòng thương vô hạn của Phật sao!. Có bài kệ nói rằng:

“ Trí Phật thanh tịnh vi diệu
Vô lậu, không chướng ngại
Thông đạt mọi thời kiếp”

Thế mới biết trí Phật, nhìn về quá khứ là vô thỉ nhìn về vị lai thì vô chung. Do vậy việc thọ ký cho đệ tử thành Phật, lâu xa không quá 300 vạn ức kiếp. Dùng Phật nhãn mà xem thì như trước mắt. Không đáng tin sao!

2. Từ câu: “Phật cáo chư Tỳ kheo” đến câu “Thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Đức Phật bảo các Tỳ Kheo… thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này nói về Đức Phật Đại Thông Trí Thắng từ pháp thân mà ứng hiện thân.

Nói: “Phật thọ năm trăm vạn ức na do tha kiếp”, đặc biệt nêu lên dấu vết ứng duyên. Nói “ Trước lúc ngồi đạo tràng” là nói ban đầu xuất hiện điềm lành của bậc thánh, chuẩn bị đắc quả Bồ đề. Chư Phật xuất hiện ở đời, lúc đầu phải thị hiện thành tựu chánh giác, nên gọi là “sắp được” Hỏi rằng: Phật đã thị hiện thì không cần có đắc làm gì mà nói là sắp được, tức là Bồ đề Phật Pháp, không xuất hiện là nghĩa gì? Đáp: Đây là chờ thời cơ. Đó có nghĩa là pháp thân Phật giống như hư không, ứng vật hiện hình như trăng dưới nước. Tâm thủy của chúng sinh thanh tịnh thì bóng Bồ đề hiện trong đó. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Phật Tỳ Lô Giá na ở trong thân tất cả chúng sinh mà thành chánh giác”. Do vậy, mới biết Phật vốn không thân, mà lấy chúng sinh làm thân. Nay Phật Đại Thông Trí Thắng có ứng mà không có cảm, nên nói là sắp được Bồ đề mà Phật pháp không xuất hiện trước. Do tâm chúng sinh chưa thanh tịnh nên chờ thời cơ đến mười tiểu kiếp. Trong kinh văn nói ngài “Ngồi kiết già phu tọa thân tâm không động” Đó nghĩa là đang nhập sát na tế tam muội, tức nói ở trước là vô lượng nghĩa xứ tam muội. Ngày nay Đức Phật ứng hiện thân chờ bốn mươi năm, không có gì là lâu cả.

Chư Thiên ở cõi trời Đao Lợi đến dưới cây Bồ đề trải tòa ngồi để chờ, chính là ý không rời khỏi cây bồ đề mà ứng hiện khắp nơi. Nói: “Vừa ngồi xuống tòa chư thiên mưa hoa, tấu nhạc cúng dường cho đến khi Ngài diệt độ”, là ý nói từ khi Phật xuất hiện trước sau không rời sát na tế Tam muội. Như Phẩm Tự đã nói trong hào quang xuất hiện chư Phật trước và sau đầy đủ, đều là cảnh trong hào quang. Nay trình bày thẳng, Kinh này luôn nói sự việc thật trong hào quang. “Qua 10 tiểu kiếp Phật pháp hiện ra trước mắt mới đắc quả vị Bồ đề”, là thời cơ khế hội, tâm cảnh thông suốt hết thời gian chờ đợi. Cổ đức nói: “Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên”. Vậy mới biết đây là thời cơ nhân duyên nói trí tuệ của Phật. Cần chờ cơ duyên khế hội, nếu không đúng thời không thể gượng nói được.

3. Từ câu: “Kỳ Phật vị xuất gia thời” đến câu: “Đầu diện lễ túc nhiễu Phật tất dĩ” (Lúc Phật chưa xuất gia… đầu mặt lạy chân Phật, đi vòng quanh Đức Phật xong).

Đoạn này nói nhân duyên xưa của Đức Phật Thích Ca.

Khi nói Đại Thông Trí Thắng là muốn nói rõ Nhất thiết chủng trí. Nay nói rằng: Lúc Phật chưa xuất gia có 16 vị vương tử là nói rõ rằng Nhất thiết chủng trí đều do chuyển thức mà thành. Vì mê muội trí này gọi là Alạida thức, là tên gọi khi bị sinh tử trói buộc. Đây là thức căn bản tác dụng ra thành tám thức. Ở trước nói Đức Phật Nguyệt Đăng có tám người con riêng chỉ vào tám thức mà nói, cho nên gọi là “ Hữu ý” Nay gọi là 16, tên là “ Trí tích” thức vốn ở nơi trí, do mê mà chuyển tải thành thức, tác dụng nó có tám. Ngộ thì chuyển Thức thành Trí tác dụng nó có bố, nhưng Thành Sở Tác Trí tác dụng có năm nên cũng thành tám. Nay hiệp Vọng và Chân làm một thành 16. Đối với bốn trí viên mãn gọi chung là Nhất Thiết Chủng Trí. Cho nên người con ất tên gọi là Trí Tích. Nói: “Lúc chưa xuất gia”, là nói khi còn ở trần lao. Nếu đến quả thể thì chân vọng không hai. Tình cha con đều mất. Nhân xưa Đức Thích Ca là con thứ mười sáu, thì quyền hay thật có thể biết.

Nói “Các người con đều có các món đồ chơi” là nói thức căn bản (Alạida) chưa chuyển hóa, thì tất cả các thức đều ô nhiễm, vô tri và đắm nhiễm các đối tượng. Một khi thức căn bản đã chuyển thì các thức đều chuyển hóa, nhanh chóng đoạn trừ hai loại vô minh là phát nghiệp và nhuận sinh. Cho nên nói là “Nghe cha xuất gia đều bỏ các đồ châu báu”. Thỉ giác hiệp bổn giác nên nói “Đi đến chỗ Phật”. Kinh nói: “Lấy vô minh làm cha cùng với tham ái làm mẹ”. Nay Thức đã chuyển thành Trí, thì phiền não tham ái trở thành vun bồi cho tác dụng của Trí. Nên nói là “Các người mẹ khóc lóc theo đưa”. Do tâm ái nhiễm khó trừ nhưng không thể không bỏ.

Câu: “Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương”, trong luận Duy thức nói ngoài Alạida thức còn lập thêm một thức thứ chín gọi là Bạch tịnh thức, cũng chính là Chân như. Nay khi Alạida đã chuyển thì các tâm lý phụ thuộc (tâm sở) và 100 pháp, tất cả vi tế phiền não đều chuyển theo, đều cùng với Chân như làm tác dụng của Trí. Nên nói “Ông nội Chuyển Luân Thánh Vương cùng 100 đại thần và trăm nghìn muôn ức nhân dân đều cũng vây quanh đi theo đến đạo tràng.

4. Từ câu: “Nhất tâm hiệp chưởng chiêm ngưỡng Thế Tôn” đến câu: “Đương chuyển vô thượng luân” (Đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng… nên chuyển pháp vô thượng).

Đoạn này nói về vương tử tán thán sự xuất hiện của Đức Phật chỉ vì lợi ích cho cả nhân thiên.

Từ câu: “Thế Tôn đại oai đức”û xuống 6 câu, là tán thán công đức đắc quả của Phật. Câu: “ Thế Tôn rất ít có” xuống 8 câu, khen ngợi sự nhập định chờ cơ duyên của Phật. Câu: “Ngày nay thấy Thế Tôn” xuống 4 câu, là tự thấy vui mừng mà được lợi ích. Câu: “Chúng sinh thường đau khổ” xuống 8 câu, là nói về cơ duyên đang giáo hóa. Câu: “Nay Phật đặng vô thượng” xuống 6 câu, là vui mừng mình và mọi người đều được lợi ích.Khen ngợi xong rồi thỉnh cầu vận chuyển bánh xe chánh pháp để hiển bày ý nghĩa Đức Phật xuất hiện ở đời vốn vì muốn an ổn và thương xót chúng sinh, không để nơi xuất hiện của Ngài là vô nghĩa, cho nên thỉnh Phật thuyết pháp.

Từ câu: “Đức Phật không ai bằng” xuống 4 câu, là thỉnh Phật thuyết pháp về Thật trí. Câu: “Độ thoát cho chúng con” xuống 6 câu, là thỉnh Phật thuyết Quyền trí. Câu: “Thế Tôn biết chúng sinh” trở xuống 8 câu, là thỉnh Phật khai mở phương tiện để phù hợp với căn cơ của chúng sinh.

5. Từ câu: “Phật cáo chư Tỳ kheo” đến câu: “Thắng chư thiện quang” (Phật bảo các Tỳ kheo… sáng hơn ánh sáng của trời)..

Đoạn này Như Lai đặc biệt vì hàng hạ căn mà mở bày tri kiến Phật.

Tiếng Phạn gọi là Tỳ Lô Giá Na, Trung hoa dịch là Quang Minh Biến Chiếu tức là Đại Thông Trí Thắng. Cho nên nói thành Phật là Nhất thiết chủng trí, trí này là Phật tri kiến mà tất cả chúng sinh vốn có nó. Đức Phật vì vấn đề này mà xuất hiện ở đời nên gọi là vì một đại sự nhân duyên. Chúng sinh một khi đã mê mờ, bị vô minh trói chặt, thân thể và hoàn cảnh thế giới bị chướng ngại mà không thông suốt được. Chỉ vì bị rối loạn bởi vọng tưởng, phiền não. Sử dụng hằng ngày mà không biết, nên tạo vọng nghiệp, vướng mắc các khổ. Do vậy Đức Phật lấy tâm đại bi đồng thể, xuất hiện ở đời mà khai thị cho, khiến được ngộ nhập trí này, ra khỏi tử sinh. Đây mới là bổn hoài xuất thế của Như Lai. Chúng sinh một khi biết rõ trí này tức nhiên là Phật. Ý nghĩa này làm cho mọi người kinh sợ, không phải là điều mà hàng hạ căn chịu đựng nổi nên Phật chờ thơi cơ chín muồi mới nói.

Một hội Pháp Hoa này, nói chung trong bốn mươi năm qua, chỉ vì bản hoài độ sinh. Thế nên không coi thường mà vội nói. Nói khai thị là dùng ngôn ngữ để cho hiểu, dùng việc để chỉ cho thấy. Nên buổi đầu của Pháp hội, trước hết phóng một luồng hào quang, soi sáng phương Đông một vạn tám ngàn thế giới. Hiển rõ sự tướng của pháp giới, chúng sinh và Phật trước sau là một cách thể hiện toàn thể trí này. Lấy đó làm tiền đồ mà khai tri kiến Phật. Cho rằng căn cơ đệ tử đã thuần thục, có thể không cần dùng lời mà dụ. Hơn nữa cảnh của trí này, cả đến Ngài Di Lặc, đã được bổ xứ mà vẫn còn hoài nghi, phải nhờ ngài Văn Thù, là thầy của bảy Đức Phật, thay Phật nói giải nghi ngờ. Ngài đã viện dẫn nguồn gốc ban đầu của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh để minh chứng cho điềm lành hiện nay của Phật. Đây là lần thứ nhất mở bày Phật tri kiến. Trong pháp hội vẫn mù mờ chưa hiểu, phải chờ Thế tôn xuất định, ân cần ca ngợi phương tiện, khai thị đến cuối phẩm Phương Tiện. Đức Thế Tôn mới hết lời tuyên dương, chỉ một mình ngài Xá Lợi Phất lãnh hội, mới biết sự mê mờ của chúng sinh rất sâu nặng. Phật phải thuyết thí dụ ngôi nhà lửa, nói về tình trạng đau khổ của ba cõi. Có thể biết rõ như xem đường chỉ trong bàn tay. Đến đây có bốn người lãnh hội, nhưng trong khi hội chúng có mặt 1200 vị, vẫn còn như trong giấc mộng. Biết sao đây! Phải tin rằng cánh cửa trí tuệ khó hiểu khó vào, nên Phật nói về nhân duyên đời trước một cách rõ ràng để chỉ cho dẫn chứng nguồn cội cuả đức Đại Thông Trí Thắng để làm nhân duyên cho ngày nay. Đặc biệt vì hàng hạ căn mà làm sáng tỏ vấn đề. Ban đầu thì ánh sáng ở giữa chặng mày phóng ra, sau đó mới chiếu rọi chỉ ở phương Đông. Nay là ánh sáng tuệ giác vốn có, không tùy thuộc vào phóng hay không phóng mà nó thường sáng tỏ, nên các chỗ tối tăm đều được soi sáng. Đây là trí tuệ bản nhiên, hằng ngày chúng ta đều sử dụng mà không biết, giờ trí tuệ bản nhiên chợt hiển lộ, tất cả chúng sinh đều thấy được tánh giác của mình. Cho nên đều nói: “Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh?” Lạ thay! Lạ thay! Hào quang lớn chiếu sáng khắp chốn đến cả 10 phương. Đây là đặc biệt vì hàng hạ căn mà khai thị tri kiến Phật lần thứ hai.

Đoạn này vẫn dẫn chứng việc Phật ngày xưa, còn sau này ở trong phẩm Hiện Bửu Tháp thì Phật vì đại chúng mà chỉ cho thấy trí tuệ hiện tiền. Đó là lần thứ ba khai thị tri kiến Phật. Vấn đề chư thiên mười phương tìm theo ánh sáng mà thỉnh Phật, là nói rộng thêm ý chưa hết ở cuối phẩm Phương tiện.

6. Từ câu: “Nhĩ thời phương Đông” đến câu: “Vô lượng kiếp tập pháp” (Bấy giờ phương Đông… pháp tu vô lượng kiếp).

Đoạn này nói về đức Trí Thắng ban đầu ngồi ở đạo tràng, chư thiên, Phạm vương thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Ở cuối phẩm Phương tiện Đức Như Lai tự thuật việc ban đầu ngồi đạo tràng, xem cây kinh hành, tư duy hai mươi mốt ngày. Ý muốn đem pháp Nhất thừa phân biệt nói thành ba thừa, tiến hay thối chưa quyết định. Bấy giờ chư thiên, Phạm vương thỉnh Phật khai mở tiệm pháp, do đó mà thuyết tam thừa.

Đức Phật nghĩ đến chư Phật quá khứ, đều thiết lập phương tiện, cũng thuyết Tam thừa. Nay Phật Đại Thông Trí Thắng được mười phương Phạm thiên một lúc đồng thỉnh cầu. Phật xuất định thuyết pháp Tứ đế. Thế mới biết rằng, ở trước nói Phật quá khứ tức ngày nay là Phật Trí Thắng. Đức Thích Ca là con của Phật Trí Thắng, nên khi thuyết pháp đều tuân theo bổn sư mình. Đó là gia pháp truyền thừa vậy. Trước chỉ nói sơ lược nay mới thật sự chỉ rõ lý do vì hàng hạ căn mà thiết lập.

Phàm khi chư Phật ra đời, đều do chư Thiên phạm thiên thỉnh cầu, điều này như một thông lệ. Hào quang của Phật Trí Thắng chiếu khắp mười phương, chư thiên đều theo ánh sáng mà hướng về tìm theo ánh sáng mà đến. Ở trước phẩm Dược Thảo Dụ nói: “Ta là Như Lai thì dùng lời nói mà triệu tập” Ở đây dùng hào quang để triệu tập đối với vấn đề thuyết pháp thì giống nhau. Đủ biết chư Phật đều dùng phương tiện, đều vì pháp Nhất thừa, chắc chắn không nghi.

Chư thiên gặp Phật và cúng dường đều giống nhau, nhưng lời khen ngợi có khác. Chỉ có thời kiếp không có Phật ra đời thì bất đồng Phương Đông Nam nói là 180 kiếp, Phương nam thì nói 130 kiếp, Thượng phương nói xưa vô lượng kiếp trải qua không có Phật… là do cơ cảm của chư thiên không giống nhau. Nói ánh sáng của đức Đại Thông Trí Thắng chiếu rất xa và mạnh mẽ. Bởi lẽ Đại Phạm Thiên Vương làm chủ thế giới Ta bà. Nay nói thêm mười phương đều có 500 vạn ức quốc độ đều có Đại Phạm Thiên Vương, hào quang chiếu sáng của Phật, dung lượng trùm cả pháp giới, hiệp chúng thành một cõi. So sánh với hào quang ở chặng mày chiếu sáng phương Đông một vạn 8000 cõi, thì như một trời một vực vậy. Chỉ có trí tuệ của Phật mới hiểu hết được. Đối với bậc thượng căn có thể nêu ra một phần, còn hạng hạ căn thì không có phần, do vậy không thể không vì họ mà thổ lộ, để họ hiểu rõ và tin tưởng. Nên biết đó là hạng độn căn, nếu không làm như vậy thì họ không tin hiểu. Đây là phương tiện thiện xảo của Như Lai.

7. Từ câu: “Nhĩ thời Đại Thông Trí Thắng Như Lai” đến câu: “Thị khổ diệt thị khổ diệt đạo” (Lúc bấy giờ đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai … Đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ).

Đoạn này nói về đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp.

Ba lần chuyển thành mười hai lần vận động bánh xe pháp, chính là thuyết pháp Tứ Đế. Ba lần chuyển ban đầu là nêu rõ hiện tượng của các khổ bức bách, lần chuyển thứ hai nêu rõ cái khổ cần phải biết, khuyến khích nhàm chán cái khổ, và hướng đến Niết bàn. Lần chuyển thứ ba tác chứng chuyển nghĩa là ta đã biết đã diệt khổ, do mình đã chứng được. Hàng nhị thừa nghe như vậy, nhờ nghe mà ngộ nên gọi là Thanh văn. Người xưa giải thích rằng ba lần chuyển hóa làm cho bước vào địa vị kiến đạo, tu đạo và vô học. Đề cập đến mười hai hành, Ngài Tịch Âm cho rằng nhờ đó mà người nghe pháp ấy phát sinh chân thánh tuệ nhãn vô lậu. Ở trong mỗi Đế quán chung ba đời, quán riêng thì lấy quá khứ làm đối tương trí quán, lấy vị lai làm đối tượng minh quán, lấy hiện tại làm đối tượng của giác quán. Như vậy một lần chuyển gồm cả Tổng và Biệt (quán chung và quán riêng) gồm bốn pháp, nên gọi là ba lần chuyển và mười hai hành tướng.

Đế là thẩm đế, (suy xét sự thật) Đế còn gọi là chân thật. Người phàm phu ở nơi cảnh khổ nhưng không biết bản chất cái khổ. Hàng nhị thừa thì thấy sự thật cái khổ nhưng không biết cái chân thật. Bồ tát thì thấy cái khổ là tánh không. Vậy tên gọi Tứ đế là một mà thông suốt cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Ngài Thiên Thai giải nghĩa Tứ đế có bốn nghĩa: Sinh diệt, vô sinh, vô lượng, vô tác, tùy theo bốn giáo mà giải thích không đồng. Tạng giáo Tiểu thừa chỉ biết sinh diệt mà không biết vô sinh. Thông giáo tuy biết vô sinh mà không biết vô lượng, vô tác. Biệt giáo thì ngộ lý Vô lượng, Viên giáo thì ngộ lý Vô tác, Tuy một Tứ đế mà điều thấy bất đồng. Ở phẩm Phương tiện Đức Thích Ca nhận lời thỉnh cầu, là nói “Đem Nhất thừa phân biệt nói thành ba”. Nay Đại Thông nhận lời thỉnh cầu thì nói thẳng tiểu pháp mà không nói phân biệt. Chính vì giải thích điều nghi kia là thực. Vì Tiểu thừa cứ một chiều không biết đó là quyền, nên ở phẩm Phương tiện, đặc biệt vì họ mà mở bày quyền pháp hiển thị Thật pháp, điều mà hàng thượng căn đã lãnh hội. Hàng trung căn chưa lãnh hội ý nghĩa ba là giả, một là thật, cho nên thuyết dụ ngôi nhà lửa, ba xe và một xe, làm cho họ lãnh hội. Nhưng các hàng Tiểu thừa tuy biết xưa là quyền pháp mà không biết Quyền tức là Thật, cho nên thuyết dụ Dược thảo, một trận mưa vô tư, ba thứ cỏ, hai thứ cây, tùy rễ mà hút nhận, để trình bày pháp vốn là một. Chỉ vì căn cơ có khác biệt vậy. Hàng trung căn tuy ngộ, mà hạ căn vẫn nghi, không hiểu được ý chỉ pháp là một mà căn cơ là khác. Do đó dẫn chứng nhân duyên thuyết pháp của đức Đại Thông Trí Thắng để trình bày pháp chỉ có một. Đây chính là tương ứng với một trận mưa của Dược thảo dụ. Vì vậy, nay đức Trí Thắng nhận lời thỉnh thuyết pháp mà không nói phân biệt làm ba thừa. Chỉ nói thẳng pháp Tứ đế, tùy căn cơ mà lãnh hội đại tiểu bất đồng. Một pháp Tứ đế mà Tiểu thừa nghe thì ngộ được lý sinh diệt, Thông giáo nghe thì ngộ lý vô sinh, Biệt giáo nghe thì ngộ lý vô lượng, Viên giáo nghe thì ngộ lý vô tác. Đó chẳng phải là pháp thì một mà căn cơ thì khác hay sao! Nên Kinh Hoa Nghiêm nói về Tứ thánh đế rằng: đối tượng tu hành của bậc Địa thượng bồ tát là Tứ thánh đế, huống gì là bậc Tiểu thừa! Vì vậy Đức Như Lai nói pháp, cánh cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, là ý này vậy.

8. Từ câu: “Cập quảng thuyết thập nhị nhân duyên pháp” đến câu: “Bất khả xưng số” (Và rộng nói 12 nhân duyên… không thể tính kể được).

Đoạn này nói rộng hơn về Tứ Đế, tức nói pháp mười hai nhân duyên.

Pháp mười hai nhân duyên là pháp trung thừa có hai cách quán: Quán lưu chuyển và quán hoàn diệt. Từ vô minh duyên hành cho đến sinh duyên lão tử, ưu, bi, khổ, não là cách quán lưu chuyển. Đó là cách nói rộng hơn về Khổ và Tập đế, là nhân và quả thế gian. Quán từ vô minh diệt cho đến ưu, bi, khổ, não diệt là cách quán hoàn diệt, nói rộng về Diệt và Đạo đế là nhân quả xuất thế gian. Tiểu thừa lấy tập đế làm gốc của cái khổ, tập gồm có ba độc: tham, sân, si và các phiền não. Trung thừa thì nói vô minh là nhân tố của ba độc và các phiền não ấy, như vậy tiến sâu hơn vào nguyên nhân mê muội. Đây là vì hạng lợi căn mà nói.

Vô minh nghĩa diệu tánh bổn minh, chỉ vì một vọng niệm động làm tối tăm mờ ám bổn tính viên minh, nên gọi là “vô minh”. Ở nơi bản thể sáng trong, bị vô minh khuấy động mà sinh lưu chuyển nên gọi là “ Hành” Thể tánh đã dời đổi thì trí chuyển thành thức, gọi là Hành duyên thức. Ba chi phần này làm nguyên nhân khởi nghiệp trong quá khứ. Có nhân tức có quả, nên thức làm gốc kết tập cho sinh tử (Kiết sinh thức) Trí vốn vô danh vô tướng, mà thức thì nắm lấy Tứ đại. Sắc và tâm hòa hợp nên có danh có tướng, gọi là “Danh sắc”. Đây là lúc mới đầu thai. Đã nhập vào thai rồi thời gian vài tháng sáu căn đầy đủ gọi là “Lục nhập” Sáu căn đã đủ, hình hài thành tựu thì ra khỏi thai, các căn tiếp xúc cảnh trần gọi là “Xúc”. Nhận lãnh cái xúc chạm cảnh thuận hay nghịch gọi là “Thọ” Năm chi phần này là kết quả trong hiện tại. Thọ thì sinh “Ái” ái thì chấp thủ. Thủ dẫn đến tạo nghiệp. Đã tạo nghiệp rồi thì hậu quả không mất gọi là “Hữu” Ba chi phần này là nhân của hiện tại. Đã có nghiệp nhân, thì nghiệp quả tùy theo sau gọi là “Sinh”. Sinh duyên lão tử.v..v. Đây là hai chi phần của quả vị lai. Tuần hoàn ba đời, sinh tử tiếp diễn cho đến tận cùng số kiếp không dứt, làm nhân duyên cho mọi thứ khổ, chúng cùng tác thành hai đế: Khổ đế và Tập đế.

Bậc trung thừa tu tập đoạn trừ, quán chiếu một khi vô minh diệt thì 11 chi phần khác đều diệt. Như cây ngã, rễ dứt thì cành lá đều ngã đổ. Đó là hạnh tu đoạn của hàng lợi căn, chính là hai đế sau Diệt và Đạo, nên trong Kinh văn nói: “Rộng nói pháp mười hai nhân duyên” là vậy.

Từ câu: “Đức Phật ở trong đại chúng trời người” trở xuống, nói về lần pháp thứ nhất, thính chúng nghe pháp được lợi ích. “Không thọ nhận tất cả pháp” là ngộ được lý không. Nói “ các lậu” là chỉ cho lậu có ba thứ: Dục lậu, Hữu lậu, và Vô minh lậu. Nói: “Tâm được giải thoát” nói đoạn trừ duyên cành lá gốc rễ vô minh tiềm phục nhưng không khởi sinh, đó là giải thoát chứ chẳng phải đoạn trù vô minh là đại giải thoát. Nói “ Thiền định” “ ba minh” … đều là quả chứng được của hàng nhị thừa.“Nói pháp lần thứ hai thứ ba” … là nói kế tiếp, các pháp hội ấy cũng thuyết pháp Tứ đế, mười hai nhân duyên mà Tiểu thừa được độ thoát. Nên gọi là “Bất khả xưng số”.

9. Từ câu: “Nhĩ thời thập lục vương tử” đến câu: “Vương tức thính hứa”

(Bấy giờ 16 vị vương tử… vua liền thuận cho).

Đoạn này các vương tử thỉnh cầu thuyết pháp Phật Đại thừa.

Mười sáu vị vương tử ban đầu xả bỏ tham ái, gần gũi đức Đại Thông Trí Thắng, thỉnh ngài chuyển bánh xe pháp. Điều thỉnh cầu ấy chỉ là làm an ổn thiên nhân, tuy không nói là Tiểu thừa nhưng ý là ở nơi Tiểu thừa. Cho nên đức Đại Thông Trí Thắng trước hết nói pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên. Như nay Đức Thích Ca ban đầu thuyết kinh A Hàm, là Tiệm giáo, các vị Tiểu thừa nhờ đó mà được hóa độ.

Các vị vương tử đều là đồng tử xuất gia, đặc biệt thỉnh Phật thuyết pháp Vô thượng bồ đề, là pháp thành Phật. Tự bày tỏ bổn nguyện thâm sâu, đó là chí nguyện thành Phật, không phải đối tượng hiểu biết của nhị thừa. Các vương tử xuất gia biểu tượng cho sự giải thoát khỏi triền phược, các thức đã được chuyển hóa, thì tất cả gốc rễ cành ngọn của phiền não đều chuyển thành diệu dụng chân như. Đó là ý nghĩa chuyển luân vương đem thần dân tám vạn ức người cũng xuất gia. Các thức đều chuyển thành tác dụng Trí tuệ, là nhân chính tác thành Phật quả. Đó là lý do thỉnh Phật thuyết pháp Đại thừa.

10. Từ câu: “Nhĩ thời Phật thọ sa di thỉnh” đến câu: “Ư kim bất tận” (Bấy giờ Đức Phật nhận lời thỉnh của sa di… đến nay vẫn chẳng ngớt).

Đoạn này nói về Đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời thuyết pháp Đại thừa.

Tuy đã nhận lời mà còn chờ hơn hai vạn kiếp mới nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chờ thời gian chín muồi mới nói, cũng như hôm nay, do Phật kia thọ mạng rất dài nên thời gian chờ đợi cũng lâu, điều ấy tự nhiên. Đến khi thuyết pháp, thuyết riêng cho mười sáu vị vương tử, là chúng đương cơ có thể thọ trì và tin nhận. Ngoài ra các Thanh văn có thể có lòng tin nhưng thọ trì thì chưa. Chúng sinh còn lại đều mang lòng nghi hoặc, đó chính là những hạt bụi lúc ấy, trở thành chúng đương cơ ngày nay. Vì đối tượng còn nghi hoặc ấy mà thời gian thuyết pháp lâu dài đến 8. kiếp. Nay thuyết kinh này, chưa đủ số năm mà cơ duyên tiếp nhận đã hết, căn cơ ở mà ngưng ngay đây. Còn những người chưa thuần thục thì làm nhân tố của tương lai. Đức Như Lai thuyết kinh này xong, không bao lâu Ngài nhập Niết bàn, duyên hóa độ đã mãn. Còn Phật Đại Thông Trí Thắng nhập thất thiền định để chờ sự thành thục của mười sáu vị vương tử. Ngài muốn đem Diệu pháp truyền nối đến vô cùng, đó gọi là “ Hộ niệm phó chúc giáo Bồ tát pháp”. Thời bấy giờ có vị vương tử thuyết kinh Pháp Hoa, đó là vị vương tử thủy tổ của kinh Diệu Pháp Liên Hoa từ khi thành Phật độ sinh đến nay chưa rời khỏi Đại thông tam muội.

Phật Trí Thắng nhập định tám vạn bốn ngàn kiếp, biểu tượng cho 84. phiền não của chúng sinh, là cánh cửa thiền định của chư Phật, là tác dụng Trí tuệ và đức hạnh của Bồ tát.Do vậy có thể hóa độ sáu trăm vạn ức na do tha hằng hà sa chúng sinh. Tiêu biểu cho chuyển hóa vi tế phiền não của sáu thức thành diệu hạnh của sự thành Phật, làm cho tất cả đều phát tâm Bồ đề. Thế mới biết sự nghi hoặc của chúng sinh, nếu không nhờ công đức tích luỹ tri thức lâu ngày, thì làm sao mà sinh chánh tín được. Thật là khó tin khó hiểu. Vì vậy mà trong hội chúng này có nhiều người rút lui không dự.

Đức Đại Thông Trí Thắng ra khỏi thiền định ấn chứng cho mười sáu vị sa di đã khéo léo thuyết pháp trọng yếu. Ngài dặn dò đại chúng cần phải gần gũi cúng dường. Chính là nhân duyên chủng tử của ngày hôm nay.

Từ câu: “ Vì sao như vậy” trở xuống, là giải thích ý nghĩa của sự gần gũi. Vì người trong ba thừa chỉ tin thuyết lý của mười sáu vị này, nên đều được ích lợi lớn về trí tuệ Như Lai. Vậy mới bảo nên gần gũi. Câu: “Phật bảo các Tỳ kheo” trở xuống, là biểu thị dấu vết ngày xưa làm nhân tố cho ngày nay. Mười sáu vị Bồ tát thường nói Diệu pháp là để giáo hóa chúng sinh, đời đời không dứt. Lâu dài mà tự tin là làm hiển lộ công phu nghe và huân tập Diệu pháp. Trải qua nhiều đời gặp Phật, đến nay không cùng tận. Qua đó nói rõ cội nguồn của Diệu pháp xuất sinh cho đến ngày nay, đó là nhân duyên không nhỏ vậy.

11. Từ câu: “Chư tỳ kheo ngã kim ngữ nhữ” đến câu: “Thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề” (Các Tỳ kheo! Ta nói với các ông… Thành vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này nói 16 vị vương tử do công đức thuyết Diệu pháp mà được thành Phật, thị hiện trong tám phương, tên gọi khác nhau, do vì tùy theo đức hạnh mà phù hợp với tên gọi. Theo lối giải thích xưa thì căn cứ theo bát quái mà giải vốn có lý, người học dễ hiểu Đức Thích Ca Mâu Ni thị hiện cõi Ta bà, còn gọi là cõi khó nhẫn. Đặc biệt theo bổn nguyện mà ở trong thế giới khó chịu đựng để giáo hóa chúng sinh. Nếu không có lòng từ bi sâu sắc và chí nguyện lớn, thì ai có thể chịu được như vậy! Phẩm Thọ Lượng nói: “Thật ra ta đã thành Phật đến nay rất lâu rồi”. Ở đây nói: “ Ta thành Phật trong cõi Ta bà”, là muốn nói rằng Đức Thích Ca là ứng thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, thế mới biết cả ba thân đồng một thể, lâu và mau đều mất. Đó là lực Bất tư nghì của Phật vậy.

12. Từ câu: “Chư Tỳ kheo” đến câu: “Vị lai thế trung, Thanh văn đệ tử thị dã” (Các tỳ kheo … các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai).

Đoạn này Đức Như Lai thuật lại những sự giáo hóa thuở xưa, chính là nhân duyên ngày nay.

Ban đầu Đức Như Lai chỉ dùng Diệu pháp nhất thừa làm chủng tử thành Phật. Đã độ cho vô lượng chúng sinh đều theo Phật, phát Bồ đề tâm rồi, mà nay vẫn ở địa vị Thanh văn. Ở đây nói về sau bị thoái đọa. Trước đã nói: Ngày xưa ta dạy chí nguyện về Phật đạo mà nay các ông đều quên. Thật vậy, ban đầu dùng pháp Đại thừa dạy các ông, muốn các ông thành Phật, nhưng các ông đều quên, nên nay ta phải dùng pháp Tam thừa để các ông dần dần thành tựu Phật đạo. Đây là nguyên nhân ngày xưa, các ông chỉ chấp chặt pháp tạm thời được thiết lập thuở trước mà không đạt ngộ được ý nghĩa chân chính của Như Lai. Do vậy mới nói trí tuệ Như Lai, khó tin khó hiểu. Bây giờ đây đại chúng được giáo hóa, tức là các ông nay hiện diện, làm đệ tử thọ giáo. Ngày nay duyên đã thuần thục là thời kỳ đắc đạo. Ngoài ra những người chưa được thọ ký thì nhân tố ngày xưa vẫn còn đó, sẽ làm duyên cho tương lai. Sau khi ta diệt độ, đời vị lai làm Thanh văn đệ tử là các ông vậy.

13. Từ câu: “Ngã diệt độ hậu” đến câu: “Trừ chư Như Lai phương tiện thuyết pháp” (Sau khi ta diệt độ … trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp).

Đoạn này nói rộng hơn về nhân duyên đắc đạo trong tương lai.

Những đệ tử được ta giáo hóa, đời này không thể nhận hết sự giáo hóa của Phật. Sau khi ta diệt độ có người không tin kinh này, vướng mắc vào pháp tiểu thừa, thì ta ở một cõi Phật khác, sẽ có một danh hiệu khác để tạo điều kiện hóa độ cho họ. Tức là ở cõi khác mà nhận sự giáo hóa và cũng từ kinh này mà vào Phật đạo, không có thừa nào khác, ngoại trừ nói các phương tiện. Vậy mới biết chư Phật độ sinh thành Phật đều lấy Kinh này làm cứu cánh.

Nói ở nước khác làm Phật, như trong Kinh Hoa nghiêm phẩm danh hiệu Phật, nói Phật có bốn trăm ức mười ngàn tên gọi, đều tùy cơ mà ứng hiện danh hiệu. Tuy nhiên tên gọi có khác mà thực chất không khác, đều dùng Diệu pháp khai thị trí tuệ Phật cho chúng sinh.

14. Từ câu: “Chư tỳ kheo” đến câu: “Duy nhất Phật thừa đắc diệt độ nhĩ” (Các Tỳ kheo … chỉ có một Phật thừa đặng diệt độ thôi).

Đoạn này là phần kết, tổng quát về sự thật đã trình bày ở trên.

Chư Phật ra đời, tuy vì một nhân duyên lớn, nhưng vẫn quyết định thuyết ba thừa để dẫn lối cho chúng sinh, chờ cơ duyên thành tựu, hóa duyên sắp hết, sau đó mới nói Kinh này. Triệt để bác bỏ pháp tạm ngày xưa, chỉ nói một pháp chân thật. Đây là nguyên tắc độ sinh của chư Phật. Đại chúng đều đã thanh tịnh, đó là những người căn cơ đã chín muồi có thể thọ nhận được. Cho nên mới tập trung các vị Bồ tát mà nói kinh này, họ đều được thọ ký làm Phật, mới thỏa mãn được tâm nguyện xuất thế vậy.

15. Từ câu: “Tỳ kheo đương tri” đến câu: “thử thành phi thực, ngã hóa tác nhĩ” (Tỳ kheo nên rõ … thành này không phải thật của ta, do ta biến hóa làm ra đó thôi).

Đoạn này lấy thí dụ về Hóa thành để chỉ dẫn đi tới, trước thiết lập pháp tạm thời làm thí dụ gốc.

Đức Như Lai sở dĩ trước hết thiết lập Tiệm Giáo sử dụng phương tiện quyền trí, là vì quán sát thấy chúng sinh, tâm ưa muốn không giống nhau. Biết họ thích pháp nhỏ, khó mà làm họ giác ngộ pháp lớn, nên thuyết về Niết bàn của Tiểu thừa, tạm thời dừng nghỉ.

Từ câu: “Thí như đường hiểm” trở xuống, là dụ nói về ý muốn thiết lập pháp phương tiện. “Năm trăm do tuần” dụ cho chúng sinh lưu chuyển trong năm đường, ba độc hưng thịnh. Nên dụ là ác đạo làm mất tính chân thật, chỉ chạy theo tham, sân. Cho nên gọi là “Chốn ghê sợ”. Nói: “hoang vắng không người”, dụ cho chúng sinh mê muội. Chốn trân bảo, dụ cho cõi Diệu trang nghiêm hải, là quả giác báo độ. “Nhiều người” dụ cho người trong ba thừa muốn ra khỏi sinh tử và muốn làm Phật. Bên Ấn Độ những người đi buôn tìm châu báu, phải có một người làm người dẫn đường. Ở đây dụ cho Đức Thích Tôn xuất thế làm đạo sư cho chúng sinh, dẫn chúng sinh ra khỏi năm đường. Cho nên nói: muốn vượt qua nạn này, còn đem theo những người mệt mỏi muốn lui. Đây là dụ cho hàng nhị thừa hẹp hòi, yếu đuối, lo sợ Phật đạo xa xôi, đều muốn ngừng nghỉ. Nói “Vị đạo sư nhiều sức phương tiện”, dụ cho Đức Thế Tôn thiết lập phương tiện tạm thời. “Quá ba trăm do tuần hóa làm một cái thành” dụ cho ngoài ba cõi, thiết lập Niết bàn Tiểu thừa làm chỗ nghỉ giữa đường. Nói “Chúng mỏi mệt rất vui mừng” là dụ cho hợp với tâm người Nhị thừa. “Mọi người vào thành sinh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn” là dụ cho hàng Tiểu thừa đắm trước Niết bàn, không chịu tiến lên nữa. Nói: “Bậc đạo sư, khi biết đại chúng đã hết mệt mỏi liền phá bỏ hóa thành” là dụ cho ngày nay căn cơ đã thuần thục bỏ pháp tạm lập pháp chân thật. Nói “Chỗ chân báu ở gần” dụ cho Phật quả không xa, quyết đi tới thì gặp. Như vậy các thí dụ nói rõ vì hàng hạ căn mà khai quyền hiển thị pháp thật.

“Các Tỳ kheo” trở xuống, nói đến Pháp và Dụ phù hợp. Nói“ Biết các đường dữ sinh tử” trở xuống, là ý nói muốn biết thông suốt nền tảng (con đường sinh tử). “Nếu như chúng sinh” trở xuống, là nói sợ xa làm mỏi mệt, nếu chỉ nói Phật thừa mà không mở phương tiện thì chúng sinh sợ hãi Phật đạo quá xa. Vì thế không thể không lập phương tiện. “Phật biết tâm chúng” trở xuống, ý nói đến Hóa thành, “Hai món Niết bàn” tức hai quả vị Thanh văn và Duyên giác. “ Nếu chúng sinh trụ nơi” trở xuống, phù hợp với ý là đại chúng nghỉ ngơi, liền bỏ hóa thành để khích lệ tiến tới bảo sở. Nhất thừa Phật huệ chính là bảo sở. Hàng nhị thừa đã ra khỏi con đường hiểm trở của ba cõi, nên gọi là “Gần với huệ của Phật”. Do bỏ quyền mà thành thật pháp, nên thành Phật không khó. Đây là ý nghĩa của khai quyền hiển thật vậy.

16. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Vật hoài kinh cụ” (Lúc đó Đức Thế Tôn… dè dặt chớ kinh sợ).

Đoạn kệ tụng này nói việc nhân duyên.

Từ câu: “Đức Đại Thông Trí Thắng Phật” trở xuống 16 câu, nói lại Đức Đại Thông Trí Thắng thành Phật. Câu “Mười sáu người con Phật” trở xuống bốn câu, nói vương tử gặp Phật. Câu: “Đầu mặt lạy chơn Phật” trở xuống, nói Vương tử thỉnh Phật thuyết pháp. Câu: “Các thế giới phương đông” trở xuống 20 câu, nói về Phạm thiên trong mười phương thỉnh Phật chuyển pháp luân. Câu: “Thế Tôn huệ vô lượng” trở xuống 8 câu, nói về Phật chấp nhận lời thỉnh cầu mà khai mở tiệm pháp. Câu: “Tuyên nói pháp đó rồi” xuống 4 câu, nói về hội thuyết pháp thứ nhất, hàng Nhị thừa được lợi ích.Câu: “Thời nói pháp thứ hai” xuống 8 câu, là nói lại hội thứ 2, 3, 4, rất nhiều người được lợi ích. Câu: “Bấy giờ mười sáu vị” xuống 8 câu, là nói Vương tử thỉnh Phật thuyết pháp Đại thừa. Câu: “Phật biết lòng đồng tử” xuống 10 câu, nói lại Phật chấp nhận vì họ mà nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Nói “Kệ nhiều như hằng sa” là nói không gian rộng và thời gian dài, cho nên kinh được nói, lời lẽ cũng nhiều như vậy.

Những lời đàm luận phù hợp chân lý, hợp với căn cơ, vốn không phải là một pháp nhất định. Cho nên Kinh này một thời chỉ hai mươi tám phẩm mà Phật Đăng Minh nói 60 kiếp, Đức Đại Thông Trí Thắng thì nói 8. kiếp. Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát nghe từ nơi Phật Oai Âm Vương hai mươi vạn ức bài kệ, Hỷ Kiến Bồ Tát nghe từ nơi Phật Nhật Nguyệt Tịnh Đức 500 vạn ức A súc bà bài kệ. Đây là nói pháp phù hợp chân lý. Nói rộng hẹp không đồng vì thông suốt phương tiện mà nói (nên tùy mà nhiều hay ít).

Từ câu: “ Phật kia nói Kinh rồi” xuống 16 câu, là nói Đức Đại Thông Trí Thắng nhập định, các vương tử nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa độ cho hằng sa chúng. Câu: “Sau khi Phật diệt độ” xuống 4 câu, nói lại đại chúng được giáo hóa, đời đời làm nhân duyên được hóa độ. Trong văn Trường hàng không có nói diệt độ, trong kệ tụng lại nói. Câu: “Mười sáu vị sa di đó” xuống 4 câu, nói về Vương tử thành Phật. Câu: “Người nghe pháp thuở đó” xuống 8 câu, nói về 16 vị Phật đều thuyết Diệu Pháp, để dẫn vào Trí tuệ Phật. Thế mới biết duyên hóa độ đến nay rất là lâu xa. Câu: “Do bổn nhân duyên đó” xuống 4 câu, nói về sự giáo hóa bây giờ đều do duyên xưa, đã gieo chủng tử thành Phật thì nay làm Phật, đừng có hoài nghi. Như vậy trải qua nhân duyên xưa, do hạ căn mê mờ mà thành không tin.

17. Từ câu: “Thí như hiểm ác đạo” đến câu: “Dẫn nhập ư Phật huệ” (Thí như đường hiểm dữ… dẫn vào nơi huệ Phật).

Đoạn kệ tụng này từ câu đầu đến câu 46 là nói chung về các thí dụ như ở văn Trường hàng đã nói. Trong văn Trường hàng thì nói hóa thành mà kệ tụng lại nói thành quách, nhà cửa, vườn tược, rừng, suối, ao hồ, lầu các, nam nữ đầy đủ các việc. Tức là ví dụ rộng về kết quả của Quyền pháp tam thừa, công đức lợi ích như vậy. Đại hay Tiểu đều giống nhau, đều không phải là thực chứng. Nên gọi chung là biến hóa làm ra để nghỉ ngơi mà thôi.

Câu: “Ta lại cũng như vậy” trở xuống, là nói về pháp. Mười câu đầu là khai mở phương tiện “Đã biết” xuống 16 câu, là bỏ Quyền lập Thật. “Các Phật là đạo sư” xuống bốn câu, là tổng kết Pháp và Dụ, trọn nghĩa của một phẩm.

 

Phẩm Năm Trăm Đệ Tử Thọ Ký Thứ Tám

Đại ý phẩm này, nói về năm trăm đệ tử đã nghe xong Pháp và Dụ (của hai phẩm trước) năm đệ tử đã được thọ ký. Còn nghe được sự việc nhân duyên đời trước; biết Phật sử dụng vô lượng phương tiện để dẫn dắt chúng sinh, vốn đã gieo trồng chủng tử Nhất thừa. Do đó mà tin Phật tâm và tin tự tâm chắc chắn thành Phật, nghĩ ngợi hoài nghi đã hết nên gọi là “Tâm đã tịnh”. Tâm chí muốn được thọ ký nên gọi là “Hớn hở” Gánh vác gia nghiệp, tình cha và con đều mất nên gọi là “Bản nguyện thân tâm chỉ có Phật có thể biết”. Cho nên Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả 1200 vị, viên mãn được bản hoài xuất thế.

Kinh này người kết tập lấy chữ “ Thọ Ký” làm tiêu đề của phẩm nghĩa là đã có lòng tin lớn, có thể mang vác và thọ nhận, nên có phẩm này. Kinh đưa ra 1200 vị mà trong phẩm chỉ nói tiêu biểu năm trăm người, muốn nói năm trăm người là thượng thủ của 1200.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Phú Lâu Na” đến câu: “Chiêm ngưỡng tôn nhan mục bất tạm xả” (Lúc bấy giờ ngài Phú Lâu Na (Mãn từ tử)… chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm ngừng).

Đoạn này người kết tập trình bày sự lãnh hội của ngài Mãn Từ Tử.

Từ nơi Phật mà nghe được nhiều vấn đề như: nghe thuyết pháp về hai trí thâm sâu, nghe thí dụ về ba xe, và một xe tùy cơ nghi mà thiết lập, năm đệ tử được thọ ký. Nay còn nghe nhân duyên ngày xưa của Đức Đại Thông Trí Thắng, các ngài dùng thần thông mà biến ra hóa thành… các việc trên đây đều là những điều chưa từng được nghe, chưa từng hiện hữu. Trước đây chưa nghe được pháp này, thì sinh hoài nghi, tiếc và chấp quả vị tiểu thừa. Khi đã được nghe và hiểu rồi thì lòng nghi hoặc được tiêu trừ, do vậy gọi là “Tâm tịnh”. Tự tin mình đến lúc sẽ thành Phật, nên “Hớn hở vui mừng”, do đó chỉnh đốn ba nghiệp, đứng thẳng chiêm ngưỡng mong Phật thọ ký.

2. Từ câu: “Nhi tác thị niệm” đến câu: “Ngã đẳng thâm tâm bổn nguyện” (Mà nghĩ thế này … bổn nguyện trong thâm tâm chúng con)

Đoạn này nói lại những lời của ngài Mãn Từ Tử.

Ngài tán thán sự hy hữu đặc thù của Phật, vì nghe được ba lần khai thị của Phật mà ngộ được Phật tâm, nên sinh tâm vui mừng. Phật đã tùy thuận theo thế gian mà làm cho chúng sinh vượt ra ngoài sự tham lam chấp thủ, đây chính là sự đặc biệt hy hữu. Ngài Không Sinh ở nơi pháp hội Bát nhã, chợt thấy cái tâm hộ niệm phó chúc của Thế Tôn, nên ca ngợi là hiếm có, do đó không nói mà hiểu. Nay ngài Mãn Từ Tử đã nghe qua ba châu Pháp, Dụ và Nhân duyên) đủ thấy được lòng đại từ, đại bi của Như Lai. Không khi nào lại không có hộ niệm phó chúc để cho chúng sinh trong năm tính ba thừa vĩnh viễn thoát ly chấp trước. Đó là việc rất hiếm có, hiếm có vì lời nói mà tỏ ngộ.

Đức Như Lai ở trước có nói với Ca Diếp và các đệ tử rằng: Không thể biết hết công đức chân thật của Như Lai. Ngài Mãn Từ Tử tự cho rằng: Chúng con đối với công đức của Phật, thật ra không thể nói hết bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên chúng con trong thâm tâm đều muốn hổ trợ tuyên dương Phật pháp, hộ trì phát nguyện lưu thông chánh pháp. Ý chúng con muốn được thọ ký. Tấm lòng này cũng không thể nói bằng lời. Chỉ có Phật Thế Tôn mới chứng tri cho tâm con. Đó không phải lời nói hời hợt.

Ở trước ngài Ca Diếp.v.v.. tự thuật lại sự lãnh hội đã có bao nhiêu lòng hoài nghi rối rắm. Nay ngài Mãn Từ Tử chỉ nói rằng thâm tâm bổn nguyện của mình chỉ có Phật biết, tức là từ trước đến nay không có nghi ngờ gì đối Phật, làm hiển lộ cái bí mật bên trong để làm phát khởi tín tâm cho hàng hạ căn tuệ yếu. Đây là ý nghĩa của sự “Trợ duyên”. Do vậy ngài mới ở bậc thượng thủ của 1200 vị, là có lý do vậy.

3. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo chư tỳ kheo” đến câu: “Vô năng tận kỳ ngôn luận chi biện” (Bấy giờ Phật bảo các tỳ kheo… không ai có thể cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông).

Từ đoạn này trở xuống, Đức Như Lai nói về lịch sử công hạnh nội bí (bên trong hành Bồ tát) và ngoại hiện (bên ngoài hiện tướng Thanh văn) để trợ tuyên Phật pháp của ngài Mãn Từ Tử, để nói về sự thành tựu bổn nguyện trong thâm tâm của ngài như vậy.

Từ câu: “ Các ông thấy chăng” trở xuống, là nói Mãn Từ Tử hiện nay trợ tuyên pháp của Đức Thích Ca. Có như vậy là vì ngài Mãn Từ Tử rất giỏi thuyết pháp, được Thế Tôn gọi là thuyết pháp đệ nhất. Ngoài Đức Như Lai ra không ai có thể biết hết khả năng biện luận và ngôn ngữ của Ngài. Ở đây nói về rất giỏi thuyết pháp vậy.

4. Từ câu: “Nhữ đẳng vật vị Phú Lâu Na” đến câu: “Đương tác Phật sự giáo hóa chúng sinh” (Các ông chớ tưởng Phú Lâu Na… thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh).

Đoạn này thuật lại việc làm của ngài Mãn Từ Tử hộ trì tuyên dương Pháp Phật ở trong quá khứ, qua đó thấy được tâm nguyện sâu sắc của ngài.

Nói: “Thông suốt pháp không” là nói chứng đạt thật tướng chân không. Nói: “Tứ vô ngại” là nói biện tài thuyết pháp, chỉ có Phật mới có khả năng vẹn toàn mà ngài Mãn Từ Tử có đủ. Thường an trú chân lý mà quán căn cơ, thuyết pháp thanh tịnh nên không chấp trước pháp tướng; không còn nghi hay lầm pháp nên thuyết pháp một cách xác định; đầy đủ các hạnh Bồ tát… nên “Nội bí ngoại hiện” mà người không biết mật hạnh ấy, đều cho rằng đó là Thanh văn, họ chỉ biết bề ngoài của ngài. Việc giáo hóa rất nhiều chúng sinh, làm cho chúng an trụ Bồ đề thì pháp ngài thuyết không phải là tiểu pháp. “Muốn tịnh cõi Phật mà thường làm phật sự”. Đó không phải là hạnh nhỏ. Đều là việc do bổn nguyện trong thâm tâm.

5. Từ câu: “Chư Tỳ Kheo” đến câu: “Tiệm tiệm cụ túc Bồ tát chi đạo” (Các Tỳ kheo… lần lần đủ đạo Bồ tát).

Ở trên thuật lại xưa phụng sự nhiều Đức Phật quá khứ. Ở đây nói thời gian gần hơn, là phụng sự bảy Đức Phật quá khứ. Chư Phật quá khứ tuy nhiều, nhưng ở kiếp sau cùng là Trang nghiêm kiếp, tức Phật Tỳ bà thi, Thi khí, Tỳ xá phù, ba Đức Phật. Còn ở đầu hiền kiếp là Phật Câu Lưu Tôn, Câu na hàm, Ca Diếp, đến Thích Ca Mâu Ni gồm bốn Phật, cộng chung là bảy vị Phật. Đây là Phật Cận kiếp tương truyền tâm ấn cho nhau. Từ đây trở đi là hiền kiếp tương lai, cho đến Tinh tú kiếp chư Phật, mỗi mỗi Phật đều hộ trì trợ duyên Phật pháp, Chuyên lấy việc thuyết pháp làm công hạnh. Trang nghiêm tịnh độ, giáo hóa chúng sinh, đầy đủ đạo Bồ tát để làm nền tảng thành Phật.

Ở trước năm người được thọ ký thành Phật, Đức Thế Tôn chỉ nói công hạnh gần gũi cúng dường chư Phật mà thôi. Nay thọ ký cho vậy. Do Đức Thế Tôn mật ý chú trọng hộ trì chánh pháp, rộng rãi kết duyên thành Phật làm đức hạnh lớn. Cho nên trong nhân không cần tu hạnh khác, chỉ lấy việc trợ duyên hộ trì Phật pháp làm diệu hạnh đệ nhất. Về sau lần lượt phó chúc trì Kinh, khen ngợi rộng rãi công đức pháp sư. Đều là ý này.

6. Từ câu: “Quá vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp” đến câu: “Khởi thất bảo tháp biến mãn kỳ quốc” (Qua vô lượng vô số kiếp sau … dựng tháp bằng bảy báu khắp cả nước đó).

Đoạn này nói ngài Mãn Từ Tử được thọ ký.

Nhờ trong nhân hoằng pháp, truyền tâm ấn Phật nên không rời đương xứ mà chứng Bồ đề.

Cho nên kết quả thọ ký là ở nơi quốc độ này mà chứng Bồ đề. Nhìn lại cõi ta bà vốn ô nhiễm mà quốc độ quả chứng của ngài Mãn Từ Tử thuần túy thanh tịnh, cho thấy ô nhiễm tức thanh tịnh, biểu thị cho thật tướng quốc độ, do tâm chuyển biến. Đây là điều có thể hiểu được.

Do trong nhân tố đã thông đạt các không pháp một cách rõ ràng, nên kết quả hiệu là Pháp Minh. Do tương xứng với pháp tánh, nên tịnh độ lợi sinh rộng lớn vô lượng. Nên chiêu cảm kết quả y báo là được nhiều cõi Ta bà như cát sông Hằng trở thành một quốc độ. Do tâm đại bi bình đẳng, thuyết pháp thanh tịnh, nên y báo là quốc độ có mặt đất bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò. Do tâm tương ứng pháp tánh mà kiến lập các pháp, nên các lâu đài thất bảo đều đầy đủ. Do lúc đang thuyết pháp tâm ô nhiễm và thanh tịnh cũng như tình cảm đều mất, thiện và ác đều bình đẳng. Cho nên trời và người giao tiếp, gặp gỡ nhau, không có các đường ác. Trong nhân tố thường tu phạm hạnh, giáo hóa chúng sinh nên được quả là quốc độ không có đàn bà và sự dâm dục, chúng sinh đều do hóa sinh, là quả báo của sự thanh tịnh thuyết pháp. Chúng sinh ở đó do không dâm dục sinh nên thân thể phát ánh sáng, vĩnh viễn từ bỏ sự trói buộc của ái dục. Có thể bay đi một cách tự tại. Chúng sinh đều do pháp hóa sinh nên ý chí và niệm lực rất vững chắc, tinh tấn và trí tuệ, không có các vọng tưởng tạp loạn, thân thể đều là màu vàng, đó là quả báo của ly dục. Chúng sinh đều do ăn uống mà sống, dân trong nước đều là hóa sinh nên không hấp thụ món ăn dục lạc, chỉ lấy niềm vui thiền định làm món ăn. Ở đây chỉ nói pháp Bồ tát nên quyến thuộc đều bậc đại Bồ tát. Thanh văn cũng nhiều do dần dần đầy đủ đạo Bồ tát. Đó là do sự thâu nhiếp của nguyện lực cả.

Ở trên là biểu hiện của y báo trang nghiêm, kiếp tên là Bảo Minh, tức là pháp bảo viên minh. Thời kỳ không có năm trược, nên đất nước tên là Thiện Tịnh, do nhân thuyết pháp thanh tịnh mà ra. Thọ mạng chỉ nói là vô lượng mà không nói con số cụ thể. Pháp tồn tại không nói Chánh pháp hay Tượng pháp chỉ nói rất lâu mà không định thời gian. Đây là vì thuyết pháp phù hợp pháp tánh, mà pháp tánh chân lý vốn không có trước sau, cho nên Tuệ mạng là thường trụ, chánh pháp thường còn. Sau khi chết xây tháp khắp nơi trong nước. Đó là nhân quả thuyết pháp của ngài Mãn Từ Tử được Đức Phật thọ ký riêng. Đủ để biết mật của Như Lai là coi trọng công đức duy trì Kinh. Hơn nữa thế giới Ta bà là cõi do Đức Thích Ca giáo hóa, là ngũ trược ác thế, nơi hội tụ của khổ đau, gọi là kham nhẫn. Cõi ấy núi đồi, sông ngòi, hầm hố, cao thấp không đồng, tiện lợi cho sự ô nhiễm phát triển, độc ác sung mãn, chúng sinh thì dâm dục, là đất của sự trầm luân sinh tử. Là chỗ hàng Tiểu thừa sợ hãi như lao ngục gông cùm, tránh né không dám đi vào. Nay ngài Mãn Từ Tử được thọ ký, không rời cõi này mà chứng Bồ đề, đất bằng như bàn tay, cõi nước được thanh tịnh như thế, tuyệt đối không có đàn bà, chúng sinh đều do hóa sinh, thân thể đều có ánh sáng như thế, lại lấy vô lượng cõi Ta bà làm một cõi nên cõi ấy rộng lớn vô cùng.

Đây chính là đặt biệt bày tỏ hàng Nhị thừa mở Tri kiến Phật nên tâm nhỏ hẹp tiêu trừ, tâm chấp hay xả đều mất, tâm phấn khởi hay nhàm chán đều ngưng. Sở ngộ trước mắt thuần là Hoa Tạng Trang Nghiêm, là cõi Phật Thật báo thanh tịnh không hướng ngoài tìm cầu, ngay đó không nghi liền lên đất Phật. Công đức thọ ký đều biểu hiện ở đây. Hàng hạ căn liệt giải sao không tự tin, mà cam chịu đứng ngoài tri kiến Phật sao! Quốc độ thanh tịnh hay ô nhiễm đều do tâm mà chuyển hóa, sao lại không tin? Xem đây đã đủ biết phương tiện giáo hóa thiện xảo của Đức Như Lai, thành thật mà nói Phật trí là Bất khả tư nghì vậy. Nếu việc thọ ký này và thọ ký khác mà coi nhẹ sẽ không đạt được ý vi diệu của Như Lai.

7. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn” đến câu: “Ngã kim đản lược thuyết” (Bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên… nay ta chỉ nói lược)

Đoạn kệ tụng này nói chung việc “Nội bí ngoại hiện” (trong ẩn hạnh Bồ tát, ngoài hiện tướng thanh văn).

Ngài Mãn Từ Tử, vì ngài Thân Tử cùng với mười vị đại đệ tử của Phật, đức hạnh đồng nhau. Đặc biệt trình bày dấu vết ứng hiện quyền pháp ngài đứng đầu 1200 vị Tỳ kheo. Đây là biểu thị đặc biệt để làm phương tiện tiếp dẫn hàng độn căn, muốn làm cho họ biết ơn mà tin hiểu.

Hàng Thanh văn có quyền hiện và có thật quả, mà 1200 vị đều có thật quả độn căn. Nếu biết ngài Mãn Từ Tử … đều phương tiện ứng hiện, tức có thể bỏ Tiểu mà tin Đại. Cho nên Đức Như Lai ở nơi sự kiện này làm rõ cái bí mật vậy.

Từ câu: “ Nay Phú Lâu Na đây” trở xuống 30 câu, nói chung công hạnh quyền hiện để hộ trì và tuyên dương Phật pháp. Câu: “Sau đó đặng thành Phật” trở xuống 22 câu, là nói riêng việc thọ ký của ngài Mãn Từ Tử. Từ câu: “Phú Lâu Na Tỳ kheo” trở xuống 6 câu, là lời kết kệ tụng có thể biết, nói chỉ là lược thuyết còn công đức thì không thể nghĩ bàn.

8. Từ câu: “Nhĩ thời thiên nhị bách A La Hán” đến câu: “Tam miệu tam Bồ Đề ký” Bấy giờ 1200 vị A La Hán… thọ ký đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này 1200 vị A La Hán xin Phật thọ ký.

Do Đức Như Lai khen ngợi túc duyên sâu dày của ngài Mãn Từ Tử, không phải là chỗ mà 1200 vị dám mong ước, nay nghe Phật khai thị, vốn vì tiếp dẫn hàng độn căn, cũng để các người độn căn có lòng tin mình có phần thành Phật. Cho nên họ vui mừng mà xin. Đức Phật biết tâm của đại chúng nên nói với ngài Ca Diếp. Như vậy ta đã thoả mãn bản hoài, trong lòng tự vui sướng nên đặc biệt bảo các ngài thượng thủ như là những người cộng sự của mình để chia sẻ ý vui mừng.

9. Từ câu: “Ư thử chúng trung” đến câu: “Tận đồng nhất hiệu danh viết Phổ Minh” (Trong chúng đó… đều đồng một hiệu là Phổ Minh).

Đoạn này là thọ ký cho năm trăm vị đệ tử.

Đức Phật ban đầu ở vườn Lộc uyển, ba lần chuyển bánh xe pháp Tứ đế, độ năm người thân mà Kiều Trần Như giác ngộ trước. Vì được độ thuở ban đầu, nên ở hàng thượng thủ của Tăng, tức là bậc lãnh tụ của hàng thật quả A La Hán. Cho nên năm trăm vị là đặc biệt nêu ra làm tiêu biểu. Được thọ ký riêng để có sự khác biệt với người khác. Khi thọ ký Phật không nói đến công hạnh trong quá khứ là ý liệt sáu người có thể noi gương.

Phật quả hiệu là Phổ Minh là vì mở được tri kiến Phật, nhập vào trí tuệ Phật nên không còn si ám. Kệ nói:

“ Thường phóng ánh sáng lớn

Thường nói đạo vô thượng”

Cho nên được tên hiệu này 500 vị A La Hán đều cùng một danh hiệu tức là đức hạnh giống nhau. Không nói thời gian, quốc độ… Trong bài tụng có đủ. Kinh có trường hàng và kệ tụng, rộng hay lược hỗ trợ cho nhau có thể thấy rõ.

10. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Nhữ đương vi tuyên thuyết” (Bấy giờ Đức Thế Tôn … Ông nên vì tuyên nói).

Đoạn kệ tụng này nói lại sự thọ ký của ngài Kiều Trần Như, làm tiêu biểu trong chúng.

Từ câu: “Kiều Trần Như Tỳ kheo” trở xuống 10 câu, nói về danh hiệu Chánh báo. Từ câu: “ Cõi nước đó thanh tịnh” trở xuống 10 câu, nói về y báo quyến thuộc. Câu “Phật thọ sáu muôn kiếp” trở xuống ba câu, nói thọ mạng Phật pháp tại thế gian. Từ câu: “Pháp diệt trời người lo” trở xuống tám câu, là liệt kê 500 vị tuần tự thành Phật giáo hóa cuộc đời, cũng như Phật ngày nay theo căn cơ giáo hóa đều sử dụng “Quyền” trước “Thật” sau. Từ câu: “ Cõi nước đó nghiêm sạch” trở xuống sáu câu, nói về y báo quyến thuộc, thọ mạng của Phật pháp đều giống như Kiều Trần Như. Câu “Ca Diếp! ông nên biết” trở xuống 6 câu, là nêu năm trăm vị, còn bảy trăm vị khác đều được quả thọ ký tương đồng. Trong văn kinh nói 1200 vị thọ ký mà không trình bày nhân và hạnh vì họ là hàng độn căn A La Hán. Hơn nữa làm cho họ sinh lòng tin, đến như công hạnh thờ Phật, phải chờ họ tự phát tâm. Không dám vội nói những sự khó làm, họ thêm sợ. Đây là Như Lai lấy ý hộ niệm vậy.

11. Từ câu: “Nhĩ thời ngũ bách A La Hán” đến câu: “Tiểu trí vi túc” (Bấy giờ 500 vị A La Hán … lấy trí nhỏ cho là đủ).

Đoạn này 500 vị A La Hán tự trình bày sự giác ngộ của mình.

Câu: “Chúng con đáng được…” nghĩa là một hướng nghĩ là mình mất đi trí tuệ Như Lai. Ngày nay mới biết rằng chưa từng mất, chỉ do chúng con tự lấy tiểu trí cho là đầy đủ. Đây là trình bày sự lãnh ngộ vậy.

12. Từ câu: “Thế Tôn, Thí như hữu nhân chí” đến câu: “Đắc vị tằng hữu” (Thế Tôn! Thí như có người đến… được điều chưa từng có).

Đoạn này nói về nhân duyên, thiết lập thí dụ để tự hiểu.

Mười sáu vị vương tử của Đức Đại Thông Trí Thắng và vô số nhân dân giống như thân hữu. Vương tử thuyết kinh Pháp Hoa, trước đã vì chúng ta mà nói nhân duyên chủng tử nhất thừa như cột hạt minh châu. Bây giờ chưa ngộ như người say đang nằm, từ đó mê trôi trong sinh tử, như người dạo chơi nước khác, trở lui trụ ở Thanh văn, nên như có chút ít mà cho là đầy đủ. Về sau gặp gỡ người thân hữu giống như nay gặp Đức Thế Tôn. “ Lạ thay”! Dụ xưa để trách nay vậy. Chỉ rõ hạt minh châu trong áo, dụ cho nay mở được tri kiến Phật ngộ được bản hữu thật tánh. Thí dụ này ý nói ngày xưa bị mất ngày nay lại được.

Từ câu: “ Đức Phật cũng lại như vậy” trở xuống, nói về pháp nay phù hợp với nhân xưa. Từ câu: “ Ngày nay Đức Thế Tôn” trở xuống, là nói pháp phù hợp với duyên ngày nay. “ Con nay mới biết” là nói pháp phù hợp với sở đắc ngày nay, cho nên vui mừng được điều chưa từng có vậy.

13. Từ câu: “Nhĩ thời A Nhã Kiều Trần Như” đến câu: “Thân tâm biến hoan hỷ” (Bấy giờ ông A Nhã Kiều Trần Như… Thân tâm khắp vui mừng).

Đoạn này Kiều Trần Như nói lại sở đắc hôm nay, ăn năn tự trách cái mất mát ngày xưa.

Câu: “ Chúng con nghe vô thượng” trở xuống ba câu, là mừng sở đắc ngày nay. Câu: “ Lạy Phật trí vô lượng” trở xuống bảy câu, là ăn năn sự mất ngày xưa. Câu: “ Thí như người bần cùng” trở xuống 16 câu, dụ cho duyên ngày xưa. Câu: “Người thân hữu cho châu” trở xuống 8 câu, dụ cho duyên ngày nay. Câu: “Chúng con cũng như vậy” trở xuống 8 câu, nói phù hợp với nhân xưa. Câu: “Nay Phật giác ngộ con” trở xuống 4 câu, nói hợp với duyên nay. Câu: “Con nay từ Phật nghe” trở xuống 4 câu, là tổng quát về được thọ ký nên tự mình vui lòng.

 

Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký Thứ Chín

Đại ý phẩm này là do trước đã khai thị ba châu (Pháp, Dụ và Nhân duyên). Chúng đương cơ nghe rồi, ai cũng tin tự tâm, không còn nghi lời Phật dạy. Cho nên các đệ tử thượng thủ gồm năm trăm và 1200 người đều được giáo hóa, đều được thọ ký. Nghiệp đã được an, tâm được ổn. Còn hàng tân học Thanh văn như Anan, La Hầu La… đều xin được thọ ký, để thoả mãn nguyện vọng của đại chúng và để thấy được lòng từ bi bình đẳng của Phật. Do đó mọi người đều được thọ ký, vì lý do như thế mà có phẩm này và đặt tên cho phẩm này.

Phật tánh có ba hạt giống nhân duyên, đó là: Chánh nhân, Duyên nhân và Liễu nhân. Ba nhân này hiển lộ đầy đủ, thì thành Phật, không còn nghi ngờ gì. Mỗi người đều có đủ ba nhân nên gọi là Chánh nhân. Có được giáo pháp và tri thức hỗ trợ làm hiển lộ Phật tánh gọi là Duyên nhân, từ tin sự liễu ngộ của mình gọi là liễu nhân. Ngài Xá Lợi Phật.v..v.. cả năm người liễu ngộ rất nhanh là nhờ chánh nhân sâu dày. Như năm trăm đệ tử dẫn chứng rộng rãi duyên xưa, để thấy đã nhận được sự giáo hóa từ lâu, đó là duyên nhân đã chín muồi. Trong duyên nhân lại có thân cận và nhân duyên, trong Luận Khởi Tín nói: “Hoặc thị hiện thân hữu” (bạn gần). Nay trong hàng hữu học và vô học, hoặc em hay con đối với duyên nhân này rất gần gũi, không có lý nào là không độ được. Cho nên được thọ ký hết, mới thấy được tâm từ bi bình đẳng của Như Lai. Do đó phẩm này là tiếp theo của phẩm trước.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Anan, La Hầu La” đến câu: “Trụ lập nhất diện” (Bấy giờ ngài Anan, La Hầu La … rồi đứng qua một bên).

Đoạn này thọ ký cho hàng hữu học.

Học là đối với vô học nên gọi là Hữu học, đó là hàng tân học tiểu Thanh văn. Anan là em trai của Phật, La Hầu La là con Phật, đó gọi là nhiếp thọ người thân. Do thấy 1200 vị Vô học được thọ ký mà hàng hữu học khởi lên ý nghĩ xin Phật. Anan là bậc đa văn, La Hầu la là bậc mật hạnh đều là hàng nội bí (Bồ tát ở trong). Nay đề cập đến hàng Hữu học, vì các vị Hữu học không dám mong ước thọ ký. Như trước đã nói họ cho rằng thành Phật không có phần của mình nên không dám thưa thỉnh. Nếu không nhờ người lớn chỉ dẫn thì không mong gì Phật chỉ chính xác tên mình, và để giải quyết lòng nghi của đại chúng mà hai ngài thị hiện nơi đây. Do hai ngài làm bậc tôn túc tri thức cho chúng, nên mới liệt hai ngài vào chúng hữu học này. Nếu được thọ ký, thì tất cả đều được. Nên nói: “Nguyện con đã được đầy đủ thì sự trông mong của đại chúng cũng đầy đủ”. Bấy giờ hàng hữu học, vô học gồm 2000 người, do thấy ngài Anan khởi thỉnh, tất cả một lòng đều thỉnh Phật.

2. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo Anan” đến câu: “Chủng Phật đạo nhân duyên” (Bấy giờ Đức Phật bảo Anan… gieo nhân duyên Phật dạo).

Đoạn này nói về ngài Anan là người đa văn, giữ gìn tạng Phật pháp, trí tuệ cao thâm, thông đạt tự tại. Cho nên kết quả tên hiệu như thế. Ngài giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức hằng hà sa Bồ tát, mà chỉ dùng đại pháp nhiếp hóa họ, thuần nhất không pha tạp. Quốc độ tên là Thường lập thắng phan, thường dùng chánh pháp phá bỏ tà pháp. Kiếp tên là Diệu âm biến mãn, tức là pháp âm rất cảm xúc lòng người. Thọ mạng không thể tính đếm. Chánh pháp tồn tại ở đời còn lâu hơn thọ mạng, tức là phù hợp với Pháp tính thường trụ. Do ngài Anan giữ gìn kho tàng Phật pháp của chư Phật nên chư Phật khen ngợi công đức. Bài kệ tụng thì giống như lời văn mà thôi.

3. Từ câu: “Nhĩ thời hội trung tân phát ý Bồ tát” đến câu: “Nhi chư Thanh văn đắc như thị quyết”

(Bấy giờ trong hội hàng Bồ tát mới phát tâm… mà các thanh văn được thọ ký như thế).

Hàng Bồ tát mới phát tâm nghe Anan được thọ ký mà sinh nghi ngờ. Ngài sắp nói ra nhân duyên đời trước của ngài Anan. Điều nghi của họ là chánh pháp thường trụ lâu đến vô cực.

4. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn tri chư Bồ tát” đến câu: “Thị cố hộ tư ký” (Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ tát… nên đặng thọ ký dường ấy).

Đoạn này Đức Thế Tôn nói rõ nhân duyên xa xưa của ngài Anan để giải tỏa lòng nghi của đại chúng.

Nguyên do ngài Anan cùng với Phật đồng thời phát tâm. Nhưng Phật nguyện độ sinh nên siêng năng tinh tấn, còn Anan thích đa văn nên nguyện giữ gìn pháp tạng. Pháp tánh vô lượng nên thọ mạng cũng vô cùng.Thuần túy giáo hóa Bồ tát nên quốc độ không có hàng nhị thừa. Bổn nguyện của ngài Anan như vậy, nên kết quả cũng như thế. Trong các đệ tử của Phật, riêng hai ngài mãn Từ Tử và Anan là đặc biệt khác với đại chúng, vì đặt nặng công đức giữ gìn Phật pháp.

5. Từ câu: “Anan diện ư Phật tiền” đến câu: “Hộ trì chư Phật pháp” (Ngài Anan tận mặt ở trước Phật … hộ trì các Phật pháp).

Đoạn này ngài Anan do nghe Phật thọ ký, còn nói lại nhân duyên đời trước, nên nhớ lại pháp tạng của chư Phật trong quá khứ, cũng biết được bản nguyện của mình. Như ngài Thiện Tài ở trước lầu các của ngài Di Lặc nghe tiếng đàn mà thấy trong ngôi lầu có vô lượng cảnh giới chư Phật. Vậy mới biết pháp tạng của chư Phật là vật ở trong lâu đài của Anan.

Bài kệ nói “Phương tiện làm thị giả” chính là tự biết bản nguyện của mình. Như vậy không thể cùng với những người ăn năn lỗi trước, nay mừng được giác ngộ. Nên thọ ký riêng khác với chúng là rất phải.

Nhân duyên quá khứ của ngài Anan như vậy, thì chuyện Ma đăng già trong kinh Lăng Nghiêm chỉ là mộng tưởng mà thôi.

6. Từ câu: “Nhĩ thời Phật cáo La Hầu La” đến câu: “Dĩ cầu vô thượng đạo” (Bấy giờ Phật bảo ngài La Hầu La… để cầu đạo vô thượng).

Đoạn này ngài La Hầu La được thọ ký.

Ngài La Hầu la là mật hạnh đệ nhất, nay được thọ ký tên hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa, do mật hạnh kín đáo của ngài mà cảm ứng tên hiệu như vậy. “Làm trưởng tử của Phật”, là nói có thể gánh vác gia nghiệp, ý tiêu biểu là khi thành Phật lấy hạnh làm đầu. Quốc độ, thọ mạng, quyến thuộc, pháp trụ ở đời đều giống với ngài Anan. Ý muốn nói là hạnh Văn, Tư, Tu vốn không khác, tuệ mạng luôn bình đẳng, nên quả báo cũng giống. Lý chung là như vậy.

7. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn kiến” đến câu: “Như cam lồ kiến quán” (Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy … như được rưới cam lồ).

Đoạn này là thọ ký cho tất cả Hữu học.

Chúng Hữu học đều là hàng Thanh văn mới học, họ khó sánh bằng bậc Vô học. Nếu chỉ đặc biệt thọ ký, e rằng chúng sẽ hoài nghi. Nên Thế Tôn trước tiên nói tâm của họ rất nhu nhuyến, thanh tịnh tịch nhiên. Do đó khi nghe Diệu pháp sẽ bước lên cảnh giới Vô học, có thể nhận được thọ ký. Trong chúng có chỗ chưa biết, do vậy Phật dạy Anan: “Ông thấy 2000 người này không”? Ý cho rằng có thể thấy hiện tiền tâm lãnh hội của chúng này. Dựa vào đó mà biểu thị cho họ, vô hình trung làm tiêu tan lòng nghi của chúng, rồi vì họ mà thọ ký. Do nhân duyên hộ trì Pháp tạng, nên thành quả hiệu là Bảo Tướng, nghĩa là lấy Tạng pháp Phật mà tự trang nghiêm. Thọ mạng, kiếp số, quốc độ … tất cả đều giống nhau, vì nhân cũng đồng nhau. Hai ngàn người này ở trong pháp chưa thấy làm gì, nên sự thọ ký cũng đại lược, không thọ ký từng người một. Xem trong kệ tụng sẽ biết rõ.

Nói: “Lần nhập vào Niết bàn” tức lấy ba thừa mà hóa độ họ. Đã được nghe thọ ký rồi vui mừng hớn hở, nên họ nói kệ tán Phật tạ ơn.

 

Phẩm Pháp Sư Thứ Mười

Đại ý phẩm này là trước đây Đức Thế Tôn ca ngợi rộng rãi pháp Nhất thừa là thậm thâm vi diệu. Nếu có thể tin nhận tức được thành Phật. Vậy nên các đệ tử lớn đều được thọ ký. Nhưng pháp Nhất thừa này vốn có trong mọi người, đó là chánh nhân Phật tính. Nay Đức Như Lai phương tiện khai mở chỉ bày nói Diệu pháp này, tạo nhân duyên để hiển lộ tính Phật, không ai mà không hiểu, mới có thể gánh vác nổi. Lấy cái hôm nay chứng minh cho cái ngày xưa như biết nhân xưa của Đức Đại Thông Trí Thắng, các duyên nối nhau cho đến nay không mất. Do vậy mà biết nhân duyên pháp hội ngày hôm, nay sẽ làm chủng tử cho vô tận tương lai. Đó gọi là: “Phàm có nghe pháp thì không ai không thành Phật”. Cho đến chỉ một niệm tùy hỷ liền chứng Bồ đề. Do vậy lấy Pháp Sư để nêu tên của phẩm.

Lấy tâm làm thầy nên gọi là Pháp Sư. Ý nói hôm nay dùng Pháp Hoa làm nhân duyên chính, nhờ Pháp sư khai mở, hiển lộ để làm thắng duyên cho tương lai. Bởi lẽ chủng tử Phật tánh phải do huân tập. Huân tập có cái cũ, cái mới. Đức ĐạiThông Trí Thắng là cái huân tập cũ, còn hôm nay là huân tập cái mới.

Pháp sư có năm loại: Tùy hỷ, đọc tụng, thọ trì, viết chép, giảng thuyết. Chỉ cần có một loại cũng là Pháp sư. Vì kinh này có toàn thân Như Lai, nên người thọ trì là gánh vác Như Lai, phải kính trọng người ấy như Phật. Điều đó nói lên sự thù thắng của Diệu pháp, cần có người hoằng dương mới làm cho chủng tử Phật không gián đoạn. Nếu hủy báng người trì kinh tội rất nặng vì đoạn diệt chủng tử Phật tính.

Như vậy đủ thấy bản hoài xuất thế của Như Lai đã bao trùm khắp cả. Nên tiếp phẩm Thọ ký lại có phẩm này.

1. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ đề” Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn… đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Từ đây trở xuống là thọ ký rộng rãi cho Bát bộ, để nói lên tính bình đẳng đại từ và sự lợi ích của trì kinh.

Trước đã được thấy trong hào quang trắng, các Phật tử tùy theo nhân duyên của mình mà cầu Phật đạo. Đó là các vị thọ ký trước, đều là người ở trong ba thừa, tùy các nhân duyên mà cầu Phật đạo vậy. Những người cầu mong Tam thừa đều có nghi ngờ hối hận, Phật vì họ mà đoạn trừ. Do vậy mà biết hiện tại tám bộ chúng đều là người cầu ba thừa. Nếu truy nguyên về nhân duyên ngày xưa, họ chẳng phải là hạt bụi còn sót lại của Đức Đại Thông Trí Thắng hay sao! Hơn nữa hạng người này, khi các Đức Phật ra đời họ đều làm người hộ pháp, tức duyên nghiệp nghe pháp đã chín muồi. Huống gì nay nghe Diệu pháp này một bài kệ, một câu cho đến một niệm tùy hỷ, đều được thọ ký đắc quả Bồ đề. Điều đó biểu thị Trí tuệ Phật bình đẳng. Cho nên hiện tiền mọi người đều được thọ ký, nói lên sự lợi ích thù thắng của Diệu pháp. Đây là đặc biệt nói với Dược vương, là người quên thân xả chấp, khế hợp Diệu pháp. Người có thể giữ gìn, tức là thầy tiêu biểu cho sự giữ gìn kinh.

2. Từ câu: “Phật cáo Dược vương” đến câu: “Dữ thọ A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” (Phật bảo Dược vương… thọ ký đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này huyền ký cho người trì pháp ở tương lai.

Sau khi Như Lai diệt độ, pháp này còn ở đời tức là pháp thân thường trụ. Cho nên nếu nghe một bài kệ, một câu cho đến một niệm tùy hỷ, thì đã có hạt giống chân chánh để thành Phật. Như người nuốt một chút ít kim cương, rốt cuộc thẩm thấu qua da mà ra. Không lý gì mà không thành Phật. Do vậy vì họ mà thọ ký. Đây chỉ nói tùy hỷ, dưới đây trình bày sáu vị pháp sư.

3. Từ câu: “Nhược phục hữu nhân thọ trì” đến câu: “Ư vị lai thế tất đắc tác Phật” (Nếu lại có người thọ trì … ở đời vị lai ắt đặng làm Phật).

Đoạn này nêu sáu hạng pháp sư, chính là những người trì kinh.

Nghĩa là sáu hạng người trì kinh có khả năng kính trọng kinh này như Phật, cung kính cúng dường. Đó là những người đã từng cúng dường nhiều Đức Phật, phước đời trước sâu dày, do thành tựu đại nguyện mà đến đây. Nên Phật nói: “ Nếu có ai hỏi các chúng sinh nào sẽ thành Phật trong tương lai ta sẽ chỉ những người này quyết sẽ làm Phật”.

Ngài Thiên Thai phân sáu hạng pháp sư làm ngũ phẩm quán hạnh vị tức là lấy tùy hỷ Diệu pháp làm chủng tử chính cho sự thành Phật, nên chắc chắn làm Phật không nghi ngờ gì. Ngài Tịch Âm cho rằng Tu Đa La có hai phương pháp quán chiếu, đó là Diệu phương tiện. Đối với kinh này thọ trì, đọc tụng, viết chép, giảng giải là “ Quán chiếu phương tiện lực”.

Năm phẩm quán hạnh là: Tùy hỷ, đọc tụng, thuyết pháp, kiêm hành lục độ, chánh hành lục độ. Nói: “ Tùy hỷ”. Hỏi: Tùy hỷ pháp gì? Đáp: Là tùy hỷ Diệu pháp, “ Diệu pháp” tức là tâm này vậy. Sự mầu nhiệm của tâm đầy đủ như bảo châu như ý. Tâm Phật và chúng sinh cả ba không sai khác. Tâm này là Không, là Giả, là Trung đạo, là cảnh thường và vô tướng. Đương trí vô duyên, vô duyên mà duyên. Không ngược Tam quán, vô tướng mà hiện tướng, ba đế rõ ràng. Cho nên năm hạng pháp sư chắc chắn làm Phật, đó là “ Sức mạnh của quán hạnh”.

Quốc vương Đông Ấn Độ thỉnh Tổ thứ hai mươi bảy thọ trai. Vua hỏi tôn giả: Sao ngài không xem kinh? Tôn giả đáp: “Bần đạo thở ra không vướng mắc các duyên, thở vào không ở nơi ấm, giới. Thường chuyên kinh như vậy trăm ngàn vạn ức quyển”.

Do vậy mới biết, trì kinh điều quan trọng là quán chiếu giữ tâm, không phải theo tuần tự, số mục, chấp nơi văn tự mà làm nhân duyên thành Phật được.

4. Từ câu: “Hà dĩ cố” đến câu: “Quảng vị nhân duyên” (Vì sao? … rộng vì người nói).

Đoạn này giải thích chi tiết lý do trì kinh thù thắng. Ở trên nói có thể trì một câu là đầy đủ công đức của sáu hạng pháp sư, huống gì có thể trì toàn bộ kinh! Tuy nhiên ở đời ác mà diễn nói kinh này, người ấy nhất định là người được quả tịnh độ mà thị hiện ở cõi ác vậy.

Nếu sau khi Như Lai diệt độ, có thể vì một người mà nói một câu, đó là người sứ giả của Như Lai. Huống gì vì nhiều người mà thuyết pháp, người đó giữ gìn tuệ mạng của Như Lai.

5. Từ câu: “Dược vương nhược hữu ác nhân” đến câu: “kỳ tội thậm trọng” (Dược vương nếu có người ác … tội đây rất nặng).

Đoạn này răn dạy, đừng khinh chê người trì kinh.

Thân Phật như hư không, hủy báng như nhổ nước miếng lên hư không vậy. Người trì kinh là gắn bó với tuệ mạng, khinh chê tức là đoạn chủng tử Phật, tội không dể sám hối.

6. Từ câu: “Dược vương kỳ hữu đọc tụng” đến câu: “Tam miệu tam Bồ đề” (Dược vương có người đọc tụng … Vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này khuyên nên cung kính phụng sự người trì kinh như cung kính Phật. Vì có thể giữ gìn tâm này thì toàn thân là Phật, tức được Như Lai dùng vai mà gánh vác, không phải mình gánh vác Như Lai.

Ngày xưa Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, Vua Ưu Điềm và các đệ tử nhớ nghĩ đến Thế Tôn. Ngài Mục Kiền Liên với ba mươi hai người đi đến thiên cung dùng gỗ hương Chiên Đàn khắc tượng của Như Lai, thỉnh về nhân gian cho tứ chúng chiêm bái. Đến khi Đức Thế Tôn từ thiên cung trở về thấy tượng liền thi lễ, khen ngợi nói rằng: Sau khi ta diệt độ nhờ người đến nước Chấn Đán (Trung Hoa) mà độ nhiều người ở đó. Như vậy chỉ một tượng bằng Chiên Đàn hương cũng đã có thể giữ gìn tuệ mạng của Phật, huống gì người trì kinh này ư! Nên Như Lai dùng vai mang vác, tùy theo điều kiện hoàn cảnh mà được tôn trọng, cúng dường. Sở dĩ được tôn trọng như vậy là do hoan hỷ thuyết kinh cho người nghe dù trong chốc lát cũng được Bồ đề vậy.

7. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn” đến câu: “Hành ư Như Lai sự” (Bấy giờ Đức Thế Tôn… Làm việc của Như Lai).

Đoạn kệ tụng này là nói tổng quát lợi ích thù thắng của người trì kinh.

Phật đạo cao xa không dễ an trú. “Tự nhiên trí”, là Diệu trí thiên nhiên, không dễ thành tựu. Chỉ cần cúng dường người trì kinh thì mọi thứ đều dễ. “Nhất Thiết Chủng Trí” là Phật quả trí. Nhiều kiếp tu nhân, sau mới thành tựu. Nay chỉ cần trì kinh này và cúng dường người trì kinh, thì mau thành tựu (Phật quả trí). Do đó mà biết toàn thể Diệu pháp đều ở nơi kinh và người trì kinh. Vậy người trì kinh nếu không phải sứ giả của Như Lai thì ai là người có khả năng đó!

Từ câu: “Những người hay thọ trì” trở xuống 8 câu, là nói xả hết nghiệp báo. Từ câu: “ Nay đem hoa hương trời” trở xuống 4 câu, là nói quả của người trì kinh được cúng dường. Từ câu: “Đời ác sau ta diệt” trở xuống 12 câu, là nói ở đời ô nhiễm khó trì kinh mà trì được, khó nghe kinh mà may mắn được nghe. Do vậy phải đảnh lễ cúng dường mong được nghe kinh dù trong giây lát. Trong đời ác mà trì được kinh nếu không phải Như Lai bảo vệ thì không thể có được.

8. Từ câu: “Nhược ư nhất kiếp” đến câu: “Pháp Hoa tối đệ nhất” (Nếu ở trong một kiếp… Pháp Hoa tột thứ nhất).

Đoạn kệ tụng này so sánh tội phước giữa tán thán và khinh chê.

Như trong văn Trường hàng nói rõ, người khinh chê tội như thế, người tán thán được phước như kia, quan trọng là vấn đề tuệ mạng không bị chấm dứt. Câu: “Trong tám mươi ức kiếp” trở xuống 8 câu, là nói cúng dường trong thời gian dài để được nghe chốc lát. Vì cúng dường là điều thiện nhỏ của nhân thiên, còn nghe pháp là thẳng đến quả Bồ đề, nên lợi ích rất lớn. Câu: “Dược Vương nay bảo ông” trở xuống 4 câu, là nói tổng kết sự lợi ích thù thắng. Bởi lẽ do trong các kinh thì Pháp Hoa này là số một.

9. Từ câu: “Nhĩ thời Phật phục cáo Dược Vương Bồ tát” đến câu: “Huống diệt độ hậu” (Bấy giờ Phật lại bảo ngài Dược Vương… huống là sai khi Phật diệt độ).

Đoạn này trình bày sự vi diệu của Pháp Hoa, tiếp theo trên đã nói Pháp Hoa là đệ nhất nên đừng khinh suất trao cho người.

Ba đời chư Phật thuyết kinh vô số cũng như Đức Thích Tôn thuyết kinh cũng vô số, nhưng chỉ có kinh Pháp Hoa là khó tin, khó hiểu. Đó là tạng bí yếu của chư Phật, nên không thể trao truyền cho người không đáng trao. Một mực giữ gìn, im lặng từ lâu mà không nói, vì Đức Như Lai ở đời còn nhiều người ganh ghét, đố kỵ, như những hạng người đã bỏ đi (Thối tịch), huống gì sau khi Phật diệt độ! Vì vậy phải thận trọng chớ xem thường mà truyền trao cho người.

10. Từ câu: “Dược Vương đương tri” đến câu: “Tắc vi Như Lai thủ ma kỳ đầu” (Dược Vương nên biết … được Đức Như Lai lấy tay xoa đầu)

Đoạn này nói về Đức Như Lai sau khi diệt độ, giữa cõi đời ác khó trì kinh mà có thể trì. Một là nhờ Phật che chở bảo hộ. Hai là tự mình có ba loại sức mạnh. Đức Phật lấy nhẫn nhục làm áo, nghĩa là bản thể Diệu pháp trụ nơi tịch diệt nhẫn. Đây là Như Lai lấy y trùm cho vậy, nhờ tùy thuận giác tánh nên được chư Phật hộ niệm. Tin triệt để tự tâm mình, là đại tín lực. Ý chí quyết đem pháp này giúp ích cho chúng sinh là Đại chí nguyện lực. Phụng sự chư Phật lòng không mệt mỏi là thiện căn lực. Do khế hợp với pháp thân nên cùng Đức Như Lai ở chung. Niệm Phật phải nên nhẫn nên được Như Lai lấy tay xoa đầu an ủi. Nếu không đủ các công đức này mà ở trong đời ác trì kinh rất khó.

11. Từ câu: “Dược Vương tại tại xứ xứ” đến câu: “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” (Dược Vương nơi nơi chỗ … Vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này nói kinh này là toàn thể pháp thân của Như Lai, nên xây tháp thờ. Vì pháp thân không có chỗ nương tựa, nên xây tháp là phù hợp, cúng dường mọi thứ, thấy tháp lễ bái để được gần gũi pháp thân, như vậy gần gũi Bồ đề.

12. Từ câu: “Dược Vương đa hữu nhân tại gia” đến câu: “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” (Dược Vương! Có rất nhiều người tại gia … Vô thượng chánh đẳng chánh giác).

Đoạn này nói Diệu pháp là nền tảng của Bồ tát tu hành thành Phật.

Nếu có Tăng hay tục muốn thực hành Bồ tát đạo, mà không nghe kinh này, thì người ấy chưa thuần thục thực hành Bồ tát đạo, vì chưa nắm được căn bản tu tập.Trong Kinh Hoa nghiêm nói: “Quên mất Bồ đề tâm mà tu các việc thiện đó là ma nghiệp”. Vì ngoài tâm mà chấp pháp. Đó gọi là “ Đạt được bản thể thì tình chấp sẽ hết”, khi biết được tâm thì sẽ hợp với bản thể. Do vậy gọi là thiện. Cho nên người được nghe kinh này mới được coi là thiện hạnh; Đây là tri kiến của Phật. Nếu được nghe kinh này mà tin hiểu, thọ trì thì mở được tri kiến Phật, gần được Bồ đề. Dưới đây là thiết lập thí dụ để làm rõ việc hành thiện ấy.

13. Từ câu: “Dược Vương! thí như hữu nhân” đến câu: “Tri thủy tất cận” (Dược Vương! Thí như có người … biết nước ắt gần).

Đây là thí dụ cốt yếu của cầu pháp, là dụ cho sự hành thiện.

“Nước” là dụ cho chánh nhân Phật tánh. “Cao nguyên” dụ cho phiền não sâu nặng. “Xoi đào” dụ cho quán chiếu nghiên cứu. “Đất khô” dụ cho chưa thấy tínhPhật. Nên gọi là “Cách nước còn xa”. “Thi công không ngừng” dụ cho quán hạnh dần dần tiến tới. “Đất ướt” dụ cho thấy một phần chân lý. “ Đến bùn” là dụ dòng pháp không còn xa, nên nói là “ Biết nước rất gần”. Đất ướt như nghe kinh Bát Nhã, bùn như nghe kinh Pháp Hoa này. Nghe kinh này phải nhờ công năng quán chiếu, phương tiện ngộ nhập mới thấy được nguồn chân Phật tính. Điều đó gọi là cùng với dòng pháp của Như Lai giao tiếp nhau.

Nếu lấy ngôn ngữ văn tự mà đắc đạo, nghĩa là nhờ bên ngoài mà hiểu, lấp bít con đường tự ngộ. Như vậy mà mong hết khát, được mát mẻ là rất khó, nên Kinh nói: “ Gần đó mà thôi”.

Ở trước có nói “ Bảo xứ” ở gần, còn đây thì nói “ Biết nước rất gần” còn nói “ Được gần Bồ đề” không nói đến mà chỉ nói gần, nên trong Tông môn gọi là ngôn ngữ rất kỵ mười thành (nói hoàn hảo).

14. Từ câu: “Bồ tát diệc phục như thị” đến câu: “Thành tựu Bồ tát nhi vị khai thị ” (Bồ tát cũng lại như thế … để thành tựu Bồ tát mà chỉ bày cho).

Đoạn này lấy Pháp phù hợp với Dụ.

Kinh này là tuệ mạng của chư Phật. Bồ tát tu hành nếu chưa nghe, chưa hiểu thì chưa thể tu tập kinh này, thì cách Bồ đề còn xa. Do vì còn bị vô minh phiền não che lấp như đất khô. Nếu được nghe hiểu, suy tư và tu tập, lấy phương tiện quán chiếu tức là gần Bồ đề như đào giếng thấy bùn. Bồ tát tu hành cần nương tựa kinh này vì tất cả trí tuệ đều thuộc về kinh này. Do kinh này khai mở phương tiện hiển thị thật tướng.

Kinh tạng Pháp Hoa là Như Lai tạng của chúng sinh. Nếu chưa mở bày thì còn trong tạng thức. Do còn ở trong tạng thức mà Bồ tát địa tận không thể biết hết, chỉ có Phật mới biết mà thôi. Cho nên gọi là sâu, chắc, tối, xa không ai có thể đến được. Không phải hạng đại căn cũng không ai có thể tin được. Nay Đức Phật vì các Bồ tát mà khai thị, không ở trong tay người khác được.

15. Từ câu: “Dược Vương! Nhược hữu Bồ tát” đến câu: “Tăng thượng mạn giả” (Dược vương! Nếu có Bồ tát… đó là hàng tăng thượng mạn).

Đoạn này nói không phải căn cơ thì khó tin.

Nếu Bồ tát nghe kinh này mà sợ hãi, đó là Bồ tát mới phát tâm. Còn hạng Thanh văn nghe mà hoảng sợ thì đó là hạng tăng thượng mạn. Đều không đúng căn cơ cả.

16. Từ câu: “Dược Vương! Nhược hữu thiện nam tử” đến câu: “Quảng thuyết thị Pháp Hoa kinh” (Dược Vương! Nếu có người thiện nam … rộng nói kinh Pháp Hoa này).

Đoạn này chỉ bày phương pháp thuyết kinh, đều gọi là dạy pháp cho Bồ tát vậy.

Trước đã nói cung kính và cúng dường người thuyết kinh như Phật. Kính người thuyết không phải kính miệng lưỡi của họ mà nên kính thể tánh cụ túc của Phật. Điều nói ra phải tương ứng với tâm Phật, và thể của tâm Phật. Cho nên nói vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mới có thể nói pháp. An thân là nhà, pháp thân không phải thân thể mình mà lấy chúng sinh làm thân. Nên gọi là Từ bi sở duyên, duyên nơi khổ của chúng sinh, đó là chư Phật lấy từ bi làm nhà. Che thân là Y, Phật vốn vô ngã, vô ngã nên không có vật gì làm đối tượng, nếu không có vật làm đối tượng sự vật không thể làm thương tổn. Thân ẩn trong nhẫn thì vô ngã sẽ đến, nên gọi là nhẫn nhục làm Y. Ẩn tâm là tòa, tâm không thì tịch diệt, tịch diệt thì như tiếng vang trong hang núi, nói mà không có cái để nói nên gọi là pháp không làm tòa. Thân tâm, ngôn ngữ của Như Lai là như vậy. Bồ tát có thể có đủ tính cách này, an trụ trong đó mới không bị giải đãi, và thuyết kinh cho bốn chúng. Như vậy mới gọi là người thuyết kinh. Nếu không như vậy muốn người khác kính trọng như Phật rất khó.

17. Từ câu: “Dược Vương! Ngã ư dư quốc” đến câu: “Ngã hoàn vị thuyết linh đắc cụ túc” (Dược Vương! Bấy giờ ta ở nước khác… Ta lại vì nói cho đó đặng đầy đủ).

Đoạn người thuyết kinh thể theo hạnh của Phật, thì cảm ứng được Phật hỗ trợ mà truyền bá Phật pháp.

Ở trước nói: “Nếu đệ tử ta chưa nhận được sự giáo hóa, sau khi ta diệt độ làm Phật ở nơi nước khác, có tên khác cũng độ cho họ”. Ở đây nói Đức Như Lai sau khi diệt độ có người nào dựa vào pháp mà thuyết kinh này, làm cho người không tin được tin tưởng. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, ta sẽ sai tám bộ chúng xuống làm người hộ pháp, để ma, tặc không làm hại. Không chỉ sai người mà chính ta đích thân hiện ra trước người, nếu có quên mất câu nào ta vì họ mà nói để được thông suốt. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, trong đời ác trược, trì được kinh rất khó, nếu không nhờ Như Lai gia bị nhiếp thọ, thì làm sao cho pháp trụ ở đời lâu dài được.

18. Từ câu: “Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên” đến câu: “Đắc kiến hằng sa Phật” (Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại… được thấy hằng sa Phật .

Đoạn này bốn câu đầu là pháp rất thù thắng, nên người tin hiểu không dễ, bỏ tâm lười biếng không hòa lẫn với tình đời, đó gọi là chân tinh tấn. Dụng tâm phù hợp với Diệu pháp gọi là hạnh tinh tấn. Nếu muốn hết lười biếng thì phải nghe kinh này.

Câu: “Như người khát cần nước” trở xuống 6 câu, là thiết lập thí dụ. Câu: “Dược Vương ông nên biết” trở xuống 10 câu, là nói pháp hợp với thí dụ. Câu: “ Nếu người nói kinh này” trở xuống 14 câu, là nói thể theo hạnh của Phật. Câu: “ Ta trong muôn ức cõi” trở xuống 36 câu, là nói Phật trợ giúp truyền rộng Phật pháp, vì họ mà hiện thân ánh sáng… cho đến có mặt nói lời gia trì. Chư Phật hộ niệm chính là dạy Bồ tát pháp Phật thường hộ niệm. Câu: “Nếu ai gần pháp sư” trở xuống 4 câu, là khuyến khích kết duyên. Nói được thấy hằng sa Phật nghĩa là hằng sa đức tính ở trong tâm. Tùy thuận ở nơi tâm thì các đức tính hiển lộ.

Từ đây trở về trước chín phẩm là nói về khai Phật tri kiến. Khai có 2 ý: Đối với Phật thì vì chúng sinh mà khai thị, khai hiển, khai phát, cần làm cho chúng nghe được tự tin tâm này. Đối với căn cơ thì là khai ngộ, do chúng sinh từ lâu mê muội không tin tâm mình, nay nghe Phật thuyết thì bỗng nhiên liễu ngộ; đó gọi là “ Kẻ ngộ, tâm như hoa sen nở”.

Trong Kinh thường nói đến bốn loại Tri kiến, căn cứ nghĩa lý thì mười phẩm kinh trên đều trình bày bản hoài xuất thế của Như Lai. Các đệ tử một mực không biết tâm Phật, nên nghi lời Phật dạy, thậm chí cho Phật là ma. Nay thì xác tín không nghi mới tỏ lộ hiện tượng khai ngộ tâm này. Trong Tông môn bảo rằng: “Tin tự tâm là Phật thẳng đến chỗ không nghi” nên đều thuộc về chữ Khai cả.

Người xưa khái quát lấy phần trước là thuyết pháp ba châu để thọ ký ba căn cơ. Riêng phẩm Pháp Sư là thọ ký rộng rãi để bao gồm hết những sự thọ ký trước. Quán sát kỹ nghĩa kinh, chỉ nặng về người trì kinh, nói hết lợi ích của Diệu pháp.

Chúng sinh không biết có (tâm Phật) nay đã biết có nên phải trân trọng, không thể dễ dàng truyền cho những người không phải căn cơ. Điều ấy gọi là chẳng phải pháp khí thì chẳng truyền. Nói chung là hiển bày khai Phật Tri kiến vậy.


Comments

Popular posts from this blog