Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát
Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
1
"Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên
Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh" là
tên gọi đầy đủ của bộ kinh này, mà gọi tắt là "Thiên Thủ Thiên Nhãn Ðại Bi
Tâm Ðà La Ni Kinh." Trong đó, "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ
Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni" là tên riêng (biệt
danh), và "Kinh" là tên chung (thông danh). Vì sao gọi là tên riêng?
Bởi vì chỉ riêng bộ kinh này được gọi bằng tên ấy mà thôi, các kinh điển khác
đều không được mang trùng tên. Ngoài ra, vì các sách ghi chép lời thuyết giảng
của Ðức Phật đều được gọi là kinh, cho nên chữ "Kinh" được xem là tên
chung.
Bộ kinh này lấy gì để lập danh? Lấy đầy đủ cả "Nhân, Pháp,
Dụ" để lập danh. "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát" là
Nhân (người); "Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại" và "Ðại Bi Tâm"
là Dụ (tỷ dụ); "Ðà La Ni" là Pháp. "Ðà La Ni" là tiếng
Phạm; Trung ngữ dịch là "Tổng Trì." Do đó, "Tổng Trì" là
Pháp—loại pháp Tổng Trì. Vậy, tên đề của bộ kinh này có đủ Nhân, Pháp, Dụ.
Trước hết xin giảng về từ ngữ "Thiên Thủ Thiên Nhãn"
(ngàn tay ngàn mắt). Làm sao lại có ngàn tay, ngàn mắt? Ðó là hiện tướng oai
đức thần thông, được lưu xuất từ chỗ chứng đắc của sự trì niệm Chú Ðại Bi.
Chúng ta không nên xem việc tu niệm Chú Ðại Bi là quá dễ dàng, đơn giản! Chú
Ðại Bi này cần phải có thiện căn sâu dày từ nhiều đời trước mới có thể gặp
được. Nếu không có thiện căn thuộc loại thâm hậu từ đời trước thì chưa nói đến
tụng niệm Chú Ðại Bi, mà chỉ muốn nghe thấy ba chữ "Chú Ðại Bi" cũng
khó có cơ hội; cho đến tên gọi cũng khó được nghe tới, huống hồ là thấy! Bây
giờ, chúng ta không những được thấy mà còn có thể trì tụng nữa, đó là việc hết
sức hy hữu; có thể nói là "trăm ngàn vạn kiếp khó tìm gặp" —dù trải
qua trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp cũng khó mà gặp được vậy. Hiện chúng ta nhờ
có thiện căn chín muồi ở đời trước nên mới được nghe đến ba chữ "Chú Ðại
Bi," mới được tham học, trì tụng chương cú thần diệu của Chú Ðại Bi, và
mới có thể thuộc được Chú Ðại Bi. Ðó là do có thiện căn, có chủng tử khó nghĩ
bàn từ đời trước nên nay mới được như thế.
Vì vậy, hôm nay chúng ta, những người đến nghe Chú Ðại Bi, đều là
những người có thiện căn. Quý vị thử nghĩ xem: Trên thế giới này có bao nhiêu
người chưa từng được nghe đến tên Chú Ðại Bi? Trọn cả thành phố Cựu Kim Sơn này
có thể có trên năm trăm người được nghe tới tên Chú Ðại Bi chăng? Tôi tin là
không! Thành phố Cựu Kim Sơn có được bao nhiêu cư dân? Quý vị cứ theo đó mà
tính thì có thể suy ra số người có thiện căn trên thế giới là bao nhiêu ngay.
Cho nên, nay chúng ta được nghe đến danh hiệu của Chú Ðại Bi thì mỗi người phải
sanh tâm hoan hỷ, vui mừng, phải trân quí và phải biết đó là điều khó tìm khó
gặp! Không dễ gì mà gặp được Chú Ðại Bi, nay gặp được rồi thì phải thật sự khắc
cốt ghi tâm, chớ nên xem nhẹ mà thờ ơ bỏ qua!
Lần này, quý vị được nghe giảng bộ Kinh Ðại Bi Ðà La Ni, âu cũng là
một cơ duyên bất khả tư nghì. Số là mấy tháng trước, lúc bộ Kinh Kim Cang sắp
được giảng xong, thì các vị hộ pháp của Phật Giáo Giảng Ðường là Quả Ðịa, Quả
Ninh và Quả Tiền ngỏ ý muốn được nghe giảng bộ Kinh Ðại Bi Ðà La Ni. Vì sao họ
muốn tìm hiểu bộ Kinh này? Bắt đầu từ năm ngoái, ở Phật Giáo Giảng Ðường này
mỗi tuần đều có dạy pháp môn bí mật Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn. Pháp môn này không
chỉ là bí mật mà vốn từ trước đến nay tôi chưa hề truyền dạy cho ai cả. Song,
sang đến Mỹ quốc, tôi nghĩ là cần đem pháp môn bí mật bất truyền này truyền dạy
cho quý vị, những người Mỹ có thiện căn. Vì vậy, kể từ năm ngoái, tôi bắt đầu
dạy Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn, một pháp môn vi diệu bất khả tư nghì. Tuy nhiên, tôi
chẳng hề đến bất cứ nơi nào rêu rao: "Này, tôi có mật pháp nhưng chẳng
truyền cho ông đâu!" Mặc dù là pháp bí mật, song tôi vẫn đem truyền bá.
Truyền cho những ai? Tất nhiên tôi phải "chọn mặt gởi vàng," chỉ
truyền cho những người có đại thiện căn, có quy y Tam Bảo và thâm tín Phật
Pháp.
Sau khi tôi truyền xong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn thì có mấy vị sanh
lòng khát ngưỡng đối với bộ Kinh Ðại Bi Ðà La Ni, muốn hiểu rõ kinh nghĩa của
Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn này. Cho nên, do cư sĩ Quả Ðịa khởi xướng, mọi người mời
tôi giảng bộ Kinh Ðại Bi Ðà La Ni. Lúc ấy, tôi thấy khó mà từ khước trước lòng
thành của nhóm Phật tử này, nên đã bằng lòng nhận giảng Kinh Ðà La Ni. Nhưng
giảng xong Kinh Kim Cang thì lại tiếp tục giảng Tâm Kinh. Tâm Kinh tuy là hai
trăm mấy chục chữ nhưng giảng xong cũng mất hết hai, ba tháng. Thật ra trong
hai, ba tháng ấy tôi chỉ giảng vào ngày Chủ nhật mà thôi, chứ không phải là
ngày nào cũng giảng. Nếu ngày nào cũng giảng thì khoảng một hoặc nửa tháng là
xong. Hiện tại Tâm Kinh đã giảng xong, bây giờ bắt đầu giảng bộ Ðại Bi Ðà La Ni
Kinh.
Ðây là một bộ Kinh có thể nói là hầu hết quý vị chưa từng được nghe
qua; và chẳng riêng gì quý vị mà ngay cả người Trung Hoa cũng vậy, số người
được nghe đến bộ Kinh này cũng rất ít. Người Trung Hoa mà đã được nghe, rồi có
thể giảng giải nghĩa lý của Kinh một cách tường tận cũng là không dễ, cũng là
hy hữu vậy!
Vì vậy, bây giờ tôi đem bộ Kinh Ðại Bi Ðà La Ni này giảng cho quý
vị nghe thì mỗi người, trước hết, phải quét sạch tất cả những "rác
rưởi" trong đầu óc của mình. Ðừng khởi nhiều vọng tưởng, đừng quá nặng
lòng tham, chớ sanh tâm sân hận và cũng chớ quá si mê. Phải quét sạch những rác
rưởi tham sân si trước; đó cũng chính là quét dọn sạch sẽ tất cả những đồ
"xú uế " trong mỗi người. Phải thu dọn và quét sạch mọi thứ bất tịnh
trong chính mình ra ngoài, để sau đó có thể chứa đựng nước cam lồ pháp vị. Bấy
giờ quý vị mới có thể thanh tịnh mà chứng đắc pháp lực của pháp môn này. Ðây là
điều tối trọng yếu, quý vị cần lưu tâm!
Bây giờ giảng về từ ngữ "Thiên Thủ Thiên Nhãn (ngàn tay, ngàn
mắt)."
Có người nói rằng: "Phải tu pháp Ðại Bi Ðà La Ni thì mới đạt
được ngàn tay ngàn mắt; thế nhưng ‘ngàn tay ngàn mắt’ này dùng để làm gì?"
Và còn cho rằng: "Chúng ta mỗi người có được hai tay, hai mắt là đã tốt
quá rồi. Hai tay có thể giúp ta cầm nắm đồ vật, hai mắt cho ta nhìn thấy mọi
điều; thế thì còn muốn có nhiều mắt, nhiều tay như vậy để làm gì? Xét ra, hiện
chúng ta đang ở vào thời đại khoa học, nhiều tay nhiều mắt đến thế cũng chẳng
ích lợi gì!" Vậy, nếu quý vị chê nhiều thì khỏi cần tu pháp Ðại Bi!
Bây giờ tôi giải thích từ ngữ "Thiên Nhãn (ngàn mắt)"
trước. Quý vị đều có hai con mắt, và quý vị phải mở mắt ra nhìn thì mới thấy
được sự vật, nếu nhắm hai con mắt này lại thì không còn trông thấy gì nữa. Tuy
nhiên, nếu quý vị có một ngàn con mắt thì có thể khiến chúng thay phiên nhau
làm việc—cho con mắt này nhắm lại để nghỉ ngơi, mở con mắt kia ra để nhìn ngó;
quý vị thấy có vi diệu không nào?
"Ngàn mắt" này được gọi là "thiên nhãn chiếu
kiến" (ngàn mắt chiếu soi). Con mắt phàm của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy
trong phạm vi mười hoặc hai mươi dặm; nếu quý vị dùng kính viễn vọng thì có thể
thấy xa tới khoảng một trăm dặm, còn xa hơn nữa thì e rằng không đủ khả năng.
Nếu quý vị có được một ngàn con mắt thì thế nào? Trăm dặm, ngàn dặm, vạn dặm,
tận hư không, khắp Pháp Giới—vô số vô biên hành tinh và hệ ngân hà—quý vị đều
có thể thấy rõ. Bấy giờ, không cần xem vô tuyến truyền hình mà quý vị vẫn có
thể biết được: "Ồ! Hai phi hành gia đang đi trên mặt trăng!" Quý vị
thấy có vi diệu hay không? Hiện tại quý vị phải nhờ vào ti-vi mới có thể thấy
được con người đặt chân lên nguyệt cầu; nhưng nếu quý vị có ngàn mắt thì khỏi
phải dùng ti-vi mà vẫn thấy được rõ ràng. Chẳng những khỏi cần ti-vi mà quý vị
còn khỏi cần trang bị ăng-ten hay hệ thống ra-đa, và cũng chẳng phải trả tiền
nữa—bớt được bao nhiêu là rắc rối! Quý vị bảo rằng có một ngàn con mắt là không
tốt ư? Bây giờ quý vị biết đó là điều tốt rồi chứ?
Chẳng những thế, với ngàn con mắt này, quý vị có thể từ phía trước
thấy được phía sau, từ đằng sau trông rõ đằng trước. Hư Vân Lão Hòa Thượng có
câu thơ rằng:
Não hậu kiến tai kình diều tử,
Ðỉnh môn cụ nhãn tróc phi hùng.
(Sau đầu thấy má: chụp diều hâu,
Cửa đỉnh đủ mắt: tóm gấu bay.)
Chúng ta vốn không thể nào thấy được mặt mũi của chính mình; tuy
nhiên, nếu quý vị có ngàn mắt thì ở phía sau có thể nhìn thấy phía trước, ở
phía trước cũng có thể nhìn thấy phía sau—có thể thấy được bản lai diện mục của
chính mình. Bấy giờ, quý vị cũng có thể thấy được những gì ở trong bụng mình,
biết được trong đó có bao nhiêu con trùng chết, trùng lười biếng... Từ bên
ngoài quý vị có thể thấy rõ bên trong và từ phía trong quý vị có thể thấy rõ
phía ngoài, giống như nhìn xuyên qua bức tường bằng pha-lê hay thủy tinh vậy.
Bụng quý vị lúc ấy tựa như pha-lê—lóng lánh, trong suốt, không còn có sự ngăn
cách giữa trong và ngoài. Nhờ đó, quý vị có thể thấy được tim mình hình thù như
thế nào, bụng mình muốn nói điều gì, và cũng biết được mọi ý tưởng cũng như mọi
hoạt động của các machines—các cơ quan—trong cơ thể mình. Thế nào,
bây giờ quý vị có muốn có ngàn mắt không? Quý vị có còn cho rằng có hai con mắt
là đủ rồi nữa không? Tôi e rằng bây giờ quý vị cũng nhận thấy như thế là chưa
đủ. Ngàn mắt có nhiều diệu dụng như vậy đấy!
Còn "Thiên Thủ (ngàn tay)" thì sao? Tay dùng để cầm nắm
đồ vật. Không cần nói đâu xa, bây giờ chúng ta hãy lấy việc cầm tiền làm thí
dụ. Quý vị có hai tay, mỗi tay có thể cầm được mười ngàn đồng chẳng hạn; vậy
nếu tôi có một ngàn tay thì tôi có thể cầm được mười triệu đồng. Quý vị không
thể nào một lúc mà cầm được nhiều tiền như tôi, quý vị thấy có kỳ diệu không
chứ? Hoặc lấy một thí dụ khác, như chia táo chẳng hạn. Quý vị cứ tha hồ, lấy
được bao nhiêu táo thì lấy. Tất nhiên, nếu quý vị có một ngàn tay thì lấy được
một ngàn trái táo, có hai tay thì chỉ lấy được hai trái. Quý vị xem, như vậy có
hữu dụng không chứ? Tuy nhiên, ngàn tay này chẳng phải để dùng vào chuyện vặt
vãnh, tầm thường, cũng chẳng phải dùng để tranh ăn như trò chơi của trẻ con.
Công năng của ngàn tay là cứu người. Thí dụ có một ngàn người bị té
xuống biển, quý vị có hai tay thì tay này kéo một người, tay kia lôi một người,
tức là chỉ có thể cứu được hai người mà thôi. Nếu quý vị có được một ngàn tay
thì chỉ việc thò luôn một ngàn cánh tay xuống biển là vớt được cả một ngàn
người suýt bị chết đuối ấy lên bờ. Quý vị thắc mắc là một ngàn cánh tay này
dùng để làm gì ư? Ðể cứu người đấy! Cho nên nói:
"Thiên Nhãn chiếu kiến, Thiên Nhĩ diêu văn, Thiên Thủ hộ
trì."
(Ngàn mắt chiếu soi, Ngàn tai lắng nghe, Ngàn tay cứu giúp.)
Ngàn tay là để hộ trì tất cả chúng sanh—nếu như có một chúng sanh
có khổ nạn gì thì quý vị chỉ cần duỗi một cánh tay ra là cứu được chúng sanh ấy
thoát vòng khổ ải. Nếu chỉ có hai tay thì quý vị không thể cứu độ được nhiều
người. Cho nên Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt là để cứu hộ tất cả
chúng sanh, chứ không phải để đi ăn trộm. Quý vị cần phải hiểu rõ điểm này!
Không được khoác lác rằng mình có một ngàn cánh tay để hái trộm một ngàn trái
táo!
Ngàn tay và ngàn mắt này rốt ráo là từ đâu đến? Vừa rồi tôi chẳng
bảo đó là từ Chú Ðại Bi sanh xuất ra hay sao? Quý vị chỉ cần tụng Chú Ðại Bi,
và tu Ðại Bi Pháp của Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn là được. Thủ Nhãn cuối cùng trong
Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn có tên là Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ. Hễ quý vị tụng câu chú
của Thủ Nhãn này một biến, thì quý vị sẽ có thêm bốn mươi hai cánh tay. Tụng
một biến thì có được bốn mươi hai cánh tay; tụng mười biến thì được 420 tay;
tụng một trăm biến thì được 4.200 tay. Nếu quý vị tụng một ngàn biến thì sẽ có
được 42.000 cánh tay, và cũng có luôn cả 42.000 con mắt. Vấn đề là quý vị có
chịu khó tu tập hay không mà thôi! Bởi, Thiên Thủ Thiên Nhãn không phải chỉ
trong một sớm một chiều mà thành tựu được. Quý vị tu pháp môn này, nếu ngày
ngày đều miệt mài dụng công không hề gián đoạn, ngày ngày đều y Pháp tu hành,
thì sẽ thành tựu được thứ diệu dụng bất khả tư nghì. Tuy nhiên, nếu quý vị hôm
nay tu, ngày mai nghỉ, thì sẽ chẳng có tác dụng gì cả! Muốn lấy được bằng cấp
tiến sĩ của thế gian, thì từ lúc khởi sự học hành cho đến khi thành đạt cũng
phải mất khoảng mười bốn, mười lăm năm công phu đèn sách; huống hồ là tu học
Phật Pháp? Học Phật Pháp, nếu quý vị không thật sự dụng công hành trì thì chẳng
thể nào có sự thành tựu được!
Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát tinh tấn nhất, siêng năng nhất, và
không hề muốn nghỉ ngơi. Ngài sẵn lòng suốt ngày cứu độ chúng sanh, chẳng nề hà
công việc nhiều vất vả, cũng chẳng quản ngại chúng sanh lắm khổ nạn; cho nên có
thể nói rằng Ngài là vị Bồ Tát bận rộn nhất. Ngài không phải là một vị Bồ Tát
lười biếng, thích nghỉ ngơi nhàn nhã, mà là một vị Bồ Tát chăm chỉ, cần mẫn
nhất. Bởi một cánh tay thì cứu được quá ít người, hai cánh tay thì số người cứu
được cũng còn giới hạn; do đó, Ngài muốn có ngàn tay ngàn mắt—một ngàn cánh tay
để cứu vớt và một ngàn con mắt để chiếu cố tất cả chúng sanh trong Tam Thiên
Ðại Thiên thế giới. Các chúng sanh mà Ngài chiếu cố đều là những chúng sanh
gánh chịu nhiều đau khổ, và các chúng sanh mà Ngài cứu độ là những chúng sanh gặp
phải tai ương, hoạn nạn.
Chữ "Quán" trong "Quán Thế Âm Bồ Tát" có nghĩa
là quán sát, theo dõi. Quán sát cái gì? Quán sát thế giới này. Quán sát cái gì
ở thế giới này? Quán sát âm thanh của thế giới này. "Quán" chính là
trí huệ năng quán, tức là chủ thể trí huệ quán sát. "Thế" là cảnh
giới sở quán—đối tượng, cảnh giới được quán sát—và đó chính là tất cả chúng
sanh trong thế giới này.
Chúng sanh lúc khốn khổ gian nan thì thường nghĩ đến ai? Nghĩ đến
người cha đại từ bi, nghĩ đến người mẹ đại từ bi. Người cha đại từ bi ấy là ai?
Ðó là Bồ Tát Quán Thế Âm. Người mẹ đại từ bi ấy là ai? Cũng chính là Quán Thế
Âm Bồ Tát. Nhớ nghĩ đến Ngài rồi thì sao? Họ liền niệm "Nam mô Quán Thế Âm
Bồ Tát. Nam mô Ðại Từ Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát..." Họ vừa niệm "Nam
mô Quán Thế Âm Bồ Tát," thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền dùng ngàn mắt trí huệ
để nhìn, dùng tai trí huệ để lắng nghe, rồi dùng tay trí huệ để cứu vớt họ.
Chúng sanh có tai nạn khổ ách không phải lúc nào cũng lẻ tẻ, lần
lượt từng người một. Nếu trăm ngàn vạn ức chúng sanh đồng thời lâm nạn, tức là
sẽ có trăm ngàn vạn ức chúng sanh đồng thời cầu cứu, xưng niệm "Nam mô
Quán Thế Âm Bồ Tát"; thì Ðức Quán Thế Âm sẽ đồng thời cứu vớt và tất cả
đều sẽ đồng thời được giải thoát, đồng thời được an vui. Vì thế, Bồ Tát Quán
Thế Âm được gọi là "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát."
Bồ Tát luôn cứu giúp con người. Nếu quý vị cứu giúp con người, quý
vị chính là Bồ tát; nếu tôi cứu giúp con người, tôi cũng là Bồ tát. Nếu quý vị
không cứu giúp con người thì quý vị chính là la-sát; và nếu tôi không cứu giúp
con người, tôi cũng là la-sát. Quỷ la-sát và Bồ Tát Quán Thế Âm mới nhìn dung
mạo bề ngoài tưởng chừng như không khác nhau là bao, nhưng sự thật lại hoàn
toàn tương phản! La-sát quỷ nữ rất xinh đẹp, song cũng rất ích kỷ, chỉ biết mưu
lợi cho mình mà thôi. Ðiểm khác biệt chính là một bên thì chỉ biết lợi mình mà
không biết lợi người; còn một bên thì chỉ biết lợi người mà không màng đến lợi
mình. Cho nên, tướng mạo của Quán Thế Âm Bồ Tát rất viên mãn, dung mạo của
la-sát nữ cũng chẳng kém ai, nhưng do tâm địa bất đồng, một niệm sai biệt, mà
thành ra khác nhau vậy!
Thế nên, nếu quý vị muốn học Quán Thế Âm Bồ Tát thì quý vị phải đi
cứu người giúp đời, lợi ích quần sanh. Có người nói: "Tôi không có khả
năng gì cả—thứ nhất, tôi không có tiền; thứ hai, tôi không biết thuyết giảng
Phật pháp, không khéo ăn nói. Vậy thì tôi làm sao mang lại lợi ích cho nhân
loại được?"
Tôi bảo cho quý vị biết: Quý vị có "miệng từ bi, lưỡi phương
tiện." "Miệng từ bi" tức là có lòng nhân từ, không chưởi mắng
người khác. "Lưỡi phương tiện" tức là dùng căn lưỡi của mình làm
phương tiện, chứ không phải để nói chuyện thị phi. Ví như có xảy ra sự xích
mích gì đó, mà quý vị, bằng phương tiện quyền xảo giảng nói, làm cho đôi bên
được hòa giải, hoặc bằng lời lẽ khéo léo mà hóa giải được các tranh chấp trên
thế gian, dập tắt được hiểm họa chiến tranh thế giới—đó là quý vị dùng
"lưỡi phương tiện" vậy. Có câu:
"Miệng từ bi, lưỡi phương tiện,
Có tiền, không tiền đều tạo đức được."
Có tiền hay không có tiền đều có thể tạo được công đức như nhau.
Ðương nhiên có tiền thì cũng có tốt hơn đôi chút, nhưng nếu quý vị không có
tiền thì bất tất phải lo buồn, cũng chẳng nên nghĩ: "Tôi nghèo quá, làm
sao làm việc phước đức được?" Làm việc công đức cốt là để cho quý vị nuôi
dưỡng lòng hảo tâm, biết làm việc từ thiện, và làm một con người tốt.
"Bồ Tát" là Phạn ngữ, nói đầy đủ là "Bồ Ðề
Tát Ðỏa." "Bồ Ðề" dịch nghĩa là "giác"; còn "Tát
Ðỏa" là "hữu tình." Vậy, Bồ Tát có nghĩa là một người đã giác
ngộ giữa đám hữu tình, và cũng có nghĩa là một người đi giác ngộ tất cả chúng
hữu tình. Thế nào gọi là loài "hữu tình"? Tất cả các loài có khí
huyết đều được gọi là loài hữu tình. Loài không có khí huyết thì cũng là chúng
sanh, song chúng là vô tình—không có tình cảm, không có cảm giác.
Người ta thường nói: "Nhân phi thảo mộc, thục năng vô tình?
(Con người nào phải cỏ cây, sao nỡ vô tình?)" Câu này ý nói cỏ cây là vô
tri vô giác, không có tình cảm; nhưng thật ra, cỏ cây cũng có tình cảm vậy,
chẳng qua là thứ tình cảm mê muội, không sáng suốt. Vì sao không sáng suốt? Vì
chúng toàn làm những việc ngu si cho nên mới bị biến thành cỏ cây gỗ đá. Chúng
là một trong mười hai loại chúng sanh.
Cảnh giới của Quán Thế Âm Bồ Tát vốn bất khả tư nghì. Chính vì cảnh
giới bất khả tư nghì này rất bất khả tư nghì, cho nên tôi không thể nào diễn tả
được! Bây giờ tôi kể cho quý vị nghe một công án.
Thuở trước, có một người nọ trì tụng Chú Ðại Bi đã được khoảng mười
hai năm. Trong suốt mười hai năm ấy, ông chẳng gặp chuyện gì gọi là kỳ diệu
nhiệm mầu cả—Chú Ðại Bi chẳng biến ra cơm cho ông ăn, cũng chẳng làm ra áo quần
cho ông mặc—thế nhưng, ông vẫn tin tưởng và chăm chỉ, đều đặn trì tụng Chú Ðại
Bi. Mỗi ngày ông tụng tối thiểu là 108 biến, mà thông thường là nhiều hơn thế.
Một lần nọ, ông đi chơi xa và phải ngủ qua đêm ở nhà trọ. Tại Trung
Hoa, ở một vài địa phương có loại quán trọ gọi là "hắc điếm." Hắc
điếm là gì? Ðó là một thứ nhà trọ trá hình của bọn cướp. Bọn cướp này cũng
tương tự như thổ phỉ vậy; có điều, thổ phỉ thì ra chận đường người ta mà cướp
bóc, giết hại, còn chúng thì ở trong nhà chờ đợi. Khi có khách tới quán của
chúng tá túc, thấy khách mang theo tiền của, hoặc đeo nhiều vàng bạc châu báu,
ra vẻ khách buôn giàu có, thì chúng liền đưa khách đến một căn phòng nhỏ khá
tươm tất và có cửa riêng để chúng có thể ra vào dễ dàng. Sau đó, chúng lén bỏ
thuốc mê trong rượu cho khách uống và đến khuya, thừa cơ khách ngủ mê mệt,
chúng lẻn vào đoạt hết tiền bạc, đôi khi còn giết người luôn nữa.
Người trì tụng Chú Ðại Bi này ở trọ trong hắc điếm cũng được mời
uống thứ rượu có bỏ thuốc mê, nhưng vì thâm tín Phật Pháp nên ông không uống
rượu; do đó không bị trúng thuốc mê. Ðến nửa đêm, đang ngủ ông chợt nghe có
tiếng chân người tiến vào phòng mình. Ông hé mắt nhìn ra, nhác thấy bóng một
lưỡi dao sáng loáng, ông sợ đến cứng cả người, tự nhủ: "Người này cầm dao
đến hẳn là để giết mình đây!"
Ngay lúc đó, bên ngoài bỗng có tiếng đập cửa. Chủ quán—kẻ âm mưu
giết người—giật mình giấu vội con dao, lẻn ra khỏi phòng, rồi hỏi vọng ra:
"Ai đó? Ai gọi cửa đó? Who are you? Who?"
Người ngoài cửa đáp: "Tôi đây! Tôi họ Ðậu, tên Du Bằng. Tôi có
một người bạn ở trọ trong quán ông. Ông ấy tên là ... Nhờ ông nhắn lại là tôi
mời ông ấy sáng mai đến nhà tôi ăn điểm tâm nhé!"
Chủ quán mở hé cửa nhìn ra thì thấy một người đàn ông trang phục
giống như cảnh sát, liền nghĩ: "Thì ra viên cảnh sát này có quen biết với
người mà mình định giết. Ông ta là bạn của cảnh sát! Cảnh sát đến mời ông ấy
sáng mai đi ăn điểm tâm!" Vì thế, đêm ấy gã chủ quán không dám ra tay giết
người.
Sáng hôm sau, chủ quán nói với ông khách trọ chuyên trì Chú Ðại Bi:
"Ông có người bạn tên Ðậu Du Bằng đến tìm tối qua. Lúc đó đã khuya lắm
rồi, mà ông cũng đã đi ngủ nên ông ấy không muốn đánh thức ông dậy. Ông ấy muốn
mời ông hôm nay đến nhà ông ấy ăn sáng."
Ông này vừa nghe đến mấy tiếng "Ðậu Du Bằng" thì cảm thấy
rất quen thuộc. Sực nhớ ba chữ ấy vốn ở trong bài Chú Ðại Bi, ông chợt hiểu ra
ngay, bèn nói: "Ðúng rồi, ông ấy là bạn tôi đấy. Chúng tôi có hẹn gặp nhau
sáng nay, chốc nữa tôi đến nhà ông ấy ăn sáng."
Người này lọt vào sào huyệt của bọn cướp mà không bị chúng giết hại
là nhờ có trì tụng Chú Ðại Bi. Do đó, quý vị đừng cho rằng trì tụng Chú Ðại Bi
là chẳng có ích lợi. Ðến lúc quý vị gặp nguy hiểm, sanh mạng của quý vị bị đe
dọa, bấy giờ quý vị mới nghiệm ra được diệu dụng mầu nhiệm của Chú . Tuy nhiên,
hiện tại quý vị chưa gặp chuyện bất trắc, nguy hiểm tới tánh mạng, thì cũng
chưa cần đến sức gia hộ của Chú Ðại Bi. Vậy, quý vị chỉ nên thành tâm chuyên
cần trì tụng là đủ, và chớ bận tâm về việc Chú Ðại Bi có trợ giúp gì trong vấn
đề cơm ăn áo mặc của mình hay không!
Tôi đã giảng về ý nghĩa của "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm
Bồ Tát"; bây giờ nói về từ ngữ "Quảng Ðại."
"Quảng" là rộng lớn (chỉ bề ngang). "Ðại" là
cao to (chỉ bề dọc). Bộ Kinh này có thể nói là "hoành biến thập phương,
thụ cùng Tam Giới"—bề ngang thì trùm khắp hết mười phương, dựng đứng lên
thì cao đến tột cùng của Tam Giới. "Tam Giới" là ba cõi—Dục Giới, Sắc
Giới và Vô Sắc Giới. "Thập phương," như quý vị đều biết, là mười
phương—Ðông, Tây, Nam, Bắc, Ðông Nam, Tây Nam, Ðông Bắc, Tây Bắc, Trên và Dưới.
Hai câu chú trong Chú Lăng Nghiêm là "A Na Lệ. Tỳ Xá Ðề,"
cũng hàm nghĩa "quảng đại"—một câu ngụ ý "hoành biến thập
phương," và một câu là "thụ cùng Tam Giới." Tác dụng của hai câu
chú này là mỗi khi niệm lên thì yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo, một bước
cũng không đi được, không còn đường để tẩu thoát nữa, đành phải chịu quy đầu
phục thiện. Ở đây, ý nghĩa của từ ngữ "quảng đại" trong tên đề của
Kinh Ðà-La-Ni thì cũng vẫn vậy, có điều là công năng không lợi hại bằng hai câu
chú kia.
"Viên Mãn" có nghĩa là tròn đầy, không còn chút
khiếm khuyết nào nữa.
"Vô Ngại" có nghĩa là không có gì chướng ngại,
ngăn trở được cả.
Cái gì quảng đại, viên mãn và vô ngại? Ðó là "Ðại Bi Tâm."
Ðại Bi Tâm thì vừa quảng đại, vừa viên mãn, lại vừa vô ngại nữa. Ðại Bi Tâm có
công năng dứt trừ khổ nạn, cứu vớt chúng sanh thoát khỏi mọi gian nan khốn khổ;
cho nên nói: "Bi năng bạt khổ"—lòng bi mẫn, thương yêu, có thể dứt
sạch tất cả khổ lụy cho chúng sanh.
Cái gì có được công năng dứt trừ mọi nỗi khổ của chúng sanh? Ðó
chính là pháp Ðà-La-Ni.
"Ðà-La-Ni" là Phạn ngữ; Hoa ngữ dịch là "Tổng
Trì." "Tổng" tức là bao hàm tất cả các pháp, tất cả các pháp đều
ở trong đó. "Tổng" cũng là thủ lãnh, là "cái đầu" của tất
cả các pháp, có công năng khơi nguồn tất cả các pháp. "Trì" là chấp
trì, nắm giữ. "Trì" cái gì? "Trì vô lượng nghĩa"—vô lượng
đạo lý đều nằm trong sự chấp trì, nắm giữ của quý vị. Chỉ cần quý vị trì tụng
Ða-La-Ni thì sẽ có được công năng này.
Vậy, trong tên đề của bộ kinh này, chữ "Kinh" là tên
chung (thông danh), và "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại
Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni" là tên riêng (biệt danh). Kinh này
lấy Nhân (người) và Pháp để lập thành đề mục hay tựa kinh (tittle)—"Thiên
Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát" là Nhân; còn "Quảng Ðại Viên Mãn
Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni" là Pháp. Lại cũng có thể nói rằng đề mục của
bộ kinh này thuộc loại Nhân, Pháp, Dụ lập đề; trong đó, "Tâm" là Dụ.
"Ðại Bi Chú" ví như cái tâm Ðại Từ Bi tiềm tàng trong mỗi con người,
cho nên gọi là "Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni."
"Kinh" có nghĩa là "kinh thường bất
biến"—mãi mãi như thế, không bao giờ thay đổi.
Bộ Kinh này lấy gì làm Thể? Lấy Thật-tướng làm
Thể. Thật-tướng chính là Vô-tướng, mà Vô-tướng cũng chính là Thật-tướng.
Có Thể rồi thì cần phải có Tông—Tông-chỉ. Vậy, Kinh này lấy gì làm
Tông-chỉ? Lấy "hàng phục chư ma, chế phục ngoại đạo" làm
Tông-chỉ.
Lấy gì làm Dụng? Lấy sự diệt ác sanh thiện, bớt khổ thêm
vui, làm chỗ Dụng. "Hàng phục chư ma, chế phục ngoại đạo" có
nghĩa là trừ diệt điều ác, sanh khởi điều thiện, dứt khổ thêm vui; do đó,
"sanh thiện, diệt ác" chính là lực dụng của bộ Kinh này vậy.
Kinh này có công năng sanh thiện, diệt ác, cứu khổ, ban vui; và
lấy đề-hồ làm giáo tướng—diệu vị đề-hồ và vô thượng cam-lồ đều
được lưu xuất từ bộ Kinh này.
Trên đây là dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa—Danh, Thể, Tông, Dụng,
Giáo—và bảy loại lập đề để giải thích sơ lược về đề mục bộ Kinh.
ÐƯỜNG TÂY THIÊN-TRÚC SA-MÔN GIÀ-PHẠM-ÐẠT-MA DỊCH.
Chúng ta đã tìm hiểu phần đề mục, bây giờ nói về dịch giả. Bộ Kinh
này vốn do ai phiên dịch? Ðường Tây Thiên-Trúc Sa-môn, tức là dưới triều đại
nhà Ðường có một vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc. Tây Thiên Trúc là thuộc Ấn
Ðộ. Thời ấy, nước Ấn Ðộ gồm có năm vùng: Nam Ấn, Bắc Ấn, Ðông Ấn, Tây Ấn và
Trung Ấn; và vị Sa môn này ở vùng Tây Ấn.
"Sa-môn" nghĩa là gì? Sa-môn là tiếng Phạn; Hán
ngữ dịch là "cần tức" —cần tu Giới Ðịnh Huệ, tức diệt tham sân si
(siêng tu Giới Ðịnh Huệ, dứt sạch tham sân si).
Oai nghi của một vị Sa-môn [siêng tu Giới luật] là như thế nào?
Tỳ-kheo Mã Thắng [luôn nghiêm trì oai nghi, giới luật] là một trong năm vị đệ
tử xuất gia đầu tiên của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cũng là người có oai nghi
tốt đẹp nhất. Lúc chưa gặp Phật, Tôn-giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tình cờ
thấy Tỳ-kheo Mã Thắng đắp y, ôm bình bát đi khất thực. Ngài vừa đi vừa nhiếp
trì chánh niệm—mắt quán mũi, mũi quán miệng, miệng hỏi lòng, mắt không nhìn dáo
dác, tai không chực nghe ngóng—tuy chân bước đều mà dáng vẻ so với nhập Ðịnh
chẳng có gì khác biệt. Bấy giờ, hai Tôn-giả đều kinh ngạc: "Ồ! Sao người
này lại có được tướng mạo tốt đẹp thế kia?" Và liền đến thỉnh giáo thầy
Tỳ-kheo: "Chẳng hay Ngài học pháp ở đâu mà có được oai nghi tuyệt diệu như
thế?"
Mã Thắng Tỳ-kheo đáp: "Tôi học oai nghi với Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni." Rồi Ngài đọc bài kệ:
"Chư pháp tùng duyên sanh,
Chư pháp tùng duyên diệt.
Ngã Phật Ðại Sa-môn,
Thường tác như thị thuyết."
Nghĩa là:
"Các pháp từ duyên sanh,
Các pháp theo duyên diệt.
Phật ta Ðại Sa-môn,
Thường dạy như vậy đó!"
Vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc này chỉ để vỏn vẹn "Ðường
Tây Thiên-Trúc Sa-môn," chứ không dùng hai chữ "Tam
Tạng" trong danh xưng của mình, có lẽ vì Ngài chỉ thông đạt một hoặc hai
tạng trong số ba tạng Kinh, Luật và Luận.
Già Phạm Ðạt Ma dịch. "Già Phạm Ðạt
Ma" là tên của vị Sa-môn người xứ Tây Thiên-Trúc, và có nghĩa là
"Kính Pháp" hoặc "Tôn Pháp." Ngài là một vị Sa-môn rất mực
tôn kính giáo pháp của Ðức Phật, và chính ngài đã dịch bộ Kinh Ðà-La-Ni này từ
tiếng Ấn Ðộ sang tiếng Trung Hoa.
Kinh Văn:
Âm: NHƯ THỊ NGÃ VĂN: NHẤT
THỜI, THÍCH CA MÂU NI PHẬT TẠI PHỔ ÐÀ LẠC GIÀ SƠN. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CUNG
ÐIỆN, BẢO TRANG NGHIÊM ÐẠO TRÀNG TRUNG, TỌA BẢO SƯ TỬ TÒA. KỲ TÒA THUẦN DĨ VÔ
LƯỢNG TẠP MA NI, BẢO NHI DỤNG TRANG NGHIÊM, BÁCH BẢO TRÀNG PHAN CHÂU TRÁP HUYỀN.
Nghĩa: Tôi nghe như vầy: Một thuở
nọ, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên bảo tòa Sư tử trong đạo tràng Bảo Trang
Nghiêm, là cung điện của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện ở núi Phổ Ðà Lạc Già.
Chỗ ấy toàn dùng vô số ngọc báu ma ni để trang nghiêm, treo xung quanh là tràng
phan làm bằng trăm thứ quý báu khác.
Lược Giảng:
"Như thị ngã văn":
‘Như thị’ là tín thành tựu
‘Ngã văn’ là văn thành tựu
"Như thị" có nghĩa: Ðúng là như vậy, hoàn toàn đáng tin
cậy. ‘Như’ có nghĩa là bất biến, không thể nào khác được. ‘Thị’ là như vậy,
hoàn toàn là chính xác. ‘Như thị’ nghĩa là hoàn toàn như thật, hoàn toàn đích
xác, không gì thay đổi được. Mọi Kinh Phật đều mở đầu bằng bốn chữ "Như
thị ngã văn". Vì sao có nguồn gốc bốn chữ này? Bốn chữ này là do A Nan
tiếp chỉ từ Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật lúc sắp nhập Niết bàn đã Di giáo lại.
Lúc Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, tuy A Nan đã chứng đến nhị quả
nhưng vẫn còn sự cảm động lưu luyến không dứt. Biết vậy, A Nan cầu thỉnh Phật
phải trụ thế, chưa có thể viên tịch, nhưng vẫn không được. Cầu thỉnh không được
thì làm sao? Ông ta khóc, khóc oà lên đầm đìa nước mắt, mọi cái đều quên hết.
Vì sao vậy? Vì ông ta rất ái mộ Phật.
Quý vị xem trong ‘Kinh Lăng Nghiêm’, A Nan vì sao xuất gia? Là vì
thấy Phật ‘tướng hảo quang minh, có đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ
đẹp’ Ông ta liền sanh ái kiến và tự nhủ lòng: ‘Ồ, tướng hảo Ðức Phật tốt như
thế, tôi nguyện ở mọi lúc mọi nơi theo làm thị giả hầu cận Ðức Phật, dẫu có khó
nhọc bao nhiêu tôi cũng nguyện theo’. Sơ tâm xuất gia vì lòng ái mộ như thế,
nên lúc Ðức Thích Ca sắp nhập Niết bàn, ông ta vẫn còn mang ái kiến, không muốn
thấy có điều đó, nên liền khóc than cầu khẩn.
Như quý vị biết A Na Luật Tôn giả là một vị đệ tử bị mù, tuy bị mù
nhưng trong tâm rất sáng tỏ. Lúc đó, A Na Luật vẫn biết Ðức Phật Thích Ca sắp
nhập Niết bàn, mà cứ thấy A Nan mãi khóc lóc không ngớt như thế, nên ông ta đến
bên cạnh A Nan nói rằng:
Này A Nan! Ông khóc gì vậy?
A Nan nói: Ðức Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, làm sao thầy bảo
tôi không khóc! Không có cách nào mà không khóc cả?
A Na Luật nói: Ồ! Bây giờ thầy đang có nhiều việc trọng yếu phải
làm mà! Thầy khóc có ích lợi gì cơ?
A Na Luật nói vậy, A Nan cũng tỉnh ra một chút và ngớt khóc.
A Nan nói: À, có việc quan trọng, việc quan trọng gì?
A Na Luật liền nói: Ðức Phật sắp nhập diệt, chúng ta phải thỉnh
vấn, là sau này kết tập Kinh Tạng, thì tất cả những điều Ðức Phật tuyên thuyết
sau này, sẽ kết tập thành Kinh điển thì phải mở đầu Kinh điển như thế nào?
A Nan đáp: Việc này quan trọng đấy, đó là việc phải làm, còn việc
gì nữa không?
Tôn Giả A Na Luật nói: Lúc Ðức Phật còn tại thế chúng ta được theo
Phật mà an trú, sau này Ðức Phật nhập Niết bàn rồi chúng ta phải ở trú xứ nào?
A Nan ngừng một lát rồi bảo: Ồ! Giờ tôi như lẩn thẩn, nếu thầy
không bảo tôi có lẻ tôi không nghĩ ra. Việc này cũng khá trọng yếu đấy! Còn
việc gì nữa không?
A Na Luật lại bảo rằng: Lúc Phật còn tại thế, Phật là Ðấng Ðạo Sư
của chúng ta, sau khi Phật nhập Niết bàn, chúng ta nên tôn ai làm thầy? Chúng
ta nên tiến cử ai làm lãnh tụ Tăng đoàn, một người đại biểu của Tăng già mà mọi
người phải tuân thủ?
A Nan đáp rằng: Ồ! Thầy nói điều này cũng rất quan trọng, đó là
điều thứ ba, còn có điều gì nữa không?
A Na Luật Tôn giả bảo: Ðiều thứ tư là lúc Ðức Phật còn tại thế, có
một số Tỳ kheo tha hóa, phạm giới gọi là ‘ác tính Tỳ kheo’ thì Ðức Phật có thể
chế phục và giáo huấn được. Sau này Ðức Phật đã nhập diệt thì các ‘ác tính Tỳ
Kheo’ này làm sao có biện pháp nghiêm trị?
A Nan đáp: À! Ðiều này cũng rất quan trọng, còn có vấn đề gì nữa
không?
A Na Luật nói: Không còn nữa! Những vấn đề tôi muốn đề cập tôi đã
nói hết. Còn chính thầy còn thắc mắc vấn đề gì nữa không? Tự thầy nghĩ lại xem!
A Nan đáp: Chính tôi cũng không còn vấn đề gì, bốn điều này đã đủ
rồi!
Vì thế Tôn giả A Nan vội vàng đến chỗ Ðức Phật mà thỉnh vấn:
Bạch Ðức Thế Tôn! Ngài đã sắp nhập Niết bàn, bây giờ chúng con có
mấy vấn đề thắc mắc, kính xin Ðức Phật từ bi chỉ giáo.
Ðức Phật bảo: Vấn đề gì, ông cứ trình bày ra!
A Nan liền bạch Phật: Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc Ngài tại thế, Ngài có
thể giáo hóa được hạng ‘ác tính Tỳ kheo’, còn sau khi Ngài diệt độ rồi thì làm
sao có thể hoán cải được họ. Dạ! Ðây là điều thứ tư lẻ ra con không nên hỏi
trước, nhưng cũng có thể làm điều thứ nhất để tham vấn Ngài.
Ðức Phật đáp rằng: Ác tính Tỳ kheo làm sao chế phục ư?
Các Ngài phải dùng pháp ‘Mặc tẩn’ để bắt đầu hoán đổi họ.
Sao gọi là mặc? Mặc là im lặng, không có giảng giải gì thêm với họ.
Tẩn là gì? Nghĩa là mọi người phải nên cho họ biệt lập, mọi người không được
trao đổi, quan hệ gì với họ. Hãy dùng sự ‘im lặng sấm sét’ của Ðại chúng để
giải hóa họ? Lời nói không lời ấy sẽ làm cho họ có một sức nén để bừng tỉnh!
Ðiều này Ðức Phật có dạy rõ trong Giới luật.
Ðức Phật bảo: Còn có thắc mắc gì nữa không, ông cứ nói ra.
A Nan liền bạch: Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc Ngài còn tại thế. Ngài là
Ðấng Ðạo Sư của chúng con, vậy sau khi Ngài diệt độ, chúng con phải tôn ai làm
thầy? Chúng con có phải tìm một vị thầy nào khác để thọ giáo không?
Ðức Phật bảo: Không phải vậy! Sau khi ta diệt độ, các ông hãy lấy
‘Giới luật’ làm thầy, lấy Ba La Ðề Mộc Xoa làm thầy của các ông. Phàm là Tỳ
kheo phải nghiêm trì Giới luật, lấy Giới luật làm thầy!
A Nan lại bạch Phật: Bạch Ðức Thế Tôn! Lúc Ngài còn tại thế, chúng
con được hầu cận bên Ngài, vậy sao khi Ngài diệt độ chúng con biết dời đến trú
xứ nào mà cư trú?
Ðức Phật dạy: Sau khi Ta diệt độ, các ông hãy y theo ‘Tứ Niệm Xứ’
mà an trú. Tứ Niệm Xứ như ta đã từng dạy, các ông phải dùng ‘bốn loại quán’ này
để an trú, ngỏ hầu tiến xa trên lộ trình đạo nghiệp.
A Nan bạch Ðức Phật tiếp: Con còn có vấn đề này nữa, vấn đề này rất
trọng yếu hơn các vấn đề trước.
Ðức Phật bảo: Vấn đề gì nữa, ông cứ nói ra.
A Nan liền bạch Phật. Bạch Ðức Thế Tôn! Tất cả những lời dạy của
Ngài được tuyên thuyết trong đời này. Sau khi Ngài nhập diệt, chúng con phải
kiết tập Kinh điển, lúc biên tập chúng con nên dùng chữ gì để mở đầu các Kinh
điển, xin Ngài Di giáo.
Ðức Phật liền dạy: Vấn đề này cơ? Ông nên dùng bốn chữ ‘Như Thị Ngã
Văn’ để làm sự mở đầu cho các Kinh điển.
Vì vậy, nên tất cả các Kinh Phật hiện giờ đều mở đầu bằng ‘Như Thị
Ngã Văn’. Nghĩa là tất cả những Kinh pháp này là đích thân A Nan tôi tận tai
nghe Ðức Phật tuyên thuyết. Tất nhiên Tôn giả A Nan là ‘Ða văn đệ nhất’ nên Ðức
Phật đã mật ý phó chúc cho A Nan ‘tái phát âm’. Vì Tôn giả A Nan có một công
năng kỳ lạ mà không ai có: Ðó là một điều nghe qua đều nhớ rõ mồn một, gọi là
‘quá nhĩ bất vong’, không bao giờ quên sót.
Bốn chữ ‘Như Thị Ngã Văn’ này có 3 ý nghĩa.
Thứ nhất là khác với ngoại đạo.
Thứ hai tránh tranh luận.
Thứ ba là đoạn lòng nghi.
Thứ nhất là khác ngoại đạo: Sao gọi là khác ngoại đạo? Vì tất cả
những kinh điển của ngoại đạo. một khi mở đầu thường dùng hai chữ A [ ] và ÚM [
]. A nghĩa là ‘Vô’ . Úm nghĩa là hữu, mở đầu liền nói ‘Vô hữu’ hoặc ‘hữu vô’.
Ngoại đạo có kiến giải rằng, tất cả vạn hữu có hai đạo lý, một là ‘hữu’ và một
là ‘vô’.
‘Hữu’ có nghĩa là chấp thường.
‘Vô’ nghĩa là đã chấp đoạn.
Nói như vậy thì bất kể cái gì, không phải là ‘vô’ thì nghĩa là
‘hữu’ mà không phải là ‘hữu’ thì là ‘vô’. Nói tóm lại là không thể chấp nhận
hai phạm trù ‘hữu vô’ này cũng tức là không thể đưa ra hai kiến giải một đằng
là ‘đoạn kiến’, một đằng là ‘thường kiến’
Ở đây nói ‘Như Thị Ngã Văn’ này cũng không phải chấp đoạn, cũng
chẳng phải chấp thường, cũng không phải là ‘hữu’ chẳng khẳng quyết là ‘vô’. Ðó
là sự khác nhau với kiến giải ngoại đạo là ở chỗ này vậy.
Thứ hai là tránh tranh luận.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan chỉ mới chứng Nhị quả Tư Ðà Hàm, tuy về sau
lúc kết tập Kinh Tạng A Nan đã chứng được Tứ quả A La Hán, nhưng cũng là một vị
A La Hán rất nhỏ tuổi. Trong lúc các vị như Ðại Ca Diếp, Tu Bồ Ðề đều là các vị
trưởng thượng, tuổi cao tác lớn, lạp tuế cao thâm, đức độ tròn đầy. Vì A Nan là
người tuổi còn trẻ như thế, nên lúc thăng tòa kết tập Kinh Tạng, thì sợ trong
đại chúng có người tranh chấp. Bạn cũng muốn là đệ nhất, tôi cũng muốn là đệ
nhất, nhưng vì ‘đệ nhất’ chỉ có một người, không thể có nhiều người. Vậy thì
nhiều vị A La Hán như thế sẽ tiến cử vị nào? Cho người tuổi lớn thì sợ người
tuổi nhỏ không cảm phục, chọn người tuổi nhỏ thì người tuổi lớn không bằng
lòng, chọn người trung niên thì cũng chẳng biết chọn ai là hay nhất? Cho nên sẽ
không có cách nào sẽ xử lý được sự kiện này, nếu như Ðức Thế Tôn không Di huấn
lại.
Như thế nên dùng bốn chữ ‘Như Thị Ngã Văn’ nghĩa là điều ấy không
phải là ý bạn, cũng chẳng phải là ý tôi mà cũng chẳng phải ý của bất cứ một ai
cả. Ðó là tất cả những điều mà Ðấng Ðạo Sư tuyên thuyết, nay được kết tập mà
không một ai có quyền ‘can gián’ vào đó. Bạn cũng không phải là đệ nhất, tôi
cũng không phải là đệ nhất, không có đệ nhất nên mọi người không có sự tranh
chấp gì cả.
Thứ ba là đoạn các nghi.
Bốn chữ ‘Như Thị Ngã Văn’ này là được Ðức Phật phó thác Di huấn
lại. Cũng có nghĩa là những điều sau này được chép lại trong Kinh điển là điều
‘chắc thật’. Ðức Thế Tôn Di huấn là bốn chữ ‘Như Thị Ngã Văn’, trong mật ý là
Ðức Phật đã tin chắc và xác quyết lại một lần nữa, là những Kinh điển sau này
được Tôn giả A Nan ‘tái thuyết’ thì đều là sự thật. Vì Bảo Tạng Kinh trong
‘Tạng thức ký ức’ của A Nan cũng là Bảo Tạng Kinh mà Ðức Thế Tôn đã từng tuyên
thuyết.
Vì thế bốn chữ này cũng là đại biểu cho ‘Kim khẩu’ của Ðức Phật,
nên trong Tăng đoàn và chúng sanh về sau không ai còn có thể thắc mắc, hay nghi
hoặc nhữngđiều trong Kinh Tạng nữa.
‘Như Thị’ là tín thành tựu.
‘Ngã Văn’ là văn thành tựu.
‘Nhất thời’ là thời thành tựu.
‘Thích Ca Mâu Ni Phật’ là chủ thành tựu.
‘Tại Phổ Ðà Lạc Già Sơn’ là xứ thành tựu.
‘Lục thành tựu’ này là một sự ‘xác quyết chắc
thật’ về những gì xung quanh một Pháp Hội mà Ðức Thế Tôn đã từng thuyết pháp.
‘Phổ Ðà Lạc Già’ là tiếng Phạm. Trung
văn dịch là ‘Tiểu Bạch Hoa’, vì trên núi này có nở một loại hoa Tiểu Bạch nên
gọi núi này là Tiểu Bạch Hoa Sơn hay còn gọi là Phổ Ðà Lạc Già Sơn.
‘Quán Thế Âm Bồ Tát cung điện’, đó
là cung điện thị hiện của Ðức Quán Thế Âm.
‘Bảo Trang Nghiêm Ðạo Tràng Trung’: Là ở trong đạo tràng này đều làm bằng thất bảo rất trang nghiêm.
Chính trong đạo tràng này Ðức Thế Tôn ngồi trên bảo tòa Sư tử để đăng đàn
thuyết pháp.
Kinh Văn:
Âm: NHĨ THỜI NHƯ LAI Ư BỈ TÒA
THƯỢNG, TƯƠNG DỤC DIỄN THUYẾT TỔNG TRÌ ÐÀ-LA-NI CỐ, DỮ VÔ ƯƠNG SỐ BỒ TÁT
MA-HA-TÁT CÂU, KỲ DANH VIẾT: 1) TỔNG TRÌ VƯƠNG BỒ TÁT, 2) BẢO VƯƠNG BỒ TÁT, 3)
DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT, 4) DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT, 5) QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, 6) ÐẠI THẾ CHÍ
BỒ TÁT, 7) HOA NGHIÊM BỒ TÁT, 8) ÐẠI TRANG NGHIÊM BỒ TÁT, 9) BẢO TẠNG BỒ TÁT,
10) ÐỨC TẠNG BỒ TÁT, 11) KIM CANG TẠNG BỒ TÁT, 12) HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT, 13) DI
LẶC BỒ TÁT, 14) PHỔ HIỀN BỒ TÁT, 15) VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT.
Như thị đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát, giai thị quán đảnh Ðại Pháp Vương
Tử.
Nghĩa: Lúc bấy giờ, Ðức Như
Lai ở trên bảo tòa, sắp sửa tuyên thuyết Pháp môn Tổng Trì Ðà-La-Ni. Có vô số
Bồ tát Ma-ha-tát đến tham dự; danh hiệu các vị ấy là: 1) Tổng Trì Vương Bồ tát,
2) Bảo Vương Bồ tát, 3) Dược Vương Bồ tát, 4) Dược Thượng Bồ tát, 5) Quán Thế
Âm Bồ tát, 6) Ðại Thế Chí Bồ tát, 7) Hoa Nghiêm Bồ tát, 8) Ðại Trang Nghiêm Bồ
tát, 9) Bảo Tạng Bồ tát, 10) Ðức Tạng Bồ tát, 11) Kim Cang Tạng Bồ tát, 12) Hư
Không Tạng Bồ tát, 13) Di Lặc Bồ tát, 14) Phổ Hiền Bồ tát, 15) Văn Thù Sư Lợi
Bồ tát.
Các vị Bồ Tát Ma-ha-tát như thế đều là những Ðại Pháp Vương Tử đã
được quán đảnh.
Lược Giảng:
Lúc bấy giờ, Ðức Như Lai ở trên bảo tòa, sắp sửa tuyên thuyết Pháp
môn Tổng Trì Ðà-La-Ni. Khi ấy, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa Sư tử, và
muốn đem pháp môn Tổng trì Ðà La Ni ra giảng nói. "Ðà La Ni" chính là
"Tổng trì," mà "Tổng trì" cũng là "Ðà La Ni." Ở
đây thì gọi là "Tổng trì Ðà La Ni"; cũng có thể nói rằng Chú Ðại Bi
là chú tổng trì trong Ðà-La-Ni.
Trong Pháp Hội ấy có vô số Bồ tát Ma-ha-tát đến tham dự.
Bồ tát Ma-ha-tát tức là bậc Ðại Bồ tát; và danh hiệu các vị ấy là:
1) Tổng Trì Vương Bồ tát. Thế nào gọi là "tổng trì"? "Tổng" là bao hàm
tất cả pháp; "trì" là nắm giữ vô lượng nghĩa. Ðiều này có nghĩa là
tất cả các pháp môn vị Bồ tát này đều thọ trì. đều sáng tỏ và đều liễu đạt. Vì
vậy, Ngài có danh hiệu là Tổng Trì Vương Bồ tát.
2) Bảo Vương Bồ tát. Lại có
một vị Bồ tát tên là Bảo Vương Bồ tát.
3) Dược Vương Bồ tát. Lại có vị Bồ tát tên
là Dược Vương Bồ tát. Vị Bồ tát này chuyên chữa bệnh cho chúng sanh.
4) Dược Thượng Bồ tát. Dược Vương Bồ tát và Dược Thượng Bồ tát vốn là hai anh em, và đều
phát nguyện hộ trì Phật Pháp.
5) Quán Thế Âm Bồ tát. Trong
số các Ðại Bồ tát tham dự Pháp hội, cũng có ngài Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát nữa.
6) Ðại Thế Chí Bồ tát. Vị
Bồ tát này mỗi khi duỗi tay hoặc nhấc chân thì cả đại địa đều chấn động sáu
cách; cho nên Ngài được gọi là Ðại Thế Chí Bồ tát.
7) Hoa Nghiêm Bồ tát. Vị Bồ tát này chuyên
thọ trì Kinh Hoa Nghiêm.
8) Ðại Trang Nghiêm Bồ tát. Lại có một vị Bồ tát có danh hiệu là
Ðại Trang Nghiêm Bồ tát.
9) Bảo Tạng Bồ tát. Vị Bồ tát này có vô
lượng bảo tạng, bất cứ thứ bảo bối gì Ngài cũng có cả.
10) Ðức Tạng Bồ tát. Ðức
hạnh của vị Bồ tát này là vô lượng vô biên, cho nên Ngài có danh hiệu là Ðức
Tạng Bồ tát.
11) Kim Cang Tạng Bồ tát. Vị Bồ tát này là một trong các vị Bồ tát Hộ Pháp Kim Cang Mật Tích.
12) Hư Không Tạng Bồ tát. Lại
có một vị tên là Hư Không Tạng Bồ tát nữa.
Những vị Bồ tát này có lẽ quý vị đều biết hoặc đã từng nghe nhắc
đến.
13) Di Lặc Bồ tát. "Di
Lặc" là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Từ Thị. Vị Bồ tát này còn có tên là
A-Dật-Ða. "A-Dật-Ða" là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Vô Năng Thắng.
Trong tương lai, Di Lặc Bồ tát sẽ thành Phật ở thế giới này.
14) Phổ Hiền Bồ tát, tức là ngài
Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.
15) Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tức
là ngài Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Các vị Bồ tát Ma-ha-tát như thế đều là những Ðại Pháp Vương Tử đã
được quán đảnh. Những vị Bồ tát kể trên đều là những bậc Bồ tát Ma-ha-tát thuộc
hàng thượng thủ, và đều ở ngôi vị "Quán Ðảnh"—được Phật thọ ký tương
lai sẽ thành Phật. Các ngài đều đã được Ðức Phật trao nước "Quán
Ðảnh" và bảo cho biết tương lai sẽ thành Phật ở thế giới nào, quốc độ nào,
vào thời điểm nào và mang danh hiệu gì.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG VÔ SỐ ÐẠI
THANH VĂN TĂNG, GIAI HÀNH A LA HÁN THẬP ÐỊA, MA HA CA DIẾP NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng vô số
Ðại Thanh-Văn Tăng, tất cả đều hành A-la-hán ở Thập Ðịa; với ngài Ma-Ha Ca-Diếp
làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng vô số Ðại Thanh-Văn Tăng, tất cả đều hành A-la-hán
ở Thập Ðịa; với ngài Ma-Ha Ca-Diếp làm thượng thủ. Trong Pháp hội còn có các bậc Ðại Thanh-Văn tu hạnh A-la-hán
đã đạt đến quả vị Thập Ðịa, mà đứng đầu là Trưởng lão Ðại Ca-Diếp.
"A-la-hán" là tiếng Phạn (Arhat). Có ai còn nhớ
"A-la-hán" dịch sang tiếng Anh là gì và có mấy nghĩa không? Người nào
biết thì nên nói ra, không nên ngồi làm thinh như thế! Biết mà không chịu nói
ra cho mọi người cùng nghe tức là "hà tiện" Pháp! ("Hà tiện
Pháp" có nghĩa là bỏn xẻn, không muốn chia sẻ sự hiểu biết của mình với
người khác.)
"A-la-hán" là quả vị cao nhất trong Thanh Văn thừa, và có
ba nghĩa:
1) Ứng cúng (xứng đáng được nhận sự cúng dường của cõi người và cõi
trời);
2) Sát tặc (giết giặc phiền não lậu hoặc);
3) Vô sanh (đã đoạn được sự sanh tử luân hồi).
"Tỳ-kheo" (và "Tỳ-kheo-ni") cũng có ba nghĩa;
đó là những nghĩa gì?
Ðệ tử đáp: "Ðó là Phá ác, Ma ... ma sợ?"
Là "sợ ma"? Hay là "ma sợ"? Nếu quý vị đảo
ngược hai chữ này thì ý nghĩa sẽ hoàn toàn khác hẳn. "Sợ ma" có nghĩa
là quý vị sợ Ma-vương; còn "ma sợ" tức là Ma-vương sợ quý vị. Ở đây,
từ ngữ mà chúng ta muốn nói đến là "bố ma"—tức là Ma-vương sợ quý vị,
chứ không phải là quý vị sợ Ma-vương. Ma-vương sợ thầy Tỳ-kheo; song phải là
thầy Tỳ-kheo tốt, có tu hành, có đạo hạnh, thì Ma-vương mới nể sợ; chứ nếu là
vị Tỳ-kheo không tu hành, thì Ma-vương chẳng những không sợ mà còn lấn lướt,
quấy nhiễu nữa là khác! Hễ quý vị chăm chỉ tu hành thì Ma-vương sẽ kính nể quý
vị; còn nếu quý vị không tu hành, thì quý vị sẽ sợ Ma-vương!
Ngoài hai nghĩa "Bố ma" và "Phá ác," chữ
"Tỳ-kheo" còn hàm nghĩa "Khất sĩ" (người đi
xin).
Thập Ðịa là gì? Ðó là Sơ Ðịa, Nhị Ðịa, Tam Ðịa, Tứ Ðịa, Ngũ Ðịa,
Lục Ðịa, Thất Ðịa, Bát Ðịa, Cửu Ðịa và Thập Ðịa.
"Thập Ðịa" được đề cập đến ở đây chính là Thập Ðịa của
Bồ-tát Ðại thừa; và "A-la-hán ở Thập Ðịa" có nghĩa là bậc A-la-hán đã
chứng đắc cảnh giới Bồ-tát Thập Ðịa.
Lúc giảng Kinh Ðịa Tạng, tôi đã nhiều lần giảng về thuật ngữ
"Thập Ðịa" này:
"Ðịa Tạng Bồ tát chứng Thập Ðịa quả vị dĩ lai, thiên
bồi đa ư thượng dụ."
(Từ lúc Bồ tát Ðịa Tạng chứng quả vị Thập Ðịa đến nay đã nghìn lần
lâu hơn con số tỷ dụ nêu trên.)
(Kinh Ðịa Tạng, Phẩm thứ nhất)
Có ai còn nhớ Thập Ðịa là gồm những gì không? Có lẽ Quả Ðịa còn nhớ
đấy. Quý vị có người nào còn nhớ không? Ai nhớ được thì hãy mau mau lên tiếng!
Ðệ tử: Viễn Hành Ðịa.
Sư Phụ: Viễn Hành Ðịa ư? Okay! Thế dịch sang tiếng Anh là gì?
Ðệ tử: Traveling Far.
Sư Phụ: Yes! Còn gì nữa?
Ðệ tử: Happiness (Hoan Hỷ Ðịa), Leaving Filth (Ly Cấu Ðịa),
Emitting Light (Phát Quang Ðịa), Blazing Wisdom (Diệm Huệ Ðịa), Invincible (Nan
Thắng Ðịa), Manifesting (Hiện Tiền Ðịa), Traveling Far (Viễn Hành Ðịa),
Unmoving (Bất Ðộng Ðịa), Good Wisdom (Thiện Huệ Ðịa), Dharma Cloud (Pháp Vân
Ðịa).
Sư Phụ: Yes, very good! Ðó gọi là Thập Ðịa.
1) Sơ Ðịa, hay địa thứ nhất trong Thập Ðịa, gọi là Hoan Hỷ Ðịa.
Bồ-tát đạt đến địa vị này luôn luôn vô cùng hoan hỷ, vui vẻ.
Lúc Quán Thế Âm Bồ-tát còn ở địa thứ nhất này, sau khi được nghe
Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như-Lai tuyên thuyết Chú Ðại Bi, thì Ngài liền chứng
đắc quả vị Bát Ðịa—tức là đang từ Sơ Ðịa mà tiến vọt lên chứng đạt địa vị thứ
tám là Bất Ðộng Ðịa. Chỉ những Bồ-tát đã đạt đến Bát Ðịa mới có Ðịnh lực chân
chánh, mới thật sự không còn bị dao động.
Ở quả vị Hoan Hỷ Ðịa này, mọi lúc mọi nơi Bồ-tát đều hoan hỷ giáo
hóa chúng sanh. Nhờ luôn ở trong sự hoan hỷ nên Bồ-tát có thể dứt sạch dần mọi
cấu nhiễm dơ bẩn để chứng đắc địa thứ nhì—Ly Cấu Ðịa.
2) Ly Cấu Ðịa. Tại Sơ Ðịa, tuy Bồ-tát luôn luôn hoan hỷ nhưng vẫn
chưa dứt sạch cấu nhiễm, chưa đạt được sự thanh tịnh. Ðến Nhị Ðịa, Bồ-tát mới
tẩy sạch hết trần cấu nhiễm ô, được hoàn toàn thanh tịnh.
3) Phát Quang Ðịa. Bởi Bồ-tát đã hoàn toàn thanh tịnh, trong sạch,
cho nên có hào quang phát ra; vì thế Tam Ðịa được gọi là Phát Quang Ðịa.
4) Diệm Huệ Ðịa. Trí huệ quang minh của Bồ-tát ở địa vị này thì có
rực rỡ hơn, tiến bộ hơn và thù thắng hơn một bậc so với ở Phát Quang Ðịa.
5) Nan Thắng Ðịa. Trí huệ của bậc Bồ-tát ở Ngũ Ðịa thì không có gì
có thể so sánh được.
6) Hiện Tiền Ðịa. Cái gì "hiện tiền"? Ở địa vị này, hào
quang trí huệ của Bồ-tát luôn luôn hiện tiền. Tại các địa trước, có nơi Bồ-tát
có trí huệ quang minh, nhưng không phải đều luôn luôn hiện tiền; còn đến địa
thứ sáu này thì hào quang sáng rỡ của trí huệ lúc nào cũng tỏ rạng.
7) Viễn Hành Ðịa. Ðến địa thứ bảy này thì ánh sáng trí huệ quang
minh của Bồ-tát không những luôn luôn hiện tiền, mà còn chiếu soi khắp cả Pháp
Giới, nên gọi là Viễn Hành Ðịa.
8) Bất Ðộng Ðịa. Tại bảy địa trước, Ðịnh lực của Bồ-tát vẫn chưa
thể gọi là chân chánh đạt đến cảnh giới "tịch quang bất động"; phải
đến Bát Ðịa thì Bồ-tát mới thực sự được "tịch nhiên bất động, cảm ứng toại
thông." Tuy là "bất động" song Bồ-tát vẫn có thể ứng hiện Bát
Tướng Thành Ðạo1 , và làm Phật trong hàng trăm cõi giới. Bấy giờ, ở quả vị
Bát Ðịa, nếu Bồ-tát muốn hiện thân đến thế giới khác để giáo hóa chúng sanh,
thậm chí thành Phật, đều được cả.
Thế gian có những kỳ nhân ra đời trong một cái bọc, điển hình là Hư
Vân Lão Hòa-Thượng. Khi chào đời, Ngài nằm gọn trong một cái bọc tròn trịa như
quả cầu—ball—vậy. Trường hợp này gọi là sanh ra có "mặc y phục." Chào
đời với "y phục" hẳn hoi là cảnh giới của hàng Bồ-tát từ Bát Ðịa trở
lên, khi các ngài thị hiện giáng sanh ở thế gian. Sinh ra mà có mặc y phục tức
là rất thanh tịnh, sạch sẽ. Các Bồ-tát thuộc bảy địa trước thì không đến trần
thế bằng cách này.
9) Thiện Huệ Ðịa. Tại đây, trí huệ của Bồ-tát là vi diệu nhất, hoàn
hảo nhất.
10) Pháp Vân Ðịa. Bậc Bồ-tát đạt đến địa thứ mười này thì ví như
áng mây lành bao phủ khắp thái hư, từ bi phù hộ và độ trì tất cả chúng sanh.
"Ma-Ha Ca-Diếp" là tiếng Phạn (Mahàkàsyapa).
"Ma-Ha" dịch là Ðại; "Ca-Diếp" dịch là Ẩm Quang.2
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG PHẠM-MA-LA
THIÊN, THIỆN-TRA PHẠM-MA NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng
Phạm-Ma-La Thiên, với ngài Thiện-Tra Phạm-Ma làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Phạm-Ma-La Thiên, với ngài Thiện-Tra Phạm-Ma làm
thượng thủ. Trong Pháp hội còn có sự hiện diện của vô số Ma-vương
cùng quyến thuộc đến từ cõi trời Phạm Thiên và Ma-La Thiên; và vị dẫn đầu của
họ là ngài Thiện-Tra Phạm-Ma.3
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG DỤC GIỚI
CHƯ THIÊN-TỬ CÂU, CÙ-BÀ-GIÀ THIÊN-TỬ NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng chư
thiên-tử ở cõi Dục Giới đến câu hội, với Thiên-tử Cù-Bà-Già làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng chư thiên-tử ở cõi Dục Giới đến câu hội. "Chư thiên-tử ở cõi Dục Giới" tức là chư thiên ở sáu
cõi trời Dục Giới. Sáu cõi trời Dục Giới gồm có: 1) trời Tứ Thiên Vương, 2)
trời Ðao Lợi, 3) trời Dạ Ma, 4) trời Ðâu Suất, 5) trời Hóa Lạc, 6) trời Tha Hóa
Tự Tại.
Với Thiên-tử Cù-Bà-Già làm thượng thủ. Tất cả các thiên-tử ở sáu cõi trời này đều đến tham dự Pháp
hội; trong đó, Thiên-tử Cù Bà Già làm thủ lãnh.4
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG HỘ THẾ TỨ
VƯƠNG CÂU, ÐỀ-ÐẦU-LẠI-TRA NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng Hộ
Thế Tứ Vương câu hội, với ngài Ðề-Ðầu-Lại-Tra làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Hộ Thế Tứ Vương câu hội, với ngài Ðề-Ðầu-Lại-Tra
làm thượng thủ. Ngoài ra, các vị Thiên-vương của Tứ Vương Thiên cũng cùng
nhau đến dự Pháp hội; trong đó, vua Ðề-Ðầu-Lại-Tra làm thủ lãnh.5
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG THIÊN,
LONG, DẠ XOA, CÀN THÁT BÀ, A TU LA, CA LÂU LA, KHẨN NA LA, MA HẦU LA GIÀ, NHÂN,
PHI NHÂN ÐẲNG CÂU; THIÊN ÐỨC ÐẠI LONG VƯƠNG NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng
Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la,
Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân câu hội; với Thiên Ðức Ðại Long Vương làm thượng
thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân câu hội.
"Dạ-xoa" là tên của một loài quỷ.
"Càn-thát-bà" là thần tấu nhạc ở chỗ Ngọc Ðế.
"A-tu-la" tuy có phước báo của cõi trời (thiên phước),
song không có thiên đức và thiên quyền.
"Ca-lâu-la" tức là đại-bàng kim-xí điểu.
"Khẩn-na-la" cũng là thần tấu nhạc ở chỗ Ngọc Ðế.
"Ma-hầu-la-già" tức là đại mãng xà.
"Nhân, phi nhân" có nghĩa là loài người cùng những loài
không phải người.6
Với Thiên Ðức Ðại Long Vương làm thượng thủ. Trong số ấy, có một vị vua rồng tên là Thiên Ðức Ðại Long
Vương làm thủ lãnh.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG DỤC GIỚI
CHƯ THIÊN NỮ CÂU, ÐỒNG-MỤC THIÊN NỮ NHI VI THƯỢNG THỦ.
Nghĩa: Lại có vô lượng chư
thiên-nữ ở cõi Dục Giới câu hội, với Ðồng-Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng chư thiên-nữ ở cõi Dục Giới câu hội, với Ðồng-Mục
Thiên-nữ làm thượng thủ. Ngoài ra, vô số chư thiên-nữ từ
sáu cõi trời Dục Giới cũng lũ lượt đến tham dự Pháp hội; và trong số đó có một
thiên nữ tên là Ðồng Mục Thiên-nữ làm trưởng đoàn.
Kinh Văn:
Âm: HỰU DỮ VÔ LƯỢNG HƯ KHÔNG
THẦN, GIANG HẢI THẦN, TUYỀN NGUYÊN THẦN, HÀ CHIỂU THẦN, DƯỢC THẢO THẦN, THỌ LÂM
THẦN, XÁ TRẠCH THẦN, THỦY THẦN, HỎA THẦN, ÐỊA THẦN, PHONG THẦN, THỔ THẦN, SƠN
THẦN, THẠCH THẦN, CUNG ÐIỆN ÐẲNG THẦN, GIAI LAI TẬP HỘI.
Nghĩa: Lại có vô lượng các vị thần như Thần Hư Không, Thần
Sông Biển, Thần Suối Nguồn, Thần Sông Hồ, Thần Dược Thảo, Thần Thọ Lâm, Thần
Nhà Cửa, cùng Thủy Thần, Hỏa Thần, Ðịa Thần, Phong Thần, Thổ Thần, Sơn Thần,
Thạch Thần, Cung Ðiện Thần, v.v... đều đến tập hội.
Lược Giảng:
Lại có vô lượng các vị thần như Thần Hư Không. Quý vị có biết Thần Hư Không tên là gì không? Có ai
biết không? Trong Kinh Lăng Nghiêm nói như thế
nào?
"Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển."
"Thuấn-Nhã-Ða" chính là tên của Thần Hư Không;
Thuấn-Nhã-Ða là một vị Thần Hư Không. Tôi đã giảng rất nhiều về "Thuấn Nhã
Ða," quý vị nhớ ra chưa? Ðó là thần Hư Không đấy mà! Quý vị nghe giảng
kinh mà đều không chú ý! Nghe xong là trả lại cho tôi hết cả! Quý vị quả thật
là không có lòng tham, ngay cả Pháp mà cũng không muốn giữ cho mình nữa!!! Hẳn
là quý vị đã đạt đến cảnh giới "nhân không, Pháp không" rồi!
Thần Sông Biển. Ở các con sông lớn và
biển cả đều có Thần Sông và Thần Biển cai quản.
Thần Suối Nguồn. Suối nước cũng có vị
thần làm chủ suối.
Thần Sông Hồ. Ở các con sông nhỏ và
ao hồ nhỏ cũng đều có những vị thần trông coi.
Thần Dược Thảo. Tất cả các loại thảo
mộc có vị thuốc đều có thần cai quản.
Thần Thọ Lâm. Trong rừng cũng có vị
thần cai quản khu rừng.
Thần Nhà Cửa. Ngay cả nhà ở cũng có
vị Thần Nhà Cửa cai quản.
Cùng Thủy Thần, Hỏa Thần, Ðịa Thần, Phong Thần. Ðịa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió)—cả bốn đại này
đều có thần cai quản. Ðịa Thần vốn là một nữ thần, trước kia cô ta là một kẻ
rất ngạo mạn, cho rằng chỉ có cô ta là Ðịa Thần, ngoài ra không có vị thần nào
khác nữa. Ðến khi gặp Phật, Ngài thuyết pháp cho cô ta nghe rồi dạy rằng ngoài
Ðịa Thần ra, còn có ba vị cũng là Thần Tứ Ðại nữa; đó là Thủy Thần, Hỏa Thần và
Phong Thần. Thoạt đầu thì cô ta không chịu tin, nhưng sau khi Ðức Phật phương
tiện dùng vô số tỷ dụ để giảng giải, cô ta hiểu ra và chịu tin theo. Vậy, trên
đây là nói về bốn vị Thần Tứ Ðại.
Thổ Thần, Sơn Thần. Ðất đai, núi non đều
có Thần Ðất và Thần Núi làm chủ quản. Theo truyền thuyết thì loài cọp chính là
Sơn Thần, là chúa tể sơn lâm, cho nên trên núi thường thờ cúng "ông"
Sơn Thần này.
Thạch Thần. Ngoài ra, ngay cả các
tảng đá cũng đều có vị Thần Ðá cai quản.
Cung Ðiện Thần, v.v... đều đến tập hội. Các vị thần canh giữ cung điện và nhiều vị thần khác cũng
cùng nhau tề tựu, tham gia Pháp hội.
Thường thì con sông nào cũng có một vị thần chủ quản, chẳng qua là
phàm nhân không thể thấy biết đó thôi. Người nào đắc Thiên Nhãn Thông thì sẽ
biết được rằng đâu đâu cũng có thần nhân cả—ở mọi nơi, vào mọi lúc, đều có vị
thần túc trực để quản lý.
Ðức Phật có một đệ tử tên là Ca-Lưu-Ðà-Di, đã chứng đắc quả vị
A-la-hán. Mỗi khi cần qua sông, Thầy thường gọi Thần Sông (Hà-thần) mà bảo
rằng: "Bớ tiểu tỳ! Hãy ngưng chảy!" "Tỳ" có nghĩa là người
đầy tớ gái, một người nữ đi làm công cho người ta. Do đó, "tiểu tỳ"
tức là người làm công hay người hầu nhỏ thôi, chứ không phải là người hầu lớn!
Vì sao Thầy lại bảo nước ngừng chảy? Bởi nước không còn chảy xiết nữa thì Thầy
mới qua sông được. (Thường thì các vị đã chứng quả vị A-la-hán đi đến bất cứ
chỗ nào có nước cũng có thể tùy tiện bảo nước ngừng chảy, để họ lội băng qua.)
Rồi cứ hết lần này tới lần khác, hễ muốn sang sông là Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di
đều gọi như thế. Thần Sông lấy làm không vui, bèn đến mách với Phật:
"Bạch Ðức Thế Tôn! Ngài có một đệ tử nói năng không tế nhị chút nào. Mỗi
khi gặp tôi, ông ta không những bất lịch sự mà còn gọi tôi là ‘tiểu tỳ’ nữa
chứ! Ông ta lẽ ra không nên gọi tôi như vậy! Tại sao lại gọi tôi là ‘tiểu tỳ’
kia chứ?"
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: "Thôi được, khi nào ông ấy về Ta
sẽ bảo ông ấy đến xin lỗi ngươi."
Lúc Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di về đến Tịnh-xá, Ðức Phật mới quở trách Thầy:
"Vì sao mỗi lần qua sông ông cứ gọi Thần Sông là ‘tiểu tỳ’thế? Ông không
nên thiếu tế nhị như vậy! Nói năng cần phải ý tứ, lễ độ một chút chứ!"
Rồi Phật lại dạy: "Này Ca-Lưu-Ðà-Di! Ông hãy đến gặp Thần Sông
mà nhận lỗi, đích thân xin lỗi người ta ngay đi!"
Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di vâng lời, hoan hỷ đến gặp Thần Sông và nói:
"Này tiểu-tỳ! Ðừng phiền trách ta nữa nhé! Ta thật là không phải!"
Thần Sông vốn đã không muốn bị gọi là "tiểu tỳ," thế mà
Thầy lại vẫn cứ oang oang: "Này tiểu-tỳ! Ðừng phiền trách ta nữa
nhé!" Lúc bấy giờ, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Ðại A-la-hán biết
được chuyện thì đều bật cười. Vì sao các ngài cười ư? Bởi vì do gọi Thần Sông
là "tiểu-tỳ" khiến thần không vui nên Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di mới phải đi
xin lỗi; thế mà khi gặp Thần Sông để tạ lỗi, Thầy lại buột miệng: "Này
tiểu-tỳ..."
Biết là không đúng thì phải sửa lại, gọi là "Thần Sông,"
hoặc "Tôn thần," hoặc một danh xưng nào mà "dễ nghe" hơn
cũng được; đằng này Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di lại vẫn cứ gọi là "tiểu tỳ" như
trước! Vì sao đã chịu đến nhận lỗi mà Thầy vẫn gọi Thần Sông là "tiểu
tỳ"?
Ðó là vì trong năm trăm đời ở quá khứ, vị Thần Sông này đều là
người làm công của gia đình Thầy Ca-Lưu-Ðà-Di, cho nên Thầy đã quen gọi
"tiểu tỳ" như thế rồi. Ðời này tuy đã chứng quả A-la-hán song Thầy
vẫn còn tập khí cũ, cho nên mỗi khi gặp Thần Sông, Thầy cứ quen miệng gọi là
"tiểu tỳ." Ðây cũng là vấn đề nhân quả vậy!
Sự kiện trên chứng tỏ rằng ở bất cứ nơi nào cũng có thần cả; tuy
nhiên, chúng ta không thể nào trông thấy hoặc gặp mặt những vị thần này như đối
với người phàm được. Nếu quý vị đã mở Ngũ Nhãn, đắc Lục Thông, thì quý vị sẽ
nhìn thấy được chư thần; nếu chưa có Ngũ Nhãn, chưa chứng Lục Thông, thì dù có
thấy họ, quý vị cũng chẳng nhận ra được, cũng chẳng biết họ là ai!
____________
1 Bát Tướng Thành Ðạo (tám tướng trạng thành Ðạo: 1) giáng sanh từ
cung trời Ðâu-suất; 2) nhập thai; 3) trụ thai; 4) xuất thai; 5) xuất gia; 6)
hàng ma; 7) chuyển Pháp-luân; 8) nhập Niết-bàn.
2 Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là
một vị đại đệ tử của Ðức Phật, đứng đầu về hạnh Ðầu-đà. Lúc Ngài chào đời thì
có hào quang lấn át cả ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và các vì tinh tú.
3 "Phạm-Ma-La Thiên" là tiếng Phạn
(Brahma), gọi tắt là Phạm Thiên, là tên một cõi trời ở Sắc Giới.
"Thiện-Tra Phạm-Ma" là tên của vị Thiên tử làm chủ cõi trời Phạm
Thiên.
4 "Cù-Bà-Già" (Gopaka) là tên của một vị Thiên-tử ở
Dục Giới, chuyên giữ pháp lành cho chúng sanh.
5 Hộ Thế Tứ Vương hay Hộ Thế Tứ Thiên Vương là bốn vị Thiên
chủ của bốn cung trời ở bốn phương: 1) Phương Ðông là Trì Quốc Thiên Vương; 2)
Phương Nam là Tăng Trưởng Thiên Vương; 3) Phương Bắc là Ða Văn Thiên Vương; 4)
Phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương.
"Ðề Ðầu Lại Tra" là tiếng Phạm (Dhrtaràstra), cũng gọi là
Ðề Ða La Tra, tức là Trì Quốc Thiên Vương.
6 1) "Thiên," tiếng Phạm là Ðề-bà (Deva). Những
người tu Thập Thiện thì sau khi mạng chung được sanh lên hưởng phước cõi trời.
2) "Long," tiếng Phạm là Na-già (Naga), dịch là rồng.
Loài rồng này có thần thông biến hóa, hoặc canh giữ cung điện trên trời, hoặc
giữ địa luân, hoặc làm mưa gió.
3) "Dạ-xoa’ là tiếng Phạm (Yasha), Trung Hoa dịch là
"dõng kiện," "bạo ác" hay "tiệp tật." Ðây là một
loài quỉ rất hung mãnh, bay đi mau lẹ, có phận sự canh giữ các thành trì trên
trời.
4) "Càn-thát-bà" là tiếng Phạm (Gandnarva), Trung Hoa
dịch là "hương âm." Ðây là thần tấu nhạc của trời Ðế Thích, và dùng
hương thơm làm thức ăn, cho nên cũng gọi là Hương Thần hoặc Hương Âm Thần.
5) "A-tu-la’ là tiếng Phạm (Asura), Trung Hoa dịch là
"phi thiên." A-tu-la là loài thần có phước trời mà đức không bằng
trời, quyền biến không như cõi trời, có thần thông biến hóa, nhưng thân hình
thô xấu, vì tiền kiếp tánh tình thường sân hận.
6) "Ca-lâu-la" là tiếng Phạm (Garuda); Trung Hoa dịch là
"kim xí điểu." Ðây là một loại chim thần (thần điểu), cánh có lông
màu vàng tốt đẹp, hai cánh xòe ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có thần thông
biến hóa.
7) "Khẩn-na-la" là tiếng Phạm (Kinnara); Trung Hoa dịch
là "nghi nhân." Ðây cũng là thần tấu nhạc cho Ngọc Hoàng Ðế Thích.
8) "Ma-hầu-la-già" là tiếng Phạm (Mahoràga); Trung Hoa
dịch là "đại mãng" hoặc "địa long," tức là thần rắn.
Từ Thiên, Long cho đến Ma Hầu La Già là tám loài; gọi chung là Bát
Bộ (tám bộ chúng).
"Phi nhân" là loại quỉ thần, hình như người mà không phải
người, hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát
Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên Hóa.
2
Kinh Văn:
Âm: THỜI QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT, Ư
ÐẠI HỘI TRUNG, MẬT PHÓNG THẦN THÔNG QUANG MINH, CHIẾU DIỆU THẬP PHƯƠNG SÁT ÐỘ
CẬP THỬ TAM THIÊN ÐẠI THIÊN THẾ GIỚI, GIAI TÁC KIM SẮC. THIÊN CUNG, LONG CUNG,
CHƯ TÔN THẦN CUNG, GIAI TẤT CHẤN ÐỘNG. GIANG HÀ ÐẠI HẢI, THIẾT VI SƠN, TU DI
SƠN, THỔ SƠN, HẮC SƠN, DIỆC GIAI ÐẠI ÐỘNG. NHẬT NGUYỆT CHÂU HỎA, TINH TÚ CHI
QUANG, GIAI TẤT BẤT HIỆN.
Nghĩa: Bấy giờ, Quán Thế Âm
Bồ-tát từ trong đại hội mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười
phương sát-độ cùng cõi Tam Thiên Ðại Thiên thế giới này, khiến tất cả đều biến
thành sắc vàng. Thiên cung, Long cung, và cung điện của chư tôn thần đều chấn
động. Sông hồ, biển cả, núi Thiết-vi, núi Tu-di, cùng Thổ sơn, Hắc sơn cũng đều
rung động dữ dội. Ánh lửa ngọc của mặt trời mặt trăng và ánh sáng của các vì
tinh tú đều không hiện hữu nữa.
Lược Giảng:
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát từ trong đại hội mật phóng ánh thần
thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát-độ cùng cõi Tam Thiên Ðại Thiên
thế giới này, khiến tất cả đều biến thành sắc vàng. Hào quang do Quán Thế Âm Bồ-tát bí mật phóng ra chiếu dọi
khắp nơi, làm cho mười phương quốc độ và luôn cả cõi Tam Thiên Ðại Thiên thế
giới của chúng ta như nhuộm một màu vàng rực rỡ.
"Mười phương quốc độ" này là ở ngoài chứ không phải ở
trong cõi Tam Thiên Ðại Thiên thế giới của chúng ta. Có ai biết thế nào gọi là
"tam thiên đại thiên thế giới" không? Chẳng lẽ không có người nào
biết cả sao?
Thế thì, thế nào gọi là "một thế giới"? Cứ một núi Tu-di,
một cái Tứ Thiên-hạ, một mặt trời và một mặt trăng, thì gọi là "một thế
giới." Một ngàn núi Tu-di, một ngàn mặt trời, một ngàn mặt trăng, và một
ngàn cái Tứ Thiên-hạ gộp lại thì gọi là "một tiểu thiên thế giới."
Một ngàn cái tiểu thiên thế giới gộp lại thì gọi là "một trung thiên thế
giới." Một ngàn cái trung thiên thế giới thì gọi là "một đại thiên
thế giới."
Bởi "tam biến ngôn thiên"—chữ "thiên" (ngàn)
được lập lại ba lần—nên gọi là "tam thiên." Và do đó, một ngàn cái
tiểu thiên thế giới, một ngàn cái trung thiên thế giới và một ngàn
cái đại thiên thế giới được gộp lại gọi là "tam thiên đại thiên thế
giới." Hiện nay con người đã có thể du hành từ trái đất đến mặt trăng và
cho rằng đó là một điều vô cùng tuyệt diệu. Thế nhưng, ngoài mặt trăng này ra
còn có bao nhiêu mặt trăng, bao nhiêu tinh cầu khác nữa mà khoa học chưa hề
biết tới? Nhiều đến vô lượng vô biên! Quý vị đến được chỗ này, nhưng chỗ kia
thì vẫn chưa thể đến được. E rằng đến khi nơi nào quý vị cũng tới được hết thì
thế giới này cũng không còn nữa!
Thiên cung, Long cung, và cung điện của chư tôn thần đều
chấn động. Theo quý vị thì tại sao các cung điện ấy lại bị rung
chuyển?
Chẳng những thế, luôn cả sông hồ, biển cả, núi Thiết-vi,
núi Tu-di, cùng Thổ sơn, Hắc sơn cũng đều rung động dữ dội. Khắp nơi
đều có địa chấn, mọi ánh sáng đều không còn nữa. Vì sao có hiện tượng chấn động
này? Ðó là do Quán Thế Âm Bồ-tát đã vận dụng sức thần thông bí mật, làm cho tất
cả các cõi giới đều lung lay, dao động.
Ánh lửa ngọc của mặt trời mặt trăng và ánh sáng của các vì
tinh tú đều không hiện hữu nữa. Vì sao ánh sáng do mặt
trời, mặt trăng, và các ngôi sao phát ra đều biến mất, không còn thấy rõ nữa?
Bởi vì các thứ ánh sáng đó đã bị hào quang quá lớn mạnh, quá chói lọi của Quán
Thế Âm Bồ-tát lấn át và "ăn" mất! Nói như thế không có nghĩa là ánh
sáng bị "ăn" hoặc bị "nuốt chửng" thật sự; chẳng qua là hào
quang do Bồ-tát phóng ra rực rỡ đến nỗi các ánh sáng kia trở nên lu mờ hẳn,
dường như là không còn nữa vậy. Tôi dùng chữ "ăn" là để ví von, ngụ ý
rằng ánh sáng này "ăn đứt," sáng trội hơn các ánh sáng kia vượt bực.
Kinh Văn:
Âm: Ư THỊ TỔNG TRÌ VƯƠNG BỒ
TÁT, KIẾN THỬ HY HỮU CHI TƯỚNG, QUÁI VỊ TẰNG HỮU, TỨC TÙNG TÒA KHỞI, XOA THỦ
HỢP CHƯỞNG, DĨ KỆ VẤN PHẬT, NHƯ THỬ THẦN THÔNG CHI TƯỚNG, THỊ THÙY SỞ PHÓNG.
Nghĩa: Lúc đó, Tổng Trì Vương
Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy thì lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có,
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, dùng kệ thỉnh hỏi Ðức Phật xem tướng thần
thông kia là do ai phóng ra.
Lược Giảng:
Lúc đó, Tổng Trì Vương Bồ-tát thấy tướng trạng hy hữu ấy thì lấy
làm lạ, cho là việc chưa từng có. Bấy giờ, Tổng Trì
Vương Bồ-tát tự nghĩ: "Kỳ lạ thật! Quả là hết sức kỳ lạ! Từ trước đến nay
chưa bao giờ có chuyện kỳ lạ như vậy. Thế này là thế nào nhỉ?"
Quý vị xem, ngay cả Tổng Trì Vương Bồ-tát mà còn không biết về hiện
tượng ấy, chẳng trách khi tôi hỏi thì quý vị cũng đều không biết cả! Tổng Trì
Vương Bồ-tát thần thông quảng đại biết bao, thế mà Ngài vẫn không hiểu được;
huống gì quý vị chỉ mới được nghe qua loa vài câu Phật Pháp thôi thì làm sao có
thể biết được thứ đạo lý vi diệu dường ấy! Cho nên, mặc dù quý vị không trả lời
được, tôi cũng thông cảm mà tha thứ cho quý vị!
Bấy giờ, Tổng Trì Vương Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
chắp tay, dùng kệ thỉnh hỏi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, xem tướng
thần thông kia là do ai phóng ra.
Kinh Văn:
DĨ KỆ VẤN VIẾT:
"THÙY Ư KIM NHẬT THÀNH CHÁNH GIÁC,
PHỔ PHÓNG NHƯ THỊ ÐẠI QUANG MINH,
THẬP PHƯƠNG SÁT ÐỘ GIAI KIM SẮC,
TAM THIÊN THẾ GIỚI DIỆC PHỤC NHIÊN?
THÙY Ư KIM NHẬT ÐẮC TỰ TẠI,
DIỄN PHÓNG HY HỮU ÐẠI THẦN LỰC,
VÔ BIÊN PHẬT QUỐC GIAI CHẤN ÐỘNG,
LONG THẦN CUNG ÐIỆN TẤT BẤT AN?
KIM THỬ ÐẠI CHÚNG HÀM HỮU NGHI,
BẤT TRẮC NHÂN DUYÊN THỊ THÙY LỰC,
VI PHẬT, BỒ TÁT, ÐẠI THANH VĂN,
VI PHẠM MA THIÊN, CHƯ THÍCH ÐẲNG?
DUY NGUYỆN THẾ TÔN ÐẠI TỪ BI,
THUYẾT THỬ THẦN THÔNG SỞ DO DĨ."
Nghĩa:
Lời kệ hỏi rằng:
"Hôm nay ai được thành Chánh Giác,
Phóng đại quang minh khắp thế này,
Mười phương sát-độ thành sắc vàng,
Tam thiên thế giới cũng như vậy?
Hôm nay ai chứng đắc tự tại,
Phô diễn đại thần lực hiếm có,
Vô biên nước Phật đều rúng động.
Cung điện Long Thần cũng chẳng yên?
Ðại chúng hôm nay có thắc mắc,
Chẳng rõ nhân duyên bởi sức ai?
Là Phật, Bồ-tát, Ðại Thanh Văn?
Hoặc trời Phạm, Ma, chư Ðế Thích?
Chỉ mong Thế Tôn đại từ bi,
Nói rõ thần thông nọ do đâu."
Lược Giảng:
Lời kệ hỏi rằng: "Bạch Ðức Thế
Tôn! Hôm nay ai được thành Chánh Giác, Phóng đại quang minh khắp thế
này, Mười phương sát-độ thành sắc vàng, Tam thiên thế giới cũng như vậy?" Tổng
Trì Vương Bồ-tát bạch cùng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni: "Bạch Ðức Thế Tôn!
Phải chăng hôm nay có ai được thành Phật? Cả đại địa đều chấn động và chói lòa
ánh sáng. Có một thứ hào quang màu vàng rực rỡ soi chiếu khắp nơi, khiến cho
các cõi nước trong mười phương và luôn cả cõi tam thiên đại thiên thế giới, hết
thảy đều biến thành sắc vàng."
"Hôm nay ai chứng đắc tự tại, Phô diễn đại thần lực
hiếm có, Vô biên nước Phật đều rúng động. Chẳng
hay hôm nay có vị Bồ-tát nào chứng đắc được sức thần thông tự tại thế? Vị ấy
thị hiện phóng ra sức đại thần thông hy hữu nhất, khiến cho tất cả mọi quốc độ
của Phật đều rúng động, đều xảy ra địa chấn. Cung điện Long Thần
cũng chẳng yên? Ðời sống của rồng ở chốn long cung vốn rất bình
yên, song nay thì cung điện cũng không được yên ổn nữa!"
"Ðại chúng hôm nay có thắc mắc, Chẳng rõ nhân duyên bởi
sức ai? Hiện tại tất cả đại chúng đều thắc mắc, không hiểu nhân duyên này
là như thế nào, ai đang vận dụng sức thần thông, và ai phóng ra thứ ánh sáng
này? Thỉnh cầu Ðức Thế Tôn chỉ dạy cho chúng con được rõ. Ðó là Phật,
Bồ-tát, Ðại Thanh Văn, hoặc trời Phạm, Ma, chư Ðế Thích? Hiện
tượng địa chấn và hào quang có phải là do Phật thị hiện? Hay là do Bồ-tát phóng
ra? Hay là do hàng Ðại Thanh-văn, A-la-hán phô diễn? Hoặc giả, hào quang này là
do chư thiên cùng Ma vương ở trời Ðại Phạm phóng ra? Hay là do các thần đất
phóng ra?"
"Chỉ mong Thế Tôn đại từ bi, Nói rõ thần thông nọ do
đâu. Con nay cúi xin Ðức Thế Tôn mở lòng từ bi
rộng lớn mà nói rõ nguồn cơn, cho chúng con được biết thần thông quang minh này
vốn từ đâu đến?"
Kinh Văn:
Âm: PHẬT CÁO TỔNG TRÌ VƯƠNG BỒ
TÁT NGÔN: "THIỆN NAM TỬ! NHỮ ÐẲNG ÐƯƠNG TRI, KIM THỬ HỘI TRUNG, HỮU NHẤT
BỒ-TÁT MA-HA-TÁT DANH VIẾT QUÁN-THẾ-ÂM TỰ-TẠI, TÙNG VÔ LƯỢNG KIẾP LAI, THÀNH
TỰU ÐẠI TỪ ÐẠI BI, THIỆN NĂNG TU TẬP VÔ LƯỢNG ÐÀ-LA-NI MÔN, VI DỤC AN LẠC CHƯ
CHÚNG SANH CỐ, MẬT PHÓNG NHƯ THỊ ÐẠI THẦN THÔNG LỰC."
PHẬT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ,
Nghĩa: Ðức Phật bảo Tổng Trì
Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên biết, trong Pháp hội hôm nay có
vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã
thành tựu tâm đại từ đại bi và khéo tu tập vô lượng pháp môn Ðà-La-Ni, vì muốn
chúng sanh được an vui nên mật phóng sức đại thần thông như thế."
Ðức Phật nói những lời ấy xong,
Lược Giảng:
Ðức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ-tát: "Thiện nam tử! Các ông nên
biết, trong Pháp hội hôm nay có vị Bồ-tát Ma-ha-tát hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại. Hiện trong đại hội này có một vị Ðại Bồ-tát tên là Quán Thế
Âm và là một vị Bồ-tát rất tự tại. Vị Bồ-tát này từ vô lượng kiếp đến
nay đã thành tựu tâm đại từ đại bi, công đức đại từ đại bi, và
khéo tu tập vô lượng pháp môn Ðà-La-Ni, vì muốn chúng sanh được an vui nên mật
phóng sức đại thần thông như thế." Chính vì muốn làm cho tất cả
chúng sanh đều được bình yên, vui vẻ, nên Bồ-tát Quán Thế Âm đã bí mật phóng
ánh sáng đại quang minh, phô diễn sức đại thần thông như thế.
Ðức Phật nói những lời ấy xong…, ... Sau khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong thì thế nào?
Kinh Văn:
Âm: NHĨ THỜI QUÁN-THẾ-ÂM
BỒ-TÁT TÙNG TÒA NHI KHỞI, CHỈNH LÝ Y PHỤC, HƯỚNG PHẬT HỢP CHƯỞNG, BẠCH PHẬT
NGÔN: "THẾ TÔN! NGÃ HỮU ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI CHÚ, KIM ÐƯƠNG DỤC THUYẾT, VI
CHƯ CHÚNG SANH ÐẮC AN LẠC CỐ, TRỪ NHẤT THIẾT BỆNH CỐ, ÐẮC THỌ MẠNG CỐ, ÐẮC PHÚ
NHIÊU CỐ, DIỆT TRỪ NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI CỐ, LY CHƯỚNG NẠN CỐ, TĂNG
TRƯỞNG NHẤT THIẾT BẠCH PHÁP CHƯ CÔNG ÐỨC CỐ, THÀNH TỰU NHẤT THIẾT CHƯ THIỆN CĂN
CỐ, VIỄN LY NHẤT THIẾT CHƯ BỐ ÚY CỐ, TỐC NĂNG MÃN TÚC NHẤT THIẾT CHƯ HY CẦU CỐ,
DUY NGUYỆN THẾ-TÔN TỪ AI THÍNH HỨA."
Nghĩa: Ngay lúc đó, Quán Thế Âm
Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Ðức
Phật và bạch với Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con có Chú Ðại Bi Tâm
Ðà-La-Ni, nay xin nói ra là vì muốn cho chư chúng sanh được an lạc, được trừ
tất cả các bệnh, được thọ mạng dài lâu, được giàu có sung túc, được dứt trừ tất
cả ác nghiệp trọng tội, được xa lìa chướng nạn, được tăng trưởng tất cả các
công đức bạch pháp, được thành tựu tất cả các thiện căn, được xa lìa tất cả sự
sợ hãi, được mau có đủ tất cả những thứ mong cầu. Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi hứa
khả cho."
Lược Giảng:
Ngay lúc đó, Quán Thế Âm Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y
phục cho chỉnh tề, rồi chắp tay hướng về Ðức Phật và bạch với Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn! Con có Chú Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni. Con có một thần chú tên là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni Thần Chú và nay
xin nói ra là vì muốn cho chư chúng sanh được an lạc. Con nói ra Thần
Chú Ðại Bi này để làm cho hết thảy chúng sanh đều được vui vẻ, an ổn, không gặp
nguy hiểm, không bị đe dọa, khủng bố; và được trừ tất cả các bệnh,
bất cứ bệnh gì cũng có thể giải trừ được cả.
"Ðược thọ mạng dài lâu. Có người nếu trì tụng Chú Ðại Bi thì được phước báo trường
thọ, được giàu có sung túc, tiền của dồi dào, được dứt
trừ tất cả ác nghiệp trọng tội." Quý vị xem, Chú Ðại Bi có công
năng diệt trừ hết thảy ác nghiệp của tất cả chúng sanh. "Ác nghiệp"
tức là bao gồm luôn cả các tội thuộc Ngũ Nghịch, Thập Ác. Cho nên, những nghiệp
tội nghiêm trọng nhất, nặng nhất, đều có thể tiêu tan.
"Ðược xa lìa chướng nạn, thoát khỏi mọi ma chướng, khó khăn, được tăng trưởng tất cả
các công đức bạch pháp." "Bạch pháp" (pháp
trắng) tức là thanh tịnh pháp—thứ pháp trong sạch, không nhiễm ô. Pháp nhiễm ô
tức là "hắc pháp" (pháp đen); còn không nhiễm ô thì gọi là "bạch
pháp." "Công đức bạch pháp" có nghĩa là công đức thanh tịnh.
"Ðược thành tựu tất cả các thiện căn." Chú Ðại Bi còn có công năng khiến cho hết thảy căn lành đều được
thành tựu.
"Ðược xa lìa tất cả sự sợ hãi." Nếu quý vị nào sợ đi máy bay thì hãy trì niệm Chú Ðại Bi, bởi như
thế sẽ giúp quý vị không còn sợ hãi nữa.
"Ðược mau có đủ tất cả những thứ mong cầu." Chú Ðại Bi lại có thể giúp cho quý vị được mãn nguyện, khiến cho
những hy vọng, ước muốn của quý vị đều được thành tựu một cách mau chóng.
"Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi hứa khả cho. Con nay thỉnh cầu Ðức Thế Tôn phê chuẩn sự thỉnh cầu của con, từ bi
cho phép con tuyên thuyết Chú Ðại Bi cho đại chúng cùng nghe!"
Kinh Văn:
Âm: PHẬT NGÔN: "THIỆN NAM
TỬ! NHỮ ÐẠI TỪ BI, AN LẠC CHÚNG SANH, DỤC THUYẾT THẦN CHÚ, KIM CHÁNH THỊ THỜI,
NGHI ƯNG TỐC THUYẾT, NHƯ LAI TÙY HỶ, CHƯ PHẬT DIỆC NHIÊN."
Nghĩa: Ðức Phật dạy:
"Thiện nam tử! Ông thật đại từ bi, vì sự an lạc của chúng sanh nên muốn
tuyên thuyết thần chú. Nay chính là lúc ấy, vậy ông hãy mau nói ra. Như Lai tùy
hỷ, và chư Phật cũng thế!"
Lược Giảng:
Ðức Phật dạy: "Thiện nam tử! Ông thật đại từ
bi." Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nghe Bồ-tát Quán Thế Âm thỉnh cầu,
muốn được tuyên thuyết Ðại Bi Chú, bèn trả lời rằng: "Quán Thế Âm ơi, lòng
từ bi của ông thật là quảng đại một cách phi thường, vì sự an lạc của
chúng sanh nên muốn tuyên thuyết thần chú. Ông hằng ao ước được nói ra
Ðại Bi Thần Chú, thì nay chính là lúc ấy. Bây giờ chính là
thời điểm thích hợp để tuyên thuyết Chú Ðại Bi, vậy ông hãy mau nói ra.
Như Lai tùy hỷ, và chư Phật cũng thế! Chẳng những Ta, Như Lai, tùy hỷ
theo công đức của ông, mà cả mười phương chư Phật thảy đều tùy hỷ tán thán công
đức đó."
Kinh Văn:
Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT TRÙNG
BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NGÃ NIỆM QUÁ KHỨ VÔ LƯỢNG ỨC KIẾP, HỮU PHẬT XUẤT
THẾ DANH VIẾT THIÊN QUANG VƯƠNG TĨNH TRỤ NHƯ LAI. BỈ PHẬT THẾ TÔN, LÂN NIỆM NGÃ
CỐ, CẬP VI NHẤT THIẾT CHƯ CHÚNG SANH CỐ, THUYẾT THỬ QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI
ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI, DĨ KIM SẮC THỦ, MA NGÃ ÐẢNH THƯỢNG, TÁC NHƯ THỊ NGÔN:
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát
lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước,
có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Ðức Phật Thế Tôn
ấy vì thương nghĩ đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đã tuyên thuyết Quảng Ðại
Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni này, lại dùng tay kim sắc xoa đảnh đầu con
và dạy lời như vầy:
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Con
nhớ vô lượng ức kiếp về trước" "Vô lượng ức
kiếp" tức là vô lượng vô biên, không biết rõ được là bao nhiêu kiếp, không
cách nào tính ra được con số cụ thể.
Quán Thế Âm Bồ-tát nhớ lại một sự việc trong đời quá khứ, xảy ra từ
vô lượng kiếp về trước. Vào thuở ấy, "có đức Phật ra đời hiệu là
Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai. Bấy giờ, Ðức Phật Thế Tôn
ấy, tức là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, vì thương nghĩ
đến con cùng tất cả chúng sanh, nên đã tuyên thuyết Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại
Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni này."
Rồi Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai "lại dùng tay kim
sắc xoa đảnh đầu con—Quán Thế Âm Bồ-tát—và dạy lời như vầy:"
Kinh Văn:
Âm: "‘THIỆN NAM TỬ! NHỮ ÐƯƠNG TRÌ THỬ TÂM CHÚ, PHỔ VI VỊ LAI ÁC THẾ
NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, TÁC ÐẠI LỢI LẠC.’
NGÃ Ư THỊ THỜI. THỦY TRỤ SƠ ÐỊA, NHẤT VĂN THỬ CHÚ CỐ, SIÊU ÐỆ BÁT
ÐỊA, NGÃ THỜI TÂM HOAN HỶ CỐ, TỨC PHÁT THỆ NGÔN:"
Nghĩa: ‘Thiện nam tử! Ông
nên thọ trì tâm chú này, vì khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai
mà làm sự đại lợi lạc.’
Con lúc đó mới đang ở Sơ Ðịa, vừa nghe xong Chú này thì liền vượt
lên Bát Ðịa. Bấy giờ, trong lòng hoan hỷ, con lập tức phát lời thệ nguyện:
Lược Giảng:
‘Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này.’ Thuở ấy, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai dặn dò Quán Thế Âm
Bồ-tát rằng: "Này Thiện nam tử, ông cần phải thọ trì tâm chú này. Tâm chú
nào ư? Ðó là Ðại Bi Tâm Chú, hay cũng gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni. Và
ông hãy vì khắp tất cả chúng sanh trong đời ác ở thời vị lai mà làm sự
đại lợi lạc. Ông nên làm cho hết thảy chúng sanh ở đời sau đều được
hưởng sự lợi ích và được an vui."
"Con lúc đó mới đang ở Sơ Ðịa." Sơ Ðịa có tên là gì? Ðó là Hoan-hỷ Ðịa.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát chỉ mới chứng đắc Sơ Ðịa; thế nhưng Ngài "vừa
nghe xong Chú này—tức là Chú Ðại Bi—thì liền vượt lên Bát
Ðịa." Như thế tức là từ Sơ Ðịa, Quán Thế Âm Bồ-tát đã vượt qua
Nhị Ðịa, Tam Ðịa, Tứ Ðịa, Ngũ Ðịa, Lục Ðịa, Thất Ðịa, tiến thẳng đến Bát Ðịa.
"Bấy giờ, do trong lòng hoan hỷ, con lập tức phát lời
thệ nguyện:" Phát thệ nguyện gì?
Kinh Văn:
Âm: ‘NHƯỢC NGÃ ÐƯƠNG LAI, KHAM
NĂNG LỢI ÍCH AN LẠC NHẤT THIẾT CHÚNG SANH GIẢ, LINH NGÃ TỨC THỜI THÂN SANH
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN CỤ TÚC!’
PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ, ƯNG THỜI THÂN THƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN TẤT
GIAI CỤ TÚC, THẬP PHƯƠNG ÐẠI ÐỊA LỤC CHỦNG CHẤN ÐỘNG, THẬP PHƯƠNG THIÊN PHẬT,
TẤT PHÓNG QUANG MINH, CHIẾU XÚC NGÃ THÂN, CẬP CHIẾU THẬP PHƯƠNG VÔ BIÊN THẾ
GIỚI.
Nghĩa: ‘Nếu trong đời vị lai
tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh, thì xin khiến cho thân tôi
lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn mắt!’
Phát nguyện ấy xong thì trên thân liền ứng thời hiện đủ ngàn tay
ngàn mắt. Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu cách; ngàn Ðức Phật trong
mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân con, cùng chiếu dọi vô biên
thế giới ở khắp mười phương.
Lược Giảng:
"‘Nếu trong đời vị lai tôi có thể làm lợi ích an lạc cho tất
cả chúng sanh, thì xin khiến cho thân tôi lập tức sanh đủ ngàn tay ngàn
mắt!’" Trong đời quá khứ ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát đã nguyện
rằng: "Giả sử trong tương lai, tôi có thể trở nên hữu ích đối với hết thảy
chúng sanh, có thể mang lại sự an lạc cho muôn loài, thì tôi hy vọng rằng thần
lực của Chú Ðại Bi này hãy khiến cho một ngàn cánh tay và một ngàn con mắt mọc
ra đầy đủ nơi nhục thân của tôi ngay tức khắc!"
"Phát nguyện ấy xong, sau khi con lập nguyện, thì trên thân liền ứng thời hiện đủ
ngàn tay ngàn mắt. Ngay trên nhục thân của con liền hiện ra cả một
ngàn cánh tay và một ngàn con mắt trong cùng một lúc."
"Lúc ấy, mười phương đại địa chấn động sáu
cách." Khắp mười phương thế giới, đại địa rúng động theo sáu cách
khác nhau, gọi là "lục chủng chấn động." Ðó chính là 1) Chấn (vang
dội); 2) Hống (gào lên); 3) Kích (đánh ra); 4) Ðộng (động cựa); 5) Dũng (phun
ra); 6) Khởi (vùng dậy). Chấn, hống, kích là những biến động thuộc về âm thanh;
động, dũng, khởi là những biến hóa thuộc về hình thể.
Ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh. Từ thế giới của ngàn đức Phật trong mười phương đều đồng thời
phóng ra hào quang đại quang minh, hào quang ấy dọi đến thân con, cùng
chiếu soi, tỏa ánh sáng rực rỡ tới vô biên thế giới ở khắp
mười phương.
Kinh Văn:
Âm: TÙNG THỊ DĨ HẬU, PHỤC Ư VÔ
LƯỢNG PHẬT SỞ, VÔ LƯỢNG HỘI TRUNG, TRÙNG CÁNH ÐẮC VĂN, THÂN THỪA THỌ TRÌ THỊ
ÐÀ-LA-NI, PHỤC SANH HOAN HỶ, DŨNG DƯỢC VÔ LƯỢNG, TIỆN ÐẮC SIÊU VIỆT VÔ SỐ ỨC
KIẾP VI TẾ SANH TỬ."
Nghĩa: Từ đó về sau, trong
vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con được nghe lại và đích thân nhận lãnh,
thọ trì Ðà-La-Ni này, lại sanh hoan hỷ, phấn chấn vô lượng, nên được siêu vượt
vi tế sanh tử trong vô số ức kiếp."
Lược Giảng:
"Từ đó về sau, trong vô lượng Phật sở, vô lượng Pháp Hội, con
được nghe lại và đích thân nhận lãnh, thọ trì Ðà-La-Ni này. Kể từ đó, tại vô lượng vô biên cõi nước của Phật cũng như tại vô
lượng Pháp hội, con thường được nghe lại Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni và tự
thân con cũng thọ trì chú tổng trì này. Con lại sanh hoan hỷ, phấn chấn
vô lượng. Con mừng rỡ đến nỗi muốn nhảy múa reo vui, nên được
siêu vượt vi tế sanh tử1 trong vô số ức kiếp, lại còn được vượt
qua biến dị sanh tử vô cùng vi tế trong vô số ức kiếp ở quá khứ?"
Kinh Văn:
Âm: TÙNG THỊ DĨ LAI THƯỜNG SỞ
TỤNG TRÌ, VỊ TẰNG PHẾ VONG. DO TRÌ THỬ CHÚ CỐ, SỞ SANH CHI XỨ, HẰNG TẠI PHẬT
TIỀN, LIÊN HOA HÓA SANH, BẤT THỌ THAI TẠNG CHI THÂN.
Nghĩa: Từ ấy đến nay. con
thường xuyên trì tụng, chưa từng quên bỏ. Nhờ thọ trì Chú này nên con luôn được
sanh ra tại Phật tiền, hóa sanh từ hoa sen, không còn thọ thân thai bào nữa.
Lược Giảng:
"Từ ấy đến nay. con thường xuyên trì tụng, chưa từng quên bỏ. Kể từ khi ấy cho đến nay, con vẫn luôn tụng trì Chú Ðại Bi,
không một ngày xao lãng. Nhờ thọ trì Chú này nên con luôn được sanh ra
tại Phật tiền, vào thời có Phật trụ thế, được hóa sanh từ hoa
sen chứ không còn thọ thân thai bào nữa, không còn phải mang thân thể
do cha mẹ hoài thai, cưu mang nữa."
____________
1 Có hai loại sanh tử: 1) Phân đoạn sanh tử. Ðây là sự sanh và tử của
nhục thân. Các bậc A-la-hán đều đã kết thúc sự sanh tử này; 2) Biến dị sanh tử.
Ðây là nói về sự thay đổi, chuyển biến vi tế của dòng tư tưởng. Các bậc Bồ-tát
đều đã dứt được cả hai thứ sanh tử này. Ở đây, vi tế sanh tử chính là Biến dị
sanh tử.
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC HỮU TỲ KHEO,
TỲ KHEO NI, ƯU BÀ TẮC, ƯU BÀ DI, ÐỒNG NAM, ÐỒNG NỮ, DỤC TỤNG TRÌ GIẢ, Ư CHƯ
CHÚNG SANH KHỞI TỪ BI TÂM, TIÊN ÐƯƠNG TÙNG NGÃ PHÁT NHƯ THỊ NGUYỆN: ..."
Nghĩa: "Nếu có Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay đồng nữ nào muốn trì tụng, thì
nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, và trước tiên phải theo con mà
phát những thệ nguyện như vầy ..."
Lược Giảng:
"Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, đồng nam hay
đồng nữ nào muốn trì tụng ..." Quán Thế Âm Bồ-tát
lại bạch Phật rằng: "Giả sử có các Thầy hoặc các Sư cô, đã xuất gia, người
nam hoặc người nữ còn tại gia, và đồng nam hoặc đồng nữ nào phát tâm muốn trì
tụng Chú Ðại Bi, thì nên phát khởi lòng từ bi đối với mọi chúng sanh,
và trước tiên phải theo con mà phát những thệ nguyện như vầy ..." Trước
hết, vị phát tâm ấy cần phải đối trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười lời thệ
nguyện như sau ...
Kinh Văn:
Âm:
1) "NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ
TỐC TRI NHẤT THIẾT PHÁP;
2) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC TRÍ HUỆ NHÃN;
3) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐỘ NHẤT THIẾT
CHÚNG;
4) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC THIỆN PHƯƠNG
TIỆN;
5) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC THỪA BÁT-NHÃ
THUYỀN;
6) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐẮC VIỆT KHỔ HẢI;
7) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC ÐẮC GIỚI ÐỊNH
ÐẠO;
8) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TẢO ÐĂNG NIẾT-BÀN
SƠN;
9) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ TỐC HỘI VÔ-VI XÁ;
10) NAM MÔ ÐẠI BI QUÁN THẾ ÂM, NGUYỆN NGÃ
TẢO ÐỒNG PHÁP TÁNH THÂN.
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐAO SƠN, ÐAO SƠN TỰ TỒI CHIẾT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG HỎA THANG, HỎA THANG TỰ KHÔ KIỆT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG ÐỊA NGỤC, ÐỊA NGỤC TỰ TIÊU DIỆT;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG NGẠ QUỶ, NGẠ QUỶ TỰ BÃO MÃN;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG TU-LA, ÁC TÂM TỰ ÐIỀU PHỤC;
NGÃ NHƯỢC HƯỚNG SÚC SANH, TỰ ÐẮC ÐẠI TRÍ HUỆ."
Nghĩa:
1) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết tất cả
pháp;
2) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí Huệ Nhãn;
3) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh;
4) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được thiện phương
tiện;
5) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên thuyền Bát-nhã;
6) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua biển khổ;
7) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng đắc Giới Ðịnh Ðạo;
8) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi Niết-bàn;
9) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà Vô-vi;
10) Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng thân Pháp tánh.
Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ;
Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn;
Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt;
Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ;
Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục;
Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ."
Lược Giảng:
Mười lời nguyện đó là:
1) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng biết
tất cả pháp."
"Nam mô" nghĩa là gì? "Nam mô" là tiếng Phạn,
và có nghĩa là "quy mạng." Do đó, "Nam mô Quán Thế Âm
Bồ-tát" có nghĩa là giao phó tất cả thân tâm, tính mạng của mình cho Quán
Thế Âm Bồ-tát.
"Nam mô" lại cũng có nghĩa là "kính đầu," tức
là cung kính quy y, cung kính quay về nương tựa. Như vậy, "nam mô
Phật" tức là cung kính quay về nương tựa Phật; "nam mô Pháp" là
cung kính quay về nương tựa Pháp; "nam mô Tăng" là cung kính quay về
nương tựa Tăng; và "nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm" là cung kính quay về
nương tựa Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát đại từ đại bi.
Sau khi đã quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát rồi thì sao
nữa? Thì hãy phát nguyện rằng: "Con nguyện chóng biết tất cả pháp. Cầu xin
Quán Thế Âm Bồ-tát gia bị, phù hộ cho con được hiểu rõ Phật Pháp một cách nhanh
chóng." Ở đây, "biết" (tri) tức là hiểu rõ, hiểu thấu đáo.
2) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được Trí
Huệ Nhãn." Ở thế gian chúng ta, những người hiện đời có được Ngũ
Nhãn, Lục Thông đều là nhờ thuở trước họ đã từng trì tụng Chú Ðại Bi và quy y
với Quán Thế Âm Bồ-tát, nên Trí Huệ Nhãn khai mở và họ có được "con mắt
trí huệ."
3) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng độ các chúng sanh." Chúng ta
cần "mau biết tất cả pháp, sớm được Trí Huệ Nhãn" để làm gì? Chính là
để "chóng độ các chúng sanh."
4) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm được
thiện phương tiện." Muốn độ tất cả chúng sanh thì
chúng ta cần phải biết mọi pháp môn phương tiện ngõ hầu có thể tùy theo căn cơ
của chúng sanh mà thuyết giảng thứ giáo pháp thích hợp, "tùy bệnh cho
thuốc." Do đó, sớm chứng đắc các pháp môn thiện xảo phương tiện là điều
rất thiết yếu.
5) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng lên
thuyền Bát-nhã. Con lại quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát,
và nguyện sẽ chóng được ngồi thuyền trí huệ Bát-nhã."
6) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm vượt qua
biển khổ. Sau khi được lên ngồi trên thuyền trí huệ Bát-nhã rồi,
con nguyện sẽ dùng con thuyền này để nhanh chóng vượt thoát biển khổ sanh
tử."
7) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng được
Giới Ðịnh Ðạo. Con cung kính quy y Ðức Quán Thế Âm Ðại Từ Ðại Bi, và
nguyện sẽ sớm thông đạt được đạo Giới, Ðịnh, Huệ."
8) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm lên núi
Niết-bàn. Sau khi đắc được Giới Ðịnh Ðạo, con nguyện sẽ mau
chóng lên được cõi Niết-bàn."
9) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện chóng về nhà
Vô-vi." "Nhà Vô-vi" tức là Vô-vi pháp; do đó,
"chóng về nhà Vô-vi" có nghĩa là sớm chứng đắc pháp môn Vô-vi vậy.
10) "Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm, con nguyện sớm đồng
thân Pháp tánh. Con xin cung kính quay về nương tựa Ðại Bi Quán Thế Âm
Bồ-tát, và nguyện sẽ sớm chứng đắc tự thân của Pháp tánh."
"Nếu con hướng núi đao, núi đao tự sụp đổ. Khi niệm Chú Ðại Bi, nếu con quay về hướng núi đao mà niệm, thì núi
đao sẽ tự nhiên tan rã, đổ sụp xuống."
"Nếu con hướng nước sôi, nước sôi tự khô cạn. Nếu con hướng về địa ngục nước sôi mà niệm Chú Ðại Bi, thì
lửa sẽ lụn tắt và nước cũng cạn khô."
"Nếu con hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt. Nếu con hướng về địa ngục mà niệm Chú Ðại Bi, thì địa ngục sẽ
biến thành thiên đường—không còn có địa ngục nữa."
"Nếu con hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ liền no đủ. Nếu
con hướng về loài ngạ quỷ mà niệm Chú Ðại Bi, thì hết thảy ngạ quỷ đều được no
đủ, không còn bị cái khổ đói khát hành hạ nữa."
"Nếu con hướng Tu-la, ác tâm tự điều phục. Nếu con hướng về những chúng sanh Tu-la hung ác nhất mà niệm
Chú Ðại Bi, thì tâm địa độc ác của loài Tu-la sẽ tự nhiên được điều phục và tất
cả đều phát tâm muốn quy y, hướng thiện."
"Nếu con hướng súc sanh, liền đắc đại Trí Huệ. Nếu con hướng về những súc sanh ngu muội mà niệm Chú Ðại Bi,
thì chúng sẽ có được trí huệ rộng lớn."
Kinh Văn:
Âm: "PHÁT THỊ NGUYỆN DĨ,
CHÍ TÂM XƯNG NIỆM NGÃ CHI DANH TỰ, DIỆC ƯNG CHUYÊN NIỆM NGÃ BỔN SƯ A-DI-ÐÀ
NHƯ-LAI; NHIÊN HẬU TỨC ÐƯƠNG TỤNG THỬ ÐÀ-LA-NI THẦN CHÚ. NHẤT TÚC TỤNG MÃN NGŨ
BIẾN, TRỪ DIỆT THÂN TRUNG BÁCH THIÊN VẠN ỨC KIẾP SANH TỬ TRỌNG TỘI."
Nghĩa: "Phát những
nguyện này xong, hãy chí tâm xưng niệm danh hiệu của con và cũng phải chuyên
niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con là Ðức A-Di-Ðà Như Lai; sau đó phải luôn trì
tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Nếu mỗi đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ
được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sanh tử."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật: "Sau khi các chúng
sanh phát tâm thọ trì Chú Ðại Bi đã phát những nguyện này xong, hãy chí
tâm xưng niệm danh hiệu của con–Quán Thế Âm Bồ-tát."
Quý vị muốn thọ trì Chú Ðại Bi, thì trước tiên, mỗi người phải đối
trước Quán Thế Âm Bồ-tát mà lập mười thệ nguyện như trên; rồi kế đến là phải
chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, tức là Quán Thế Âm Bồ-tát. "Chí
tâm" tức là thành tâm thành ý, một lòng một dạ.
"Và cũng phải chuyên niệm Ðức Bổn Sư của con. Các chúng sanh đó nếu chỉ niệm danh hiệu của con thôi thì vẫn
còn chưa đủ, họ cần phải chuyên tâm trì niệm cả danh hiệu của Bổn Sư của con
nữa; Bổn Sư của con là ai ư? Chính là Ðức A-Di-Ðà Như Lai." Bởi
"uống nước nhớ nguồn," cho nên chúng ta cần phải biết nghĩ đến Ðức
Phật A-Di-Ðà, vốn là Thầy của Quán Thế Âm Bồ-tát tự thuở ban sơ. Do đó, chúng
ta cũng cần phải niệm "Nam mô A-Di-Ðà Phật" nữa, chứ không phải chỉ
niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" mà thôi.
"Sau đó, phải luôn trì tụng Thần Chú Ðà-La-Ni này. Trước hết, các chúng sanh đó phải niệm danh hiệu của con—‘Nam
mô Quán Thế Âm Bồ-tát’; rồi tiếp đến là niệm danh hiệu Ðức Bổn Sư của con—‘Nam
mô A Di Ðà Phật’; và sau đó mới bắt đầu tụng Thần Chú Ðà-La-Ni. Nếu mỗi
đêm tụng đủ năm biến thì có thể tiêu trừ được trọng tội trong trăm ngàn muôn ức
kiếp sanh tử."
Mỗi tối, nếu quý vị có thể chuyên cần trì tụng Chú Ðại Bi đủ năm
biến, đều đặn như thế, thì có thể khiến cho bao nhiêu nghiệp chướng mà bản thân
quý vị trót gây tạo đều được tiêu trừ. "Trọng tội trong trăm ngàn muôn ức
kiếp sanh tử" tức là những tội lỗi thâm trọng mà chúng ta đã tạo tác trong
quá trình luân hồi luẩn quẩn, sanh rồi chết, chết rồi lại tái sanh, lập đi lập
lại mãi trong suốt cả hằng trăm ngàn vạn ức kiếp.
Kinh Văn:
Âm: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC
BẠCH PHẬT NGÔN: "THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TRÌ ÐẠI BI CHƯƠNG CÚ
GIẢ, LÂM MẠNG CHUNG THỜI, THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT GIAI LAI THỌ THỦ; DỤC SANH HÀ
ÐẲNG PHẬT ÐỘ, TÙY NGUYỆN GIAI ÐẮC VÃNG SANH."
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát
lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu chư nhân thiên tụng trì Thần
Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn;
và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện vãng sanh."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu
chư nhân thiên tụng trì Thần Chú Ðại Bi, thì lúc lâm chung, mười phương chư
Phật đều đến cầm tay tiếp dẫn." Giả sử các chúng
sanh trong cõi người và cõi trời tụng trì Chú Ðại Bi này thì đến lúc hấp hối,
họ sẽ được chư Phật từ khắp mười phương hiện đến và đưa tay tiếp dẫn, đích thân
nắm tay họ mà dắt về cõi nước của các ngài.
"Và muốn sanh về cõi Phật nào cũng đều được tùy nguyện
vãng sanh." Lại nữa, các chúng sanh này muốn sanh về cõi Phật nào
thì đều được vãng sanh về cõi Phật đó, đúng như ước nguyện của họ.
Kinh Văn:
Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN:
"THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ, ÐỌA TAM ÁC ÐẠO
GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT SANH CHƯ PHẬT QUỐC GIẢ,
NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC.
TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ, NHƯỢC BẤT ÐẮC VÔ LƯỢNG TAM-MUỘI BIỆN
TÀI GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC."
Nghĩa: Lại bạch Phật rằng:
"Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị
đọa vào ba ác đạo, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các cõi nước của
chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác.
Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng Tam-muội và
biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác."
Lược Giảng:
Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức
Thế Tôn! Nếu các chúng sanh tụng trì Thần Chú Ðại Bi mà còn bị đọa vào ba ác
đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—thì con nguyện sẽ không thành Chánh
Giác." Như vậy, nếu tất cả những chúng sanh tụng trì Chú Ðại Bi
đều không còn bị đọa vào ba đường ác, thì Quán Thế Âm Bồ-tát mới thành Phật!
"Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không được sanh về các
cõi nước của chư Phật, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi và phát nguyện muốn
được sanh về quốc độ của đức Phật nào đó, nếu người ấy không được toại nguyện
thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ không thành Phật!
"Tụng trì Thần Chú Ðại Bi, nếu không chứng đắc vô lượng
Tam-muội và biện tài, thì con nguyện sẽ không thành Chánh Giác." Giả sử có người trì niệm Thần Chú Ðại Bi mà lại chẳng chứng
được vô lượng Tam-muội cùng đại biện tài—không có được khả năng biện luận và
giảng kinh thuyết pháp, cũng chẳng được khai mở đại trí huệ—thì Quán Thế Âm
Bồ-tát cũng sẽ không thành Phật.
Kinh Văn:
Âm: "TỤNG TRÌ ÐẠI BI THẦN
CHÚ GIẢ, Ư HIỆN TẠI SANH TRUNG, NHẤT THIẾT SỞ CẦU NHƯỢC BẤT QUẢ TOẠI GIẢ, BẤT
ÐẮC VI ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI DÃ; DUY TRỪ BẤT THIỆN, TRỪ BẤT CHÍ THÀNH."
Nghĩa: "Tụng trì Thần
Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu lại không
được kết quả toại ý, thì không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni; chỉ trừ bất thiện,
trừ chẳng chí thành."
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Phật rằng: "Những người tụng
trì Thần Chú Ðại Bi mà nếu ngay trong đời hiện tại, tất cả những sự mong cầu
lại không được kết quả toại ý, không được mãn nguyện, thì Thần
Chú này không gọi là Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni!" Tuy nhiên, có một điều
chúng ta cần phải lưu ý trước, đó là các trường hợp ngoại le?#151;"chỉ
trừ bất thiện, trừ chẳng chí thành."
"Chỉ trừ bất thiện." Nếu quý vị một mặt thì tụng Chú Ðại
Bi, mặt khác lại đi giết người, cướp của, hoặc tà dâm, vọng ngữ, rượu thịt say
sưa..., chẳng từ một việc xấu nào cả, thì hẳn nhiên là Thần Chú sẽ không hiển
linh, không công hiệu. "Bất thiện" là bao gồm hết thảy mọi hành vi
bất chánh, tà vạy như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ...
"Trừ chẳng chí thành." Nếu quý vị tụng niệm qua loa cho
có lệ, nói là muốn thử xem Chú Ðại Bi có thật sự linh nghiệm hay không, như thế
có nghĩa là quý vị không có lòng thành. Quý vị không có ý muốn thử, thì Chú sẽ
linh ứng; song nếu quý vị muốn thử, thì Chú sẽ chẳng hiển linh! Vì sao ư? Vì
Phật và Bồ-tát không phải là đối tượng để cho quý vị tùy tiện thử thách, thí
nghiệm—các ngài không cần quý vị đến thử nghiệm! Chư Phật và chư Bồ-tát có thể
thử nghiệm chúng sanh, song chúng sanh không được phép thử nghiệm các ngài. Do
đó, nếu quý vị rắp tâm muốn thử xem sự việc sẽ như thế nào, tức là quý vị không
có lòng chí thành; mà không có lòng thành khẩn thiết tha thì chẳng thể nào có sự
cảm ứng linh nghiệm được!
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC CHƯ NỮ NHÂN
YẾM TIỆN NỮ THÂN, DỤC THÀNH NAM TỬ THÂN, TỤNG TRÌ ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI CHƯƠNG CÚ,
NHƯỢC BẤT CHUYỂN NỮ THÂN THÀNH NAM TỬ THÂN GIẢ, NGÃ THỆ BẤT THÀNH CHÁNH GIÁC;
SANH THIỂU NGHI TÂM GIẢ, TẤT BẤT QUẢ TOẠI DÃ."
Nghĩa: "Nếu các người
nữ chán ghét thân nữ, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni,
như không được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh
Giác; người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại nguyện."
Lược Giảng:
"Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, không muốn phải sanh làm
người nữ nữa, muốn thành thân nam, tụng trì Thần Chú Ðại Bi Ðà-La-Ni, như không
được chuyển thân nữ thành thân nam, thì con thề sẽ không thành Chánh
Giác." Sự "chuyển thân nữ thành thân nam" này không
phải là sẽ xảy ra ngay trong đời hiện tại, mà là ứng vào đời sau trong thời vị
lai.
Vậy, giả sử những người nữ ao ước được làm người nam đó siêng năng
trì niệm Chú Ðại Bi, mà đến đời sau họ lại không được sanh làm thân nam, thì
Quán Thế Âm Bồ-tát quyết sẽ không thành Phật.
"Người nào còn sanh chút lòng nghi tất không được toại
nguyện." Tuy nhiên, nếu trong lòng quý vị có dấy lên dù chỉ một
mảy may hoài nghi thì sự mầu nhiệm sẽ chẳng bao giờ xảy ra, và do đó, tâm
nguyện của quý vị sẽ không được thành tựu.
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH
XÂM TỔN THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, THIÊN PHẬT XUẤT THẾ BẤT THÔNG SÁM HỐI, TÚNG
SÁM DIỆC BẤT TRỪ DIỆT, KIM TỤNG ÐẠI BI THẦN CHÚ, TỨC ÐẮC TRỪ DIỆT."
Nghĩa: "Nếu các chúng
sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì dẫu một ngàn đức Phật
ra đời cũng chẳng được sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được; nay
tụng Thần Chú Ðại Bi thì tức khắc được tiêu trừ."
Lược Giảng:
"Nếu các chúng sanh xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống
của Thường Trụ." Thường Trụ tức là nhà chùa.
Những kẻ đến chùa ăn uống, tiêu thụ vật thực của chùa mà không cúng
dường tiền lại, hoặc mượn đồ dùng của chùa rồi không chịu trả, lạm dụng tài vật
của chùa... thì sẽ mang tội rất nặng. Tội ấy, "thì dẫu một ngàn
đức Phật ra đời, cũng chẳng được sám hối. Chư Phật không thể hứa khả
cho họ sám hối, mà dù có sám hối cũng không tiêu trừ được."
Cái tội xâm chiếm hoặc làm hao tổn thực phẩm và tài vật của chùa
chiền rất nghiêm trọng, cho dù các chúng sanh đó có đối trước chư Phật mà khẩn
cầu sám hối thì tội lỗi cũng chẳng thể tiêu tan. Thế nhưng, "nay
tụng Thần Chú Ðại Bi, thì tức khắc được tiêu trừ." Nếu ngay bây
giờ họ trì tụng Chú Ðại Bi, thì bao nhiêu tội chướng sẽ lập tức tiêu tan!
Kinh Văn:
Âm: "NHƯỢC XÂM TỔN THỰC
DỤNG THƯỜNG TRỤ ẨM THỰC TÀI VẬT, YẾU ÐỐI THẬP PHƯƠNG SƯ SÁM TẠ, NHIÊN THỦY TRỪ
DIỆT; KIM TỤNG ÐẠI BI ÐÀ-LA-NI THỜI, THẬP PHƯƠNG SƯ TỨC LAI VI TÁC CHỨNG MINH,
NHẤT THIẾT TỘI CHƯỚNG, TẤT GIAI TIÊU DIỆT."
Nghĩa: "Nếu xâm tổn tài
vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải đối trước mười phương Sư mà sám
hối, mới có thể tiêu trừ; nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni thì mười phương Sư liền đến
chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu tan."
Lược Giảng:
"Nếu xâm tổn tài vật, đồ ăn thức uống của Thường Trụ, thì phải
đối trước mười phương Sư mà sám hối, mới có thể tiêu trừ." Những kẻ dám chiếm đoạt hoặc gây tổn thất hư hại cho tài sản,
đồ ăn thức uống của nhà chùa, thì phải đối trước chư Ðại Sư ở khắp mười
phương—cũng chính là mười phương chư Phật—để sám hối tạ tội thì may ra nghiệp
tội tày trời của họ mới có thể được tiêu tan.
Tuy nhiên, những kẻ đó nếu "nay tụng Ðại Bi Ðà-La-Ni
thì mười phương Sư liền đến chứng minh, tất cả tội chướng đều được tiêu
tan." Chỉ cần ngay bây giờ những kẻ ấy bắt đầu thành khẩn tụng
trì Chú Ðại Bi, thì mười phương chư Phật sẽ đến để chứng giám cho họ, và mọi
tội lỗi nghiệp chướng của họ liền được tiêu tan.
Kinh Văn:
Âm: "NHẤT THIẾT THẬP ÁC, NGŨ NGHỊCH,
BÁNG NHÂN BÁNG PHÁP, PHÁ TRAI PHÁ GIỚI, PHÁ THÁP HOẠI TỰ, THÂU TĂNG KỲ VẬT, Ô
TỊNH PHẠM HẠNH; NHƯ THỊ ÐẲNG NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI, TẤT GIAI DIỆT
TẬN."
Nghĩa: "Tất cả các tội
Thập Ác, Ngũ Nghịch, báng nhân báng Pháp, phá trai phá Giới, phá chùa hủy tháp,
trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh thanh tịnh; bao nhiêu nghiệp ác tội nặng
như thế đều được dứt sạch."
Lược Giảng:
"Tất cả các tội Thập Ác, Ngũ Nghịch ..."
Thập Ác tức là mười việc ác: 1) Sát sanh; 2) Trộm cắp ; 3)
Tà dâm; 4) Tham lam; 5) Sân hận; 6) Si mê; 7) Nói lời thêu dệt; 8) Nói lời gian
dối; 9) Nói lời hung ác; 10) Nói lời đâm thọc (nói lưỡi đôi chiều).
Ngũ Nghịch là năm tội nghịch tày trời: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3)
Giết bậc A-La-Hán; 4) Phá sự hòa hợp của Tăng chúng; 5) Làm cho thân Phật chảy
máu.
"Báng nhân, báng Pháp." "Báng nhân" tức là hủy báng, chê bai, bôi nhọ người
khác. Thí dụ, người ta vốn là một vị tu hành, có đạo đức, mà mình lại buông lời
miệt thị: "Ui chao! Hắn là một kẻ chẳng ra gì, đừng nhắc tới nữa!";
như thế là hủy báng tha nhân vậy.
"Báng Pháp" tức là hủy báng Phật Pháp, hủy báng chư Tăng
Ni, khinh chê lời Phật dạy.
"Phá trai, phá Giới." Nếu quý vị đã nguyện là chỉ ăn
chay, song lại không giữ lời, tùy tiện ăn thịt; như thế tức là quý vị "phá
trai" vậy. Nếu quý vị thọ Giới mà lại không giữ Giới, cứ làm những điều
trái với Giới Luật, thì đó gọi là "phá Giới."
"Phá chùa hủy tháp, trộm của Tăng-kỳ, làm nhơ Phạm hạnh
thanh tịnh." "Phá chùa hủy tháp" tức là
phá hoại, triệt hạ chùa chiền và tháp miếu thờ Phật; "trộm của
Tăng-kỳ" là lấy cắp đồ đạc của người xuất gia; "làm nhơ Phạm hạnh
thanh tịnh" là khiến cho người đang tu hạnh thanh tịnh bị ô uế, không giữ
được hạnh trong sạch nữa.
Những tội lỗi kể trên đều rất nghiêm trọng, tuy thế, nếu quý vị đã
trót phạm mà nay lại có thể thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì "bao
nhiêu nghiệp ác tội nặng như thế đều được dứt sạch."
Kinh Văn:
Âm: "DUY TRỪ NHẤT SỰ, Ư
CHÚ SANH NGHI GIẢ, NÃI CHÍ TIỂU TỘI KHINH NGHIỆP, DIỆC BẤT ÐẮC DIỆT, HÀ HUỐNG
TRỌNG TỘI? TUY BẤT TỨC DIỆT TRỌNG TỘI, DO NĂNG VIỄN TÁC BỒ ÐỀ CHI NHÂN."
Nghĩa: "Chỉ trừ một
việc, nếu đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi thì ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ
cũng không được tiêu trừ, huống hồ tội nặng? Tuy không thể tức khắc tiêu trừ
được tội nặng, song vẫn có thể làm nhân xa của Bồ-đề."
Lược Giảng:
Tuy nhiên, "chỉ trừ một việc." Câu này
vô cùng quan trọng; vậy thì ngoại trừ trường hợp nào? Ðó là trường hợp "nếu
đối với Thần Chú còn sanh lòng nghi."
Nếu quý vị cứ phân vân: "Không biết Chú này có linh nghiệm như
thế thật không nhỉ? Có thật là có sự mầu nhiệm đến thế không? Tuy nói rằng trì
tụng Chú này thì được cảm ứng, nhưng đó chỉ toàn là nghe người ta kể lại chứ
mình vẫn chưa được chứng kiến tận mắt; chẳng biết có đúng là như vậy hay
không?"; tức là quý vị không có lòng tin đối với Thần Chú. Mà hễ quý vị
không tin thì thế nào? Thì sẽ hoàn toàn không linh nghiệm! Vì sao ư? Bởi vì quý
vị không đặt trọn lòng tin nơi Thần Chú!
Thí dụ, khi quý vị nhờ bạn bè làm giùm một việc gì đó, thì quý vị
cần phải thật tâm tín nhiệm họ; bằng không, họ sẽ chẳng muốn giúp quý vị! Tương
tự như thế, quý vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Thần Chú này; bằng không, "thì
ngay cả tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu trừ."
"Ðối với Thần Chú còn sanh lòng nghi" cũng có nghĩa là
không "y giáo phụng hành," không làm đúng theo các đạo lý bao hàm
trong Thần Chú. Thí dụ Quán Thế Âm Bồ-tát căn dặn là hành giả mỗi ngày phải
tụng Chú Ðại Bi đủ năm biến, thì quý vị không tụng năm biến mà lại tụng bốn
biến, còn nói rằng: "Bớt đi một biến thì đâu có gì quan trọng?! Tụng nhiều
hay ít thì cũng vậy thôi; miễn có tụng là được rồi!" Thế là, hôm nay lười
biếng nên chỉ tụng một biến rồi nghỉ; hôm sau siêng năng hơn nên tụng luôn một
lúc đến một trăm biến để bù lại! Như vậy thì có khác gì hôm nay ăn một lúc hết
hai mươi chén cơm, rồi sang ngày mai thì không ăn gì cả? Không ăn gì cả thì đói
chịu không nổi; còn ăn luôn hai chục chén cơm thì bụng no anh ách cũng chẳng dễ
chịu tí nào! Việc tụng Chú Ðại Bi tuy về hình tướng thì không hoàn toàn giống
như việc ăn cơm, song tính cách thì cũng tương tự. Trong kinh đã dặn mỗi ngày
tụng năm biến thì chúng ta phải mỗi ngày chăm chỉ tụng đủ năm biến; nhất định
phải đều đặn như thế, chứ đừng tụng sáu biến, mà cũng chớ nên tụng bốn biến!
Có người phân trần: "Tôi vốn kém trí nhớ, nên cứ lẫn lộn,
không biết là mình đã tụng đủ năm biến hay chỉ mới tụng bốn biến!" Nói như
thế tức là quý vị hoàn toàn chẳng có tụng niệm gì cả! Bởi quý vị không thể nhớ
được kia mà! Tụng được bao nhiêu biến mà chính mình cũng không nhớ rõ, thì một
biến cũng chẳng thành lập! Do đó, quý vị cần phải ghi nhớ cho rõ ràng rành
mạch.
Lại có người thắc mắc: "Tôi vừa bắt đầu niệm Chú thì đầu óc cứ
mơ mơ màng màng; như thế có kể là có tụng không?" Như thế thì không kể; đó
là ngủ gà ngủ gật chứ không phải là tụng Chú!
Có người thì kể lể: "Mỗi lần tôi tu Pháp là hai mắt cứ ríu
lại, mở không ra!" Như thế cũng không tính, bởi quý vị chỉ tu niệm một
cách hồ đồ, điên đảo, thiếu sáng suốt. Quý vị cần phải y theo giáo pháp mà tu
tập trong sự tỉnh táo, minh mẫn mới được!
Cũng có người tự biện hộ rằng: "Tôi chỉ phạm một vài sai sót
nho nhỏ thôi thì chắc cũng không sao; vị Thần của Chú không thể nào biết được!
Hiện tại tôi chưa tụng Chú, thì vị Chú Thần chưa đến, vậy tôi có uống chút xíu
rượu cũng chẳng hề gì!" Suy nghĩ như thế tức là quý vị "còn sanh lòng
nghi," không có tín tâm đối với Chú. Phải như thế nào mới gọi là thật sự
có tín tâm đối với Chú? Phải thành khẩn, không mảy may gợn chút hoài nghi, và
phải theo đúng khuôn phép, nền nếp mà tu hành!
"Huống hồ tội nặng?" Tội nhỏ nghiệp nhẹ mà còn không tiêu trừ được, thì tội lớn
nghiệp nặng lại càng khó thể tiêu trừ hơn nữa!
"Tuy không thể tức khắc tiêu trừ được tội nặng, song
vẫn có thể làm nhân Bồ-đề về lâu xa." Mặc
dù quý vị tụng Chú với lòng nghi thì tội nặng không thể được tiêu trừ ngay,
song quý vị vẫn có thể gieo được cái nhân Bồ-đề cho chính mình về sau. Hạt
giống Bồ-đề này, đến một đại kiếp nào đó trong tương lai sẽ nẩy mầm Bồ-đề và sẽ
lớn mạnh, kết thành quả Bồ-đề. Cho nên, một khi đã trồng cái nhân rồi, thì sớm
muộn gì nó cũng đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
3
KINH VĂN:
Âm: PHỤC BẠCH PHẬT NGÔN:
"THẾ TÔN! NHƯỢC CHƯ NHÂN THIÊN TỤNG TRÌ ÐẠI BI TÂM CHÚ GIẢ, ÐẮC THẬP NGŨ
CHỦNG THIỆN SANH, BẤT THỌ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DÃ."
Nghĩa: Ngài lại bạch Phật
rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì Ðại Bi Tâm Chú,
thì sẽ được mười lăm loại thiện sanh và không phải chịu mười lăm loại ác
tử."
LƯỢC GIẢNG:
Ngài?/font>Quán Thế Âm Bồ-tát�lại bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu các hàng trời,
người tụng trì Ðại Bi Tâm Chú, thì sẽ được mười lăm loại thiện sanh." "Thiện sanh" tức là sự sinh sống tốt lành.
Nếu loài người ở nhân gian hoặc chư thiên ở cõi trời có thể học
thuộc và siêng năng thọ trì Kinh Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni cùng Chú
Ðại Bi, thì họ sẽ được mười lăm việc tốt lành; "và không phải chịu
mười lăm loại ác tử." "Ác tử" là những cái chết tức
tưởi do rủi ro, bất trắc. Nếu quý vị thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ tránh
được mười lăm loại "ác tử."
KINH VĂN:
Âm: "KỲ ÁC TỬ GIẢ:
NHẤT GIẢ, BẤT LINH KỲ CƠ NGẠ KHỐN KHỔ TỬ;
NHỊ GIẢ, BẤT VI GIÀ CẤM TRƯỢNG SỞ TỬ;
TAM GIẢ, BẤT VI OÁN GIA THÙ ÐỐI TỬ;
TỨ GIẢ, BẤT VI QUÂN TRẬN TƯƠNG SÁT TỬ;
NGŨ GIẢ, BẤT VI HỔ LANG ÁC THÚ TÀN HẠI TỬ;
LỤC GIẢ, BẤT VI ÐỘC XÀ NGOAN YẾT SỞ TRÚNG TỬ;
THẤT GIẢ, BẤT VI THUỶ HỎA PHẦN PHIÊU TỬ;
BÁT GIẢ, BẤT VI ÐỘC DƯỢC SỞ TRÚNG TỬ;
CỬU GIẢ, BẤT VI CỔ ÐỘC HẠI TỬ;
THẬP GIẢ, BẤT VI CUỒNG LOẠN THẤT NIỆM TỬ;
THẬP NHẤT GIẢ, BẤT VI SƠN THỌ NHAI NGẠN ÐỌA LẠC TỬ;
THẬP NHỊ GIẢ, BẤT VI ÁC NHÂN YẾM MỴ TỬ;
THẬP TAM GIẢ, BẤT VI TÀ THẦN ÁC QUỶ ÐẮC TIỆN TỬ;
THẬP TỨ GIẢ, BẤT VI ÁC BỆNH TRIỀN THÂN TỬ;
THẬP NGŨ GIẢ, BẤT VI PHI PHẬN TỰ HẠI TỬ."
Nghĩa: "Các loại ác tử
đó là:
Một là không bị chết vì đói khát, khốn khổ;
Hai là không bị chết vì gông, tù, đòn roi;
Ba là không bị chết vì oan gia thù nghịch;
Bốn là không bị chết vì chiến trận tương tàn;
Năm là không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn hại;
Sáu là không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò cạp;
Bảy là không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu;
Tám là không bị chết vì trúng phải độc dược;
Chín là không bị chết vì cổ độc tác hại;
Mười là không bị chết vì điên loạn, mất trí;
Mười một là không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá sụp;
Mười hai là không bị chết vì kẻ ác thư ếm;
Mười ba là không bị chết vì tà thần, ác quỉ thừa cơ làm hại;
Mười bốn là không bị chết vì ác bệnh triền thân;
Mười lăm là không bị chết vì tự sát, tự tử."
LƯỢC GIẢNG:
Quán Thế Âm Bồ-tát bạch với Ðức Phật: "Các loại ác tử
đó là: Một là không bị chết vì đói khát, khốn khổ." Loại "ác
tử" (cái chết xấu) thứ nhất là "chết vì đói khát, khốn khổ." Nếu
quý vị tụng trì Chú Ðại Bi thì sẽ không bao giờ bị đói khát, thiếu thốn.
"Ðói khát" tức là không có cơm ăn nước uống, phải chịu đói chịu khát
mà chết. "Khốn khổ" tức là vô cùng vất vả cực khổ, không được vui
sướng thảnh thơi. Con người có thể bị chết do đói, do lạnh, hoặc do nghèo nàn
khốn khó; song nếu thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì chúng ta sẽ không phải lâm
vào các hoàn cảnh đó.
"Hai là không bị chết vì gông, tù, đòn roi." Loại "ác tử" thứ hai là "chết vì gông, tù, đòn
roi."
"Gông" là thứ hình cụ đeo ở cổ tội nhân.
Ở Mỹ quốc không biết có thứ hình cụ này không, chứ ở nước Trung Hoa thì thời
xưa người ta thường tròng cái gông vào cổ của kẻ phạm pháp, rồi bắt đi diễu qua
các đường phố cho mọi người đều trông thấy.
Nếu quý vị có thể thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị
chết do phải mang gông cùm quá lâu ngày hoặc do tù đày khổ sở, và cũng không bị
đánh đập đến gãy tay gãy chân, đau đớn quá mà chết.
"Ba là không bị chết vì oan gia thù nghịch." Loại "ác tử" thứ ba là "chết vì oan gia thù
nghịch." Trên thế gian này, chúng ta hầu như ai cũng có "oan gia đối
đầu." "Oan gia" (kẻ có oán thù) tức là kẻ chỉ có thù hận, oán
ghét, chứ không có thiện duyên với quý vị.
Những kẻ cứ mang lòng thù hận cũng rất đáng thương, vì tâm tư họ
luôn trĩu nặng một nỗi phẫn uất, không thể nào giải tỏa được. Nói chung, họ bị
bao phủ bởi một thứ oán khí u ám và sống trong sự thù ghét, hằn học�tôi thù anh, anh hận tôi. Chữ "thù" này cũng đồng nghĩa
với chữ "cừu," có nghĩa là căm ghét, thù hận. Người ta thường do
những việc không ưng ý mà sanh ra thù hằn, chống đối lẫn nhau.
"Bốn là không bị chết vì chiến trận tương tàn." Loại "ác tử" thứ tư là "chết vì chiến trận
tương tàn." Những người có trì tụng Thần Chú Ðại Bi thì cho dù phải ra
chiến trường chiến đấu với địch quân, cũng không bị chết vì tên bay đạn lạc.
Cho nên, nếu quý vị nào có nhiệm vụ huấn luyện binh lính thì hãy
dạy cho họ trì niệm Chú Ðại Bi, để đến khi giao chiến họ không bị trúng đạn mà
tử thương. Thế nhưng, nếu quý vị dùng Chú Ðại Bi để huấn luyện binh lính đi gây
chiến, thì tuy không bị tử trận, song cũng chẳng thể đánh thắng được! Ðó là vì
Bồ-tát không muốn nhân loại gây khởi chiến tranh, chém giết lẫn nhau.
"Năm là không bị chết vì cọp, sói, ác thú tàn
hại." Loại "ác tử" thứ năm là "chết vì bị
cọp, sói, ác thú tàn hại." Nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị
cọp beo, chó sói, hoặc những thú dữ khác cắn chết hay tàn hại.
"Sáu là không bị chết vì trúng độc rắn, rết, bò
cạp." Loại "ác tử" thứ sáu là "chết vì bị
trúng độc của rắn, rết, bò cạp." Rắn, rết (một loại rắn thân màu đen
tuyền) và bò cạp đều có nọc độc; người nào chẳng may trúng phải nọc độc của
chúng thì đành bó tay chịu chết, vô phương cứu chữa. Tuy nhiên, nếu quý vị trì
tụng Chú Ðại Bi thì sẽ không bị nọc của các độc trùng đó làm hại đến tánh mạng.
"Bảy là không bị chết vì nước cuốn, lửa thiêu." Loại "ác tử" thứ bảy là "chết vì bị nước cuốn,
lửa thiêu." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì "xuống nước không chìm, vào
lửa không cháy." Thế nào là "xuống nước không chìm, vào lửa không
cháy"? Trước đây tôi có kể cho quý vị nghe một công án về vấn đề này, song
vẫn có nhiều người chưa được nghe, vậy hôm nay tôi kể lại một lần nữa.
Thuở trước, có một Ðạo-sĩ nọ chuyên tu luyện công phu "xuất
huyền nhập tẫn." Công phu "xuất huyền nhập tẫn" là gì? Người
luyện được công phu này thì có thể khiến cho một hình nhân nho nhỏ xuất ra từ
đỉnh đầu của mình để đi đây đi đó, và rồi vẫn có thể trở về nhập vào xác thân
lại như cũ. Hình nhân xuất ra gọi là "xuất huyền," trở về lại với
nhục thân gọi là "nhập tẫn."
Vị Ðạo-sĩ "xuất huyền nhập tẫn" này thường đi khắp nơi để
tham vấn, học hỏi. Một hôm, ông đi ngang qua một ngôi chùa nhỏ, trong chùa chỉ
có một thầy Tỳ-kheo già và một chú Sa-di còn nhỏ tuổi ở đó tu hành. Bấy giờ
trời cũng vừa sập tối, ông bèn vào chùa xin tá túc qua đêm.
Ðến khuya hôm ấy, vị Ðạo-sĩ ngồi tĩnh tọa, dùng công phu "xuất
huyền" mà xuất ra ngoài dạo chơi. Ông tới thăm Nhật Bản, rồi sang Ðức,
sang Úc... Tuy những nơi đó toàn là người ngoại quốc và ông cũng chẳng hiểu
được ngôn ngữ của họ, song ông vẫn muốn viếng thăm các danh lam thắng cảnh cho
thỏa lòng hiếu kỳ. Ông cứ thong thả dạo khắp đó đây, ung dung chiêm ngưỡng các
kỳ quan của thế giới. Rất có thể là ông cũng có đến Hoa Kỳ và ngắm nghía cầu
Kim Môn (Golden Gate Bridge): "Ồ! Cầu Kim Môn có kiến trúc đẹp thật, quả
là một công trình vĩ đại!"; rồi mải mê nhìn ngắm đến quên mất chuyện trở
về.
Sáng sớm hôm sau, lúc ăn điểm tâm, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di:
"Con hãy vào mời ông khách ngủ trọ hôm qua ra dùng điểm tâm!"
Chú Sa-di đến phòng dành cho vị Ðạo-sĩ thì thấy ông đang ngồi
yên... bất động: "Ồ! Ông ấy ngồi mà viên tịch rồi!" Thế là chú hớt
hãi chạy đi báo cho vị Tỳ-kheo hay: "Sư-phụ ơi! Ông khách xin tá túc tối
qua đã viên tịch rồi!"
Vị Tỳ-kheo vội vã vào xem thì thấy quả thật vị Ðạo-sĩ đã chết rồi.
Thật ra, đó là vì trong khi "xuất huyền" thì nhục thân của ông Ðạo-sĩ
nọ không còn hô hấp, mà tim mạch cũng ngừng đập, nên tình trạng lúc ấy trông
chẳng khác gì một xác chết vậy.
Vị Tỳ-kheo già bảo: "Ồ! Ông ấy chết thật rồi! Thôi thì chúng
ta hãy làm lễ hỏa táng cho ông ấy vậy." Và chẳng mấy chốc thì nhục thân
của vị Ðạo-sĩ đã trở thành một đống tro tàn!
Bấy giờ, vị Ðạo-sĩ sau khi "xuất huyền"?đi du ngoạn thỏa
thích rồi (mà không tốn tiền mua vé máy bay!), bèn tính chuyện trở về để
"nhập tẫn." Trở về, mới hay nhục thân của mình không còn ở chỗ cũ
nữa, ông hốt hoảng lùng kiếm khắp nơi song vẫn không tìm ra. Thế là tối đến,
ông liền tới ngôi chùa nhỏ nọ quát hỏi om sòm: "Các người đem cái
"nhà" của ta đi đâu? Hãy trả "nhà" lại cho ta!"
("nhà" là ám chỉ nhục thân của ông.)
Vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di nghe thấy thì kinh ngạc nhìn nhau:
"Ai thế? Ai nói gì đấy?" Bởi vì tuy cũng là người tu hành, song họ
chưa có được Ngũ Nhãn, Lục Thông; bằng không, họ có thể nhìn thấy và biết rằng
vị khách hôm nọ đã trở về. Chính vì chỉ nghe có tiếng nói chứ không thấy dáng
người nên cả hai thầy trò đều cho rằng đó là ma quỷ đến quấy phá: "Ồ, đó
hẳn là hồn ma của ông khách hôm nọ trở về đòi nhà chứ gì?!"
Hôm đầu tiên thì đêm đến "hồn ma" của vị Ðạo-sĩ mới tới
chùa để đòi nha? nhưng qua hôm sau thì trời vừa nhá nhem tối là ông
đã đến rồi. Và kể từ đó, hôm nào ông cũng đến, có lúc ngay cả giữa ban ngày mà
ông cũng đến kêu réo đòi nhà. Trong khoảng hơn một tháng, ngày nào ông cũng đến
chùa nằng nặc đòi nhà như thế, khiến cho lão Tỳ-kheo và chú Sa-di sanh lòng sợ
hãi: "Chậc, trong chùa có ma thật rồi! Thế này thì e rằng chúng ta phải lánh
đi nơi khác mà thôi; không thể nào ở đây được nữa!" Thế là họ quyết định
bỏ chùa mà đi.
Chiều hôm đó, hai thầy trò đang chuẩn bị để ngày mai dọn đi, thì có
một nhà Sư đến xin tá túc. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo già bảo chú Sa-di: "Con hãy
thưa với ông ấy rằng chúng ta hiện nay không cho khách ngủ trọ nữa! Lần trước
đã xảy ra chuyện rắc rối quá rồi!"
Chú Sa-di thưa lại với vị Sư mới đến: "Xin Thầy hãy đến nơi
khác tá túc. Chùa chúng con hiện nay không cho ngủ trọ nữa ạ."
Vị Sư nọ gạn hỏi: "Nhà chùa hiện nay không cho ngủ trọ nữa ư?
Như thế có nghĩa là trước kia thì chùa vẫn cho khách ngủ trọ! Vậy thì tại sao
bây giờ lại không cho nữa? Chú có thể cho ta biết nguyên do chăng?"
Chú Sa-di bèn kể lể sự tình: "Bởi vì trước kia có một ông
khách xin tá túc và rồi viên tịch tại đây. Chúng con đã hỏa thiêu nhục thân của
ông ấy, bây giờ ngày nào hồn ma của ông ấy cũng đến đòi nhà. Cho nên nay nhà
chùa không dám cho khách ngủ trọ nữa; vả lại, chùa chúng con cũng sắp dọn đi
nơi khác rồi."
Vị Sư nọ gật gù: "Ồ, thì ra là như thế! Không sao, ta có thể
trị được ma quỷ. Ta có cách khiến cho con ma đó phải chịu đầu hàng, tòng
phục."
Nghe vị Sư nói như thế thì chú Sa-di mừng rỡ reo lên: "Thế thì
để con vào thưa lại với Sư-phụ, xem Sư-phụ định liệu ra sao!" Nói dứt lời,
chú hớn hở chạy về liêu phòng bạch cùng vị Tỳ-kheo: "Bạch Sư-phụ! Ông Sư
mới đến ấy bảo rằng có thể trị được ma quỷ. Ông ấy muốn ngủ trọ một đêm, chẳng
hay Sư-phụ có bằng lòng chăng?"
Vị Tỳ-kheo đáp với vẻ đắn đo: "Ậy! Ông ta nói trị được ma quỷ
là nói gạt con đấy! Chúng ta là người xuất gia mà đều không trị được ma quỷ,
ông ấy cũng như chúng ta thôi, thì làm sao mà trị được chúng? Mà thôi, bất luận
có trị được hay không thì chúng ta cũng cứ để cho ông ấy tá túc một đêm rồi
hẵng hay!" Chủ ý của vị Tỳ-kheo là cứ thử xem sao�vị Sư nọ nếu trị được con ma này thì tốt, mà dẫu không trị nổi nó
thì cũng không sao, đằng nào ông ta cũng chỉ ở nhờ có một đêm! Và thế là vị Sư
nọ được mời ở lại chùa.
Bấy giờ, vị Sư nọ hỏi hai thầy trò: "Chẳng hay ông khách nọ
chết ở phòng nào? Bây giờ ông ta đòi trả nhà, thế thì ông ta ở đâu chui ra mà
đòi nhà?"
Vị Tỳ-kheo đáp: "Ông ấy ở tại liêu phòng phía tây. Ông ấy đến
hôm trước thì hôm sau viên tịch; và cũng từ đó bắt đầu có ma quỷ đến đòi nhà.
Hễ mặt trời vừa lặn là ông ấy lại đến; theo Thầy thì chúng ta phải làm gì bây
giờ?"
Vị Sư nói: "Dễ thôi! Xin Sư-phụ hãy chuẩn bị cho tôi một chậu
nước thật lớn, đồng thời đốt một đống lửa trong phòng của tôi. Sư-phụ hãy làm
theo lời tôi dặn đi, rồi đâu sẽ vào đấy thôi!"
Tối hôm đó, quả nhiên có tiếng kêu réo: "Bớ các người, các
người đem cái nhà của ta đi đâu? Hãy trả nhà lại cho ta, mau lên!"
Khi ấy, nhà Sư biết trị quỷ mới cất tiếng hỏi: "Nhà của ông ư?
Nhà của ông ở trong chậu nước ấy, ông vào trong đó mà tìm!" Thế là vị
Ðạo-sĩ liền nhảy vào chậu nước, loay hoay tìm kiếm, rồi nói: "Không
có!"
Vị Sư nọ điềm nhiên hỏi lại: "Không có à? Thế thì phải ở trong
đống lửa đằng kia đấy thôi, ông mau đến đó tìm thử xem!" Ông Ðạo-sĩ lại
nhảy vào đống lửa, chạy vô chạy ra sục sạo một lúc lâu, rồi thất vọng la lên:
"Cũng không có! Nhà của ta không có trong đống lửa này!"
Bấy giờ vị Sư mới chậm rãi hỏi: "Này ?#244;ng Thượng Tọa? Ông
bây giờ xuống nước không chìm, vào lửa không cháy; thế thì ông còn tìm �nhà?để làm gì nữa?!" Nghe nói như thế, vị Ðạo-sĩ chợt khai
ngộ: "Ừ nhỉ!" Và từ đó, ngôi chùa nhỏ được yên ổn, không bị ma quỷ
quấy rầy nữa, và vị Tỳ-kheo già cùng chú Sa-di cũng không phải dọn đi nơi khác.
Trên đây là một nguy cơ của việc sử dụng công phu "xuất huyền
nhập tẫn." Tuy là có thể dạo chơi khắp nơi tùy thích, nhưng nếu không gặp
được người thông hiểu hoặc có kinh nghiệm về công phu này, rủi ro bị kẻ khác
thiêu mất xác thân của mình, thì sẽ không còn "nhà" mà trở về nữa!
"Tám là không bị chết vì trúng phải độc dược." Loại "ác tử" thứ tám là "chết vì
trúng phải độc dược."
Thuở trước, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma đã từng ăn thức ăn có
trộn thuốc độc, và khi Ngài nôn ra lại thì các thức ấy đều biến thành rắn
cả?#273;ó là vì những kẻ đố kỵ Ngài đã trộn nọc rắn vào thức ăn để đầu độc
Ngài; song nhờ Ngài trì tụng Chú Ðại Bi nên không bị chết bởi thuốc độc. Ngài
bị đầu độc đến sáu lần; sau cùng Ngài tự nghĩ: "Cần gì mà phải rắc rối như
thế nhỉ? Ta chỉ làm cho người khác thêm sanh ác tâm mà thôi!" Và thế là Tổ
Sư Bồ Ðề Ðạt Ma bèn giả vờ bị trúng độc mà chết, chứ sự thật thì Ngài không phải
chết vì độc dược; vì sao? Vì Ngài có trì tụng Chú Ðại Bi!
"Chín là không bị chết vì cổ độc tác hại." Loại "ác tử" thứ chín là "chết vì bị cổ độc
tác hại." Ở Nam Dương, Singapore, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, và luôn cả
ở tỉnh Quảng-đông (Trung Hoa), người ta có luyện được những loại thuốc độc cực
mạnh và vô cùng lợi hại, gọi là "cổ độc." Có rất nhiều loại "cổ
độc"; có loại chỉ cần ăn một chút xíu nhưng khi vào đến bụng thì nó lại
phình to ra, khiến cho nạn nhân bị trướng bụng mà chết. Tuy nhiên, nếu quý vị
thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì không có độc chất nào có thể hại được quý vị.
"Mười là không bị chết vì điên loạn, mất trí." Loại "ác tử" thứ mười là "chết vì bị điên
loạn, mất trí." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị chết do điên cuồng
mê loạn, hoặc do đầu óc không được tỉnh táo.
"Mười một là không bị chết vì núi lở, cây ngã, vách đá
sụp." Loại "ác tử" thứ mười một là "chết vì
núi lở, cây ngã, vách đá sụp." Những người chuyên tâm trì tụng Chú Ðại Bi
thì không bị các cây to ngã xuống đè chết, không bị đá từ trên núi lăn xuống đè
chết, và cũng không bị tường thành đổ sập xuống đè chết.
"Mười hai là không bị chết vì kẻ ác thư ếm." Loại "ác tử" thứ mười hai là "chết vì bị kẻ ác
thư ếm." Có nhiều kẻ dùng "ác chú" để trù ếm, khiến cho người ta
nằm mộng thấy những điều sợ hãi, hoặc dùng tà thuật để "thư" cho
người ta chết.
"Kẻ ác thư ếm" tức là kẻ ác ấy có "tà chú" nên
có thể âm thầm ám hại người khác; tương tự như trường hợp cô gái Ma Ðăng Già
dùng tà chú của phái ngoại đạo "hoàng phát" (tóc vàng) để bắt cóc
Tôn-giả A-Nan vậy. Tà chú có thể làm cho đầu óc người ta trở nên mê muội, không
còn tri giác, cũng không còn sáng suốt để làm chủ chính mình nữa; do đó bị kẻ
dùng chú khống chế, sai sử một cách dễ dàng.
"Mười ba là không bị chết vì tà thần, ác quỷ thừa cơ
làm hại." Loại "ác tử" thứ mười ba là "chết vì tà
thần, ác quỷ thừa cơ làm hại." Quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì tà thần, ác
quỷ không có cơ hội hãm hại hoặc giết chết quý vị.
"Mười bốn là không bị chết vì ác bệnh triền thân." Loại "ác tử" thứ mười bốn là "chết vì ác bệnh
triền thân." Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bị mắc phải "ác
bệnh." "Ác bệnh" tức là các loại bệnh trầm trọng, ngặt nghèo,
như bệnh tê bại, không nhúc nhích được, hoặc các bệnh nan y khác. Cancer (ung
thư) cũng thuộc loại "ác bệnh" vậy.
Ở Hồng-kông có một vị Hòa Thượng rất nổi tiếng tên là Ðịnh Tây, ông
mắc bệnh cancer và sau hơn một năm thì chết vì "ác
bệnh" này. Tôi tin rằng ông ta không thành tâm tin tưởng ở Chú Ðại Bi! Tuy
rằng ông bảo người ta tu hành song chính bản thân ông lại chẳng mấy chú ý dụng
công tu tập, cho nên mới mắc cancer.
Tôi bảo cho quý vị biết, ông ta là người rất háo danh, ở Hồng-kông
chuyên môn "mua danh chuốc tiếng"! Ông rêu rao cùng khắp cả Hồng-kông
rằng Pháp Sư Ðộ Luân là đệ tử của ông ta! Thật là hoang đường! Hoàn toàn không
có chuyện đó! Tôi với ông ta phải nói là chẳng quen biết, chẳng liên can gì với
nhau cả, thậm chí còn ở cách xa nhau cả mấy ngàn dặm đường!
Lúc tôi còn ở Ðông Bắc thì ông ta hoàn toàn không biết gì về tôi
cả. Chỉ có sau khi tôi đến Hồng-kông thì số người tín ngưỡng tôi rất đông đảo,
ông bèn nói với mọi người rằng tôi là đệ tử của ông! Bởi rất nhiều người tin
tưởng tôi, vậy nếu ông ta là sư phụ của tôi thì đương nhiên là ai nấy sẽ càng
tôn kính ông ta hơn nữa; cũng tương tự như trường hợp một vị Pháp Sư nọ nói Hư
Vân Lão Hòa Thượng là đệ tử của y vậy!
Lúc tôi ở Hồng-kông, có một người họ Trương nọ mắc bệnh cancer mà
sáu vị bác sĩ nổi tiếng là cao minh nhất của Hồng-kông thời ấy đều chẩn đoán về
bệnh tình của anh ta rằng: "Nội trong một trăm ngày chắc chắn sẽ chết,
không thể nào sống nổi!"
Họ Trương này quy y với tôi vào ngày 18 tháng 5 âm lịch, và sau lễ
quy y thì tôi có khuyên anh ta nên phát tâm làm chút việc công đức. Tôi nói:
"Nếu anh chịu làm đúng theo lời tôi dặn thì tôi bảo đảm rằng không phải
chỉ nội trong một trăm ngày, mà ngoài một
trăm ngày, anh vẫn chưa phải chết! Nhưng, phải nhớ là làm theo cách tôi đã
bảo!" Tức là phải làm gì?
Nhân vì lúc bấy giờ người xuất gia từ Ðại-lục (Trung Quốc) tỵ nạn
sang Hồng-kông rất đông, có đến ba, bốn ngàn vị, mà hầu hết đều bị thiếu thốn
về mọi mặt; tôi bèn khuyên họ Trương rằng: "Anh nên phát tâm cúng dường
mỗi vị xuất gia hai mươi đồng và một súc vải Hoa-kỳ (một súc vải có thể may
được tới mấy bộ đồ). Nếu anh có thể làm như thế để kết thiện duyên với những vị
xuất gia này, tôi bảo đảm rằng anh sẽ chưa phải chết!"
Họ Trương liền phát nguyện, hứa sẽ y lời. Anh ta còn nói là nếu
trong vòng một trăm ngày mà anh ta không chết, thì sẽ bố thí cho tôi hai trăm
ngàn Mỹ kim. Anh ta là một người rất giàu có ở Hồng-kông, tài sản có đến bạc
tỷ; song đều là do làm ăn bất chánh mà có được.
Ðến kỳ hạn một trăm ngày mà bác sĩ đã chẩn định, họ Trương quả
nhiên vẫn chưa chết. Trong thời gian này, vị Hòa Thượng bị cancer mà
tôi nói ban nãy (bấy giờ chưa bị cancer), có giúp họ Trương lạy sám
hối. Lạy sám gì? Lạy Dược Sư Sám, mỗi tuần mỗi lạy Sám Dược Sư. Thấy đã quá một
trăm ngày mà họ Trương vẫn chưa chết, vị Hòa Thượng nọ bèn kể lể với anh ta
rằng đó là nhờ công đức bái sám của mình!
Thật ra, chỉ vì họ Trương là người giàu có, chứ nếu là kẻ không có
tiền thì ông Hòa Thượng nọ nhất định chẳng chịu bái sám cho! Và rốt cuộc là họ
Trương nọ, với tôi thì chẳng thực hiện lời hứa; còn vị Hòa Thượng nọ thì đã có
công bái sám nên được tặng cho năm ngàn đồng. Vị Hòa Thượng đó còn nói với họ
Trương: "Năm ngàn đồng này là phí tổn hành lễ bái sám, nhờ công đức bái
sám này mà anh khỏi phải chết đấy!"
Người họ Trương này chính là Trương Ngọc Giai. Sau đó, họ Trương
sống thêm được tám năm nữa. Vào tháng giêng năm ấy, nhân ngày đầu năm, tôi nói
với mọi người rằng: "Năm nay, nếu Trương Ngọc Giai có gặp phải chuyện gì
mà đến khẩn cầu tôi, thì cho dù anh ta có quỳ trước cửa đến ba năm đi nữa, tôi
cũng chẳng ngó ngàng tới!"
Bởi tôi chờ đợi đã tám năm rồi mà anh ta vẫn chưa chịu thực hiện
lời nguyện. Tôi không thể xem đó như món nợ, phải đi đòi: "Anh chưa chết,
thế thì phải đưa tôi hai trăm ngàn Mỹ kim!" Tôi không làm như thế được,
cho nên tôi chỉ tuyên bố: "Tôi đợi đã tám năm rồi mà anh ta vẫn không phát
tâm; vậy bắt đầu từ hôm nay trở đi, nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cho Trương
Ngọc Giai, tôi đều không biết đến!"
Sau khi tôi tuyên bố như thế chưa được bao lâu, Trương Ngọc Giai
bịnh nặng trở lại và lâm vào tình trạng nguy kịch. Họ Trương bèn bảo người nhà
đến tìm tôi, nhưng bao nhiêu lần tôi đều từ chối không gặp, thậm chí không mở
cửa cho họ vào nữa: "Các người đến tìm tôi, song tôi không muốn tiếp các
người!" Ðây là một việc mà hầu hết những người xuất gia ở Hồng-kông chẳng
mấy ai làm được! Người giàu có như thế đến thăm mà còn không chịu tiếp, không
cho gặp mặt, thì thật là... không thể hiểu nổi!!! Cho nên tôi
bị rất nhiều người phê bình: "Thật là không thông hiểu Phật Pháp gì cả!
Người ta tới xin gặp mà cứ không chịu cho gặp!"
Có một lần, họ Trương cho người mang đến tặng tôi hai trăm đồng,
tôi ném tiền ra ngoài cửa trả lại cho y. Do đó, những người xuất gia ở chỗ vị
Hòa Thượng nọ đều bất bình và chỉ trích tôi: "Ông ta không phải là người
xuất gia! Người ta cúng dường mà không chịu nhận, lại còn ném trả lại nữa; tại
sao ông ta lại quá quắt đến thế? Thật là chẳng biết điều chút nào!"
Khoảng chừng ba tháng sau thì Trương Ngọc Giai chết vì chứng cancer.
Chẳng bao lâu sau thì vị Hòa Thượng nọ cũng bị cancer, bấy giờ có
ai bái sám cho ông ta thì ông cũng không khỏi bệnh được. Ông ta có thể bái sám
cho người khác được khỏi bệnh; thế mà bây giờ tất cả Hòa Thượng ở Hồng-kông đều
bái sám, niệm Phật cho ông ta, thì lại không linh nghiệm, bệnh ông ta vẫn không
thuyên giảm. Sau đó khoảng hơn một năm thì ông "Sư-phụ giả mạo" của
tôi tạ thế. Ðó cũng là "chết vì ác bệnh triền thân" vậy.
"Mười lăm là không bị chết vì tự sát, tự tử." Loại "ác tử" thứ mười lăm là "chết vì tự sát,
tự tử."
"Tự sát, tự tử" (phi phận tự hại) tức là
tự đi tìm cái chết cho mình bằng cách uống thuốc độc, treo cổ, nhảy xuống
giếng, lao xuống biển... hoặc vô số cách khác, vì chính mình không còn muốn
sống nữa. Người trì tụng Chú Ðại Bi thì không bao giờ tự hủy hoại đời mình.
KINH VĂN:
Âm: "TỤNG TRÌ ÐẠI
BI THẦN CHÚ GIẢ, BẤT BỊ NHƯ THỊ THẬP NGŨ CHỦNG ÁC TỬ DÃ, ÐẮC THẬP NGŨ CHỦNG
THIỆN SANH GIẢ:
NHẤT GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN VƯƠNG;
NHỊ GIẢ, THƯỜNG SANH THIỆN QUỐC;
TAM GIẢ, THƯỜNG TRỊ HẢO THỜI;
TỨ GIẢ, THƯỜNG PHÙNG THIỆN HỮU;
NGŨ GIẢ, THÂN CĂN THƯỜNG ÐẮC CỤ TÚC;
LỤC GIẢ, ÐẠO TÂM THUẦN THỤC;
THẤT GIẢ, BẤT PHẠM CẤM GIỚI;
BÁT GIẢ, SỞ HỮU QUYẾN THUỘC, ÂN NGHĨA HÒA THUẬN;
CỬU GIẢ, TƯ CỤ TÀI THỰC, THƯỜNG ÐẮC PHONG TÚC;
THẬP GIẢ, HẰNG ÐẮC THA NHÂN CUNG KÍNH PHÙ TIẾP;
THẬP NHẤT GIẢ, SỞ HỮU TÀI BẢO, VÔ THA KIẾP ÐOẠT;
THẬP NHỊ GIẢ, Ý DỤC SỞ CẦU, GIAI TẤT XƯNG TOẠI;
THẬP TAM GIẢ, LONG THIÊN THIỆN THẦN HẰNG THƯỜNG ỦNG VỆ;
THẬP TỨ GIẢ, SỞ SANH CHI XỨ, KIẾN PHẬT VĂN PHÁP;
THẬP NGŨ GIẢ, SỞ VĂN CHÁNH PHÁP, NGỘ THẬM THÂM NGHĨA."
Nghĩa: "Người nào tụng
trì Thần Chú Ðại Bi thì chẳng những không bị mười lăm loại ác tử như thế, mà
còn sẽ được mười lăm loại thiện sanh:
Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương;
Hai là thường sanh ra ở thiện quốc;
Ba là thường gặp thời đại tốt;
Bốn là thường gặp thiện hữu;
Năm là thân căn thường được đầy đủ;
Sáu là Ðạo tâm thuần thục;
Bảy là không phạm cấm giới;
Tám là tất cả quyến thuộc đều hòa thuận, có ân nghĩa;
Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy đủ;
Mười là luôn được người khác cung kính, giúp đỡ;
Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt;
Mười hai là những việc mong cầu đều được toại nguyện;
Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng hộ;
Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe Pháp;
Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lý thâm sâu."
LƯỢC GIẢNG:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại bạch cùng Ðức Thế Tôn: "Người
nào tụng trì Thần Chú Ðại Bi thì không bị mười lăm loại ác tử như vậy, mà sẽ
được mười lăm loại thiện sanh." Mười lăm thứ "thiện
sanh" đó là gồm những gì?
"Một là sanh ra ở nơi thường gặp bậc thiện vương." Nếu quý vị tụng trì Chú Ðại Bi thì sẽ được sanh trưởng ở
những đất nước có vị quốc vương biết tu Ngũ Giới và hành Thập Thiện.
"Hai là thường sanh ra ở thiện quốc." "Thiện quốc" tức là một đất nước không có chiến
tranh loạn lạc, không có giặc giã đao binh, không có lũ lụt, hỏa hoạn, và cũng
không có các bệnh dịch hoành hành. Ngoài ra, dân chúng ở đất nước đó đều là
những người rất lương thiện, ai nấy đều chung sống thuận hòa chứ không tàn sát
lẫn nhau.
"Ba là thường gặp thời đại tốt." Trì tụng Ðại Bi Chú, quý vị sẽ được sanh vào thời thái bình
thịnh trị, không gặp cảnh chiến tranh giặc giã.
"Bốn là thường gặp thiện hữu." "Thiện hữu" tức là những người bạn tốt, biết khuyến
khích quý vị học tập Phật Pháp, chăm chỉ tu hành.
"Năm là thân căn thường được đầy đủ." Nếu quý vị thường niệm Chú Ðại Bi thì sáu căn�mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý�của quý vị đều vô cùng xinh đẹp, viên mãn.
"Sáu là Ðạo tâm thuần thục." "Thuần" tức là thuần nhất, không hỗn tạp, không xen
lẫn gì cả. "Thục" tức là thành thục, chín muồi. Vậy, nếu quý vị tụng
trì Chú Ðại Bi, thì cái tâm thuần thành tu Ðạo của quý vị chẳng những kiên cố
mà còn sắp thành thục nữa.
"Bảy là không phạm cấm giới." Phàm là tu Ðạo, quý vị hễ thọ giới nào rồi thì không được vi
phạm giới đó. Trong Giới Luật có bảo quý vị chớ làm việc gì đó song quý vị vẫn
cứ làm, như thế là "phạm cấm giới" vậy.
"Tám là tất cả quyến thuộc đều hòa thuận, có ân
nghĩa." Tất cả bà con họ hàng của gia đình quý vị đều biết cảm ân
báo đức lẫn nhau; quý vị tử tế với họ và họ cũng tử tế với quý vị, không ai có
lòng ích kỷ hoặc mưu đồ lợi lộc riêng tư.
"Chín là đồ dùng, tiền tài, vật thực thường được đầy
đủ." Quý vị được sở hữu rất nhiều tài bảo, vật dụng, đồ ăn thức
uống; và luôn luôn sống trong sự sung túc, dư dả, không bao giờ bị thiếu thốn.
"Mười là luôn được người khác cung kính, giúp
đỡ." Hễ ai gặp quý vị cũng đều tỏ ra cung kính và sẵn lòng giúp
đỡ quý vị.
"Mười một là tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp
đoạt." Các tài bảo của riêng quý vị thì không bị người khác đến
tranh giành, cướp đoạt.
"Mười hai là những việc mong cầu đều được toại
nguyện." Quý vị ao ước điều gì thì cũng đều được thỏa mãn, vừa
lòng đẹp ý.
"Mười ba là long, thiên, thiện thần thường theo ủng
hộ." Thiên, long, bát bộ, cùng tất cả thiện thần đều luôn
luôn phù hộ, che chở cho quý vị.
"Mười bốn là sanh ở nơi nào cũng được thấy Phật nghe
Pháp." Nếu quý vị trì tụng Chú Ðại Bi thì sanh ra ở xứ sở nào cũng
đều được thấy Phật và được nghe Pháp. Nay tuy Ðức Phật đã nhập Niết-bàn, song
chúng ta trông thấy tượng Phật thì cũng như được "thấy Phật," và nghe
giảng Phật Pháp tức là được "nghe Pháp" vậy.
"Mười lăm là được nghe Chánh Pháp và tỏ ngộ nghĩa lý
thâm sâu." Những điều quý vị được nghe thì đều thuộc về Chánh
Pháp, và quý vị có thể hiểu được những đạo lý rất thâm sâu.
KINH VĂN:
Âm: "NHƯỢC HỮU TỤNG
TRÌ ÐẠI BI TÂM ÐÀ-LA-NI GIẢ, ÐẮC NHƯ THỊ ÐẲNG THẬP NGŨ CHỦNG THIỆN SANH DÃ,
NHẤT THIẾT THIÊN NHÂN, ƯNG THƯỜNG TỤNG TRÌ, VẬT SANH GIẢI ÐÃI."
Nghĩa: "Nếu người nào
trì tụng Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni thì sẽ được mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất
cả hàng Trời, người nên thường xuyên trì tụng, chớ sanh biếng nhác!"
LƯỢC GIẢNG:
"Nếu người nào trì tụng Ðại Bi Tâm Ðà-La-Ni thì sẽ được
mười lăm chỗ thiện sanh như thế. Tất cả hàng Trời, người, nên thường xuyên trì
tụng, chớ sanh biếng nhác!" Hết thảy thiên nhân trên
các cõi trời cũng như loài người chúng ta ở chốn nhân gian đều nên chuyên cần
trì tụng Chú Ðại Bi, và phải nhớ kỹ là đừng lười biếng, xao lãng! Chúng ta cần
phải nhớ là chớ nên tham ăn, tham ngủ! Nếu quý vị có thể chú trọng việc trì
niệm Chú Ðại Bi như việc ăn uống, quan tâm đến việc trì tụng Chú Ðại Bi như
việc ngủ nghỉ, thì tốt biết bao: "Hễ hôm nào mà không tụng Chú Ðại Bi là
tôi cảm thấy như thiếu ăn thiếu ngủ vậy!"
Quý vị hãy xem việc trì niệm Chú Ðại Bi cũng thiết yếu như việc ăn
uống, ngủ nghỉ; chớ nên giải đãi, lười biếng. Chuyển cái tâm thích ăn thành cái
tâm thích trì tụng Chú Ðại Bi, đổi cái tâm thích ngủ thành cái tâm thiết tha
tụng trì Ðại Bi Chú; quý vị xem, như thế chẳng phải là kỳ diệu sao?
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
4
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỊ NGỮ DĨ, Ư CHÚNG HỘI TIỀN, HỢP
CHƯỞNG CHÁNH TRỤ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI ĐẠI BI TÂM, KHAI NHAN HÀM TIẾU, TỨC
THUYẾT NHƯ THỊ QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG
CÚ. ĐÀ-LA-NI VIẾT: ...
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng
thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ, tuyên thuyết
chương cú thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó
như vầy: ...
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội chắp tay đứng
thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, tươi mặt cười nụ... “Tươi
mặt cười nụ” tức là miệng cười chúm chím, nét mặt lộ vẻ hân hoan. Nếu mặt mày
quạu quọ, lầm lì nhăn nhó, thì gọi là “xụ mặt.” Quý vị cần phải rạng rỡ tươi
vui, chứ đừng nên lúc nào cũng mặt ủ mày chau, hoặc sầm đen lại như đang giận
ai vậy. (Ở Trung Hoa có ông Bao Công mặt sắt đen sì, song đó không phải là dấu
hiệu của sự giận dữ!)
Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát chắp hai tay lại và đứng ngay ngắn
trước mặt Đức Phật cùng đại chúng, rồi sanh lòng đại từ đại bi thương xót tất
cả chúng sanh, Ngài tươi cười rạng rỡ và lập tức tuyên thuyết chương cú
thần diệu Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Đà-La-Ni đó như vầy:
...
Kinh Văn:
NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A RỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ, THƯỚC BÁT RA
DA. BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA TÁT ĐỎA BÀ DA. MA HA CA LÔ NI CA DA. ÁN. TÁT BÀN
RA PHẠT DUỆ. SÓC ĐÁT NA ĐÁT TẢ. NAM MÔ TẤT KIẾT LẬT ĐỎA Y MÔNG A RỊ DA. BÀ LÔ
KIẾT ĐẾ THẤT PHẬT RA LĂNG ĐÀ BÀ. NAM MÔ NA RA CẨN TRÌ. HÊ RỊ MA HA BÀN ĐA SA
MẾ. TÁT BÀ A THA ĐẬU DU BẰNG. A THỆ DỰNG. TÁT BÀ TÁT ĐÁ, NA MA BÀ TÁT ĐA, NA MA
BÀ GIÀ. MA PHẠT ĐẶC ĐẬU. ĐÁT ĐIỆT THA. ÁN, A BÀ LÔ HÊ. LÔ CA ĐẾ. CA RA ĐẾ. DI
HÊ RỊ. MA HA BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA. TÁT BÀ TÁT BÀ. MA RA MA RA. MA HÊ MA HÊ, RỊ ĐÀ
DỰNG. CU LÔ CU LÔ YẾT MÔNG. ĐỘ LÔ ĐỘ LÔ, PHẠT GIÀ RA ĐẾ. MA HA PHẠT GIÀ DA ĐẾ.
ĐÀ LA ĐÀ LA. ĐỊA LỴ NI. THẤT PHẬT RA DA. GIÁ RA GIÁ RA. MA MA PHẠT MA RA. MỤC
ĐẾ LỆ. Y HÊ DI HÊ. THẤT NA THẤT NA. A RA SAM PHẬT RA XÁ LỢI. PHẠT SA PHẠT SAM.
PHẬT RA XÁ DA. HÔ LÔ HÔ LÔ MA RA. HÔ LÔ HÔ LÔ HÊ RỊ. TA RA TA RA. TẤT LỴ TẤT
LỴ. TÔ RÔ TÔ RÔ. BỒ ĐỀ DẠ, BỒ ĐỀ DẠ. BỒ ĐÀ DẠ, BỒ ĐÀ DẠ. DI ĐẾ RỊ DẠ. NA RA CẨN
TRÌ. ĐỊA LỴ SẮT NI NA. BA DẠ MA NA. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. MA HA TẤT ĐÀ
DẠ. TA BÀ HA. TẤT ĐÀ DU NGHỆ. THẤT BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ. TA BÀ
HA. MA RA NA RA. TA BÀ HA. TẤT LỖ TĂNG A MỤC KHƯ DA. TA BÀ HA. TA BÀ MA HA A
TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. GIẢ CÁT RA A TẤT ĐÀ DẠ. TA BÀ HA. BA ĐÀ MA YẾT TẤT ĐÀ DẠ.
TA BÀ HA. NA RA CẨN TRÌ, BÀN GIÀ RA DA. TA BÀ HA. MA BÀ LỢI THẮNG, YẾT RA DA.
TA BÀ HA. NAM MÔ HẮC RA ĐÁT NA ĐA RA DẠ DA. NAM MÔ A LỊ DA. BÀ LÔ KIẾT ĐẾ.
THƯỚC BÀN RA DẠ. TA BÀ HA. ÁN, TẤT ĐIỆN ĐÔ. MẠN ĐÀ RA. BẠT ĐÀ DA. TA BÀ HA.
Lược giảng:
Hiện tại chúng ta đang nghiên cứu Kinh Đại Bi Đà La Ni, do đó tạm
thời chưa giảng đến bài Chú Đại Bi này. Chỉ riêng một bài Chú này thôi cũng
phải cần rất nhiều thời gian mới giảng giải cho tường tận được; do đó, bây giờ
tôi chỉ giảng phần Kinh văn, còn ý nghĩa của Chú (Chú nghĩa) thì để khi nào có
cơ hội tôi sẽ giải thích cặn kẽ sau. Và, luôn cả Chú Lăng Nghiêm cũng vậy,
trong tương lai, nếu có cơ duyên thuận tiện thì tôi sẽ giảng nghĩa cho quý vị
nghe; còn hôm nay thì tôi chỉ giải thích sơ lược về câu đầu và câu cuối của bài
Chú Đại Bi này mà thôi.
Câu đầu tiên của Chú Đại Bi là “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ
Da.”
“Nam mô” có nghĩa là quy y, quay về nương tựa; do đó câu chú trên
trở thành “Quy y Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da,” và có nghĩa là “quy y tận hư
không, biến Pháp Giới, thập phương tam thế, vô tận vô tận Tam Bảo” (con về
nương tựa vô lượng vô biên Tam Bảo ở tận cùng hư không và khắp cả Pháp Giới
trong mười phương ba đời). Nói theo đồ hình thì đây là bổn thân của Quán Thế Âm
Bồ-tát. Nếu quý vị trì niệm câu chú này thì Quán Thế Âm Bồ-tát sẽ giúp cho mọi
sở cầu của quý vị đều được toại nguyện, viên mãn như ý.
Câu cuối cùng của bài Chú Đại Bi là “Án Tất Điện Đô. Mạn Đà Ra. Mạt
Đà Da. Ta Bà Ha.” Câu này nghĩa là gì? Câu này hàm ý là tất cả mọi nguyện vọng
thiết tha của hành giả đều sẽ mau chóng được thành tựu. Quý vị trì niệm câu Chú
này thì những điều nguyện ước hoặc hy vọng của quý vị sẽ không những được thành
tựu mà còn thành tựu một cách nhanh chóng nữa.
Trên đây là sơ lược về ý nghĩa của câu đầu và câu cuối của bài Chú
Đại Bi.
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THUYẾT THỬ CHÚ DĨ, ĐẠI ĐỊA LỤC BIẾN CHẤN ĐỘNG, THIÊN VŨ BẢO
HOA, TÂN PHÂN NHI HẠ. THẬP PHƯƠNG CHƯ PHẬT, TẤT GIAI HOAN HỶ. THIÊN MA NGOẠI
ĐẠO, KHỦNG BỐ MAO THỤ. NHẤT THIẾT CHÚNG HỘI, GIAI HOẠCH QUẢ CHỨNG: HOẶC ĐẮC TU-ĐÀ-HOÀN
QUẢ, HOẶC ĐẮC TƯ-ĐÀ-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-NA-HÀM QUẢ, HOẶC ĐẮC A-LA-HÁN QUẢ, HOẶC
ĐẮC NHẤT ĐỊA, NHỊ ĐỊA, TAM ĐỊA, TỨ ĐỊA, NGŨ ĐỊA, NÃI CHÍ THẬP ĐỊA GIẢ. VÔ LƯỢNG
CHÚNG SANH PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM.
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu
cách, trời mưa hoa báu xuống lả tả, mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ;
thiên ma ngoại đạo sợ hãi đến dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả
chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm,
hoặc đắc quả A-la-hán, hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa,
cho đến Thập Địa; vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm.
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú này xong, đại địa chấn động sáu cách ...
“Đại địa” (cõi đất lớn) tức là mặt đất mà chúng sanh chúng ta đang cư ngụ. Như
đã đề cập trong phần trước, sáu loại chấn động của đại địa (lục chủng chấn
động) là chấn, hống, kích, động, dũng và khởi.
1) Chấn tức là chấn động (vang dội, rúng động);
2) Hống là gầm rống, gào thét;
3) Kích có nghĩa là va chạm, đập vào nhau.
Chấn, hống và kích là những chấn động thuộc về âm thanh.
4) Động tức là động cựa hướng về phía trên;
5) Dũng là dũng hiện, hàm ý phun vọt lên trên;
6) Khởi tức là vùng dậy, khởi lên.
Động, dũng và khởi là những chấn động về mặt hình thể.
Sáu loại chấn động này lại có thể biến chuyển thành mười tám thứ
chấn động khác nhau mà trước đây tôi đã có giảng rồi, và tôi tin rằng quý vị
vẫn còn nhớ cho nên không cần phải giảng tỉ mỉ lại nữa!
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chấn động của đại địa.
Sáu loại chấn động có thể xảy ra do: 1) ở thế gian có người thành Phật; 2) có
người chứng đắc quả vị A-la-hán; 3) có chư Phật hoặc Bồ-tát tuyên thuyết kinh
điển Đại Thừa.
Ba sự kiện trên là thuộc về phương diện thiện (điềm lành) và khi xảy ra thì cả
đại địa đều chấn động sáu cách. Ngoài ra, địa chấn cũng có thể xảy ra do: 1) có
Ma-vương xuất hiện (Ma-vương có thể dùng ma lực của mình để làm cho đại địa
biến thành chấn động sáu cách); 2) có thiên tai nhân họa xảy ra bởi nghiệp cảm
của chúng sanh; 3) trời đất phát sinh tai biến.
Địa chấn thì có loại tốt, có loại không tốt. Địa chấn xảy ra bởi ba nguyên nhân
đầu thì không gây tổn hại gì cho nhân loại cả; còn địa chấn bởi ba nguyên nhân
sau thì đều là những tai họa đối với loài người. Thế nhưng, mức độ tác hại do
địa chấn gây ra, như tôi vừa nói ban nãy, còn tùy thuộc vào nghiệp cảm của
chúng sanh nữa. Mặc dù nói rằng nếu nghiệp lực của chúng sanh quá nặng thì biến
cố sẽ xảy ra, nhưng nếu ở nơi đáng lẽ phải có tai ương giáng xuống đó mà có bậc
thánh nhân—Phật, Bồ-tát, A-la-hán—ra đời, thì tai ương của nơi đó có thể sẽ
chuyển dời sang nơi khác, hoặc có thể từ họa lớn biến thành họa nhỏ, hoặc từ
họa nhỏ biến thành tiêu tan. Cho nên, ở thế gian này chẳng có gì là nhất định
cả.
Vừa rồi chỉ là sơ lược về ý nghĩa cùng tình hình của hiện tượng địa chấn; nếu
đi sâu vào chi tiết, thì còn có rất nhiều quan hệ và nguyên nhân vi tế khác vô
cùng phức tạp.
Trời mưa hoa báu xuống lả tả. Các thiên nữ ở cõi trời đua nhau rải hoa báu xuống, cứ hết đóa này
đến đóa khác liên tiếp rơi xuống như mưa.
Mười phương chư Phật thảy đều hoan hỷ; thiên ma ngoại đạo sợ hãi
đến dựng lông tóc. Lúc bấy giờ, tất cả chư Phật trong mười phương đều
sanh tâm hoan hỷ; còn các Ma-vương và hàng ngoại đạo trên cõi trời thì đều rùng
mình khiếp sợ, sợ đến nỗi bao nhiêu lông tóc đều dựng đứng lên cả.
Tất cả chúng hội đều được quả chứng—hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc
đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán. Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết Chú Đại Bi xong, trong
đại chúng có rất nhiều vị chứng được Sơ Quả A-la-hán, Nhị Quả A-la-hán, Tam Quả
A-la-hán hoặc Tứ Quả A-la-hán.
Hoặc đắc Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Lại nữa, trong Pháp Hội cũng có rất nhiều vị chứng đắc được
các địa vị của Bồ-tát Đại Thừa như Nhất Địa (Hoan Hỷ Địa), Nhị Địa (Ly Cấu
Địa), Tam Địa (Phát Quang Địa), Tứ Địa (Diệm Huệ Địa), Ngũ Địa (Nan Thắng Địa),
Lục Địa (Hiện Tiền Địa), Thất Địa (Viễn Hành Địa), Bát Địa (Bất Động Địa), Cửu
Địa (Thiện Huệ Địa), và Thập Địa (Pháp Vân Địa).
Vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Ngoài ra, ngay lúc ấy còn có vô lượng vô biên chúng sanh phát
khởi tâm Bồ-Đề rộng lớn.
Kinh Văn:
NHĨ THỜI, ĐẠI PHẠM THIÊN VƯƠNG TÙNG TÒA NHI KHỞI, CHỈNH LÝ Y PHỤC, HỢP CHƯỞNG
CUNG KÍNH, BẠCH QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “THIỆN TAI, ĐẠI SĨ! NGÃ TÙNG TÍCH LAI,
KINH VÔ LƯỢNG PHẬT HỘI, VĂN CHỦNG CHỦNG PHÁP, CHỦNG CHỦNG ĐÀ-LA-NI, VỊ TẰNG VĂN
THUYẾT NHƯ THỬ VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐẠI BI ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ. DUY
NGUYỆN ĐẠI SĨ, VI NGÃ THUYẾT THỬ ĐÀ-LA-NI HÌNH MẠO TRẠNG TƯỚNG, NGÃ ĐẲNG ĐẠI
CHÚNG, NGUYỆN NHẠO DỤC VĂN.”
Nghĩa: Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho
chỉnh tề, cung kính chắp tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay,
Đại Sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật Hội, được nghe vô số
Phật Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, song chưa từng được nghe tuyên thuyết chương
cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni như thế này. Chỉ mong Đại Sĩ vì
tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni ấy; tôi cùng đại chúng đều ưa
thích muốn nghe.”
Lược giảng:
Lúc bấy giờ Đại Phạm Thiên Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục cho chỉnh
tề... Quý vị đều có biết đôi chút về vị Đại Phạm Thiên Vương này. Đại
Phạm Thiên Vương có ba con mắt, tay cầm phất trần màu trắng (bạch phất), và cỡi
con trâu trắng (bạch ngưu). Ngài ngồi Thiền, ngủ nghỉ ngay trên mình trâu và
cảm thấy rất tự tại, rất thú vị; bởi Ngài nhận thấy mình được ung dung tự tại
nhất, cho nên nơi Ngài ở được gọi là Đại Tự Tại Thiên, một cảnh trời cao nhất
trong Sắc Giới Thiên.
Vậy, sau khi đứng dậy và vuốt lại vạt áo thiên y không phải khâu
may của mình cho ngay ngắn rồi, Đại Phạm Thiên Vương cung kính chắp
tay, bạch cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Lành thay, Đại Sĩ! Ngài quả
là một vị Bồ-tát vĩ đại nhất! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô
lượng Phật Hội. Tôi đã từng được tham dự vô lượng vô biên Phật Hội, số
nhiều đến không thể đếm xuể, đồng thời tôi cũng được nghe vô số Phật
Pháp và vô số môn Đà-La-Ni, vô số Tổng Trì, song chưa từng
được nghe tuyên thuyết chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đại Bi Đà-La-Ni
như thế này. Tôi chưa bao giờ được nghe thấy một chương cú thần diệu,
nhiệm mầu như Thần Chú Đại Bi này.
Chỉ mong Đại Sĩ vì tôi mà nói về hình mạo tướng trạng của Đà-La-Ni
ấy. Tôi cùng đại chúng đều ưa thích muốn nghe. Hiện nay toàn thể đại chúng chúng tôi ở trong Pháp Hội này
đều thiết tha mong được lắng nghe Đại Sĩ nói rõ về hình tướng của Chú Tổng Trì
này!”
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NHỮ VI PHƯƠNG TIỆN LỢI ÍCH NHẤT THIẾT
CHÚNG SANH CỐ, TÁC NHƯ THỊ VẤN, NHỮ KIM THIỆN THÍNH, NGÔ VI NHỮ ĐẲNG, LƯỢC
THUYẾT THIỂU NHĨ.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích
cho tất cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì
các Ông mà lược thuyết đôi điều.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Phạm Vương rằng: “Ông vì phương tiện lợi ích cho tất
cả chúng sanh nên hỏi như thế; vậy nay Ông hãy khéo lắng nghe, Ta sẽ vì các Ông
mà lược thuyết đôi điều.”
Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói với Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Vì
muốn đem lại sự lợi ích cho hết thảy chúng sanh nên Ông mới đến đây nghe Pháp
và đặt câu hỏi như thế. Vậy, Đại Phạm Thiên Vương ơi! Bây giờ Ông hãy chú ý
lắng nghe, Ta sẽ vì đại chúng các Ông mà nói sơ lược đôi chút về đạo lý này!”
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NGÔN: “ĐẠI TỪ BI TÂM THỊ, BÌNH ĐẲNG TÂM THỊ, VÔ VI TÂM THỊ,
VÔ NHIỄM TRƯỚC TÂM THỊ, KHÔNG QUÁN TÂM THỊ, CUNG KÍNH TÂM THỊ, TỲ HẠ TÂM THỊ,
VÔ TẠP LOẠN TÂM THỊ, VÔ KIẾN THỦ TÂM THỊ, VÔ THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM THỊ. ĐƯƠNG TRI
NHƯ THỊ ĐẲNG TÂM, TỨC THỊ ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, NHỮ ĐƯƠNG Y THỬ NHI TU HÀNH CHI!”
ĐẠI PHẠM VƯƠNG NGÔN: “NGÃ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, KIM THỦY THỨC THỬ
ĐÀ-LA-NI TƯỚNG MẠO, TÙNG KIM THỌ TRÌ, BẤT CẢM VONG THẤT.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát bảo: “Đó là tâm Đại Từ Bi, là tâm Bình Đẳng, là
tâm Vô Vi, là tâm Vô Nhiễm Trước, là tâm Không Quán, là tâm Cung Kính, là tâm
Tỳ Hạ, là tâm Vô Tạp Loạn, là tâm Vô Kiến Thủ, là tâm Vô Thượng Bồ Đề. Nên biết
các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy ông nên y theo đó mà
tu hành.”
Đại Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến
tướng mạo của môn Đà-La-Ni này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, chẳng dám quên
lãng.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại Phạm Thiên Vương rằng: “Ông muốn biết
Đại Bi Tâm Đà-La-Ni là gì ư? Ta nói cho Ông rõ: Đó là tâm Đại Từ Bi.”
Đại Từ Bi Tâm chính là Đại Bi Tâm Đà-La-Ni. Lòng “từ” có thể ban
vui, tâm “bi” có thể cứu khổ; do đó nếu quý vị có được lòng từ bi bao la, rộng
lớn thì đó chính là Chú Đại Bi vậy. Quý vị đã nghe rõ cả chưa? Đại Bi Tâm chính
là Đại Bi Chú, Đại Bi Chú chính là Đại Bi Tâm. Quý vị có tâm Đại Bi tức là quý
vị đang niệm Chú Đại Bi; nếu quý vị không có tâm Đại Bi tức là quý vị chưa niệm
Chú Đại Bi vậy!
Hằng ngày, cho dù từ sáng đến tối quý vị luôn lầm rầm tụng niệm:
“Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da…,” nhưng nếu quý vị không có lòng đại từ đại
bi thì đó không phải là niệm Chú Đại Bi. Trái lại, nếu quý vị chẳng hề niệm Chú
Đại Bi, song thâm tâm lúc nào cũng tồn giữ tấm lòng đại từ đại bi, thì đó chính
là quý vị đang trì niệm Chú Đại Bi vậy! Quý vị hiểu rõ cả rồi chứ? Cho nên,
song song với việc niệm Chú, quý vị cần phải nuôi dưỡng cái tâm Đại Từ Bi nữa,
như thế mới là chân chánh niệm Chú!
“Là tâm Bình Đẳng.” Chú Đại Bi là gì? Đó
là cái tâm bình đẳng, cái tâm không phân biệt. Tâm bình đẳng là một cái tâm “vô
đảng vô thiên” (không phe nhóm, chẳng thiên vị); và cái tâm ấy chính là Chú Đại
Bi.
Chúng ta không nên niệm Chú Đại Bi với lòng ích kỷ, phân biệt:
“Người này là anh em của tôi thì tôi phải gần gũi anh ta hơn. Cô kia là bạn của
tôi, thì tôi phải thân thiết với cô ta hơn. Người ấy không có quen biết gì với
tôi cả, vậy tôi nên tránh xa hắn...”; bởi như thế tức là không có tâm bình
đẳng.
“Bình đẳng” tức là đối với anh em ruột thịt cũng vậy mà không phải
là anh em ruột thịt thì cũng vậy—chúng ta xem tất cả đều như nhau, chẳng hề
phân biệt thân sơ. Đối với bạn bè, anh em, và ngay cả người dưng kẻ lạ, chúng
ta đều nên đãi ngộ ngang nhau, giống nhau. Nếu quý vị cư xử tử tế với anh em
của mình, thì đối với mọi người khác, quý vị cũng nên tử tế giống như với anh
em của quý vị vậy; như thế mới gọi là có tâm bình đẳng. Và nếu quý vị hiếu thảo
với cha mẹ, thì quý vị cũng nên xem những người tuổi tác đều như cha mẹ mình,
và cũng quan tâm, hiếu thuận với họ giống như với cha mẹ mình; đó là có tâm
bình đẳng vậy.
Nói tóm lại, tâm bình đẳng là cái tâm “vô đảng, vô thiên.” Quý vị
có tâm bình đẳng, tức là có niệm Chú Đại Bi; không có tâm bình đẳng tức là
không niệm Chú Đại Bi vậy.
“Là tâm Vô Vi.” “Vô vi” có nghĩa là không làm;
thế thì “không làm” điều gì? Đó là không làm những việc tà vạy, không khởi tà
niệm, không sanh tà tri tà kiến. Cái tâm luôn nhắc nhở quý vị chớ nên làm điều
xấu xa bại hoại, được gọi là tâm vô vi. Quý vị không làm điều xấu điều ác, tức
là quý vị đang niệm Chú Đại Bi! Nếu quý vị vừa niệm Chú Đại Bi lại vừa làm điều
sai trái, tức là quý vị không có tâm vô vi; và như thế có nghĩa là quý vị không
niệm Chú Đại Bi vậy!
“Là tâm Vô Nhiễm Trước.” Tâm vô
nhiễm trước là cái tâm sáng trong thanh tịnh, không chấp trước, không tạp niệm,
không vọng tưởng, không tà niệm, không dục niệm—nói rõ hơn, là không có các ý
tưởng dâm dục. Nếu quý vị không có lòng tham đắm sắc dục, tức là quý vị có tâm
vô nhiễm trước. Trái lại, nếu quý vị có những ý nghĩ dâm ô tà vạy, dục vọng
nặng nề, tức là trong tâm quý vị có sự nhiễm trước, bợn nhơ; mà niệm Chú Đại Bi
với cái tâm nhiễm trước thì không phải là niệm Chú Đại Bi! Cho nên, những người
hiện đang trì niệm Chú Đại Bi đều cần phải chú ý đến đoạn kinh văn này!
“Là tâm Không Quán.” Chúng ta cần phải
quán tưởng về tánh “không” của tất cả các pháp. Có “không quán,” thấy được các
pháp đều là “không,” thì quý vị sẽ không còn chấp trước gì nữa cả.
“Là tâm Cung Kính.” Quý vị nên hiền từ,
hòa nhã, có lòng cung kính đối với mọi người. Hãy xem tất cả chúng sanh đều là
Phật, và vì thế mình phải sanh tâm cung kính đối với họ.
“Là tâm Tỳ Hạ.” Tâm tỳ hạ tức là lòng khiêm
cung, nhún nhường mà kính cẩn. Chúng ta nên luôn luôn giữ lòng khiêm cung đối
với mọi người, chứ đừng sanh tâm cống cao ngã mạn.
“Là tâm Vô Tạp Loạn.” Quý vị không nên có
cuồng tâm dã tánh, không nên có cái tâm tạp loạn.
“Là tâm Vô Kiến Thủ.” Khi quý vị trông thấy
sự vật thì trong lòng liền mê chấp, sanh khởi kiến hoặc; hễ có kiến hoặc tất có
sự chấp giữ (sở thủ).
“Là tâm Vô Thượng Bồ Đề.” Quý vị phát tâm Vô
Thượng Bồ Đề, thì đó chính là Chú Đại Bi; nếu quý vị không có Đạo tâm Vô Thượng
Bồ Đề, thì không phải là niệm Chú Đại Bi vậy.
“Nên biết các thứ tâm ấy đều là tướng mạo của môn Đà-La-Ni này; vậy
Ông nên y theo đó mà tu hành.” Quán Thế Âm Bồ-tát bảo Đại
Phạm Thiên Vương rằng: “Ông phải biết rằng mười cái tâm kể trên—tâm Đại Từ Bi,
tâm Bình Đẳng, tâm Vô Vi, tâm Vô Nhiễm Trước, tâm Không Quán, tâm Cung Kính,
tâm Tỳ Hạ, tâm Vô Tạp Loạn, tâm Vô Kiến Thủ, và tâm Vô Thượng Bồ Đề—chính là
tướng mạo của Chú Đại Bi. Các Ông hãy y chiếu theo mười thứ tâm này để tu hành
và trì tụng Chú Đại Bi.”
Sau khi nghe Quán Thế Âm Bồ-tát tuyên thuyết như thế, Đại
Phạm Vương thưa rằng: “Tôi và đại chúng nay mới được biết đến tướng mạo của môn
Đà-La-Ni này. Tất cả chúng tôi trong Pháp Hội nhờ được nghe Ngài, bậc
Đại-sĩ Đại Bồ-tát, thuyết giảng nên mới nhận thức được tướng mạo của pháp môn
Tổng Trì này. Từ nay chúng tôi xin thọ trì, và phát nguyện
rằng bắt đầu từ hôm nay chúng tôi sẽ tụng trì Thần Chú Đại Bi—chương cú thần
diệu Đại Bi Tâm Đà-La-Ni—chẳng dám quên lãng!”
Vì sao ư? Vì pháp môn này đích thực là:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Một pháp môn cao siêu, vi diệu thì rất là khó tìm, khó được gặp;
thế mà nay:
Ngã đẳng kiến văn đắc thọ trì.
Bây giờ, chúng ta không chỉ may mắn được nghe, được thấy, mà còn
được thọ trì nữa! Vì thế, chúng ta phải:
Nguyện giải vô thượng chân thật nghĩa.
Vậy, mỗi người trong chúng ta cần phải phát nguyện hiểu được pháp
yếu vô thượng này, lãnh hội được diệu lý chân thật này, và vĩnh viễn không bao
giờ dám lãng quên.
Đại Phạm Thiên Vương có bản lãnh lớn lao như thế, thong dong tự tại
như thế, mà nghe được Chú Đại Bi rồi còn hứa là chẳng dám quên, huống hồ là
chúng ta? Nếu quý vị thờ ơ lãnh đạm, tùy tiện bỏ qua, không lo trì niệm, bỏ
quên Chú Đại Bi tuốt ngoài chín tầng mây, cách xa tới mười vạn tám ngàn dặm,
thì đến lúc quý vị muốn tìm lại, e rằng không dễ gì còn tìm thấy được nữa!
Kinh Văn:
QUÁN THẾ ÂM NGÔN: “NHƯỢC THIỆN NAM TỬ, THIỆN NỮ NHÂN, TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ
GIẢ, PHÁT QUẢNG ĐẠI BỒ-ĐỀ TÂM THỆ ĐỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, THÂN TRÌ TRAI GIỚI,
Ư CHƯ CHÚNG SANH KHỞI BÌNH ĐẲNG TÂM, THƯỜNG TỤNG THỬ CHÚ MẠC LỆNH ĐOẠN TUYỆT,
TRÚ Ư TỊNH THẤT, THÁO DỤC THANH TỊNH, TRƯỚC TỊNH Y PHỤC, HUYỀN PHAN NHIÊN ĐĂNG,
HƯƠNG HOA BÁCH VỊ ẨM THỰC DĨ DỤNG CÚNG DƯỜNG, CHẾ TÂM NHẤT XỨ CÁNH MẠC DỊ
DUYÊN, NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, THỊ THỜI ĐƯƠNG HỮU NHẬT QUANG BỒ-TÁT, NGUYỆT QUANG
BỒ-TÁT, DỮ VÔ LƯỢNG THẦN TIÊN, LAI VI TÁC CHỨNG ÍCH KỲ HIỆU NGHIỆM.”
Nghĩa: Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì
tụng Thần Chú này phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh, thân
trì trai giới, đối với chúng sanh khởi tâm bình đẳng, thường tụng Chú này, chớ
để gián đoạn. Lại nên ở chốn tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết,
treo phướn đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị để cúng dường,
kềm tâm một chỗ, chớ theo dị duyên, trì tụng đúng Pháp. Lúc ấy sẽ có Nhật Quang
Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng thần tiên đều đến chứng minh, làm
tăng sự hiệu nghiệm.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói: “Nếu kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào trì tụng
Thần Chú này, phải phát tâm Bồ-đề rộng lớn, thề độ tất cả chúng sanh.” Người
trì tụng Chú Đại Bi không nên có tâm lượng nhỏ hẹp, không nên có lòng ích kỷ,
không nên có lòng mưu lợi riêng tư, không nên có lòng đố kỵ, không nên có tâm
chướng ngại; mà cần phải phát huy cái tâm Bồ-đề bao la—cái tâm giác ngộ rộng
lớn—và phải phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh
đều được xa lìa khổ não, hưởng sự an vui.
Lại nữa, người ấy cần phải “thân trì trai giới,” phải
giữ chay tịnh và phải thọ trì Ngũ Giới—không sát sanh, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối, không uống rượu; đồng thời phải “đối với chúng sanh
khởi tâm bình đẳng,” xem muôn loài chúng sanh đều như nhau.
“Thường tụng Chú này, chớ để gián đoạn.” Chúng ta cần phải tụng Chú Đại Bi thật đều đặn, liên tục, không
được gián đoạn. Nếu quý vị tùy tiện chỉ tụng một chốc lát rồi nghỉ, nghỉ ngơi
chán rồi mới tụng tiếp, như thế là làm cho Chú bị gián đoạn, không được liên
tục.
“Lại nên ở chốn tịnh thất.” Lại nữa, người trì
tụng Chú Đại Bi cần phải sống ở nơi thanh tịnh, chẳng có pháp nhiễm ô; đồng
thời phải thường xuyên “tắm gội sạch sẽ, mặc y phục tinh khiết.”
Do đó, chúng ta tốt nhất là đừng mặc những y phục và giày vớ dành
cho lúc tụng Kinh lạy Phật khi vào nhà vệ sinh. Tuy rằng nhà vệ sinh cũng rất
sạch sẽ, nhưng dù sao thì đó cũng là nơi để phóng uế; cho nên đến nhà vệ sinh
thì phải cởi áo Giới và áo tràng ra, và thay giày dép khác nữa. Trước đây tôi
đã kể cho quý vị nghe rồi: Ấn Quang Lão Pháp Sư mỗi lần vào nhà vệ sinh là Ngài
đều thay quần áo và giày vớ khác; rồi khi dùng nhà vệ sinh xong thì Ngài lại
thay đồ, mặc lại y bào. Trong suốt mười tám năm sống ở núi Phổ Đà, Ngài luôn
luôn giữ nếp hành trì như thế. Người chân chánh trì giữ Giới Luật thì ngay cả
những sai trái nhỏ nhặt nhất, vi tế nhất, họ cũng không hề vi phạm. Vì thế, quý
vị cần phải nhớ kỹ: Phải cởi y bào và thay giày dép khác trước khi vào nhà vệ
sinh—tuyệt đối không được mặc Giới y và áo tràng mà vào nhà vệ sinh!
“Treo phướn, đốt đèn, dùng hương hoa cùng đồ ăn thức uống trăm vị
để cúng dường.” Kế đến, người thiện nam tín nữ đó nên treo phướn lên cao và
thắp đèn cho sáng; đồng thời sắm sửa hương thơm, các loại hoa muôn màu muôn sắc,
cùng đồ ăn thức uống đủ mùi đủ vị để cúng dường Tam Bảo.
“Kềm tâm ở một chỗ, chớ theo dị duyên.” Quý vị phải kiềm giữ cái tâm mình ở một chỗ, trong lòng không sanh
vọng tưởng, chẳng khởi tạp niệm, và cũng đừng xen vào những duyên sự khác. “Chớ
theo dị duyên” tức là không phan duyên, tâm trí không vướng mắc, không nghĩ
ngợi những sự việc khác nữa.
“Trì tụng đúng Pháp.” Nếu người thiện tín đó y
chiếu theo phương pháp và những chỉ dẫn trên đây mà tụng trì Chú Đại Bi,
thì “lúc ấy sẽ có Nhật Quang Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, cùng vô lượng
thần tiên đều đến chứng minh, làm tăng sự hiệu nghiệm.”
Nhật Quang Bồ-tát và Nguyệt Quang Bồ-tát là hai vị Bồ-tát phát
nguyện hộ trì Chú Đại Bi đắc lực nhất—hễ người nào trì niệm Chú Đại Bi thì hai
vị Bồ-tát này sẽ phù hộ, che chở người đó từng giây từng phút. Bấy giờ, ngoài
hai vị Bồ-tát Nhật Quang và Nguyệt Quang ra, còn có vô lượng vô biên thần tiên
khác cũng đến để chứng giám cho người thiện tín đó: “Ừ, có người đang trì tụng
Chú Đại Bi ở đây, vậy ta phải đến phù hộ cho người đó mới được!”; và khiến cho
những mong cầu của người tụng Chú đều được hiệu nghiệm.
“Hiệu nghiệm,” cũng gọi là “ứng nghiệm,” hoặc “linh nghiệm,” tức là đạt được sự
linh ứng thiêng liêng, mầu nhiệm.
Kinh Văn:
“NGÃ THỜI ĐƯƠNG DĨ THIÊN NHÃN CHIẾU KIẾN THIÊN THỦ HỘ TRÌ, TÙNG THỊ DĨ VÃNG SỞ
HỮU THẾ GIAN KINH THƯ TẤT NĂNG THỌ TRÌ, NHẤT THIẾT NGOẠI ĐẠO PHÁP THUẬT, PHỆ-ĐÀ
ĐIỂN TỊCH, DIỆC NĂNG THÔNG ĐẠT.
TỤNG TRÌ THỬ THẦN CHÚ GIẢ, THẾ GIAN BÁT VẠN TỨ THIÊN CHỦNG BỆNH TẤT GIAI TRỊ
CHI, VÔ BẤT SI GIẢ; DIỆC NĂNG SỬ LỆNH NHẤT THIẾT QUỶ THẦN, HÀNG CHƯ THIÊN MA,
CHẾ CHƯ NGOẠI ĐẠO.”
Nghĩa: “Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì, làm cho người
ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế gian, thông đạt tất cả điển
tịch Phệ-đà cùng pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì
có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không
khỏi; lại cũng có thể sai khiến được tất cả quỷ thần, hàng phục thiên ma, chế
phục ngoại đạo.”
Lược giảng:
“Bấy giờ, Ta dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì.” Quán Thế Âm
Bồ-tát nói tiếp: “Lúc ấy, Ta sẽ dùng một ngàn con mắt để dõi theo và duỗi một
ngàn cánh tay ra để che chở, hộ trì người tụng Chú Đại Bi đó. Chẳng những thế,
Ta còn làm cho người ấy từ đó về sau có thể thọ trì tất cả sách vở thế
gian, thông đạt tất cả điển tịch Phệ-đà —kinh điển của ngoại đạo—cùng
pháp thuật của ngoại đạo. Người nào tụng trì Thần Chú này thì có thể trị được
tám vạn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, chẳng bệnh nào không khỏi.”
Thế gian này có tới tám vạn bốn ngàn thứ bệnh mà Chú Đại Bi đều có
thể trị lành được tất cả. Bất luận là bị cancer hoặc mắc phải bệnh gì đi nữa,
nếu quý vị thành tâm thiết tha tụng niệm Chú Đại Bi thì đều được khỏi bệnh.
Những bệnh nan y, bất cứ thuốc men gì cũng không chữa trị được, thì Chú Đại Bi
đều có thể trị lành được; vì thế mà nói là “vô bất si giả” (chẳng bệnh nào
không khỏi.)
Trong câu “vô bất si giả,” chữ “si” hàm ý lành bệnh, khỏi bệnh.
Theo Hán tự, chữ “si” này nếu có thêm chữ “bệnh” đứng bên cạnh thì thành ra chữ
“sái,” có nghĩa là lành bệnh, hết bệnh. Như vậy, câu trên sẽ là “vô bất sái
giả,” và ngụ ý là chẳng có bệnh nào mà không thuyên giảm, chẳng có bệnh nào mà
không trị lành cả!
Ngoài ra, người trì tụng Chú Đại Bi “lại cũng có thể sai
khiến được tất cả quỷ thần.” “Sai khiến được tất cả quỷ thần” là thế
nào? Tức là người ấy bảo làm việc gì thì các quỷ thần liền răm rắp làm việc đó,
bảo đi đâu thì lập tức đi đấy. Chẳng những thế, người ấy còn có thể “hàng
phục thiên ma, chế phục ngoại đạo” nữa.
Kinh Văn:
NHƯỢC TẠI SƠN DÃ, TỤNG KINH TỌA THIỀN, HỮU CHƯ SƠN TINH TẠP MỊ VỌNG LƯỢNG QUỶ
THẦN, HOẠNH TƯƠNG NÃO LOẠN, TÂM BẤT AN ĐỊNH GIẢ, TỤNG THỬ CHÚ NHẤT BIẾN, THỊ
CHƯ QUỶ THẦN TẤT GIAI BỊ PHƯỢC DÃ.”
Nghĩa: “Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị,
vọng lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định, tụng
Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.”
Lược giảng:
“Nếu ở chốn sơn dã tụng Kinh tọa Thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng
lượng, quỷ thần, hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định...” Giả
sử quý vị sống ở chốn núi non vắng vẻ, không người lai vãng, mà tụng Kinh hay
ngồi Thiền, thì thường có các quỷ thần như sơn yêu thủy quái, ly mị vọng lượng
đến quấy nhiễu, tác oai tác quái, khiến cho quý vị bị loạn tâm. Bấy giờ, nghĩ
đến việc tụng Kinh thì quý vị cảm thấy rất phiền muộn, chán chường: “Tụng Kinh
để làm gì kia chứ?”; hoặc muốn ngồi Thiền nhưng vừa ngồi xuống thì vọng tưởng
lại mon men dấy lên: “Ngồi thế này thật không thoải mái chút nào. Hết đau chân
thì lại mỏi lưng mỏi cổ, ê ẩm cả người. Ui chao, thôi đứng dậy quách cho
rồi!”
Vì sao lại như thế? Đó là vì quý vị bị chúng ma tới quấy nhiễu,
chọc phá, làm cho quý vị thấy trong lòng bứt rứt xốn xang, không thể nào ngồi
yên được. Chúng lại tỉ tê dụ dỗ: “Ngồi Thiền để làm gì? Thôi, đừng tu hành nữa,
theo bọn tôi đi chơi đi, ngoài kia có nhiều trò vui chơi náo nhiệt lắm! Bạn ở
đây thì phải nào là tụng Kinh, nào là ngồi Thiền, lại còn phải tuân theo đủ các
thứ quy củ luật lệ rắc rối nữa, chẳng thú vị gì cả! Hãy mau mau nhập bọn làm
quyến thuộc với chúng tôi đi! Xem kìa, thế giới của chúng ta thật là nhộn nhịp
v.v...”
Ma Vương còn có thể xui khiến quý vị sanh khởi những vọng tưởng
như: “Nam nữ hành dâm là không thành vấn đề.” Chúng ma là những kẻ phá hoại,
chúng đến cốt để phá hoại Định tâm, phá hoại Giới tâm
và phá hoại Huệ tâm của quý vị, làm cho Giới Định Huệ của quý
vị đều tiêu tan.
Muốn tu hành theo Bồ-tát Đạo thì quý vị cần phải có mười thứ tâm;
thế nhưng hễ bị Ma Vương quấy phá thì mười thứ tâm ấy liền bị lung lay, không
thể an trụ vững vàng được nữa! Bấy giờ, tâm quý vị vốn “trụ” ở đức Tín song
nay thì tín tâm không còn nữa; mà không có tín tâm thì sẽ sanh lòng “bất
tín.”
Quý vị muốn giữ tâm trì niệm, nhớ nghĩ—muốn chuyên chú tụng Kinh,
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng—thì Ma Vương lại xui khiến quý vị trở nên ngần
ngừ do dự: “Thôi, đi ngủ một giấc cho khỏe!” Và như thế là cái lòng niệm tưởng
của quý vị cũng tiêu tan.
“Niệm tâm” không có thì lòng tinh tấn cũng chẳng còn, quý vị không
còn hăng hái tu học nữa: “Có chắc là tu hành thì sẽ thành Phật được hay không?
Biết đâu đó chỉ là chuyện hoang đường, không đáng tin?” Và thế là cái tâm tinh
tấn này cũng chẳng “trụ” được nữa.
Tâm Tinh Tấn không “trụ” thì không có tâm trí huệ—Huệ Tâm
cũng chẳng “trụ” được.
Huệ Tâm không “trụ” thì không có Định Tâm—Định Tâm cũng
chẳng “trụ” được.
Định không “trụ” thì không có Tâm Bất Thối—“bất thối
tâm” liền biến thành “thối tâm.” Hễ sanh tâm thối chuyển thì sẽ không còn lòng
hộ trì Phật Pháp; bấy giờ quý vị sẽ khởi những vọng tưởng như: “Mình cần gì
phải cúng dường Tam Bảo? Để Tam Bảo cúng dường cho mình chẳng tốt hơn ư?” Như
có những cư sĩ đòi hỏi Tam Bảo phải hộ pháp cho họ, đó cũng là điển hình của
trường hợp tâm Hộ Pháp không “trụ” vậy.
Tâm Hộ Pháp không “trụ” thì tâm hồi hướng cũng
không “trụ”—không có tâm hồi hướng.
Tâm Hồi Hướng không có thì Giới Tâm
cũng chẳng “trụ,” quý vị cũng chẳng còn chú ý thọ trì Giới Luật nữa.
Và cuối cùng là Nguyện Tâm cũng chẳng “trụ” nữa;
thế thì còn phát nguyện gì nữa? Bấy giờ quý vị sẽ nghĩ ngợi lẩn thẩn: “Tôi
không phát nguyện, không hứa hẹn điều gì cả. Tôi muốn thế nào thì cứ thế ấy, tự
do biết bao! Tội gì lập nguyện rồi chính mình lại bị ràng buộc bởi lời nguyện
đó? Như thế thì gò bó quá, mất tự do nhiều quá!” Thế là Nguyện Tâm cũng chẳng
“trụ” nữa.
Như vậy, mười “trụ tâm” biến thành mười “bất trụ tâm.” Vì sao quý
vị lại có mười “bất trụ tâm” ư? Đó là do sự phá hoại của Ma Vương! Ma Vương
chui luồn len lỏi vào mọi ngỏ ngách trong tâm quý vị, khiến tư tưởng của quý vị
có sự biến chuyển.
“Tụng Chú này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.” Nếu quý vị gặp phải tình trạng như trên, trong lòng cảm thấy
phiền não, bứt rứt rối loạn, đó là bởi Ma Vương muốn phá hoại quý vị; bấy giờ,
quý vị hãy tụng Chú Đại Bi một biến, tức thì các quỷ thần và Ma Vương sẽ bị tóm
bắt và trói gô lại.
Kinh Văn:
“NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ, Ư CHƯ CHÚNG SANH, KHỞI TỪ BI TÂM GIẢ, NGÃ THỜI
ĐƯƠNG SẮC NHẤT THIẾT THIỆN THẦN, LONG VƯƠNG, KIM CANG MẬT TÍCH, THƯỜNG TÙY VỆ
HỘ, BẤT LY KỲ TRẮC, NHƯ HỘ NHÃN TINH, NHƯ HỘ KỶ MẠNG.”
Nghĩa: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp, đối với chúng sanh khởi lòng
từ bi, thì lúc đó Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật
Tích, thường theo hộ vệ, không rời bên mình, như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ
tánh mạng của chính họ vậy.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát dạy tiếp: “Nếu người ấy có thể tụng trì đúng pháp...
” Thứ “pháp” mà Quán Thế Âm Bồ-tát nói đến ở đây là pháp gì? Đó là pháp
“Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn”—pháp môn Bốn Mươi Hai Bàn Tay! Quý vị phải biết rằng:
Hiện tại tôi giảng Kinh Đại Bi bởi vì quý vị cần phải hiểu rõ
mọi chỉ dẫn để có thể tu tập cho đúng pháp.
“Y pháp thọ trì” tức là tu tập và hành trì đúng theo những gì đã
dạy trong pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, và đó không phải chỉ tụng làu làu một mách
từ “Nam Mô Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da. Nam Mô A Lị Da...” cho đến hết bài Chú
Đại Bi là đủ. Không phải đơn thuần như thế! Cho nên, đối với pháp môn này, quý
vị cần phải được “chân truyền,” tức là phải được chính thức và thật sự truyền
dạy một cách đúng đắn thì mới được; bằng không, nếu không được chân truyền, mà
chỉ toàn là nói suông và xem kinh nghĩa thôi, thì chẳng thể nào hiểu nổi!
Vậy, nếu người trì tụng Chú Đại Bi chẳng những trì tụng đúng theo
giáo pháp mà còn có thể “đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, thì lúc đó
Ta sẽ sai bảo tất cả Thiện Thần, Long Vương, Kim Cang Mật Tích, thường theo hộ
vệ, không rời bên mình.” Ở đây, “Ta” tức là tiếng tự xưng của Quán Thế
Âm Bồ-tát; Ngài nói rằng: “Lúc bấy giờ, Ta—Quán Thế Âm Bồ-tát—sẽ ra lệnh cho
chư vị Thiện Thần, Long Vương, Hộ Pháp Kim Cang, Mật Tích Bồ-tát, phải luôn
luôn theo sát bên mình người trì tụng Chú Đại Bi ấy.” Như vậy tức là có tám vạn
bốn ngàn vị Kim Cang Tạng Bồ-tát thường xuyên sát cánh, kề cận bên mình người
đó để bảo vệ.
Do đó, những người tụng trì Đại Bi Chú, tu trì Đại Bi Pháp, cần
phải nhớ là không nên sanh dục niệm, chớ khởi những vọng tưởng về desire;
bởi chư Hộ Pháp Thiện Thần đều theo sát bên quý vị, mà nếu tâm trí quý vị cứ
lởn vởn thứ vọng tưởng đó, thì các ngài nhận thấy: “Tên này thật là tệ, chẳng
giữ gìn quy củ gì cả! Thôi, ta không muốn che chở, bảo vệ hắn nữa!”
Cho nên, quý vị tu pháp thì không được sanh vọng tưởng, không được
mơ mộng nhớ nhung cô girlfriend này hay cậu boyfriend nọ!
Nếu quý vị cứ mơ tưởng vẩn vơ như thế, Kim Cang Tạng Bồ-tát sẽ phải lấy bảo
chùy đánh cho quý vị thức tỉnh, và quý vị nếu không đau đầu thì cũng nhức mình
nhức mẩy. Cho nên, nếu quý vị bị nhức đầu hoặc cơ thể cảm thấy đau đớn khó chịu,
đó có thể là do bị Kim Cang Tạng Bồ-tát trừng phạt đấy; Ngài bảo: “Nhà ngươi
thật là tồi tệ, chẳng tuân giữ quy củ gì cả! Hư hỏng quá sức!”
Cho nên, quý vị cần phải thận trọng hơn, đừng bê bối cẩu thả
nữa—không được một mặt thì tụng Chú Đại Bi, mặt khác lại khởi tà tri tà kiến,
dấy sanh vọng tưởng! Hễ tâm quý vị vừa dấy động thì chư Bồ-tát Hộ Pháp lập tức
biết được ngay; bởi các Ngài có Ngũ Nhãn Lục Thông, có thể thấy tường tận được
con người của quý vị từ ngoài vào trong như nhìn xuyên qua lớp thủy tinh trong
suốt vậy!
Quý vị chớ tưởng rằng: “Vô lý, các Ngài làm sao biết được những ý
nghĩ thầm kín của tôi?” Nếu các Ngài không biết, thì các Ngài đã không được tôn
xưng là Phật, là Bồ-tát, là Hộ Pháp! Thế nên, quý vị chớ hoài công đánh lừa các
ngài vô ích. Quý vị không được có lòng cầu may hoặc lừng khừng: “Không sao đâu!
Chỉ là vọng tưởng trong đầu mà thôi, đâu thành vấn đề!” Quý vị phải biết, cái
vọng tưởng này vừa dấy khởi thì tâm quý vị liền trở thành tâm nhiễm ô chứ không
phải là tâm Đại Bi nữa!
“Như gìn giữ tròng mắt, như bảo hộ tánh mạng của chính họ
vậy.” Chư vị Hộ Pháp sẽ che chở bảo vệ người trì Chú Đại Bi chẳng
khác nào bảo vệ đôi mắt hoặc sanh mạng của chính các Ngài vậy.
Kinh Văn:
THUYẾT KỆ SẮC VIẾT:
“NGÃ KHIỂN MẬT TÍCH KIM CANG SĨ,
Ô SÔ QUÂN TRÀ ƯƠNG CÂU THI,
BÁT BỘ LỰC SĨ THƯỞNG CA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN MA HÊ NA LA DIÊN,
KIM TỲ LA ĐÀ CA TỲ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN BÀ CẤP TA LÂU LA,
MÃN THIỆN XA BÁT CHÂN ĐÀ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN TÁT GIÁ MA HÒA LA,
CƯU LAN ĐAN TRA BÁN CHỈ LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN TẤT BÀ GIÀ LA VƯƠNG,
ƯNG ĐỨC TỲ ĐA TÁT HÒA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”
Nghĩa:
Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng:
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,
Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi,
Bát Bộ Lực sĩ Thưởng Ca La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Ma Hê Na La Diên,
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La,
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,
Cưu Lan Đan Tra Bán Chỉ La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Tất Bà Già La Vương,
Ưng Đức Tỳ Đa Tát Hòa La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
Lược Giảng:
Lại thuyết kệ sắc lệnh rằng: ... Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ-tát nói
một bài kệ, ra lệnh cho tất cả các Thiện Thần đều phải che chở, ủng hộ người
thọ trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ,/ Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi.” Đây là tên của các vị Kim Cang Hộ Pháp. Mỗi vị Kim Cang đều có
thần lực riêng của mình. Có câu “ai có sở trường nấy”—chư vị Hộ Pháp cũng vậy,
vị nào cũng có sở trường hoặc đặc điểm của vị ấy.
Thí dụ, có vị Hộ Pháp thì phát nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng
Chú Đại Bi được một trăm lẻ tám (108) biến, thì tôi sẽ thường xuyên túc trực để
ủng hộ người đó; cho dù phải hy sinh tánh mạng, tôi cũng quyết bảo vệ người trì
Chú ấy cho bằng được!”
Trong khi đó, có vị lại nguyện rằng: “Nếu có người nào tụng được dù
chỉ một chữ hoặc một câu của Chú Đại Bi, thì tôi sẽ vĩnh viễn ủng hộ và bảo vệ
người đó!”
Cũng có vị Hộ Pháp nguyện rằng: “Nếu có người nào, đừng nói là tụng
Chú Đại Bi, cho dù chỉ nghe được danh hiệu ‘Chú Đại Bi’ thôi, thì tôi nguyện sẽ
bảo vệ và khiến cho mọi điều mong cầu của người đó đều được thành tựu, muốn gì
được nấy.”
Tuy rằng mỗi vị Kim Cang Hộ Pháp đều lập một lời thệ nguyện khác
nhau, nhưng tựu trung, tất cả đều cùng chung một mục đích—đó là gì? Đó là ủng
hộ người trì Chú Đại Bi, ủng hộ người nghe Chú Đại Bi, ủng hộ người có tín tâm
chân chánh đối với Chú Đại Bi.
Trong Kinh có nói rằng, nếu chúng ta “còn sanh chút lòng nghi, ắt
không được kết quả toại nguyện”; cho nên, nếu quý vị không có tín tâm đối với
Chú Đại Bi, thì quý vị sẽ không thể có được sự thành tựu.
Có người nói rằng: “Tôi tụng Chú rất nhiều mà sao chẳng thấy linh
nghiệm, chẳng thấy công hiệu gì cả?” Đó không phải là do Chú không công hiệu,
mà là vì quý vị thiếu đức tin, thiếu thành khẩn, đầu óc lúc nào cũng lởn vởn
những ý tưởng hoài nghi: “Tại sao không linh nghiệm? Tại sao không thấy có công
hiệu gì cả?”; vì thế mà công hiệu gì, linh nghiệm gì cũng đều không xảy ra cả!
Cho nên, nếu muốn có được sự cảm ứng chân chánh thì thâm tâm quý vị phải hoàn
toàn không còn mảy may hoài nghi.
Đúng ra, nếu tụng Chú Đại Bi mà không thấy hiệu nghiệm thì quý vị phải
hồi quang phản chiếu, tự hỏi chính mình: “Ồ! Phải chăng vì mình thiếu thành
tâm, nên mới không đạt được sự tương ưng với năng lực bất khả tư nghì của Chú?”
Quý vị không được nói rằng: “Chú Đại Bi không linh nghiệm, những điều giảng nói
trong Chú đều là hoang đường, không có thật!” Chúng ta tuyệt đối không được có
lòng hoài nghi như thế!
Quán Thế Âm Bồ-tát nói rằng: “Ta sai Mật Tích Kim Cang Sĩ.” “Sai”
tức là sai khiến, ra lệnh. Gọi là “mật tích” (hành tung bí mật, kín đáo) bởi lẽ
cho dù những vị Kim Cang Hộ Pháp này đứng ngay bên cạnh quý vị, quý vị cũng
không nhìn thấy được và cũng chẳng hề hay biết. Tất cả các vị Kim Cang Lực Sĩ
đều có sức mạnh phi thường.
“Ô Sô, Quân Trà, Ương Câu Thi” là tên của các vị Hộ Pháp phiên âm
từ tiếng Phạn và vẫn được giữ nguyên như thế trong bài Chú chứ không phiên dịch
ra, cho nên bây giờ chúng ta cũng không cần phải giải thích ý nghĩa của những
tên gọi đó. Quý vị chỉ cần nhớ rằng đó là các vị Kim Cang Hộ Pháp đến để bảo vệ
người trì tụng Chú Đại Bi, như vậy là đủ rồi! Bởi Kim Cang Tạng Bồ-tát có tới
tám vạn bốn ngàn vị, rất đông đảo chứ không phải chỉ có mấy vị trên đây mà thôi
đâu! Cho nên, những tên gọi này, nếu quý vị không hiểu thì cũng không sao!
“Bát Bộ Lực Sĩ Thưởng Ca La.” “Bát
Bộ” tức là Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, cùng tám bộ chúng. “Thưởng Ca La” là
tên của một vị Lực-sĩ thuộc Bát Bộ.
“Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Những
vị Hộ Pháp kể trên đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải luôn luôn bảo
vệ, trợ giúp những người trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Ma Hê Na La Diên.” “Ma Hê
Na La Diên” chính là thiên chúng của cõi trời Ma Hê Thủ La. “Na La Diên” có nơi
dịch là “đại mãng xà”; tuy nhiên, bất kể đó là ai, nói chung thì tất cả đều
cùng một mục đích là hộ Pháp mà thôi.
Quán Thế Âm Bồ-tát cũng phái Ma Hê Na La Diên, cùng với các vị Hộ
Pháp như “Kim Tỳ La Đà, Ca Tỳ La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Ta sai Bà Cấp, Ta Lâu La.” Quán
Thế Âm Bồ-tát lại nói tiếp: “Không phải chỉ có các Kim Cang Lực-sĩ nói trên mà
thôi đâu, Ta còn ban sắc lệnh, khiến các Kim Cang Lực-sĩ, Thiện Thần Hộ Pháp là
Bà Cấp, Ta Lâu La, Mãn Thiện, Xa Bát, Chân Đà La,/ Thường theo ủng hộ
kẻ thọ trì. Họ sẽ luôn luôn kề cận để bảo vệ và giúp đỡ những người
trì Chú Đại Bi.”
“Ta sai Tát Giá Ma Hòa La,/ Cưu Lan, Đan Tra, Bán Chỉ La,/ Thường
theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Đan Tra” chính là vị “Ca Tra”
được nhắc đến ở câu “Ca Tra Bổ Đan Na” trong Chú Lăng Nghiêm. Tất cả những vị
Hộ Pháp này đều được lệnh của Quán Thế Âm Bồ-tát là phải theo dõi để bảo vệ kẻ
trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Tất Bà, Già La Vương,/ Ưng Đức, Tỳ Đa Tát Hòa La,/ Thường
theo ủng hộ kẻ thọ trì,.” Đây là tên của các vị quỷ vương
hoặc thần vương. Các vị này cũng được lệnh phải thường xuyên kề cận để che chở
cho những kẻ thọ trì, tụng niệm Chú Đại Bi.
Kinh Văn:
“NGÃ KHIỂN PHẠM MA TAM BÁT LA,
NGŨ BỘ TỊNH CƯ DIÊM MA LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN THÍCH VƯƠNG TAM THẬP TAM,
ĐẠI BIỆN CÔNG ĐỨC BÀ ĐÁT NA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN ĐỀ ĐẦU LẠI TRA VƯƠNG,
THẦN MẪU NỮ ĐẲNG ĐẠI LỰC CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
Nghĩa:
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Lược Giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Phạm Ma Tam Bát La,/ Ngũ Bộ Tịnh
Cư Diêm Ma La,/ Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Phạm Ma Tam Bát La” là tên của một vị Hộ Pháp ở cõi trời; còn
“Diêm Ma La” là tên của vị Hộ Pháp thuộc Ngũ Bộ ở cung trời Tịnh Cư. Các vị Hộ
Pháp này được lệnh phải luôn luôn theo bảo vệ kẻ tụng trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam,/ Đại Biện Công Đức Bà Đát Na,/
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Thích Vương” tức là vua Đế Thích, Thiên Chủ của cõi trời Ba Mươi
Ba.
“Đại Biện Công Đức Bà Đát Na” tức là vị Hộ Pháp có tài biện luận và
công đức rộng lớn tên Bà Đát Na.
Tất cả những vị Hộ Pháp này đều được Quán Thế Âm Bồ-tát phái đi phù
hộ những người thành tâm trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,/ Cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
“Đề Đầu Lại Tra Vương” là một trong bốn vị Tứ Đại Thiên Vương.
“Thần Mẫu Nữ” tức là “Quỷ Tử Mẫu” (mẹ của những quỷ con), thống
lãnh bộ chúng Đại Lực—các quỷ thần thuộc hạ của bà đều có sức mạnh phi thường,
riêng bản thân bà thì không.
Vì sao gọi là “Quỷ Tử Mẫu”? Ban đầu, đáng lẽ bà có thể được gọi là
“Thần Tử Mẫu,” nhưng vì bà có hành vi giống như loài quỷ—cứ đi bắt cóc con của
người ta để ăn thịt—nên mới bị gọi là “Quỷ Tử Mẫu.” Nhà nào có trẻ sơ sinh là
Quỷ Tử Mẫu liền tới bắt về ăn; cả trẻ con chừng hai, ba tuổi cũng bị bà bắt ăn
thịt nữa. Bà Quỷ Tử Mẫu có một ngàn (1.000) đứa con trai; những đứa con nít mà
bà đi khắp nơi để lùng bắt và mang về không phải chỉ một mình bà mà cả bầy quỷ
con cùng xúm lại chia nhau ăn.
Một hôm, chư Hộ Pháp Thiện Thần thấy hành vi của Quỷ Tử Mẫu càng
ngày càng quá đáng và không đúng với giáo pháp, bèn quyết định đến bạch với Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni: “Bạch Đức Thế Tôn! Hiện nay trẻ con ở thế gian bị Quỷ Tử
Mẫu bắt ăn thịt gần hết, chỉ còn lại một số rất ít! Nhân loại ở thế gian sắp bị
tuyệt chủng tới nơi rồi; vậy chúng con phải làm gì bây giờ?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo: “Không sao, việc này không phải là
một vấn đề to tát lắm! Ta đã có cách giải quyết rồi!” Và thế là Đức Phật phái
Mật Tích Kim Cang đi bắt đứa nhỏ nhất trong bầy quỷ con một ngàn đứa của Quỷ Tử
Mẫu về và đem bỏ vào trong bình bát của Phật. Đức Phật lật úp cái bát lại,
khiến đứa nhỏ bị nhốt trong bát, không thoát ra được.
Chú quỷ con bị nhốt một mình trong bát thì sợ hãi khóc òa, Quỷ Tử Mẫu nghe
tiếng khóc liền nhận ra đó là tiếng đứa con út của mình, bèn ra lệnh cho chín
trăm chín mươi chín (999) đứa con còn lại đến hè nhau nhấc cái bát lên cho chú
quỷ út chạy ra, nhưng không thể nào nhấc lên nổi. Thấy thế, Quỷ Tử Mẫu bèn dùng
sức thần thông để lật ngửa cái bát lên, song cái bát vẫn chẳng chịu nhúc nhích.
Ban đầu Quỷ Tử Mẫu chỉ nghĩ là lén cướp lại đứa con mà thôi, nhưng
bây giờ thấy cướp không được thì chỉ còn cách tới hỏi thẳng Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni: “Tại sao Ngài lại bắt cóc con tôi và nhốt nó dưới bình bát của Ngài như
thế? Chao ôi! Nó khóc lóc thảm thiết thế kia mà Ngài chẳng động chút lòng từ bi
nào cả ư?”
Quý vị xem, bà Quỷ Tử Mẫu này dám chỉ trích người khác là không có
lòng từ bi; thế còn bà ăn thịt con của người ta thì thử hỏi bản thân bà có được
chút lòng từ bi nào chăng?
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới từ tốn hỏi lại: “À! Ngươi có
đông con thế kia thì mất đi một đứa cũng chẳng hề chi! Ngươi có tới một ngàn
đứa con lận, nếu bớt đi một đứa bé này thì có sao đâu?”
Quỷ Tử Mẫu đáp: “Không được! Tôi thì một đứa cũng không thể thiếu
được!”
Đức Phật ôn tồn hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta, thế thì ngươi
có lòng từ bi chăng?”
Quỷ Tử Mẫu phân trần: “Tôi nào muốn như thế đâu! Ngài cho rằng tôi
thích ăn thịt con nít lắm sao? Nếu không ăn thì cái thân già nua này chịu đói
không nổi! Bởi thịt trẻ con thì mềm mại, thơm ngon vô cùng, mà răng của tôi thì
cũng không còn tốt cho lắm, cho nên tôi mới phải ăn thịt của chúng đấy thôi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại hỏi: “Ngươi ăn thịt con của người ta
thì được, còn Ta mới bắt một đứa con út của ngươi thôi mà ngươi đã đau khổ,
cuống quýt đến thế kia! Vậy thì ngươi nghĩ tâm trạng của những kẻ làm cha làm
mẹ trong thiên hạ mà bị mất con là như thế nào?”
Quỷ Tử Mẫu vẫn bướng bỉnh: “Tôi đâu cần phải bận tâm về họ nhiều
như thế! Tôi chỉ lo ăn cho no bụng mình là đủ rồi!”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nghiêm giọng phán: “Thế ư? Nếu thế thì Ta cũng chẳng
bận tâm về chuyện của ngươi nữa! Ta chẳng cần biết là ngươi có bị mất con hay
không! Ngươi có bản lãnh thì cứ đem nó về đi!”
Quỷ Tử Mẫu nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói như thế thì lại tìm
cách lật bát, nhưng không tài nào lật lên được. Chẳng còn cách nào khác, Quỷ Tử
Mẫu bèn đến quỳ trước mặt Đức Phật mà khóc lóc năn nỉ, thỉnh cầu Ngài mở lòng
từ bi mà thả con bà ra.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Được! Ngươi muốn Ta trả đứa con lại
cho ngươi, thì cũng được thôi! Ta không ăn thịt con của ngươi đâu, bởi vì Ta
không giống như ngươi—Ta chỉ ăn chay, cho nên, đừng nói là thịt người lớn hay
con nít, bất cứ loại thịt nào Ta cũng không ăn cả!”
Quỷ Tử Mẫu nghe nói như thế thì tự nghĩ: “Ồ! Thì ra người này không
ăn thịt!”; và thắc mắc: “Thế thì Ngài làm sao sống được?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đáp: “Ta đi hóa duyên các nơi, xin thức ăn
chay.”
Quỷ Tử Mẫu nói: “Thế nhưng tôi biết đi đâu để hóa duyên? Ngài là
Phật nên có thể đi hóa duyên; còn tôi thì đâu làm như thế được. Tôi nào phải là
người xuất gia!”
Đức Phật nói: “Thôi được! Nếu từ rày về sau ngươi sẵn sàng không ăn
thịt trẻ con nữa, thì Ta sẽ bảo các đệ tử của Ta mang thức ăn chay bố thí cho
ngươi—miễn sao ngươi không ăn thịt trẻ con nữa là được.”
Quỷ Tử Mẫu hớn hở thưa: “Nếu tôi có thức ăn đầy đủ thì đương nhiên
là tôi khỏi ăn thịt trẻ con cũng được.”
Thế là, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thả chú quỷ con ra và trả lại cho
Quỷ Tử Mẫu. Do nhân duyên này mà những người xuất gia khi thọ trai đều có lệ
“thí thực.” “Thí” là bố thí, ban phát; “thực” là phạn thực, cơm ăn. Lúc thí
thực, quý Thầy, Cô dành ra một ít thức ăn và xướng rằng:
Đại bàng kim xí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La-sát Quỷ Tử Mẫu,
Cam-lồ tất sung mãn.
(Chim đại bàng cánh vàng,
Quỷ thần nơi khoáng dã,
Mẹ con quỷ La-sát,
Đầy đủ nước cam-lồ.)
Rồi họ tụng một bài Chú và mấy mẹ con của bà Quỷ Tử Mẫu thảy đều có
được thức ăn no đủ, không còn bị đói khát và do đó không phải ăn thịt con nít
nữa.
Cho nên, chúng ta nhờ không bị Quỷ Tử Mẫu ăn thịt nên bây giờ mới
còn sống và lớn lên cao ráo, khỏe mạnh, lại có được cơ hội học hành, làm việc.
Nếu không nhờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa được Quỷ Tử Mẫu, thì e rằng
nhân loại trên thế giới sẽ không được đông đúc như hiện nay. Ngoài ra, từ đó Quỷ
Tử Mẫu chẳng những không ăn thịt con nít mà còn trở thành kẻ hộ Pháp đắc lực
cho Phật Giáo nữa.
Vậy, khi có người chuyên tâm và theo đúng như giáo pháp mà trì tụng
Chú Đại Bi, thì Quán Thế Âm Bồ-tát gọi Quỷ Tử Mẫu và bảo rằng: “Này Quỷ Tử Mẫu,
đã đến lúc ngươi có thể tạo đôi chút công đức rồi đó. Có người đang thọ trì Chú
Đại Bi này của Ta, vậy ngươi hãy mau mau đi bảo vệ người ấy.” Thế là Quỷ Tử Mẫu
liền thống lãnh một ngàn đứa con trai lực lưỡng, khỏe mạnh, cùng nhau đi hộ
Pháp, cho nên nói là “cả Thần Mẫu Nữ, chúng Đại Lực,/ thường theo ủng hộ kẻ thọ
trì.”
Kinh Văn:
“NGÃ KHIỂN TỲ LÂU LẶC XOA VƯƠNG,
TỲ LÂU BÁC XOA TỲ SA MÔN.
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN KIM SẮC KHỔNG TƯỚC VƯƠNG,
NHỊ THẬP BÁT BỘ ĐẠI TIÊN CHÚNG,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN MA-NI BẠT ĐÀ LA,
TÁN CHI ĐẠI TƯỚNG PHẤT LA BÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN NAN ĐÀ, BẠT NAN ĐÀ,
BÀ GIÀ LA LONG Y BÁT LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN TU LA, CÀN THÁT BÀ,
CA LÂU, KHẨN NA, MA HẦU LA,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.
NGÃ KHIỂN THỦY HỎA LÔI ĐIỆN THẦN,
CƯU BÀN TRÀ VƯƠNG, TỲ XÁ XÀ,
THƯỜNG ĐƯƠNG ỦNG HỘ THỌ TRÌ GIẢ.”
Nghĩa:
“Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương,
Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương,
Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La,
Tán Chi Đại Tướng, Phất La Bà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà,
Bà Già La Long, Y Bát La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.
Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần,
Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác
Xoa Tỳ Sa Môn, Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” Đây đều là tên của các
vị Hộ Pháp Thần Vương của Tứ Đại Thiên Vương. Các vị này từng giây từng khắc
theo bảo vệ người trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại Tiên chúng,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Khổng Tước Vương” chính là
Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng). “Hai mươi tám bộ Đại Tiên
chúng” tức là “nhị thập bát tú”—hai mươi tám vì tinh tú. Lúc giảng Kinh
Lăng Nghiêm tôi đã giảng cho quý vị nghe cả rồi.
“Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, Thường theo
ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái Ma Ni Bạt
Đà La cùng Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà, vốn là những vị Kim Cang Hộ Pháp, đến
ủng hộ người trì Chú Đại Bi.
“Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Già La Long, Y Bát La, Thường theo
ủng hộ kẻ thọ trì.” Nan Đà và Bạt Nan Đà đều là những vị
Long Vương; còn Bà Già La Long và Y Bát La là Hộ Pháp của Long Vương.
“Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, Thường theo
ủng hộ kẻ thọ trì.” Quán Thế Âm Bồ tát lại phái A Tu La
cùng với Nhạc Thần Càn Thát Bà của Ngọc Đế, và luôn cả Ca Lâu Na, Khẩn Na La,
Ma Hầu La thuộc Thiên Long Bát Bộ, tất cả phải thường xuyên theo phù hộ người
trì tụng Chú Đại Bi.
“Ta sai Thủy, Hỏa, Lôi, Điển Thần, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà,
Thường theo ủng hộ kẻ thọ trì.” “Thủy, hỏa, lôi điển
thần” tức là thủy thần (thần nước), hỏa thần (thần lửa), lôi thần (thần sấm) và
điển thần (thần sét). Cưu Bàn Trà và Tỳ Xá Xà vốn là quỷ, nay đều biến thành kẻ
hộ pháp và cùng nhau bảo vệ người trì Chú. Cho nên, quý vị chỉ cần niệm Chú Đại
Bi thì ngay cả ma cũng đến hộ pháp cho quý vị.
Kinh Văn:
“THỊ CHƯ THIỆN THẦN, CẬP THẦN LONG VƯƠNG, THẦN MẪU NỮ ĐẲNG, CÁC HỮU NGŨ BÁCH
QUYẾN THUỘC ĐẠI LỰC DẠ XOA, THƯỜNG TÙY ỦNG HỘ TỤNG TRÌ ĐẠI BI THẦN CHÚ GIẢ.”
Nghĩa: “Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có
năm trăm Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người trì tụng Thần
Chú Đại Bi.”
Lược giảng:
“Các vị thiện thần cùng thần Long Vương, thần Mẫu Nữ này, mỗi vị có năm trăm
Đại Lực Dạ-xoa làm quyến thuộc.” Tất cả các vị thiện thần hộ Pháp kể
trên—Thiên Long Bát Bộ, Tứ Thiên Vương, cùng hết thảy long chúng, quỷ chúng,
thần chúng, và hết thảy Kim Cang Lực Sĩ, thần Long Vương, thần Mẫu Nữ, ...—mỗi
một vị đều có năm trăm quyến thuộc. Những quyến thuộc ấy toàn là quỷ Đại Lực Dạ
Xoa và tất cả đều “thường theo ủng hộ người trì tụng Thần Chú Đại Bi.”
Kinh Văn:
“KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI KHÔNG SƠN KHOÁNG DÃ, ĐỘC TÚC CÔ MIÊN, THỊ CHƯ THIỆN THẦN,
PHIÊN ĐẠI TÚC VỆ, TÍCH TRỪ TAI CHƯỚNG.
NHƯỢC TẠI THÂM SƠN, MÊ THẤT ĐẠO LỘ, TỤNG THỬ CHÚ CỐ, THIỆN THẦN LONG VƯƠNG, HÓA
TÁC THIỆN NHÂN THỊ KỲ CHÁNH ĐẠO.
NHƯỢC TẠI SƠN LÂM KHOÁNG DÃ, PHẠT THIỂU THỦY HỎA, LONG VƯƠNG HỘ CỐ, HÓA XUẤT
THỦY HỎA.”
Nghĩa: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã ngủ nghỉ một mình, các thiện
thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ, ngăn trừ tai chướng; nếu ở nơi thâm sơn
quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện
nhân chỉ đúng đường về; nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long
Vương vì ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Người đó, nếu ở nơi không sơn khoáng dã
ngủ nghỉ một mình...” “Không sơn” tức là nơi vắng vẻ, không có người
ở. “Khoáng dã” là nơi rất hoang vu, rất ít người lai vãng. Như vậy, giả sử
người trì Chú Đại Bi đó sống đơn độc một mình ở chốn núi rừng hoang vắng để tu
hành, thì “các thiện thần này sẽ thay phiên túc trực bảo vệ.”
“Thay phiên (phiên đại)” tức là luân phiên, lần lượt thay phiên nhau. Chẳng hạn
vị thiện thần này tức trực bảo vệ trong hai tiếng đồng hồ, sau đó có vị khác
đến thay thế; vị mới đến này canh gác được hai tiếng đồng hồ thì lại có một vị
khác nữa đến gác thay. Hoặc là, vị rồng này đến túc trực bảo vệ được hai giờ
đồng hồ thì có vị thần đến bảo: “Hết phiên của ngài rồi, ngài hãy về nghỉ đi.
Bây giờ đến lượt tôi bảo vệ người này!” Rồi hai tiếng đồng hồ sau thì có thể là
đứa con trai lớn của Quỷ Tử Mẫu xuất hiện và nói: “Hết phiên trực của ngài rồi
đấy, chắc ngài cũng tired lắm rồi. Ngài hãy về nghỉ ngơi đi,
tôi sẽ ở đây tiếp tục bảo vệ người này!” Đó gọi là “phiên đại túc vệ,” tức là
thay phiên nhau túc trực để sẵn sàng bảo vệ người trì Chú Đại Bi.
“Ngăn trừ tai chướng.” Người trì Chú Đại Bi đó nếu
có tai nạn gì thì đều được tiêu trừ, tai qua nạn khỏi, bình an vô sự; nếu có
chướng ngại gì thì cũng được hóa giải, không thể xảy ra.
“Nếu ở nơi thâm sơn mà quên đường lạc lối, tụng trì Chú này, thiện
thần, Long Vương sẽ hóa làm thiện nhân chỉ đúng đường về.” Giả sử quý vị đi vào sâu trong núi và bị lạc đường, mất phương
hướng, không phân biệt được đông tây nam bắc là đâu với đâu; lại thêm cây cối
um tùm rậm rạp che khuất ánh sáng mặt trời, khiến cho quý vị càng thêm hoang
mang bối rối, không biết phải theo hướng nào mà đi cho đúng. Bấy giờ, nếu quý
vị có thể tụng niệm Chú Đại Bi thì chư thiện thần cùng Long Vương sẽ biến thành
người để chỉ đường cho quý vị: “Hãy đi về phía này!” và dẫn đường cho quý vị.
“Nếu ở nơi núi rừng khoáng dã, thiếu thốn nước lửa, Long Vương vì
ủng hộ sẽ biến hóa ra nước lửa.” Giả sử người trì tụng
Chú Đại Bi phải ở chốn thâm sơn cùng cốc, hoang vu vắng vẻ, chịu thiếu thốn mọi
bề, hoàn toàn không có nước và cũng chẳng có lửa, thì Long Vương vì muốn bảo vệ
và giúp đỡ người đó, sẽ biến hóa ra nước và lửa cho người đó dùng.
Bây giờ tôi tổng hợp bài Chú Đại Bi, tóm tắt ý nghĩa toàn bài bằng
bốn câu kệ như sau:
Đại Bi Đại Chú thông địa thiên,
Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan,
Đại bi đại từ năng khử bệnh,
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.
(Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất,
Ngàn ngày trăm biến, mười vua vui,
Đại từ đại bi trừ bệnh tật,
Gương nghiệt soi tới, biển treo cao!)
“Đại Bi Đại Chú thông địa thiên” (Đại Chú Đại Bi xuyên trời đất). Ở
đây có Đại Chú đại từ đại bi, vốn là “Chú trung chi vương” (vua trong các loại
Chú), thông thiên triệt địa, suốt trời thấu đất. Một khi quý vị niệm Chú Đại Bi
thì các vị thần ở cõi trời đều kính cẩn đến lắng nghe. Cả các loài quỷ cũng
vậy, ai nấy đều cung kính chắp tay và quỳ xuống yên lặng lắng nghe quý vị tụng
Chú Đại Bi. Vì sao Chú Đại Bi có công năng hàng phục thiên ma, chế ngự ngoại
đạo? Bởi vì bè lũ thiên ma ngoại đạo hễ nghe tới Chú Đại Bi thì chẳng khác nào
nhận được hiệu lệnh, tất cả đều phải răm rắp y theo mệnh lệnh mà thi hành.
“Nhất bách nhất thiên Thập Vương hoan” (ngàn ngày trăm biến, mười vua vui). Một ngàn ngày tức là ba
năm. Nếu quý vị mỗi ngày có thể tụng Chú Đại Bi đủ một trăm lẻ tám (108) biến,
và cứ đều đặn tụng niệm như thế trong ba năm—hoặc là mỗi ngày tụng một ngàn
biến và tụng suốt ba năm thì càng tốt hơn nữa—thì Thập Điện Diêm Quân (mười vua
Diêm La cai quản mười điện) ở địa ngục sẽ sanh lòng hoan hỷ, và bảo rằng: “Hay
lắm! Người này đang tu Chú Đại Bi!” Nếu có thể tu pháp Đại Bi, niệm Chú Đại Bi
một trăm lẻ tám biến, đồng thời lại có thể tu pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn nữa,
thì sẽ được rất nhiều lợi ích, công hiệu gấp bội,
“Đại bi đại từ năng khử bệnh” (đại từ đại bi trừ bệnh tật). Như tôi đã nói ở phần trước, trên thế
gian này có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh, nếu quý vị thành tâm trì niệm Chú Đại Bi
thì đều trị lành được cả.
“Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền” (gương nghiệt soi tới, biển treo cao). Trong địa ngục, ở chỗ của
Thập Điện Diêm Quân có một đài gương, trên đó đặt một tấm gương soi, gọi là
“nghiệt kính đài” (đài gương soi tội). Vì sao gọi là “nghiệt kính đài”? Khi đọa
địa ngục, nhìn vào gương soi tội này thì quý vị sẽ thấy hiện lên tất cả những
tội nghiệt mà mình đã gây tạo lúc còn sống. Mọi hành vi, việc làm của quý vị
đều hiện ra trong gương—rõ ràng từng cảnh mục, từng chi tiết, chẳng khác nào trên
màn ảnh xi-nê vậy. Chẳng hạn trước kia quý vị đã từng giết người, thì trong
gương sẽ hiện rõ cảnh giết chóc đó. Quý vị hoặc là đã từng ăn trộm ăn cướp, làm
điều bất chánh, ăn gian nói dối, rượu chè cờ bạc... nhất nhất mọi hành vi của
quý vị trước đây đều hiện ra đầy đủ trong tấm “nghiệt kính,” chẳng sót điều gì.
Nếu quý vị là người trì tụng Chú Đại Bi thì khi dùng nghiệt kính để
soi sẽ không thấy hiện lên gì cả, bởi mọi tội nghiệt mà quý vị gây ra đều đã
tiêu tan, không còn nữa. Bấy giờ, trong địa ngục sẽ treo cho quý vị một tấm
biển, trên đó có viết rằng: “Tất cả quỷ thần đều phải cung kính, tôn trọng
người này. Đây là một người thọ trì Chú Đại Bi.” Và đó là ý nghĩa của câu
“nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền.”
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
5
KINH VĂN:
Âm:
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỤC VỊ TỤNG TRÌ GIẢ, THUYẾT TIÊU TRỪ TAI HỌA
THANH LƯƠNG CHI KỆ:
“NHƯỢC HÀNH KHOÁNG DÃ SƠN TRẠCH TRUNG,
PHÙNG TRỊ HỔ LANG CHƯ ÁC THÚ,
XÀ, NGOAN, TINH, MỊ, VỌNG LƯỢNG QUỶ,
VĂN TỤNG THỬ CHÚ MẠC NĂNG HẠI.”
Nghĩa:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì kẻ tụng trì mà tuyên thuyết bài kệ Thanh
Lương tiêu trừ tai họa rằng:
“Nếu vào chốn núi hồ hoang vắng,
Gặp những cọp, sói, các thú dữ,
Rắn, rít, tinh, mị, quỷ vọng lượng…,
Nghe tụng Chú này chẳng dám hại.”
LƯỢC GIẢNG:
Quán Thế Âm Bồ-tát lại vì kẻ tụng trì mà tuyên thuyết bài kệ Thanh
Lương tiêu trừ tai họa rằng ... Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm
Bồ-tát lại vì những người trì tụng Chú Đại Bi mà nói bài kệ tụng về việc tiêu
trừ mọi tai chướng, đạt được sự thanh lương, thảnh thơi, thanh thản.
“Nếu vào chốn núi hồ hoang vắng.” “Khoáng
dã” là nơi rất hoang vu vắng vẻ, cách cả mấy trăm dặm, mấy ngàn dặm không có
người ở. Giả sử có người tụng trì Chú Đại Bi mà phải đi trong chốn núi rừng
hoang vu, hoặc trong đầm lầy, hoặc ở sa mạc, thì người ấy có thể “gặp
những cọp, sói, các thú dữ,/ Rắn, rít, tinh, mị, quỷ vọng lượng….” Người
ấy có thể gặp phải loài cọp dữ hoặc chó sói vô cùng hung hãn, hoặc vô số loài
ác thú, ác điểu khác. Ngoài ra, cũng có thể phải đương đầu với loài rắn đen,
hoặc yêu tinh và các loài quỷ lị mị, vọng lượng nữa.
“Nghe tụng Chú này chẳng dám hại.” Tuy nhiên, nếu nghe thấy quý vị tụng Chú Đại Bi thì chúng chẳng thể
nào đến làm hại quý vị được, không có cách nào làm phiền hoặc gây trở ngại cho
quý vị được.
KINH VĂN:
Âm:
“NHƯỢC HÀNH GIANG HỒ THƯƠNG HẢI GIAN,
ĐỘC XÀ, GIAO LONG, MA KIỆT THÚ,
DẠ XOA, LA SÁT, NGƯ, QUY, MIẾT,
VĂN TỤNG THỬ CHÚ TỰ TÀNG ẨN.”
Nghĩa:
“Nếu đi biển cả hoặc sông hồ,
Rắn độc, giao long, loài Ma kiệt,
Dạ xoa, La sát, cá, rùa, trạnh,
Nghe tụng Chú này tự lẩn trốn.”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu đi biển cả hoặc sông hồ.” “Thương hải” (biển xanh) tức là “đại hải,” biển cả. Giả sử quý vị
phải đi qua con sông lớn, ao hồ lớn hoặc biển lớn, và những nơi đó thường có
các loài “rắn độc, giao long, loài Ma kiệt,/ Dạ xoa, La sát, cá, rùa,
trạnh” cư ngụ. “Giao long” là một loại rồng độc.
“Ma kiệt” là một loại đại quái thú sống ở dưới nước hoặc trên lục
đia. Lại còn có thể có quỷ Dạ xoa, quỷ La sát, đại ngư tinh, đại điểu quy tinh,
miết tinh
“Nghe tụng Chú này tự lẩn trốn.” Nếu quý vị niệm Chú Đại Bi thì những quái vật đó sẽ không làm hại
quý vị, mà đều chạy trốn mất biệt, chẳng còn tác oai tác quái nữa!
KINH VĂN:
Âm:
“NHƯỢC PHÙNG QUÂN TRẬN TẶC VI NHIỄU,
HOẶC BỊ ÁC NHÂN ĐOẠT TÀI BẢO,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
BỈ KHỞI TỪ TÂM PHỤC ĐẠO QUY.”
Nghĩa:
“Nếu gặp quân trận giặc bao vây,
Hoặc bị người ác đoạt tiền của,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Họ phát từ tâm, tự quay về.”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu gặp quân trận giặc bao vây.” Giả
sử đất nước gặp cảnh chiến tranh, quý vị phải xông pha trước quân trận cùng
giao chiến với địch quân; hoặc bị bọn thổ phỉ bao vây, muốn sát hại quý
vị; “hoặc bị người ác đoạt tiền của,” hoặc gặp bọn người bất
lương, cướp đoạt tiền bạc tài sản của quý vị.
Trong hoàn cảnh đó, quý vị hãy “chí thành xưng tụng Chú Đại
Bi.” Thế nào gọi là “chí thành”? Đó là chuyên tâm nhất ý, thiết tha
thành khẩn, không có vọng tưởng nào khác.
“Họ phát từ tâm, tự quay về.” “Họ”
tức là bọn thổ phỉ, những tên đạo tặc. Kẻ đạo tặc vốn không có lòng từ bi, mà
chỉ có tánh “Tu la”; nhưng nhờ “cảm ứng đạo giao” do quý vị niệm Chú Đại Bi,
cho nên mặc dù là người không có từ bi tâm, cũng phải sanh lòng từ bi, không
muốn cướp đoạt của cải nữa, mà tự động rút lui, trở về. Họ đến từ nơi nào thì
trở về lại nơi đó.
KINH VĂN:
Âm:
“NHƯỢC VI VƯƠNG QUAN THÂU LỤC THÂN,
LINH NGỮ CẤM BẾ NỮU GIÀ TỎA,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
QUAN TỰ KHAI ÂN THÍCH PHÓNG HOÀN.”
Nghĩa:
“Nếu bị lệnh vua quan bắt bớ,
Giam cầm, xiềng xích, lại gông cùm,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Quan tự khai ân phóng thích về.”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu bị lệnh vua quan bắt bớ,/ Giam cầm, xiềng xích, lại gông
cùm.” Nếu quý vị có phạm pháp hoặc không phạm pháp mà bị chính phủ
bắt giam vào tù. “Linh ngữ” tức là nhà tù. “Cấm bế” có nghĩa là bị nhốt, bị
giam giữ trong ngục, tù túng, không còn được tự do nữa. “Nữu” là còng tay, xích
chân. “Già tỏa” là gông đầu và xiềng xích. Lại còn buộc quý vị phải đeo còng
nơi tay, cùm nơi chân, cổ bị đóng gông đeo xiềng.
“Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,/ Quan tự khai ân phóng thích
về.” Gặp cảnh ngộ như thế, quý vị thành tâm khẩn thiết tụng niệm
Chú Đại Bi Đà La Ni, thì quan sẽ khai ân. “Khai ân” tức là ân xá, tha thứ, nhận
thấy rằng quý vị vô tội, bèn phóng thích, cho quý vị trở về nhà.
KINH VĂN:
Âm:
“NHƯỢC NHẬP DÃ ĐẠO CỔ ĐỘC GIA,
ẨM THỰC HỮU DƯỢC DỤC TƯƠNG HẠI,
CHÍ THÀNH XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
ĐỘC DƯỢC BIẾN THÀNH CAM LỒ TƯƠNG.”
Nghĩa:
“Vào nhà ngoại đạo dùng tà thuật,
Ở thức uống, ăn có yếm độc,
Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi,
Thuốc độc biến thành nước Cam Lồ.”
LƯỢC GIẢNG:
Vào nhà ngoại đạo dùng tà thuật ( nguyên văn câu Hán Việt: “Nhược nhập dã đạo, cổ độc gia.”), “Dã
đạo” tức là bàng môn tả đạo, bởi vì họ không giữ chánh quy nên gọi là “dã đạo.”
“Cổ,” ở Trung Hoa gọi là “lạc cáng đầu” [luò gàng tóu], có một loại “cổ thuật”
là cho người ta uống ly nước trà, uống vào thì bị trúng “cổ”; hoặc cho một chút
thức ăn, ăn vào cũng trúng “cổ”; hoặc là để một món đồ gì đó ngoài đường, quý
vị nhặt lên thì liền bị trúng độc. Bà Ma Đăng Già (phái ngoại đạo Hoàng Phát)
đã dùng chú Tiên Phạm Thiên, đều gọi là “cổ độc.” Đây đều gọi là “cổ độc gia.”
“Ở thức uống, ăn có yếm độc.” Hoặc
là trong thức ăn, họ trộn “cổ độc” vào để ám hại quý vị.
“Chí thành xưng tụng Chú Đại Bi.” Lúc bấy giờ, nếu quý vị chí thành xưng tụng Thần Chú Đại Bi Đà La
Ni, thì “thuốc độc biến thành nước Cam Lồ.” Tuy là “cổ độc,” cũng sẽ biến thành
mùi vị cam lồ!
KINH VĂN:
Âm:
“NỮ NHÂN LÂM NẠN SANH SẢN THỜI,
TÀ MA GIÀ CHƯỚNG KHỔ NAN NHẪN,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
QUỶ THẦN THOÁI TÁN AN LẠC SANH.”
Nghĩa:
“Phụ nữ lâm nguy lúc sanh sản,
Tà ma ngăn trở, khổ khó cam,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Quỷ thần rút lui, sanh bình yên.”
LƯỢC GIẢNG:
“Phụ nữ lâm nguy lúc sanh sản.” Việc
sanh nở có trường hợp sanh khó, người mẹ đau đớn quằn quại có khi suốt một hai
ngày mà vẫn không sanh được; thậm chí ba hôm, năm hôm cũng chưa sanh được. Ôi!
Lúc đó người mẹ đau đớn tột cùng!
“Tà ma ngăn trở, khổ khó cam.” Vì sao sản phụ lại lâm vào tình cảnh ấy? Bởi vì có yêu ma quỷ quái
đến cản trở, làm cho sản phụ vô cùng đau đớn khổ sở, không dễ gì mà chịu đựng
được.
Tôi còn nhớ ở Đông Bắc, lúc tôi đang thủ hiếu bên mộ phần thân mẫu, có một phụ
nữ họ Đường nọ đau đẻ [chuyển dạ] đã ba hôm mà vẫn chưa sanh được. Về sau người
nhà đến tìm, tôi để thỉnh giáo, hỏi tôi phải làm sao cho sản phụ sanh nở được
dễ dàng. Tôi bèn khuyên họ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát và tụng Chú Đại
Bi. Về nhà trì niệm chưa được bao lâu thì quả nhiên sanh được; tuy nhiên đứa bé
sơ sinh thì đã chết rồi, còn người mẹ thì được vô sự, không việc gì. Cho nên,
đây đều có sự cảm ứng đặc biệt của Quán Thế Âm Bồ tát cả.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi, / Quỷ thần rút lui, sanh bình yên.” Lúc bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết trì niệm Chú Đại Bi
Đà La Ni, thì quỷ thần nghe thấy sẽ bỏ chạy tán loạn, sản phụ sẽ không bị nguy
hiểm nữa.
KINH VĂN:
Âm:
“ÁC LONG DỊCH QUỶ HÀNH ĐỘC KHÍ,
NHIỆT BỆNH XÂM LĂNG MẠNG DỤC CHUNG,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
DỊCH BỆNH TIÊU TRỪ THỌ MẠNG TRƯỜNG.”
Nghĩa:
“Ác long, dịch quỷ gieo độc khí,
Bệnh sốt xâm nhập sắp mạng chung,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Bệnh dịch tiêu trừ, tuổi thọ tăng.”
LƯỢC GIẢNG:
“Ác long, dịch quỷ gieo độc khí.” “Rồng”
thì có rồng ở trên trời (thiên long), có rồng sống ở biển, có rồng sống trên
đất liền. Rồng lại có rất nhiều chủng loại—rồng độc (độc long), rồng dữ (ác
long), rồng đen (hắc long), rồng trắng (bạch long), rồng lửa (hỏa long), và còn
có cả rồng vàng (kim long) nữa. Tại miền Đông Bắc nước Trung Hoa, có một tỉnh
lỵ có tên là tỉnh Hắc long giang, bởi có dính líu tới chuyện một con rồng đen.
Con rồng đen này thường xuất hiện trên sông nước, cho nên con sông đó được gọi
là “Hắc long giang.”
“Dịch” tức là ôn dịch. Bệnh ôn dịch, hoặc là bệnh tả [hoắc loạn=hùo
lùan], hoặc các bệnh truyền nhiễm khác, đều do loài “dịch quỷ” tác oai tác
quái. Loài “dịch quỷ” này đem vi khuẩn mầm bệnh hại người gieo rắc khắp nơi,
người nào hít phải khí độc do chúng tán rải thì liền sanh bệnh, có thể chết.
“Bệnh sốt xâm nhập sắp mạng chung.” Bệnh nhân bị nóng sốt, bệnh thâm nhập vào cơ thể, sắp kết
thúc sanh mạng, cái chết đang cận kề.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,/ Bệnh dịch tiêu trừ, tuổi thọ
tăng.” Nếu quý vị có thể chí thành khẩn thiết niệm Chú Đại Bi thì
bệnh ôn dịch sẽ bị tiêu tan, không còn nữa, thọ mạng cũng có thể lâu dài hơn.
KINH VĂN:
Âm:
LONG QUỶ LƯU HÀNH CHƯ ĐỘC THŨNG,
UNG SANG HUYẾT THỐNG PHẢ KHAM,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
TAM THÓA ĐỘC THŨNG TÙY KHẨU TIÊU.
Nghĩa:
“Rồng, quỷ lưu hành bệnh thũng độc,
Ung nhọt lở loét đau nhức nhối,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Thổi qua ba lần độc thũng tiêu.”
LƯỢC GIẢNG:
“Rồng, quỷ lưu hành bệnh thũng độc.” Có loài rồng hoặc quỷ thường đi gieo rắc mầm độc, trúng vào ai thì
khắp mình mẩy đều bị sưng phù lên.
“Ung nhọt lở loét đau nhức nhối.” Hoặc
là sanh bệnh ung thư, mọc ra nhiều mụn nhọt. “Ung thư” tức là trên người mọc ra
một vài cục u. “Sang” là mụn nhọt có khi lở loét máu mủ chảy ra. Các chứng bệnh
này vô cùng đau đớn khổ sở, con bệnh không thể nào chịu đựng nổi, cho nên nói
là “thống phả kham,” tức là không dễ gì mà nhẫn chịu được, nhức nhối đến nỗi
không cách nào chịu đựng thêm nữa.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Lúc
bấy giờ, nếu quý vị chí tâm thành khẩn tụng Chú Đại Bi, thì chỉ cần “thổi
qua ba lần độc thũng tiêu.” Quý vị niệm Chú Đại Bi, rồi lấy hơi thổi
ra ba lần nơi mụn nhọt đó. “Tam thóa” tức là ba luồng hơi thở. Ba hơi thở này
quý vị thấy thì rất bình thường, song lại làm cho chỗ sưng xẹp xuống và tiêu
tan; rất là kỳ lạ!
KINH VĂN:
Âm:
CHÚNG SANH TRƯỢC ÁC KHỞI BẤT THIỆN,
YẾM MỊ CHÚ THƯ KẾT OÁN THÙ,
CHÍ TÂM XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
YẾM MỊ HOÀN TRƯỚC Ư BỔN NHÂN.
Nghĩa:
“Chúng sanh ác trược khởi lòng ác,
Trù ếm thư chú kết oán thù,
Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi,
Trù ếm trở về người trù yếm.”
LƯỢC GIẢNG:
“Chúng sanh ác trược, lòng bất thiện.” Có nhiều chúng sanh, quý vị bảo họ sanh thiện tâm thì họ
không chịu nghe theo, nhưng bảo họ hãy thường xuyên sanh lòng bất thiện, tâm đố
kỵ, tâm chướng ngại, thì họ lại nảy sanh những thứ tâm ấy rất dễ dàng.
“Trù ếm thư chú kết oán thù.” “Yếm
mị chú thư” tức là tà chú, tà thuật thư ếm hại người. Có phái ngoại đạo dường
như có một loại chú thư. Trong Mật Tông chẳng hạn, có một loại chú mà kẻ nào
niệm được bài chú này, tu luyện được thứ phép thuật này, thì nội trong bảy
ngày, kẻ ấy bảo quý vị chết thì quý vị sẽ chết, bảo quý vị sống thì quý vị được
sống. Cho nên, Mật Tông xem ra cũng rất lợi hại! Quý vị nào có bạn bè theo Mật
Tông thì cần phải cẩn thận một chút! Nếu quý ý đắc tội với họ, thì coi chừng họ
sẽ niệm chú cho quý vị chết! Thế nhưng, đây chính là một thứ tánh nết của A tu
la, không có tâm từ bi. Như vậy tức là “yếm mị.”
Họ làm một “tiểu nhân” tức là một hình nhân nho nhỏ, trên đó có ghi
rõ “sanh thần bát tự” [năm tháng ngày giờ sinh viết theo can chi] của quý vị;
rồi hôm nay thì lấy kim chọc vào mắt hình nhân cho mù, ngày mai dùng kim đâm
vào tai hình nhân cho điếc, ngày mốt lấy kim châm vào cổ họng hình nhân—và bấy
giờ quý vị sẽ bị đứt hơi mà chết! Đây là phép thuật của bàng môn tả đạo.
Tuy nhiên, quý vị chớ nên sợ hãi, chỉ cần quý vị có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ
có dùng phép thuật gì cũng đều không công hiệu cả.
“Kết oán thù.” “Kết” tức là cột vào với nhau; “oán thù” tức là thù
hận vô cùng sâu nặng.
“Chí tâm xưng tụng Chú Đại Bi.” Bấy giờ, quý vị chí thành khẩn thiết xưng tụng Thần chú Đại Bi,
thì “trù ếm trở về nơi bổn nhân.” Họ muốn ám hại người khác,
nhưng các phép thuật độc ác đó lại trở về nơi thân họ, khiến họ tự thọ quả báo!
KINH VĂN: p 166
Âm:
ÁC SANH TRƯỢC LOẠN PHÁP DIỆT THỜI,
DÂM DỤC HỎA THẠNH TÂM MÊ ĐẢO,
KHÍ BỐI THÊ TẾ NGOẠI THAM NHIỄM,
TRÚ DẠ TÀ TƯ VÔ TẠM ĐÌNH.
Nghĩa:
“Chúng sanh ác trược thời Mạt Pháp,
Lửa dâm thiêu đốt, tâm mê loạn,
Ngoại tình, bỏ vợ, bỏ chồng con,
Ngày đêm tà tưởng không dừng nghỉ.”
LƯỢC GIẢNG:
“Khi Pháp diệt, ác sanh trược loạn.” Thời Mạt Pháp, đầy dẫy tội ác, cõi Ngũ trược ác thế rối ren
loạn lạc, Phật Pháp cũng bị hủy diệt. Lúc bấy giờ, “lửa dâm lớn mạnh,
tâm mê đảo.”
Một số người trong chúng ta hiện nay, tâm dâm dục nặng hơn tâm học
Phật Pháp. Những người đó không hề nghĩ rằng: “Hằng ngày tôi đều nghiên cứu
Phật Pháp, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngủ không được thì tôi nghiên cứu Phật
Pháp; lúc thức dậy thì tôi càng nên học hỏi Phật Pháp nhiều hơn nữa!” Họ không
nghĩ như thế! Trằn trọc, ngủ không được, họ lại sanh tâm dâm dục, cứ thấy rằng
nghiên cứu Phật Pháp chẳng ý vị gì cả. Một khi dâm tâm dấy khởi, họ cảm thấy đó
là điều vô cùng thích thú kỳ diệu, và đó là một thứ vô minh đang chi phối họ
đến tâm thần điên đảo, mê muội!
Quán Thế Âm Bồ tát đã sớm biết rằng con người ở thời Mạt Pháp là
như vậy—tâm trí mê loạn điên đảo. “Mê” tức là không còn tỉnh táo, sáng suốt
nữa. Cũng như người nào đó, gặp bạn gái là mừng rỡ tíu tít, quên hết mọi chuyện
chung quanh; như thế cũng gọi là “mê đảo,” confused! Thật là kỳ lạ!
“Vợ chồng ruồng bỏ, sanh ngoại tình.” “Khí” tức là phao khí, bỏ
rơi, ruồng bỏ. “Bối” tức là vị bối. “Thê” là vợ; “tế” tức là chồng. Hoặc là
người vợ lén lút tìm người đàn ông khác, kiếm tình phu; hoặc là người chồng
vụng trộm tìm người đàn bà khác, kiếm tình phụ. “Tham nhiễm” tức là vì phát
tiết lửa dâm dục; cho nên đây gọi là “ngoại tham nhiễm,” ra ngoài để tham
nhiễm.
“Ngày đêm tà tưởng chẳng tạm dừng.” Ban ngày tơ tưởng đến việc này, tối đến cũng nghĩ ngợi về chuyện
này—trong từng giây từng khắc, cái ý nghĩ tà vạy, không chánh đáng này cứ không
ngừng lởn vởn trong đầu óc. Quý vị cũng biết đấy, có nhiều người đi nhà thờ
không phải để làm lễ Misa, mà chủ yếu là để tìm đối tượng; cả nam và nữ đều có
tư tưởng như thế. Có người thì đến trường không phải để học hành, mà là muốn
tìm đối tượng. Vậy, lửa dâm dục đương mạnh mẽ, dù là tạm thời cũng không đình
chỉ được.
KINH VĂN:
Âm:
NHƯỢC NĂNG XƯNG TỤNG ĐẠI BI CHÚ,
DÂM DỤC HỎA DIỆT, TÀ TÂM TRỪ.
NGÃ NHƯỢC QUẢNG TÁN CHÚ CÔNG LỰC,
NHẤT KIẾP XƯNG DƯƠNG VÔ TẬN KỲ.”
Nghĩa:
“Nếu thường xưng tụng Chú Đại Bi,
Lửa dâm dục tắt, tà tâm dứt.
Công lực Thần Chú nếu xưng tán
Hết kiếp xưng dương không cùng tận.”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu thường xưng tụng Chú Đại Bi.” Trong lúc này, nếu quý vị có thể xưng niệm Chú Đại Bi, thì “lửa
dâm dục tắt, tà tâm dứt.” Lửa dâm dục trong lòng quý vị sẽ tàn lụi dần
dần rồi tắt ngấm, và tà tâm cũng từ từ được trừ khử.
Giảng đến đây tôi muốn lưu ý quý vị một điều—quý vị, bất luận là
nam hay nữ, nếu tâm dâm dục quá lớn mạnh, sung mãn, thì quý vị có thể ngày ngày
chí thành khẩn thiết xưng tụng Chú Đại Bi, lâu dần dâm tâm sẽ bị tiêu diệt, tà
tri tà kiến cũng bị trừ khử!
“Công lực Thần Chú nếu xưng tán.” Quán
Thế Âm Bồ tát nói rằng: “Nếu tôi tán thán công đức từ năng lực của Chú Đại Bi
một cách rộng rãi, thì e rằng hết kiếp xưng dương không cùng tận. Cho
dù tôi có xưng dương tán thán Chú Đại Bi trong mọi thời, ở mọi chốn, tại mọi
kiếp, thì cũng không thể nào nói hết được!”
KINH VĂN:
Âm: NHĨ THỜI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT CÁO PHẠM THIÊN NGÔN: “TỤNG THỬ CHÚ
NGŨ BIẾN, THỦ NGŨ SẮC TUYẾN TÁC SÁCH. CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, KẾT TÁC NHỊ THẬP
NHẤT KẾT HỆ HẠNG. THỬ ĐÀ-LA-NI THỊ QUÁ KHỨ CỬU THẬP CỬU ỨC HẰNG HÀ SA CHƯ PHẬT
SỞ THUYẾT.”
Nghĩa:
Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên [Vương] rằng: “Nếu
chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai chướng ma nghiệp, thì nên lấy chỉ ngũ sắc xe
làm sợi niệt. Trước tiên tụng năm biến, kế đến tụng hai mươi mốt biến, cứ tụng
mỗi biến lại thắt một gút, cho đến hai mươi mốt gút như vậy, rồi đeo nơi cổ.
Tâm Chú Đại Bi này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật quá khứ đã từng
tuyên thuyết.”
LƯỢC GIẢNG:
Lúc bấy giờ, sau khi thuyết xong bài kệ, Quán
Thế Âm Bồ Tát bảo Phạm Thiên rằng: “... tụng Chú này năm biến ...” Vì
sao lại tụng năm biến? Bởi vì trên thế giới này có năm bộ lớn (Ngũ Đại Bộ):
-phương Đông là A Súc Bộ, còn gọi là Kim Cang Bộ;
-phương Nam là Bảo Sanh Bộ;
-phương Tây là Liên Hoa Bộ;
-phương Bắc là Yết Ma Bộ;
-trung ương là Phật Bộ.
Năm biến Chú là tiêu biểu cho năm bộ nói trên. Năm bộ này cai quản
cả năm đại ma quân—Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung—của thế gian. Ma cũng có Đông,
Tây, Nam, Bắc, Trung; Ngũ Bộ thống nhiếp Ngũ Đại Ma.
Như vậy, quý vị niệm Chú Đại Bi năm biến, rồi “lấy chỉ ngũ
sắc xe làm sợi niệt.” “Ngũ sắc” tức là năm màu: xanh (dương), vàng,
đỏ, trắng, đen. Màu xanh là tiêu biểu cho phương Đông, màu đỏ là phương Nam,
màu trắng là phương Tây, màu đen là phương Bắc, và màu vàng là trung ương. Đó
là tượng trưng cho Ngũ Phương, Ngũ Bộ.
“Tác sách” tức là bện thành sợi dây.
“Tụng Chú hai mươi mốt biến, thắt làm hai mươi mốt gút, rồi đeo vào
cổ.” Bây giờ quý vị tụng Chú Đại Bi hai mươi mốt biến, và thắt
hai mươi mốt gút thắt trên sợi dây ngũ sắc, xong lấy đeo nơi cổ.
“Đà La Ni này là do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ tuyên thuyết.” Đại Bi Đà La Ni này là pháp mà hằng hà sa số chư Phật đã nói ra.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
6
Bồ Đề Hải 76
Kinh văn:
Âm: “BỈ ĐẲNG CHƯ PHẬT, VI CHƯ HÀNH NHÂN
TU HÀNH LỤC ĐỘ VỊ MÃN TÚC GIẢ, TỐC LINH MÃN TÚC CỐ; VỊ PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM GIẢ, TỐC
LINH PHÁT TÂM CỐ; NHƯỢC THANH VĂN NHÂN VỊ CHỨNG QUẢ GIẢ, TỐC LINH CHỨNG CỐ;
NHƯỢC TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, CHƯ THẦN TIÊN NHÂN VỊ PHÁT VÔ THƯỢNG
BỒ-ĐỀ TÂM GIẢ, TỐC LINH PHÁT TÂM CỐ; NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH VỊ ĐẮC ĐẠI THỪA TÍN
CĂN GIẢ, DĨ THỬ ĐÀ-LA-NI UY THẦN LỰC CỐ, LINH KỲ ĐẠI THỪA CHỦNG TỬ PHÁP NHA
TĂNG TRƯỞNG. DĨ NGÃ PHƯƠNG TIỆN TỪ BI LỰC CỐ, LINH KỲ SỞ TU, GIAI ĐẮC THÀNH
BIỆN.”
Nghĩa: “Các đức Phật đó vì những
hành giả tu hành Lục Độ chưa được đầy đủ mà khiến cho mau đầy đủ, vì những
người chưa phát tâm Bồ Đề mà khiến cho mau phát tâm. Như hàng Thanh Văn chưa
chứng quả thì khiến cho mau chứng quả; như các vị thần, tiên nhân trong Tam
thiên đại thiên thế giới chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì khiến cho mau phát
tâm.
Nếu các chúng sanh nào chưa được tín căn
Đại Thừa, thì do sức oai thần của Đà La Ni này, sẽ khiến cho mầm Pháp của hạt
giống Đại Thừa tăng trưởng; lại do sức từ bi phương tiện của Ta, mà khiến cho
sự mong cầu của họ đều được thành tựu.”
Lược giảng:
[Quán Thế Âm Bồ-tát lại bảo Đại Phạm
Thiên Vương:] “Các đức Phật đó vì những hành giả tu hành Lục Độ chưa
được đầy đủ mà khiến cho mau đầy đủ.” Tất cả chư Phật đó có thể khiến
cho những người tu tập hạnh Lục Độ mà còn chưa viên mãn, thảy đều được đến chỗ
viên mãn.
Lục Độ tức là sáu Độ—bố thí độ san tham,
trì Giới độ hủy phạm, nhẫn nhục độ sân nhuế, tinh tấn độ giãi đãi, thiền định
độ tán loạn, Bát Nhã độ ngu si.
1) Bố thí độ san tham. Người nào nếu có lòng tham lam, bỏn sẻn,
thì nên tập tu hạnh bố thí. Thế thì, những kẻ không có lòng tham lam, bỏn sẻn
có cần phải thực hành hạnh bố thí chăng? Tất nhiên là họ càng cần phải làm bố
thí hơn nữa! Cho nên nói rằng, nếu có thể làm hạnh bố thí, thì không còn tham lam,
bỏn sẻn nữa. Đó chính là “bố thí độ san tham” vậy.
2) Trì Giới độ hủy
phạm. “Trì giới” tức là có thể giữ gìn quy củ, phép tắc. Người không tuân thủ
quy củ tức là người không trì giới; người không trì giới tức là người không tín
ngưỡng Phật Pháp. Sau khi Phật diệt độ, thì giới luật chính là thầy của các tín
đồ Phật giáo.
3) Nhẫn nhục
độ sân nhuế. Nếu quý vị là người có tánh hay nóng giận thì quý vị nên tu hạnh
nhẫn nhục. Quý vị không nên vì những chuyện nhỏ nhặt, cỏn con mà nổi giận; cũng
đừng nên có lòng ích kỷ, nhỏ nhen. Không có tâm ích kỷ thì sẽ không dễ sanh
lòng nóng giận, bực tức; mà không nóng giận thì đó chính là nhẫn nhục vậy!
4) Tinh tấn độ giãi đãi. Quý
vị có thói lười biếng ư? Thì quý vị hãy tu tập hạnh tinh tấn, siêng năng ngay
đi!
5) Thiền định độ tán loạn. Nếu
quý vị cứ thích khởi vọng tưởng, luôn sanh tâm phan duyên, thì quý vị cần phải
tu tập công phu thiền định. Có công phu thiền định rồi thì cái tâm tán loạn của
quý vị cũng được “độ” mất, không còn nữa.
6) Bát Nhã độ ngu si. Sở dĩ
chúng ta còn ngu si là vì chúng ta chưa có trí huệ; nếu chúng ta tu dưỡng trí
huệ thì sẽ không còn ngu si nữa vậy.
Khi bậc Bồ-tát tu hành Lục Độ mà chưa
được viên mãn, rốt ráo, thì hãy phát tâm tu Đại Bi Pháp, bấy giờ hạnh tu Lục Độ
của các ngài sẽ được viên mãn rất mau chóng.
“Vì những người chưa phát tâm Bồ-đề mà
khiến cho mau phát tâm.” Đối với những ai chưa
phát tâm Bồ-đề Vô-thượng, nếu họ niệm Chú Đại Bi, thì họ sẽ được mau chóng phát
Bồ-đề tâm.
“Như hàng Thanh Văn chưa chứng
quả thì khiến cho mau chứng quả.” Nếu những người hàng Thanh Văn Nhị
Thừa chưa chứng đến Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, hoặc Tứ quả A La Hán, mà niệm Chú
Đại Bi thì họ sẽ được chứng đắc quả vị rất mau chóng.
“Như các vị thần, tiên nhân trong Tam
thiên đại thiên thế giới chưa phát tâm Vô-thượng Bồ-đề thì khiến cho mau phát tâm. Trong cõi Tam
thiên đại thiên, hết thảy các vị thần, tiên nhân nào chưa phát tâm Bồ-đề song
lại có thể niệm Chú Đại Bi, thì họ đều sẽ được mau chóng phát tâm Bồ-đề
Vô-thượng.
“Nếu các chúng sanh nào chưa được tín căn
Đại Thừa. Nếu hết thảy các chúng sanh chưa có
được tín căn của Pháp Đại thừa, chưa tin tưởng Pháp Đại Thừa, song lại có thể
niệm thần chú Đại Bi Đà La Ni Tổng Trì, thì do sức oai thần của Đà La
Ni này, sẽ khiến cho mầm Pháp của hạt giống Đại Thừa
tăng trưởng--thiện căn Đại Thừa, mầm pháp Bồ-đề của chủng tử Đại Thừa được
lớn mạnh.
“Lại do sức từ bi phương tiện của Ta, mà
khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.” Quán Thế Âm Bồ tát dạy rằng: “Ta dùng sức từ bi phương
tiện của chính mình mà làm cho tất cả chúng sanh được toại nguyện, họ cần thứ
gì thì đều được thứ ấy.” Sở cầu mãn nguyện, toại tâm như ý—đó gọi là “thành
biện”. Chỉ cần quý vị niệm Chú Đại Bi là mọi sở cầu, sở nguyện đều được thành
tựu; bất cứ việc gì cũng đều thực hiện được cả.
Bồ Đề Hải 77
Kinh
văn:
“HỰU TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, U ẨN ÁM
XỨ, TAM ĐỒ CHÚNG SANH, VĂN NGÃ THỬ CHÚ, GIAI ĐẮC LY KHỔ. HỮU CHƯ
BỒ-TÁT VỊ GIAI SƠ TRỤ GIẢ, TỐC LINH ĐẮC CỐ; NÃI CHÍ LINH ĐẮC THẬP TRỤ ĐỊA CỐ;
HỰU LINH ĐẮC ĐÁO PHẬT ĐỊA CỐ, TỰ NHIÊN THÀNH TỰU TAM THẬP NHỊ TƯỚNG,
BÁT THẬP TÙY HÌNH HẢO.
NHƯỢC THANH VĂN NHÂN VĂN THỬ ĐÀ-LA-NI, NHẤT KINH NHĨ GIẢ, TU
HÀNH THƯ TẢ THỬ ĐÀ-LA-NI GIẢ, DĨ CHẤT TRỰC TÂM NHƯ PHÁP NHI TRỤ GIẢ;
TỨ SA-MÔN QUẢ, BẤT CẦU TỰ ĐẮC.
NHƯỢC TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, SƠN HÀ THẠCH
BÍCH, TỨ ĐẠI HẢI THỦY, NĂNG LINH DŨNG PHẤT; TU-DI SƠN CẬP THIẾT-VI SƠN, NĂNG
LINH DAO ĐỘNG, HỰU LINH TOÁI NHƯ VI TRẦN; KỲ TRUNG CHÚNG SANH, TẤT LINH PHÁT VÔ
THƯỢNG BỒ-ĐỀ TÂM.”
“Lại nữa, các chúng sanh trong Tam Đồ, chốn u ẩn hắc ám của
Tam Thiên Đại Thiên thế giới, mà nghe được Chú này của Ta thì thảy đều được xa
lìa khổ sở; có chư Bồ tát chưa ở ngôi vị Sơ Trụ thì khiến cho mau đắc được,
thậm chí khiến cho đắc được Thập Trụ Địa, lại khiến cho đắc tới Phật Địa, tự
nhiên thành tựu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp tùy hình.
Nếu người Thanh Văn nghe Đà La Ni này thoảng qua tai một lần,
rồi tu hành, biên chép Đà La Ni này, đem tâm chất trực mà như pháp an trụ, thì
quả vị Tứ Sa-môn sẽ không cầu mà tự nhiên chứng đắc.
Trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tất cả núi, sông, vách
đá, nước trong bốn biển lớn có thể bị làm cho sôi sục trào dâng, núi Tu Di cùng
núi Thiết Vi có thể bị làm cho dao động, lại còn bị làm cho vỡ nát thành mảy
bụi, các chúng sanh ở trong đó đều khiến cho phát tâm Vô thượng Bồ đề.”
Lược giảng:
Quán Thế Âm Bồ-tát nói tiếp: “Lại nữa, các chúng sanh
trong Tam Đồ, chốn u ẩn hắc ám của Tam Thiên Đại Thiên thế giới...”
Trước đây, trong các buổi giảng kinh, chúng ta đã nhiều lần
giảng về “tam thiên đại thiên thế giới,” song e rằng vẫn có người không còn
nhớ, cho nên tôi sẽ giảng lại lần nữa.
Một nhật nguyệt (tức là một mặt trời và một mặt trăng), một
núi Tu Di, một Tứ thiên hạ hợp lại thì gọi là một thế giới. Một ngàn nhật
nguyệt, một ngàn núi Tu Di, một ngàn Tứ thiên hạ hợp lại thành một Tiểu thiên
thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thế giới hợp lại thì thành một Trung thiên thế
giới. Một ngàn Trung thiên thế giới hợp lại thì thành một Đại thiên thế giới.
Nhân vì chữ “thiên” (ngàn) được lặp lại đến ba lần (tức là ba lần ngàn thế giới
kết hợp lại), cho nên gọi là “tam thiên đại thiên thế giới” (ba ngàn đại thiên
thế giới).
Tuy rằng trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới này có rất
nhiều mặt trời và mặt trăng, cùng rất nhiều núi Tu Di như thế, nhưng vẫn có rất
nhiều nơi còn u ám tối tăm. “U” có nghĩa là đen tối; “ẩn” nghĩa là bị che đậy
khiến người ta nhìn không thấy. Chốn “hắc ám” tức là nơi không có ánh sáng rọi
vào—nơi mà người ta không trông thấy, cũng không nghe thấy được gì cả.
Thế thì, nơi tối tăm hắc ám đó là nơi nào? Đó chính là Tam Đồ!
“Tam Đồ” là ba nẻo đường--địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh; lại cũng có thể nói
rằng “Tam Đồ” là huyết đồ, đao đồ và hỏa đồ. Nói chung, đó là ba nơi không được
tốt đẹp. Tuy rằng không phải là nơi tốt để ở, nhưng vẫn có loại chúng sanh do
vì nghiệp báo của chính mình hiển hiện, nhất định phải trú ngụ ở những nơi đó.
Song le, nếu các chúng sanh bị đọa lạc trong chốn tối tăm u ám, vĩnh viễn không
thấy được ánh sáng mặt trời này “mà nghe được Chú này của Ta thì thảy
đều được xa lìa khổ sở, được sự an vui.”
Vậy, đó là Chú gì? Đó là Chú Đại Bi - Đại Bi Tâm Đà La
Ni. Vì sao các chúng sanh đó được xa lìa khổ ải, đạt được an vui? Đó là nhờ
được nghe Chú Đại Bi nên tất cả bọn họ đều được thoát khổ! Đây là các chúng
sanh trong ba đường ác nhờ nghe Chú Đại Bi mà đạt được sự lợi ích như thế.
Lại nữa, nếu như “có chư Bồ tát chưa ở ngôi vị Sơ Trụ
thì khiến cho mau đắc được, thậm chí khiến cho đắc được Thập Trụ Địa.” Đây
có lẽ là nói về các bậc Bồ tát sơ phát tâm, chưa chứng đắc quả vị Sơ Trụ. Quý
vị có biết “Sơ Trụ” là gì không? Không có người nào biết sao? Hiện giờ, chữ đó
nằm ở dòng đầu tiên trên bảng, được viết thật rõ ràng rành mạch; và Quả Tu đã
giảng cho quý vị nghe rồi, quý vị quên cả rồi hay sao?
Phát Tâm Trụ chính là Sơ Trụ. Vậy, nếu có vị Bồ tát nào chưa
đắc quả vị Phát Tâm Trụ mà trì niệm Chú Đại Bi thì vị ấy liền được phát tâm,
đắc được Phát Tâm Trụ rất nhanh chóng; thậm chí cả Thập Trụ và Thập Địa cũng
đều có thể đắc được.
Trong Thập Trụ thì trụ vị thứ mười là gì? Đó là Quán Đảnh Trụ.
Trong Thập Địa, khởi đầu là Hoan Hỷ Địa, thứ đến là Phát Quang Địa, cho đến địa
vị thứ mười là Pháp Vân Địa.
“Thập Trụ Địa” là gì? Thập Trụ là gồm từ Phát Tâm Trụ cho đến
trụ vị thứ mười là Quán Đảnh Trụ. Chữ “Địa” này là nói về Thập Địa—từ Hoan Hỷ
Địa cho đến Pháp Vân Địa.
“Lại khiến cho đắc tới Phật Địa. Các vị Bồ tát đó còn có thể chứng được quả vị Phật
Địa--Phật Địa chính là Diệu Giác--tự nhiên thành tựu ba mươi hai tướng tốt
và tám mươi vẻ đẹp tùy hình.” Và, các ngài cũng sẽ tự nhiên thành tựu
được ba mươi hai tướng tốt đẹp của bậc đại nhân, cùng tám mươi vẻ đẹp tùy hình.
“Nếu người Thanh Văn nghe Đà La Ni này thoảng qua tai một lần,
rồi tu hành, biên chép Đà La Ni này, đem tâm chất trực mà như pháp an trụ
....” Giả sử có những người Nhị Thừa Thanh Văn
nghe được Kinh Đại Bi Đà La Ni, dù chỉ một lần thoáng qua tai, và
sau đó áp dụng tu hành, hoặc dùng bút mực để biên chép Chú Đà La Ni này. “Tâm
chất trực” tức là lòng ngay thẳng chơn chất, không quanh co, cong vạy. “Trực
tâm là đạo tràng”—quý vị dùng tâm chất trực mà tu hành thì sẽ đạt được quả vị
mà mình hằng mong muốn.
“Trụ” cũng chính là tu hành. “Như pháp nhi trụ” tức là y theo
Đại Bi Pháp mà an trụ, nương theo pháp này mà tu hành.
“Thì quả vị Tứ Sa-môn sẽ không cầu mà tự nhiên chứng đắc.” Bốn quả vị Sa môn là Sơ quả, Nhị quả, Tam quả và Tứ quả;
trong đó, quả vị Tứ Sa môn chính là quả vị A La Hán. Cho dù chính bản thân
những người Thanh văn đó không hề mong cầu, thì họ cũng vẫn đắc được quả vị Tứ
Sa môn.
“Trong cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tất cả núi, sông,
vách đá, nước trong bốn biển lớn có thể bị làm cho sôi sục trào dâng... Quý vị niệm Chú Đại Bi thì có thể khiến cho nước biển trong tứ
đại hải nóng sôi lên sùng sục, núi Tu Di cùng núi Thiết Vi có thể bị
làm cho dao động, lại còn bị làm cho vỡ nát thành mảy bụi, các chúng sanh ở
trong đó đều khiến cho phát tâm Vô thượng Bồ đề.”
Núi Tu Di tức là núi Diệu Cao; còn núi Thiết Vi chính là dãy
núi sắt bao quanh bốn phía của địa ngục.
Quý vị niệm Chú Đại Bi thì có thể khiến cho nước biển trong tứ
đại hải nóng lên và sôi sùng sục, và cả núi Thiết Vi lẫn núi Tu Di cũng đều bị
rúng động. Ngoài ra, đá và sắt ở trên núi Tu Di cùng núi Thiết Vi cũng có thể
bị vỡ vụn thành mảy bụi; đồng thời tất cả chúng sanh ở trong núi Tu Di và núi
Thiết Vi đều được khiến cho phát đại Đạo tâm Vô thượng Bồ đề.
_____________________________
Chú
thích :
-
Thập Trụ là mười trụ vị, mười địa vị an trụ của Bồ tát Đaị Thừa : Phát tâm
trụ, Trì địa trụ, Tu hành trụ, Sanh quý trụ, Phương tiện cụ túc trụ, Chánh tâm
trụ, Bất thối trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ.
-
Thập Địa là mười địa vị của Bồ tát Đại Thừa: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát
quang địa, Diễm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất
động địa, Thiện huệ địa và Pháp vân địa.
Bồ Đề Hải 78
Nếu các chúng sanh trong
đời hiện tại có cầu nguyện điều gì, thì trong hai mươi mốt ngày nên tịnh trì
trai giới, tụng Đà La Ni này, tất sẽ đạt được sở nguyện; từ ranh
giới của sanh tử tới ranh giới của sanh tử, tất cả nghiệp ác đều được
tiêu trừ. Trong Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả chư Phật,
Bồ-tát, Phạm, Thích, Tứ Thiên Vương, thần, tiên, long vương, thảy đều
chứng tri.
NHƯỢC CHƯ CHÚNG SANH
HIỆN THẾ CẦU NGUYỆN GIẢ, Ư TAM THẤT NHẬT, TỊNH TRÌ TRAI GIỚI,
TỤNG THỬ ĐÀ-LA-NI, TẤT QUẢ SỞ NGUYỆN; TÙNG SANH
TỬ TẾ CHÍ SANH TỬ TẾ, NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TỊNH GIAI DIỆT TẬN;
TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI NỘI, NHẤT THIẾT CHƯ PHẬT BỒ-TÁT, PHẠM
THÍCH TỨ THIÊN VƯƠNG, THẦN TIÊN LONG VƯƠNG, TẤT GIAI CHỨNG TRI.
(Quán Thế Âm Bồ-tát
nói tiếp:) “Nếu các chúng sanh trong đời hiện tại có cầu nguyện điều
gì…” Giả sử có những chúng sanh ở ngay trong đời
này có kỳ vọng hay mong cầu việc gì và muốn cho nguyện vọng của họ được
viên mãn, “thì trong hai mươi mốt ngày nên tịnh trì trai giới, tụng Đà
La Ni này, tất sẽ đạt được sở nguyện.” “Tịnh” là thanh tịnh;
“trì” tức là thọ trì Chú Đại Bi; “trai” là chay tịnh, không ăn
các thứ có vị tanh nồng; và “giới” tức là phải nghiêm trì giới luật.
Nếu các chúng sanh đó có thể giữ gìn trai giới thanh tịnh, đồng thời
tụng niệm Đại Bi Đà-la-ni này trong suốt ba tuần lễ, thì chắc chắn
họ sẽ được toại nguyện.
“Từ ranh giới của sanh
tử tới ranh giới của sanh tử, tất cả nghiệp ác đều được tiêu
trừ.” Chẳng những thế, mọi ác nghiệp mà
họ đã trót tạo tác từ nhiều đời trong quá khứ, từ nơi sanh
tử này đến nơi sanh tử kia, thảy đều tiêu tan, không còn nữa.
“Trong Tam thiên đại thiên
thế giới, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Phạm, Thích, Tứ Thiên
Vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng tri.” Tất cả đức Phật, tất cả Bồ-tát, tất
cả Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, cùng với
hết thảy thần, tiên, và long vương trong Tam thiên đại thiên thế giới
đều có thể làm chứng cho các chúng sanh đó, nói rằng họ đã dứt sạch
được mọi nghiệp tội của chính họ.
Nếu chư thiên nhân
tụng trì Đà La Ni này đến tắm trong sông, hồ, biển cả, và nếu các chúng
sanh ở đó được nước tắm thân của chư vị này nhuần thấm thân
thể, thì tất cả ác nghiệp trọng tội của họ đều được tiêu trừ, và
họ liền được chuyển sanh về cõi Tịnh Độ ở phương khác, hóa
sanh từ hoa sen, không còn thọ thân thai bào hoặc thân thấp, noãn;
huống là người thọ trì đọc tụng?
Nếu người trì tụng đang đi
trên đường và có gió lớn thổi tới, tạt qua râu tóc, y phục của người này, thì
nếu các loài chúng sanh được luồng gió đã lướt qua thân người đó
thổi chạm vào y phục, hết thảy trọng chướng ác nghiệp của
họ đều được tiêu trừ, càng không phải thọ quả báo trong Tam ác
đạo, mà luôn được sanh ra ở trước Phật. Nên biết quả báo phước
đức của người thọ trì là bất khả tư nghì!
NHƯỢC CHƯ THIÊN NHÂN
TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ-LA-NI GIẢ, KỲ NHÂN NHƯỢC TẠI GIANG HÀ ĐẠI HẢI TRUNG MỘC
DỤC, KỲ TRUNG CHÚNG SANH ĐẮC THỬ NHÂN MỘC THÂN CHI THỦY, TRIÊM TRƯỚC KỲ
THÂN, NHẤT THIẾT ÁC NGHIỆP TRỌNG TỘI TẤT GIAI TIÊU DIỆT, TỨC ĐẮC CHUYỂN SANH
THA PHƯƠNG TỊNH ĐỘ, LIÊN HOA HÓA SANH, BẤT THỌ THAI THÂN, THẤP NOÃN CHI
THÂN, HÀ HUỐNG THỌ TRÌ ĐỘC TỤNG GIẢ?
NHƯỢC TỤNG TRÌ
GIẢ HÀNH Ư ĐẠO LỘ, ĐẠI PHONG THỜI LAI, XUY THỬ NHÂN THÂN
MAO PHÁT Y PHỤC, DƯ PHONG HẠ QUÁ; CHƯ LOẠI CHÚNG SANH ĐẮC KỲ
NHÂN PHIÊU THÂN PHONG XUY TRƯỚC Y GIẢ, NHẤT THIẾT TRỌNG CHƯỚNG ÁC NGHIỆP TỊNH
GIAI DIỆT TẬN, CÁNH BẤT THỌ TAM ÁC ĐẠO BÁO, THƯỜNG SANH PHẬT TIỀN. ĐƯƠNG
TRI THỌ TRÌ GIẢ, PHÚC ĐỨC QUẢ BÁO BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.
“Nếu chư thiên
nhân tụng trì Đà La Ni này đến tắm trong sông, hồ, biển cả …” Giả sử có các thiên nhân trì niệm Chú Đại Bi
đến tắm trong sông, trong hồ, hoặc trong biển cả, “và nếu các
chúng sanh ở đó được nước tắm thân của chư vị này nhuần
thấm thân thể …” Nếu tất cả chúng sanh
đang ở trong các sông, biển, ao hồ đó được thấm ướt bởi
nước tắm của chư thiên nhân này, thì tất cả ác nghiệp, trọng
tội của họ đều được tiêu trừ, và họ liền được chuyển sanh về cõi
Tịnh Độ ở phương khác, hóa sanh từ hoa sen. Các chúng sanh
đó đều sẽ được sanh về cõi Tịnh Độ khác và được sanh ra
từ hoa sen. Họ không còn thọ thân thai bào hoặc thân thấp,
noãn; huống là người thọ trì đọc tụng?” Họ còn không phải
thọ sanh từ trong thai bào, không phải thọ sanh
từ nơi ẩm ướt, cũng không phải thọ sanh từ trứng;
thế thì, huống chi là bản thân người thọ trì đọc tụng!
“Nếu người trì tụng đang đi
trên đường và có gió lớn thổi tới, tạt qua râu tóc, y phục của người này…” Giả sử có vị hành giả biết niệm Chú
Đại Bi và trong những lúc đi đường đều trì niệm Chú này. Bấy giờ, có một luồng
gió lớn thổi tới và thổi tạt vào thân thể của người niệm Chú Đại Bi, chạm
vào râu tóc hoặc áo quần của người đó.
"Thì nếu các loài
chúng sanh được luồng gió đã lướt qua thân người đó thổi chạm vào y phục…” Nếu luồng gió thổi lướt qua thân thể của người trì
tụng Chú Đại Bi, rồi lại thổi tới thân thể của các chúng sanh nào, thì “hết
thảy trọng chướng ác nghiệp của họ đều được tiêu trừ. Tất
cả mọi trọng chướng ác nghiệp do sát sanh hại mạng như giết cha, giết
mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu … của các chúng
sanh đó đều đồng thời được dứt sạch. Họ càng không phải
thọ quả báo trong Tam ác đạo, mà luôn được sanh ra ở trước
Phật.” Hơn thế nữa, họ vĩnh viễn không còn
bị khổ báo đọa lạc trong ba đường ác—địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh; mà sẽ thường được sanh vào thời có Phật.
“Nên biết
quả báo phước đức của người thọ trì là bất
khả tư nghì!” Thế thì, nhờ ngọn
gió thổi qua thân người thọ trì Chú Đại Bi mà các chúng sanh khác đều đạt
được sự lợi ích, tiêu trừ được mọi trọng tội ác nghiệp. Cho nên, quý
vị cần phải biết rằng nếu ngay trong đời này quý vị thọ trì Chú
Đại Bi thì phước đức đạt được cùng quả báo thọ được lại càng khó
thể nghĩ bàn hơn nữa, có nói thế nào cũng không có cách gì biết rõ
được!
Đề tài nói chuyện hôm
nay là “Ở thời đại khoa học, vì sao có người Tây phương muốn xuất gia?”
Ngày nay, khoa học phát
triển một cách phi thường, càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng có nhiều phát
hiện mới lạ; thế nhưng, sự phát hiện này đến bao giờ mới là
tột đỉnh, mới là rốt ráo? Sự “rốt ráo” này có thể nói là sẽ xảy
ra ở vào bất cứ thời điểm nào, song cũng có thể nói là bất
tận—không có ngày cùng tận, không thể nào hoàn tất được. Hiện tại, nền
khoa học của chúng ta được gọi là tiến bộ, nhưng sau 500 năm thì
sự tiến bộ của khoa học ngày hôm nay lại bị xem là lạc hậu! Nền
khoa học của 500 năm sau sẽ là tân kỳ; song đến 500 năm sau nữa, thì cái
được mệnh danh là “khoa học tân kỳ” của 500 năm về trước lại
trở thành lạc hậu, còn khoa học của 500 năm sau lại là mới mẻ. Hiện
giờ người ta cho rằng những gì của quá khứ là xưa cũ; song sau 500
năm nữa, trong tương lai, tất cả những thứ tân kỳ của hiện tại cũng
đều sẽ bị xem là xa xưa, lỗi thời. Cho nên, khoa học và triết học
không có ngày cùng tận; có thể nói là “càng chạy càng xa,” chẳng có kết
thúc.
Đặc biệt là khoa học và
triết học ngày nay tuy có phát triển, nhưng những lợi ích mà chúng mang
lại cho con người thì ít hơn so với những điều bất lợi! Đó chính là tình trạng “cái hại
nhiều hơn cái lợi” —đối với nhân loại thì sự giúp ích không nhiều hơn
sự sát hại. Vì sao? Trước kia, khi khoa học chưa phát triển đến
thế này thì người ta không bị chết nhiều như vậy; song le, hiện
tại khoa học phát triển càng nhanh chóng thì trong tương lai, nhân loại
sẽ bị chết càng nhiều hơn, thậm chí có thể đi đến chỗ tận
diệt! Nếu loài người bị hủy diệt thì khoa học, triết học còn ích dụng gì
cho nhân loại nữa chứ? Chắc chắn là không còn hữu dụng nữa!
Hiện tại tuy rằng khoa học
và triết học phát triển như thế, nhưng đối với những tai họa trên
thế giới, thì vẫn chưa thể tiêu diệt được. Thí dụ như việc
nảy sanh nhiều căn bệnh quái lạ mà với sự phát triển của khoa học,
con người vẫn chưa có cách nào chữa trị hoặc
trừ khử được—đó là một điểm. Rồi lại còn chiến tranh nữa—khoa học
phát triển đến cực điểm thì chiến tranh sẽ càng khốc liệt bởi các vũ khí
giết người mỗi ngày một tinh vi, kỳ diệu hơn; sự tinh vi kỳ diệu đó chẳng
phải sẽ đưa nhân loại vào chỗ chết sao? Nước này gây chiến với nước
khác, nhà nọ tranh chấp với nhà kia, người này gây gổ với người
nọ—tất cả đều hỗ tương tàn sát lẫn nhau;
cứ như thế thì biết đến bao giờ mới chấm dứt được? Anh đề
phòng tôi, tôi đề phòng anh; anh muốn hủy diệt tôi, tôi cũng muốn hủy diệt
anh—tất cả đều hỗ tương hủy diệt lẫn nhau. Và rốt cuộc sẽ có một
ngày tất cả đều “cùng về chỗ chết,” và lúc đó thì mọi người đều
sẽ không còn việc gì để làm nữa!
Không phải chỉ có nạn
chiến tranh là khó ngăn chận, khó dập tắt thôi đâu, mà còn có nào là nạn lũ lụt
(không biết được là sẽ xảy ra lúc nào, ở nơi đâu), nạn hỏa hoạn
(suốt ngày toàn nghe tiếng xe cứu hỏa hụ còi inh ỏi, ồn ào hơn
tất cả), nạn gió bão (hễ cuồng phong thổi tới thì gây chết chóc cho biết
bao nhiêu người)… Chỉ mấy hôm trước đây, ở Đài Loan có nạn gió
bão xảy ra gây thiệt hại cho cả mấy trăm người. Vào lúc khoa học tiến
bộ đến dường này, vẫn chưa có cách nào khiến cho những tai ương
như thế biến mất, không còn xảy ra. Trông thấy tình trạng này, nếu
muốn tiêu diệt tai ương, chúng ta cần phải nghiên cứu đạo lý của nhân
sinh, cần phải thấu hiểu các chân lý của nhân sinh, rồi sau đó mới có
thể biết được căn nguyên, mầm mống của các tai ương. Thế thì,
muốn tránh tai ương, điều thiết yếu là mọi người đều phải “sửa sai, hướng
thiện”! Vì sao những tai ương này xảy ra? Đó đều là do cộng nghiệp
của mọi người cảm vời ra; nghiệp tụ tập lại với nhau nên mới có loại tai
họa này xảy ra. Rồi lại còn nạn động đất nữa—đây là một thứ tai họa rất
đáng sợ, nó khiến mọi người đều nơm nớp lo âu. Rất nhiều
người ở thành phố San Francisco lo sợ sẽ có nạn
động đất xảy ra. Thế nhưng, chẳng có cách gì tiêu diệt được các
tai ương này bởi vì đó là do nghiệp chướng của chúng sanh chiêu cảm
mà ra!
Nói đến “nghiệp” thì
chỉ có Phật giáo mới có thể giải thích một cách tường tận
về nguồn gốc, đạo lý của tướng nghiệp mà thôi. Do đó, chúng ta cần phải
phát tâm xuất gia, nghiên cứu Phật Pháp; phải hiểu rõ Phật Pháp thì mới có
thể chẩn cứu toàn thể nhân loại, thật sự cứu vớt nhân loại ra
khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng được. Chúng ta phát tâm xuất gia là để nghiên
cứu đạo lý của Phật giáo, dùng tinh thần từ bi vĩ đại của Phật giáo mà dấn
thân cứu độ tất cả chúng sanh, khiến cho mọi tai ương trên
thế giới đều vô hình trung bị tiêu diệt. Cho nên, bây giờ chúng
ta cần phải phát tâm buông bỏ các pháp của thế gian để nghiên
cứu pháp xuất thế gian.
Trong lúc cả vũ
trụ người ta đang hỗ tương cạnh tranh, đua nhau sáng chế các lợi
khí giết người để sát phạt nhau một cách điên cuồng, thì kỳ lạ thay,
có những người lại muốn xuất gia, muốn học tập pháp môn không giết người! Có
thể nói rằng sự kiện này sẽ làm cho toàn thể nhân loại trên
khắp vũ trụ đều phải vô cùng kinh ngạc! Tôi hy vọng trong lúc nhân loại
còn đang trong cơn kinh ngạc, thì quý vị đều có thể tỉnh ngộ,
mọi người đều biết hồi quang phản chiếu, học tập pháp môn không giết người này.
Thế giới này là do tâm
con người tạo thành. Con người có tâm hiếu sát, thích chém giết, thì
cả thế giới này sẽ biến thành một bãi chiến trường—một
thế giới của chiến tranh. Con người có lòng hiếu sanh, độ lượng, thì
thế giới này sẽ biến thành một thế giới hòa bình, hạnh phúc.
Thế nên, hiện nay có được những người Tây phương có thể giác
ngộ trước, phát tâm học tập về tôn giáo, về pháp môn không hiếu
sát, đối với hiện tại mà nói thì đây là một bước khởi đầu. Tôi hy vọng sau này,
tất cả người Tây phương cũng như người Đông phương, đều
sẽ sửa đổi tâm hiếu chiến thành tâm từ bi, từ bỏ tâm sân
hận để đổi lấy tâm từ bi hỷ xả, và có thể cùng nhau nghiên
cứu đạo Phật. Đây đối với người Tây phương chỉ là mở đầu của
sự giác ngộ; mong rằng trong tương lai chúng ta có thể chuyển
hóa các vị tổng thống của phương Tây trở thành những vị tổng
thống ủng hộ Phật giáo!
Bây giờ tôi
sẽ công bố tên của những người Tây phương xuất gia (tại Chùa Kim
Sơn Thánh Tự).
Người thứ nhất tên là
Quả Tiền, tự là Hằng Khiêm. Trước đây, khi chưa xuất gia, chú ấy
cho rằng thế giới này không có gì đáng trân trọng, và đã sống như một
khách nhàn du, chu du đây đó, không có gia đình để trở về.
Thế nhưng, bây giờ gặp được Phật Pháp rồi, chú bèn lấy chốn xuất
gia làm chỗ nương tựa để quay về.
Người thứ hai tên là
Quả Ninh, tự là Hằng Tịnh. Quả Ninh vốn cũng tự cho rằng
đời người thật vô vị, chẳng có ý nghĩa gì cả. Về sau, khi nhân duyên đến,
chú ấy đã gặp được Phật Pháp và biết được rằng chân lý chân chánh vốn nằm
trong giáo lý đạo Phật, nên bèn xin xuất gia.
Người thứ ba tên là
Quả Hiện, tự là Hằng Thọ. Quả Hiện là một thanh niên
trẻ tuổi cũng rất khác người. Chú ấy có ý muốn nghiên cứu về chân
lý của nhân sinh, muốn tìm hiểu nơi quay về rốt ráo, cùng vấn đề sanh
tử, cho nên chú đã xuất gia.
Người thứ tư tên
là Quả Dật, tự là Hằng Ẩn. Cô thanh nữ này trước kia cũng
có ý tưởng muốn chân chánh thấu hiểu về vấn đề nhân sinh, nay gặp
được Phật Pháp mới biết rằng đây chính là những gì đáng cho con người nghiên
cứu tìm hiểu, cho nên cô đã xuất gia tu hành.
Người thứ năm tên là
Quả Tu, tự là Hằng Trì. Quả Tu vốn đã nhận thức rất rõ ràng
về thế giới này, cô ta đã có được cái nhìn thấu suốt và đã có thể buông
bỏ hết mọi thứ, một lòng tha thiết muốn tu Đạo. Cô ta có nói mấy câu
như sau:
Quả tất năng đắc,
Tu chư phúc đức,
Hằng niệm Định, Huệ,
Trì Giới thành Phật.
(Quả sẽ đắc
được,
Tu mọi phước đức,
Hằng nhớ Định, Huệ,
Trì Giới thành Phật.)
Bốn câu này là do chính
Quả Tu sáng tác, rất có ý nghĩa.
Trên đây chỉ là
sơ lược về nhân duyên xuất gia của năm Phật tử người Tây
phương; nếu muốn kể chi tiết e rằng phải cần nhiều thời gian mới nói
hết được!
Bồ Đề Hải 79
“TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ LA NI GIẢ,
KHẨU TRUNG SỞ XUẤT NGÔN ÂM, NHƯỢC THIỆN NHƯỢC ÁC, NHẤT THIẾT THIÊN MA, NGOẠI
ĐẠO, THIÊN LONG QUỶ THẦN VĂN GIẢ, GIAI THỊ THANH TỊNH PHÁP ÂM, GIAI Ư KỲ NHÂN
KHỞI CUNG KÍNH TÂM, TÔN TRỌNG NHƯ PHẬT.”
“Người trì tụng Đà La Ni
này, khi miệng thốt ra lời nói gì, hoặc thiện hoặc ác, thì tất cả thiên ma,
ngoại đạo, thiên long, quỷ, thần, đều nghe thành tiếng Pháp âm thanh tịnh, đối
với người đó khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.”
[Quán Thế Âm Bồ-tát lại bảo
Đại Phạm Thiên Vương:] “Người trì tụng Đà La Ni này…” Nếu quý
vị chỉ nhớ Chú Đại Bi, học Chú Đại Bi một cách đơn thuần mà thôi chứ không tụng
cũng không trì thì chẳng có tác dụng gì cả! Quý vị cần phải trì tụng! “Tụng”
tức là lìa khỏi sách vở, không nhìn vào sách vở mà đọc tụng; còn “trì” nghĩa là
kiên trì, đều đặn, không gián đoạn. “Trì tụng Đà La Ni” tức là mỗi ngày đều
tụng niệm—chẳng phải là hôm nay tụng niệm, rồi ngày mai thì không tụng niệm,
đến ngày mốt lại tụng niệm tiếp... Quý vị hôm nay tụng 108 biến, thì ngày mai
cũng phải tụng 108 biến, ngày mốt cũng phải tụng 108 biến—ngày ngày phải liên
tục, đều đặn, tinh tấn tụng niệm, không hề ngưng nghỉ—như thế mới gọi là “trì
tụng”; nếu gián đoạn thì chẳng phải nghĩa “trì tụng” vậy!
Có người nói rằng: “Tôi
thuộc rồi, tôi thuộc nằm lòng Chú Đại Bi rồi, cần gì phải tụng niệm nữa!” Song
le, như thế thì không có công dụng gì cả! Quý vị cần phải “triêu ư tư, tịch ư
tư,” nghĩa là buổi sáng thì tu hành như thế, buổi tối cũng tu hành như thế,
không hề gián đoạn, chẳng có mảy may lười biếng, trễ nải—đó mới đích thực là
“tụng trì Đà La Ni” vậy! Đà La Ni này chính là “tổng
trì Đại Bi Chú.” “Tổng trì” có nghĩa là “tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng
nghĩa”; và cũng có nghĩa là tổng trì ba nghiệp thân, khẩu, ý, không sai phạm.
Quý vị nếu thân không gây tạo sát, đạo, dâm; tâm không sanh khởi tham, sân, si;
miệng không nói lời hung ác, dối trá, thêu dệt, đâm thọc, như vậy gọi là “tam
nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh,” và mới đúng là một hành giả chân chánh trì
tụng Đà La Ni. Nếu quý vị thường xuyên tụng niệm Chú Đại Bi, “khi miệng
thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác…” Người trì niệm Chú Đại Bi
thì vốn đã không nên có những lời lẽ độc ác, bất thiện rồi, song cũng có đôi
khi do vô tình mà trót phạm phải tội ác khẩu, “thì tất cả thiên ma,
ngoại đạo, thiên long, quỷ, thần đều nghe thành tiếng Pháp âm thanh tịnh.” Nói
như thế không có nghĩa là: “A! Tôi cứ tha hồ mắng chửi người khác, bởi những
lời ác độc, nguyền rủa, cũng là ‘thanh tịnh Pháp âm’ kia mà!” Không phải
như thế! Nếu vô hình trung quý vị ngẫu nhiên gây tạo nghiệp ác khẩu, thì ngay
lúc bấy giờ, đối với những người khác, đương nhiên đó vẫn là lời nói hiểm ác;
nếu như người nào nghe mà không biết đó là lời nói hiểm ác, thì người ấy đích
thị là một kẻ chẳng biết phân biệt thiện ác vậy!
Ở đây là nói đến các thiên
nhân, thiên ma, hàng ngoại đạo, chúng rồng ở cõi trời, hoặc các quỷ thần, mặc
dù họ có thể có Ngũ Thông, nhưng thần lực bất khả tư nghì của Chú Đại Bi sẽ
khiến cho nhĩ căn của họ bị gián đoạn; cho nên âm thanh mà họ nghe thấy toàn là
“Pháp âm thanh tịnh,” đối với họ đều là lời thuyết Pháp.
“Đối với người đó khởi lòng
cung kính, tôn trọng như Phật.” Ngày ngày họ đối với
người tụng Chú này đều nhất mực cung kính và trân trọng lễ bái. Họ tôn trọng
người tụng Chú Đại Bi này như tôn trọng mười phương chư Phật đời quá khứ vậy!
“TỤNG TRÌ THỬ ĐÀ LA NI GIẢ,
ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN TỨC THỊ PHẬT THÂN TẠNG, CỬU THẬP CỬU ỨC HẰNG HÀ SA CHƯ PHẬT
SỞ ÁI TÍCH CỐ.”
“Người nào trì tụng Đà La Ni
này, nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì chín mươi chín ức hằng hà sa
chư Phật đều yêu quý.”
“Người nào trì tụng Đà La Ni
này, nên biết người ấy chính là tạng Phật thân.” Mọi người nên biết rằng người này, kẻ có thể trì tụng Chú Đại
Bi, chính là “Phật thân tạng,” có nghĩa là nhất định sẽ thị hiện thân Phật. Vì
sao vậy? Đó là nhờ sức gia trì của Tam-muội. Tuy rằng người trì tụng này chưa
thành Phật, song người ấy cũng có thể khiến cho chân tướng của mình được sáng
chói như thân của Phật vậy—đây chính là sức mạnh do sự gia trì Chú Đại Bi, là
sự trợ lực từ công đức tụng trì Chú Đại Bi! Thế nhưng, trì tụng Chú Đại Bi thì
quý vị cần phải theo quy cũ, khuôn phép; không được nói rằng: “Tôi là Phật thân
tạng,” rồi có thể tùy tiện, buông lung.
Vì sao người ấy là “Phật thân
tạng”? ”Vì chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý.” Chín
mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đều đã phát nguyện rằng: “Ta sẽ
gia hộ cho người trì tụng thần chú Đại Bi Đà La Ni này như hộ trì mười phương
chư Phật vậy.”
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN TỨC THỊ
QUANG MINH TẠNG, NHẤT THIẾT NHƯ LAI QUANG MINH CHIẾU CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Quang Minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Quang Minh.” Quý vị tụng Thần Chú Đại Bi
thì sẽ hiển xuất vô số ánh sáng, vì sao? “Vì ánh sáng của tất cả Như
Lai đều chiếu đến nơi mình.” Bởi vì tất cả đức Phật trong mười phương
đều phóng hào quang chiếu dọi đến thân của quý vị.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ TỪ BI
TẠNG, HẰNG DĨ ĐÀ LA NI CỨU CHÚNG SANH CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Từ Bi, vì thường dùng Đà La Ni cứu độ chúng sanh.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Từ Bi.” Người có thể tụng trì Chú Đại Bi là
người có lòng đại từ đại bi, vì sao? “Vì thường dùng Đà La Ni cứu độ
chúng sanh.” Bởi vì người đó thường dùng Đà La Ni để cứu hộ hết thảy
chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh đều được ly khổ đắc lạc, tai qua nạn khỏi,
tật bệnh tiêu trừ, tội diệt phước sanh.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DIỆU
PHÁP TẠNG, PHỔ NHIẾP NHẤT THIẾT CHƯ ĐÀ LA NI MÔN CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Diệu Pháp, vì thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Diệu Pháp.” Quý vị phải biết rằng
người trì tụng Chú Đại Bi chính là “nơi” tụ hội các diệu pháp; vì sao? “Vì
thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni.”
Thần
chú Đại Bi Đà La Ni có công năng thâu nhiếp tất cả các môn Đà La Ni. Sự thâu
nhiếp này cũng giống như nam châm hút sắt vậy, có thể nhiếp trì, thu hút tất cả
các môn Đà La Ni về một chỗ. Cho nên, quý vị trì tụng Chú Đại Bi tức là đem tất
cả diệu pháp thâu nhiếp về một chỗ với nhau vậy.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THIỀN
ĐỊNH TẠNG, BÁCH THIÊN TAM MUỘI GIAI HIỆN TIỀN CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Thiền Định, vì trăm, ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền.”
“Nên
biết người ấy chính là tạng Thiền Định.” Người có thể trì tụng thần chú Đại Bi chính là tạng Thiền
Định. Vì sao người ấy được gọi là Thiền Định tạng? “Vì trăm, ngàn
Tam-muội thảy đều hiện tiền, cả trăm, ngàn Tam-muội đều có thể thường xuyên
hiện ra.”
“Trăm,
ngàn Tam-muội thảy đều hiện tiền” không có nghĩa là cả trăm, ngàn Tam-muội đồng
thời hiện ra, cũng không phải là không đồng thời hiện ra. Đó chính là một thứ
cảnh giới vi diệu bất khả tư nghị, không diễn tả bằng lời nói được! “Tam-muội”
chính là định lực; cả trăm, ngàn môn Tam-muội khác nhau đều có thể xuất hiện
cùng một lúc.
Thế
thì, nói “không đồng thời hiện ra” là thế nào? Bởi vì nếu quý vị hiển xuất một
Tam-muội, nếu chỉ thành tựu được một loại Tam-muội mà thôi, thì đây không phải
là “đồng thời hiện ra.” Tuy nhiên, có đôi khi, quý vị hiển xuất một loại
Tam-muội mà có thể bao gồm được tất cả các Tam-muội khác, thì đó gọi là “đồng
thời hiện ra” vậy.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ HƯ
KHÔNG TẠNG, THƯỜNG DĨ KHÔNG HUỆ QUÁN CHÚNG SANH CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Hư Không, vì thường dùng Không Huệ quán sát chúng sanh.”
“Nên
biết người ấy chính là tạng Hư Không.” Quý vị phải biết rằng người trì tụng Chú Đại Bi này cũng giống
như tạng Hư Không vậy, “vì thường dùng Không Huệ quán sát chúng
sanh.” Người này luôn luôn dùng trí huệ rộng lớn như hư không để quán
sát nhân duyên của chúng sanh.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ VÔ ÚY
TẠNG, LONG THIÊN THIỆN THẦN THƯỜNG HỘ TRÌ CỐ.
“Nên biết người ấy chính là
tạng Vô Úy, vì Thiên, Long, thiện thần thường theo hộ trì.”
“Nên
biết người ấy chính là tạng Vô Úy.” Quý vị nên biết rằng người này--người trì niệm Chú Đại
Bi—không còn lo âu sợ hãi, “vì Thiên, Long, thiện thần thường theo hộ
trì.” Thiên Long Bát Bộ và tất cả thiện thần luôn luôn gia hộ cho
người này.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DIỆU
NGỮ TẠNG, KHẨU TRUNG ĐÀ LA NI ÂM VÔ ĐOẠN TUYỆT CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là
tạng Diệu Ngữ, vì tiếng Đà La Ni trong miệng tuôn ra không dứt.”
“Nên
biết người ấy chính là tạng Diệu Ngữ.” Quý vị nên biết người luôn luôn trì tụng Chú Đại Bi, ngày đêm
không gián đoạn, chính là Diệu Ngữ Tạng. Những lời người này trì tụng đều là
thứ ngôn ngữ bất khả tư nghì, “vì tiếng Đà La Ni trong miệng tuôn ra
không dứt.” Người này lúc nào cũng niệm Chú Đại Bi Đà La Ni. “Không
dứt” tức là luôn luôn, thường xuyên trì niệm.
Trong
quá khứ, tôi đã từng gặp rất nhiều vị Tỳ Kheo như thế—ngày đêm tinh tấn trì Chú
Đại Bi, không nghĩ ngợi chuyện gì khác, họ chuyên cần trì niệm đến nỗi tất cả
mọi vọng tưởng đều không còn.
Chú thích:
Tam-muội Môn: Là sự khác biệt giữa nhiều thứ Tam-muội nên gọi là “môn”.
Tam-muội mà Bồ-tát chứng được là nhập vào cửa Phật sẵn có vô lượng Tam-muội nên
gọi là “môn”.
Bồ Đề Hải 80
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THƯỜNG TRỤ TẠNG, TAM TAI ÁC KIẾP BẤT
NĂNG HOẠI CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là tạng Thường Trụ, vì tam tai ác
kiếp không thể hủy hoại được.”
GIẢNG:
“Nên biết người ấy chính là tạng Thường Trụ.” Quý vị nên biết rằng người thường xuyên trì tụng Chú Đại Bi
chính là Thường Trụ Tạng, bởi “vì tam tai ác kiếp không thể
hủy hoại được.”
“Tam tai” là gì? Chẳng phải hôm qua tôi đã giảng rồi sao? Đó chính là ba
thứ tai ương: thủy tai (nạn nước), hỏa tai (nạn lửa) và phong tai (nạn gió):
“Thủy yểm Sơ thiền, hỏa thiêu Nhị thiền, phong quát Tam
thiền.”
(Nước ngập Sơ thiền, lửa đốt Nhị thiền, gió quét Tam thiền.)
Hiện tại tuy nói rằng trên thế giới cũng có nạn lũ lụt, hỏa
hoạn và gió bão xảy ra, song đó chỉ là những trận nhỏ so với đại tam tai. Lúc
đại tam tai phát khởi, đại thủy tai sẽ tràn ngập tới cõi trời Sơ thiền, đại hỏa
tai sẽ thiêu đốt đến cõi trời Nhị thiền, và đại phong tai sẽ càn quét tận cõi
trời Tam thiền. Bấy giờ, đừng nói gì cõi nhân gian, mà ngay cả cõi trời cũng
đều không thoát khỏi ba thứ tai ương này.
“Ác kiếp” là thời kỳ mà nạn đao binh, lũ lụt, hỏa hoạn, dịch bệnh hoành
hành. Tuy nhiên, những người thường xuyên trì niệm Chú Đại Bi thì không bị các
tai kiếp này xảy đến cho thân mình.
Trì niệm Chú Lăng Nghiêm cố nhiên là được bất khả tư nghì công
đức và bất khả tư nghì phước báo; trì niệm Chú Đại Bi thì cũng vậy—cũng có được
năng lực “chuyển đổi càn khôn, dời non lấp bể.” Nếu quý vị tu pháp Bốn Mươi Hai
Thủ Nhãn thành công thì quý vị có thể chuyển dời được cả núi Tu Di, có thể dời
thế giới này đến chỗ của thế giới khác và dời thế giới khác đến chỗ của thế
giới này, mà những người cư trú trong những thế giới đó vẫn không biết rằng họ
đã bị dời đi! Quý vị xem, như vậy có kỳ diệu không chứ?
Từ phương Bắc dời qua phương Nam, xê dịch một cái là dời
đi cả mấy vạn dặm mà không ai hay biết gì cả, đây mới thực sự là một cuộc “đại
thiên di”! Nếu quý vị tu tập thành công, quý vị sẽ có được năng lực này; bấy
giờ, nếu cảm thấy nơi này không được vừa ý thì có thể dọn sang nơi khác, dời
thế giới khác về nơi này, dời thế giới này sang thế giới khác—mà không cần phải
dùng đến hỏa tiễn. Quý vị xem, như vậy có vi diệu không chứ? Thế nhưng, quý vị
phải tu thành thì mới được, nếu tu chưa thành thì không thể làm nổi những việc
như thế!
“Không thể hủy hoại được.” Bởi tất cả những tai kiếp này đều không thể hủy hoại được
những người trì tụng Chú Đại Bi, cho nên họ được gọi là “tạng Thường Trụ” vậy.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ GIẢI THOÁT TẠNG, THIÊN MA NGOẠI ĐẠO BẤT
NĂNG KÊ LƯU CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là tạng Giải Thoát, vì thiên ma ngoại
đạo không thể cản trở được.”
GIẢNG:
“Nên biết người ấy chính là tạng Giải Thoát.” Quý vị phải biết rằng những người chuyên tâm trì niệm Chú Đại
Bi sẽ có được tạng Giải Thoát, “vì thiên ma ngoại đạo không thể cản trở
được.” Họ được tự do, thiên ma ngoại đạo cũng không thể quấy nhiễu,
ngăn cản hoặc cai quản họ được.
Nếu quý vị có đôi chút bản lãnh, thì có khi thiên ma ngoại đạo
cũng muốn bắt quý vị về làm quyến thuộc của chúng; tuy nhiên, nếu quý vị có thể
trì niệm Chú Đại Bi thì chúng sẽ không làm gì quý vị được cả, chúng không thể
nào tóm bắt quý vị được.
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ DƯỢC VƯƠNG TẠNG, THƯỜNG DĨ ĐÀ-LA-NI
LIỆU CHÚNG SANH BỆNH CỐ.”
“Nên biết người ấy chính là tạng Dược Vương, vì thường dùng Đà
La Ni trị bệnh cho chúng sanh.”
GIẢNG:
Chú Đại Bi có thể chữa trị mọi bệnh tật trên thế gian. Thế
gian có tám vạn bốn ngàn thứ bệnh tật thì Chú Đại Bi đều có thể trị khỏi tất
cả; tuy nhiên, quý vị cần phải thành tâm trì tụng thì mới có được sức mạnh và
sự công hiệu này. Nếu quý vị không thành tâm trì tụng, lúc bình thường chẳng
tụng chẳng trì, đợi đến lúc người có bệnh tìm đến thì quý vị bảo rằng: “À, để
tôi niệm một biến Chú Đại Bi chữa bệnh cho người này!” Niệm một biến ư? Bấy
giờ, cho dù quý vị có niệm tới mười biến thì cũng chẳng có công hiệu gì cả! Cần
phải lúc bình thường vẫn thuờng xuyên tu tập Đại Bi Pháp, vẫn trì tụng Đại Bi
Chú, thì đến lúc cần dùng mới linh nghiệm, mới có công hiệu.
Nếu lúc bình thường quý vị không tu không tụng, biện minh
rằng: “Khi nào cần dùng thì khi đó hãy niệm. Nhớ khi nào thì niệm khi đó!” Làm
như thế thì cũng có thể có công hiệu đấy, nhưng không được lớn lắm. Cũng như
lúc bình thường thì quý vị không chịu đào giếng, đợi đến lúc khát khô cả cổ,
thèm uống miếng nước, mới than thở: “Ở chỗ tôi không có nước uống, tôi cần phải
đào một cái giếng mới được!” Thế nhưng, quý vị muốn đào giếng thì cũng phải đợi
đến mấy ngày sau mới có nước để dùng. Quý vị lại nói: “Tôi lập tức đào giếng
thì lập tức có nước uống ngay!” Không thể nào có chuyện đó! Và, việc trì tụng
Chú Đại Bi cũng tương tự như thế.
Vậy, quý vị “nên biết người ấy chính là tạng Dược
Vương, vì thường dùng Đà La Ni trị bệnh cho chúng sanh.” Nếu lúc bình
thường quý vị chuyên cần trì tụng Chú Đại Bi, thì đến khi cần dùng tới, quý vị
sẽ giống như tạng Dược Vương vậy, hết thảy các thứ thuốc đều nằm trong Chú Đại
Bi, cho nên quý vị niệm Chú Đại Bi thì mọi bệnh tật ốm đau đều sẽ lìa khỏi thân
mình!
“ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN THỊ THẦN THÔNG TẠNG, DU CHƯ PHẬT QUỐC ĐẮC
TỰ TẠI CỐ. KỲ NHÂN CÔNG ĐỨC, TÁN BẤT KHẢ TẬN.”
“Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông, vì được tự tại
dạo khắp các cõi Phật. Công đức của người ấy tán thán không cùng tận!”
GIẢNG:
“Nên biết người ấy chính là tạng Thần Thông.” Quý vị nên biết rằng người niệm Chú Đại Bi này có thần thông, “vì
được tự tại dạo khắp các cõi Phật.” Người đó, trong lúc Thiền định, dù
đang ngồi hay nằm, đều có thể đến các quốc độ của chư Phật. Muốn đến cõi nước
của đức Phật nào, người ấy chỉ cần nghĩ tới cõi nước đó, chẳng hạn như: “Tôi
muốn đi xem cho biết thế giới Cực Lạc trông như thế nào!”; thì liền nhập Thiền
định và đến ngay thế giới Cực Lạc! Vì sao lại được như thế? Đó chính là do oai
lực của Chú Đại Bi đã trợ giúp, khiến cho người ấy có thể du hành đến các cõi
nước của chư Phật.
“Dạo khắp” ở đây ám chỉ sự du hành của tự tánh, chứ không phải
mang theo “cái túi da hôi thối” này mà dạo chơi ở thế giới Cực Lạc đâu! Nếu cái
thân này cùng theo đến thế giới Cực Lạc thì nó không thể trở về lại thế giới
này được nữa, mà dù cho có trở về thì cũng không dễ gì mà có được sự thong dong
tự tại!
“Công đức của người ấy tán thán không cùng tận.” Dù có khen ngợi đến thế nào đi nữa thì cũng không thể kể cho
hết công đức của người trì tụng Chú Đại Bi này được!
Bồ Đề Hải 81
KINH VĂN:
“THIỆN NAM TỬ! NHƯỢC PHỤC HỮU NHÂN, YẾM THẾ GIAN KHỔ, CẦU TRƯỜNG SANH LẠC
GIẢ, TẠI NHÀN TỊNH XỨ, THANH TỊNH KẾT GIỚI, CHÚ Y TRƯỚC, NHƯỢC THỦY, NHƯỢC
THỰC, NHƯỢC HƯƠNG, NHƯỢC DƯỢC, GIAI CHÚ NHẤT BÁCH BÁT BIẾN PHỤC, TẤT ĐẮC TRƯỜNG
MẠNG.”
“Thiện nam tử! Nếu lại có người nhàm chán sự khổ ở thế gian, cầu được
trường sanh an lạc, thì nên ở nơi sạch sẽ vắng lặng mà thanh tịnh kết giới; rồi
trì niệm Chú vào y phục mà mặc; các thứ như nước uống, thức ăn, hương, thuốc
men, thảy đều chú nguyện 108 biến rồi mới phục dụng, tất sẽ được sống lâu.”
LƯỢC GIẢNG:
Đoạn kinh văn này nói về những người muốn được “trường sanh bất lão,” ao
ước mình sẽ được sống hoài sống mãi, vĩnh viễn không bao giờ phải già, phải
chết. Có một phái ngoại đạo nói rằng nếu sanh lên cõi trời thì sẽ được sống mãi
mãi; tuy nhiên, cần phải vất bỏ cái “túi da hôi thối” này! Theo giáo lý nhà
Phật, nếu được sanh về thế giới Cực Lạc, hóa sanh từ hoa sen, thì sẽ không còn
bị đọa lạc và cũng không còn cần tới cái “túi da hôi thối,” cái bộ xương giả
tạm này nữa. Thế nhưng, nếu quý vị muốn khỏi xả bỏ cái “túi da hôi thối” này mà
vẫn được “trường sanh bất tử,” thì cũng có thể được đấy! Quán Âm Bồ-tát đã có
cách để giúp quý vị thực hiện được điều này. Giúp bằng cách nào đây?
“Thiện nam tử!” Ở đây, “thiện nam tử” là
bao gồm luôn cả người thiện nữ. Vậy, Quán Âm Bồ-tát giúp như thế nào? “Này các
thiện nam tử và các thiện nữ nhân, những người thọ trì Ngũ Giới và hành trì
Thập Thiện! Nếu lại có người nhàm chán sự khổ ở thế gian, cầu được
trường sanh an lạc.” Giả sử có người chán ghét nỗi khổ não về sanh tử
của thế gian này—sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh ra—cho nên muốn trong đời
này được “bất tử,” được không phải chết và cũng không phải tái sanh nữa, vĩnh
viễn được hưởng nỗi vui sướng của sự trường sanh. Điều này có thể làm được đấy;
thế thì làm như thế nào?
Trước hết, người đó phải “ở nơi sạch sẽ vắng lặng mà thanh tịnh kết
giới.” “Nhàn” tức là “du nhàn,” có nghĩa là an
nhàn, thanh thản. “Tịnh” là thanh tịnh, trong lành, sạch sẽ. “Nhàn tịnh xứ” tức
là một nơi vô cùng yên tĩnh, rất ít người lui tới. “Thanh tịnh kết giới,” tức
là người đó phải ở tại một nơi sạch sẽ và vắng lặng mà dùng Chú Đại Bi để kết
giới. Phương pháp kết giới là như thế nào?
“Chú nguyện vào y phục.” Người đó cần đem áo quần của mình ra và niệm vào đó 108 biến
Chú Đại Bi. Và “các thứ như nước uống, thức ăn, hương, thuốc men, thảy
đều chú nguyện 108 biến rồi mới phục dụng.” Trong nước uống của mình,
nên niệm 108 biến Chú Đại Bi vào đó rồi hãy uống. Thức ăn cũng vậy, cũng niệm
108 biến Chú Đại Bi rồi mới ăn. Ngay cả nhang để thắp thì cũng niệm 108 biến
Chú Đại Bi rồi mới thắp; hoặc là thuốc men dược phẩm thì cũng nên niệm 108 biến
Chú Đại Bi rồi hãy uống. Tất cả đều cần phải niệm Chú Đại Bi 108 biến rồi mới
được dùng. Chữ “phục dụng” ở đây mang rất nhiều nghĩa, có thể hiểu là mặc (quần
áo), uống (nước, thuốc men), ăn (thức ăn), thắp (hương, nhang).
Có người thắc mắc: “Có thể gom tất cả các thứ vật chất này về
một chỗ, rồi mới niệm 108 biến Chú được không? Hay là phải niệm tách biệt 108
biến cho từng thứ một?” Chỉ có những kẻ chuyên môn lười biếng mới nghĩ ra được
cái “diệu pháp” như thế: “Nếu gom lại về một chỗ thì tôi chỉ việc niệm 108 biến
Chú là xong ngay, tất cả cũng đều được chú nguyện thôi!”
Thế cũng được! Cũng có thể hợp chung lại niệm, nhưng có điều,
mức độ linh nghiệm sẽ giảm đi ít nhiều do bị phân tán bớt. Nếu quý vị có thể
niệm riêng rẽ 108 biến Chú cho mỗi thứ, thì mặc dầu phải cần nhiều thời gian
hơn một chút, song công hiệu lại lớn hơn rất nhiều. Còn nếu quý vị chấp nhận
công hiệu nhỏ, thì cứ việc tiết kiệm đôi chút thời giờ vậy! Thế nhưng, niệm Chú
xong rồi thì quý vị rảnh rỗi để làm gì? Có công việc gì cần phải làm chăng? Nếu
quý vị muốn đi ngủ thì chi bằng niệm Chú thêm vài biến nữa có phải là mầu nhiệm
hơn không? Cho nên, nếu niệm 108 biến cho từng món đồ vật thì sẽ tốt hơn.
“Tất sẽ được sống lâu.” Người đó nhất định sẽ được thọ mạng lâu dài. Thọ mạng
lâu dài là bao nhiêu lâu? Không ai có thể biết được, vì sự lâu dài này không có
cùng tận, quý vị muốn lâu bao nhiêu thì sẽ được lâu bấy nhiêu. Nếu quý vị
nói: “A! Tôi không muốn sống lâu đến thế”; thì bất cứ lúc nào quý vị cũng
có thể vãng sanh, hết sức tự do tự tại. Vì thế, thọ mạng dài bao lâu thì cũng
không ai biết được, không ai có thể quyết định cho quý vị được cả!
KINH VĂN:
“NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP KẾT GIỚI, Y PHÁP THỌ TRÌ, NHẤT THIẾT THÀNH TỰU.
KỲ KẾT GIỚI PHÁP GIẢ: THỦ ĐAO, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, HOẠCH ĐỊA VI GIỚI; HOẶC
THỦ TỊNH THỦY, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, TÁN TRƯỚC TỨ PHƯƠNG VI GIỚI; HOẶC THỦ
BẠCH GIỚI TỬ, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, TRỊCH TRƯỚC TỨ PHƯƠNG VI GIỚI; HOẶC DĨ
TƯỞNG ĐÁO XỨ VI GIỚI; HOẶC THỦ TỊNH KHÔI, CHÚ NHỊ THẬP NHẤT BIẾN VI GIỚI; HOẶC
CHÚ NGŨ SẮC TUYẾN NHỊ THẬP NHẤT BIẾN, VI NHIỄU TỨ BIÊN VI GIỚI, GIAI ĐẮC.
NHƯỢC NĂNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ, TỰ NHIÊN KHẮC QUẢ.”
“Nếu có thể như Pháp kết giới, y Pháp thọ trì, thì tất cả sẽ được thành
tựu. Phương pháp kết giới như sau: lấy con dao và tụng chú hai mươi mốt biến,
rồi rạch đất làm giới hạn; hoặc lấy nước sạch và tụng chú hai mươi mốt biến,
rồi rảy khắp bốn phương làm giới hạn; hoặc lấy hạt bạch giới và tụng chú hai
mươi mốt biến, rồi ném ra bốn phương làm giới hạn; hoặc lấy chỗ mà tâm nghĩ
tưởng tới làm giới hạn; hoặc lấy tro sạch và tụng chú hai mươi mốt biến làm
giới hạn; hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc hai mươi mốt biến, rồi cột quanh bốn
bên làm giới hạn; đều được cả.
Nếu có thể như pháp mà thọ trì, tự nhiên sẽ có thành quả.”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu có thể như pháp kết giới, y pháp thọ trì.” Nếu có thể theo đúng cách thức này mà kết giới, y chiếu
pháp Đại Bi mà thọ trì Chú Đại Bi, cũng có nghĩa là y theo phương pháp này mà
tu trì pháp Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn, “thì tất cả sẽ được thành tựu,” cầu
cái gì thì được cái đó. Thế thì phương pháp kết giới là như thế nào? “Phương
pháp kết giới như sau,” bây giờ tôi sẽ giảng cho quý vị rõ.
“Lấy con dao và tụng chú hai mươi mốt biến rồi rạch đất làm giới hạn.” Quý vị phải lấy một con dao, lấy dao để làm gì? Chẳng lẽ
để giết người sao? Ở đây, quý vị lấy dao không phải để giết người mà là để
“giết đất,” tức là “rạch đất làm giới hạn.” Sau khi tụng chú vào con dao hai
mươi mốt biến thì cũng cần phải “tam thóa,” tức là hà hơi vào con dao ba lần.
Chẳng phải phần trước tôi đã giảng về “tam thóa” rồi hay sao?
Sau khi đã “tam thóa” thì dùng con dao đó để “rạch đất làm giới hạn”—quý vị
muốn một phạm vi bao xa, diện tích bao lớn, thì cầm dao vẽ đường chu vi, tạo
thành một lằn ranh trên mặt đất để làm giới hạn. Tất cả thiên ma ngoại đạo, yêu
ma quỷ quái đều không thể nào vào được bên trong của đường ranh giới này. Họ
chỉ có thể ở bên ngoài, chứ không được phép bén mảng tới phía trong vòng kết
giới—bởi vì đây chính là chỗ kỳ diệu của Chú Đại Bi. Một khi quý vị đã kết giới
rồi, thì nơi đó thuộc phạm vi của quý vị.
“Hoặc lấy nước sạch và tụng chú hai mươi mốt biến.” Hiện nay đa số đều dùng nước sạch (tịnh thủy) để kết
giới vì tiện lợi, chỉ cần dùng một ly nước sạch thôi là được. Quý vị lấy một ly
nước sạch và chú niệm vào ly nước ấy hai mươi mốt biến Chú Đại Bi, rồi sau đó,
khi có Pháp hội thì dùng để “sái tịnh.” Sái tịnh cũng chính là kết giới—mọi
người cùng nhau niệm Chú Đại Bi, và cầm cành dương liễu nhúng vào ly nước sạch
đó, “rồi rảy khắp bốn phương làm giới hạn.” Nước rảy đến chỗ
nào thì chỗ đó là giới hạn.
“Hoặc lấy hạt bạch giới và tụng chú hai mươi mốt biến.” Quý vị cũng có thể dùng hạt của cây bạch giới (hạt cải
trắng), tụng vào đó hai mươi mốt biến Chú Đại Bi, “rồi ném ra bốn
phương làm giới hạn.” Quý vị hướng ra bốn phương mà rải, hễ hạt bạch
giới văng đến đâu thì lấy đó làm giới hạn kết giới.
“Hoặc lấy chỗ tâm nghĩ tưởng tới làm giới hạn.” Quý vị cũng có thể lấy nơi mà tâm mình nghĩ tưởng tới để
làm giới hạn—quý vị nghĩ tới chỗ nào thì chỗ đó liền được xem là giới hạn. Thí
dụ như chúng ta đang ở đây và nghĩ rằng: “Ồ! Tôi muốn lấy chỗ ánh sáng của mặt
trăng làm giới hạn”; thì chỗ có ánh trăng đều được xem là thuộc trong vòng kết
giới của quý vị. Nếu chúng ta nghĩ muốn lấy chỗ có ánh sáng của mặt trời làm
giới hạn, thì chỗ có ánh mặt trời cũng được kể là ở trong vòng kết giới của
chúng ta. Nếu nghĩ rằng bốn đại bộ châu thuộc giới hạn kết giới của chúng ta,
thì cả bốn đại bộ châu đều thuộc về phạm vi kết giới của chúng ta.
“Hoặc lấy tro sạch và tụng chú hai mươi mốt biến làm giới hạn.” “Tro sạch” (tịnh khôi) tức là thứ tro ở trong lư hương.
Quý vị có thể lấy thứ tro này và chú niệm vào đó hai mươi mốt biến, rồi rải ra
xung quanh để làm giới hạn.
“Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc hai mươi mốt biến, rồi cột quanh bốn bên làm
giới hạn.” Hoặc là dùng loại chỉ năm màu và niệm
hai mươi mốt biến chú vào sợi chỉ đó rồi cột vòng xung quanh bốn bên để làm
giới hạn.
Trong những cách kết giới này, quý vị muốn áp dụng cách nào cũng “đều
được cả,” không nhất thiết quy định phải dùng loại nào, nên rất thuận
tiện. Quý vị không có thứ này thì có thể dùng thứ khác—không có chỉ ngũ sắc thì
có thể dùng tro, không có tro thì có thể dùng nước sạch, không có nước sạch thì
có thể dùng hạt bạch giới, không có hạt bạch giới thì có thể dùng con dao. Quý
vị chọn cách nào cũng được cả, tùy sở thích của mình, muốn thứ nào thì dùng thứ
đó. Hoặc là trong lòng mình suy nghĩ: “À! Tôi muốn nội trong 500 miles đều là
nơi kết giới của tôi!” thì đều được cả.
“Nếu có thể như pháp mà thọ trì, tự nhiên sẽ có thành quả.” Nếu quý vị có thể y chiếu theo pháp này mà tu hành thọ trì,
thì tự nhiên sẽ đạt được hiệu quả, có thể chứng được quả vị.
Bồ Đề Hải 82
KINH VĂN:
“NHƯỢC VĂN THỬ ĐÀ-LA-NI DANH TỰ GIẢ, THƯỢNG DIỆT VÔ LƯỢNG KIẾP SANH TỬ TRỌNG
TỘI, HÀ HUỐNG TỤNG TRÌ GIẢ? NHƯỢC ĐẮC THỬ THẦN CHÚ TỤNG GIẢ, ĐƯƠNG TRI KỲ NHÂN
DĨ TẰNG CÚNG DƯỜNG VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT, QUẢNG CHỦNG THIỆN CĂN.
NHƯỢC NĂNG VI CHƯ CHÚNG SANH BẠT KỲ KHỔ NẠN, NHƯ PHÁP TỤNG TRÌ GIẢ, ĐƯƠNG TRI KỲ
NHÂN TỨC THỊ CỤ ĐẠI BI GIẢ, THÀNH PHẬT BẤT CỬU; SỞ KIẾN CHÚNG SANH, GIAI TẤT VI
TỤNG, LINH BỈ NHĨ VĂN, DỮ TÁC BỒ-ĐỀ NHÂN, THỊ NHÂN CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN,
TÁN BẤT KHẢ TẬN”.
“Nếu người nghe danh tự của Đà La Ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử
trong vô lượng kiếp, thì huống chi là người trì tụng! Nếu người nào gặp được
thần chú này mà tụng trì, nên biết rằng người ấy đã từng cúng dường vô lượng
chư Phật, rộng trồng căn lành.
Nếu người nào có thể vì dứt trừ khổ nạn cho các chúng sanh mà như Pháp tụng
trì, nên biết rằng người đó chính là bậc có đủ tâm Đại Bi, chẳng bao lâu nữa sẽ
thành Phật. Người đó thấy các chúng sanh thì đều vì họ mà tụng, khiến cho chính
tai họ được nghe, để cùng gây nhân Bồ Đề. Công đức của người đó là vô lượng vô
biên, tán thán không hết được!”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu người nghe danh tự của Đà La Ni này - ”Thiên Thủ Thiên Nhãn
Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Thần Diệu Chương
Cú” - “còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, thì
huống chi là người trì tụng!” Quý vị chỉ vừa được nghe đến tên của Chú
Đại Bi thì bao nhiêu sanh tử trọng tội trong vô lượng kiếp đều được tiêu trừ.
Thế thì, có người nói rằng: “Tôi đã nghe nhiều lần lắm rồi, hẳn là tôi có thể
tiêu trừ rất nhiều sanh tử trọng tội trong vô lượng kiếp!”
Cũng có thể! Có thể quý vị tiêu diệt được vô lượng sanh tử trọng tội, song quý
vị lại cũng gây tạo vô lượng sanh tử trọng tội nữa; do đó số tội được tiêu diệt
không nhiều bằng số tội gây tạo, và như thế thì chẳng khác nào chưa tiêu diệt
được vậy! Vì sao? Đó là vì quý vị không thể “y pháp tu hành”. Phải “y pháp tu
hành” thì mới có thể hoàn toàn tiêu diệt nghiệp tội được!
“Huống chi là người trì tụng!” Chỉ nghe được tên gọi mà có thể tiêu trừ được
nhiều nghiệp tội đến thế, thì huống chi là chính mình có thể tự kiên trì đọc
tụng Chú Đại Bi này!
“Nếu người nào gặp được thần chú này mà tụng trì…” “Tụng giả” tức
là người có khả năng trì tụng. Nếu có người nào có thể tụng trì thần chú này,
thì quý vị “nên biết rằng người ấy đã từng cúng dường vô lượng chư
Phật, rộng trồng căn lành”. Quý vị cần phải biết rằng chính quý vị đây
cũng là những người trong quá khứ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo
trồng nhiều thiện căn, cho nên nay mới được hạnh ngộ Chú Đại Bi Đà La Ni! Nếu
quý vị chưa từng cúng dường vô lượng chư Phật, thì cho dù quý vị có nghe thì
cũng không lọt được vào tai, hoặc là vào tai này lại ra tai kia mà thôi, không
thể nào ghi nhớ được!
“Nếu người nào có thể vì dứt trừ khổ nạn cho các chúng sanh mà như Pháp tụng
trì…” Điều tối quan trọng là phải tụng trì đúng Pháp; nếu không “như
Pháp tụng trì” thì dù có tụng cũng chẳng có công hiệu!
Vậy, giả sử có người có thể tụng Chú Đại Bi, quán tưởng vì tất cả chúng sanh
tiêu trừ khổ nạn, có thể y chiếu pháp Đại Bi để tụng trì, thì “nên biết
rằng người đó chính là bậc có đủ tâm Đại Bi, chẳng bao lâu nữa sẽ thành Phật”. Quý
vị cần phải biết rằng những người như thế chính là hóa thân của Đại Bi Quán Thế
Âm Bồ-tát, có đầy đủ lòng từ bi rộng lớn, và sắp sửa được thành Phật.
“Người đó thấy các chúng sanh thì đều vì họ mà tụng, khiến cho chính tai họ
được nghe, để cùng làm nhân Bồ Đề”. Đối với các chúng sanh mình gặp,
người đó đều vì họ mà trì tụng Chú Đại Bi, khiến cho tất cả đều chính tai được
nghe bài Chú Đại Bi và tên của Chú Đại Bi. Nhờ nghe được bài Chú Đại Bi hoặc
tên của Chú Đại Bi, các chúng sanh này đều có thể gieo trồng nhân Bồ Đề về lâu
xa.
“Công đức của người đó là vô lượng vô biên, tán thán không hết được!” Người
này thường xuyên niệm Chú Đại Bi, cho nên công đức làm cho chúng sanh luôn được
nghe âm thanh của Chú Đại Bi của người này là vô lượng vô biên. Công đức ấy
thật là vô cùng vô tận, chúng ta không có cách nào khen ngợi cho hết được!
KINH VĂN:
“NHƯỢC NĂNG TINH THÀNH DỤNG TÂM, THÂN TRÌ TRAI GIỚI, VI NHẤT THIẾT CHÚNG SANH
SÁM HỐI TIÊN NGHIỆP CHI TỘI, DIỆC TỰ SÁM TẠ VÔ LƯỢNG KIẾP LAI CHỦNG CHỦNG ÁC
NGHIỆP, KHẨU TRUNG “CẤP CẤP” [馺馺] TỤNG THỬ ĐÀ LA NI, THANH THANH BẤT
TUYỆT GIẢ, TỨ SA MÔN QUẢ, THỬ SANH TỨC CHỨNG.
KỲ LỢI CĂN HỮU HUỆ QUÁN PHƯƠNG TIỆN GIẢ, THẬP ĐỊA QUẢ VỊ, KHẮC HOẠCH BẤT NAN;
HÀ HUỐNG THẾ GIAN TIỂU TIỂU PHÚC BÁO? SỞ HỮU CẦU NGUYỆN, VÔ BẤT QUẢ TOẠI GIẢ
DÃ!”
“Nếu hay với tâm tinh cần chí thành, giữ gìn trai giới, vì tất cả chúng sanh
mà sám hối những nghiệp tội thuở trước, và tự mình cũng sám tạ vô số ác nghiệp
từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà La Ni này, tiếng
tiếng không dứt, thì sẽ chứng được Tứ Quả Sa Môn ngay trong đời này.
Nếu là hàng lợi căn có phương tiện Tuệ Quán, thì việc chứng được quả vị Thập
Địa còn không lấy gì làm khó, huống là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian! Mọi
điều mong cầu chẳng có điều gì là không được toại nguyện cả!”
LƯỢC GIẢNG:
“Nếu hay với tâm tinh cần chí thành” “Nếu hay” tức là đặt giả
thiết, ví dụ rằng có việc như thế. “Tinh” có nghĩa là chuyên nhất; “thành” là
chí thành. Vậy thì quý vị chỉ một lòng chuyên nhất, không sanh tâm tạp loạn,
như thế để làm gì? Để “giữ gìn trai giới”. “Thân” tức là thân thể;
“trì” là thọ trì, gìn giữ; “trai” tức là ăn chay, không ăn thịt; và “giới” là
giới trừ, không làm các việc ác.
“Vì tất cả chúng sanh mà sám hối những nghiệp tội thuở trước”. Tất
cả chúng sanh đều có các nghiệp tội và giả sử rằng quý vị có thể tinh nghiêm
hành trì giới luật, và có thể thay mặt họ để sám hối cho bao nghiệp tội họ đã
trót gây tạo trong quá khứ.
“Và tự mình cũng sám tạ vô số ác nghiệp từ vô lượng kiếp đến nay”. Điều
này thì tuy không phải vì mình mà cũng chính là vì mình - bởi vì mình cũng là
một trong số các chúng sanh, cho nên nói sám hối cho tất cả chúng sanh cũng có
nghĩa là sám hối cho chính mình vậy.
“Từ vô lượng kiếp đến nay” tức là từ vô lượng kiếp trong quá khứ
cho đến hiện tại. Những ác nghiệp mà chúng ta đã gây tạo từ vô thủy kiếp đến
nay, từ đời này sang đời khác, thì nhiều đến vô lượng vô biên.
“Nơi miệng liên tục, đều đặn tụng Đà La Ni này, tiếng tiếng không dứt”. ”Cấp
cấp” là từ tượng thanh cho tiếng chân ngựa đang chạy cộp cộp trên đường lộ.
Tiếng tụng Chú Đại Bi của quý vị phải giống như âm vang của tiếng ngựa chạy -
liên tục, đều đặn, rành rẽ, câu nọ tiếp nối câu kia, không hề đứt đoạn: “Nam Mô
Hắc Ra Đát Na Đa Ra Dạ Da… ” “Không dứt” tức là niệm tiếng này sang tiếng khác,
liên tục, không gián đoạn. Quý vị không nên miệng niệm Chú Đại Bi mà tâm lại
sanh vọng tưởng rồi ngưng niệm nửa chừng; mà cần phải luôn luôn giữ cho mình được
“tâm niệm chuyên nhất”.
“Thì sẽ chứng được Tứ Quả Sa Môn ngay trong đời này”. Tứ Quả Sa Môn
tức là bốn quả vị: Sơ quả A La Hán, Nhị quả A La Hán, Tam quả A La Hán và Tứ
quả A La Hán. Quý vị có thể chứng được quả vị A La Hán ngay trong đời hiện tại,
tuy nhiên, quý vị cần phải niệm với lòng thiết tha thành khẩn.
“Nếu là bậc lợi căn có phương tiện Tuệ Quán…” “Lợi căn” có nghĩa là
thông minh. Nếu là người thông minh, có thể dùng trí tuệ để quán sát, thấu rõ
trùng trùng pháp môn phương tiện và chuyên tâm trì tụng Chú Đại Bi, “thì
việc chứng được quả vị Thập Địa còn không lấy gì làm khó”.
Thập Địa tức là mười vị trí; gồm có: Hoan Hỷ Địa, Ly Cấu Địa, Phát Quang Địa,
Diệm Tuệ Địa, Nan Thắng Địa, Hiện Tiền Địa, Viễn Hành Địa, Bất Động Địa, Thiện
Tuệ Địa và Pháp Vân Địa. Đây là mười quả vị của hàng Bồ Tát và chẳng dễ gì mà
chứng đắc được, thế nhưng, nếu quý vị nhất tâm chuyên chú trì niệm Chú Đại Bi,
thì quý vị sẽ chứng đắc một cách không khó khăn gì cả!
“Khắc” có nghĩa là có thể; “khắc hoạch” tức là có thể có được. Các quả vị của
Thập Địa vốn rất khó mà đạt được, song nay nhờ quý vị tụng trì Chú Đại Bi, cho
nên việc này chẳng còn gì là khó khăn nữa!
“Huống là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian!” Thế nào gọi là
“những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian”? Được làm vua, làm tổng thống, hoặc làm
người giàu có nhất… Đây đều là “những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian”, chẳng có
gì là đặc biệt lắm đâu!
“Mọi điều mong cầu chẳng có điều gì mà không được toại nguyện cả!” Quý
vị sẽ được “toại tâm mãn nguyện” với mọi mong cầu - tuy nhiên, quý vị còn nhớ
không? Quý vị cần phải dứt bỏ tâm hoài nghi! Quý vị:
“Nhược sanh thiểu nghi tâm giả,
tất bất đắc quả toại dã”.
(Nếu sanh chút lòng nghi,
thì kết quả sẽ không được toại ý!)
Nếu quý vị có một chút băn khoăn, nghi ngại, dù chỉ bằng sợi tóc, thì cũng sẽ
không đạt được điều mình hằng ao ước mong cầu, cho nên điều tất yếu là quý vị
phải chân chánh thành tâm.
Tôi thường nói với quý vị rằng:
Không bỏ được lòng nghi, tất không thể sanh tín tâm;
Không bỏ được mê lầm, tất không thể được khai ngộ;
Không bỏ được đường tà, tất không thể quay về nẻo chánh;
Không bỏ được sự giả dối, tất không có được sự chân thành;
Không bỏ được sự tử, tất không thể chấm dứt sự sanh.
Cho nên, chúng ta không được sanh tâm nghi ngờ đối với việc trì tụng Chú Đại
Bi. Nếu quý vị có một chút hoài nghi thì sẽ không được toại nguyện. Sự “tất đắc
quả toại” đòi hỏi chúng ta cần phải không có mảy may nghi ngờ; bởi chỉ cần có
một chút hoài nghi, thì mọi việc sẽ không thể thành tựu được!
Bồ Đề Hải 83
- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ,
thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn
tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí
tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn
uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện
thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo.
Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên
Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ
thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện
lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng
do oai thần rộng lớn của đà ra ni này.
Bồ Đề Hải 84
KINH VĂN:
Âm: PHẬT CÁO A-NAN: “NHƯỢC
HỮU QUỐC ĐỘ, TAI NẠN KHỞI THỜI, THỊ ĐỘ QUỐC VƯƠNG, NHƯỢC DĨ CHÁNH PHÁP TRỊ
QUỐC, KHOAN TÚNG NHÂN VẬT, BẤT UỔNG CHÚNG SANH, XÁ CHƯ HỮU QUÁ, THẤT NHẬT THẤT
DẠ, THÂN TÂM TINH TẤN, TỤNG TRÌ NHƯ THỊ ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI THẦN CHÚ, LINH BỈ
QUỐC ĐỘ, NHẤT THIẾT TAI NẠN TẤT GIAI TRỪ DIỆT, NGŨ CỐC PHONG ĐĂNG, VẠN TÁNH AN
LẠC.”
Nghĩa: Đức Phật bảo
ngài A Nan: “Nếu có đất nước nào khi tai nạn nổi lên mà vị quốc vương của nước
đó biết lấy Chánh Pháp để trị quốc, khoan túng với người và vật, không làm oan
uổng chúng sanh, ân xá những kẻ có tội, và bảy ngày bảy đêm thân tâm luôn tinh
tấn tụng trì thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni này; thì sẽ khiến cho trong đất nước
ấy tất cả tai nạn đều tiêu tan, ngũ cốc được dồi dào, dân chúng được an lạc.”
LƯỢC GIẢNG:
Đức Phật bảo ngài A
Nan. Sau khi thuyết phần kinh văn trên
xong, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn giả Khánh Hỷ, tức là Tôn giả A Nan,
vị tổ thứ hai của Ấn Độ, rằng: “Nếu có đất nước nào khi tai nạn nổi
lên…”
Thế nào gọi là “tai”? Thế
nào gọi là “nạn”? “Tai” thì có tam tai, tức là ba thứ tai ương-thủy tai, hỏa
tai và phong tai. “Nạn” thì có bát nạn, tức là tám sự khó khăn. Thật ra, “nạn”
không phải chỉ có tám mà là rất nhiều loại. Phàm gặp những sự việc mà mình
không dễ gì vượt qua được, thì đều gọi là “nạn”; và lúc bấy giờ trong lòng
thường cảm thấy rất buồn bực, khó chịu. Cho nên, có khi người ta ghép chung với
chữ “kiếp”, thành ra “kiếp nạn”.
“Kiếp” là tiếng Phạn, vốn
đọc là “kiếp-ba”; dịch sang tiếng Trung Hoa là “kiếp”. Chữ kiếp (劫) này gồm có chữ khứ (去) và bên cạnh có thêm
chữ nhận (刃 lưỡi dao); ý nói là đi tới chỗ
lưỡi dao. Chữ “kiếp” lại ngụ ý rằng không dễ gì mà vượt qua, cũng ví như lưỡi
dao đi xuyên qua người của quý vị thì quý vị sẽ bị giết chết vậy. Cho nên, đây
gọi là “kiếp nạn”. Thật ra, những trận thủy tai, hỏa tai, phong tai, hoặc động
đất, mưa gió bão lụt, đại hồng thủy, hay dịch bệnh truyền nhiễm… đều được gọi
là “tai nạn” cả.
Khi trong một nước có xảy
ra tai nạn, “mà vị quốc vương của nước đó biết lấy Chánh Pháp để trị
quốc…” Giả sử rằng vị vua của đất nước này là người sùng bái Phật
Pháp, hoặc thọ trì Ngũ Giới, tu hành Thập Thiện, thực hành Bồ Tát Đạo; và có
thể “khoan túng với người và vật.” “Khoan” là rộng lượng;
“túng” là phóng thích, thả ra. Không giam giữ người dân trong ngục tù thì gọi
là “khoan túng”. Không bắt nhốt cầm thú trong lồng hay trong chuồng cũng gọi là
“khoan túng”.
“Không làm oan uổng chúng
sanh.” Chữ “uổng” ở đây được hiểu là “uổng sát”
(giết oan). “Bất uổng” tức là không tùy tiện sát hại chúng sanh một cách oan
uổng; và cũng hàm ý là đoạn trừ tâm hiếu sát, không giết hại chúng sanh.
“Ân xá những kẻ có
tội.” Bất luận người dân có phạm những tội
lỗi gì, nhà vua đều tha thứ cho họ, buông tha họ, không trách phạt họ.
“Và bảy ngày bảy đêm thân
tâm luôn tinh tấn.” Trong suốt bảy ngày bảy
đêm, vị quốc vương đó thân tinh tấn, tâm cũng tinh tấn--cả thân lẫn tâm đều
tinh tấn; tinh tấn làm việc gì? Đó là tinh tấn “tụng trì thần chú Đại
Bi Tâm Đà La Ni này.” Lại nữa, nếu cả ngày lẫn đêm vị quốc vương ấy
đều siêng năng trì niệm Chú Đại Bi, tu pháp môn Tổng Trì Đà-La-Ni, “thì
sẽ khiến cho trong đất nước ấy, tất cả tai nạn đều tiêu tan.” Chính
bản thân vị quốc vương trông mong điều gì? Đó là mong sao tất cả tai nạn, bất
luận là đại nạn hay tiểu nạn, tam tai bát nạn hay tam tai cửu nạn, thậm chí là
tam tai thập nạn đi nữa, thì tất cả đều bị tiêu trừ, không còn xảy ra cho đất
nước của mình nữa.
“Ngũ cốc được dồi
dào.” “Ngũ cốc” là năm loại cây lương thực—thóc
lúa, cao lương (kê), ngô (bắp), lúa mạch, và các thứ đậu. Đây là tất cả những
cây lương thực mà đất nước này trồng trọt. “Phong” là phong túc, tức là dồi
dào, đầy đủ; “đăng” có nghĩa là được mùa, ngũ cốc đầy kho.
“Dân chúng được an
lạc.” “Vạn tánh” là “lão bá tánh,” tức là
muôn dân, nhân dân trong nước. Bấy giờ, người dân ở đất nước đó sẽ không gặp
phải tai họa, thảy đều được sống trong sự an lạc. Nếu ăn không được no, mặc
không đủ ấm—tức là còn chịu khổ sở, là chưa được an lạc vậy.
Lần này, về phương diện tên
gọi và thứ lớp của năm người xuất gia này—ba vị Tỳ-khưu, hai vị Tỳ-khưu-ni—đều
là bất khả tư nghì! Trong số năm người này, người xuất gia trước nhất là Quả
Tiền; khi chú ấy thọ quy y thì được tôi đặt tên là “Quả Tiền,” và quả nhiên chú
đã xuất gia trước những người khác. Có kẻ muốn tranh đua, chạy tới giành đứng
phía trước chú, nhưng rồi cũng không qua mặt được, bởi vì chú đã ở đằng trước
rồi!
Còn Quả Ninh, vì trước đây
trong lòng thường cảm thấy bứt rứt bất an; bất an về điều gì? Tự trong tâm mình
dằn vặt, trăn trở rất lâu: “Làm thế nào mới phải?” Do đó, khi quy y, tôi đặt
tên cho chú ấy là Quả Ninh, và tự là Hằng Tịnh, vì muốn cho chú ấy luôn được
“an ninh”. Quả Tiền thì tự là Hằng Khiêm, tức “khiêm hư” (khiêm tốn, khiêm
nhượng).
Người thứ ba là Quả Hiện,
tôi cũng không hiểu vì sao lại đặt cho Quả Hiện cái tên này! Vốn là Quả Tiền
xuất gia trước và thọ giới Sa Di trước Quả Hiện; nhưng tôi lại không nói cho rõ
ràng mà chính chú ấy cũng không hiểu rõ cho lắm.
Lần này đi thọ giới, Quả
Hiện không được đi, vì chú ấy đã nổi nóng và tự cầm dao chặt đứt một ngón tay
của mình; thiếu mất một ngón tay thì đành phải thọ giới trễ một chút vậy. Lúc
chặt ngón tay, chú ấy không cho tôi biết; nếu chú thưa với tôi trước, hỏi tôi
một tiếng, rằng: “Con muốn chặt ngón tay có được không?”, thì có lẽ đã không bị
tụt lại đằng sau như thế. Chú ấy đã không nói rõ với tôi, mà âm thầm chạy tới
nhà bếp tự chặt đứt một ngón tay, và làm cho tấm thớt cắt rau cải bị ô uế. Tôi
nói là cũng còn dùng được, cho nên không cần phải thay tấm thớt mới! Ây da, như
thế vẫn dùng tấm thớt đó để cắt rau cải thì ăn vào có thể bị thành tinh không?
Cũng chẳng hề chi, thì thành yêu tinh thôi! Quả Hiện vì thế mà phải nằm bệnh
viện mất mấy hôm, nay thì Quả Tiền đã đi Đài Loan trước rồi!
Trong số các Tỳ Khưu Ni,
Quả Dật xin xuất gia trước cho nên sẽ đứng trước Quả Tu; Quả Tu thì xin xuất
gia sau, cho nên xếp theo thứ tự thọ giới mà tính thì cô ta đứng hàng thứ tư
trong số các Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni.
Chuyến này sang Đài Loan,
quý vị nhất định phải giữ gìn đạo phong của Phật Giáo Giảng Đường chúng ta!
Không nên đến Đài Loan rồi thấy người ta ai nấy đều một ngày ăn hai, ba
bữa—sáng sớm ăn, chiều tối ăn, giữa trưa cũng ăn nữa—thì mình bèn cũng ăn chút
đỉnh. Quý vị muốn ăn ư? Được thôi, có điều là như thế thì e rằng đối với nền
Phật Giáo của đất nước Hoa Kỳ sẽ không được tốt đẹp cho lắm! Nếu quý vị nhất
định nói rằng: “Tôi muốn làm đảo lộn Phật Giáo Hoa Kỳ một phen, không để cho nó
phát triển theo chiều hướng tốt!”; thì quý vị có thể tuỳ ý, muốn ăn ngày hai bữa
hay ba bữa đều được cả! Đây là vì quý vị sang Đài Loan rồi bị ảnh hưởng của nơi
đó, chứ không phải vì nghe theo lời giáo hóa của Sư Phụ, không phải vì học pháp
của Sư Phụ—mà là do học các pháp tu của Đài Loan. Tôi không ép buộc quý vị phải
miễn cưỡng nghe lời tôi.
Có câu:
Sư phụ lãnh tiến môn,
Tu hành tại cá nhân.
(Sư Phụ dẫn tới cửa,
Tu hành do mỗi người!)
Hiện tại đã vào trong cửa
của Phật Giáo, có thể nói rằng tôi đã đưa quý vị bước vào bên trong cửa rồi.
Khi quý vị còn mê muội thì tôi dẫn dắt quý vị tới tận cửa; nay quý vị khai ngộ
rồi, thì quý vị phải làm gì là đều do chính quý vị tự định đoạt. Sau khi thọ
giới rồi, quý vị thích làm gì thì đó là chuyện riêng của quý vị!
Hôm nay tôi đem tên mà tôi
đặt cho quý vị ra để sắp xếp, trong sự âm thầm lặng lẽ có một thứ cảnh giới bất
khả tư nghì. Tên mà tôi đặt cho quý vị—không riêng gì quý vị mà đối với mọi
người cũng vậy—tất cả đều có nhân duyên của nó. Việc này tuy không phải là to
tát cho lắm, song cũng không phải là chuyện nhỏ nhặt, bởi nó có liên quan đến
vấn đề tiền nhân hậu quả.
Lúc Đại Sư Liên Trì thọ
giới, Ngài đến trước bàn thờ Phật, lạy Phật, niệm Phật, lạy sám hối và được
Phật đến rờ đỉnh đầu, truyền giới; đồng thời Đại Sư Trí Giả cũng đến truyền
giới cho Ngài. Do đó, Đại Sư Liên Trì không đến Đài Loan, cũng chẳng tới Hương
Cảng, mà vẫn đắc được Cụ Túc Giới!
Hiện nay, nếu Quả Hiện
thành tâm một chút, có thể siêng năng lạy Phật, niệm Phật, thì không chừng sẽ
đắc được Cụ Túc Giới ngay tại đây; tuy nhiên, chú ấy có đắc giới hay không thì
tôi đều biết rõ. Nếu đắc giới, thì càng tốt; nếu chưa đắc giới, thì cứ từ từ
lại càng tốt hơn nữa. Đắc hay không đắc thì đều nên từ từ mà thỉnh cầu, thế nào
cũng được Bồ Tát đến gia trì cho!
Quý vị đến Đài Loan thọ
giới, cần ghi nhớ là phải dũng mãnh tinh tấn, chớ nên chẳng có chút tinh tấn gì
cả. Nếu Quả Hiện, người ở lại, không được đi Đài Loan, thật sự “hiện thân
thuyết pháp,” đắc được giới rồi; còn quý vị sang tận Đài Loan mà lại không đắc
giới, thì quý vị thật là uổng công phí sức vậy! Ôi……..!
Bồ Đề Hải 85
KINH VĂN:
Âm: “HỰU NHƯỢC VI Ư THA QUỐC OÁN ĐỊCH,
SÁC LAI XÂM NHIỄU, BÁ TÁNH BẤT AN, ĐẠI THẦN MƯU PHẢN, DỊCH KHÍ LƯU HÀNH, THỦY
HẠN BẤT ĐIỀU, NHẬT NGUYỆT THẤT ĐỘ, NHƯ THỊ CHỦNG CHỦNG TAI NẠN KHỞI THỜI, ĐƯƠNG
TẠO THIÊN NHÃN ĐẠI BI TÂM TƯỢNG, DIỆN HƯỚNG TÂY PHƯƠNG, DĨ CHỦNG CHỦNG HƯƠNG
HOA, TRÀNG PHAN BẢO CÁI, HOẶC BÁCH VỊ ẨM THỰC, CHÍ TÂM CÚNG DƯỜNG...”
Nghĩa: “Lại nếu bị nước thù
nghịch khác rất nhiều lần xâm lấn, quấy nhiễu khiến dân chúng không được yên
ổn; đại thần mưu phản; dịch bệnh lan tràn; mưa lụt, hạn hán bất thường; mặt
trời và mặt trăng mất điều độ; khi các loại tai nạn như thế xảy ra thì nên tạo
tượng Thiên Nhãn Đại Bi Tâm day mặt về hướng Tây, rồi đem các thứ hương, hoa,
tràng phan, bảo cái, hoặc trăm món đồ ăn thức uống mà chí tâm cúng dường…”
LƯỢC GIẢNG:
Oai lực của Chú Đại Bi là bất khả tư
nghì; sự vi diệu của Chú Đại Bi là bất khả tư nghì; và sự cảm ứng của Chú Đại
Bi cũng là bất khả tư nghì.
[Đức Phật nói tiếp:] “Lại
nếu bị nước thù nghịch khác” “Hựu” tức là lại thêm nữa; lại có một lực
lượng khác, lực lượng nào? Không phải của nước mình mà là của nước oán địch
khác. “Oán địch” có nghĩa là có cừu oán, thù nghịch.
“Rất nhiều lần xâm lấn, quấy nhiễu” Tiếng Trung Hoa, chữ “số”「數」vốn được đọc là “shù” (音樹), nhưng ở đây thì đọc là “shuò”(音朔)và có nghĩa là rất nhiều. Đây
là chữ trong Luận Ngữ, nằm ở câu “sự quân sác, tư nhục hỹ!” Cho
nên, quý vị nào đã từng đọc sách Luận Ngữ, thì sẽ biết đây là chữ
“sác” (âm shuò); nếu chưa hề xem qua sách Luận Ngữ, thì
quý vị sẽ cho đây là chữ “số” (âm shù). Thật ra, đọc là “số” thì cũng được, vì
cũng có nghĩa là “nhiều”; thế nhưng, đọc là “sác” thì hàm ý là “rất nhiều
lần”-rất nhiều lần bị nước thù nghịch khác xâm lấn, nhiễu loạn.
Thế nào gọi là “học thức”? Như trường hợp
chữ “sác” này chẳng hạn, nếu là người không có học thức thì sẽ đọc là “số”;
nhưng nếu quý vị có học thức thật sự thì cho dù không được ai chỉ bảo, quý vị
vẫn biết và đọc là “sác”. Có người sẽ thắc mắc: “Thế chẳng hay Thầy có học thức
chân thật chăng?” Tôi không có học thức chân thật, vẫn còn là thứ học thức “giả
thật” mà thôi! “Vậy thì tại sao Thầy lại biết mà đọc như thế?” Chẳng qua là có
nhiều người đọc như thế, cho nên tôi cũng cứ thế mà đọc theo thôi!
“Dân chúng không được yên ổn.” Dân chúng trong quốc gia đó đều sống trong sự lo sợ, bất
an; vì sao? Vì có bọn thổ phỉ thường tới cướp bóc.
“Đại thần mưu phản.” “Đại thần” là những người làm quan. “Mưu phản” tức là có người
trong số đó âm mưu tạo phản, thành ra cuộc “tạo phản hữu lý”.
“Dịch bệnh lan tràn.” “Dịch” tức là ôn dịch. Giống như hiện nay, có những lúc xuất
hiện bệnh truyền nhiễm, dịch bệnh lan tràn khắp nơi. Ban đầu, bệnh dịch chỉ
xuất hiện ở một địa phương, sau đó thì lan rộng cả thành phố. Thứ dịch bệnh
này, quý vị đừng tưởng nó chỉ là một thứ dịch bệnh đơn thuần mà thôi đâu—đó đều
là do bọn dịch quỷ làm ra. Dịch quỷ phóng ra dịch độc, người nào hít phải khí
độc thì liền sanh bệnh, sẽ bị lây truyền bệnh cảm cúm.
“Mưa lụt, hạn hán bất
thường.” Thế nào là mưa lụt bất thường?
Ví dụ đáng lẽ trời mưa một tháng thì lại mưa dầm dề suốt cả ba tháng, khiến cho
các thứ hoa màu đều bị ngập úng vì nước ứ đọng quá nhiều. Tôi nghĩ rằng quý vị
không thể không hiểu được điều này.
Còn hạn hán là thế nào? Vốn dĩ phải có
mưa nhưng trời lại không đổ mưa, cả ngày từ sáng đến tối không có giọt nước mưa
nào cả.
Bây giờ, nhân Trương Quả Huệ và Đàm Quả
Thức đều có mặt ở đây, tôi sẽ kể về vận may của tôi, mong hai vị hãy làm chứng
để mọi người tin tưởng lời tôi, đây không phải là tôi nói khoác lác. Ở Hương
Cảng, cứ cách một khoảng thời gian là bị nạn hạn hán; và có một năm nọ, suốt
hơn nửa năm trời mà không có một giọt mưa nào cả, khiến dân chúng toàn Hương
Cảng hằng ngày đều phải hạn chế lượng nước sử dụng trong sinh hoạt, không có đủ
nước để uống.
Trước kia, ở Tây Lạc Viên vốn không có
nước, nhưng từ khi xây cất thành Chùa Tây Lạc Viên thì nơi đây lại có nước–nước
từ trong khe đá chảy ra! Ban đầu, lúc mới có nước chảy ra, thì tôi gặp rất
nhiều chuyện phiền phức. Phiền phức thế nào ư? Hàng xóm láng giềng đều đổ xô
đến để giành lấy nước! Vừa thấy ở chỗ tôi có nước là lập tức hết người này đến
người kia đem thùng đến giành nhau hứng nước, họ xếp cả hàng dài có hơn hai
mươi mấy cái thùng chuẩn bị để đựng nước. Về sau, không còn cách nào khác, tôi
đành phải dùng lưới sắt rào lại; nhờ đó mà không còn ai đến tranh giành lấy
nước nữa. Này Trương Quả Huệ, sự việc lúc đó có phải là như thế không?
Bấy giờ, có một dạo suốt cả sáu tháng
không có mưa, nguồn nước trong Tây Lạc Viên của tôi cũng khô cạn, lượng nước từ
trên núi chảy xuống rất ít ỏi và lại nồng nặc mùi lưu huỳnh, không thể dùng để
nấu ăn hay uống được. Lúc đó có Lưu Quả Quyên, mọi người còn nhớ không? Bấy
giờ, tôi đã ra lệnh cho Lưu Quả Quyên rằng: “Nội trong ba ngày con phải cầu xin
cho được mưa xuống! Con phải ngày ngày niệm Phật cầu nguyện, nếu cầu mà không
được thì đừng đến gặp mặt Sư Phụ nữa!” Tôi đã nói với bà ta như vậy đấy. Lưu
Quả Quyên nghe tôi ra lệnh như vậy thì hoảng hốt, bởi vì điều làm bà ta lo sợ
nhất là không được gặp Sư Phụ. Vì thế cho nên việc gì bà ta cũng chấp nhận,
miễn sao bất cứ lúc nào cũng có thể được gặp Sư Phụ! Người đệ tử lão thành này
do hoang mang, lo sợ nên ngày ngày đều cầm xâu chuỗi trong tay chăm chỉ niệm
Phật, bận rộn niệm Chú Đại Bi, khoảng ba hôm liền quên ăn quên ngủ, cứ lo là
không cầu được mưa!
Trong thời gian hơn nửa năm ấy, tất cả
các Phật Đường, chùa chiền, am miếu, trai đường, Đông Phổ Đà, Tây Phổ Đà… ở
Hương Cảng đều cầu mưa, song cầu xin ròng rã suốt mấy tháng trời mà trời vẫn
chưa đổ mưa. Ở chỗ tôi, sau khi tôi kỳ hạn cho Quả Quyên nếu nội trong ba ngày
mà cầu không được mưa thì đừng đến gặp mặt tôi, thì chỉ khoảng hai ngày rưỡi
sau là trời bắt đầu đổ mưa. Trời vừa đổ mưa thì tất cả các Phật Đường đều rầm
rộ đăng báo “quảng cáo”—nơi này thì nói rằng: “Cơn mưa này là nhờ chúng tôi cầu
nguyện mà được đấy!”; nơi khác lại đưa tin: “Cơn mưa này là do Phật Đường chúng
tôi cầu xin đấy!” Ái chà! Tất cả các Phật Đường đều có công lao, duy chỉ có
Chùa Tây Lạc Viên là không báo công cũng chẳng báo đức; và mưa thì cứ thế mà
trút xuống!
Vì sao lại xảy ra chuyện như thế? Vì sao
tôi lại hạn định cho Quả Quyên nội trong ba ngày phải cầu cho được mưa? Thật
ra, tôi nói cho quý vị biết, không cần phải đợi tới ba ngày mà ngay trong ngày
hôm đó, nếu tôi bảo mưa thì trời sẽ đổ mưa ngay; tuy nhiên, tôi muốn cho người
đệ tử kỳ cựu này niệm Phật nhiều hơn, tích lũy công đức nhiều hơn, cho nên tôi
đã giao công việc này cho bà, bảo bà vì mọi người mà cầu mưa.
Tôi biết rằng không cần phải đợi tới ba
ngày mà chỉ nội trong một ngày, tôi muốn có mưa thì sẽ có mưa ngay; vì sao? Vì
tôi có mười đệ tử là rồng, và cả mười chú rồng này, hễ tôi bảo chú rồng nào làm
mưa thì chú ấy đều mưa xuống cho tôi một ít nước. Cũng giống như sáu đệ tử xuất
gia người Mỹ của tôi hiện nay vậy–tôi bảo họ làm gì thì họ đều răm rắp làm
theo; nếu người nào không vâng lời thì tôi cũng không cần đến người đó nữa, tôi
chẳng cưỡng ép ai cả. Cũng như chú tiểu Sa-di không chịu nghe lời tôi răn dạy,
tự chặt đứt một ngón tay của mình nên đã bị đuổi ra khỏi chùa; bây giờ, sau mấy
tháng, chú ấy xin được về chùa lại. Tôi tự nghĩ: “Không đúng! Bất luận chú ấy
có chịu nghe lời hay không, thì cũng phải đợi một thời gian nữa xem sao!” Thế
là tôi cho phép chú ấy trở về chùa. Ban đầu thì cũng có rất nhiều người phản
đối, không muốn cho chú ấy trở về, nhưng tôi bảo là không nên ngăn cấm chú ấy
trở về, và thế là chú ấy đã về chùa lại rồi.
Tôi lại chuốc lấy phiền phức rồi! Phiền
phức vì chuyện gì? Có một người đến tìm tôi và khi gặp tôi thì liền chất vấn:
“Bộ Thầy nói thành phố San Francisco không động đất thì sẽ không động đất hay
sao? Lời Thầy nói đã chẳng thành hiện thực!”
Không sai! Hôm mồng một tháng ba năm
ngoái, có người nói là vào khoảng tháng tư hoặc tháng năm, sẽ có trận động đất
xảy ra ở thành phố San Francisco, thì tôi có nói rằng: “Tôi không cho phép đất
chấn động!”
Tôi đã cả gan dám thốt ra lời “đại ngôn,”
khoác lác to lớn như thế! Lời nói này xem ra chỉ lớn bằng một hạt bụi! “Hễ ngày
nào tôi còn ở thành phố San Francisco, thì tôi sẽ không cho phép đất nơi này
chấn động! Đến khi nào tôi rời khỏi nơi này, thì tôi mới không còn quan tâm đến
nó nữa mà thôi!” Nói về địa chấn, thì tôi có thể nói như thế này: Đối với đại
địa chấn thì tôi sẽ khiến cho nó nhỏ bớt một chút; còn nếu là tiểu địa chấn thì
tôi sẽ khiến cho nó không xảy ra!
Hồi năm ngoái, có người tin tưởng lời tôi
và bảo tôi đừng rời khỏi San Francisco, bởi vì nếu tôi đi rồi thì sợ rằng thành
phố này sẽ bị chìm dưới đáy biển, chẳng có cách nào cứu vãn được! Nghe họ nói
như thế, tôi bèn trấn an họ rằng: “Quý vị chớ lo sợ, San Francisco sẽ không bị
động đất đâu!” Có nhiều người cho rằng chắc chắn là tôi không đúng, bởi họ dựa
trên sự tính toán khoa học. Tôi nói rằng tôi cũng tính toán vậy, và theo cách
tính toán không khoa học của tôi thì sẽ không có động đất xảy ra. Tôi dám lớn
tiếng khẳng định: “Tôi không cho phép đất chấn động! Quý vị hãy yên tâm đi!”
Thế nhưng, một số người giàu có không tin, bèn dọn đi khỏi San Francisco. Có
một số người lại không sợ; vì không sợ, nên chẳng thèm có động tĩnh gì!
Cuối cùng, có động đất xảy ra đấy, nhưng
cơn chấn động này có cường độ rất nhỏ; vì sao lại được như thế? Đó là do tôi đã
bảo chư vị hộ pháp phải ủng hộ. Tôi biết rằng thiên long bát bộ, chư thiện thần
hộ pháp, nhất định sẽ ủng hộ, che chở cho chúng ta; vì sao? Vì chư thiên long
bát bộ hộ pháp sẽ không hại người!
Hoặc là trong quốc gia đó xảy ra hiện tượng “mặt
trời và mặt trăng mất điều độ.” “Nhật” là mặt trời, tức là ban
ngày; “nguyệt” là mặt trăng, tức là ban đêm; “thất độ” là thất thường, mất cân
bằng—có lúc thì mặt trời chiếu gay gắt, có lúc thì mặt trăng tròn dịu
mát. Hiện tượng này không phải là gia tăng dần dần từng ngày một, hoặc là mỗi
ngày mỗi giảm thiểu từ từ; mà là khoảng cách đột nhiên kéo dài hoặc đột nhiên
thu ngắn lại. Đây gọi là “nhật nguyệt thất độ”, là không cân bằng; và chính là
biểu hiện của một loại thiên tai.
“Khi có các loại tai nạn như thế xảy ra
thì nên tạo tượng của Thiên Nhãn Đại Bi Tâm–tức là Bồ Tát Quán Thế Âm–mặt day về hướng Tây.” Bấy
giờ, cần phải tạc tượng Bồ Tát Quán Thế Âm và đặt tượng quay mặt về hướng Tây.
Bởi vì Đức Phật A Di Đà thì ở phương Tây và là thầy của Bồ Tát Quán Thế Âm, cho
nên đặt tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn về hướng thầy mình là tỏ lòng cung kính
của người đệ tử.
Như sáu người đệ tử của tôi, khi nghe có
người khen ngợi sư phụ của họ, rằng: “Thật là bất khả tư nghì! Thầy của quý vị
quả đúng là có thần thông! Ông ta nói ra điều gì cũng linh nghiệm cả. Chà! Nói
có mưa là có mưa xuống ngay!”; thì họ không hoan hỷ cho lắm. Thế nhưng, nếu có
người nhục mạ sư phụ của họ ngay trước mặt họ, như nói rằng: “Ông Sư phụ của
quý vị cái gì cũng không hiểu cả, quý vị theo ông ta thì học được cái gì chứ?
Quý vị càng học thì càng ngu si hơn, càng học lại càng mê muội thêm mà thôi!”;
thì có thể họ liền tức tối đáp trả: “Mấy người dám ăn nói như thế à? Tôi phải
đánh chết mấy người!” Và, như thế là họ sắp phạm giới rồi, có phải vậy không?
Thế nhưng, họ không nên làm như thế. Họ cần phải nhịn nhục. Họ phải biết nhẫn
nại!
“Rồi đem các thứ hương hoa, tràng
phan, bảo cái, hoặc trăm món đồ ăn thức uống mà chí tâm cúng dường.” Sau khi thiết đặt tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị hãy thành
tâm dâng cúng các loại hương, các loại hoa, cùng tràng phan bảo cái và cả trăm
món ăn thức uống. Chí tâm cúng dường cho ai? Đó là cúng dường cho Bồ Tát Quán
Thế Âm!
Bồ Đề Hải 86
KINH VĂN:
Âm: “KỲ VƯƠNG HỰU NĂNG THẤT NHẬT THẤT DẠ, THÂN TÂM TINH TẤN,
TỤNG TRÌ NHƯ THỊ ĐÀ-LA-NI THẦN DIỆU CHƯƠNG CÚ, NGOẠI QUỐC OÁN ĐỊCH, TỨC TỰ HÀNG
PHỤC, CÁC HOÀN CHÍNH TRỊ, BẤT TƯƠNG NHIỄU NÃO, QUỐC THỔ TƯƠNG THÔNG, TỪ TÂM
TƯƠNG HƯỚNG, VƯƠNG TỬ BÁCH QUAN, GIAI HÀNH TRUNG XÍCH, PHI HẬU THỂ NỮ, HIẾU
KÍNH HƯỚNG VƯƠNG, CHƯ LONG QUỶ THẦN, ỦNG HỘ KỲ QUỐC, VŨ TRẠCH THUẬN THỜI, QUẢ
THỰC PHONG NHIÊU, NHÂN DÂN HOAN LẠC.”
Nghĩa: “Nếu vị quốc vương đó lại có thể bảy ngày bảy
đêm thân tâm tinh tấn trì tụng chương cú thần diệu Đà La Ni này, thì nước ngoài
oán địch sẽ tự hàng phục và trở về lãnh thổ của mình, không quấy nhiễu nhau
nữa; đất nước thông thương, thân thiện bang giao; vương tử, bá quan đều hết mực
trung thành; phi, hậu, thể nữ thảy đều hiếu kính với vua; chư long, quỷ, thần
đều ủng hộ nước đó; mưa gió thuận hòa, hoa quả phong phú dồi dào, nhân dân vui
vẻ an lạc.”
LƯỢC GIẢNG:
[Đức Phật dạy:] “Nếu vị quốc vương đó lại có thể bảy
ngày bảy đêm thân tâm tinh tấn…” Lại nữa, giả sử vị quốc vương đó còn
có thể giữ cho cả thân lẫn tâm mình luôn được siêng năng tinh tấn trong suốt
bảy ngày bảy đêm; tinh tấn làm việc gì? Đó là tinh tấn “trì tụng chương
cú thần diệu Đà-La-Ni này”. Bấy giờ, tình thế sẽ như thế nào?
“Thì nước ngoài oán địch sẽ tự hàng phục và trở về lãnh thổ
của mình.” Những kẻ ngoại bang thù nghịch
đều sẽ tự đầu hàng và rút lui về nước của họ, đồng thời cũng hoàn trả lại đất
đai mà họ đã xâm chiếm cho vị quốc vương đó; và đôi bên sẽ “không quấy
nhiễu nhau nữa.” Bấy giờ, “đất nước thông thương, thân thiện
bang giao.” Nước này giao hảo, kết bạn với nước kia, và đều lấy lòng
từ bi mà đối đãi nhau.
“Vương tử, bá quan đều hết mực trung thành.” “Trung” tức là hiệu trung, một lòng một dạ trung thành tận
tụy, không gian dối. “Phi, hậu, thể nữ thảy đều hiếu kính với
vua.” “Phi” là phi tần; “hậu” là hoàng hậu; “thể nữ” là các cung nga,
cung nữ phục dịch trong hoàng cung. Đối với vị quốc vương này, thì hoàng hậu,
phi tần, cùng các cung nữ đều một lòng tôn kính, phục tùng.
“Chư long, quỷ, thần đều ủng hộ nước đó.” Tôi từng nói với quý vị là tôi có mười đệ tử quy y thuộc
loài rồng; quý vị không tin ư? Ở đây, “quỷ” là nói chung cho tất cả quỷ thiện
và quỷ ác. Nói có quỷ thiện là thế nào? Quý vị xem trong Kinh Địa Tạng có
đề cập đến các đại quỷ vương như Chủ Tài Quỷ Vương, Chủ Mạng Quỷ Vương, Đạm
Tinh Khí Quỷ Vương, Nhiếp Độc Quỷ Vương—đây chẳng phải toàn là quỷ thiện hay
sao? “Thần” thì cũng có thần ác và thần thiện. Trong số các thần ác thì cũng có
quỷ ác, và lực lượng của những quỷ ác này to lớn hơn nhiều; và tất cả đều đến
ủng hộ đất nước đó.
“Mưa gió thuận hòa.” Thế nào gọi là “vũ trạch thuận thời”? Đó là mưa gió đúng mùa,
đúng lúc -tới lúc cần mưa thì có mưa xuống, khi không cần có mưa thì trời trong
mây tạnh.
“Hoa quả phong phú, dồi dào.” “Quả thực” tức là tất cả các loại trái cây, hoa quả; và
ở đây cũng có thể nói là “ngũ cốc phong phú, dồi dào.” “Phong nhiêu,” tức là
thu hoạch được rất nhiều -chẳng hạn như năm ngoái thu hoạch được 500 pounds
(227 kg) thì năm nay được tới 2.000 pounds (907 kg), tức là bội thu gấp
ba, bốn lần. Đó gọi là “phong nhiêu.” Quý vị có hiểu không? Nếu quý vị hiểu rồi
thì tôi khỏi phải giảng giải dông dài nữa!
“Nhân dân vui vẻ, an lạc.” Quý vị hẳn là đều hiểu tiếng Trung Hoa, cho nên tôi vừa giảng
thì quý vị đều bật cười!
KINH VĂN:
Âm: “HỰU NHƯỢC GIA NỘI NGỘ ĐẠI ÁC BỆNH, BÁCH QUÁI CẠNH KHỞI,
QUỶ THẦN TÀ MA HAO LOẠN KỲ GIA, ÁC NHÂN HOÀNH TẠO KHẨU THIỆT, DĨ TƯƠNG MƯU HẠI,
THẤT GIA ĐẠI TIỂU NỘI NGOẠI BẤT HÒA GIẢ, THƯỜNG HƯỚNG THIÊN NHÃN ĐẠI BI TƯỢNG
TIỀN, THIẾT KỲ ĐÀN TRÀNG, CHÍ TÂM NIỆM QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT, TỤNG THỬ ĐÀ-LA-NI
MÃN KỲ THIÊN BIẾN, NHƯ THƯỢNG ÁC SỰ TẤT GIAI TIÊU DIỆT, VĨNH ĐẮC AN ẨN.”
Nghĩa: “Lại nếu trong nhà gặp phải bệnh nặng, trăm
điều quái dị khởi lên, quỷ thần tà ma não loạn làm cho cửa nhà sa sút, kẻ ác
gieo điều tiếng xấu mưu toan hãm hại, gia đình lớn nhỏ trong ngoài đều bất hòa,
thì nên hướng trước
tượng Thiên Nhãn Đại Bi mà
thiết đàn tràng, chí tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng Đà La Ni này
đủ một ngàn biến, thì các việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, vĩnh viễn được
yên ổn, an vui.”
LƯỢC GIẢNG:
“Lại nếu trong nhà gặp phải bệnh nặng… “Gia nội” tức là bên trong căn nhà, và cũng có
nghĩa là người trong gia đình. Giả sử trong nhà của quý vị có người mắc phải
một chứng bệnh ngặt nghèo, thầy thuốc nào cũng bó tay, không chữa trị được.
Hoặc là trong nhà có “trăm điều quái dị khởi lên, quỷ
thần tà ma não loạn làm cho cửa nhà sa sút.” Vì sao gia đình của quý
vị lại ra nông nỗi như thế? Đó là do các quỷ thần tà ma ở trong căn nhà ấy gây
rối loạn.
Hoặc là quý vị bị “kẻ ác gieo điều tiếng xấu.” Có
thể có nhiều người xấu bịa đặt chuyện thị phi này nọ, chuyện có nói không,
chuyện không nói có, toàn là “không gió mà dậy sóng”, tạo ra điều thất
thiệt, “mưu toan hãm hại” quý vị. Giả sử là có những kẻ có lòng dạ
ác độc dùng lời lẽ khích bác, ly gián, âm mưu hãm hại quý vị, khiến cho “gia
đình lớn nhỏ trong ngoài đều bất hòa.” Bấy giờ, trong gia đình của quý
vị, cả người lớn lẫn trẻ con đều không hòa hợp nhau, và có lẽ đối với thân bằng
quyến thuộc ở ngoài cũng luôn xích mích, không hòa thuận.
Trước tình cảnh ấy, quý vị nên “hướng trước tượng
Thiên Nhãn Đại Bi--tức là tượng của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán
Thế Âm—mà thiết đàn tràng, chí tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.” Quý
vị nên đem lòng chí thành mà khẩn thiết trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, “và
tụng Đà La Ni này—Chú Đại Bi - đủ một ngàn biến, thì tất cả những
việc xấu kể trên đều sẽ tiêu trừ, không còn xảy ra nữa, và quý vị
sẽ vĩnh viễn được yên ổn, an vui.”
Bồ Đề Hải 87
KINH VĂN:
Âm: A-NAN BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ
TÔN! THỬ CHÚ DANH HÀ? VÂN HÀ THỌ TRÌ?”
PHẬT CÁO A-NAN: “NHƯ THỊ THẦN
CHÚ HỮU CHỦNG CHỦNG DANH:
NHẤT DANH QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN.
NHẤT DANH VÔ NGẠI ĐẠI BI.
NHẤT DANH CỨU KHỔ ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH DIÊN THỌ ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH DIỆT ÁC THÚ
ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH PHÁ ÁC NGHIỆP CHƯỚNG
ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH MÃN NGUYỆN ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH TÙY TÂM TỰ TẠI
ĐÀ-LA-NI.
NHẤT DANH TỐC SIÊU THƯỢNG ĐỊA
ĐÀ-LA-NI.
NHƯ THỊ THỌ TRÌ.”
Nghĩa: A Nan bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là gì? Thọ trì như thế nào?”
Đức Phật bảo A Nan: “Thần chú
này có vô số tên gọi:
Một tên là Quảng Đại Viên Mãn,
Một tên là Vô Ngại Đại Bi,
Một tên là Cứu Khổ Đà La Ni,
Một tên là Diên Thọ Đà La Ni,
Một tên là Diệt Ác Thú Đà La
Ni,
Một tên là Phá Ác Nghiệp
Chướng Đà La Ni,
Một tên là Mãn Nguyện Đà La
Ni,
Một tên là Tùy Tâm Tự Tại Đà
La Ni,
Một tên là Tốc Siêu Thượng Địa
Đà La Ni.
Hãy y như thế mà thọ
trì.”
LƯỢC GIẢNG:
A Nan bạch Phật rằng… Khi ấy, Tôn giả A Nan thưa với Đức Phật rằng: “Bạch
đức Thế Tôn, chú này tên gọi là gì? Chẳng hay tên của bài chú này là
gì?” Quý vị cho rằng trong phần trước ngài A Nan đã nghe Bồ Tát Quán Thế Âm
thuyết giảng dông dài như thế mà vẫn chưa biết được tên của bài chú này hay
sao?
“Thọ trì như thế nào? Và chẳng hay chúng con phải tụng niệm, thọ trì bài chú này như
thế nào?”
Đức Phật bảo A Nan: “Thần chú này có vô số tên gọi.” Bài chú vi diệu như thế này không phải chỉ có một mà là rất
nhiều tên gọi khác nhau. Thí dụ như người này có tên là Steve, lại cũng được
gọi là Quả Chiêm; và anh ta còn có một cái tên khác nữa, đó là gì vậy? Còn
người kia có tên là Quả Ninh, lại cũng được gọi là Hằng Tịnh--một người có thể
có rất nhiều tên gọi khác nhau. Bài chú này cũng vậy, cũng có nhiều tên gọi
khác nhau:
1) Một tên là Quảng Đại Viên
Mãn. Chú này có một tên là “Quảng Đại Viên Mãn”, tức là vừa rộng lớn
lại vừa tròn đầy.
2) Một tên là Vô Ngại Đại
Bi. “Vô ngại đại bi” tức là đã không có chỗ chướng ngại mà còn đầy đủ
tánh đại bi.
3) Một tên là Cứu Khổ Đà La
Ni. “Cứu Khổ Đà La Ni” tức là một loại thần chú tổng trì có công năng
cứu giúp tất cả tật bệnh khổ não.
4) Một tên là Diên Thọ Đà La
Ni. Nếu có người đang lúc hấp hối mà được quý vị niệm Chú Đại Bi cho,
thì người đó sẽ được sống lâu thêm, cho nên chú này còn được gọi là chú tổng
trì Trường Mệnh.
5) Một tên là Diệt Ác Thú Đà La
Ni. “Diệt ác thú” tức là có công năng tiêu diệt bốn đường ác - địa
ngục, ác quỷ, súc sanh và A tu la.
6) Một tên là Phá Ác Nghiệp
Chướng Đà La Ni. Chú này có công năng phá trừ tất cả các nghiệp chướng
xấu ác. Thế nhưng, quý vị chớ nên cho rằng bởi Chú Đại Bi là Đà La Ni có thể
phá trừ các nghiệp ác, bèn niệm chú này rồi tha hồ tạo ác tác nghiệp, thì cũng
được phá trừ: “Cho dù mình có gây tạo một chút nghiệp chướng đi chăng nữa thì
đã có Chú Đại Bi sẵn sàng giải trừ cho mình. A! Nếu mình mặc sức gây tạo, thì Chú
Đại Bi cũng sẽ tận lực phá trừ, giống như ‘phá trận’ vậy.” Chẳng phải như thế
đâu!
Những nghiệp chướng xấu ác trước kia của
quý vị thì Chú Đại Bi có thể phá giải được; song nay quý vị đã biết rõ rằng
nghiệp chướng này đích thị là nghiệp chướng xấu ác, thì lẽ ra quý vị không nên
tạo tác nữa mới phải! Nếu nay quý vị còn tiếp tục gây thêm nghiệp chướng xấu ác
nữa, thì đừng nói là một cái Đà La Ni, cho dù một vạn cái Đà La Ni cũng không
thể nào phá nổi nghiệp chướng xấu ác “biết rõ mà vẫn cố phạm” của quý vị được!
Cho nên, quý vị cần phải hiểu rõ điểm này.
7) Một tên là Mãn Nguyện Đà La Ni. Chú này lại có một tên gọi nữa là Mãn Nguyện Đà La Ni. Quý vị
trì niệm Chú này thì cầu chi được nấy.
Thí dụ quý vị ao ước: “Tôi muốn được phát
tài”, thì quý vị hãy niệm Chú Đại Bi tất sẽ được phát tài. Hoặc quý vị nói:
“Tôi muốn được làm quan!”, thì quý vị cũng sẽ được toại nguyện. Hoặc nói rằng:
“Tôi vẫn còn muốn nhiều thứ nữa, tôi muốn đến Reno đánh bạc! Thế thì tôi niệm
Chú Đại Bi liệu có được linh ứng chăng? Tôi viết cái lottery này
sẽ trúng chứ? Viết mười chữ thì trúng được chín chữ, hoặc cả mười chữ; có thể
được không?” Điều này thì tôi không biết chắc, tôi không thể bảo đảm
được. I don’t guarantee it! Quý vị cầu xin những việc chánh
đáng thì tôi bảo đảm; còn nếu cầu xin điều tà vạy thì tôi chẳng thể bảo đảm
được!
8) Một tên là Tùy Tâm Tự Tại Đà La
Ni. Chú này còn có tên là Tùy Tâm Tự Tại—quý
vị trong lòng nghĩ cái gì thì sẽ đạt được cái nấy.
9) Một tên là Tốc Siêu Thượng Địa Đà La
Ni. Chú tổng trì này lại còn có tên là Tốc
Siêu Thượng Địa - sẽ giúp hành giả vượt lên đến vị trí Thập Địa một cách mau
chóng.
"Hãy y như thế mà thọ
trì.” Trên đây là một số tên gọi khác nhau của
Chú Đại Bi, quý vị nên “nhìn tên mà nghĩ đến nghĩa” (cố danh tư nghĩa), rồi
chiếu theo đó mà thọ trì, tu hành.
Trong số các vị sẽ sang Đài Loan cầu giới [Cụ Túc] chuyến này,
có một vị đã hỏi tôi: “Đến đó [Đài Loan] rồi chúng con có được ăn
thịt không?” Quý vị thử đoán xem người nêu thắc mắc đó là ai? Tôi nói cho quý
vị biết, đó chính là người đã tới hỏi tôi câu hỏi ấy đấy! Tôi trả lời rằng họ
có thể ăn thịt; nhưng phải ăn thứ thịt nào? Phen này là phải ăn “thịt” Lăng
Nghiêm!
Một vị khác lại hỏi tôi: “[Đến Đài Loan] con có được phép uống
rượu không?” Quý vị đừng thắc mắc là ai hỏi, nói chung là một người thích uống
rượu hỏi đấy! Tôi bảo người đó rằng anh ta có thể uống rượu; nhưng phải uống
loại rượu nào? Phải uống “rượu” Đại Bi! Mọi người hãy lấy Lăng Nghiêm làm thịt,
lấy Đại Bi làm rượu!
Nói thế thì có cần ăn cơm hay không? Cơm thì đương nhiên là
phải ăn rồi; thế thì các vị nên ăn thứ cơm nào? Ăn “cơm” Pháp Hoa! Hãy
lấy Kinh Pháp Hoa làm cơm để ăn!
Tôi cần căn dặn các vị là lúc ở trên máy bay thì các vị chớ
nên bồn chồn lo sợ. Các vị có “thịt Lăng Nghiêm” ăn no nê, có “rượu Đại
Bi” uống thỏa thích, có “cơm Pháp Hoa” đầy một bụng—thì không có điều gì phải
lo lắng, sợ hãi nữa cả! Chiếc máy bay đó cho dù đáng lẽ phải gặp chuyện rủi ro,
thì cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra đâu! Bởi vì các vị đã có ba món bảo bối
này bảo vệ, che chở cho mình rồi. Thêm vào đó là nhóm năm người của các vị nữa,
thành ra có đến bốn thứ bảo bối lận! Vì thế, các vị chớ nên sợ hãi. Tuy nhiên,
nếu các vị hiểu rõ được đạo lý mà tôi đang nói đây thì các vị mới có thể uống
thứ rượu này, ăn thứ thịt này, và ăn thứ cơm này; còn nếu chưa hiểu thì hãy đi
tham cứu ngay đi!
Bồ Đề Hải 88
KINH VĂN:
Âm: A-NAN BẠCH PHẬT NGÔN: “THẾ TÔN! THỬ BỒ-TÁT
MA-HA-TÁT DANH TỰ HÀ ĐẲNG, THIỆN NĂNG TUYÊN THUYẾT NHƯ THỊ ĐÀ-LA-NI?”
PHẬT NGÔN: “THỬ BỒ-TÁT DANH QUÁN THẾ ÂM TỰ TẠI,
DIỆC DANH NHIÊN SÁCH, DIỆC DANH THIÊN QUANG NHÃN.
THIỆN NAM TỬ! THỬ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, BẤT KHẢ TƯ
NGHỊ UY THẦN CHI LỰC, DĨ Ư QUÁ KHỨ VÔ LƯỢNG KIẾP TRUNG, DĨ TÁC PHẬT CÁNH, HIỆU
CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI, ĐẠI BI NGUYỆN LỰC, VI DỤC PHÁT KHỞI NHẤT THIẾT BỒ TÁT,
AN LẠC THÀNH THỤC CHƯ CHÚNG SANH CỐ, HIỆN TÁC BỒ TÁT.”
Nghĩa: A Nan bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát này tên gọi là gì mà khéo tuyên
nói Đà La Ni như thế?”
Đức Phật bảo: “Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm Tự
Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng tên là Thiên Quang Nhãn.
“Này thiện nam tử! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này thần
thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước đã từng thành
Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên
phát khởi cho tất cả các Bồ Tát, an vui thành thục cho mọi chúng sanh, mà hiện
làm Bồ Tát.”
LƯỢC GIẢNG:
A Nan bạch cùng Đức Phật rằng… Tôn giả A
Nan vốn là em bà con của Phật và là con của vua Hộc Phạn; trong
Phật Giáo, ngài A Nan là bậc đa văn đệ nhất--đứng đầu về đa văn. Thế nào gọi là
―đa văn”? ―Đa văn” tức là nghe được nhiều, sức ghi nhớ cũng là đệ nhất. Ngài A
Nan chỉ nghe qua một lần là liền ghi nhớ, không bao giờ quên. Vì sao Ngài có
được trí nhớ mạnh mẽ như vậy? Đó là nhờ trong những đời ở quá khứ, Ngài đã từng
tu Định lực và tu được rất nhiều. Do Định lực đầy đủ, cho nên Ngài không bị tán
loạn; nhờ không tán loạn nên chỉ nghe qua một lần là nhớ mãi. Chính nhờ thế mà
kinh điển do Đức Phật tuyên thuyết, ngài A Nan đều có thể ghi nhớ và chép lại
toàn bộ, không sót một chữ.
Tướng mạo của Tôn giả A Nan rất giống Đức
Phật--Phật có 32 tướng tốt thì A Nan cũng có được 30 tướng hảo, cho nên tướng
mạo của A Nan đặc biệt viên mãn. Tên ―A Nan” vốn là phiên âm từ tiếng Phạn,
dịch sang tiếng Trung Hoa là Khánh Hỷ [mừng vui]. Vì sao gọi là ―Khánh Hỷ”? Bởi
vì Ngài A Nan ra đời nhằm ngày Đức Phật thành Đạo--Phật thì thành Đạo, A Nan
cũng vừa chào đời, cho nên được gọi là Khánh Hỷ, toàn là chuyện vui cả.
Tôn giả A Nan đối trước Phật mà thỉnh hỏi
rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! …” Thế nào gọi là Thế Tôn? ―Thế” là
thế gian, ―tôn” là ―thế xuất thế chi tôn,” tức là sự tôn quý nhất trong thế
gian và xuất thế gian. “Vị Bồ Tát Ma Ha Tát này tên gọi là gì mà khéo
tuyên thuyết Đà La Ni như thế?” Chẳng hay tôn danh của vị
Đại Bồ Tát này là gì mà vị ấy có thể khéo léo diễn thuyết thần chú
tổng trì như thế. ―Tuyên thuyết” chính là tuyên diễn, tuyên thuật, nói ra,
thuật lại. ―Đà La Ni như thế” tức là Đà La Ni đã nói đến ở phần trước.
Đức Phật bảo, Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni trả lời ngài A Nan rằng: “Vị Bồ Tát này tên là Quán Thế Âm
Tự Tại.” ―Quán,” tức là quán sát, cũng chính là dùng trí huệ năng quán
của Bồ Tát để quán sát. Quán sát cái gì? Quán sát âm thanh của thế
giới--âm thanh của thế giới cũng chính là cảnh giới sở quán. Cảnh giới sở quán
của vị Bồ Tát này là gì? Đó là vô số cảnh giới của tất cả chúng sanh--tất cả
những chúng sanh thiện, chúng sanh ác, chúng sanh mạnh, chúng sanh yếu, vô số
chủng loại--âm thanh của hết thảy chúng sanh là cảnh giới mà Bồ Tát quán sát.
Lấy trí tuệ năng quán để quán sát cảnh giới sở quán. Thế nhưng, ngay trong lúc
này nếu không có định lực, thì sẽ như thế nào? Do Bồ Tát có đại định, cho nên
đạt được tự tại; vậy sự tự tại này là gì? Đó cũng chính là biểu hiện của định
lực! Nếu không có định lực thì sẽ không được tự tại; không tự tại thì sẽ bị tám
gió (bát phong) làm lay chuyển, dao động, chao đảo.
Về Bát phong, tám thứ gió này, thì tôi đã giảng rất
nhiều lần rồi, không biết là quý vị có còn nhớ hay không? Thôi thì hôm nay tôi
giảng lại một lần nữa vậy. Bát phong chính là tám loại cảnh giới. Người không
có định lực thì sẽ chạy theo tám loại cảnh giới; người có định lực thì sẽ không
bị tám loại cảnh giới này làm cho dao động. Trước đây, Tô Đông Pha và Thiền Sư
Phật Ấn thường hay gặp gỡ, đàm đạo với nhau. Tô Đông Pha ngày ngày ở tại Giang
Nam ngồi tham thiền, cảm thấy cảnh giới của mình là cao nhất rồi. Một bữa nọ,
ông cảm thấy như chính mình đang được ngồi trên tòa sen vàng, đạt tới cảnh giới
―như như bất động, liễu liễu thường minh” rồi vậy. Ôi! Loại cảnh giới này quả
không còn gì cao hơn được nữa! Ông bèn viết một bài thơ, rằng:
Khể thủ
Thiên Trung Thiên,
Hào quang
chiếu đại thiên,
Bát phong
xuy bất động,
Đoan tọa tử
kim liên.
Nghĩa
là :
Cúi lạy
Thiên Trung Thiên,
Hào quang
sáng đại thiên,
Tám gió
khôn lay động,
Ngồi vững
trên tòa sen.
―Khể thủ thiên trung thiên.” ―Khể thủ” nghĩa là
khấu đầu, cúi lạy. ―Thiên Trung Thiên” tức là Phật--Phật là trời của trời,
thánh của thánh, đối với cảnh giới cao nhất, thì không có cảnh giới nào cao hơn
cảnh giới của Phật; trong cảnh giới thấp nhất, cũng không có cảnh giới nào thấp
hơn cảnh giới Phật. Phật là tận cùng cõi hư không, bao trùm khắp Pháp Giới, cho
nên không có cao, cũng chẳng có thấp.
Vậy, Tô Đông Pha hướng về Phật cúi đầu đảnh lễ và
thấy rằng ―hào quang chiếu khắp đại thiên”--ông cảm thấy thân thể mình bỗng
nhiên toả sáng và ánh sáng đó soi trời rọi đất, chiếu sáng khắp ba ngàn đại
thiên thế giới. Sau đó, ông nói rằng: ―Bát phong xuy bất động.” ―Bát phong” là
gì? Bây giờ tôi sẽ giảng cho quý vị hiểu rõ. ―Bát phong” là tám thứ gió và đó
là xưng (tán tụng), cơ (dèm pha), khổ (buồn khổ), lạc (vui sướng), lợi (lợi
ích), suy (suy diệt), và đắc (được), thất (mất) ; cũng có sách nói là hủy (chê
bai), dự (khen ngợi).
1) Xưng là xưng tán, ca tụng, tâng bốc. Ví dụ có người
khen ngợi quý vị rằng: ―Này cư sĩ, ông quả là người có tâm Bồ Đề rộng lớn. Chà!
Ông đích thực là một vị hộ pháp vĩ đại, công đức này của ông thật vô cùng to
lớn.” Cứ thế, bên trái thì người này đội cho quý vị một cái mũ cao, bên phải
thì kẻ khác lại chụp lên đầu quý vị một cái nón cao chẳng kém--không biết người
ta đã tặng cho quý vị bao nhiêu cái mũ cao nữa, mà quý vị đội lên thấy cao ngất
trời, đến nỗi đâm thủng nóc của 33 tầng trời, thấu lên tới cõi trời 34 ! Lúc
bấy giờ, quý vị thấy dương dương tự đắc: ―Wow ! Mình thật tài giỏi! Nếu không
thì sao mọi người lại tấm tắc ngợi khen mình đến thế?” Nghĩ như thế thì trong
lòng quý vị cảm thấy rộn ràng, háo hức, huơ chân múa tay. Thế nào gọi là hoa
chân múa tay? Là tay thì vung vẩy tới lui, chân thì không ngớt nhảy nhót, nhảy
nhổm lên rất thích thú. Đây đích thị là bị trúng gió rồi--bị ngọn gió ―tâng
bốc” thổi trúng, bốc quý vị lên đến tận mây xanh! Quý vị vốn đã được đội cho
chiếc mũ cao như vậy rồi, lại nhảy lên trời một cái là đến tận ―bán thiên vân”
ngay ! Đây là ngọn gió ―xưng tán” đã thổi trúng quý vị rồi đó.
2) Cơ tức là cơ phúng, cơ thích, có nghĩa là châm
biếm, chế giễu người khác. Thế nào gọi là châm biếm? Chẳng hạn biết được quý vị
tham cầu học Phật Pháp, có người liền ra vẻ trầm trồ: ―Vâng! Ông ấy đang học
Phật Pháp. Đó là điều tốt đẹp nhất!” với một giọng điệu đưa đãi, nghe mà thấy
xốn xang như bị người ta cầm dao chọc vào tai của quý vị vậy--đó chính là ‗cơ
phúng‘ (châm biếm, châm chọc). Nói tóm lại, quý vị không muốn nghe về một đạo
lý nào đó mà có người lại cứ kề tai kể lể, thóc mách hoài khiến cho quý vị cảm
thấy khó chịu, liền bực bội bỏ đi. Thế là đã nổi giận rồi, một khi sự nóng giận
đùng đùng nổi lên thì lửa vô minh bốc cao ngùn ngụt đến cả ba ngàn trượng. Đây
chính là quý vị đã bị một trận gió cơ thổi trúng làm quý vị nổi giận.
3) Khổ chính là rất khổ, rất rất khổ. Ở đây, không
phải là nói đến thức ăn có vị khổ (đắng), mà là muốn nói về cái cảm giác
vô cùng khổ não mà mình gặp phải. Cái ―Khổ” này chính là lo lắng; một khi lo
lắng thì liền nổi giận; khi nổi giận thì máu trong người dường như đều cháy
khô, cạn kiệt; khô cạn rồi, thì miệng cũng đắng, răng cũng đau, tai cũng ù cũng
điếc, bao nhiêu bệnh tật đều dồn dập ập tới! Ngọn gió khổ này đã thổi tới cho
quý vị biết bao nhiêu sự khổ đau, nào là chau mày cau có, mắt thì hoa, tai lại
điếc, lại còn đau răng nữa. Đây chính là đau khổ !
4) Lạc nghĩa là những việc đem lại cảm giác khoái lạc,
mừng rỡ, vui sướng. Giả sử rằng tất cả những người mà quý vị gặp gỡ đều là
người mà quý vị rất ưa thích, ai nấy đều đối xử với quý vị rất tử tế. Quý vị
lại còn được ăn ngon, được mặc đẹp, được ở nhà cao cửa rộng, ra vào đều có xe
đưa xe rước nườm nượp. Cho nên, khi ấy quý vị cảm thấy rất vui vẻ, sung sướng.
Một khi đã vui thích rồi thì tâm hồn thấy lâng lâng bay bổng, đến nỗi bản thân
mình là người như thế nào quý vị cũng quên bẵng! Vui quá, quên lo. Đây là quý
vị bị ngọn gió lạc làm cho mê muội hồ đồ, tưởng chừng như mình đã thành tiên
thành Phật rồi vậy. Lúc bấy giờ, quý vị sẽ không còn muốn tu hành nữa bởi vì
quá vui sướng, phấn khởi! Vậy, khoái lạc cũng là một loại gió có thể làm lay
động lòng người, quý vị đừng nên cho rằng được sống trong sự khoái lạc là một
điều tốt đẹp.
5) Lợi, chính là lợi ích, có được sự lợi ích, lợi
nhuận. Ví dụ như quý vị mua cổ phiếu và trị giá lúc mua là 500 đồng. Không quá
ba ngày sau, giá cổ phiếu tăng lên gấp bốn lần, thành ra giá trị là 2.000 đồng,
tức là có lời rồi. Bấy giờ, quý vị cảm thấy phấn khởi: ―A! Phen này mình phát
tài thật rồi!” Đây cũng chính là bị gió ―lợi” thổi trúng, làm cho quý vị động
tâm.
6) Suy chính là lụn bại, sa sút. Ví dụ như có 100 gian
nhà lớn, có ngọn lửa không biết từ đâu đến thiêu rụi cả 100 buildings này, như
thế gọi là suy. ―Suy” đem đến cho quý vị sự phiền não đau khổ, không an vui.
Đắc nghĩa
là có được. Ví dụ như đang đi trên đường thì nhặt được năm trăm vạn đồng. Trong
lòng cảm thấy rất vui mừng, đây gọi là ―đắc.”
8) Thất là
mất, sau khi quý vị đã ―đắc” được rồi, thì chẳng bao lâu lại bị mất đi, cho nên
trong lòng cảm thấy không vui. Mới vui đó giờ lại buồn đó.
Hủy, tức là hủy báng, nói xấu, chê bai. Dự, tức là
xưng tán, ca ngợi. Ý nghĩa của ―hủy, dự” và ―xưng, cơ” cũng chẳng sai biệt nhau
bao nhiêu, do đó có thể đổi là ―xưng, cơ” hay là ―hủy, dự.” Nếu quý vị không có
định lực, thì sẽ bị tám ngọn gió này làm lay chuyển. Thế nhưng, nếu quý vị
có định lực, thì khi tám ngọn gió này ùn ùn kéo tới, quý vị sẽ chẳng bị lay
động cũng chẳng bị chao đảo, dửng dưng như không có chuyện gì xảy ra—như thế
mới gọi là ―bát phong xuy bất động.”
Tô Đông Pha tự cho rằng mình là bát phong xuy bất
động, ―đoan tọa tử kim liên”. Ông ta ngồi ngay ngắn trên tòa sen tử kim liên,
trong cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh. A! Thật là cao diệu
phi thường, ông ta cảm thấy thật là vi diệu đến không thể diễn tả được. Thế là
ông ta liền viết xuống, rồi gửi cho Thiền Sư Phật Ấn, thỉnh ngài ấn chứng xem
phải chăng ông đã được khai ngộ. Thiền Sư Phật Ấn rất thú vị, bèn phái một
người thị giả mang bài thơ này về cho Tô Đông Pha; và ngài cũng chẳng nói gì cả
mà chỉ phê vào mặt sau trang giấy có bài thơ đó bốn chữ. Bốn chữ này hoàn toàn
chẳng có gì là cao thâm cả, mọi người đều có thể hiểu được, đó là: ―Đánh rắm!
Đánh rắm!” Tô Đông Pha xem xong rất đỗi ngạc nhiên : ―A , ta làm bài thơ hay
như vậy, sao Phật Ấn lại chê là đồ rắm thối? Quả là láo xược!”
Thế là không cần phải cả tám ngọn gió, chỉ mới có
một ngọn gió—hai chữ ―đánh rắm”-- thôi đã làm cho Tô Đông Pha phảì lồng
lộn, nhảy nhổm lên. Từ Giang Nam ông ta tức tốc bay qua Giang Bắc và đi ngay
tới Chùa Kim Sơn, tìm gặp Thiền Sư Phật Ấn. Vừa vào đến cửa,
ông ta hùng hùng hổ hổ quát lớn : ―Lão hòa thượng này, sao ông lại
mắng chửi người ta như thế chứ ?”
-―A, tôi làm thơ hay như thế, đó là kiến giải công
phu tu tập của tôi, tôi đạt đến trình độ nào thì viết ra bài thơ như thế
ấy, tại sao ngài lại nói tôi là đồ rắm thối?”
Thiền sư Phật Ấn nói: ―Theo ý nghĩa của bài thơ mà
ông làm thì ông đã đạt đến cảnh giới bát phong xuy bất động rồi, thế thì tại
sao tôi chỉ nói có hai chữ, mà đã khiến cho ông phải lập tức băng sông vượt
suối tìm đến tận đây?”
Tô Đông Pha nghe Phật Ấn nói như thế thì ngẩn người
ra và cảm thấy hổ thẹn không còn lời nào để nói nữa, cảm thấy tự mình định lực
còn kém cỏi ; nếu có đủ định lực thì bát phong không thể làm lay động, cho dù
có bị Thiền sư Phật Ấn phê bình tệ hại hơn thế nữa vẫn có thể chịu được, chứ sá
gì hai chữ ―rắm thối” này ! Tự nhận thấy mình công phu chưa thành ông vội vàng
cúi đầu đảnh lễ, thỉnh Thiền sư chỉ bảo thêm cho, và sau đó trở về dụng công tinh
tấn tu hành thêm lên.
Vì sao Tô Đông Pha lại tức tốc từ Giang Nam tìm đến
Giang Bắc? Do ông ta chưa có được sự tự tại trước lời phê bình, chỉ trích. Nếu
như ông giống Quán Thế Âm Bồ Tát, có sức năng quán sát, thì ông không cần lặn
lội đến Giang Bắc. Cho dù Phật Ấn có nói ông ―rắm thối” cũng được, không ―rắm
thối” cũng xong, Phật Ấn muốn nói thế nào cũng được, không liên quan gì đến ông
cả, phải như thể ông không nghe thấy gì cả! Như thế mới thật sự là có công phu
tu hành. Được như thế thì Thiền sư Phật Ấn mới bái phục ông. Đằng này, Thiền sư
Phật Ấn chỉ cần xuất một chiêu thôi là ông đã bị đánh gục ngay. Điều đó cho
thấy công phu tu hành của ông còn chưa tới đâu, chưa chứng ngộ được gì cả vậy.
― Cũng tên là Nhiên Sách.” Vị Bồ
tát này thường cầm trong tay một sợi quyên sách. Trong 42 Thủ Nhãn
không phải có một thủ ấn tên là Quyên Sách Thủ sao? Đó chính là Nhiên Sách.
Nhiên Sách chính là cầm sợi dây quyên sách này. Ngoài ra, Bồ tát ―cũng tên
là Thiên Quang Nhãn.” Ngài còn được gọi là Bồ tát Thiên Quang
Nhãn.
―Thiện nam tử!” Đức Phật gọi ngài A Nan:
―Thiện nam tử! Bồ tát Quán Thế Âm có sức oai thần không thể
nghĩ bàn này, trong vô lượng kiếp về trước, trong nhiều đại kiếp không tính
đếm được ở quá khứ Ngài đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vị
Bồ Tát này vì nguyện lực đại từ bi, do không bỏ nguyện lực đại từ
đại bi của mình, vốn là nguyên lực đại bi mà ngài đã phát nguyện trước
kia, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả Bồ tát. Ngài muốn
khiến tất cả Bồ tát đều phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo, và vì muốn an lạc
thành thục chúng sinh, cũng bởi Ngài muốn cứu độ chúng sinh cho
mọi loài đều đạt được sự an lạc, cho nên Ngài hiện làm Bồ
tát. Ngài vốn là Chánh Pháp Minh Như Lai, và nay Ngài thị hiện là Quán Thế
Âm Bồ tát.
KINH VĂN:
Âm: “NHỮ ĐẲNG ĐẠI CHÚNG, CHƯ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT, PHẠM
THÍCH LONG THẦN, GIAI ƯNG CUNG KÍNH, MẠC SANH KHINH MẠN. NHẤT THIẾT NHÂN THIÊN,
THƯỜNG TU CÚNG DƯỜNG, CHUYÊN XƯNG DANH HIỆU, ĐẮC VÔ LƯỢNG PHÚC, DIỆT VÔ LƯỢNG
TỘI, MẠNG CHUNG VÃNG SANH A-DI-ĐÀ PHẬT QUỐC.”
Nghĩa: “Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ
tát Ma ha tát, Phạm vương, Đế Thích, Long Thần đều nên cung kính,
chớ sanh lòng xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường cúng dường, chuyên
tâm xưng niệm danh hiệu, thì sẽ được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, lúc
mạng chung sẽ được vãng sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.”
LƯỢC GIẢNG:
Ông và đại chúng, hiện tại các vị, tất cả đại chúng có mặt và không có mặt trong pháp hội, cùng ―chư Bồ tát Ma ha tát,” tất cả các Bồ tát, đại Bồ tát, và ― Phạm Thích Long Thần.” Phạm chính là Đại Phạm Vương; Thích là Đế Thích. Đại Phạm Thiên Vương chính là vua của một cõi thanh tịnh trên trời, rất ung dung tự tại, nên còn gọi là Đại tự tại thiên. Thích là Đế Thích, tức là trời Đế Thích, cũng là chủ trong tất cả cõi trời; trong Chú Lăng Nghiêm, vị trời này có tên là Nhân Đà La--―Nam mô Nhân Đà La Da” chính là chỉ vị trời này. Long tức là loài rồng ở trên trời; Thần là nói chung tất cả các vị thần. Tất cả đều nên cung kính Quán Thế Âm Bồ tát, chớ sanh lòng xem thường Quán Thế Âm Bồ tát. Tất cả loài người ở thế gian và ở cõi trời nên thường cúng dường Quán Thế Âm Bồ tát, chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ tát, tất có thể đạt được phước đức vô lượng, có thể diệt trừ vô số tội lỗi, lúc mạng chung nhất định sẽ được vãng sanh về cõi nước của Phật A Di Đà. Vì thầy của Bồ Tát Quán Âm chính là Phật A Di Đà, nếu quý vị niệm danh hiệu của đệ tử Ngài, thì tương lai quý vị có thể được sanh về thế giới Cực Lạc, quốc độ của Ngài.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán
Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn Vô Ngại Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Kinh
Hán dịch: Ðường, Tây Thiên Trúc, Sa Môn Già Phạm Ðạt
Ma
Thiển giảng: Vạn Phật Thánh Thành, Hòa Thượng Tuyên
Hóa.
7
Kinh văn:
佛告阿難。此觀世音菩薩所說神咒。真實不虛。若欲請此菩薩來。咒拙具羅香三七遍燒。菩薩即來。(註:拙具羅香。安息香也。)
Hán văn: Phật cáo A nan, thử Quán Thế Âm bồ tát sở thuyết thần chú, chân thật bất hư, nhược dục thỉnh thử Bồ Tát
lai, chú chuyết cụ la hương tam thất biến thiêu, bồ tát tức lai. (Chú: Chuyết
cụ la hương, an tức hương dả.)
(Việt dịch: Đức Phật bảo ngài A Nan: Thần chú của Quan Thế
Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng
chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên thì Bồ tát sẽ giáng lâm (Ghi chú:
Chuyết Cụ La chính là hương An Tức).
Lược giảng:
Đức Phật bảo ngài A nan, “Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát
nói ra đây”: thần chú Đại Bi do Bồ tát Quán Thế Âm nói là “chân
thật không dối”. thần chú này có công đức lớn không thể nghĩ bàn, thần lực
không thể nghĩ bàn, có năng lực diệt vô lượng tội, tăng vô lượng phước, là lời chân
thật không giả. “Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến”: nếu có người muốn thỉnh
Ngài quang lâm tới đạo tràng thì “nên tụng chú vào hương Chuyết Cụ La
21 lần rồi đốt lên”: Chuyết Cụ La chính là hương An Tức, ở ở hiệu
thuốc bắc có loại hương này, tam thất biến chính là ba nhân bảy bằng 21 lần.
Quý vị niệm 21 biến trú vào hương An Tức rồi đốt lên “Bồ Tát sẽ giáng lâm”:
thì Bồ tát sẽ giáng lâm đạo tràng hoặc Pháp hội.
Kinh văn:
若有貓兒所著者。取弭哩吒那。燒作灰。和淨土泥。捻作貓兒形。於千眼像前。咒鑌鐵刀子一百八遍。段段割之。亦一百八段。遍遍一咒。一稱彼名。即永差不著。(註:弭哩吒那。死貓兒頭骨也。)
Hán văn: Nhược hữu miêu nhi sở trước
giả, thủ nhị lý tra na, thiêu tác hôi, hòa tịnh độ nê, niệp tác
miêu nhi hình, ư thiên hình tượng tiền, chú tấn thiết đao tử nhất bách bát
thiên, đoạn đoạn cát chi, diệc nhất bách bát đoạn, biến biến nhất chú, nhất xưng
bỉ danh, tức vĩnh sai bất trước. (Chú: nhị lý tra na, Tử miêu nhi đầu cốt dã.)
(Việt dịch: Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa thân hành bệnh.
Nên tìm một hộp sọ của con mèo đã chết, đốt tan ra thành tro, rồi trộn với đất
sét sạch, nặn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn,
tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Mỗi lần
tụng xong một biến thì chém xuống một dao, kêu tên mèo một lần. Làm như thế
bệnh nhân sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại.). (Chú thích: Nhị lý tra na là hộp sọ của một con mèo đã chết)
Lược giảng:
Vài ngày trước, Quả Ninh có một người họ hàng đến thăm và nhân tiện
hỏi tôi có giảng kinh ‗Kinh Đại Bi Đà la ni‘ như thường lệ không. Bởi vì anh ta
cho rằng những điều trong ―Kinh Đại Bi tâm Đà la ni‖ rất kỳ lạ, anh ta sợ người
thân của mình nghe thấy và cho đó là những điều hoang đường, càng không tin vào
đạo Phật rồi sinh tâm phỉ báng. Kỳ thật những điều trong kinh dạy chẳng có gì
lạ cả, chẳng qua người phương Tây họ chưa gặp qua nên cho rằng những việc này
là kỳ lạ. Còn ở Ấn Độ và Trung Quốc, điều này không có gì là lạ cả, tất cả đều
là là chuyện bình thường.
“Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa thân hành bệnh”: bị loài ma Mèo dựa thân là sao? Trên thế gian này có đến
84.000
Bởi vì ―Chú Đại Bi‖ có thể chữa bất kỳ bệnh lạ và khó chữa nào, nên
bây giờ tôi sẽ nói về cách trị loại bệnh ma mèo này. Loại bệnh này không dễ
chữa, bởi vì con mèo này giống như một con hổ. Nếu trong nhà có một con ma như
con hổ nhỏ như vậy thì không dễ gì trị được, cho nên phải dùng một loại phương
pháp trị. Thuốc giải là lấy độc trị độc - dùng loại độc thích hợp để trị người
bị trúng độc. Thuốc chữa bệnh nào cũng là lấy độc trị độc, vì có độc này thì
độc kia mất.
Đó là lý do tại sao trong kinh dạy rằng nếu ai đó bị ma mèo dựa
thân, hãy "lấy nhị lý tra na": Nhị lý tra na là hộp sọ của một
con mèo đã chết. Để chữa bệnh cho người bị bệnh do ma mèo dựa thân, thì cần sử
dụng hộp sọ của con mèo đã chết. Làm như thế nào? “đốt tan ra thành tro, rồi
trộn với đất sét sạch”: đem cái hộp sọ đó đốt thành tro, trộn với
đất sét sạch. Vì nếu chỉ riêng hộp sọ mèo có rất ít tro nên quý vị không
thể làm thành hình con mèo được, vì vậy quý vị cần thêm một ít đất sét sạch. Ồ,
trộn đất sét sạch với tro sọ mèo chết, để làm gì? "Nặn thành hình con
mèo": nặn nó thành hình một con mèo nhỏ. Quý vị nghe tôi bảo làm như
thế thật giống chuyện của con nít chơi quá phải không ?
“Để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn”: đặt tượng con mèo vừa mới tạo đối trước tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ tát, “tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao tốt”: hán văn dùng từ ‗Tấn thiết‘ chính là loại sắt tốt trong các loại sắt, dùng sắt đó làm thành con dao và trì vào lưỡi dao đó 108 biến chú Đại Bi, “rồi chặt ra từng đoạn”: chặt con mèo làm từ đất sét và tro sọ con mèo thành từng đoạn, “thành 108 đoạn”: rồi chặt thành 108 đoạn. “Mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một dao”: sau khi trì xong một biến thần chú thì dùng dao chặt hình con mèo một lần, tức là sẽ phải trì 108 biến chú nữa để chặt hết 108 lần vào hình con mèo. “kêu tên mèo một lần”: khi chặt thì gọi tên con mèo đó một lần, “làm như thế bệnh sẽ lành”: làm như vậy xong bệnh sẽ khỏi, không bao giờ tái phát, không bị yêu ma mèo quấy phá nữa. Phương pháp và nguyên tắc này đúng là không thể nghĩ bàn, và tất cả đều thuộc Phật giáo Mật tông. Mật tông là một loại bí pháp, bí pháp là không thể hiểu được công năng, diệu dụng, cho nên không phải người bình thường có thể hiểu được đạo lý này.
Kinh văn:
若為蠱毒所害者。取藥劫布羅。和拙具羅香。各等分。以井華水一升。和煎。取一升。於千眼像前。咒一百八遍服。即差。(註:藥劫布羅。龍腦香也。)
Hán văn: Nhược vi cổ độc sở hại giả,
thủ dược kiếp bố la, hòa chuyết cụ la hương, các đẳng phân, dĩ
tỉnh hoa thủy nhất thăng, hoa tiễn, thủ nhất thăng, ư thiên nhãn tượng tiền,
chú nhất bách bát biến phục, tức sái. (Chú: Dược kiếp bố la: Long não hương).
(Việt dịch: Nếu nɡười nào bị chất độc củɑ loài sâu cổ làm
hại, thì dùnɡ hươnɡ dược kiếp bố lɑ hòɑ với chuyết cụ lɑ hươnɡ, mỗi lượng bằng
nhau đem hòa vào nước tronɡ, sắc còn một thăng. Xonɡ, lại để chén thuốc ấy
trước tượnɡ Thiên Nhãn tụnɡ chú 108 biến rồi cho bệnh nhân uốnɡ, bệnh sẽ khỏi.
(Chú thích: Dược kiếp bố la hương là hương Long não)
Lược giảng:
Có một hạng cổ sư, họ có rất nhiều thần thông, có thể phi hành biến hóa, thoắt ẩn thoắt hiện nhưng đa số những người này có tâm địa rất độc ác. Đa số những hạng cổ sư này từ đâu mà ra, đa phần là từ loài rắn độc mà biến hóa ra. Họ lấy việc giết người để gia tăng năng lực, lấy hại người để tu luyện thần thông, xem việc giết người, hại người là chuyện rất bình thường. Những hạng cổ sư này có thể thấy ở Việt Nam, Thái Lan, Vân Nam, Trung Quốc hay Singapore và Malaya. Trong tiếng Quảng Đông, có một tên gọi khác của những cổ sư này là ‗Bùa ngải‘. Trước đây khi người Hoa sang Việt Nam hay Singapore có lấy người phụ nữ bản địa làm vợ. Sau khi kết hôn những người phụ nữ này sợ chồng mình trở về Trung Quốc, nên họ đặt „cổ trùng‟ cho anh ta. Nếu người chồng không trở về Trung Quốc thì họ sẽ không động thủ, không làm cho „cổ trùng‟ phát tác; nhưng nếu người chồng trở về Trung Quốc, người vợ sẽ niệm chú, „cổ trùng‟ sẽ phát tác và người chồng sẽ phải chết.
Này Chiêm Ni Tang! Bạn có nghe qua điều đó chưa?
Chiêm Ni Tang: Có ạ, nghe người nữ hạ cổ trùng ạ.
Thượng nhân: Bạn không hiểu ý tôi?
Chiêm Ni Tang: Dạ hiểu ạ! Ở đó có những người phụ nữ có thể hạ cổ
trùng.
Thượng nhân: Ồ? Vậy bạn đã gặp những trường hợp như thế bao giờ chưa?
Chiêm Ni Tang: Ở Trung Quốc, con có người bạn hạ cổ ạ.
Thượng nhân: Thật đáng tiếc! Nếu anh ấy biết niệm Chú Lăng Nghiêm,
thì cổ trùng đã không thể làm hại được.
Chiêm Ni Tang: Ở Quý Châu, con đã từng thấy qua người làm cổ trùng,
mắt anh ta đỏ hoe. Chính mắt con chứng kiến người này bỏ bùa vào tô mì của bạn
con khi mời bạn con ăn mì. Vì biết trước điều này nên bạn con đã đổ tô mì xuống
nền gạch mà không ăn, một lát sau thì mì có màu như máu. Có rất nhiều người sử
dụng cổ trùng ở Quý Châu và Vân Nam.
Thượng nhân: Khi bạn đến nhà cổ sư bạn chỉ cần uống một tách trà
thì bạn đã bị cổ trùng rồi.
Chiêm Ni Tang:
Dạ! Trùng đó giống như máu.
Thượng nhân: Chẳng hạn vị cổ sư bỏ cổ trùng vào vật gì đó mà quý vị
sờ vào thì cũng đã bị trúng cổ rồi. Cổ rất mạnh và lợi hại. Như cổ sư đặt đồ
vật nào đố trên đường nếu quý vị chạm vào, hoặc đá vào thị quý vị đã trúng cổ
rồi. Cổ trùng này rất mạnh. Cổ này được điều khiển bởi cổ sư. Nếu quý vị muốn
hại ai chỉ cần đến thương lượng với cổ sư, cổ sư sẽ chỉ bày cách cho quý vị phương
pháp. Có rất nhiều người đã học được Cổ này. Nhưng chỉ cần bạn trì chú Lăng
Nghiêm thì quý vị sẽ không phải sợ bất kỳ loại Cổ nào. Không chỉ có chú Lăng
Nghiêm mà còn có chú Đại Bi. Nếu quý vị biết niệm chú Đại Bi thì bất kể cổ sư
hạ bạn cổ trùng gì thì chú Đại Bi cũng đều có thể giải trừ được.
Chiêm Ni Tang: Những người bị nhiễm Cổ sẽ chết trong vòng ba mươi
ngày.
Thượng Nhân: Ồ! Chết trong vòng ba mươi ngày. Không đâu! Nếu có người
nào trì năm đệ chú Lăng Nghiêm hay Ngũ Đại Tâm Chú trong chú Lăng Nghiêm mà tôi
đã chỉ cho quý vị thì chất độc của Cổ trùng đều mất tác dụng. Bất kể là loại Cổ
trùng nào đi nữa cũng đều tiêu tan, không còn tác dụng.
“Nếu nɡười nào bị cổ độc làm
hại”: nếu có người nào bị cổ độc làm hại nên “dùng hươnɡ dược
kiếp bố lɑ hòɑ với chuyết cụ lɑ hương”: ‗Dược kiếp bố la‘ chính là
Long Não hương là một loại thuốc và ‗Chuyết Cụ La‘ chính là ‗An Tức Hương‘,
“mỗi lượng bằng nhau”: chính là lấy hai phần thuốc có lượng bằng nhau,
nếu Long Não hương ba lạng thì An Tức hương cũng ba lạng, nếu Long Não hương
năm lạng thì An Tức hương cũng năm lạng. “đem hòa vào nước tronɡ”: Hán
văn dùng từ ‗tỉnh hoa thủy3‘ là loại nước suối, nước ở giếng vào
3 Căn cứ vào sách đông y Bổn Thảo Cương
Mục, quyển 5 của Lý Thời Trân thời nhà Minh cho rằng: Tỉnh hoa thủy là loại nước
suối, nước ở giếng vào buổi sáng có vị ngọt không độc, có tác dụng an thần,
trấn tỉnh, thanh nhiệt, trợ âm vv. Uông
Dĩnh cho rằng: Nước được lấy buổi sáng
sớm gọi là tỉnh hoa thủy, đặc biệt lấy nước từ núi, khe suối là tinh phẩm, mùa
đông ôn, hạ mát, ngọt ngào tinh thuần.
buổi sáng có vị ngọt không
độc, hay nước được lấy buổi sáng sớm, đặc biệt lấy nước từ núi, khe suối, nước
ở chỗ mà mới chảy tuôn ra tung tóe chứ không phải chỗ nước đã để lâu, vì vậy
mới gọi là tỉnh hoa thủy, hòa với nhau là đem 2 phần thuốc trên hòa với nước; “sắc
còn một thăng”: ‗Thăng‘ là đơn vị đo, nếu đổi ra thì bằng khoảng 1 lít. Đem
chỗ thuốc đã được hòa với nước sạch đó đun lên, sắc còn 1 thăng (1 lít). Lượng này còn như cái chén
hoặc nhiều hơn giống như cái bát vậy, “để chén thuốc ấy trước tượnɡ
Thiên Nhãn”: sau đó để chén thuốc đó đặt trước tượng Quán Thế Âm Bồ
Tát Nghìn Tay Ngìn Mắt, “tụnɡ chú 108 biến”: và thành tâm tụng 108 biến
thần chú Đại Bi; sau đó cho người bị bệnh uống thì “bệnh sẽ khỏi”.
Hán văn dùng chữ ‗Tức sái‘: nghĩa là liền khỏi ngay. Chữ ‗sái‘ này vốn đọc chữ
‗sứa‘, bên cạnh thêm chữ ‗bệnh‘, ‗báng (瘥)‘
nghĩa là khỏi hẳn. (Kinh văn nói dùng
nước tỉnh hoa thủy, nhưng tùy điều
kiện thực tế có thể dùng nước giếng vào sáng sớm, hoặc nước sạch tinh khiết,
hay nước sạch không trùng)
Kinh văn:
若為惡蛇蠍所螫者。取乾薑末。咒一七遍。著瘡中。立即除差
Hán văn: Nhược vị độc xà, hiết sở
thích giả, thủ càn gương mạt, chú nhất thất biến, trước sang
trúng, lập tức trừ sai.
(Việt dịch: Nếu bị rắn độc, rết cắn, dùng gừng khô nghiền
thành bột, tụng chú vào đấy 7 biến, rồi đắp lên vết thương, liền hết.)
Lược giảng:
“Nếu bị rắn độc, rết cắn”: ‗Độc xà‘ là những loài rắn độc, ‗hiết‘ là loài rết hay bọ
cạp, ‗thích‘ là bị châm, chích, hay cắn. Loại rắn và rết, bọ cạp bị nó chích,
cắn thì rất đau, nếu không chữa trị kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Như
loài ong vò vẽ cũng vậy, có một số loài ong đốt thì không nguy hiểm nhưng bị
ong vò vẽ đốt thì có thể mất mạng, “dùng gừng khô nghiền thành bột”:
lúc này nên lấy gừng khô nghiền ra
thành bột, “tụng chú vào đấy 7 biến”: sau đó trì vào đó 7
biến chú Đại Bi, “rồi đắp lên vết thương”: rồi đắp lên chỗ bị cắn thì
độc tố được giải trừ ngay lập tức, chất độc được giải trừ rồi thì sẽ không sao
cả.
Long Não hương và An Tức hương có chức năng xua đuổi tà ma, tà ma
và quỷ thần ngửi thấy mùi hương An Tức và hương Long Não liền sợ hãi, vì hai
mùi này hễ tà ma ngửi vào sẽ chịu không nổi, nên có nó thì tà ma tránh xa. Thậm
chí những linh hồn vất vưởng hay tạp mị, võng lượng ngửi thấy mùi liền chạy xa.
Cho nên lấy chúng nấu với nước sạch có thể loại bỏ được cổ trùng. Gừng có vị
cay, mặc dù rắn độc và bò cạp đều có độc, nhưng độc của chúng lại kỵ cay, cho
nên bột gừng khô có năng lực giải trừ những loại chất độc này, vết đốt sẽ nhanh
chóng lành lại; Lại nệm chú Đại bi bảy biến, đắp vào chỗ châm chích thì liền
nhanh khỏi
Hiệu quả chữa bệnh đều lấy trên nguyên tắc lấy độc trị độc, nền
tảng tương khắc với nhau cũng là hiện tượng vật lý tự nhiên. Như triết học
Trung Quốc có học thuyết ngũ hành: mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa,
hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Bởi thế, bệnh này lấy loại thuốc khắc chế cũng là
một tác dụng vật lý. Phàm tất cả các phương pháp chữa bệnh, thuốc gì bệnh gì
đều là tác dụng vật lý.
Kinh văn:
若為惡怨橫相謀害者。取淨土。或麵或蠟。捻作本形。於千眼像前。咒鑌鐵刀一百八遍。一咒一截。一稱彼名。燒盡一百八段。彼即歡喜。終身厚重相愛敬。
Hán văn: Nhược vị ác oán hoành tướng
mưu hại giả, thủ tịnh độ, hoặc miến, hoặc chá, niêm tác bổn hình,
ư thiên nhãn tượng tiền, chú tấn thiết đao nhất bách bát biến, nhất chú nhất
tiệt, nhất xưng bỉ danh, thiêu tận nhất bách bát đoạn, bỉ tức hoan hỷ, chung
thân hậu trọng tương ái kính.
(Việt dịch: Nếu bị kẻ thù oán mưu hại,
nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong để hình
218
nhân trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi. Sau
đó lại tụng một biến thì cắt hình nhân một dao và kêu tên người kia một lần,
cắt thành 108 đoạn rồi đem hình nhân đã chặt đốt đi. Y theo pháp thức như thế,
kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn
đời đôi bên quý mến lẫn nhau.)
Lược giảng:
“Nếu bị kẻ thù oán mưu hại”: giả sử như có người oán thù với quý vị, hoặc do hiểu lầm,
hoặc do bất đồng quan điểm về điều gì đó mà dẫn đến thù oán với nhau, họ muốn
dùng mọi thủ đoạn thâm hiểm mưu hại hoặc gây bất lợi cho quý vị. Điều này đối
với quý vị không tốt chút nào. Lúc này quý vị nên “dùng đất sạch”: loại
đất sét sạch; “hoặc bột, hoặc sáp”: bột là bột làm từ ngũ cốc,
hoặc sáp nến. Tiếp theo thì “nắn thành hình kẻ ấy”: quý vị có thể
nặn chỗ đất, bột, sáp đó thành hình của kẻ thù oán, hoặc chính hình của
mình cũng được, nói chung là thành hình người.
“Xong, lại để hình nhân trước tượng Thiên Nhãn”: nặn xong hình người thì đặt nó trước tượng Quán Thế Âm Bồ
tát nghìn tay nghìn mắt. “tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi”: trì 108
biến thần chú Đại Bi vào lưỡi dao; “Sau đó lại tụng một biến thì cắt
hình nhân một dao và kêu tên người kia một lần, cắt thành 108 đoạn”: sau đó
dùng con dao đã trì chú vào đó cắt hình nhân thành 108 đoạn, tụng xong
một biến chú Đại Bi, kêu tên kẻ thù oán một lần thì cắt một đoạn, ―rồi đem
hình nhân đã chặt đốt đi‖: chặt xong thì đem đốt đi, nếu là hình
nhân bằng đất thì nó sẽ không cháy, vậy nên không nên dùng đất để
làm hình nhân, còn hình nhân bằng bột hay sáp thì đốt xong nó sẽ cháy thành ra
tro. “Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng
thái vui vẻ”: nếu có thể đúng theo pháp mà làm thì kẻ thù muốn hại
quý vị sẽ không hại quý vị nữa, “thân hậu đối với ta, trọn đời đôi
bên quý mến lẫn nhau”: họ đối với quý vị sanh tâm hoan hỉ, trọn đời
tôn trọng quý vị, quý mến quý vị và không có ý nghĩ mưu hại quý vị.
219
Kinh văn:
若有患眼睛壞者。若青盲眼暗者。若白暈赤膜無光明者。取訶梨勒果。菴摩勒果。鞞醯勒果。三種各一顆。搗破細研。當研時。惟須護淨。莫使新產婦人及豬狗見。口中念佛。以白蜜若人乳汁和。封眼中著。其人乳。要須男孩子母乳。女母乳不成。其藥和竟。還須千眼像前。咒一百八遍。著眼中滿七日。在深室慎風。眼睛還生。青盲白暈者。光奇盛也
Hán văn: Nhược hữu hoạn nhãn tình
hoại giả, nhược thanh mân nhãn ám giả, nhược bạch vựng xích mạc
vô quang minh giả. Thủ ha lê lặc quả, am ma lặc quả, bính hề lặc quả, tam quả
các nhất khỏa, đảo phá tế nghiên, đương nghiên thời. Duy tu hộ tịnh, mạc sử tân
sản phụ nhân cấp trư cẩu kiến, khẩu trung niệm Phật, dĩ bạch mật nhược nhũ chấp
hòa, phong nhãn trung trước, kỳ nhân nhũ, yếu tu nam hài tử mẫu nhủ, nữ mẫu nhủ
bất thành, kỳ nhược hòa cánh, hoàn tu thiên nhãn tượng tiền, chú nhất bách bát
thiên, trước nhãn trung mãn thất nhật. Tại thâm thất thận phong, nhãn thanh
hoàn sanh, thanh mân bạch vựng giả, quang kỳ thạnh dã.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh về mắt, hoặc thanh mân, hoặc bạch
vựng, hoặc mắt kéo màng đỏ, không thấy được ánh sáng. Nên dùng trái ha lê lặc,
trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ lấy một quả, đem đập nhỏ rồi nghiền mịn
ra, khi đập nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ chớ để cho chó, lợn cùng đàn
bà mới sanh thấy. Miệng luôn niệm Phật. Nghiền xong đem hòa với mật trắng, hoặc
sữa người rồi đắp mắt. Sữa này phải là của phụ nhân sanh con trai, chứ không
được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thuốc xong, đem chén thuốc để
trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bệnh nhân phải
ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy đắp vào mắt.
Làm như thế, tròng con mắt hư lại sáng, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được
tỏ rõ)
220
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh về mắt”: Mắt là biểu hiện của tâm,
mắt là hình ảnh tái hiện của tâm. Mất người tại sao bị hư? Đó là do họ
có tâm không tốt. Tâm tốt thì mắt tốt, tâm xấu thì mắt xấu. Đó là lý do tại sao
người Mỹ dạy mọi người nhìn vào mắt người khác từ khi còn nhỏ, còn người Trung
Quốc thì không có thói quen đó. Vì nếu quý vị nhìn lâu vào mắt ai đó, họ sẽ ngượng
ngùng và cảm thấy rất xấu hổ.
Về mắt, Mạnh Tử nói: ―Lòng ngay thẳng thì đồng tử trong; lòng không
ngay thẳng thì đồng tử đục‖. Lòng người nếu chánh thì mắt sẽ trong, lòng không
chánh thì mắt mờ kém. Bởi mắt mờ đục nên mở và nhắm cũng như không, nhìn cái gì
thì cũng không rõ ràng. Có một loại bệnh về mắt là mâu tử mao (mắt lờ mờ).
‗Mao‘ chính là không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì, khi nhìn giống như có vật gì
cản trước mắt. Tại sao? Đó là bởi vì tâm không ngay thẳng, hoặc quan điểm tà
kiến, hoặc uống rượu chè sa ngã, hoặc phóng túng háo sắc, nóng giận,… rất nhiều
nguyên nhân khác nhau nhưng tất cả những việc làm tiêu hao đến tinh, khí và
thần là nguyên nhân căn bản.
Có câu chuyện tiếu lâm: Có một anh chàng nọ đặc biệt có đôi mắt rất
tinh anh, tinh như thế nào? Đến nỗi ngoài 40 dặm anh ta còn thấy con muỗi thở
như thế nào. Nhưng lại nghịch đời khi anh ta bước chân ra khỏi cửa lại vấp nhầm
con bò. Quý vị xem anh ta có thể nhìn thấy một con muỗi thở cách xa 40 dặm, nhưng
khi ra khỏi cửa lại vấp phải con bò, điều này có vô lý không cơ chứ.
Để tôi kể một công án khác về thị lực kém: Có anh chàng đôi mắt
hình như rất kém, ban đêm không thấy, ban ngày cũng không thấy. Mắt anh ta kém
đến như thế nào?
‗Khăn tay đen rơi xuống đất như quạ bay‘: Một hôm chiếc khăn tay
màu đen rơi xuống thì anh ta ngỡ là chim quạ bay qua, ‗Ai như bên cạnh vợ tôi
đấy‘: Vợ anh ta ngồi bên cạnh, anh ta lại hỏi ai đấy, thậm chí anh ta còn không
nhận ra vợ của mình; ‗Một rèm có lỗ hơn chục quả‘: Rèm cửa có nhiều
221
lỗ tròn, ánh nắng chiếu vào rèm cửa và rọi xuống dưới đất, trên đất
có những vệt nắng vàng hình tròn, anh ta lại tưởng những vệt nắng dưới đất là
trứng gà vội đi nhặt. ‗Bóng trăng soi hoa lại nhặt củi‘: Còn ánh trăng soi một
cành hoa, bóng của cành hoa dưới nền đất thì ngỡ là cành củi khô vội đi đến
nhặt; ‗Nhãn rỗi xem tranh đau cả mũi; ‗Nhưng thật kỳ lạ là khi rảnh rỗi anh ta
xem tranh đến nỗi mũi bị viêm do ngửi nhiều. ‗Bận khóa tủ sách lại đứt lông
mày‘: Có lần anh ta trong lúc hoảng loạn muốn đi khóa tủ sách lại, nhưng do vì
cúi sát gần tủ khóa quá đến nỗi bị đứt cả lông mày. ‗Chuyện cười lại càng thêm
cười‘: Rồi lại thêm một chuyện buồn cười nữa; ‗Đi thồi đèn làm bỏng da môi‘:
Khi đi thổi đèn dầu, do vì không nhìn rõ nên anh ta đưa môi đến gần đèn đến nỗi
làm bỏng cả da. Quý vị có hay đọc chuyện cười không? Chuyện này là chỉ những người
có bị mờ mắt.
“Nhược thanh mân nhãn ám giả”: ‗Thanh mân‘ chính là sáng sớm thức dậy, mắt mở ra bình thường,
nhưng cái gì cũng không nhìn thấy, đây còn gọi là tật lác mắt, giống như mắt
của con quạ. Tuy mắt mở nhưng không nhìn thấy gì. “Nhược bạch vựng, xích
mạc, vô quang minh giả”: ‗Bạch vựng‘: tức là tròng mắt có đốm trắng,
còn “nguyệt vựng”: là chứng bệnh hoa mắt chóng mặt, “xích mạc”
tức là mắt kéo màng đỏ, mắt có màu đỏ, vừa rồi nói đến cổ sư mắt có màu đỏ,
cũng tương tự như vậy, “vô quang minh”: là người không thấy được ánh
sáng, không cảm nhận được ánh sáng.
Kinh văn đoạn này nói rằng người này bị bệnh ở mắt nên lấy quả “ha
lê lặc”, “am ma lặc”, “bệ hê lặc”: những quả này là
những loại quả ở Ấn Độ; “mỗi thứ lấy một quả” lấy một quả cho mỗi
loại. “đem đập nhỏ rồi nghiền mịn ra”: lấy ba quả này đem đập nhỏ
rồi nghiền mịn, khi xay bạn phải thật cẩn thận và giữ cho sạch sẽ. Sự cẩn thận
và sạch sẽ như thế nào?
“khi đập nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ chớ để cho chó, lợn
cùng đàn bà mới sanh thấy”: tức là quý vị nên
ở chỗ vắng lặng không có người, tuyệt đối không được để phụ
222
nữ mới sinh con nhìn thấy, và cũng không để cho lợn và chó nhìn
thấy, hay đến gần. “Miệng luôn niệm Phật”: Khi nghiền ba quả này, trong
miệng nên niệm ―Nam Mô A Di Đà Phật‘. “Nghiền xong đem hòa với mật trắng,
hoặc sữa người”: mật trắng là đường trắng; nếu có đường trắng thì
pha với đường trắng hoặc không thì pha với sữa người. “rồi đắp mắt”:
sau khi pha xong thì đắp lên mắt.
“Sữa này phải là của phụ nhân sanh con trai, chứ không được dùng
sữa của người sanh con gái”: nếu như dùng sữa người
để pha thì cần phải là sữa của người mẹ sinh bé trai, nếu dùng sữa của người mẹ
sinh bé gái thì không thành. Rồi còn không được cho phụ nữ mới sinh, chó, mèo,
lợn thấy. Vì đơn giản chỗ sinh con, phụ nữ mới sinh và gia súc là nơi ô uế, có
mùi ô uế, người tu hành nên hiểu điều này. Cho nên, người tu hành không được
nuôi lợn, gà, chó, mèo cũng là vì lý do này, không nên gần gũi những loại này.
Giống như năm ngoái, gần đây họ nuôi 30 con chó trong nhà, đến nay mùi chó vẫn
còn trong ngôi nhà đó. Cho nên, người tu Đạo không nên nuôi chó, mèo, lợn,
không nên gần gũi những con vật này.
Tại sao không thể được để phụ nữ mang thai nhìn thấy? Ở Trung Quốc
có một phong tục đó là không được đến nơi phòng sinh trẻ con, hay còn gọi nơi
đó là ‗nguyệt phòng‘, bởi vì trong đó có những thứ ô uế, không được sạch sẽ nên
ở Trung Quốc có loại phong tục này. Đặc biệt là đối với những người tu pháp Mật
tông và trì thần chú nên cần thận chớ đến những nơi này. Bình thường quý vị trì
thần chú rất linh nghiệm và hiệu quả, nhưng nếu quý vị đến nguyệt phòng một
lần, thần chú sẽ không còn tác dụng nữa, bởi vì pháp đã bị ô uế! Điều mà câu
thần chú sợ nhất là loại bầu không khí bẩn thỉu này, vì vậy những người tu tập
pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn không được vào nhà sinh nở. Những điều này tôi nói là
chân thật, những hành giả phải đặc biệt chú ý.
“Khi hòa thuốc xong”: khi thuốc này
được hòa xong, những hãy chú ý, khi pha chế thuốc xong thì “đem chén
thuốc
223
để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến”: đem chén thuốc đó đặt trước tượng bồ tát Quán Thế Âm Thiên
Thủ Thiên Nhãn và trì tụng 108 biến vào, “dùng thuốc ấy đắp vào mắt”:
sau đó hãy dùng thuốc đó hàng ngày đắp lên mắt, “trong thời gian 7 ngày”:
sau đủ bảy ngày và “bệnh nhân phải ở nơi nhà kín gió”: và người bị bệnh
thì phải ở phòng kín không có gió vào. “Làm như thế, tròng con mắt hư
lại sáng, các chứng kia đều lành”: nếu làm đúng như thế thì các loại
bệnh về mắt đều khỏi. “Mắt thấy được tỏ rõ”: mắt sáng so với lúc trước
rất nhiều.
※ ※ ※
Sáng hôm nay cũng như mọi khi, từ sáng sớm đã làm việc Phật sự rất
cực khổ. Chúng tôi mỗi người mỗi ngày đều buổi sáng thì tham thiền, buổi chiều
thì tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật, trì chú, buổi tối thì nghe giảng pháp. Còn
những lúc bình thường thì rất ít nói chuyện, bởi nói nhiều thì hao tổn ‗khí‘.
Tôi giảng kinh cũng là bất đắc dĩ, nếu tôi không giảng cho quý vị thì quý vị sẽ
không biết, cho nên hao tổn một chút cũng không sao. Đừng bắt chước tôi, hãy
học cách im lặng; đừng nói nhiều, đây là lời khuyên chân thành của tôi.
※ ※ ※
Kinh văn:
若患瘧病者。取虎豹豺狼皮。咒三七遍。披著身上。
即差。師子皮最上。
Hán văn: Nhược hoạn ngược bệnh giả,
thủ hổ báo lang bì, chú tam thất biến, phi trước thân thượng, tức
sai, sư tử bì tối thượng.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên
dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú. Rồi đắp lên mình thì bệnh sẽ
khỏi ngay. Như được da sư tử thì càng tốt.)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh rét hoặc bị loài ma rét dựa”: giả sử có người bị mắc bệnh sốt rét. Bệnh sốt rét là như
thế nào? Các
224
cơn sốt rét phát tác ở thời gian nhất định, hoặc bị một ngày một
lần, hoặc hai ngày bị một lần, hoặc ba ngày mới bị một lần. Sốt rét một lần một
ngày hay còn gọi là sốt rét ngày. Bệnh sốt rét, biểu hiện của nó là nóng lạnh
bất thường, nguyên nhân bị bệnh nhiều khi có thể là do bị ma sốt rét nhập dựa
hành thân. Khi con ma sốt rét này dựa nhập quý vị, quý vị sẽ cảm thấy rất lạnh.
Nhưng khi con ma sốt rét rời đi thì bệnh nhân lại cảm thấy như bình thường,
loại bệnh này thực sự rất quái ác. Đối với loại sốt rét này, quý vị nên “dùng
da hổ, da báo hoặc da sói”: tìm một tấm da hổ, hoặc da báo, hoặc da
chó sói; “tụng vào đấy 21 biến chú”: quý vị trì chú Đại Bi 21 biến vào
tấm da, “rồi đắp lên mình”: sau đó quý vị đắp tấm da đó lên người, ―thì
bệnh sẽ lành‖: thì bênh sẽ khỏi, con ma rét cũng phải co giờ bỏ chạy mãi. “Như
được da sư tử thì càng tốt”: nếu quý vị sử dụng một tấm da Sư tử thì
sẽ là tốt nhất.
Kinh văn:
若被蛇螫。取被螫人結聹。咒三七遍。著瘡中。即差。(註:聹。耳中垢也。)
Hán văn: Nhược bị xà thích, thủ bị
thích nhân kết ninh, chú tam thất biến, trước thương trung, tức
sai, (chú: Ninh tức Nhĩ trung cấu dã.)
(Việt dịch: Nếu bị rắn cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai
của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu.)
Lược giảng:
“Nếu bị rắn cắn”: nếu như có người bị rắn
cắn thì nên “dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn”: lấy ráy
tai trong tai của người bị cắn; “tụng chú 21 biến”: tụng vào đấy 21
biến chú Đại Bi. “thoa vào vết thương”: sau đó thoa chỗ ráy đó lên vết
thương, “nọc rắn liền tiêu”: thì lọc độc rắn sẽ tiêu trừ.
Kinh văn:
若患惡瘧入心。悶絕欲死者。取桃膠一顆。大小亦如
225
桃顆。清水一升和。煎取半升。咒七遍。頓服盡。即差。
其藥莫使婦人煎。
Hán văn: Nhược hoạn ác ngược nhập
tâm, muộn tuyệt dục tử giả, thủ đào giao nhất quả, đại tiểu diệc
như đào quả, thanh thủy nhất thăng hòa, tiễn thủ bán thăng, chú thất biến, đốn
báo tận, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị bệnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết,
dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một thăng
nước trong, sắc còn một nửa, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống trong một lần,
bệnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc.)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh rét dữ nhập tâm”: bệnh sốt rét nói ở phần kinh văn trên là sốt rét thông thường,
không nghiêm trọng lắm, còn bệnh này cũng là sốt rét nhưng nặng và nghiêm
trọng, không phải cách ngày mới bị mà mỗi ngày bị vài ba lần, cho nên nói là
‗nhập tâm‘. “hôn muội sắp chết”: lúc bệnh phát tác, người này thậm chí
còn tuyệt vọng muốn chết, hay có thể hiểu là nghiêm trọng có thể dẫn đến tử
vong.
“Dùng một khối mủ cây đào”: quý vị có thể tìm một cây đào, lấy mủ của nó, mủ này thường
bám trên thân cây, có màu nâu đỏ rất dẻo và dính; “lớn ước lượng bằng trái
đào”: lấy một lượng mủ bằng khoảng kích thước giống như một quả đào. “đem
hòa với một thăng nước trong”: đem chỗ mủ đào đó hòa với một thăng nước
nước sạch, Như đã nói ở những phần trên thăng là bằng khoảng 1 lít, có thể bằng
một bát, hoặc ba bát. “sắc còn một nửa”: sau đó sắc xong còn lại một
nửa. “tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống”: sau đó tụng vào đấy bảy
biến chú Đại Bi; “uống trong một lần”: rồi trong một lần uống hết chỗ
thuốc đó. Nhưng hãy nhớ, khi cho người bệnh uống thuốc tuyệt đối không được để
cho họ biết là thuốc gì, nếu quý vị cho họ biết là thuốc gì thì thuốc sẽ không
còn tác dụng, “bệnh sẽ lành”: sau khi uống thuốc xong bệnh sẽ khỏi ngay.
226
“Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc”: khi sắc thuốc không được cho phụ nữ sắc. Tại sao? Vì đàn
bà là Âm, đàn ông là Dương. Sốt rét là bệnh thuộc âm, nếu dùng nam nhân sắc
thuốc sẽ có tác dụng, nếu là nữ nhân sắc thuốc, dược tính sẽ giảm đi. Đàn ông
thuộc về dương và chỉ có dương mới có thể chế ngự căn bệnh thuộc âm này.
Kinh văn:
若患傳屍鬼氣。伏屍連病者。取拙具羅香。咒三七遍。燒薰鼻孔中。又取七丸如兔糞。咒三七遍吞。即差。慎酒肉五辛及惡罵。若取摩那屎羅。和白芥子印成鹽。咒三七遍。於病兒床下燒。其作病兒。即魔掣迸走。不敢住也。(註:摩那屎羅。雄黃也。)
Hán văn: Nhược hoạn truyền thi quỷ khí, phục thi liên bệnh
giả, thủ chuyết cụ la hương, chú tam thất biến, thiêu huân tỷ khổng trung, hựu
thủ thất hoàn như thỏ phân, chú tam thất biến thôn, tức sai, thận tửu nhục ngũ
tân cập ác mạ, nhược thủ ma na hi la, hòa bạch giới tử, ấn thành diêm, chú tam
thất biến,
ƣbệnh nhi sàng hạ thiêu. Kỳ tác bệnh nhi, tức ma xế bính tẩu, bất
cảm trú dã. (Chú: Ma Na Hi La tức Hùng Hoàng4).
(Việt dịch: Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bệnh,
dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 phần
hương ước lượng bằng phân thỏ, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bệnh sẽ lành.
Cẩn trọng bệnh nhân phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân và mắng chửi. Một phương
pháp nữa là dùng vị Ma Na Hi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú
21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bệnh, quỷ liền vội vã trốn chạy,
không dám ở (Ma Na Hi La là vị thuốc Hùng Hoàng)
Lược giảng:
“Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bệnh”: loại bệnh này được gọi là căn bệnh tà. Người phương Tây
không
4 Hùng hoàng (khoáng vật có sắc vàng dùng
làm thuốc, có thể giải độc trong đông y còn có tên gọi khác là
Hùng Tinh, Kê Quan Thạch)
227
tin có loại bệnh
này, họ xem đó là chuyện hoang đường, bởi vì
ở phương Tây rất ít xảy ra, còn ở Trung Quốc thì lại xảy ra rất
nhiều. Tà bệnh tức là lúc đầu người đang khỏe mạnh thì bị ma nhập vào người,
đây gọi là quỷ trong thân, cũng gọi là phục thi, truyền thi. Như nơi đó có người
chết, đến nơi đó thì liền bị có người phát bệnh, đó là do có ma dựa xác người
mà làm cho bị bệnh, thông qua người còn sống đó để nói chuyện, giọng nói của người
đó cũng giống như của người đã chết. Ví dụ, nếu người chết là một ông già, nhưng
loại quỷ này nhập vào người nữ, bây giờ thân thể của người nữ nhưng lại có
giọng nói và tác phong cử chỉ thì là của ông già. Có rất nhiều, rất nhiều căn
bệnh như vậy ở Trung Quốc, căn bệnh được gọi là do quỷ truyền thi tác quái. Còn
Phục Thi là quỷ dựng thây ma, là một người sống lại sau khi chết vài ngày, nhưng
không phải là người đó còn sống, mà là một loại linh hồn nào đó đã đến nhập vào
xác chết đó. Loại bệnh này người bình thường không cách nào chữa khỏi, cho người
bệnh uống thuốc gì cũng không trị khỏi, cho nên gọi căn bệnh này là Truyền Thi
Quỷ Khí.
“Dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến”: lấy An Tức hương, niệm chú Đại Bi 21 biến; “đốt xông
vào lỗ mũi”: sau đó đốt hương rồi xông vào lỗ mũi người bệnh. “Lại lấy 7
phần hương lớn ước lượng bằng phân thỏ, cũng gia trì chú 21 biến mà uống,
bệnh sẽ lành”: sau đó lại dùng An Tức hương nắn lại thành bảy viên
thuốc mỗi viên to bằng phân thỏ, từng viên từng viên lại trì chú Đại Bi 21 biến
nữa, rồi cho người bệnh uống thì bệnh sẽ lành. “Cẩn trọng bệnh nhân phải
kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân và mắng chửi”: cẩn trọng tức là kiêng
cữ, đoạn tuyệt, kiêng cữ ăn thịt, uống rượu, ăn ngũ vị tân (Hành, hẹ, tỏi,
nén, kiệu) và mắng chửi người khác.
“Một phương pháp nữa”: lại có một phương pháp
khác, đó là như thế nào? Sử dụng Ma Na Hi La, Ma Na Hi La là vị thuốc
Hùng Hoàng ở Trung Quốc, vị thuốc này chuyên dùng để xua đuổi côn trùng, rắn
rất sợ loại thuốc này, vị thuốc cũng dùng để ngâm rượu, ngày tết uống rượu Hùng
Hoàng. “hòa
228
với Bạch giới tử và muối hột”: đem Hùng Hoàng trộn với Bạch Giới Tử và muối hột. Bạch
Giới Tử là một loại hạt thuộc họ cải, ấn thành diêm là tên một loại muối (nhưng
có thể dùng muối hột). “gia trì chú 21 biến”: sau khi
trộn 3 vị này với nhau thì tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi, “rồi đem
xông đốt dưới giường người bệnh”: rồi đem đặt dưới giường người bệnh
rồi đốt lên, đốt ở đây là đốt cho có khói xông lên, “quỷ liền vội vã
trốn chạy, không dám ở”: đốt xông như thế quỷ liền co giờ bỏ chạy,
không dám ở lại, không dám làm cho người bị bệnh nữa.
Kinh văn:
若患耳聾者。咒胡麻油著耳中。即差。
Hán văn: Nhược hoạn nhĩ lủng giả, chú
hồ ma du trước nhĩ trung, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị tai bệnh bị điếc, tụng chú vào dầu mè,
rồi nhỏ trong tai, bệnh sẽ lành.)
Lược giảng:
“Nếu có bệnh về tai, bị điếc, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong
tai, bệnh sẽ lành”: nếu có ai bị điếc hay mắc
bệnh về tai, đoạn này kinh văn không nói đến tụng bao nhiêu biến thần
chú. Nhưng tốt nhất là nên tụng 21 biến chú Đại Bi vào dầu mè rồi đem nhỏ vào
trong tai thì bệnh sẽ lành. Điếc là căn bênh y học gần như không chữa được, vậy
mà chú Đại Bi chữa được. Quý vị có tin không, kỳ diệu vậy đó.
Kinh văn:
若患一邊偏風。耳鼻不通。手腳不隨者。取胡麻油。煎青木香。咒三七遍。摩拭身上。永得除差。又方。取純牛酥。咒三七遍摩。亦差
Hán văn: Nhược hoạn nhất biên thiên
phong, nhĩ tỷ bất thông, thủ khước bất tùy giả, thủ hồ ma du,
tiễn thanh mộc hương, chú tam thất biến, ma thức thân thượng, vĩnh đắc trừ sai,
hựu phương, thủ thuần ngưu tô, chú tam thất biến ma, diệc sai.
229
(Việt dịch: Nếu bị chứng thiên phong, liệt nửa thân mình,
tai điếc, mũi không biết mùi. Dùng dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương. Gia trì
chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bệnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp
nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bệnh cũng sẽ
lành.)
Lược giảng:
“Nếu bị chứng thiên phong”: Thiên Phong là chứng bệnh gì, là chứng bệnh trúng gió, dẫn
đến bán thân bất toại, tức là liệt nửa người, hoặc là tay chân không thể cử
động, còn gọi chứng bệnh phong hàn hay đột quỵ. “liệt nửa thân mình, tai
điếc, mũi không biết mùi”: chứng bệnh này dẫn đến liệt nửa người,
tai không nghe được, mũi không ngửi được mùi vị. Bệnh như thế này thì trị như
thế nào? “Dùng dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương”: Thanh Mộc Hương
là một vị thuốc, lấy một phần dầu mè và một phần Thanh Mộc Hương rồi đem
đun lên. “Gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình”: sau đó niệm chú Đại
Bi 21 biến vào chỗ thuốc đó rồi đem thoa nơi thân người bệnh thì “bệnh sẽ
vĩnh viễn tiêu trừ”. “Lại một phương pháp nữa”: lại có một phương
pháp chữa khác đó là
“dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bệnh
cũng sẽ lành”: Ngưu tô là sữa bò, dùng sữa lấy từ con bò rồi gia trì vào
đó 21 biến chú Đại Bi rồi thoa cho người bệnh thì bênh cũng sẽ khỏi.
Kinh văn:
若患難產者。取胡麻油。咒三七遍。摩產婦臍中。及玉門中。即易生。
Hán văn: Nhược hoạn nan sản giả, thủ
hồ ma du, chú tam thất biến, ma sản phụ tề trung, cập ngọc môn
trung, tức dị sanh.
(Việt dịch: Nếu sản phụ khó sanh, mau dùng dầu mè rồi gia
trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rốn và ngọc môn, liền được dễ sanh.)
Lược giảng:
“Nếu sản phụ khó sanh”: nếu người sản
phụ khó sanh,
230
sanh con không dễ dàng, “mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến,
rồi thoa nơi rốn và ngọc môn, liền được dễ sanh”: nên lấy dầu mè rồi
gia trì vào đó 21 biến chú rồi xoa nơi rốn và huyệt Ngọc Môn thì sản phụ liền
dễ sinh.
Kinh văn:
若婦人懷妊。子死腹中。取阿波木利伽草一大兩。清水二升和。煎取一升。咒三七遍服。即出。一無苦痛。胎衣不出者。亦服此藥。即差。(註:阿波木利伽草。牛膝草也。)
Hán văn: Nhược phụ nữ hoài nhâm, tử
tức phục trung, thủ a ba mộc lợi gia thảo nhất đại lượng, thanh
thủy nhị thăng hòa, tiễn thủ nhất thăng, chú tam thất biến phục, tức xuất, nhất
vô khổ thống, thai y bất xuất giả, diệc phục thử dược, tức sai. (Chú: A ba mộc
lợi gia thảo. Ngưu tất thảo dã)
(Việt dịch: Nếu phụ nữ có thai, thai nhi chết trong bụng.
Dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai thăng nước trong, sắc còn một
thăng. Gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, sản phụ không một
chút đau đớn. Hoặc nhau thai không ra, cũng uống thuốc này bệnh sẽ hết (A ba
mộc lợi đà là vị Ngưu Tất)
Lược giảng:
“Nếu phụ nữ có thai, thai nhi chết trong bụng”: nếu có phụ nữ mang thai, mà thai bị hư, thai nhi chết
trong bụng;
“dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai thăng nước trong, sắc
còn một thăng”: A Ba Mộc Lợi Đà là vị thuốc Ngưu Tất, dùng vị thuốc Ngưu
Tất cho vào hai thăng (2 lít) nước sạch rồi đem sắc lên cho còn
lại một thăng (1 lít). Ví dụ dùng 2 hai chén nước thì sắc còn một
chén. “Gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhân
không một chút đau đớn”: sau đó lại tụng vào chỗ thuốc vừa sắc xong 21 biến
chú rồi đem cho người sản phụ uống thì cái thai liền ra mà sản phụ không một
chút đau đớn. “Hoặc nhau thai không ra, cũng uống thuốc này bệnh sẽ
hết”: hoặc có người sản
231
phụ mà sau khi sinh nhau
thai không ra, hay còn gọi là sót nhau thai thì cũng làm thuốc y như trên thì
nhau thai cũng ra.
Kinh văn:
若卒患心痛不可忍者。名遁屍疰。取君柱魯香。乳頭成者一顆。咒三七遍。口中嚼咽。不限多少。令變吐。即差。慎五辛酒肉。(註:君柱魯香。薰陸香也。)
Hán văn: Nhược tốt hoạn tâm thống bất
khả nhận giả, danh độn thi chú, thủ quân trụ lỗ hương, nhũ đầu
thành giả nhất khỏa, chú tam thất biến, khẩu trung tước yết, bất hạn đa thiểu,
lịnh biến thổ, tức sai, thận ngũ tân tửu nhục. (Chú: quân trụ lỗ hương: huân
lục hương dã.)
(Việt dịch: Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không nổi,
đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng Quân Trụ Lỗ, lấy quả đã chín có mùi sữa,
tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng
nào mửa được mới thôi, y như thế bệnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và
rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương.)
Lược giảng:
“Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không nổi, đây gọi là chứng độn
thi chú”: Độn Thi chú là gì? Là một loại bệnh do tà quỷ gây ra, quỷ
nhập vào thân người sau đó làm cho người này đau thấu tận tim gan; “nên dùng
Quân Trụ Lỗ”: Quân Trụ Lỗ chính là vị thuốc Huân Lục Hương hay Nhũ
hương cũng là của loại thuốc, “lấy quả đã chín có mùi sữa”: loại quả
này khi chín thì có một mùi hương sinh ra mùi giống như sữa; “tụng chú vào
21 biến”: sau đó tụng vào đó 21 biến chú, mỗi quả tụng 21 biến chú Đại Bi. “rồi
để trong miệng nhai nuốt”: rồi dùng đem quả đó nhai sau đó nuốt,
hoặc nhai rồi ngậm nơi yết hầu rồi sau đó nuốt; “không hạn nhiều ít”:
không giới hạn là ăn nhiều hay ít, không có số lượng.
“Chừng nào mửa được mới thôi”: ăn quả đã được trì chú đó đến khi nôn mửa, nôn mửa ra cặn
bã thì mới thôi không ăn nữa; “y như thế bệnh sẽ lành”: nếu làm đúng như
thế bệnh
232
sẽ lảnh. “song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt”: nhưng
nên nhớ một điều? Đó là không ăn ngũ vị tân, các loại cay nồng và không uống rượu,
không ăn thịt.
Kinh văn:
若被火燒瘡。取熱瞿摩夷。咒三七遍。塗瘡上。即差。(註:熱瞿摩夷。烏牛屎也。)
Hán văn: Nhược bị hỏa thiêu sang, thủ
nhiệt cù ma di, chú tam thất biến, đồ sang thượng, tức sai. (Chú
nhiệt cù ma di, điểu ngưu thi)
(Việt dịch: Nếu bị bỏng lửa thành lở loét, dùng phân trâu
đen tụng chú 21 biến mà thoa, bệnh sẽ lành.)
Lược giảng:
“Nếu bị bỏng lửa thành lở loét”: nếu như không may bị lửa đốt đến bỏng, vết bỏng bị lở
loét; “dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa”: lấy phân con
trâu đen rồi tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi rồi thoa lên chỗ lở loét thì
bệnh sẽ lành.
Kinh văn:
若患蛔蟲齩心。取骨魯木遮半升。咒三七遍服。即差。重者一升。蟲如綟索出來。(註:骨魯木遮。白馬尿)
Hán văn: Nhược hoạn hồi trùng giảo
tâm, thủ cốt lỗ mộc già bán thăng, chú tam thất biến phục, tức
sai, trọng giả nhất thăng, trùng như lệ sách chu lai. (Chú: Cốt lỗ mộc già,
bạch mã niệu dã).
(Việt dịch: Nếu bị loại giun sán cắn nơi tim, dùng nửa thăng
nước tiểu con ngựa bạch, như bệnh nặng thì một thăng, gia trì chú 21 biến, uống
vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây, bệnh sẽ lành.)
Lược giảng:
“Nếu bị loài giun, sán cắn nơi tim”: Có rất nhiều người rất gầy, tại sao những người đó lại gầy
như vậy? Bởi vì trong bụng những người đó có rất nhiều giun, sán. Những người
đó ăn bao nhiêu chất dinh dưỡng cũng bị loài giun, sán hút hết
233
chất dinh dưỡng Khi có nhiều người gầy trong bụng có sán. Rồi những
người như vậy rất hay đau bụng, đó là do có giun sán chú ngụ ở trong ruột vậy.
Có rất nhiều loại giun, nhưng có loại giun đũa đặc biệt thông minh,
chúng thông minh đến mức nào? Chúng ở trong bụng người, chúng hiểu con người
nói chuyện, nó biết tâm tư quý vị muốn làm gì? Chính vì vậy mà Tục ngũ có câu:
‗bạn không phải là giun đũa trong bụng của tôi, bạn làm sao biết được tâm của
tôi?‘, từ điều này có thể hiểu giun đũa biết quý vị suy nghĩ điều gì, muốn làm
gì. Loại giun này, ngay cả khi quý vị uống sổ giun vào cũng không cách nào tiêu
diệt được chúng. Tại sao? Nếu như quý vị uống thuốc mà không biết mình uống thì
giun mới bị nhiễm thuốc, còn quý vị chủ ý uống thuốc thì giun sẽ biết, giun mà
biết thì thuốc sẽ không có tác dụng. Vì giun ở trong bụng quý vị, chúng biết
quý vị uống thuốc nên chúng không ăn, vậy nên thuốc sẽ không có tác dụng. Đôi
khi có giun còn biết nói, như tôi đã kể trước đây, có một bà lão ở Hồng Kông,
trong bụng bà ta có một thứ gì đó có thể nói chuyện được. Đó không phải là loài
giun đũa thông thường, mà là như một loại quái vật. Loại giun đũa này có cấu
tạo rất đặc biệt để cư trú và cắn tim người. Khi nó cắn vào tim quý vị, quý sẽ
bị đau tim không chịu nổi. Vậy phải điều trị bằng cách nào?
“Dùng nửa thăng nước tiểu con ngựa bạch”: lấy nửa thăng (0,5 lít) nước tiểu của con ngựa
bạch; “gia trì chú 21 biến”: sau đó tụng vào đó 21 biến chú Đại
Bi; “như bệnh nặng thì một thăng”: nếu như bênh nặng thì uống một thăng
(1 lít), cứ tăng gấp đôi là được.
“Uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây, bệnh sẽ lành”: sau khi uống thuốc vào thì loài trùng quyện ra như sợi dây,
bởi vì có rất nhiều con chứ không phải một con. Khi chúng chui ra miệng con này
sẽ cắn đuối con kia, con này cắn con kia mà ra trông giống như sợi dây, từ cách
đại tiện mà theo phân. Bệnh sẽ lành.
234
Kinh văn:
若患丁瘡者。取凌霄葉。擣取汁。咒三七遍。瀝著瘡上。即拔根出。立差。(註:凌霄葉。即紫葳葉。)
Hán văn: Nhược hoạn đinh sang giả,
thủ lăng tiêu diệp, giã thủ trấp, chú tam thập biến, lịch trước
sang thượng, tức bạt căn xuất, lập sai. (Chú: Lăng Tiêu Diệp tức Tử Oai diệp.)
(Việt dịch: Nếu bị bệnh mụn ghẻ đinh, dùng lá Lăng Tiêu giã
lấy nước. Gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành.)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh mụn ghẻ đinh”: bệnh mụn ghẻ đinh là như thế nào, nói đúng hơn là một cái
mụn lớn. Phía da xung quanh như bị mề đay, bầm tím và sứng tấy, bên trong mụn
thì như có cái đinh. Cái mụn này như cái đinh cắm vào trong thịt của quý vị,
thậm chí đóng cả vào trong xương, nó rất cứng. Phía đầu trên của mụn thì bị lở
loét, thối rữa; “dùng lá Lăng Tiêu giã lấy nước”: Lăng Tiêu là
một loại dược liệu, lấy lá Lăng Tiêu giã nát ra rồi vắt lấy nước. “Gia
trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền trồi ra mà lành”: sau đó tụng
21 biến chú Đại Bi vào nước và dùng vải thấm nước thuốc mà thoa lên chỗ
bị mụn nhọt, thì mụn nhọt được nhổ tận gốc, trồi gốc mụn ra thì liền lành bệnh.
Kinh văn:
若患蠅螫眼中。骨魯怛怯濾取汁。咒三七遍。夜臥著眼中。即差。(註:骨魯怛怯。新驢屎也。)
Hán văn: Nhược hoạn nhăng thích nhãn
trung, cốt lỗ hằng khiếp lự thủ trấp, chú tam thất biến, dạ ngọa
trước nhãn trung, tức sai. (Chú: Cốt lỗ hằng khiếp, tân lư thi dã)
(Việt dịch: Nếu loài ruồi độc cắn vào mắt. Dùng phân mới của
con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú. Đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ
thuốc ấy vào, bệnh sẽ lành.)
235
Lược giảng:
“Nếu loài ruồi độc cắn vào mắt”: loại ruồi này chúng có chất độc, nếu không may bị loài
ruồi này cắn vào mắt. “Dùng phân mới của con lừa, vắt lấy nuớc”: lấy
phân của con lừa khi mà nó vừa mới đại tiện xong, đem vắt lấy nước. Cũng
tụng “21 biến chú” vào chỗ nước vừa mới vắt được đó.
“Đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bệnh sẽ lành”: sau đó ban đêm trước khi đi ngủ thì đem chỗ nước đã được
gia trì đó nhỏ lên mắt thì bệnh sẽ khỏi.
Kinh văn:
若患腹中痛。和井華水。和印成鹽三七顆。咒三七遍。服半升。即差。
Hán văn: Nhược hoạn phúc trung thống,
hòa tỉnh hoa thủy, hòa ấn thành diêm tâm thất khỏa, chú tam thất
biến, phục bán thăng, tức sai.
(Việt dịch: Nếu bị đau bụng, dùng nước tỉnh hoa thủy hòa với
21 hột muối hột, tụng 21 biến chú vào, lấy nửa thăng mà uống, liền hết đau.)
Lược giảng:
“Nếu bị đau bụng”: nếu bị bệnh đau bụng,
“dùng nước tỉnh hoa thủy hòa với 21 hạt muối hột”: Tỉnh hoa thủy là loại
nước suối, nước ở giếng vào buổi sáng có vị ngọt không độc, hay nước được lấy
buổi sáng sớm, đặc biệt lấy nước từ núi, khe suối. Lấy loại nước này hòa với 21
hạt muối; “tụng 21 biến chú vào”: sáu đó tụng vào nước muối đó 21
biến chú Đại Bi, “lấy nửa thăng mà uống, liền hết đau”: lấy nửa
thăng nước muối, đại khái là khoảng hơn một bát mà uống thì bệnh sẽ khỏi. (Nếu
không có nước tỉnh hoa thủy thì dùng nước sạch không trùng)
Kinh văn:
若患赤眼者。及眼中有努肉。及有翳者。取奢奢彌葉
236
。擣濾取汁。咒三七遍。浸青錢一宿。更咒七遍。著眼中。即差。(註:奢奢彌葉。枸杞葉也。)
Hán văn: Nhược hoạn xích nhãn giả,
cấp nhãn trung hữu nỗ nhục, cấp hữu ế giả, thủ xa xa di diệp, đảo
lư thủ trấp, chú tam thất biến, tẩm thanh tiền nhất túc, cánh chú thất biến, trước
nhãn trung, tức sai.(Chú: Xa xa di diệp, câu kỷ diệp dã.)
(Việt dịch: Nếu bị bệnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mắt có
những đốm trắng. Dùng lá Xa Xa Di giã nát lấy nước. Gia trì chú 21 biến, rồi bỏ
đồng tiền bằng đồng thau vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7
biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bệnh sẽ lành (chú thích: Xa xa di là
lá Kỷ Tử).)
Lược giảng:
“Nếu bị bệnh đau mắt đỏ”: niệm chú Đại Bi chữa bệnh về mắt rất hiệu nghiệm, bệnh đau
mắt đỏ là mắt có màu đỏ, mắt vốn hai phần đen trắng phân minh nhưng nay nhiều
phần trắng đã chuyển sang màu đỏ, “mắt lồi thịt”: hay trong mắt có một
cục thịt nhô ra, “mắt có những đốm trắng”: hoặc như trên con ngươi màu
đen lại có những đốm màu trắng. “Dùng lá Xa Xa Di giã nát lấy nước”:
Xa Xa Di là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc gọi là Kỷ Tử, là loại mà người Trung
Quốc hay dùng để nấu canh, sau đó giã nát ra, dùng vải xô để lọc lấy nước. “Gia
trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền bằng đồng thau vào ngâm một đêm”:
tụng vào nước đó 21 biến chú Đại Bi, sau đó bỏ một vài đồng tiền xu bằng
đồng thau vào và ngâm qua đêm, “tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa”: sáng
hôm sau lấy tiền xu ra và tụng vào đấy 7 biến chú nữa. “Dùng thuốc
này nhỏ vào mắt, bệnh sẽ lành”: dùng thuốc này nhỏ lên mắt thì bệnh
sẽ khỏi.
Kinh văn:
若患畏夜不安。恐怖出入驚怕者。取白線作索。咒三七遍。作二十一結。繫項。恐怖即除。非但除怖。亦得滅罪。
237
Hán văn: Nhược hoạn úy dạ bất an,
khủng bố xuất nhập kính phạ giả, thủ bạch tuyền tác sách, chú tam
thất biến, tác nhị thập nhất kiết, hệ hạng, khủng bố tức trừ, phi đản trừ bố,
diệc đắc diệt tội.
(Việt dịch: Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không
yên. Lấy chỉ trắng kết thành dây, gia trì chú 21 biến, buộc thành 21 thắt rồi
đeo nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt
được tội.)
Lược giảng:
“Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên”: hoặc giả có người có chứng bệnh sợ bóng tối, nên vào ban
đêm thì nỗi sợ lại ấp đến. Cho đến đi vệ sinh cũng sợ, vào ban đêm thì luôn nơm
nớp lo sợ. “Lấy chỉ trắng kết thành dây”: tìm một vài sợi chỉ trắng và
xoắn chúng thành một sợi dây, ít nhất là năm sợi; sợi dây sẽ được kết từ năm
sợi chỉ trắng. “gia trì chú 21 biến”: sau đó lại tụng 21 biến
chú, “buộc thành 21 thắt rồi đeo nơi cổ”: tiếp đến buộc sợi dây thành 21
nút buộc và dùng để đeo nơi cổ; “thì tật ấy sẽ dứt”: làm đúng như
thế thì sẽ trừ được tật sợ bóng tối. “Chẳng những trừ được sự khủng
bố mà cũng diệt được tội”: làm đúng như pháp, đeo sợi dây ấy nơi cổ,
chẵng những sẽ trừ được tật sợ bóng tối mà còn có thể tiêu trừ được nghiệp chướng,
tội lỗi của bản thân. (Phần này kinh văn hay giảng giải không đề cập đến
tụng hết 21 biến chú rồi buộc sợi dây 21 thắt hay tụng một biến thì buộc một
thắt, nhưng y theo phần kinh văn trên thì hành giả nên tụng trước 21 biến sau
đó lại tụng một biến thì buộc một nút thắt)
Kinh văn:
若家內橫起災難者。取石榴枝。寸截一千八段。兩頭塗酥酪蜜。一咒一燒。盡千八遍。一切災難。悉皆除滅。要在佛前作之。
Hán văn: Nhược gia nội hoành khởi tai
nạn giả, thủ thạch lựu chi, thốn tiệt nhất thiên bát đoạn, lưỡng
đầu đồ tô lạc mật,
238
nhất chú thiêu, tận thiên bát biến, nhất thiết tai nạn, tất giai
trừ diệt, yếu tại Phật tiền tác chi.
(Việt dịch: Nếu trong nhà sanh nhiều tai họa. Dùng nhánh cây
thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật và
tô lạc. Sau đó tụng một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi đốt hết 1.080 đoạn,
tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ, chú ý phải làm trước tượng Phật.)
Lược giảng:
“Nếu trong nhà sanh nhiều tai họa”: giả sử trong nhà thường xuyên xảy ra tai họa, chuyện không
như ý như trộm cướp, hỏa hoạn, hoặc là nhiều loại tai nạn khác. “Dùng nhánh
cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc”: lấy một cành
gỗ của cây lựu đem chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn ước chừng một tấc (1 tấc
bằng khoảng 10cm), “mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật và tô lạc5”:
hai đầu của mỗi nhánh cây cắt ra đều phải bôi tô lạc và mật ong. “sau
đó tụng một biến chú, liền đốt một đoạn”: sau đó cứ tụng xong một
biến chú Đại Bi thì đốt một nhánh cây, “khi đốt hết 1.080 đoạn, tất
cả tai nạn thảy đều tiêu trừ”: 1080 nhánh cây thì tụng 1080 biến chú
và đốt 1080 lần, làm đúng như thế tất cả tai họa sẽ tiêu trừ, “chú
ý phải làm trước tượng Phật”: nhưng phải nhớ là làm trước tượng Bồ tát Quán Thế Âm Nghìn
Mắt Nghìn Tay.
Kinh văn:
若取白菖蒲。咒三七遍。繫著右臂上。一切鬥處。論義處。皆得勝他。
Hán văn: Nhược thủ bạch xương bồ, chú tạm thất biến, hệ trước
hữu tị thượng, nhất thiết đấu xứ, luận nghĩa xứ, giai đắc thắng tha.
(Việt dịch: Dùng một nhánh Bạch Xương Bồ, trì vào 21
5 Tô lạc: Là một loại thức ăn của người
Ấn Độ được chế biến từ sữa tươi nguyên chất, từ sữa tươi
chế biến ra Lạc rồi từ Lạc chế biến sinh ra Tô, Tô lạc giống món ăn bơ, pho mát
239
biến chú, đeo nơi cánh tay phải thì tại các nơi đấu tranh, luận
nghị đều được thắng lợi.)
Lược giảng:
“Bạch Xương Bồ” là cây xương bồ trắng, là
một loại thảo dược. Quý vị lấy 1 nhành của cây Xương Bồ trắng rồi “gia
trì chú 21 biến chú” và “đeo nơi cánh tay phải”: Buộc nhánh Xương
Bồ đó vào cánh tay hoặc bắp tay của tay phải. Nếu làm như thế thì “ở các nơi
đấu tranh”: quý vị đi đến nơi nào cùng người tranh đấu, hoặc “luận nghị”:
là cùng người khác bàn luận giải đạo lý, “đều được thắng lợi”: cho dù
tranh luận với ai cũng thắng, cũng đều được hơn người, được tài hùng biện thông
suốt, không trở ngại.
Kinh văn:
若取奢奢彌葉枝柯寸截。兩頭塗真牛酥。白蜜牛酥。一咒一燒。盡一千八段。日別三時。時別一千八遍。滿七日。咒師自悟通智也。
Hán văn: Nhược thủ xa xa di diệp, câu
kỷ thốn tiệt, lưỡng đầu đồ chân ngưu tô, bạch mật ngưu tô, nhất
chú nhất thiêu, tận nhất bát đoạn, nhật biệt tam thời, thời biệt nhất thiên bát
thiên, mãn thất nhật, chú sư tự ngộ thông trí tuệ dã.
(Việt dịch: Nếu muốn được trí huệ. Nên dùng nhánh xa xa di,
chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất. Dùng sữa ngưu
tô hòa với bạch mật sau đó tụng một biến chú thì đốt một đoạn. Nên nhớ trong
một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thực hành
đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ.)
Lược giảng:
“Nếu muốn được trí huệ”: nếu quý vị muốn đắc trí huệ túc mạng thông, thì nên tu
pháp này. Pháp này là mật pháp, pháp bí mật của mật tông. Mật Pháp thì không
thể giảng bừa, không thể rộng nói được, nhưng Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni cũng đã
giảng rồi. Đây là mật pháp phải đốt đồ, vì sao phải đốt đồ vật? Trong Phật Giáo
Mật tông có một loại pháp gọi là Hộ
240
Ma, đó là dùng nhiều thứ khác nhau để đốt như quần áo, y phục, vàng
bạc, đá quý hay bơ sữa cho đến những thứ ăn được, đều đem đốt đi.
Nhưng Mật Tông có những vị thầy lợi dụng pháp này để chuộc lợi. Họ
bảo những để tử hãy đem nhẫn ra đốt, hay những thứ nào giá trị càng cao thì
công đức càng lớn. Ông ta giả bộ chỉ cần ngồi đó, cầm chuông lên, và chỉ niệm
chú "ù ù ù" như thế này để tăng thêm sự mầu nhiệm. Vì vậy, quý vị đốt
chiếc nhẫn vàng của mình và nhiều thứ khác trong đó. Sau khi đốt xong, bất kể
đốt hay không đốt, thầy Mật tông đều có thể lấy ra bán, họ sẽ dạy quý vị đốt
vàng bạc càng quý thì công đức càng nhiều.
Có nhiều người mê muội, có lẽ đang ngủ say nên chưa tỉnh, họ không
phân biệt được như thế nào là thật hay là giả? Cũng không biết là mơ hay là
tỉnh? Cho nên những người đó tin rằng đốt vàng, hoặc đồ quý giá có công đức.
Những trường hợp này tôi gặp rất nhiều. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ hiện nay không có
tình trạng như vậy, và không có loại Phật giáo Mật tông như vậy, nhưng trong tương
lai sẽ có. Hoặc có những thầy truyền các tín đồ rằng: ‗Các người sau này cũng
sẽ làm bậc thầy kim cương thượng sư, vậy hãy đem đồ quý giá để đốt đi thì mới
có nhiều công đức‘. Sau đó họ sẽ lấy số đồ quý giá đó đem đi bán để kiếm tiền.
Tôi thì không biết phương pháp này, cho nên không có bản lĩnh trong việc này.
“Nên dùng nhánh Xa Xa Di”: Xa Xa Di là là cây Câu Kỳ Tử (Kỳ Tử), ‗nhánh‘ là
nhánh và cành của nó. “chặt thành 1080 đoạn”: cắt làm từng đoạn,
từng đoạn, thành 1080 đoạn. “Mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất”:
mỗi đoạn cây cắt được thì hai đầu đều được thoa sữa bò. “Dùng sữa
ngưu tô hòa với bạch mật”: Dùng sữa bò hòa với đường trắng để
đốt, giống như trong Pháp Hộ Ma dùng mì, thức ăn, quần áo để đốt. Nhưng nếu quý
vị dùng vàng để đốt thì không được đâu, bởi vì cho dù quý vị có đốt vàng thì nó
cũng không cháy, vậy nên nếu quý vị đốt vàng thì thật vô ích. Để tôi nói
241
cho quý vị biết, nếu trong tương lai có ai đó yêu cầu quý vị đốt
vàng, đó sẽ là một lời nói dối, quý vị đừng có tin. Tại sao? Điều đó không cần
thiết chút nào! Bởi Pháp này phải được đốt bằng sữa bò hòa đường trắng.
“Tụng một biến chú thì đốt một đoạn”: niệm chú Đại Bi một biến đốt một đoạn, “đốt 1080 đoạn”:
đốt đến hết 1080 đoạn, ở đây là 1080 đoạn chứ không phải là 1008 đoạn, nó cũng
dựa trên có số 108, tức là quý vị sẽ phải tụng 10 lần của 108 biến chú. “Nên
nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời”: trong một ngày thì chia ra
làm ba thời khóa, “mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn”: mỗi thời khóa
niệm 1080 biến và đốt 1080 đoạn. “Thực hành đúng 7 ngày”: thực
hành liên tục trong bảy ngày, cho đến ngày thứ bảy là mãn. “Chú sư sẽ được
trí huệ thông ngộ”: Chú sư là người thực hành pháp, thông ngộ là
chính là tự mình khai ngộ. Thông trí chính là túc mạng thông trí huệ. Nếu bạn
thành tâm thì sẽ đắc được túc mạng thông, và ngược lại nếu không thành tâm thì
bạn sẽ không khai trí tuệ, nên không được trí tuệ túc mạng thông.
Kinh văn:
若欲降伏大力鬼神者。取阿唎瑟迦柴。咒七七遍。火中燒。還須塗酥酪蜜。須要於大悲心像前作之。(註:阿唎瑟迦柴。木患子也。)
Hán văn: Nhược dục giáng phục đại lực
quỷ thần giả, thủ a lợi sắt ca sài, chú thất thất biến, hỏa trung
thiêu, hoàn tu đồ tô lạc mật, tu yếu ư đại bi tâm tượng tiền tác chi. (Chú: A lợi
sắt ca sài tức mộc hoạn tử)
(Việt dịch: Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần. Dùng cây A
Lợi Sắc Ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đối trước tượng Đại Bi, gia trì 49 biến
chú, rồi đốt trong lửa sẽ hàng phục được đại lực quỷ thần.)
Lược giảng:
Quỷ thần thì có rất nhiều loại, như quỷ thần bình thường, quỷ thần
oai lực lớn, đại lực quỷ thần,… Đại lực quỷ thần thần
242
thông đặc biệt lớn, thần thông biến hóa, không ai có thể hàng phục
được. Nhưng nếu quý vị muốn hàng phục quỷ thần oai lực lớn hay đại lực quỷ
thần, hãy “dùng cây A lợi sắc ca”: A lợi sắc ca chính là cây Mộc Hoạn Tử6,
Mộc Hoạn Tử là một loại củi, “thoa sữa tô lạc và mật vào”: thoa tô lạc
và mật ong vào cành cây, “đối trước tượng Đại Bi”: đối trước tượng bồ
tát Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, phương pháp này phải đối trước Bồ tát
Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn mới có hiệu quả, “gia trì 49 biến chú”:
trì tụng 49 biến chú Đại Bi, “rồi đốt trong lửa”: rồi đem cành cây đó
đốt đi. Làm đúng pháp như thế sẽ “hàng phục được đại lực quỷ thần”.
Kinh văn:
若取胡嚧遮那一大兩。著瑠璃瓶中。置大悲心像前。咒一百八遍。塗身點額。一切天龍鬼神。人及非人。皆悉歡喜也。(註:胡嚧遮那。牛黃也。)
Hán văn: Nhược thủ hồ lô già na nhất
đại lượng, trước lưu ly bình trung, trí đại bi tâm tượng tiền,
chú nhất bách bát biến, đồ thân điểm ngạch, nhất thiết thiên long quỷ thần,
nhân cập phi nhân, giai tất hoan hỉ dã. (Chú: Hồ lô giá na tức ngưu hoàng dã).
(Việt dịch: Nếu lấy một lượng Hồ Lô Giá Na, đem đựng trong
bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa
trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi
nhân trông thấy đều hoan hỉ (Hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng)
Lược giảng:
“Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na”: Hồ Lô Giá Na chính là vị thuốc Ngưu Hoàng, hán văn dùng từ
một đại lượng, nghĩa là hơn một lượng hoặc hai lượng (1 lượng = 0.0375 kg).
6 Mộc hoạn tử: Cây thân gỗ rất
cao, quả và vỏ đều chế làm thuốc tắm, có tính chất bỏ đi
những thứ vết bẩn giống như cục xà bông; quả của nó tròn lại cứng, đen như sơn
bóng có thể dùng hạt châu niệm phật. Nó còn có tên Du Châu Tử, bồ đề tư, vô
hoạn tử. (Bản Thảo Cương Mục, Lý Thời Trân nhà Minh).
243
Ngưu Hoàng rất đắt, hơn một lượng hay hai lượng thì chi phí tối
thiểu khoảng 500 tệ. “Đem đựng trong bình lưu ly”: bình lưu ly là bình
bằng thủy tinh hay pha lê, rồi đem Ngưu Hoàng bỏ vào đó, “để trước tượng Đại
Bi tụng chú 108 biến”: sau đó đặt chiếc bình lưu ly đó đặt trước tượng,
hoặc ảnh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng 108 biến chú
Đại Bi, “rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân”: sau khi
tụng chú xong thì dùng thuốc xoa lên và trên thân thể thì “tất cả
Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhân trông thấy đều hoan hỉ”:
tất cả thiên nhân, rồng, quỷ thần, người hay những loài không phải người
khi nhìn thấy quý vị thì đều sinh tâm hoan hỉ, không nhiễu hại quý vị.
Kinh văn:
若有身被枷鎖者。取白鴿糞。咒一百八遍。塗於手上。用摩枷鎖。枷鎖自脫也。
Hán văn: Nhược hữu thân bị già tỏa
giả, thủ bạch cáp phân, chú nhất bách bát biến, đồ ư thủ thượng,
dụng ma già tỏa, già tỏa tự thoát dã.
(Việt dịch: Nếu thân bị xiềng xích, dùng phân của con bồ câu
trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng,
gông xiềng sẽ tự đứt gãy.)
Lược giảng:
“Nếu thân bị xiềng xích”: giả sử như có ai bị xiềng xích, gông cùm trói buộc, “dùng
phân của con bồ câu trắng”: lấy phân của con chim bồ câu trắng, “gia trì
chú 108 biến”: rồi tụng vào đó 108 biến chú Đại Bi. “tụng xong đem thoa
vào tay chà lên gông xiềng”: tụng xong thì đem xoa phân lên tay và
dùng tay ấy xoa cả vào gông cùm, khi tay chạm vào gông cùm thì “gông xiềng
sẽ tự đứt gãy”: gông cùm sẽ tự nhiên đứt gãy mà rơi ra.
Kinh văn:
若有夫婦不和。狀如水火者。取鴛鴦尾。於大悲心像前。咒一千八遍。帶彼。即終身歡喜相愛敬。
244
Hán văn: Nhược hữu phu phụ bất hòa,
trạng như thủy hỏa giả, thủ uyên ương vĩ, ư đại bi tâm tượng
tiền, chú nhất thiên bát biến, đới bỉ, tức chung thân hoan hỉ tương ái kính.
(Việt dịch: Nếu vợ chồng bất hòa, như nước lửa, dùng lông
đuôi chim uyên ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong
mình, tất vợ chồng trọn đời kính trọng, thương yêu nhau.)
Lược giảng:
“Nếu vợ chồng bất hòa, như nước lửa”: Đạo chồng vợ thuộc về luân thường trong ngũ luân, vợ chồng
nên hòa thuận với nhau. Giả sử họ không hòa hợp thì hoặc có thể do nghiệp chướng
nặng nề, oan trái nghiệp chướng gặp nhau hay do một số ma quỷ tác quái, phá hủy
mối quan hệ, khiến vợ chồng như nước với lửa. “Dùng lông đuôi chim Uyên
ương”: dùng lông đuôi của hai con chim uyên ương, buộc lại với nhau. “Đem
trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình”: sau đó đối
trước tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát thành tâm tụng
1.080 biến chú Đại Bi rồi đeo lông chim đó trong người. “Tất vợ chồng trọn
đời kính trọng, thương yêu nhau”: nếu làm đúng pháp như thế thì
vợ trọng trọn đời yêu thương, kính trọng nhau. (Phần này không nói
đến 2 lông đuôi như thế nào, nhưng theo ngu ý của người dịch thuật là dùng 1
lông đuôi của 1 con chim đực và 1 lông đuôi của 1 con chim cái)
Kinh văn:
若有被蟲食田苗。及五果子者。取淨灰淨沙。或淨水。咒三七遍。散田苗四邊。蟲即退散也。果樹兼咒水。灑著樹上。蟲不敢食果也。
Hán văn: Nhược hữu bị trùng thực điền
miêu, cập ngũ quả tử giả, thủ tịnh hôi tịnh sa, hoặc tịnh thủy,
chú tam thất biến, tán điền miêu điền biên, trùng tức thối tán dã, quả thọ kiêm
chú thủy, sái trước thọ thượng, trùng bất cảm thực quả dã.
(Việt dịch: Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ
245
phá hoại, dùng tro, cát sạch và nước trong, gia trì 21 biến chú,
rải trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại.)
Lược giảng:
“Nếu ruộng gieo lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ phá hoại”: giả sử có người làm ruộng hay vườn cây ăn trái, ruộng vườn
gieo cây giống, táo, cam, các loại trái cây khác, nếu ruộng vườn bị côn trùng,
sâu bọ phá hoại thì rất nguy hiểm, chúng sẽ tàn phá, ăn sạch hoa màu, trái cây
nếu côn trùng phát sinh thì rất nguy hiểm, liền bị ăn hết trái cây, “dùng
tro, cát sạch và nước trong”: nên lấy tro sạch, cát sạch, hoặc nước
sạch rồi “gia trì 21 biến chú”: tụng vào đó 21 biến chú Đại Bi. “rải
trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại”:
sau đó nước thì đem phun lên trên cây, nếu phun lên cây thì sâu bọ sẽ
không dám ăn trái cây, đem tro và cát rải xung quanh vườn, xung quanh ruộng thì
sâu bọ sẽ chạy trốn, không dám ở lại và cũng sẽ không dám tiến vào phá hoại
nữa.
Kinh văn:
佛告阿難。若為富饒種種珍寶資具者。當於如意珠手
Hán văn: Phật cáo A-nan, nhược hữu
phú nhiêu chủng chủng trân bảo tư cụ giả. Đương ư như ý châu thủ.
(Việt dịch: Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều
thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý. Chân ngôn rằng: Án–, phạ
nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.)
Lược giảng:
Phần kinh văn này Đức Phật dạy về Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn Pháp. Đức
Phật dạy A-nan: “Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ
châu báu, đồ dùng”: nếu như ai muốn giàu có, có nhiều của cải, châu
báu, nhiều vật dụng, tiền bạc dư thừa, cuộc sống sung túc, “nên cầu nơi tay
cầm châu như ý”: Châu Như ý là viên ngọc như ý, ngọc như ý có thể
đáp ứng mọi mong cầu trong tâm chúng sinh. “Nơi
246
tay cầm”: là trong tay cầm viên ngọc
như ý. Quý vị phải tu pháp nơi tay cầm viên ngọc Như Ý. Câu “đương ư
như ý châu thủ” phải có thêm danh từ ‗nhãn‘ phía sau chữ ‗thủ‘, ―đương
ư như ý châu thủ nhãn‖ thì mới đúng nghĩa là tu theo pháp châu như ý 42 tay mắt
như dưới đây:
Kinh văn:
若為種種不安。求安隱者。當於羂索手。
若為腹中諸病者。當於寶缽手。
若為降伏一切魍魎鬼神者。當於寶劍手。
若為降伏一切天魔神者。當於跋折羅手。
若為摧伏一切怨敵者。當於金剛杵手。
若為一切處。怖畏不安者。當於施無畏手。
若為眼闇無光明者。當於日精摩尼手。
若為熱毒病求清涼者。當於月精摩尼手。
若為榮官益職者。當於寶弓手。
若為諸善朋友早相逢者。當於寶箭手。
若為身上種種病者。當於楊枝手。
若為除身上惡障難者。當於白拂手。
若為一切善和眷屬者。當於寶瓶手。
若為辟除一切虎狼豺豹諸惡獸者。當於旁牌手。
若為一切時處。好離官難者。當於鉞斧手。
若為男女僕使者。當於玉環手。
若為種種功德者。當於白蓮華手。
若為種種不安。求安隱者。當於羂索手。
若為腹中諸病者。當於寶缽手。
若為降伏一切魍魎鬼神者。當於寶劍手。
若為降伏一切天魔神者。當於跋折羅手。
若為摧伏一切怨敵者。當於金剛杵手。
247
若為一切處。怖畏不安者。當於施無畏手。
若為眼闇無光明者。當於日精摩尼手。
若為熱毒病求清涼者。當於月精摩尼手。
若為榮官益職者。當於寶弓手。
若為諸善朋友早相逢者。當於寶箭手。
若為身上種種病者。當於楊枝手。
若為除身上惡障難者。當於白拂手。
若為一切善和眷屬者。當於寶瓶手。
若為辟除一切虎狼豺豹諸惡獸者。當於旁牌手。
若為一切時處。好離官難者。當於鉞斧手。
若為男女僕使者。當於玉環手。
若為種種功德者。當於白蓮華手。
若為欲得往生十方淨土者。當於青蓮華手。
若為大智慧者。當於寶鏡手。
若為面見十方一切諸佛者。當於紫蓮華手。
若為地中伏藏者。當於寶篋手。
若為仙道者。當於五色雲手。
若為生梵天者。當於軍持手。
若為往生諸天宮者。當於紅蓮華手。
若為辟除他方逆賊者。當於寶戟手。
若為召呼一切諸天善神者。當於寶螺手。
若為使令一切鬼神者。當於髑髏杖手。
若為十方諸佛速來授手者。當於數珠手。
若為成就一切上妙梵音聲者。當於寶鐸手。
若為口業辭辯巧妙者。當於寶印手。
若為善神龍王常來擁護者。當於俱尸鐵鉤手。
248
若為慈悲覆護一切眾生者。當於錫杖手。
若為一切眾生常相恭敬愛念者。當於合掌手。
若為生生之處不離諸佛邊者。當於化佛手。
若為生生世世常在佛宮殿中。不處胎藏中受身者。當於化宮殿手。
若為多聞廣學者。當於寶經手。
若為從今身至佛身。菩提心常不退轉者。當於不退金輪手。
若為十方諸佛速來摩頂授記者。當於頂上化佛手。
若為果蓏諸穀稼者。當於葡萄手。
Hán văn: Nhược vị chủng chủng bất an,
cầu an ẩn giả, đương ư quyên sách thủ.
Nhược vị phúc trung chư bệnh giả đương ư bảo bát thủ.
Nhược vi hàng phục nhất thiết li mị quỷ thần giả, đương ư bả kiếm
thủ.
Nhược vị nhất thiết thiên ma thần giả đương ư bạt chiết la thủ.
Nhược vị thôi phục nhất thiết oán địch giả, đương ư kim cương xử
thủ.
Nhược vị nhất thiết xứ bố úy bất an giả, đương ư thí vô úy thủ.
Nhược vị nhãn ám vô quang minh giả, đương ư nhật tinh ma ni thủ.
Nhược vị nhiệt độc bệnh cầu thanh lương giả, đương ư nguyệ tinh ma
ni thủ.
Nhược vị vinh quan ích chức giả, đương ư bảo cung.
Nhược vị chư thiện bằng hữu tảo tương phùng giả, đương ư bảo tiễn
thủ,
Nhược vị thân thượng chủng chủng bệnh giả, đương ư dương chi thủ.
249
Nhược vị thân thượng ác chướng giả, đương ư bạch phất
thủ.
Nhược vị nhất thiết thiện hòa quyến thuộc giả, đương ư bảo bình
thủ.
Nhược vị bích trừ nhất thiết hổ lang sài báo chư ác thú giả, đương
ư bàng bài thủ.
Nhược vị nhất thiết thời xứ, hảo ly quan nan giả, đương ư phủ thủ.
Nhược vị nam nữ bộc sử giả, đương ư ngọc hoàn thủ.
Nhược vị chủng chủng công đức giả, đương ư bạch liên hoa thủ.
Nhược vị dục đắc vãng sanh thập phương tịnh độ giả, đương ư thanh
liên hoa thủ.
Nhược vị đại trí tuệ giả, đưng ư bảo kính thủ.
Nhược vị diện kiến thập phương nhất thiết chư Phật giả, đương ư tử
liên hoa thủ.
Nhược vị địa trung phục tạng giả, đương ư bảo khiếp.
Nhược vị tiên đạo giả, đương ư ngũ sắc vân thủ.
Nhược vị sanh phạm thiên giả, đương ư quân trì thủ.
Nhược vị vãng sanh chư thiên cung giả, đương ư hồng liên thủ.
Nhược vị tị trừ tha phương nghịch tặc giả, đương ư bảo kích thủ
giả.
Nhược vị triệu hồ nhất thiết chư thiên thiện thần giả, đương ư bảo
loa thủ.
Nhược vị sử lịnh nhất thiết quỷ thần giả, đương ư độc lâu trượng
giả.
Nhược vị thập phương chư Phật tốc lai thọ thủ giả, đương ư số châu
thủ.
Nhược vị thành tựu nhất thiết thượng diệu phạm âm thanh giả, đương
ư bảo đạc thủ.
250
Nhược vị khẩu nghiệp từ biện sảo diệu giả, đương ư bảo ấn thủ.
Nhược vị thiện thần long vương thường lai ủng hộ giả, đương ư câu
thi thiết câu thủ.
Nhược vị từ bi phú hộ nhất thiết chúng sanh giả, đương ư tích
trượng thủ.
Nhược vị nhất thiết chúng sanh thường tương cúng kính ái niệm giả,
đương ư hiệp chưởng thủ.
Nhược vị sanh sanh chi xứ bất ly chư Phật biên giả, đương ư hóa
Phật thủ.
Nhược vị sanh sanh xứ xứ thường tại Phật cung điện trung, bất xứ
thai tang trung thọ thân giả, đương ư hóa cung điện thủ.
Nhược vị đa văn quảng học giả, đương ư bảo kinh thủ.
Nhược vị tùng kim thân chí Phật thân, bồ đề tâm thường bất thối
chuyển giả, đương ư bất thối kim luân thủ.
Nhược vị chư Phật tốc lai ma đảnh thọ ký giả, đương ư đảnh thượng
hóa Phật thủ.
Nhược vị quả chư cốc giá giả, đương ư bồ đào thủ.
(Việt dịch: 1, Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân,
nên cầu nơi tay cầm cành dương liễu. Chân ngôn rằng: Án– tô tất địa, ca rị, phạ
rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng,
hồng phấn tra.
2, Nếu muốn trị các thứ bệnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái
bát báu. Chân ngôn rằng: Án–, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.
3, Nếu muốn trị bệnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay
cầm châu nhựt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án–, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ
rị nảnh, tát-phạ hạ.
4, Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu nơi tay cầm bạt
chiết la Chân ngôn rằng: Án– nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ
hạ.
251
5, Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi tay cầm chày kim
cang. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt-ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát-ra nễ bát đa
dã, tá-phạ hạ.
6, Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay
thí vô úy. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt-ra, nẵng dã, hồng phấn tra.
7, Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi tay cầm
dây quyến sách. Chân ngôn rằng: Án — chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
8, Nếu bị bệnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bệnh, nên cầu nơi
tay cầm châu nguyệt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án — tô tất địa, yết rị,
tát-phạ hạ.
9, Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay cầm cung báu.
Chân ngôn rằng: Án — a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.
10, Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên
báu. Chân ngôn rằng: Án — ca mạ lã, tát-phạ hạ.
11, Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi
tay cầm gươm báu. Chân ngôn rằng: Án — đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà
dã, hồng phấn tra.
12, Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm
cây phất trắng. Chân ngôn rằng: Án– bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã
nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
13, Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau,
nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình. Chân ngôn rằng: Án — yết lệ thảm mãn diệm,
tát-phạ hạ.
14, Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên
cầu nơi tay cầm cái bàng bài. Chân ngôn rằng: Án — dược các sam nẵng, na dã chiến
nại-ra, đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.
15, Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời
bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt. Chân ngôn rằng: Án — vị ra dã, vị ra dã,
tát phạ hạ.
252
16, Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm
chiếc vòng ngọc. Chân ngôn rằng: Án — bát na hàm, vị ra dã, tát-phạ hạ.
17, Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen
trắng. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.
18, Nếu muốn được sanh về 10 phương tịnh độ, nên cầu nơi tay cầm
hoa sen xanh. Chân ngôn rằng: Án — chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà
hồng phấn tra.
19, Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gương báu.
Chân ngôn rằng: Án — vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lã,
hồng phấn tra.
20, Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi
tay cầm hoa sen tím. Chân ngôn rằng: Án — tát ra, tát ra, phạ nhựt ra, hồng
phấn tra.
21, Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay
cầm cái bảo kíp. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng
hàm ra hồng.
22, Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa hiện mây ngũ
sắc. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, ca rị ra tra hàm tra.
23, Nếu muốn sanh lên cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm bình quân
trì. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra thế khê ra, rô tra hàm tra.
24, Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi tay cầm hoa
sen hồng. Chân ngôn rằng: Án — thương yết lệ, tát phạ hạ.
25, Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi
tay cầm cây bảo kích. Chân ngôn rằng: Án — thảm muội dã, chỉ nãnh hạ rị, hồng
phấn tra.
26, Nếu muốn triệu tất cả chư thiên thiện thần, nên cầm nơi tay ống
loa báu. Chân ngôn rằng: Án — thương yết lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát phạ hạ.
253
27, Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi tay cầm cây gậy
đầu lâu. Chân ngôn rằng: Án — độ nẵng, phạ nhựt ra.
28, Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu
nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ — ra đá nẵng, đát ra dạ dã,
Án — a na bà đế vĩ nhã duệ. Tất địa tất đà lật đế, tát phạ hạ.
29, Nếu muốn có được tất cả phạm âm thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu
nơi tay cầm chiếc linh báu. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án —
a mật lật đảm, nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát phạ hạ.
30, Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi tay cầm
chiếc ấn báu. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát phạ hạ.
31, Nếu muốn được thiên thần, long vương thường đến ủng hộ, nên cầu
nơi tay cầm cu thi thiết câu. Chân ngôn rằng: Án – a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa
duệ, nẵng mồ tát phạ hạ.
32, Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được nhở sự che
chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trượng. Chân ngôn rằng: Án — na lật
thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.
33, Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau,
nên cầu nơi tay hiệp chưởng. Chân ngôn rằng: Án – bát nạp mạng, nhá lăng hất
rị. (Theo trong Tạng bản, lại có chân ngôn: Án — vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng
phấn tra).
34, Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi tay
hiện hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án — chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ
rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.
35, Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không
thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện. Chân ngôn rằng: Án —
vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
36, Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi tay cầm quyển
kinh báu. Chân ngôn rằng: Án — a hạ ra, tát ra phạ
254
ni, nễ dã đà ra, bố nễ đế, tát phạ hạ.
37, Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm bồ đề thường
không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối kim luân. Chân ngôn rằng: Án —
thiết na di tả, tát phạ hạ.
38, Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ ký, nên cầu nơi
tay đảnh thượng hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án — phạ nhựt rị ni, phạ nhựt lãm
nghệ tát phạ hạ.
39, Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ
đào. Chân ngôn rằng: Án — A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát phạ hạ.
40, Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ,
nên cầu nơi tay hóa nước cam lộ. Chân ngôn rằng: Án — tố rô tố rô bác ra tố rô,
bác ra tố rô, tố rô dã, tát phạ hạ.
41, Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên, nên cầu nơi tay
tổng nhiếp thiên thủ. Chân ngôn rằng: Đát nễ dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra
dã, tra ô hạ di dã, sá phạ ha.)
(Phần Việt dịch này có thêm chân ngôn và 2 thủ nhãn cuối là do được
tham khảo kinh văn Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni ở Việt Nam do Hòa thượng Thích
Thiền Tâm dịch)
Lược giảng:
Trên đây là Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, phía sau sẽ có ảnh. Phần này tôi
sẽ giảng giải sau bởi vì bây giờ tôi đang giảng giải Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni,
sau này có nhân duyên tôi sẽ giảng Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn sau.
Kinh văn:
如是可求之法。有其千條。今粗略說少耳。
Hán văn: Như thị khả cầu chi pháp,
hữu kỳ thiên điều, kim thọ lược thuyết thiếu nhĩ.
(Việt dịch: Này A Nan! Những pháp đáng mong cầu như thế, có
tới hàng ngàn pháp. Nay ta chỉ nói lược qua thôi.)
Lược giảng:
Trong chú Đại Bi có Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, có người
255
hỏi tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt? Quán Thế Âm Bồ
tát có đại oai đức và thần thông, Ngài tu nghìn tay nghìn mắt, tất cả đều xuất
phát từ việc thực hành tâm đại bi. Pháp Đại Bi có tứ thập nhị thủ nhãn, thực
hành tứ thập nhị thủ nhãn này, nếu người ấy thành tựu, tương lai người ấy sẽ có
nghìn tay nghìn mắt. Nghìn tay dùng để cứu độ chúng sinh, nghìn mắt dùng để
theo dõi chúng sinh, xem chúng sinh có khổ nạn gì thì dùng nghìn tay để cứu độ.
Quán Thế Âm Bồ tát tu Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này thì đắc được nghìn
tay nghìn mắt, mỗi người chúng ta dù quý vị là ai nếu tu Pháp Tứ Thập Nhị Thủ
Nhãn và pháp Chú Đại Bi thì cũng có nghìn mắt, nghìn tay. Không phải chỉ có
Quán Thế Âm Bồ là người duy nhất có thể có nghìn tay và nghìn mắt, mà tất cả
chúng ta đều có thể có được. “Những pháp đáng mong cầu như thế, có
tới hàng ngàn pháp”: Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn đã nói ở trên, đây là Pháp
hi hữu đáng tìm cầu, pháp này cầu là sẽ đắc. Pháp mà thủ nhãn nêu tường tận ra
có lên đến hàng nghìn, đại biểu cho nghìn tay, nghìn mắt. “Nay ta chỉ nói
lược qua thôi”: Nhưng nay chỉ nói sơ lược thôi.
Kinh văn:
日光菩薩。為受持大悲心陀羅尼者。說大神咒而擁護之。南無勃陀瞿那迷。南無達摩莫訶低。南無僧伽多夜泥。底哩部畢薩咄檐納摩。
Hán văn: Nhật quang bồ tát vi thọ trì
đại bi đà la ni giả thuyết đại thần chú nhi ủng hộ chi. Nam mô
bột đà cù na mê, nam mô đạt ma mạc ha đê, nam mô tăng già đa dạ nê, để lỵ bộ
tất tát đốt diêm nạp ma.
(Việt dịch: Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi
Tâm Đà la ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: Nam mô bột đà cù na mê. Nam mô
đạt ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê, đế lỵ bộ tất đát đốt diêm nạp ma.)
Lược giảng:
“Nhật Quang Bồ tát”: hầu hết mọi người
đều nghĩ rằng
256
Bồ tát Nhật Quang là mặt trời, nhưng không phải vậy. Đây là một vị
Bồ tát tên là Nhật Quang. Chúng ta, những người không hiểu đạo Phật, thường cho
rằng Nhật Quang Bồ Tát là mặt trời, Nguyệt Quang Bồ Tát là mặt trăng, điều đó
không chính xác. Tên của hai ngài xuất phát từ sự tu hành hạnh nguyện trải qua
nhiều đời nhiều kiếp mới có tên là như vậy. “Vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà
la ni”: Bồ tát Nhật Quang vì để giúp đỡ và ửng hộ những người trì
tụng ―Chú Đại Bi‖ mà diễn nói Thần Chú. Niệm chú này sẽ được hết thảy hộ pháp
gia hộ, chú này còn gọi là chú ủng hộ Đại bi chú. Tên của chú này là Nhật Quang
Bồ Tát Đà La Ni: Nam mô bột đà cù na mê, nam mô đạt ma mạc ha đê, nam
mô tăng già đa dạ nê, để lỵ bộ tất tát đốt diêm nạp ma. Đây là tên tất cả
những vị hộ pháp đều đến ủng hộ người trì chú.
Kinh văn:
誦此咒滅一切罪。亦能辟魔。及除天災。若誦一遍。禮佛一拜。如是日別三時。誦咒禮佛。未來之世。所受身處。當得一一相貌端正。可喜果報。
Hán văn: Tụng thử chú diệt nhất thiết
tội, diệt năng tị ma, cập trừ thiên tai, nhược tụng nhất biến, lễ
Phật nhất bái, như thị nhật biệt tâm thời, tụng chú lễ Phật, vị lai chi thế, sở
thọ thân xứ, đương đắc nhất nhất tướng mạo đoan chánh, khả hỉ quả báo.
(Việt dịch: Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi
được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy,
mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo
chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.)
Lược giảng:
“Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên
tai”: quý vị niệm thần chú Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni có thể
tiêu trừ tất cả tội chướng, cũng khiến trừ tà ma, và thiên tai. Những gì là
thiên tai? Đó là gió lớn, mưa
257
to, bão, hay động đất, đây đều là thiên tai. “Nếu kẻ nào tụng
chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ
Phật như thế”: nếu có người một ngày ba thời, sáng trưa và chiều
niệm chú này một biến, lễ Phật một lạy, công phu như thế. “Trong đời vị lai
tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng
vui mừng”: niệm chú và lạy Phật, đời vị lai sanh ở chỗ nào, quý vị
đều được tướng mạo đoan chánh, xinh đẹp và ai thấy tướng mạo của bạn đều sanh
tâm hoan hỉ, chính quý vị cũng hoan hỉ.
Kinh văn:
月光菩薩。亦復為諸行人。說陀羅尼咒而擁護之。深低帝屠蘇吒。阿若蜜帝烏都吒。深耆吒。波賴帝。耶彌若吒烏都吒。拘羅帝吒耆摩吒。沙婆訶。
Hán văn: Nguyệt Quang Bồ Tát, diệc
phục vị chư hành nhân, thuyết đà la ni chú nhi ủng hộ chi. ―Thâm
đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra
ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha‖
(Việt dịch: Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhân mà nói Đà
la ni để ủng hộ rằng: Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ
tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha.)
Lược giảng:
“Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhân mà nói Đà la ni để ủng hộ
rằng”: Bồ tát Nguyệt Quang cũng tuyên thuyết thần chú để ủng hộ
người niệm, trì tụng chú Đại Bi. Thần chú ấy là “Nguyệt Quang Bồ tát Đà La
Ni”: ―Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra.
Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sa bà ha‖. Quý
vị những ai trì tụng chú Đại Bi thì nên tụng thêm hai thần chú Nguyệt
Quang Bồ Tát Đà La Ni và Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni thì công đức vô lượng vô
biên không thể nghĩ bàn.
258
Kinh văn:
誦此咒五遍。取五色線做咒索。痛處繫。此咒乃是過去四十恒河沙諸佛所說。我今亦說。為諸行人作擁護故。除一切障難故。除一切惡病痛故。成就一切諸善法故。遠離一切諸怖畏故。
Hán văn: Tụng thử chú ngũ biến, thủ ngũ sắc tuyền tố chú sách,
thống xứ hệ. Thử chú nãi thị quá khứ tứ thập hằng hà sa chư Phật sở thuyết, ngã
kim diệc thuyết, vi chư hành nhân tác ủng hộ cố, trừ nhất thiết chướng nạn cố.
Trừ nhất thiết ác bệnh thống cố, thành tựu nhất chư thiện pháp cố, viễn ly nhất
thiết chư bố úy cố.
(Việt dịch: Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe
thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc vào chỗ đau, chú này do 40 hằng sa chư
Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhân mà làm duyên
ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác, thành tựu
thiện pháp, xa lìa tất cả sự sợ hãi.)
Lược giảng:
“Tụng chú này 5 biến”: tụng chú Nguyệt Quang Bồ
Tát Đà La Ni năm biến, “rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia
trì chú vào”: quý vị lấy 5 sợi dây có 5 màu (Xanh dương, đỏ,
vàng, trằng và đen) bện thành 1 sợi dây ngũ sắc sau đó tụng vào đó 5
biến chú Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni rồi “buộc vào chỗ đau”: thì quý vị
bị đau ở chỗ nào thì buộc vào
1)
đó. “Chú này do 40 hằng
sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra”: thần chú Nguyệt Quang Bồ tát Đà
La Ni này đã được các Đức Phật đời quá khứ nhiều như số cát trong 40 con
sông Hằng tuyên thuyết. “Nay tôi cũng nói để vì các hành nhân mà làm
duyên ủng hộ”: bây giờ, trong Pháp hội nói kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni
ngài Nguyệt Quang Bồ tát cũng thuyết thần chú này để hộ trì người trì chú Đại
Bi. “Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bệnh ác,
thành tựu thiện pháp, xa lìa tất cả sự sợ hãi”: thần chú cũng công năng
tiêu
259
trừ tất cả những chướng nạn, diệt hết các bệnh tật khổ đau. Quý vị
tu các thiện pháp gì thì thần chú sẽ giúp quý vị thành tựu được thiện pháp và
xa rời tất cả các sợ hãi. Thần chú này cũng có năng lực không thể nghĩ bàn.
Kinh văn:
佛告阿難。汝當深心清淨。受持此陀羅尼。廣宣流布於閻浮提。莫令斷絕。此陀羅尼。能大利益三界眾生。一切患苦縈身者。以此陀羅尼治之。無有不差者。此大神咒。咒乾枯樹。尚得生枝柯華果。何況有情有識眾生。身有病患。治之不差者。必無是處。
Hán văn: Phật cáo A nan, nhữ đương
thâm tâm thanh tịnh, thọ trì thử đà la ni, quảng tuyên lưu bố ư
Diêm Phù Đề, mạc lịnh đoạn tuyệt, thử đà la ni, năng đại lợi ích tam giới chúng
sanh, nhất thiết hoạn khổ oanh thân giả, dĩ thử đà la ni trị chi, vô hữu bất
sai giả, thử đại thần chú, chú càn khô thọ, thượng đắc sanh chi kha hoa quả, hà
huống hữu tình hữu thức chúng sanh, thân hữu bệnh hoạn, trị chi bất sai giả,
tất vô thị xứ.
(Việt dịch: Đức Phật bảo ngài A Nan: Ông nên dùng tâm tin
sâu, tâm thanh tịnh mà thọ trì môn Đại Bi tâm Đà la ni này và lưu bố rộng ra
trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà la ni này có thể làm lợi ích lớn
cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà la
ni này mà trị thì không bệnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây
khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có
tình thức ư? Nếu thân bị đại bệnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không
bao giờ có.)
Lược giảng:
“Đức Phật bảo ngài A Nan”: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi đã nói những lời trước,
liền bảo ngài A nan: “Ông nên dùng tâm tin sâu, tâm thanh tịnh”:
‗tin sâu‘ là tâm không hời hợt, không buông lung, qua loa, cẩu thả. Quý
vị nên đặc biệt chú ý để tâm thanh tịnh. ‗Tâm thanh tịnh‘: chính là
260
không vọng tưởng, không cho tâm tán loạn, “mà thọ trì môn Đại
Bi tâm đà la ni này”: nếu quý vị tụng thần chú Đại Bi Tâm Đà La Ni,
quý vị phải nhất tâm, không hướng ngoại phan duyên, không vọng tưởng, rồi mới
trì tụng thần chú.
“Và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề”: Đức Phật phó thác cho ngài A Nan cần phải phổ biến, tuyên
truyền công năng thần chú Đại Bi trên khắp cõi Diêm Phù Đề, hãy giới thiệu cho
tất cả chúng sinh lợi ích của thần chú Đại Bi, “chớ cho đoạn tuyệt”:
ông hãy nhớ, nhớ cho cẩn thận! Chớ để Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni và chú
Đại Bi dứt mất, không có người biết đến. Quý vị thấy Đức Phật phó thác cho ngài
A Nan phải ghi nhớ lưu bố kinh này và thần chú Đại Bi trên khắp cõi Nam Diêm
Phù để lợi ích cho chúng sinh, vì vậy quý vị là những người Phật tử, những người
trì tụng thần chú Đại Bi cũng nên rộng dùng nhiều phương tiện mà lưu hành, phổ
biến Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, chú Đại Bi và bản giảng giải này để cho nhiều người
đều được biết đến, đều được lợi ích, chớ để dùng riêng cho mình, chớ để cho
đoạn tuyệt.
“Đà la ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi”: thần chú tổng trì này có năng lực làm lợi ích lớn cho
chúng sanh trong cả tam giới, không chỉ lợi ích chúng sanh ở cõi dục giới, mà
chúng sanh ở cõi sắc giới cũng được lợi ích, rồi chúng sanh ở cõi vô sắc giới
cũng đều được lợi ích. “Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân”: tất cả các
bệnh tật, các đau đớn hành hạ quý vị; hoặc gặp những bệnh hiểm nghèo, hoặc bênh
nan y, hoặc những bệnh vô phương cứu chữa, “nếu dùng Đà la ni này mà trị thì
không bệnh nào chẳng lành”: nếu dùng chú Đại Bi để chữa thì bất luận
là bệnh gì đều tiêu trừ, chú Đại Bi có thể chữa được 84.000 loại bệnh
trên thế gian này.
“Dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành
lá, trổ bông, trái”: thần chú Đại Bi này, nếu
cây đã chết khô, nếu bạn niệm chú Đại Bi cho nó thì cây khô liền có thể
sống lại và ra hoa kết quả, “huống chi là chúng
261
sanh có tình thức”: huống gì con người là
chúng sanh có tình cảm và trí thức. “Nếu thân bị đại bệnh, dùng chú
này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có”: nếu thân quý vị mà
có bệnh gì, nếu trì chú Đại Bi để chữa trị mà không lành thì nhất định
không có điều đó.
Tụng ―Chú Đại Bi‖ sẽ đắc được cảm ứng, loại cảm ứng này không thể
nghĩ bàn, nhưng quý vị phải thành tâm, không chút nghi ngờ, nếu quý vị nghi
ngờ, sẽ không có sự cảm ứng. Nếu quý vị thực hành và trì tụng chú ―Chú Đại Bi‖
một cách toàn tâm toàn ý, không vọng tưởng, quý vị nhất định sẽ được sự cảm ứng
không thể nghĩ bàn này. Hiện nay trong Phật giáo, rất ít người biết đến công
năng của chú Đại Bi, đặc biệt là không biết đến Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni và
Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni huống gì là trì tụng. Vẫn còn Tứ Thập Nhị Thủ
Nhãn, vào thời kỳ mạt pháp này, chắc hẳn trong Phật giáo không còn ai có thể tu
tập loại Pháp này và hiểu được loại Pháp này.
Bây giờ tại Phật Giáo Giảng Đường này giảng Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn
này, cùng với Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, hy vọng
pháp môn này sẽ được chấn hưng trở lại, để người đời sau hiểu rõ pháp môn này,
ngõ hầu trong tương lai có thể được nhiều người hiểu được và tu tập. Nếu hiểu
và thực hành pháp này thì sự đắc đạo ở ngay trước mắt, người đắc ngũ nhãn lục
thông ngày càng nhiều. Nhưng thời mạt pháp này căn tánh chúng sanh ngu độn bị
cám dỗ bởi dục bên ngoài nên đã mê muội còn muội mê hơn, nếu như gặp chánh pháp
cũng không nhận ra. Còn quý vị gặp được chánh pháp, tu theo chánh pháp của pháp
tu này, đắc được ngũ nhãn, lục thông, đó là một điều hy hữu, đó là một điều khó
làm được mà quý vị đã làm được trong thời mạt pháp này.
Khi chúng ta thực hành pháp này, dù trải qua bao nhiêu khó khăn,
bao nhiêu công việc bộn bề, nhưng không nên bỏ tụng Chú Đại Bi, trì chú Lăng
Nghiêm, trì tụng Nhật Quang
262
Bồ tát Đà la ni, Nguyệt Quang Bồ tát Đà la ni, và pháp Tứ Thập Nhị
Thủ Nhãn này. Bởi vì, làm việc gì đều phải qua quá trình rèn luyện công phu mới
thành tựu, cũng giống như người viết văn, lúc ban đầu viết không thể hay và nổi
tiếng thành nhà văn mà là sự tôi luyện ngày này qua tháng nọ mới thành một nhà
văn thực thụ. Sự tu tập cũng giống như vậy, không thể một sớm một chiều mà
thành tựu, mà là quá trình công phu dài đăng đẳng mới thành công.
Thời đại mạt pháp này mà chúng ta được ngồi ở giảng đường nghe
pháp, lại còn chiêm nghiệm giáo lý là điều bất khả tư nghì rồi. Bởi vì, quý vị
đều có trồng căn lành từ những kiếp trước, nếu không có thiện căn thì bây giờ
đến cả tên chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm, chú Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, Nguyệt
Quang Bồ Tát Đà La Ni và Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn còn không được nghe thấy, thậm
chí đến ngay cả những tu sĩ mà không tu hành đàng hoàng cũng không thể gặp được.
Vậy nên bây giờ quý vị đã có cơ hôi gặp được rồi thì nên trân quý, dụng công
chớ lười biếng thì quý vị sẽ được thành tựu pháp trong tương lai.
Kinh văn:
善男子。此陀羅尼威神之力。不可思議。不可思議。歎莫能盡。若不過去久遠已來。廣種善根。乃至名孖不可得聞。何況得見。汝等大眾。天人龍神。聞我讚歎。皆應隨喜。
Hán văn: Thiện nam tử, thử đà la ni
oai thần chi lực, bất khả tư nghì, bất khả tư nghì, thán mạc năng
tận. Nhược bất quá khứ cửu viễn dĩ lai, quảng chủng thiện că, nãi chí danh tự
bất khả đắc văn, hà huống đắc kiến, nhữ đẳng đại chúng, thiên nhân long thần,
văn ngã tán thán, giai ưng tùy hỉ.
(Việt dịch: Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà
la ni này không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết
được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn
lành, thì dù cho
263
cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại
chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy
hỉ.)
Lược giảng:
“Này thiện nam tử”: Thiện nam tử là cách xưng
hô của Đức Phật dành cho chúng đệ tử ở trong hội. Thiện nam tử có thể là
Bồ tát, là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay tất cả những người có
mặt trong hội. “Đại Bi tâm đà la ni này”: thần chú Đại Bi đà la
ni này là chú ‗tổng trì‘; tổng nhất thiết pháp, trì vô lượng nghĩa. “Sức
oai thần”: oai thần là oai lực đáng sợ, người hay quỷ thần đều khiếp sợ trước
năng lực phi thường này, quy kính oai lực của chú này, “không thể nghĩ
bàn! Không thể nghĩ bàn”: loại năng lực này quý vị không thể dùng
tâm để suy lường, cũng không thể dùng ngôn ngữ bàn luận, so sánh được. Hai câu
không thể thể nghĩ bàn này là để nhấn mạnh, bày tỏ sự cảm thán, quá vi diệu. “Khen
ngợi không bao giờ hết được”: ‗Thán‘ là tán thán, khen ngợi, cho
dù tán thán, khen ngợi thần lực đà la ni này, nói không bao giờ hết.
“Nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay”: giả sử không phải quý vị hay những người khác từ vô lượng
kiếp trong quá khứ cho đến ngày nay, “đã gieo nhiều căn lành”: đã
rộng trồng nhiều cội phước lành, “thì dù cho cái tên gọi còn không được
nghe”: thì ngày đến cái tên chú Đại Bi Tâm Đà La Ni còn không nghe
thấy được. Tại sao bây giờ quý vị lại nghe thấy được tên của chú này, bởi vì
quý vị có căn lành nên bây giờ mới có thể nghe được tên của chú Đại Bi. Quý vị
thử nghĩ xem trên thế gian này có bao nhiêu người, thì có khoảng bao nhiều người
được nghe đến tên thần chú Đại Bi và trong số những người đã được nghe đến tên thần
chú Đại Bi thì có bao nhiêu người tu pháp môn chú Đại Bi. Từ đó có thể thấy
‗Chú Đại Bi‘ này hiếm có đến mức đến cái tên cũng còn không thể nghe thấy được,
―huống chi là được thấy”: đến cái
264
tên của chú Chú Đại Bi còn chưa nghe qua thì nói gì đến đọc tụng
hay nghe đến thần chú Nhật Quang, Nguyệt Quang, và tứ thập nhị thủ nhãn bất khả
tư nghì. Nếu trong quá khứ không rộng trồng nhiều căn lành thì không thể trì
tụng được chú Đại Bi, cũng không thể trì tụng được thần chú Nhật Quang Bồ tát
hay chú Nguyệt Quang Bồ tát. Giả như căn lành của quý vị chưa được thật sự sâu
dày và đủ chín muồi thì quý vị chỉ có thể gặp được Đại bi chú và trì tụng thần
chú Đại bi thôi, mà không gặp được Nhật Quang và Nguyệt Quang Đà la ni thần chú
mà tụng trì kèm theo chú Đại Bi đâu.
Tôi biết được trong Phật giáo, đại đa số mọi người đều biết đến chú
Đại Bi nhưng chú Nhật Quang Bồ tát Đà La Ni, và Nguyệt Quang Bồ tát Đà La Ni
thì ít được nghe qua. Cho dù quý vị có thể niệm Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni và
Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni, thì Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn này cũng không biết sử
dụng. Bây giờ, chúng ta có thể hiểu được Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn, lại gặp được chú
Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát thì đúng là đã phải trồng vô lượng căn
lành trong vô lượng kiếp, mới có thể hiểu được pháp môn chẳng thể nghĩ bàn này.
“Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người long thần, nghe ta khen
ngợi phải nên tùy hỉ”: tất cả đại chúng trời,
người, rồng, tất cả các vị thần,… khi nghe được đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen
ngợi chú Đại Bi cũng nên vui mừng, ca ngợi. Cùng nhau vui mừng vì gặp được pháp
hi hữu hiếm có này và phải cùng nhau tu tập.
Kinh văn:
若有謗此咒者。即為謗彼九十九億恒河沙諸佛。若於此陀羅尼生疑不信者。當知其人永失大利。百千萬劫。常淪惡趣。無有出期。常不見佛。不聞法。不覩僧。
Hán văn: Nhược hữu báng thử chú giả,
tức vi báng bỉ cửu thập cửu ức hằng hà sa chư Phật. Nhược ư thử
Đà La Ni
265
sanh nghi bất tín giả, đương tri kỳ nhân vĩnh thất đại lợi, bách
thiên vạn kiếp, thường luân ác thú, vô hữu xuất kỳ, thường bất kiến Phật, bất
văn Pháp, bất đỗ tăng.
(Việt dịch: Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng
99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với Đà la ni này sanh nghi
không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp
không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ ác đạo không
biết bao giờ mới được ra khỏi, thường không thấy Phật, không được nghe Pháp,
không gặp tăng.)
Lược giảng:
“Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này”: giả sử có người phỉ báng chú Đại bi, nói đây là mê tín,
chú này không phải do Đức Phật thuyết, chú này do người Trung Quốc nghĩ ra,
hoặc đại loại như thế,…, “tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật”:
tức là người đó đang hủy báng số đức Phật quá khứ bằng số cát trong 99
con sông Hằng đã tuyên thuyết thần chú này. “Nếu người nào đối với Đà la ni
này sanh nghi không tin”: nếu người nào nơi chú Đại Bi này mà khởi
ra tâm nghi ngờ hoặc không tin, “nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự
lợi ích lớn”: những người đối với chú mà có lòng nghi ngờ thì quý
vị nên biết những người đó vĩnh viễn bị mất đi lợi ích to lớn mà họ đáng được
thọ nhận, lợi ích to lớn là gì? Nếu gặp được ―Chú Đại Bi‖ mà tu hành, thì có
thể thoát khỏi sinh tử, thành Phật, chứng được địa vị bất thối chuyển. Nếu
không tin pháp môn này, thì tự làm mất hạt giống đại bi, chìm đắm trong dòng
sinh tử, vĩnh viễn mất đi lợi ích lớn.
“Trăm ngàn muôn kiếp”: tức là có thể
là một trăm kiếp, một ngàn kiếp, thậm chí là vạn kiếp, “thường chìm
trong tam đồ ác đạo”: thường luân hồi trong cõi ác. Cõi ác là ba cõi
địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, cộng với A tu la thì là bốn cõi ác. “Không
biết bao giờ mới được ra khỏi”: sẽ không bao giờ ra khỏi, sẽ không
bao giờ ra khỏi địa ngục, ác quỷ, súc sanh và các cõi ác giới của A tu la. “Thường
không thấy Phật”: hạng
266
người này đời đời kiếp kiếp không thấy Phật, chẳng những không thấy
Phật mà lại “không được nghe Pháp”: cũng không được nghe kinh, pháp. Bây
giờ, quý vị có thể thấy rằng đây là lần đầu tiên chúng ta được nghe giảng kinh
trên đất nước Mỹ. Bây giờ quý vị có thể nghe kinh hàng ngày, đó là một việc hy
hữu, đừng cho rằng nghe kinh chỉ dành cho ông già, bà lão thôi, “không gặp
tăng”: cũng không được gặp các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Trước đây trên
đất Mỹ cũng không có Tam Bảo, không có đạo Phật nên cũng là không được thấy
Phật, không được nghe pháp và không được gặp tăng. Nhưng nay không những thấy
Phật, mà còn được nghe Pháp, thấy Tăng. Sắp tới đây, thêm năm vị tăng ni chính
thức sẽ xuất gia tại Hoa Kỳ, quý vị nói, đây thực sự là sự chín muồi căn lành
của người Hoa Kỳ! Căn lành đã chín muồi nên Tam Bảo xuất hiện.
Kinh văn:
一切眾會菩薩摩訶薩。金剛密跡。梵釋四王。天龍鬼神。聞佛如來讚歎此陀羅尼。皆悉歡喜。奉教修行
Hán văn: Nhất thiết chúng hội bồ tát
ma ha tát, kim cang mật tích, phạm thích tứ vương, thiên long quỷ
thần, văn Phật Như Lai tán thán thử Đà La Ni, giai tất hoan hỉ, phụng giáo tu
hành.
(Việt dịch: Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim
Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần,
nghe đức Như Lai khen ngợi môn Đà la ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy
mà tu hành)
Lược giảng:
“Khi ấy, tất cả chúng hội”: Khi ấy tất cả đại chúng trong hội “Bồ Tát Ma ha tát”:
các vị Bồ tát và Đại Bồ tát, “Kim Cang mật tích”: Hộ pháp kim
cang, Bồ tát Kim Cang Tạng, “Phạm vương”: Đại Phạm Thiên Vương, “Đế
Thích”: vua cõi trời Đao Lợi Thích Đề Hoàn Nhân, cũng chính là Nhân
Đà La; “tứ đại thiên vương”: tức là bốn vị Thiên vương của cõi trời Tứ
Thiên vương, và tất cả “trời, rồng, quỷ thần”, “nghe đức Như
Lai khen ngợi môn Đà la ni này xong”: nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni
tán thán Đại Bi Tâm Đà La Ni Chương Cú thần diệu này “thảy đều vui mừng”:
đều hoan hỉ vui mừng, “y lời dạy mà tu hành”: thực hành theo ―Chú Đại
Bi‖, tứ thập nhị thủ nhãn, Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni, và Nguyệt Quang Bồ Tát
Đà La Ni.
Comments
Post a Comment