Ngẫu
Ích Đại Sư
(Đại
Sư là vị tổ thứ 9 trong Liên Tông, họ Chung, hiệu Trí Húc, quê ở Ngô Huyện.
Người cha trì chú Đại Bi mười năm, mộng thấy đức Quán Âm bồng con trao cho mà
sanh ra ngài. Ban sơ ngài theo Nho Giáo, làm sách bài bác đạo Phật, đến khi đọc
qua bộ Trúc Song Tùy Bút, liền đốt bản thảo sách mình. Năm 24 tuổi, ngài xuất
gia, tập tham thiền, nhân bị bịnh nặng gần chết, mới chuyển ý tu tịnh nghiệp.
Về sau ở ẩn nơi chùa Linh Phong, trứ thuật rất nhiều. Khi lâm chung, ngài trối
dặn thiêu hóa sắc thân, lấy tro xương hòa với bột làm hoàn thí cho chim cá,
đặng kết duyên Tây Phương, rồi ngồi ngay mà tịch. Ba năm sau, hàng môn nhơn mở
khám ra, thấy sắc diện Ðại Sư như lúc sống, tóc mọc dài lấp cả tai không nỡ
theo lời di chúc, xây nhục tháp thờ ở Linh Phong).
*
Đại Sư dạy: - Pháp môn niệm Phật không chi kỳ lạ, chỉ tin sâu, nguyện hiết,
gắng sức thật hành mà thôi. Điều cần yếu là tin cho thấu đáo, giữ cho bền lâu,
một lòng chuyên niệm, mỗi ngày đêm hoặc mười muôn, ba muôn, hay năm muôn câu,
lấy số quyết định không thiếu làm lệ. Hành trì như thế trọn một đời, thề không
thay đổi, nếu không vãng sanh, thì chư Phật ba đời thành ra nói dối. Khi được
vãng sanh, tất không còn bị thối chuyển, bao nhiêu pháp môn đều được hiện tiền.
Rất kỵ tâm không thường hằng, nay vầy mai khác, thấy ai nói pháp chi huyền diệu
liền xu hướng theo, thì không môn nào thành tựu. Đâu biết nếu một câu A Di Đà
niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh, những giáo lý cực tắc
đều ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, đường lối hướng thượng đều ở trong
đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
*
Người chơn niệm Phật buông cả thân tâm thế giới là đại bố thí, không còn khởi
tâm tham giận mê là đại trì giới, không so đo phải quấy hơn thua là đại nhẫn
nhục, không gián đoạn xen tạp là đại tinh tấn, không để vọng tưởng buông lung
là đại thiền định, không bị đường lối khác làm mê hoặc là đại trí huệ. Thử tự
nghiệm xét, nếu đối với thân tâm thế giới còn chưa buông bỏ, niệm tham giận mê
vẫn còn hiện khởi, việc phải quấy hơn thua còn do nơi lòng, tâm vọng tưởng
buông lung còn chưa trừ diệt, các đường lối khác còn làm mê hoặc ý chí, như thế
không gọi là người chơn niệm Phật.
*
Muốn được cảnh giới "một lòng không loạn", cũng chẳng có phương chước
chi lạ. Lúc mới dụng công, cần phải lần chuỗi ghi số, mỗi ngày đêm định khóa là
bao nhiêu câu đừng cho thiếu sót. Giữ đúng như thế, lâu ngày niệm lực sẽ thuần
thục, thành ra cảnh "không niệm tự niệm", chừng ấy ghi số hay không
cũng được. Nếu lúc ban sơ muốn vội nói lời cao siêu, muốn không trước tướng,
muốn học viên dung tự tại thì niệm lực khó thành. Như thế là tin không sâu,
hành trì không hết sức, dù cho ngươi có giảng được mười hai phần giáo, tỏ được
một ngàn bảy trăm công án, đều là việc bên bờ sống chết luân hồi, khi lâm chung
quyết định không dùng được.
*
Niệm Phật có sự trì và lý trì. Sự trì là tin có Phật A Di Đà ở phương Tây, mà
chưa hiểu lý tâm này làm Phật, chỉ quyết chí cầu sanh, niệm Phật như con nhớ
mẹ, không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin Phật A Di Đà ở Tây Phương là tâm mình
sẵn có đủ, là tâm mình tạo ra, đem hồng danh sẵn đủ, tạo ra của mình mà làm
cảnh buộc tâm, khiến cho không tạm quên.
QUÊ HƯƠNG CỰC LẠC
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
NHÂN HẠNH VÃNG SANH
Kinh văn
(nói về cái nhân trên
hết và cái quả trên hết)
Hán: Xá Lợi Phất! Bất
khả dĩ thiểu thiện căn, phúc đức nhân duyên đắc sinh bỉ quốc. Xá Lợi Phất!
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Ðà Phật, chấp trì danh
hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ
nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhân lâm mạng
chung thời, A Di Ðà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền; thị nhân chung
thời tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Ðà Phật Cực Lạc quốc độ.
Việt: Xá Lợi Phất ơi!
Chẳng khá thể nào lấy ít thiện căn, phúc đức nhân duyên mà được sinh sang bên
nước kia đâu! Xá Lợi Phất này, nếu có thiện nam hay là thiện nữ mà được nghe
nói Phật A Di Ðà, rồi nhớ ngay lấy danh hiệu của Ngài, niệm trong một ngày, hai
là hai ngày, hai là ba ngày, hai là bốn ngày, hai là năm ngày, sáu ngày, bảy
ngày, niệm kỳ cho thành một người nhất tâm, không còn loạn tưởng, thế là người
ấy khi nào lâm chung, Phật A Di Ðà cùng chư thánh chúng
hiện ra trước mặt; người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức là được sinh sang
nước Cực Lạc, Phật A Di Ðà.
Chính cái tâm đạo Bồ Ðề
là thiện căn (gốc lành), nó là cái Nhân thân thiết của mình. Còn các phép tu
như Bố Thí, Trì Giới, Thiền Ðịnh v.v… đều là phúc đức, tức là những cái Duyên
trợ giúp cho tâm đạo ấy nẩy nở ra.
Các vị tu Thanh Văn và
Duyên Giác (là Tiểu Thừa) thì thiện căn Bồ Ðề của các ngài ít lắm. Các vị tu ở
cõi Nhân và cõi Thiên, tu các phúc nghiệp hữu lậu (là còn có đủ cả mọi phiền
não: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến) thì phúc đức của các ngài cũng ít lắm.
Các ngài đều chẳng thể sinh sống ở Tịnh Ðộ được.
Chỉ có người Tín,
Nguyện, trì niệm danh hiệu Phật thì mỗi một tiếng niệm Phật, tiếng nào cũng đầy
đủ thiện căn rất nhiều, phúc đức rất nhiều. Nói ngay người niệm Phật mà tâm còn
tán loạn, thế mà phúc đức và thiện căn cũng đã nhiều vô lượng, huống chi là
người niệm Phật nhất tâm bất loạn, thì nhiều biết là dường nào?
Thế cho nên tâm người
niệm Phật cảm động đến tâm Phật. Tâm Phật ứng hợp với tâm người, hai đường giao
chập với nhau thành một vẻ, giống như lấy bàn in, in thành nét đẹp rồi thì bỏ
bàn in đi. Như thế thì Phật A Di Ðà và các thánh chúng, tuy tâm các ngài chẳng
ở đâu lại, mà chính thân các ngài có lại thực, cúi xuống tiếp dẫn mình. Người
tu tịnh nghiệp tâm mình cũng chẳng đi đâu, mà chính thân mình có đi thật, mang
thể chất mình gửi trong hoa sen báu.
Trong đoạn văn này,
Phật Thích Ca nói: Nếu có thiện nam tử hay là thiện nữ nhân niệm Phật thì hạng
người nào mới được là thiện nam, thiện nữ? Bất luận là hạng người nào, người
tại gia, người xuất gia, người sang, người hèn, người trẻ, người trong sáu ngả:
thiên, nhân, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục; người trong bốn loại chúng:
noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, bất luận là hạng người nào, miễn là người
được nghe danh hiệu Phật A Di Ðà, tức là cái quả “thiện căn” của người ấy trồng
từ nhiều kiếp trước, nay đã thành, đã chín, thì nhữngngười ấy dù có phạm tội
Ngũ Nghịch, Thập Ác cũng đều được gọi là “thiện”.
A Di Ðà Phật là một
danh hiệu lớn lao, gồm có vạn công đức, niệm danh hiệu ấy để vời công đức đến
với mình thì công đức nào cũng phải đến hết (câu này rất viên mãn). Cho nên lấy
ngay cái việc trì niệm danh hiệu Phật làm một việc tu hành thật chính đáng, bất
tất phải xen lẫn vào những phép tu Quán Tưởng và phép tu Thiền Tham Cứu. Phép
tu Trì Niệm Danh Hiệu Phật là một phép tu rất giản dị, rất thẳng mau lắm rồi.
Nghe danh hiệu Phật rồi
mà Tin, Tin rồi mà phát Nguyện thì mới chịu chấp trì. Những người chẳng có Tín,
chẳng có Nguyện thời tuy có được nghe, cũng như người chẳng được nghe. Mặc dầu
cái nghe ấy được là cái mầm thiện căn về nhiều kiếp sau này, nhưng bây giờ
chẳng gọi được là Văn Tuệ (là trí tuệ nghe).
“Chấp trì” thời phải có
nghĩa là: Luôn luôn tụng niệm, niệm nào cũng phải nhớ lấy danh hiệu Phật A Di
Ðà, thế cho nên Chấp Trì chính là Tư Tuệ (trí tuệ suy nghĩ). Nhưng có hai lối
Chấp Trì là Sự Trì và Lý Trì (nghĩa này đính chính nhiều sai lầm từ lâu):
1) Người Sự Trì là
người tin có Phật A Di Ðà ở Tây Phương thực sự, nhưng mà chưa hiểu được suốt như
thế nào là “tâm mình tạo tác ra Phật, tâm mình chính là Phật”; chỉ có cái tâm
quyết chí phát nguyện cầu sinh sống ở Tịnh Ðộ thôi, cho nên lúc nào cũng như
con thơ nhớ mẹ, không lúc nào tạm quên.
2) Người Lý Trì là
người tin rằng Phật A Di Ðà ở Tây Phương là Phật đã sẵn có ở trong tâm mình, là
Phật do tâm mình (18) tạo ra, thì mình lấy ngay cái danh hiệu Phật lớn lao sẵn
có ở trong tâm mình và do tâm mình tạo ra ấy làm cảnh giới buộc tâm mình vào
đấy, khiến cho nó chớ tạm quên (tuy là Lý Trì mà vẫn chẳng bỏ Sự Trì).
(18) Câu này nghĩa sáng rõ như ban ngày, người có mắt sáng đều
thấy: “Tây phương A Di Ðà Phật thị ngã tâm tạo”. Chữ “tạo” chính nghĩa là “tạo
tác” (créer) (nghĩa này đúng với nghĩa: “Nhất thiết duy tâm tạo”). Kẻ nào xuyên
tạc chữ “tạo” ra một nghĩa khác, tức là ma thuyết. Nhưng cái tâm tạo ra Phật
đây là tâm Bồ Ðề thường trụ sống lâu và sáng suốt vô cùng, tràn đầy khắp cả vũ
trụ, chứ không phải vọng tưởng sinh diệt ở trong óc, trong tim.
Trong bài này nói rằng:
Chấp trì danh hiệu Phật A Di Ðà từ 1 ngày cho đến 7 ngày là một thời kỳ phải
làm cho xong việc, nghĩa là phải làm cho kỳ được “nhất tâm bất loạn”.
Người lợi căn niệm Phật
trong 1 ngày đã được bất loạn, người độn căn phải 7 ngày mới được bất loạn. Còn
người trung căn thì không nhất định, hoặc 2 ngày, hoặc 3, 4, 5, 6 ngày mới được
bất loạn (Ðây là một phương pháp định kỳ tu của người mới học. Nếu là người hạ
căn thì có khi đến bao nhiêu lần 7 ngày vẫn chưa được, nhưng cũng là một phương
pháp để tùy ý mình quyết định lấy kỳ hạn).
Lại có một nghĩa nữa.
Người lợi căn giữ luôn được 7 ngày tâm chẳng loạn; người độn căn chỉ giữ được
một ngày thôi. Còn người trung căn thì không nhất định, có người giữ được 6
ngày, có người giữ được hoặc 5, hoặc 4, hoặc 3, hoặc 2 ngày mà thôi (Ðây là một
phương pháp luyện tập của người tu học đã lâu ngày. Nếu là trung căn hay hạ căn
thì phải có nhiều lần 7 ngày rồi cũng được).
Tu được Nhất Tâm cũng
có 2 lối: Sự nhất tâm và Lý nhất tâm (nghĩa này đính chính những sai lầm đã lâu
nay).
1. Bất luận là người Sự
Trì hay người Lý Trì, hễ mà trì đến ngày đã phục trừ được mọi phiền não: tham,
sân, si, mạn, nghi, tà kiến, cho đến ngày diệt được hết hẳn cả Kiến Hoặc và Tư
Hoặc thì cả 2 người đều là Sự Nhất Tâm.
2 Bất luận là người Sự
Trì hay người Lý Trì, hễ mà trì đến ngày tâm mình mở ra, mình thấy được Phật
của tâm tính mình thì cả hai người đều được Lý Nhất Tâm.
Sự Nhất Tâm thì chẳng
bị Kiến Hoặc và Tư Hoặc nó làm rối loạn (đoạn văn này mỗi chữ nó nghe kêu như một
điệu âm nhạc). Lý Nhất Tâm thì chẳng bị những tà thuyết nhị biên (19) nó làm
rối loạn, đó tức là trí huệ tu hành.
(19) Nhị Biên chính là Nhị Biên Kiến, tức là tà kiến có hai
biên, chấp lấy một bên nào cũng là tà kiến. Chấp vạn pháp là Hữu, là Vô, là Thường,
là Ðoạn đều là Biên Kiến. Nó làm rối loạn tâm mình, tạo ra 2 cảnh điên đảo là
sinh tử của phàm phu và Niết Bàn của Tiểu Thừa.
Tâm mình chẳng bị Kiến
và Tư làm rối loạn cho nên mình cảm thấy thân biến hóa của Phật và các vị thánh
chúng hiện ra trước mắt; khi ấy, tâm mình chẳng còn biến khởi ra ba cảnh vật
điên đảo, là cảnh vật Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới ở trong thế giới Ta Bà
này nữa, mà mình được đi sinh sống ở cõi Ðồng Cư hoặc cõi Phương Tiện ở bên thế
giới Cực Lạc.
Tâm mình chẳng bị tà
thuyết nhị biên làm rối loạn cho nên mình cảm thấy thân Thụ Dụng của Phật và
các vị thánh chúng hiện ra trước mắt, khi ấy tâm mình chẳng biến khởi ra hai
cảnh vật điên đảo tà kiến là cảnh vật sinh, lão, bệnh, tử của phàm phu và cảnh
vật trầm không Niết Bàn của Tiểu Thừa, mà mình được đi sinh sống ở cõi Thực Báo
Trang Nghiêm hoặc cõi Thường Tịch Quang ở bên thế giới Cực Lạc.
Vậy nên biết phép tu
Chấp Trì Danh Hiệu này đã giản dị, mau lẹ, mà vẫn là phép tu rất siêu đốn, rất
viên mãn, vì rằng mỗi tiếng niệm Phật cuả mình, tiếng nào mình cũng đã là Phật
rồi. Cho nên chẳng cần đến phép tu tham cứu Thiền Tông, đương khi mình niệm
Phật, tâm mình tròn đầy, sáng suốt lắm rồi, chẳng còn thiếu sót một ly, dù là
người Thượng Thượng căn cũng chẳng thể vượt hơn lên trên mình được, mà người Hạ
Hạ căn thì cũng có thể lên tới bằng mình được (cũng chỉ vì mỗi niệm của mình,
niệm nào mình cũng đã là Phật rồi).
Nhưng thân Phật mà mình
được cảm thấy và cõi Tịnh Ðộ mà mình được sinh sang thì mỗi người tiến hơn lên
có mỗi khác, chứ không phải là nhất khái như nhau cả đâu (có thế mới là tông
Tịnh Ðộ Cực Lạc).
Có thể nói rằng phép tu
Tịnh Ðộ này, về phần rộng thì cai quát được cả 8 giáo môn của Phật; về phần sâu
thì thông suốt được cả 5 thời kỳ Phật nói Pháp (Phép này thu được hết thảy, cho
nên vượt lên trên hết thảy, giống như một đại tướng tài, thành ra vô địch tướng
quân). Vì thế mà bộ kinh này là một bộ kinh “không ai hỏi mà Phật tự nói ra, từ
đáy lòng cả thương xót của Phật và Phật lại than thở sâu xa là một bộ kinh rất
khó tin”.
Hoặc có người hỏi: Trong
phép tu Tịnh Ðộ thì Quán kinh chuyên dạy phép tu Quán Tưởng; sao ở đây lại bảo:
Chẳng cần quán tưởng?
Thưa: Cái nghĩa “chẳng
cần quán tưởng” này cũng rút ra ở Quán kinh. Trong Quán kinh, nhân vì phép quán
tưởng tượng Phật cao hơn hết thì sức tâm người phàm chẳng quán tưởng được. Cho
nên đến phép thứ 13, mở riêng ra một phép quán tưởng tượng Phật rất thấp kém.
Thế mà những người nghiệp chướng nặng cũng chẳng quán tưởng được. Cho nên đến
phép thứ 16, mới mở rộng ra cái môn Niệm Phật này (trong Quán Kinh bảo niệm
Phật cũng là quán tưởng Phật). Bộ kinh Di Ðà nhân vì đời Mạt Pháp, người nghiệp
chướng nặng rất nhiều, cho nên chuyên chủ phép quán thứ 16.
Ta nên biết rằng: Cái
thân tượng Phật cao một trượng sáu thước hay là 8 thước (thước Tàu), với cái
danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ thì người độn căn đến đâu cũng có thể quán tưởng mà
thấy được rõ ràng “tâm mình tạo tác ra Phật ấy, tâm mình chính là Phật ấy”. Cho
nên người tu phép quán tưởng thân Phật thấp hơn hết, chẳng cần tu phép quán
tưởng thân Phật cao hơn hết. Thế thì người tu phép trì niệm danh hiệu Phật, cả
hai phép quán tưởng đều chẳng cần.
Hoặc có người lại hỏi
rằng: Tổ Thiên Kỳ và Tổ Ðộc Phong đều chuyên chú một câu của Thiền Tông: “Tham
cứu người niệm Phật là ai?” Sao ở đây lại bảo chẳng cần phép Thiền Tông tham
cứu?
Thưa: Cái nghĩa “chẳng
cần tham cứu” này cũng rút ra từ Tổ Thiên Kỳ và các Tổ khác. Các Tổ đời trước
nhân thấy có người niệm Phật chẳng đúng hợp với tâm thương xót triệt để của đức
Thích Ca, cho nên đứng bên không chịu được, phải hỏi vặn ngay câu ấy để thức
tỉnh thật mạnh người ấy, khác nào mơ mộng suốt đêm dài đã bừng tỉnh lại. Sao
bọn chúng ta đến mãi ngày nay vẫn còn chẳng chịu khẳng tâm niệm Phật (20) mà
lại cứ chịu khó đi nhặt lấy hòn ngói gõ cửa ấy (tức là câu hỏi ấy) để ném vào
cha mẹ thân sinh ngồi trong nhà (tức là cái tâm niệm Phật). Thế thời đối với
chư Tổ thành ra con người nghịch ác, chứ chẳng phải là người thuận thiện.
(20) “Khẳng tâm” là bằng lòng chịu. Bằng lòng chịu diệt cho hết
vọng tâm nghĩ lăng xăng, để cho Chân Tâm mình niệm Phật, mà cứ để cho cái tâm
nó nghĩ lăng xăng; thế là không phải tâm mình niệm, thế mà mình cứ mê say tưởng
là mình niệm. Cho nên các Tổ phải đánh thức mình bằng một câu hỏi thật mạnh:
“Người niệm Phật là ai?” để cho mình giật mình tỉnh lại, mà thốt ra rằng: “Chết
rồi, không phải tâm tôi niệm ra, cái ma chướng nó nhập vào tôi nó niệm, mà tôi
lại nhận lầm nó là tôi” (Rõ ràng là Vô Ngã, mà cố chấp là Hữu Ngã).
Hoặc có người lại hỏi
cao lên nữa: “Chẳng cần tham cứu câu hỏi ấy” là đối với người khẳng tâm niệm
Phật thì được, chứ đối với người chưa chịu khẳng tâm niệm Phật mà bảo cũng được
tâm mình cùng ứng hợp với tâm Phật thì được làm sao?
Thưa: Than ôi! Chính
chỉ vì ông chưa chịu khẳng tâm niệm Phật, nên tôi yêu cầu ông hãy khẳng tâm
niệm Phật để cùng ứng hợp với tâm Phật đi. Cái tâm chính tín của các ông chưa
chịu mở ra, nó cứ bầy nhầy như miếng da trâu sống thì ai gấp gẫy được nó cho
các ông?
Nên biết rằng: Ðối với
người có mắt, thì cố nhiên là không lý gì phải đốt đèn ở dưới ánh mặt trời cho
người ta sáng ra. Còn đối với người không có mắt thì đã ở giữa ban ngày, hà tất
phải đi tìm đèn đuốc cho thêm khổ? (Cái phép tu cao tuyệt có một này, đối với
người bình thường cực ngu, họ vẫn chẳng khỏi kinh sợ - họ không dám tu - thế
cho nên Phật đã bảo là một “phép rất khó tin”). Ngài Ðại Thế Chí, con đấng Pháp
Vương, đã nói rằng: “Chẳng cần đến phép Phương Tiện nào khác mà cũng khai ngộ
được tâm của mình” (Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai). Câu nói ấy là một
đống lửa to ở trong phép Niệm Phật Tam Muội (Nhất Hạnh Tam Muội), có ai dám
chạm vào mà chẳng bị thiêu?
Hỏi: Lúc lâm chung thấy
Phật hiện ra, có chắc là không phải ma chăng?
Thưa: Người tu tâm
chẳng quán tưởng đến Phật mà Phật bỗng hiện ra, không phải bản tâm mình mong
đợi, thì là ma thật. Nhưng mình niệm Phật, cốt mong thấy Phật, mà Phật hiện ra,
thế là tâm mình đã cùng ứng hợp với tâm Phật rồi. Huống chi, lúc mình lâm chung
chẳng phải là lúc mong chờ ma đến, sao lại còn nghi ngờ lo sợ là ma?
Hỏi: Bảy ngày giữ được
tâm bất loạn là bảy ngày vào lúc bình thời hay vào lúc lâm chung?
Thưa: Vào lúc bình
thời.
Hỏi: Sau bảy ngày bất
loạn rồi, tâm lại khởi mê hoặc, lại tạo nghiệp thì cũng được sinh chăng?
Thưa: Quả thật là người
tu được Nhất Tâm Bất Loạn rồi, thì không còn có những sự khởi hoặc tạo nghiệp
nữa (sáng như gương báu soi thấy mặt yêu ma).
Hỏi: Trong kinh Ðại Bản
Di Ðà nói niệm Phật 10 niệm, kinh Bảo Vương nói niệm Phật một niệm cũng được
vãng sinh Tịnh Ðộ là niệm vào lúc bình thời hay niệm vào lúc lâm chung?
Thưa: Niệm Phật 10 niệm
là niệm vào cả hai lúc: bình thời và lâm chung. Cứ mỗi sáng sớm dậy niệm 10
niệm (tức là niệm 10 hơi) là thuộc về lúc bình thời. Còn như nói 10 niệm mà
được vãng sinh thì 10 niệm này có nghĩa là niệm Phật 10 tiếng như trong Quán
kinh nói rõ: “Thập thanh xưng danh” (10 tiếng xưng danh hiệu Phật) thì 10 niệm
này là thuộc về lúc lâm chung. Còn như trong kinh Bảo Vương nói niệm một niệm
một niệm thì niệm ấy chỉ thuộc về lúc lâm chung mà thôi.
Hỏi: Niệm 10 niệm hay
một niệm đều được sinh cả thì cần gì phải niệm những bảy ngày?
Thưa: Nếu không có công
phu niệm luôn 7 ngày vào những lúc bình thời thì làm gì có lúc lâm chung niệm
được 10 niệm hay là 1 niệm (câu nói này xác đáng, xác đáng lắm). Thảng hoặc có
người nào phạm tội Ngũ Nghịch, Thập Ác mà lúc lâm chung niệm được 10 tiếng hoặc
một tiếng được sinh vào Hạ Hạ phẩm, đều là người trồng nhân niệm Phật từ kiếp
trước, bây giờ mới hái quả chín, cho nên mới có cảm ứng gặp được bạn tốt, lúc
lâm chung, đến khuyên niệm Phật, nghe rồi liền tin và phát nguyện ngay. Việc
này xảy ra, vạn người không có một, có phải ai cũng cầu may được thế đâu? Trong
sách Tịnh Ðộ Hoặc Vấn đã bài xích cái lối cầu may này rõ lắm, chúng ta ngày nay
ai cũng nên đọc.
Hỏi: Cực Lạc Tây Phương
cách quả đất ta đây những 10 vạn ức Phật độ, làm sao mà được vãng sinh chóng
thế?
Thưa: Mười vạn ức Phật
độ thì cũng ở trong “tâm tính của ta hiện ra trong một niệm” đây. Vì tâm tính
của người xưa nay không có đâu là ngoài cả. Lại nhờ sức Phật của tâm tính mình
tiếp dẫn, thì khó gì chẳng được vãng sinh ngay. Người được sinh vào Tịnh Ðộ mau
như cái bóng lọt vào cái gương, mấy mươi tầng sơn thủy lầu đài cũng chỉ một
loáng là soi thấy hết rõ ràng, thực không có chỗ nào gần, chỗ nào xa, chỗ nào
đến trước, chỗ nào đến sau cả. Vậy thì từ đây đi về bên Tây Phương kia trải qua
những mười muôn ức Phật độ, có một thế giới gọi là Cực Lạc, cũng giống như thế
(cũng là những cái bóng Phật độ lọt vào trong cái gương tâm tính của con người,
có khác gì). “Người ấy khi nào lâm chung, Phật A Di Ðà cùng chư thánh chúng
hiện ra trước mặt. Người ấy lúc chết, tâm không điên đảo, tức là được sinh sang
nước Cực Lạc, Phật A Di Ðà” thì cũng giống như thế (cũng như những bóng lọt vào
gương có khác gì). Vậy ta nên biết mỗi một chữ trong những câu kinh ấy đều là
những câu văn thiêng liêng hiện ra ở trong gương Ðại Viên Kính Trí ở trong bể Hải
Ấn tam muội (21).
(21) Ðại Viên Kính Trí là nói cái trí sáng của Phật giống như
gương tròn to bằng cả vũ trụ. Hải Ấn tam muội là định tâm của Phật lắng trong
như nước bể in được cả trời đất vào trong.
Hỏi: Việc Trì Danh
(niệm Phật) thuộc về Hành hạnh, thế là Trợ Hạnh, sao lại gọi Chính Hạnh được?
Thưa: Cứ y vào một cái
tâm mà nói đủ cả Tín, Nguyện, Hạnh, chứ chẳng phải nói cái nào trước, cái nào
sau, và chẳng phải định hẳn là 3 cái. Bởi vì hễ không có Nguyện và Hạnh thì
chẳng được gọi là Chân Tín. Hễ không có Hạnh và Tín thì chẳng được gọi là Chân
Nguyện. Hễ không có Tín và Nguyện thì chẳng được gọi là Chân Hạnh. Nay thì phải
hoàn toàn do Tín, Nguyện, Trì Danh, cho nên mỗi tiếng niệm Phật, tiếng nào cũng
phải đủ cả ba: Tín, Nguyện và Hạnh; có thế thì mỗi một tiếng niệm Phật mới gọi
được là cái nhân nhiều thiện căn và là cái duyên nhiều phúc đức. Quán kinh nói:
“Vì niệm danh hiệu Phật mà trong mỗi một niệm, diệt trừ hết 80 ức kiếp sinh tử
trọng tội” chính là cái nghĩa này. Nếu phúc đức và thiện căn chẳng nhiều thì
làm gì diệt được nhiều tội như thế?
Hỏi: Lúc lâm chung niệm
Phật có sức mạnh và thiết tha trừ được nhiều tội, còn ngày thường dốc lòng niệm
Phật có trừ được tội hay không?
Thưa: Một danh hiệu
Phật niệm lên, vạn tội phải tiêu diệt, giống như mặt trời mọc ra, bao nhiêu tối
tăm phải tiêu hết.
Hỏi: Người niệm Phật mà
tâm tán loạn cũng trừ được tội chăng?
Thưa: Công đức của danh
hiệu Phật là bất khả tư nghì. Sao lại chẳng trừ được tội! Chỉ có điều là không
chắc có được vãng sinh. Vì rằng những thiện căn tán loạn, tản mác ra như thế
thì khó lòng địch lại được với bao nhiêu tội ác tích lũy từ vô thủy kiếp. Phải
biết rằng những tội ác ấy giá mà có thể tướng thì cả một cõi hư không này cũng
không chứa được hết. Tuy rằng một ngày, một đêm niệm được 10 vạn tiếng A Di Ðà,
mỗi tiếng diệt được 80 ức kiếp sinh tử trọng tội, mà niệm đủ 100 năm, thì cũng
chẳng tiêu được hết những tội nghiệp ấy. Vì rằng, những tội đã diệt được rồi
thì ít lắm, chỉ bằng một tí đất ở đầu móng tay thôi, mà những tội chưa diệt
được hãy còn nhiều bằng cả một quả đất này. Chỉ có người nào niệm Phật đến được
chỗ Nhất Tâm Bất Loạn thì mới có sức mạnh như một kiện tướng phá vòng vây tội
ác ấy mà ra, dù nó có nhiều đến cả ba quân đoàn cũng chẳng ngăn lại được. Nhưng
dù sao, thì mỗi một tiếng niệm Phật đã là một hạt giống thành Phật rồi. Nó như
ngọc kim cương chẳng bao giờ bị hoại.
Khi Phật tại thế, có
một cụ già đến xin xuất gia, 500 vị Thánh Tăng đều bảo cụ không có thiện căn.
Nhưng Phật bảo: Người này từ vô lượng kiếp trước bị hổ đuổi, sợ quá, hét thất
thanh lên một tiếng “nam mô Phật”, mãi đến bây giờ thiện căn ấy mới thành quả
chín, mới được gặp ta, mới đắc đạo; thiện căn của người này trồng từ lâu kiếp
như thế, mắt của các ông tu đạo Nhị Thừa thấy sao được. Ta đem câu chuyện này
ra mà xét kỹ với lời kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Người nào ở đời Phật quá khứ, dù
tâm tán loạn mà niệm Phật cũng đã gieo được mầm giống thành Phật rồi”.
Tôi xin cúi đầu cầu
nguyện các vị tu xuất gia áo thâm, các vị tu tại gia áo trắng, áo màu, cả người
trí và người ngu, đối với pháp môn Niệm Phật viên đốn trên hết này, giản dị và
mau lẹ, chớ coi nó là khó mà sinh ra thoái lui; chớ coi nó là dễ mà sinh lười
chẳng cố gắng; chớ coi nó là nông cạn mà khinh miệt; chớ coi nó là quá sâu mà
chẳng dám nhận tu.
Cái danh hiệu Phật A Di
Ðà mình trì niệm đây là cái danh hiệu chân thực, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn
(vì nó tức là tâm mình vậy).
Cái tâm tính mình trì
niệm cái danh hiệu Phật ấy cũng chân thực lắm, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn
(vì nó tức là Phật vậy).
Mình trì niệm được một
tiếng thì là một tiếng chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (người đọc đến câu này nên
biết giờ phút này là giờ phút đóa hoa Ưu Ðàm Bát La (22) xuất hiện). Mình trì
niệm được một chục tiếng hay một trăm, một ngàn, một vạn tiếng hay vô lượng, vô
số tiếng thì tiếng nào cũng đều là chân thực, chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn
vậy.
(22) Nguyên âm Brahma, Ấn Ðộ đọc là Udumbara, dịch nghĩa ra chữ
Hán là Linh Thụy, Tường Thụy (điềm thiêng, điềm lành), là một giống cây ở Ấn Ðộ,
cao hơn một trượng, không có hoa mà có quả (giống như cây sung và cây vả của
ta), người đời nói 3.000 năm nó mới khai hoa một lần, là khi có vua Kim Luân
hay có Phật ra đời. Trong kinh Pháp Hoa, mỗi khi Phật nói đến nhân vật nào hiếm
có, Phật dùng nó làm thí dụ.
Sau đây là ý nghĩa thứ
hai của phần Chính Tông thứ ba là Lập Hạnh – ý nghĩa Trùng Khuyến.
Kinh văn
(nói về ý nghĩa trùng
khuyến – khuyên thêm một lần nữa)
Hán: Xá Lợi Phất! Ngã
kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sinh văn thị thuyết giả, ưng
đương phát nguyện sinh bỉ quốc độ.
Việt: Xá Lợi Phất ơi!
Ta thấy lợi thế, cho nên nói thế, nếu chúng sinh nào nghe nói thế rồi, thì nên
phát nguyện sinh sang nước kia.
Hai chữ “ngã kiến” (ta
thấy) là chính mắt Phật thấy rõ ràng hết sức. Hai chữ “thị lợi” (lợi ích như
thế) là cái lợi cho người tu được ra tắt khỏi cái đời ngũ trược, được sinh sống
ở bốn nơi Tịnh Ðộ, được lên thẳng đến tận ngôi Bất Thoái cuối cùng, được rất
nhiều công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy.
Lại nữa, “cái lợi thế”
là nói cái lợi tới giờ phút sắp chết mà tâm mình chẳng điên đảo (cái nghĩa này
xác đáng lắm, khiến người nghe rùng mình ghê sợ, lạnh buốt tận xương!). Vì rằng
cứ tự lực mình tu hành ở nơi uế trược này, khi tới lúc sắp chết, là lúc đến cái
“cửa ải tử sinh” rất khó đủ lực mà đi qua được. Chẳng nói làm gì những kẻ tu
hành ngoan cố, có chút trí tuệ ngông cuồng, buồn tủi không có kết quả, nói ngay
những người tu phép Thiền Tông đốn ngộ sâu xa, giữ gìn cẩn thận thực tế và tiềm
tàng đích xác lắm, thế mà đến lúc ấy (lúc lâm chung), chỉ một tí Tập Khí (23)
bằng sợi tơ còn sót lại, chưa trừ được hết, nó cũng thừa sức mạnh lôi mình đi
trụy lạc, chưa thoát khỏi được đâu! Cho nên đức Tổ Vĩnh Minh thiền sư mới bảo
rằng:
(23) Tập là tập quán, Khí là khí lực (hơi sức) tức là những hơi
sức của mọi tập quán như tham lam, giận dữ, ngu si, ngạo mạn, nghi ngờ, tà kiến
v.v… đều là tập quán của con người từ vô thủy, khó mà trừ diệt được hết thật sạch
tột cùng, dù tu đến bực A La Hán, Bồ Tát vẫn chưa hết.
“Có Thiền Tông, không
Tịnh Ðộ, mười người tu, chín người rớt, ấm cảnh nếu thấy hiện ra, chỉ chớp mắt
là theo nó!”
Nghe lời này thật là
rùng mình, lạnh buốt trái tim!
Người tu được đạo quả
thứ nhất Tiểu Thừa rồi mà phải đầu thai, lúc đẻ ra, thành người mê muội. Vị Bồ
Tát cách thân ngũ ấm này sang thân khác thành người hôn mê. Lúc đó, nó có để
cho mình cố gượng làm chủ tể mình đâu, mà còn lơ mơ cầu may ra thì được?
Vậy chỉ có người tu
Tín, Nguyện, trì niệm danh hiệu Phật nhờ sức Phật khác giúp thêm cho sức Phật
mình, mới thoát khỏi cái giờ phút lâm chung lâm nguy ấy, bởi vì nguyện lực từ
bi của Phật A Di Ðà mạnh lắm, quyết định chẳng bỏ rơi mình hỏng mất đâu! Phật A
Di Ðà cùng các vị thánh chúng hiện ra trước mắt mình, an ủi mình, dẫn đường cho
mình, nên mình mới được tâm không điên đảo, mới được tự tại vãng sinh.
Mắt Phật Thích Ca thấy
rõ chúng sinh tới giờ phút lâm chung (sắp chết) có cái khổ nhất là tâm điên đảo
rối loạn, sở dĩ Ngài phải ân cần khuyên đi, khuyên lại, khuyên mình phát nguyện
đi là Ngài đặc biệt muốn vì mình mà bảo đảm cho mình cái việc hết khổ ấy, cốt ý
Ngài muốn bảo mình rằng: Phải phát nguyện cầu sinh đi, vì nguyện có sức mạnh,
nó dẫn mình đến được chỗ thực hành niệm Phật, để mình thoát được cái đau khổ
nhất đời ấy (Lời nói thiết tha này, nên khắc xương, ghi dạ!)
Hỏi: Tâm mình đã tạo
tác ra Phật, tâm mình đã là Phật thì sao không nói Phật của mình là rốt ráo mà
lại cứ nói Phật của người khác hơn Phật của mình là nghĩa làm sao?
Thưa: Cái pháp môn Niệm
Phật này hoàn toàn ở chỗ “tỏ ngộ được Phật khác tức là Phật mình”. Nếu kiêng
nói đến Phật khác ấy là chưa diệt được tà kiến “thấy có kẻ khác” (tha kiến).
Nếu lại chỉ tôn trọng có Phật mình thì lại thành tà kiến “thấy có mình” (ngã
kiến). Cả hai đều là điên đảo (nghĩa này rất là thần diệu).
Lại nữa, bốn lợi ích
của phép Tất Ðàn thì 3 lợi ích sau chẳng thể tự khởi lên được, nếu không có lợi
ích thứ nhất khởi lên trước là lợi ích phát khởi cái tâm tin sâu và vui mừng
(nghe câu này, kẻ có mầm trí tuệ lại không thấy rõ sao?)
Cái tâm tin và mừng ấy
nếu chẳng phát khởi ra thời cái tâm sinh thiện, vui cầu cõi Tịnh với cái tâm
phá ác chán bỏ cõi uế đều chẳng sinh ra được, huống chi là cái tâm liễu ngộ vào
tới lý Phật, thì sinh ra làm sao được?
Vậy, chỉ có “sự trì
danh” là cầu được thấy Phật khác hiện ra rồi, mới tỏ ngộ được “lý trì danh” là
thấy Phật mình hiện ra. Cho nên mình được thấy Phật A Di Ðà và các thánh chúng
hiện ra, tức là Phật của tâm tính mình đã hiện ra. Mình được sinh sống ở quả
đất kia, được thấy Phật, được nghe pháp, tức là nhờ đấy mình thành tựu được
thân trí tuệ của mình, chứ chẳng phải bởi đâu mà mình được.
Pháp môn Niệm Phật này
thâm diệu lắm, phá hết thảy mọi hý luận (lời bàn suông chơi), diệt hết thảy mọi
ý kiến (tà kiến). Chỉ có những bậc đại sư như các ngài Mã Minh, Long Thụ, Trí
Giả, Vĩnh Minh v.v… mới triệt để gánh vác được nó đi mà thực hành tế độ. Còn
những người khác, là những người giàu trí tuệ thế gian, tài thông minh biện
bác, thông cả Nho và Thiền, dùng hết sức suy nghĩ, càng suy nghĩ càng cách xa,
chẳng bao giờ tới được. Những người này lại không bằng được mấy ông, mấy bà
thật thà, ngu độn chịu khó niệm Phật kia. Người ta cứ ngấm ngầm thế mà cảm
thông được trí tuệ Phật, ám hợp được đạo mầu (nghĩa này rất xác đáng!)
Một câu: “Ngã kiến thị
lợi cố thuyết thử ngôn” (ta thấy lợi thế, cho nên nói thế) rõ ràng là mắt Phật
thấy, tiếng Phật nói để ấn định cái sự thực có ấy, ai có thể trái lời Phật,
chống lại Phật, mà chẳng thuận thiện theo vào?
Phần Chính Tông đến đây
là hết.
A Di Ðà Kinh Yếu Giải
Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc Ðại Sư Soạn
Việt dịch: Bồ Tát Giới Ðệ Tử Tuệ Nhuận
Tiết 46 Sự Và Lý
"Lý" là lẽ phải, là điều suy luận, là cảnh giải ngộ, thuộc về phần tánh. "Sự" là phương tiện, là công hạnh, là hình thức, thuộc về phần tướng. Tuy nhiên, đi đến chỗ cùng, Sự tức là Lý, tánh tức là tướng, đồng một thể như thật tròn sáng dung thông. Trên đường tu, Lý và Sự làm trong ngoài cho nhau, phối hợp nhau, giúp đỡ lẫn nhau để thành tựu. Có Lý, việc làm mới có căn cứ, có cương lãnh, có mục tiêu để khởi sanh tác dụng. Có Sự, mới thật hiện được điều suy luận, chứng minh được chỗ lý giải, đi đến mục tiêu, và cuối cùng đoạt lấy kết quả. Lý như đôi mắt để nhìn đường. Sự như đôi chân để tiến bước. Không có mắt, hoặc mắt lờ lạc, tất dễ lầm đường. Không có chân, dù mắt sáng tỏ bao nhiêu, cũng chẳng làm sao đi đến nơi đến chốn. Lại, có Lý không Sự, như người có họa đồ, biết đường lối mà chẳng chịu đi. Có Sự không Lý, như kẻ tuy đi nhưng thiếu người hướng đạo, lộ tuyến mê mờ. Có Lý có Sự, như đã thông suốt đường lối, lại vừa cất bước hành trình, tất sẽ về nơi bảo sở.
* Sự và Lý đã nương nhau như thế, nếu thiếu một tất chẳng có hy vọng thành công. Nhưng người tu tuy thiếu phần giải ngộ, song nếu chịu y theo lộ trình của bậc tiên đức đã chỉ dạy mà thật hành, cũng đi đến mục tiêu và sẽ thành công, đồng với cổ nhơn không khác. Kinh luận, sự tích cùng các pho trứ tác của người xưa, hay lời chỉ dạy của bậc thiện tri thức đời nay, chính là lộ trình đích xác, nếu y theo mà thật hành, tất sẽ đạt thành kết quả. Cho nên có Sự mà thiếu phần lý giải chẳng đủ lo ngại. Đáng lo là những kẻ hiểu lý nhưng không thật hành, chỉ ngồi nói suông, dù có đàm huyền luận diệu thao thao, suốt đời vẫn chẳng tiến được nửa bước. Cứ thật mà nói, người thiếu Sự cũng quyết định không có Lý. Tại sao thế? Ví như kẻ đã biết nhà cháy, mà không chịu chạy thoát vẫn mãi ngồi yên, nào khác chi người không biết? Vì thế, Phật pháp có thể độ hạng ngu dốt chẳng thông một chữ, nhưng không phương độ kẻ thế trí thông biện, thiếu sự hành trì.
* Thuở xưa, ngài Châu Lợi Bàn Đà ngu tối, đức Phật chỉ đem hai chữ "chổi" và "quét" bảo cố gắng tham chiếu. Ông tối tăm đến đỗi hễ nhớ chữ này lại quên chữ kia, nhưng nhờ sức kiên trì không giây phút nào xao lãng, nên kết cuộc chứng được quả A La Hán. Còn Đề Bà Đạt Ma tuy thông minh đĩnh ngộ, thuộc sáu môn pháp tạng, luyện thành năm phép thần thông, nhưng bởi tham danh lợi chẳng thiết thật tu hành, nên kết quả bị đọa địa ngục. Xem đây thì biết dù kẻ suốt thông tam tạng, song chẳng thật hành, tất nghiệp hoặc từ vô thỉ vẫn còn nguyên không giảm được tơ hào, sự tri giải trở thành vô dụng. Sao bằng một bà lão dốt nát nơi nhà bếp, mặt mày lem lọ, nhưng thường chuyên niệm Phật, ngày kia tâm yên không loạn, ngồi ngự đài sen! Cho nên kẻ suốt đời chỉ cầu sự thông hiểu trên danh tướng lý luận, để mong thành một vị bác học về Phật pháp, không thiết thật tu hành; tất phải lâm cảnh kể thức ăn ngon mà mình chịu đói, đếm tiền kẻ khác mình vẫn nghèo nàn, kết cuộc hoàn toàn vô bổ. Nhà Phật đã ví những vị ấy như người điếc khảy đàn cho đại chúng nghe; kẻ quảy gánh đi khắp nơi rao bán đủ thứ thuốc hay, song quên hẳn chính mình đang mang nhiều chứng bịnh.
Bậc có chí học Phật, nên lưu ý đến điểm này.
Tiết 47 Sự Trì, Lý Trì
Niệm Phật có sự Sự trì và Lý trì. Theo Ngẫu Ích đại sư: "Sự trì là tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, mà chưa đạt lý tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chỉ quyết định cầu sanh, tha thiết thì niệm như con nhớ mẹ không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin hiểu Phật A Di Đà ở Tây Phương, do tâm ta sẵn đủ, tâm ta tạo nên; đem câu hồng danh sẵn đủ và tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc niệm, chẳng giây phút nào xao lãng."
Nói giản lược, Sự trì là cách trì niệm của kẻ không biết chi về nghĩa lý, chỉ tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, rồi chí thành tha thiết niệm Phật để cầu tiếp dẫn vãng sanh. Lý trì là lối trì niệm của người cũng thật hành đồng như cách Sự trì ở trên, nhưng giải ngộ cảnh Tịnh Độ cùng Phật A Di Đà đều ở trong chân tâm, do công đức thanh tịnh của chân tâm hiện thành.
Như thế, Sự trì với Lý trì có gì sai biệt? - Tất nhiên là có. Bởi kẻ tu theo Sự trì thấy Phật ở ngoài tâm, thành ra có tướng năng sở đối đãi, chưa được dung thông. Người thật hành theo Lý trì, do giải ngộ chân tâm, nên tuyệt được tướng năng sở, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm, dung hòa cùng tâm cảnh. Xin thuật một câu chuyện:
Ông bạn xuất gia đồng tu của bút giả một đêm nằm mơ, thấy vị sư áo vàng đến hỏi: "Người niệm Phật, mà Phật là chi?" - Đáp: "Phật là tâm". Vị sư hỏi tiếp: "Ngươi thử giải thích thế nào Phật là tâm cho ta nghe?" Trong giấc mơ ông bạn bèn ứng khẩu đọc:
Mỗi câu tràng hạt Phật là tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
Ông bạn trên đây đã hiểu cách Lý trì, dung hòa được câu niệm Phật vào tâm cảnh.
* Có một lối nhận định sai lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho là hành trì theo lý, cũng cần nên biện minh. Nhiều người trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận: "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi phủ nhận cõi Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh. Những người này lý thuyết hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo: "Di Đà tức là bản tánh Phật của mình; cõi Tịnh Độ là cảnh tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?" Đây là điểm sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ sự, chuộng tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hiện tượng của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể rời nhau.
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng. Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần tướng là Sanh Diệt môn; Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân Như. Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng Như Thật Không, phần sanh diệt là Tạng Như Thật Bất Không; cả hai đồng chung một thể tánh như thật. Ví như mặt biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà bỏ phần sóng bọt; vì chấp như thế tức đã sai lạc với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là gì? Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vững. Rất nhiều kẻ có chút học thức thế gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý Bát Nhã, bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh chấp "lý không" này. Do đó, họ đem các kinh nói về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ hoặc Kinh Địa Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả. Họ cho những kinh thuyết về sự tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu thấp, những người tin có Tịnh Độ hoặc địa ngục, đều mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm! Nhân tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi chấp không ấy.
Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: "... Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề." Trước y theo chân đế nói "không đắc", tiếp đó y theo tục đế lại nói "đắc". Thấy "đắc" là chấp có, thấy "không đắc" lạc vào chấp không, nên người học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật bảo: "Kẻ nào dùng sắc tướng âm thanh thấy và tìm cầu ta, là hành theo tà đạo." Nhưng tiếp đó Ngài lại bảo: "Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng Như Lai không dùng tướng Cụ Túc đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tu Bồ Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là nói các pháp đoạn diệt. Đừng nghĩ như thế! Tại sao? Vì phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt." Trước tiên, Phật dạy đừng theo âm thanh sắc tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp Ngài lại nhắc nhở; cũng như đừng rời bỏ âm thanh sắc tướng hoặc diệt hết các pháp để phát tâm cầu đạo. Như thế, ta thấy "đạo" chẳng phải thuộc về "sắc", cũng chẳng phải thuộc về "không"; tìm chấp một bên đều sai lầm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thiền sư nói: "Ba mươi năm trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thấy sông là sông, núi là núi. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ dạy cho đường lối tu hành, thấy sông không phải là sông, núi không phải là núi. Ngày nay ngộ đạo, vào nơi tịch tĩnh, thấy sông vẫn là sông, núi vẫn là núi." Một vị thiền sư khác cũng diễn tả:
Tiếng gà tức tiếng quảng trường thiệt.
Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân!
Đây là ý chỉ: sắc tướng âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không. Cho nên câu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," không phải phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di Đà, mà chính là lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để hiển bày lý Đệ Nhất Nghĩa Không. Trong Đệ Nhất Nghĩa Không, Phật còn chẳng lập, huống chi là các pháp khác.
Tiên đức bảo: "Lý tuy đốn ngộ, Sự phải lần lượt tu hành." Cho nên Thiền Tông tuy nói là môn tu trực chỉ, nhưng khi còn ngồi thiền, còn nhiếp tâm, còn tham thoại đầu, còn nhập định xuất định, đều còn ở trong vòng phương tiện. Và thật ra cảnh nội chứng còn bước những nấc thang từ thấp đến cao. Chừng nào đến bậc vô tu, mới không còn dùng phương tiện, mới có thể nói các pháp đều không. Nếu chưa được như thế, thì một pháp nhỏ như mảy bụi cũng đều có thật; vì gần lửa còn thấy nóng, ở giữa sương tuyết còn thấy lạnh, một mũi gai nhỏ đâm vào thịt còn biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên những kẻ thích đề xướng cao diệu "Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ," rồi bác bỏ hình thức niệm Phật cầu vãng sanh thuộc về "Sự tu", sẽ lâm vào cảnh: "Chưa bước lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè," tất không khỏi bị chết chìm dưới nước. Xưa nay những bậc hiểu sâu về Lý lại còn chú trọng đến Sự, vì Sự tiêu biểu cho Lý.
Cổ đức đã bảo: "Với môn Tịnh Độ, duy bậc trí huệ mới dung thông tánh tướng hiểu đến chỗ tận cùng. Bằng không, thà chấp tướng tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm!" Bởi càng chấp tướng, chí nguyện cầu sanh lại càng thiết tha, khi đã sanh về Tây Phương lo gì không chứng ngộ được thật tướng? Vấn đề sự lý tánh tướng, nói ra vẫn không cùng, nhưng nếu hiểu được một sẽ hiểu tất cả. Mong các đồng nhơn khéo suy nghĩ, để tránh khỏi sự sai lạc trên bước đường tu.
Viết đến đây, có một Phật tử nhân khi lại thăm chơi, hỏi: - "Thưa thầy, con nghe vài vị tu thiền khá cao, bảo: Cõi Cực Lạc là quyền thuyết, là một ảo tượng của Phật phương tiện nói ra, để cho những kẻ thấp kém nương vào đó tin tưởng hâm mộ, phát lòng chuyên nhứt niệm Phật đặng để đi đến cảnh giới nhứt tâm. Ví như người cha có hai đứa con, một đứa thông minh biết lo học không cần phải nhắc nhở; một đứa tối tăm biếng trễ, nên cha phải dẫn dụ, bảo nếu cố gắng siêng học khi thi đỗ sẽ cho một chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là một ảo tượng hay phương tiện, sự học giỏi thi đỗ mới là chân mục đích hay cứu cánh. Bởi thế cho nên Tịnh Độ là lối tu của hạng thường dân tối dốt, còn hạng trí thức đều ưa thích về môn Thiền. Nếu hiểu được lẽ này thì người sáng suốt chỉ nên nhiếp tâm tịnh niệm, không cần phải theo ảo tượng niệm Phật làm chi cho lao hơi nhọc sức. Hãy để chiếc xe trống không chạy đi mới nhẹ nhàng, không nên chuyên chở thêm cho nặng! Con nghe như thế song chưa biết trả lời làm sao, mong nhờ Thầy giải thích."
Bút giả đáp: - Trong lối điều trần trên, có ba chủ điểm:
1. Cho Cực Lạc là ảo tưởng, quyền thuyết.
2. Bảo Tịnh Độ là lối tu thuộc hạng thấp kém thường dân.
3. Đưa ra mục đích trừ vọng nhứt tâm, cho rằng phương tiện niệm Phật làm tổn hơi nhọc sức như chiếc xe chở nặng, không được nhẹ nhàng thanh thoát như lối tu Thiền.
Về điểm thứ nhứt, Cực Lạc không phải là cảnh ảo tượng hay quyền thuyết, mà là thế giới có thật như cõi Ta Bà này; vì Phật không khi nào nói dối, và có rất nhiều người niệm Phật được vãng sanh, hiện tiền hoặc lúc lâm chung đã mục kích cảnh giới ấy, như trong Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã có chép. Trong tập này nơi đoạn trước đã dẫn minh về ba lượng để giải thích, xem qua sẽ tự rõ, không cần phải biện luận thêm nhiều.
Về điểm thứ hai, nếu cho rằng Tịnh Độ không phải lối tu của hàng trí thức, chỉ sợ e trí "trí thức" của những vị ấy chưa đủ sức thấu hiểu Tịnh Độ mà thôi. Như khi xưa Phật nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn chứng từ Sơ Quả đến Tứ Quả, vì chưa tin hiểu nổi nên lui ra khỏi pháp hội. Những vị ấy đã vào hàng Thánh, đâu phải tầm thường, nhưng trước diệu lý quá cao, họ đành thối bại. Nếu bảo rằng hàng trí thức sáng suốt đều phải tu Thiền, niệm Phật để cho hạng dốt nát tầm thường, tại sao vị Tổ thứ mười bốn bên Thiền Tông là Long Thọ Bồ Tát sau khi chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa rồi, lại niệm Phật "cầu sanh Cực Lạc?" Và tại sao có rất nhiều bậc thạc đức bên Thiền Tông, như các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại chuyển hướng cầu về Tịnh Độ? Phải biết Niệm Phật là pháp môn cao siêu mầu nhiệm, gồm nhiếp ba căn, từ đức Thích Tôn cho đến các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A Di Đà, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà khen ngợi. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại nguyện vương rồi, liền khuyến tấn các bậc Bồ Tát ở những ngôi Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, đều nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc? Nếu cảnh Cực Lạc là ảo tượng không phải thật có, và môn Tịnh Độ là tầm thường, tại sao các vị ấy lại cầu sanh? Cho nên Ấn Quang đại sư đã bảo: "Sự cao siêu mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật, chư Tổ bảo là chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết hết được. Những kẻ khinh chê Niệm Phật, không phải chỉ khinh chê hạng ông già bà cả tu Tịnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn cả chư Phật và các bậc Đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!"
Về điểm thứ ba, xin giải thích rõ hơn. Chỗ cứu cánh của Thiền là Chân Như Tam Muội. Điểm cứu cánh của Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Chân Như Tam Muội như vàng khối, Niệm Phật Tam Muội như vòng, xuyến và các món trang điểm chạm trổ xinh đẹp, mà trong vòng xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi chứng Niệm Phật Tam Muội, tức đã bao gồm cả Chân Như Tam Muội. Chân Như Tam Muội chỉ thuần về mặt trí huệ, Niệm Phật Tam Muội đã có trí huệ còn gồm thêm phần phước đức; bởi người tu Tịnh Độ cũng lấy nhứt tâm thanh tịnh làm căn bản, trên chỗ nhứt tâm ấy lại có thêm công đức niệm Phật. Nhưng Chân Như Tam Muội với Niệm Phật Tam Muội không phải tu một đời mà chứng được, cần phải liên tục tu trong nhiều kiếp; nhứt là chúng sanh thời mạt pháp này khó mà hy vọng. Vì thế Niệm Phật Tam Muội tuy là chỗ cứu cánh của môn Niệm Phật, nhưng chỉ đứng về hàng thứ yếu, mà sự cầu vãng sanh Tịnh Độ trong một đời để được Bất Thối Chuyển, mới là tông chỉ chánh yếu cần thiết của tông này. Do đó pháp môn Niệm Phật mới có tên là tông Tịnh Độ. Cho nên sở dĩ các bậc tu Thiền sau khi ngộ đạo, tự biết con đường chứng đạo còn xa, sợ e kiếp người ngắn ngủi, khi luân hồi sang đời khác phải bị mê lạc, nên mới chuyển hướng Niệm Phật cầu vãng sanh là thế. Niệm Phật, lễ Phật dù rằng nhọc, nhưng được thêm công đức phước báo do công năng tu trì của hai nghiệp thân và khẩu. Như chiếc xe từ Đà Lạt về Saigon, chạy xe không tất nhiên nhẹ nhàng, nhưng nếu chuyên chở thêm bông hoa rau cải, thì đã về đến Thủ Đô mà còn được có thêm phần hàng hóa. Đem công năng siêng nhọc niệm Phật để được thêm nhiều phước báo, đó chính là phần công và thưởng đương nhiên theo luật nhân quả, đâu có chi phải thiệt thòi? Song mỏi nhọc nếu có, chỉ là lúc mới tu. Khi niệm Phật thuần thục đến chỗ vô tâm, nào có chi là mỏi nhọc!
Nghi vấn trên thấy cũng cần thiết, nên dù không phải đoạn quyết nghi, cũng xin ghi tiếp vào đây. Những điểm hiểu lầm chưa thấu triệt về Tịnh Độ hãy còn nhiều, vì e tâm niệm phạm lỗi đấu tranh, nên đối với các sự biện minh tạm xin ngừng bút.
Tiết 48 Sự Nhứt Tâm, Lý Nhứt Tâm
Người niệm Phật phải thiết thật dụng công, trong tuyệt cả tướng thị phi nhơn ngã không thấy thân tâm, ngoài dứt hết tướng không sắc dục trần chẳng còn cảnh giới, duy có một câu Phật hiệu rành rạnh hiện tiền. Sự dụng công chí cực này, như người xưa đã nêu lên câu hỏi: "Trước mặt có cọp dữ, sau lưng có bầy chó sói, bên trái là vách núi cao, bên mặt là vực sâu thẳm; trong hoàn cảnh ấy hành nhơn phải vượt đi ngả nào?" Bên Tịnh Tông cũng bảo: "Ao sen bảy báu trước mặt, vạc dầu lò lửa phía sau, người niệm Phật phải nhứt hướng đi tới." Khi tu hành chưa thấy có điểm tiến bộ nào, là bởi chính mình còn yếu hèn biếng trễ. Cũng trong tình trạng ấy, khi xưa ngài Đổng Sơn đã nghiêm trách trong chúng:
Người nay học đạo nghĩ mà than
Ngoài cửa phân vân biết mấy ngàn!
Tưởng đến ngọc kinh triều thánh chúa
Giữa đường dừng bước ải Đồng Quan!
Nếu dụng công đến mức cùng cực, lâu ngày không gián đoạn, hành giả sẽ đi đến cảnh giới nhứt tâm. Cảnh nhứt tâm bất loạn này có hai mức cạn sâu, gọi là Sự nhứt tâm và Lý nhứt tâm.
* Sự nhứt tâm là thế nào? - Khi hành giả chuyên tâm chú ý trên sáu chữ hồng danh, lâu ngày tất cả tạp niệm đều dứt bặt, lúc nằm ngồi đi đứng duy có một câu Phật hiệu hiện tiền, gọi là cảnh giới Sự nhứt tâm. Đây là định cảnh của người tu Tịnh Độ, cũng ngang hàng với sự nhập định của bậc tu Thiền.
* Lý nhứt tâm là thế nào? - Trên Sự nhứt tâm nếu tiến thêm một bước, dụng công đến chỗ chí cực, ngày kia tâm địa rỗng suốt, thoát hẳn căn trần ngộ vào thật tướng. Khi ấy hiện tại tức là Tây Phương mà chẳng ngại gì riêng có cõi Cực Lạc, tánh mình chính là Di Đà cũng chẳng ngại gì riêng có đức A Di Đà. Đây là cảnh giới Lý nhứt tâm. Địa vị này là cảnh "định huệ nhứt như" của người niệm Phật, ngang hàng với trình độ khai ngộ bên Thiền Tông.
* Với thuyết Sự, Lý nhứt tâm, Ngẫu Ích đại sư đã giản biệt tường tận. Ngài bảo: "Không luận sự trì hay lý trì; niệm đến hàng phục phiền não, kiến hoặc tư hoặc không khởi hiện, là cảnh giới Sự nhứt tâm. Không luận sự trì hay lý trì, niệm đến tâm khai, thấy rõ bản tánh Phật, là cảnh giới Lý nhứt tâm. Sự nhứt tâm không bị kiến, tư hoặc làm loạn. Lý nhứt tâm không bị nhị biên làm loạn" (Nhị biên: có, không - đoạn, thường v.v...)
Như thế chẳng nói chi Lý nhứt tâm, với Sự nhứt tâm người đời nay cũng chẳng dễ gì đi đến. Tuy nhiên, với công đức của câu niệm Phật cộng thêm sự chí thiết hành trì, trong mỗi niệm sẽ diệt được một phần vô minh thêm một phần phước huệ, lần lần tất sẽ đi đến cảnh giới tốt. Và hành trì lâu ngày như thế, lo gì không tiến đến chỗ mỗi niệm khai ngộ, được hảo cảnh gọi là "Nhứt phiên đề khởi nhứt phiên tân" (Một phen đề khởi niệm, một phen lộ bày cảnh mới).
Cho nên, dù là căn tánh thời mạt, nếu thiết thật dụng công, trình độ Sự, Lý nhứt tâm đối với chúng ta chẳng phải tuyệt phần hy vọng...
Niệm Phật
Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm
Thân như bọt
Bể thương tang
Chìm nổi kiếp mênh mang!
Dưới trăng suy cạn khoảng đêm tàn
Chỉ nương Vô Lượng Quang.
Trời niệm tâm
Núi kiên quyết
Vọng tình xin cách tuyệt
Dần dà khó thể nhập Liên Bang
Khi nao thật được nhàn?
Tiết 24 Văn Phát Nguyện Của Ngài Liên Trì Và Từ Vân
Trong mỗi thời khóa Tịnh Độ, sau khi trì niệm, hành giả liền lễ Phật cầu chứng minh, rồi quỳ xuống đọc lời văn sám nguyện hồi hướng. Phần này rất quan trọng, vì là lúc dùng tâm niệm mình đem công đức đã tu quy hướng về nơi mình mong muốn. Như chiếc thuyền trôi đi, tuy do kẻ chèo hay động cơ thúc đẩy, nhưng nó đến tiêu điểm nào là bởi người lèo lái. Phần phát nguyện của người tu Tịnh Độ, tức là giai đoạn dùng tâm niệm lái con thuyền niệm Phật hướng về Tây Phương. Nhưng có nhiều liên hữu không chú ý tới điểm này, lại tuyên đọc những bài văn có tính cách khuyến tu hơn là sám nguyện. Đại để như các bài: "Chốn thảo lư an cư dưỡng tánh" hay "Cuộc hồng trần xây vần quá ngán. Kiếp phù sinh tụ tán mấy lăm hồi" chẳng hạn. Đọc như thế là đã đi sai với nghi thức tu Tịnh Độ.
Nay xin giới thiệu ra đây ít bài văn Tịnh Độ của tiên đức khi xưa. Về văn phát nguyện, có vị thích lời văn dài để nương theo đó mà sanh tâm khẩn thiết, có vị lại ưa lời văn ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa cầu sanh. Vì thế, bút giả xin chọn lựa hai bài theo tiêu chuẩn trên diễn dịch ra, để mong đáp ứng phần nào sở thích của hàng liên hữu.
* Bài văn phát nguyện của Liên Trì đại sư:
Cúi lạy phương Tây cõi An Lạc
Tiếp dẫn chúng sanh Đại Đạo Sư,
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sanh
Nhờ lượng từ bi thương nhiếp thọ!
Nay con khắp vì, bốn ân ba cõi, pháp giới chúng sanh, cầu đạo Bồ Đề, Nhất Thừa của Phật; chuyên tâm trì niệm, hồng danh muôn đức, Phật A Di Đà, nguyện sanh Tịnh Độ. Lại bởi chúng con, nghiệp nặng phước khinh, chướng sâu huệ cạn, nhiễm tâm dễ động, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sanh, khoáng kiếp đến nay, mê bản tịnh tâm, buông tham sân si, nhiễm dơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo, siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành chánh giác, thề độ chúng sanh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng, A Di Đà Phật, được chơi cõi tịnh, của đấng Đạo Sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh chiếu thể, tay xoa đảnh con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác tâm mầu, sáng bừng mở rộng, tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không tất cả, bịnh khổ ách nạn, tâm dứt tất cả, tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A Di Đà, Quán Âm Thế Chí, cùng chư Hiền Thánh, ánh lành tiếp dẫn, tay báu dắt dìu, lầu các, tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây Phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng. Khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát Bồ Đề tâm. Bấy giờ thân con, ngồi đài Kim Cang, bay theo sau Phật, khoảng khảy ngón tay, sanh vào sen báu, nơi ao Thất Bảo, ở cõi Tây Phương. Rồi khi hoa nở, thấy Phật Bồ Tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng Vô Sanh Nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ân thọ ký. Được thọ ký xong, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn, môn Đà Ra Ni, tất cả công đức, thảy đều thành tựu. Từ đó về sau, không rời An Dưỡng, trở lại Ta Bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông, tự tại khó nghĩ, và các phương tiện, độ thoát chúng sanh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sanh Tây Phương, lên ngôi Bất Thối.
Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sanh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con, cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ân khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sanh, đồng thành chủng trí.
* Bài văn phát nguyện của Từ Vân sám chủ:
Một lòng quy mạng, thế giới Cực Lạc, Phật A Di Đà. Xin đem ánh tịnh soi chiếu thân con, dùng nguyện từ bi, mà nhiếp thọ con. Nay con chánh niệm, xưng hiệu Như Lai, vì đạo Bồ Đề, cầu sanh Tịnh Độ. Xưa Phật lập thệ: 'Nếu chúng sanh nào, muốn về nước ta, hết lòng tin ưa, xưng danh hiệu ta, cho đến mười niệm, như không được sanh, ta không thành Phật.' Nay con nguyện nương, nhân duyên niệm Phật, được vào biển thệ của đức Như Lai, nhờ sức Thế Tôn, tiêu trừ các tội, thêm lớn căn lành. Con nguyện lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không bịnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào thiền định. Phật cùng Thánh chúng, tay bưng đài vàng, đến tiếp dẫn con. Trong khoảng sát na, con về Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, được nghe Phật Thừa, tỏ thông Phật huệ, độ khắp chúng sanh, mãn Bồ Đề nguyện.
Xin đem công đức trì tụng này
Hồi hướng bốn ân và ba cõi
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh
Đều sanh Cực Lạc thành Phật đạo.
Tiết 25 Phát Nguyện Cần Phải Khẩn Thiết
Ngoài hai bài văn trên, còn có bài văn sau đây mà trong quyển Phật Thất Nghi cho là xưa nay đã có rất nhiều linh cảm. Có vị đang lúc đọc nguyện văn này, bỗng thấy các tướng lành; có vị trong giấc mơ thấy Phật A Di Đà phóng quang chiếu soi. Những sự cảm ứng như thế rất nhiều, không thể thuật ra hết. Đây là bài nguyện văn ấy:
“Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền ngộ Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu”.
* Nếu người dốt chữ, ký ức kém, không thể ghi nhớ dài dòng, nên khuyên dạy họ học thuộc lòng câu phát nguyện sau đây: "Ngày... tháng... năm..., đệ tử... nguyện đem công đức này cầu khi mãn phần được Phật tiếp dẫn về Cực Lạc để trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh." Cầu nguyện vắn tắt kèm theo ngày tháng năm như trên, có tác dụng gây ý thức mạnh, khiến người niệm Phật lúc nào tâm tư cũng hướng về Cực Lạc, hằng nhớ đến sự vãng sanh. Chi tiết nhỏ này cũng là một phương tiện làm cho sức nguyện thêm mạnh mẽ bền chắc.
Phàm khi phát nguyện, phải từ trong thâm tâm khẩn thiết nói ra, nếu chỉ tùy tiện đọc cho xong, lòng không khẩn thiết, tất hạnh niệm Phật cũng khó chân thành. Ấn Quang pháp sư đã bảo: "Thành khẩn là yếu tố để đi đến nhất tâm bất loạn. Có một phần thành khẩn, tiêu một phần tội nghiệp, sanh một phần phước huệ. Có mười phần thành khẩn, tiêu mười phần tội nghiệp, sanh mười phần phước huệ." Người xưa cũng nói: "Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai"; ý nói: sức thành khẩn hướng đến đâu, có thể chẻ núi, phá vàng đến đó. Sự quyết tâm có năng lực rất mạnh. Bút giả nhớ trong quyển sách nọ có kể chuyện một vị bác sĩ bên Pháp tuổi trẻ, góa vợ, buồn lòng đến miền quê du ngoạn để giải khuây. Nhân khi ngụ ở nhà người thợ rèn, thấy cô gái con gia chủ có sắc đẹp, mới tỏ thật chuyện mình, xin cưới cô này làm vợ, và được chấp thuận. Nhưng lúc chưa làm lễ cưới, bác sĩ đã ăn nằm với cô gái, rồi bỏ về đô thị. Người thợ rèn thấy con gái bụng ngày một lớn, chàng sở khanh tuyệt tích như cánh chim hồng, nghĩ mình nhà nghèo thế yếu không thể kiện thưa, tức giận quá, mỗi buổi chiều cầm búa đập vào tấm sắt kêu gọi tên vị bác sĩ đòi đánh bể đầu, để tiết bớt niềm phẫn hận. Nhưng ở đô thành cứ vào năm giờ chiều, vị bác sĩ nọ bỗng ôm đầu rên la, chữa trị đủ cách vẫn không khỏi. Sau người bạn của bác sĩ trong lúc về thăm quê, vào buổi chiều đi ngang nhà thợ rèn nghe tiếng đập sắt và kêu gọi tên bạn mình trách mắng, mới vào gạn hỏi. Khi hiểu rõ sự việc, suy gẫm ra biết nguyên nhân căn bịnh của bạn mình. Ông về khuyên vị bác sĩ phải đến xin lỗi và cưới cô gái con người thợ rèn. Sau khi hôn lễ thành, bịnh vị bác sĩ mới khỏi.
Ấy tâm lực có sức mạnh vô hình như thế. Nếu ý thức câu chuyện trên mà chí tâm phát nguyện niệm Phật, lo gì không được sự cảm thông! Tóm lại, tín nguyện là huệ hạnh, niệm Phật là hành hạnh; huệ hạnh như đôi mắt, hành hạnh như đôi chân. Chân và mắt phải nương nhau, nguyện cùng hạnh đều khẩn thiết, như thế mới đi đến được Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Niệm Phật
Phải Quyết Định Nguyện Vãng Sanh
Sân lan trời ngả bóng chiều,
Cảm thân phù thế ít nhiều ngẩn ngơ!
Tranh đời dệt mộng vẩn vơ
Say đua danh lợi, mê mờ sắc thanh.
Cánh bèo sóng vỗ bập bềnh,
Tại ai hay cũng gây nên bởi mình?
Bể trần là mấy phù sinh,
Thị phi thương ghét trong tình quẩn quanh
Mà trông chiếc lá lìa cành,
Dinh hư cõi tạm trong vành đó thôi!
Mà trông ngọn nước chảy trôi!
Mênh mang sáu nẻo biết rồi về đâu?
Kiếp người nào có bao lâu
Nắng mưa thôi cũng dãi dầu cỏ hoa!
Lầu sương nhạt ánh trăng tà
Hoàng lương một giấc tỉnh ra ngỡ ngàng!
Chi bằng về cõi Liên Bang,
Sen khoe sắc ngọc, gió đàn pháp âm.
Trời giải thoát, cảnh thậm thâm
An vui muôn kiếp tuyệt lầm lỗi xưa
Chỉ câu niệm Phật đừng thưa,
Chỉ bền tin nguyện tam thừa bước lên.
Đài vàng sẵn đã ghi tên
Cơ duyên sẵn đợi một nền đạo tâm.
Niệm Phật Thập Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
PHÁP YẾU TU HÀNH
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý.
LÝ tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát.
SỰ tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy.
Xưa có sư TÔNG THẮNG
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ.
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế.
CÔNG ĐỨC làm sao được?
Phật là ÐẠI Y VƯƠNG
Pháp là DIỆU TIÊN DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát.
CHUYÊN TỤNG một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là PHÀM TĂNG
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng THÀNH KÍNH
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
LẮNG LÒNG suy gẫm sâu.
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“THUYẾT PHÁP bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
VỀ TÂY-PHƯƠNG
Hòa-Thượng Thích-Thiền-Tâm
Cơn Pháp-nhược ma cường Tan-tác,
Làng tu chân ngơ ngác đôi nơi.
Tây-Nguyên cũng một góc trời,
Lọ là đua bước vào nơi thị thành.
Đêm Tịnh-Viện chuông thanh Ngân-ngợi,
Sông Phương-Liên trăng rọi tỉnh mê.
Nẻo trần Phiền-lụy Ủ-ê,
Lưới trần thoát tục mọi bề nơi tiên.
Đạo huyền, huyền lại Hư-huyền,
Cơ thiền, thiền lại sanh thiền biết đâu?
Gắng công bền chí lâu lâu,
Khơi trong gạn đục, thấy mầu Chân-nguyên.
Phải Căn-duyên Bồ-Đề giống trước,
Vẹn Tu-trì tỏ được tiền thân,
Máy thiền rộng thẳm Khôn-phân,
Lắng tâm lãnh ngộ, thì gần chẳng xa.
Lướt Phong-ba mấy người chí cả,
Khỏi Ái-hà cũng họa Tiền-duyên!
Bướm Loan vượt bể Vô-biên,
Gió day mặc gió, vững thuyền thì xong.
Dốc một lòng lên non đào giếng,
Mặc lời phàm đem tiếng thị phi,
Cam lồ rửa sạch tánh mê,
Nước trong tỏ hiện, trăng kia Sáng-ngời.
Quyết một đời nương theo dấu Phật.
Lạc ở mình ấy thật bởi đâu?
Màu thiền đắc ý cũng mầu,
Còn hơn Chen-chúc Vương-hầu Công-khanh.
Chớ Đua-tranh trong vòng Ngũ-dục.
Tắt lửa lòng gắng học Ma-ha,
Cảnh nào cảnh chẳng có hoa,
Non nào non chẳng có tòa Thiên-Thai.
Khách trần ai Khôn-ngoan chèo lấy,
Tới Bảo-trì tất thấy hoa Sen,
Bỏ công Kinh-kệ hương đèn,
Tây phương về đến, một phen an nhàn!
AI VỀ CỰC LẠC ?
"Ai về Cục-lạc mau về,
Đừng mê trần cảnh, mà Thê-thảm sầu!"
Cực-Lạc Câu-lơn giáp bảy vòng,
Lâu-đài Ẩn-hiện sáng Mênh-mông!
Mưa hoa Lác-đác trời Quang-thoại,
Nhạc ngọc Thâm-trầm khoảng bích không.
Cục-Lạc mành châu lưới bảy từng,
Đẹp màu Liên-Hải, vẻ Trường-xuân.
Hoa Sen ánh sáng hòa trăm sắc,
Rộng tỏa hương thanh chiếu Rạng-hừng!
Cực-Lạc cây Quỳnh bảy lớp quanh,
Trân-cầm đua hót giọng kêu thanh.
Đường vàng Rộng-rãi, theo Giây-báu!
Lá bích reo vang, tiếng pháp lành.
Cực-Lạc Như-Lai đức vẹn tuyền.
Quán-Âm, Thế-Chí, sắc Vô-biên!
Hằng-sa Bồ-tát, mây lành hội,
Nghe học mầu sâu, đạo Pháp-huyền!
Cực-Lạc thiên nhơn đức hạnh thanh,
Khi ngồi Nhập-định lúc Kinh-hành.
Ba mươi hai tướng Kim-thân đẹp,
Sống mãi Vô-ưu bạn đạo lành.
Cực-Lạc ban mai chúng thiện nhơn.
Mang hoa, kỷ-nhạc, dạo mười phương.
Cúng-dường chư Phật, rồi nghe pháp,
Thiền-duyệt thanh trai, lúc phản hườn.
Cực-Lạc trời vui sáng một miền,
Đẹp mầu vượt hẳn, cảnh thần tiên.
Di-Đà sẵn trãi lòng Bi-nguyện?
Chưa biết ai là kẻ hữu duyên?
AI HỮU DUYÊN?
Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát nói : "Trong lúc cuối thời Mạt-pháp nầy, nếu người nào mỗi ngày đều niệm đủ một muôn câu (10,000) Phật hiệu cầu nguyện Vãng-sanh. Đó là kẻ Hữu-duyên, Quyết-định khi Mạng-chung sẽ được sanh về Cực-Lạc."
Nam-mô Tây-Phương Vô-Lượng Công-Đức-Tạng Thế-giới, Thánh-Vô-Lượng-Thọ, Quyết-Định Quang-Minh-Vương Phật.
Nam-mô Tây-phương An-Lạc Thế-Giới, Vån-Ức-Tử Kim-Thân, Tầm-Thinh Cứn Khổ, Quảng-Đại Linh-Cảm, Quán-Thế -Âm Tự-Tại, Bồ-Tát ma-ha-tát.
Nam-mô Tây-Phương An-Lạc Thế-Giới, Vô-Biên Quang-Xí-Thân, Đại-Lực Đại-Thế-Chí Bồ-tát ma-ha-tát.
Nam-mô Tây-Phương An-Lạc Thế-Giới, Phước-Trí Nhị- Nghiêm-Thân, Thanh-Tịnh-Đại-Hải-Chúng, Bồ-Tát ma-ha-tát.
Nam-mô Phương-Liên-Tịnh-Xứ Mật-Tịnh Đạo-Tràng Trúc Liên bồn thất cố Hòa-Thượng Tôn-Sư, Liên Đài Tọa hạ nhứt vị Giác-linh, Thùy-từ chứng-giám.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa đại chúng,
Tôi bẩm chất gầy yếu, trong vài năm trở lại đây, tinh thần cùng sức khỏe thật ra đều suy kém. Vì ngại cơn vô thường chợt đến, nên nguyện an thất tịnh dưỡng, trì niệm cho mãn kiếp gởi tạm sống thừa! Trước kỳ tự tứ vừa qua, vào ngày 12 tháng 7 Âl năm Nhâm Thân 1992, Tôi có viết thư cho thầy Minh Tánh và Toại Châu nhờ thầy thay lời, xin đại chúng gồm chư Đại Đức Tăng ni và Phật tử, vui lòng thứ miễn cho việc tiếp xúc cùng làm lễ khánh tuế sau khi mãn hạ. Nhưng khi hỏi lại, thì thầy Toại Châu nói đã đánh mất bức thư ấy, nên chẳng tuyên bố. Do đó mà nhiều người đến thăm không được gặp, nên sanh lòng phiền muộn.
Kỳ Bồ Tát vừa rồi Sư Cô Phương Liên (Thích nữ Thanh Nguyệt) có nhắc qua việc ấy (2-8-1992) nhờ thầy Toại Châu trùng tuyên lại những lời của tôi, mà thầy cũng quên luôn. Trong ngày giỗ Tổ này e đại chúng trách rằng: Tôi bỏ quên, không để tâm nhắc nhở, nên xin có ít lời khuyên tấn, tạm gọi là giữ cho xong phần nào vai trò của người lớn trong đạo. Nhưng vì còn lo thầy Toại Châu đau yếu, rồi quên trước quên sau, nên nhân tiện nhờ Sư Cô Phương Liên (Thích nữ THANH NGUYỆT) là người thân cận (Trưởng tử tôi) thay nhọc chư tăng ni, đọc qua mấy lời phụng khuyến cho đại chúng được rõ:
Thưa chư Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni :
Trước tiên, tôi kính thăm tất cả đều được an lành và siêng năng tiến đạo. Thứ đến, xin có đôi lời phụng khuyến.
Từ xưa đến nay, trong nhà chùa vào trong những ngày vía Tổ chư Tăng Ni thường có lời phục nguyện:
“Tông phong vĩnh chấn,
Tổ ấn trùng quang”.
Nói riêng theo pháp môn “NIỆM PHẬT” tức là nguyện cho tông “TỊNH ĐỘ” do chư Tổ tuyên dương, được chấn chỉnh và hưng thạnh phải như thế nào? Tôi xin nêu ra mấy chi tiết. Như trong “Bồ Tát Giới Kinh” đã dạy: “Già chết gần kề. Phật, pháp sắp diệt. Các Phật tử vì muốn đắc đạo phải nên nhứt tâm cần cầu tinh tiến”. Câu kinh này đưa ra ba điều kiện:
1.- Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.
2.- Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.
3.- Phải siêng năng tinh tiến tu hành.
Giữ được ba điều kiện ấy, tức có thể làm cho: “Tông phong vĩnh chấn – Tổ ấn trùng quang”.
Về điều thứ nhất: Phải nghĩ đến sự già chết gần kề.
– Kiếp người giả tạm, nào có bao lâu? Trong ấy biết bao nhiêu sự vui buồn, nhục, vinh, lo phiền, nhọc nhằn, già yếu, đau bịnh! Nếu ta không nghĩ đến thân người mong manh nhiều khổ lụy, mà cố gắng tu thiện, cứ mãi tạo nghiệp, để rồi bị chìm đắm, có phải là hờ hững mê lầm chăng?
Về điều thứ hai: Phải thương lo cho Phật pháp suy vong sắp diệt.
– Đức Phật ra đời và chánh Pháp của ngài rất khó gặp, như hoa “Ưu Đàm Bát La” trong thời kiếp lâu xa, mới nở một lần. Nay đã đi sâu vào buổi mạt pháp, đạo Phật sắp suy tàn rồi ẩn một. Chúng ta là hàng con Phật, phải kính mến thương lo, hộ trì mối đạo và muốn cho đạo pháp trường tồn, phải thương xót nâng đỡ nhau, đừng vì lợi quyền danh vọng, hoặc tài, sắc, mà bôi nhơ, tàn hại lẫn nhau.
Kinh Phạm Võng nói:
“Phật pháp không phải thiên ma, ngoại đạo có thể hủy phá, chỉ có người con Phật, mới phá hoại được mà thôi!”
Đau buồn thay!!
Điều này hiện nay, khắp nơi đã nhan nhãn thấy xuất hiện. Các bậc hữu tâm trong đạo thấy thế chỉ còn biết yên lặng ngậm ngùi!
Nhớ lại thời cận đại ở nước Việt Nam ta, có hai bậc túc nho vừa có tài danh, lẫn đức hạnh. Vì thấy luân thường đảo lộn, nho giáo suy đồi, hai vị ấy, đành cam bề ẩn dật. Nhưng đã có danh đức, tất có nhiều người tìm đến, nên cũng vì thế mà bị người ganh ghét bôi nhơ! Những kẻ làm việc đó, là người trong đạo KHỔNG mà mỉa mai thay! phần đông lại là hàng mô đệ của hai bậc tôn túc nho kia! Sau khi được người thuật lại đầy đủ về việc hủy báng ấy, trong hai bậc lão nho, một vị mĩm cười khẳng khái nói:
“Rắn rết gớm ai lòng độc kia!
Rồng mây phó mặc chuyện huyên thiên”
Còn một vị kia chỉ rơi lệ bảo:
“Việc đời thà khuất đôi con mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.
Nơi đây, ta nhìn xét thấy hai trạng thái:
“Một nụ cười can đảm, an nhẫn, bất chấp, gác qua mọi chuyện thị phi …
“Và một nét khóc, thương xót ai mê lầm gây tội lỗi mà mình bất lực không thể can ngăn, khuyên bảo, cứu vãn được, chỉ còn biết tự tỉnh, bền giữ đạo tâm, như gương tròn sáng.
Nụ cười cùng tiếng khóc, của hai bậc lão nho xưa, đã hàm ẩn đầy đủ tinh thần BI – TRÍ – DŨNG của đạo Phật, thật đáng cho hàng Phật tử, chúng ta phải suy gẫm.
Còn về điều thứ ba: Phải siêng năng tinh tiến tu hành.
Thì ý kinh, khuyên ta phải siêng tu. Siêng tu đây, không phải chỉ tụng kinh, niệm Phật, để khoe số nhiều, mà tụng niệm với tâm thanh tịnh, an lành, với lòng chí thành trong sáng, mới được diệt tội sanh phước.
Lại chẳng phải chỉ có tụng niệm suông, mà phải giữ tâm niệm, lời nói và hành động, theo điều giới thiện Như thế, mới xứng hợp là người tu Phật. Và tu như thế mới mong có ngày được lên bờ giải thoát.
Trước khi dứt lời, để tóm lược, tôi xin trân trọng nhắc lại cùng đại chúng ba điều trên là:
1.- Phải nghĩ đến sự già, chết, vô thường.
2.- Phải thương mến đạo, biết nâng đỡ nhau.
3.- Và phải biết siêng năng tu tập.
Nếu trái với lời kinh dạy, thì ngôi nhà Phật, Pháp sẽ bị sụp đổ, bởi sự hủy phá của những người mang danh nghĩa là hàng “CON PHẬT”. Những vị chân tu, tự nhiên phải thật hành theo ba điều kiện trên.
Còn trái lại, những kẻ giả tu, muốn nhận diện cũng không khó, quý vị chớ vội nghe lời trau chuốc bên ngoài, hãy xét kỹ, nơi ngôn ngữ… cùng hành động của họ, tự khắc sẽ biết.
Xin Kính chúc chư Thượng Tọa, Đại đức Tăng Ni, chư quý Phật tử, một mùa kỷ niệm Tổ, đầy tình thương và đạo hạnh.
THÍCH THIỀN TÂM
TB: Bức thư này nên tùy phương tiện đọc cho những vị hữu duyên nghe mà thôi!
Những kẻ vô duyên, chắc họ không tỉnh ngộ, trước lời thiết tha khuyên nhắc!!!
Các vị Lão thành xưa thức lượng sâu xa, cũng đều phải cam bề ẩn mình giữ đạo, trước tình thế không thể khuyên ngăn được.
Thầy cũng không hơn nổi những bậc tiền bối ấy đâu.
THÍCH VÔ-NHẤT
(Lấy ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
HƯƠNG NGHIÊM TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
ẨN TU NGẪU VỊNH
MỤC LỤC
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
6.- Ẩn tu bền chí giữ công phu
11.- Ẩn tu cửa đạo trải bao năm
16.- Ẩn tu nghĩ muốn thoát dòng mê !
21.-Ẩn tu Không có, Có mà Không !
26.-Ẩn tu được biết kiếp lâu xa
31.-Ẩn tu niệm dứt tướng vào ra
41.-Ẩn tu chợt nhớ Hổ Khê xưa !
46.-Ẩn tu lòng đạo sáng gương rằm
51.-Ẩn tu ngẫm diệu đạo Liên trì
61.-Ẩn tu tục lụy thấy muôn mầu
66.-Ẩn tu quyết chí gạt trần tình
71.-Ẩn tu tìm hỏi truyện Tây Thi
81.-Ẩn tu đàn suối cạnh triền non
86.-Ẩn tu xót cảnh đạo đời suy
91.-Ẩn tu khuyên khắp sớm hồi đầu
96.-Ẩn tu tâm PHẬT hội Tào Khê
BÀI SỐ 100
Ẩn tu tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
THANH TỊNH CHÍ THÀNH trong mấy điểm
LỰC HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN SÂU.
NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN-NGUYỆN-HẠNH với sự CHÍ-THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.
Đạo NHO bảo:
“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
BÀI KỆ THỨ 101
Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
BÀI KỆ THỨ 102
Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
BÀI KỆ THỨ 103
Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
BÀI KỆ THỨ 104
Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
BÀI KỆ THỨ 105
Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
BÀI KỆ THỨ 105
Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
BÀI KỆ THỨ 107
Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
BÀI KỆ THỨ 108
Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
TỰ-CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT-NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-Di.
TA ĐI ĐÂY – ĐẠI CHÚNG NÊN BẢO TRỌNG
Ðại-sư hưởng thọ tuổi đời 68, tăng-lạp 48.
ẨN TU NGẪU VỊNH
TRĂNG in NƯỚC bích LÒNG THIỀN rạng,
GIÓ LỘNG non hồng Ý ĐẠO thanh.
Nương mình tựa án xem NGƯỜI CỔ,
ẨN BÓNG trong gương ngẫm chuyện đời.
Vào đêm RẰM, ngày 15/5/1989 Âm lịch (nhằm ngày KỶ DẬU, tháng CANH NGỌ, năm KỶ TỴ), sau thời khóa, HÒA THƯỢNG THÍCH THIỀN TÂM bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU NGẪU VỊNH.
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa Quý-vị !
Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU.
Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.
Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”
Nên Thiền Quyển có câu:
“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,
chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”
Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”
Thầy tôi đáp: So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.
Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở, trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.
Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.
Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.
Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.
Tỳ-kheo-ni thích nữ PHƯƠNG LIÊN
Chúc ĐẠI CHÚNG năm mới 2024 :
1. BỒ ĐỀ TÂM kiên cố,
2. Mau thành NHỨT THIẾT CHỦNG TRÍ.
MỤC LỤC
42 THỦ NHÃN ẤN PHÁP
Tuần Thứ 1. Như-Ý-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 3. Bảo-Bát Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 4. Bảo-Kiếm Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 5. Bạt-Chiết-La Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 6. Kim-Cang-Xử Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 7. Thí-Vô-Úy Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 8. Nhật-Tinh-Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 9. Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 10. Bảo-Cung Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 11. Bảo-Tiễn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 12. Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 13. Bạch-Phất Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 15. Bàng-Bài Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 16. Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 17. Ngọc-Hoàn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 18. Bạch-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 19. Thanh-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 20. Bảo-Cảnh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 21. Tử-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 22. Bảo-Kiếp Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 23. Ngũ-Sắc-Vân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 24. Quân-Trì Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 25. Hồng-Liên-Hoa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 26. Bảo-Kích Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 27. Bảo-Loa Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 28. Độc-Lâu-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 29. Sổ-Châu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 30. Bảo-Đạc Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 31. Bảo-Ấn Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 32. Cu-Thi-Thiết-Câu Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 33. Tích-Trượng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 34. Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 35. Chưởng-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 36. Hóa-Cung-Điện Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 37. Bảo-Kinh Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 38. Bất-Thối-Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 39. Đảnh-Thượng Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Tuần Thứ 40. Bồ-Đào Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 41. Cam-Lộ Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tuần Thứ 42. Tổng-Nhiếp-Thiên-Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ
ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ
Thu nhiếp tâm ý gọi là GIỚI, nhân giới phát ĐỊNH lực, nhân định có trí HUỆ.
Nếu có tập khí các đời trước không thể diệt trừ,
ông dạy người đó nên nhất tâm tụng thần chú của ta:
PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ
MA HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
THỦ LĂNG NGHIÊM THẦN CHÚ
MA HA TẤT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA
ĐÀ RA NI CHÚ
ĐÁC ĐIỆC THA.
ÁN, A NA LỆ, TỲ XÁ ĐỀ, BỆ RA, BẠT XÀ-RA, ĐÀ RỊ, BÀN ĐÀ BÀN ĐÀ NỂ, BẠT XÀ-RA BÁN NI PHẤN. HỔ HỒNG ĐÔ LÔ UNG PHẤN, TA BÀ-HA.
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN
VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ RA NI
PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG
ĐÀ RA NI
NGHI THỨC HÀNH TRÌ
Nam-Mô Hộ-Pháp Vi- Đà Tôn-Thiên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
HỘ PHÁP CHƠN NGÔN
Nam-mô Su sít đi Ta ri Ta ri,
Măng đa Măng đa, Xóa-ha.
Comments
Post a Comment